Hình ảnh hạt giống đức tin tôn giáo
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Niềm tin tôn giáo nơi những xã hội đất nước có nếp sống văn minh phát triển cao như càng bị đẩy lùi ra một bên trong đời sống con người.
Và những khủng hoảng, những xìcăngđan nội bộ nơi các tôn giáo càng làm cho tốc độ hoài nghi đến mất tin tưởng cùng xa lánh tôn giáo càng rõ nét, nhất là nơi người trẻ tuổi.
Thật là một hình ảnh ảm đạm gây lo ngại không chỉ nơi các tôn giáo, mà cùng cả nơi đời sống con người nói chung nữa: một nếp sống tinh thần thiếu hướng chỉ dẫn!
Văn sĩ triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre thuật lại trong tập tuyện „ Les Mots“ về đời sống tôn giáo của mình thời thơ bé niên thiếu trong gia đình: „ Tôi thuật lại câu chuyện về một ơn gọi không may mắn. Tôi cần Thiên Chúa, người ta đã nói cho tôi về Ngài. Tôi đón nhận Ngài, nhưng không hiểu biết gì về ngài mà tôi đang đi tìm kiếm.Vì gốc rễ cây tôn giáo không ăn sâu tỏa lan trong trái tim tâm hồn tôi, nên nó mọc lên một thời gian, rồi sau đó khô héo chết tàn dần…Và không còn dấu vết gì trong chúng tôi nữa!“
Những lời thuật lại của Jean Paul Sartre phần nào diễn tả đời sống đức tin ngày hôm nay đang tẻ nhạt thưa dần trong xã hội tân tiến Âu Mỹ, nhất là bên Âu Châu, trong nhiều gia đình trẻ.
Đời sống lam lũ vất vả phải làm việc sinh sống ngày đêm suốt hết cả tuần lễ, khiến việc đạo đức tinh thần, nếu không muốn nói là một vướng trở về thời giờ, bị đẩy dần vào quên lãng.
Và như thế mầm rễ đức tin không sao bén ăn sâu vào tâm hồn cuộc sống nữa.
Phải làm việc mệt nhọc cả thể xác lẫn tâm trí, phải cạnh tranh với cuộc sống sinh tồn cùng vươn lên, khiến hạt giống đức tin đạo giáo đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội không có thời giờ được chăm sóc vun trồng nữa.
Và như thế hạt giống đức tin không phát triển vươn lên thành cây được.
Rồi trong xã hội càng ngày càng có nhiều hoài nghi thắc mắc về đức tin tôn giáo, về những gía trị đạo đức nhân bản, chưa kể đến những tranh luận chế diễu bài bác khinh miệt, gạt bỏ ra ngoài những gì có chút liên quan tới đức tin đạo giáo.
Những điều này không giúp gì cho hạt giống đức tin nẩy nở phát triển. Trái lại, nó làm cho bị chết ngạt dần mòn.
Trong đời sống càng ngày càng nhiều với những lý luận cùng cung cách quảng cáo trình diễn cho rằng: hầu như tất cả mọi hình ảnh, mọi lời nói, mọi lối sống đều có gía trị ngang bằng như nhau, hay những gía trị đạo đức nhân bản cũng bị suy diễn cùng đánh gía cao thấp tùy theo sở thích ý muốn, tùy theo thời đại!
Trong đời sống, khi làm việc trồng cây, gieo mạ cấy lúa, cả trong việc học hành tìm tòi luyện tập nghề nghiệp, luyện tập thể dục thể thao, chơi nhạc cụ….nếu không liên tục thường xuyên luyện tập, vun xới, tưới nước, mài dũa, sẽ không có ngày đạt tới thành công thu gặt kết qủa tốt được.
Nếu chỉ chạy theo sở thích, theo cung cách suy diễn thay đổi lên xuống thời đại, giống như con thuyền không có bánh lái bị mất định hướng, tâm hồn đời sống cũng mất bình an, sống trong bấp bênh chao đảo.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh dụ ngôn hạt giống nói về tình trạng niềm tin tinh thần bị xuống dốc mất hướng đi:
"Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: 'Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?' Ông đáp: 'Người thù của ta đã làm như thế'. Đầy tớ nói với chủ: 'Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ'. Chủ nhà đáp: 'Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta". ( Mt 13,24-30)
Đức tin vào Thiên Chúa lẽ tất nhiên không là một giải đáp cho nhu cầu bao tử được no đầy, hay làm cho trở nên giàu có về tiền bạc vật chất hay đạt được danh vọng thành công. Nhưng giúp tâm hồn con người tìm ra ý nghĩa sống hướng thượng vươn lên trời cao.
Đức tin vào Thiên Chúa không là một hứa hẹn giải đáp hết mọi chuyện , mọi thắc mắc trong đời sống. Nhưng giúp cho tâm hồn con người tìm đến nguồn an ủi thiêng liêng, nhất là những khi gặp cảnh khó khăn đường cùng.
Đức tin vào Thiên Chúa không là một toa thuốc hay một thứ loại thuốc tiên chữa khỏi, xóa bỏ hết mọi thứ bệnh , mọi đau khổ, cùng giúp cho sống lâu trường thọ. Không, không phải như vậy., Nhưng giúp tâm hồn con người nhận ra giới hạn đời sống mình. Và từ đó đặt niềm tin tưởng vào Đấng là nguồn đời sống.
Đức tin vào Thiên Chúa không là một ảo thuật, một lối cảnh sống thiên đàng ở trần gian. Nhưng giúp tâm hồn con người xây dựng tìm đường về thiên đàng trong lối sống bác ái tình người với nhau.
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh người gieo hạt giống trên nương đồng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống sinh hoạt, con người xưa nay thường đều hoạch định phác họa chương trình trước khi thực hiện, hay điều chỉnh thay đổi sửa lại chương trình đã phác họa cho thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Vì đó là điều cần thiết, là điều khôn ngoan.
Còn trong đời sống đức tin tinh thần đạo giáo thì có như vậy không?
Trong dòng lịch sử truyền giáo về nội dung chất lượng đức tin vào Chúa, Đấng là nguồn đời sống, là tình yêu, là bến bờ bình an ơn cứu chuộc sau cùng đời sống cho con người thì trước sau vẫn là một.
Nhưng cung cách thực hành nếp sống đức tin vẫn cần có những chương trình, những điều chỉnh thay đổi cho phù hợp với cánh đồng truyền giáo về văn hóa địa lý cùng tâm lý xã hội của con người mỗi thời đại trên hoàn vũ.
Vào những thời kỳ thịnh vượng, như thời Trung Cổ nền thần học, văn chương Công giáo, các nghệ thuật thánh, xây dựng thánh đường phát triển nở rộ thịnh hành không ngừng, số người tín hữu tin theo đức tin Công giáo ngày càng đông đảo sầm uất…
Nhưng vào lúc này, bước sang thế kỷ 21. cung cách nếp sống đức tin trong Giáo hội Công giáo và cả đạo Tin lành đang trong tiến trình khủng hỏang xuống dốc về số lượng có khi cả chất lượng nữa. Vì thế Giáo hội cần phải đề ra chương trình thay đổi, điều chỉnh lại cung cách sống thực hành đức tin.
Nhiều nơi, như bên Âu Châu là nôi của văn mình Kitô giáo, ở các Giáo phận đã cùng đang suy tính đề ra những chương trình 05 năm, hay 10 năm tới, nhằm thu gọn các xứ đạo gần nhau lại thành một trung tâm, đơn giản cách thức sống thực hành theo thói quen xưa nay sao cho sống động thu hút con người trở lại, nhất là trình bày hình ảnh tình yêu của Chúa Giêsu Kitô cho rõ nét …
Công đồng chung Vaticano 2. năm 1965 là khởi đầu cho tiến trình điều chỉnh thay đổi lại chương trình cung cách sống thực hành đức tin vào Chúa trong thời đại xã hội ngày hôm nay.
Có nhiều ý kiến khác biệt đối nghịch nhau về sự điều chính thay đổi chương trình. Đó là sự tự do của con người mà Thiên Chúa tạo dựng phú ban cho nhân loại.
Chúa Giêsu Kitô cách đây hơn hai ngàn năm khi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người trần gian đã dùng hình ảnh người gieo giống trên nương đồng diễn tả mầu nhiệm bí ẩn sự phát triển hạt giống Lời Chúa trên trần gian.
"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi.” ( Mt 13,1-23).
Người nông dân nào khi tung gieo vãi hạt giống trên đồng ruộng cũng đều mong mùa thu hoạch được trúng mùa bội thu nhiều hoa qủa. Họ có cả chương trình, làm cỏ, bón phân, xịt thuốc trừ sâu trừ cỏ dại…nhưng có năm thu hoạch được vụ mùa tốt đẹp, và cũng cả những năm mùa thu hoạch không được như mong đợi, có khi thất thu nữa…
Giáo hội Chúa ở trần gian được Chúa trao cho nhiệm vụ ra đi tung gieo vãi hạt giống Lời Chúa trên thửa đất cánh đồng truyền giáo cho con người. Nhưng để cho hạt giống mọc lớn lên, hay bao nhiêu hạt mọc phát triển sinh hoa kết qủa, không là việc của Giáo Hội, của người đi gieo vãi hạt giống, mà là công trình của Chúa.
Thánh Phaolô có xác tín:“ 6 Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.7 Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.8 Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình.9 Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.” ( 1 Cor 3,6-9).
Thời sự nhìn vào hình ảnh bức tranh đời sống Giáo Hội, ít là bên Âu châu, đang xảy ra những khủng hoảng từ trong nội bộ, tiêu cực, có cả chia rẽ chống đối nhau, cùng đang xuống dốc vể số lượng cũng như chất lượng…thật ảm đạm buồn phiền, lo âu tư lự…rồi sẽ ra sao, đi về đâu???
Nhưng hình ảnh người gieo giống như Chúa Giêsu Kitô diễn tả trong phúc âm, và trong thực tế đời sống con người giúp nhắc nhớ đến đời sống của con người có nhiệm vụ ra đi tung gieo vãi làm việc và nuôi niềm hy vọng.
Nhà danh họa Vincent van Gogh đã viết suy tư của mình cho người em của ông bằng hình ảnh người gieo giống:” Gieo vãi cầy cấy là việc làm vất vả cực nhọc với cả nước mắt. Nhưng lâu dài xa hơn chúng ta cảm nhận ra niềm hy vọng trong âm thầm về mùa thu hoạch bội thu. Đời sống của con người chúng ta là thời gian tung gieo vãi hạt giống.”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh mùa nghỉ hè
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nếp sống văn hóa nghỉ hè ngày càng phổ thông trong đời sống xã hội hầu như khắp mọi nơi, đầu tiên cho các học sinh trung tiểu học sau mỗi niên học kéo dài chín tháng .
Nhu cầu nghỉ hè dần lan rộng trong đời sống nhất là ở những đất nước làm việc sản xuất theo công nghiệp kỹ nghệ có đời sống phúc lợi kinh tế cao, có bảo đảm an ninh trật tự. Và theo dòng thời gian người ta càng nhận ra, người lao động làm việc chân tay cũng như tinh thần trí óc cũng cần có nhu cầu nghỉ ngơi dưỡng sức., nghỉ hè.
Vậy hình ảnh nếp sống mùa nghỉ hè như thế nào?
Tùy theo mỗi vùng chu lục đất nước, hay hãng xưởng, hay còn cả tùy nhu cầu đời sống mỗi người nữa, những ngày nghỉ được ấn định khác nhau trong chu kỳ hằng năm.
Ngay trong một đất nước, các trường học cũng có những ngày nghỉ hè khác nhau. Chia ra từng vùng nghỉ hè trước sau để tránh đường xá giao thông không bị qúa tải kẹt xe, cùng khách sạn bãi biển, vùng rừng đồi núi không bị qúa đông người chen chúc chật chội…
Ngày nghỉ không chỉ giới hạn vào những ngày trong mùa hè nóng bức, nhưng còn trong cả những mùa khác của năm.Nghỉ hè, theo tiếng Đức „Ferien“ có nguồn gốc từ tiếng Latinh „feriae - ngày lễ nghỉ“. Vào thời Trung cổ và thời Cận đại người ta phân biệt thành hai „feriae sacrae - ngày lễ nghỉ thánh thiêng và feriae profanae - ngày lễ nghỉ theo dân sự xã hội đời thường.“
Ngày xưa mùa nghỉ hè „ferien, Urlaub“ cũng mang ý nghĩa là mùa tự do, mùa trống không làm việc. Ý nghĩa này bắt nguồn từ tiếng Latinh „vacans, vacare“. Trong tiếng Anh „Vacation“ ,và Pháp „vacance“ chỉ về mùa lễ nghỉ (hè ).
Từ năm 1749 kỳ nghỉ hè ở các trường học được chính thức công nhận là những ngày nghỉ không có lớp học giảng dạy, các học sinh được nghỉ học. Và từ thế kỷ 19. ngày nghỉ tạm ngưng làm việc áp dụng cho những người làm việc lao động.
Bây giờ theo niên lịch trong tuần là ngày thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư...nhưng trong phụng vụ thần học của Giáo hội gọi những ngày trong tuần là ngày lễ feria prima, feria secunda, feria tertia...Như thế mỗi ngày là ngày lễ mừng. Điều này thật là đặc biệt và có ý nghĩa gì ?
Theo ý nghĩa đạo đức thần học, sự cứu độ của Chúa đã thể hiện nơi trần gian cho nhân loại, có tự do được giải thoát cứu độ khỏi vòng tội lỗi. Vì thế, đó là lý do mỗi ngày là ngày lễ mừng lễ nghỉ. Và điều này biểu hiện cho thời gian và đời sống con người.
Trong đời sống chúng ta không chỉ nguyên được tạo dựng cho trường học, cho lao động làm việc, nhưng còn có điều gì ngoài hơn nữa. Vậy phải hiểu ý nghĩa mùa hè, nghỉ ngơi như thế nào?
Con người cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sức lực. Chúng ta cần kín múc thu thập sức lực mới. Có thế mới luôn trong trạng thái tỉnh táo khoẻ mạnh (fit) được, để có niềm vui trong đời sống và làm việc có hiệu qủa thành tích cao tốt.
Con người cần khoảng cách thời gian cho thư giãn, để có thể chịu đựng được những áp lực căng thẳng trong đời sống hằng ngày. Thư giãn cho tâm trí không bị qúa căng thẳng, giúp tinh thần cũng như gân cốt bắp thịt còn có thể gánh chịu đựng những căng thẳng khác tiếp theo.
Và nếu như vậy thì nghỉ hè có chức năng làm nhẹ bớt gánh nặng do làm việc sinh ra, tựa như vòng bánh xe quay trong khâu sản xuất nâng cao thành tích. Để mang lại thành tích hiệu qủa tốt, con người phải nghỉ ngơi dưỡng sức.
Con người chúng ta có thể làm được nhiều việc, nhiều sự. Nhưng tất cả mọi sự, mọi điều chúng ta không thể làm được. Ý nghĩa của đời sống chúng ta không thể tự mình vẽ tạo ra thúc ép bắt buộc được. Và chúng ta cũng không cần phải như thế. Vì đời sống con người chúng ta nhận được là món qùa tặng từ trời cao. Đời sống của con người đã có bao gồm ý nghĩa trước khi chúng ta đã có thể mang tạo ra thành tích.
Thế giới vũ trụ và chính con người chúng ta được đón nhận trong vòng tay của Thiên Chúa. Đó chính là nền tảng ý nghĩa của đời sống. Trên khía cạnh đó, con người có thể hiểu mùa nghỉ hè hoàn toàn khác.
Mùa nghỉ hè, hay những ngày nghỉ không như là vòng chiếc xe quay trong sản xuất nâng cao thành tích. Mùa nghỉ hè, ngày nghỉ hướng chúng ta đến sự tự do giải thoát khỏi những ràng buộc, mà đích điểm là sự cứu chuộc.
Xin kính chúc mọi người mùa nghì hè, mùa nghỉ ngơi dưỡng sức là thời gian được chúc lành, một nơi chốn dừng chân tốt lành kín mức sức lực cho hôm nay cùng ngày mai.
Mùa nghỉ Hè - Mùa Kiết Hạ
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cơn khủng hoảng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người xưa nay hằng xảy những cơn khủng hoảng trong mọi lãnh vực đạo giáo cũng như đời sống xã hội, cá nhân cũng như hội đoàn quốc gia đất nước…
Đời sống Giáo hội của Chúa Giesu Kitô xưa nay trong dòng lịch sử thời gian luôn hằng phải đối diện với những cơn khủng hoảng bàn cãi tranh chấp, có cả ganh tỵ hận thù, và cả đến mức độ ly giáo tách biệt ra khỏi nữa.
Từ những năm nay Giáo hội Công giáo bên nước Đức phải đối diện với làn sóng khủng hoảng hầu như liên tục về sự mất niềm tin vào Giáo hội. Có nhiều người tín hữu Công giáo từ bỏ ra đi quay lưng lại với Giáo hội càng rõ rệt cùng sâu rộng nhiều.
Theo bản tin thống kê của Hội Đồng Giám mục nước Đức hôm 28.06.2023 cho biết chi tiết những con số nói lên sự đau buồn
tiêu cực cho năm 2022:
Giáo hội Công giáo nước Đức gồm có 27 Tổng và giáo phận, với 20.937.590 người tín hữu, chiếm 24,8 phần trăm dân số nước Đức.
Năm 2021 có 359.338 người tín hữu từ bỏ xin ra khỏi cộng đoàn Giáo hội Công Giáo.
Năm 2022 con số đó tăng lên tới mức kỷ lục 522.821 người tín hữu quay lưng lại với Giáo hội.
Số Linh mục trông coi việc mục vụ nơi các xứ đạo cũng giảm: năm 2021 có 12.280 vị, nhưng năm 2022 giảm còn 11.987 vị.
Năm 2022 có 45 tân ứng sinh nhận chức linh mục: 33 vị thuộc linh mục giáo phận, 12 vị là linh mục Dòng.
Các Giáo phận Công giáo nước Đức từ nhiều năm nay đề ra những cung cách tổ chức thu nhỏ lại cơ cấu nhiều xứ đạo bên cạnh gần nhau về địa lý chung hợp liên kết lại với nhau thành một.
Năm 2021 có 9.790 liên xứ đạo, năm 2022 xuống còn 9.624 liên xứ đạo.
Như tổng giáo phận Koeln đã chung hợp cho đến bây giờ có 182 liên xứ đạo. Nhưng cho tới 2030 sẽ chỉ còn 67 vùng khu vực xứ đạo.Trong mỗi vùng khu vực xứ đạo đó gồm có nhiều nhà thờ, và sẽ do một “Team” gồm linh mục, thầy phó tế, những Bà, Ông giảng viên Giáo lý, lo việc mục vụ.
Những con số thống kê như thế vẽ ra hình ảnh không tích cực sáng sủa. Trái lại, hình ảnh cơn khủng hoảng càng rõ nét đi sâu vào nội bộ đời sống Giáo Hội hơn.
Đã cùng đang có nhiều suy nghĩ, bàn thảo nhiều cách thức đề ra, để làm sao thoát ra khỏi cơn khủng hoảng sâu rộng kéo dài này. Nhưng cho tới bây giờ chỉ là những suy luận phỏng đoán mong ước thôi, chưa có kết qủa tích cực như mong muốn chờ đợi.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu Kitô trao chìa khóa quyền mục vụ cho Thánh Phero với lời nhắn nhủ đoan hứa:
“ Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. “ ( Mt 16, 18-19).
Khủng hoảng gây ra buồn phiền lo nghĩ cùng bối rối... Nhưng không vì thế buông xuôi đầu hàng. Trái lại vững lòng tin vào công việc thiêng liêng do Chúa thành lập nuôi sống là Giáo hội của Ngài ở trần gian.
Chúa Giesu Kitô là trung tâm sức sống của Giáo Hội đã luôn hằng gìn giữ cứu giúp Giáo hội xưa nay trong dòng lịch sử vượt qua khỏi những cơn khủng hoảng do con người gây tạo làm ra, như lịch sử đã minh chứng thuật lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tình anh em
- Viết bởi Dân Chúa
Ngạn ngữ dân gian có ca ví khôn ngoan: Anh em như thể tay chân!
Ca ví này diễn tả tình thân nghĩa thiết anh em cùng máu mủ gắn bó với nhau trong suốt dọc đời sống. Điều này thật đẹp có gía trị nhân bản cao qúi cùng cần thiết đạo đức.
Nhưng rất tiếc, rất đáng buồn thảm thương, vì trong thực tế đời sống lại có trường hợp xảy ra giữa hai anh em không chỉ không thuận hòa với nhau, mà còn đi đến thảm kịch làm hại đời sống của nhau.
Những thảm họa bi kịch như thế, không bao giờ là điều tốt, không là đạo đức, không là điều mong muốn trong đời sống. Nhưng đã có xảy ra từ thời nguyên thủy nhân loại cùng trong suốt dọc đời sống con người xưa nay trên trần gian.
Nguyên nhân do đâu đưa đến hình ảnh bi kịch thảm họa như thế?
Kinh Thánh nơi sách Sáng Thế ký thuật lại Ông bà nguyên tổ Adong Evà có hai người con Cain và Aben. Họ là anh em ruột thịt máu mủ do cha mẹ sinh ra. Nhưng bi thảm kịch đau thương đầu tiên của nhân loại đã xảy ra cảnh máu chảy sự sống bị hủy hoại giữa tình anh em họ: Cain là anh đã giết chết em mình là Aben.( St 4,1-6).
Anh Cain giết em Aben do lòng ghen tỵ thù hận.Vì của lễ Cain dâng lên Thiên Chúa là hoa qủa ruộng đồng không được nhận. Đang khi của lễ của Aben dâng tiến là những con vật đầu lòng còn non trẻ béo tốt được chấp nhận.
Kinh thành muôn thuở Roma được thành lập nên từ thời cổ đại xa xưa ( 754. trước Công nguyên) cũng có câu chuyện lịch sử thần thoại về sự rạn nứt bi thảm kịch đẫm máu giữa tình anh em Romulus và Remus.
Theo lịch sử thần thọai thuật kể lại, hai anh em song sinh Romulus und Remus là con của vị Thần chiến tranh Mars và nữ thầy cả Rhea Silvia sinh ra. Sau khi mở mắt chào đời, hai anh em bị cha mẹ bỏ rơi bên bờ sông Tiber, và họ được một con chó sói cái cho bú nuôi lớn lên. Ngày nay khi sang thăm viếng kinh thành Roma, có tượng hình ảnh hai đứa trẻ bú sữa con cho sói cái bằng đồng cao 57 centimét, rộng dài 114 centimét ở Capitolinische Museen. Bức tượng thần thoại này nhắc nhớ đến thủy tổ xây dựng nên thành phố muôn thuở Roma, và trở thành nổi tiếng khắp thế giới.
Ngay nơi bờ sông Tiber, nơi ngày xưa thời còn thơ bé Romulus và Remus đã được con chó sói cái cho bú sữa nuôi sống, theo thần thoại thành phố Roma đã được xây dựng thành hình trong dòng lịch sử thời gian.
Đầu tiên Romulus bắt đầu xây dựng khu tường thành chỗ mình ở. Remus thấy vậy sinh lòng ganh tỵ thèm muốn. Thấy tường rào còn thấp, Remus bèn nhẩy vượt qua. Thấy hành động của em mình như vậy, Rolumus sinh lòng nghi ngờ rồi thành giận dữ hận thù... Nên Romulus nóng giận đã xông đến đánh giết Remus em mình.
Bi thảm kịch đẫm máu phá hủy sự sống đã xảy ra tàn phá tình nghĩa anh em của họ.
Cain đã giết em ruột thịt của mình Aben thời thủy tổ nhân loại Adong -Evà.
Romulus đánh giết em mình Remus cũng là hai anh em ruột thịt theo thần thoại là thủy tổ đã xây dựng nên thành phố muôn thuở Roma.
Và trong dòng lịch sử nhân loại xưa nay vẫn hằng có những bi thảm kịch phá đổ tình anh em xảy ra…
Còn trong nếp sống đạo gíao tinh thần niềm tin thì sao, có hình ảnh như thế xảy ra không?
Lịch sử cho hay có những trường hợp đã xẩy ra, nhưng không đến mức độ hận thù đổ máu giết hại nhau, mà chỉ tranh cãi nhau thôi, có chăng đến mức độ gay gắt “mặt đỏ tía tai thôi!”, hay mỗi người đi sống một ngả đường riêng rẽ. Hay có thể họ cùng tìm một con đường hoà giải với nhau, tìm ra một mẫu số chung với nhau cho việc chung.
Hình ảnh như thế tìm thấy cụ trong Kinh Thánh nơi sách Công vụ Tông đồ viết thuật lại về cung cách sống tình anh em Tông đồ Chúa Giêsu Kitô của hai vị Thánh tông đồ Phero và Phaolô, mà Giáo hội hằng năm mừng kính lễ của hai vị vào ngày 29. Tháng Sáu.
Ở nước Do Thánh nơi thành phố thánh địa Jerusalem, Chúa Giêsu Kitô đã thành lập Giáo hội và cử sai các Tông đồ đi loan truyền làm chứng cho tin mừng nước Chúa khắp nơi trên trần gian.
Hai vị Tông đồ này không là anh em ruột thịt máu mủ cùng cha mẹ với nhau.
Nhưng hai vị này cùng là người thuộc dòng máu dân tộc Do Thái. Hai vị này cùng có những thời gian giai đoạn đen tối về đức tin vào Chúa: Phero chối Chúa Thầy mình, còn Phaolô đi lùng bắt cấm cách những tín hữu tin theo Chúa Giêsu thuở ban đầu, hai vị cùng có đức tin vào Chúa Giêsu Con Thiên Chúa và họ nhiệt thành ra đi ra giảng làm chứng cho tin mừng ơn cứu độ sự sống lại của Chúa Giêsu, dù con đường cùng cách thế loan truyền tin mừng của Chúa có khác nhau giữa họ.
Dù hai vị được tuyển chọn kêu gọi là những người đi rao giảng nước Chúa ở trần gian, nhưng họ có những khác biệt:
Phero người xuất thân từ miền nhà quê bình dị vùng Galileo, còn Phaolo xuất thân ờ vùng Tarsus một thành phố sinh động, nơi có nhóm thiểu số người Hylạp với mức văn hoá cao đến lập cư sinh sống.
Phero là người nông dân sống bằng nghề chài lưới đánh bắt cá nơi biển hồ Genezareth ở Galileo. Còn Phaolô là một nhà trí thức nơi ngưỡng cửa trường lớp đại học, học trò của Thầy Rabbi Gamaliel.
Phero được Chúa Giêsu tuyển chon kêu gọi đầu tiên làm Tông đồ của Ngài. Còn Phaolô được kêu gọi tuyển chọn là vị Tông đồ sau chót cùng của Chúa Giêsu.
Phero là thành viên tiên khởi của Giáo đoàn xứ đạo thành thánh Jerusalem ngay từ lúc Giáo hội thuở ban đầu. Còn Phaolô là thành viên được kết nạy trễ sau này vào Giáo đoàn xứ đạo thành Damaskus rồi Cộng đoàn xứ đạo thành Antiochia.
Hai vị “Tông đồ anh em” này với những khác biệt như thế có những suy nghĩ, cùng tầm nhìn khác biệt nhau rất nhiều trong lãnh vực thần học.
Dù vậy họ không để cho sự khác biệt giữa họ làm suy yếu phá đổ tin mừng tình yêu của Chúa: Sự hiệp nhất là giới luật căn bản quan trọng cho công việc mục vụ làm chứng loan báo tin mừng nước Chúa cho muôn dân.
Sách kinh thánh Công vụ Tông đồ thuật lại biến cố tranh cãi quyết liệt ở Antiochia, nơi Phaolô loan truyền tin mừng nước Chúa Kitô, về thắc mắc những người trở lại xin gia nhập vào Giáo Chúa Kitô có phải giữ luật Mose không. Tông đồ Phero lưỡng lự không có quyết định chính xác.
Phaolô và Barnaba được cử đến Jerusalem trình bầy sự thể tranh luận gay gắt đó giữa nhóm người ủng hộ phải giữ luật Mose là phải chịu phép cắt bì, khi trở lại Giáo hội Chúa Kitô, và phe chống đối cho là không phải giữ luật này do Phaolo và Barnaba đứng đầu.
Tại Jerusalem sau tranh luận gay gắt, họ đã tìm ra mẫu số chung để có được sự hiệp nhất trong Giáo hội:
“ Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này:29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.” ( CV 15,28-29)
Sự khác biệt giữa anh em Tông đồ Phero và Phaolô không đi đến hồi kết thúc với bi thảm kịch đổ máu phạm tội phá hủy sự sống, như Cain và Aben, như Romulus và Remus. Nhưng hai vị đã tìm ra chân lý sự hiệp nhất đồng thuận cho cung cách sống đức tin vào Chúa.
Hai vị không vì thế gây ra cảnh bi thảm kịch đổ máu hại nhau. Nhưng hai vị đã lấy chính máu mình, sự sống của mình làm chứng cho tin mừng nước Chúa Giêsu, cho sự hiệp nhất tình bác ái huynh đệ trong đời sống.
Hai vị cùng đến thành Roma, nơi ngày xa xưa Romulus và Remus theo thần thoại kể thuật lại là Ông thủy tổ của thành Roma.
Nơi kinh thành muôn thuở Roma hai vị đã thiết lập cơ cấu Giáo Hội Công giáo của Chúa. Quốc gia Vatican về địa lý nằm trong thành phố Roma, là thủ đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ.
Trên đồi Vatican có ngôi đền thờ Thánh Phero nguy nga to lớn nhất thế giới, và bên dưới tầng hầm ngay nơi cung thánh bàn thờ có ngôi mộ của Thánh giáo hoàng tiên khởi Phero.
Ở vùng bên ngoài thành Roma có ngôi đền thờ Thánh Phaolô to lớn nguy nga, nơi đây có ngôi mộ Thánh Phaolô và vòng dây xích mà ngày xưa Phaolô bị trói đem đi tù.
Cả hai vị Tông đồ Phero và Phaolô cùng bị bắt tù tội và chịu án tử hình ở Roma, vì hai vị đã trung thành với Giáo lý tin mừng của Chúa Giêsu Kitô trong thờikỳ đạo Công giáo bị cấm cách khoảng những năm 64-67 sau Chúa giáng sinh, thời hoàng đế Nero.
Thành phố Roma thời đế quốc Roma, trước Chúa Giêsu, trải rộng từ Âu châu sang khắp vùng tiểu Á miền Trung Đông là trung tâm thủ đô của thế giới đế quốc (vương quốc) Roma., và là thủ đô chính trị của nước Ý ngày nay.
Ngày nay Vatican- nằm trong thành phố Roma- là thủ đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ.
Cuối năm 2022 đức cố Giáo hoàng Benedictô 16. đã có suy tư về hai vị Tông đồ anh em Phero và Phalo:hai vị được liệt kê vào danh sách những vị Thánh của thành phố Roma. Vì hai vị đã tử đạo chết ở Roma, và cùng được mai táng ở nơi đây. Ở Roma có đền thờ Thánh Phero lớn nhất và đền thờ Thánh Phaolo lớn thứ nhì.
Thánh phố Roma được nhìn theo góc cạnh anh em song sinh:
Thành phố muôn thuở Roma theo thần thoại được thành lập nên từ thời hai vị thủy tổ Romulus và Remus, họ là anh em song sinh với nhau.
Giáo hội Công giáo Roma được thành lập nên nơi đây từ thời hai Tông đồ Phero và Phaolo đến đây loan truyền tin mừng giáo lý của Chúa, họ là hai tông đồ anh em của Chúa Giêsu Kitô.
Tại thành phố thủ đô Roma có hình tượng hai vị thủy tổ anh em song sinh Romulus và Remus. Cũng tại Roma có hai đền thờ to lớn cùng với hai ngôi mộ của hai vị Tông đồ anh em Phero và Phaolô.
Hai vị Tông đồ anh em Phero và Phaolô dù có những tầm nhìn suy nghĩ khác biệt nhau, nhưng hai vị đã tìm ra con đường hiệp nhất cho đời sống làm chứng loan truyền tin mừng tình yêu của Chúa, cho nếp sống hòa bình giữa con người với nhau, như biến cố Antiochia năm xưa đã được thuật lại trong kinh thánh.
Lễ mừng kính hai vị Thánh Phero và Phaolo cùng chung một ngày, 29.06., nói lên hình ảnh căn bản quan trọng cho đời sống chung: Anh em như thể tay chân!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh vị Tiên Tri sống khắc khổ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong dòng lịch sử nhân loại xưa nay rượu, bia là lọai thực phẩm uống cho ngon miệng khoái khẩu, mà còn là món hàng cao cấp xa xỉ. Những ai nghèo hay sống đời ăn chay khắc khổ hãm mình không dùng những loại thực phẩm uống này.
Trái nho là loại trái cây xưa nay được dùng ép chế thành rượu ngon tốt. Kinh thánh nói đến trái nho tớị 979 lần , vườn trồng nho tới 90 lần, rễ cây nho tới 60 lần, và ép nho tới 15 lần.
Còn bia ngày nay thành phổ thông như nho, nhưng không được nhắc đến có gía trị như nho.
Marin Luther đã có suy tư” Bia thì do con người phát minh tìm ra, nhưng nho thì do Thiên Chúa ban cho!”
Và hằng năm vào ngày lễ kính Thánh Gioan Tông đồ thánh viết sử viết phúc âm Chúa Giêsu, ngày 27.tháng 12. có truyền thống, ít là ở bên Âu Châu, lễ nghi làm phép rượu nho.
Nhưng Thánh Gioan tiền hô, người anh em họ hàng sinh ra trước Chúa Giêsu 06 tháng- ngày sinh nhật 24.06.- , đi loan báo dọn đường cho Chúa Giêsu, và đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu ở bờ sông Jordan, vào sống trong sa mạc khắc khổ, kiêng cữ tuyệt đối không uống chất rượu nho.
Hình ảnh thánh Gioan sống khắc khổ như thế nào?
Kinh thánh viết thuật lại Thiên Thần Chúa hiện đến báo tin mừng cho Thầy cả thượng phẩm Zacharia trong đền thờ Chúa ở Jerusalem: Ông bà sẽ có con nối dõi tông đường, và còn tiên báo cho hay “ em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần.” ( Lc 1,15).
Sau khi chào đời em bé được đật tên là Gioan, và “ Càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel. ( Lc 1,80) .
Đời sống trong sa mạc hoang vu chỉ toàn cát nóng đồng nghĩa là một đời sống chay tịnh khắc khổ. Đời sống như thế không chỉ sống phải từ bỏ rượu nho, nhưng cũng phải tự giới hạn cả về thực phẩm ăn nữa. Người thanh niên Gioan như Kinh thánh thuật lại lấy châu chấu và mật ong rừng làm lương thực nuôi sống mình. Đời sống trong sa mạc hoang vu cũng đồng nghĩa là một đời sống ẩn dật thu mình lại xa lánh chỗ đông người, vào sống yên lặng một mình cô đơn.
Gioan không chỉ là người chọn nếp sống đời khắc khổ, chay tịnh trong sa mạc hoang vu, nhưng còn là người cất tiếng nói rao giảng tinh thần luân lý gây khó chịu cho nhiều người. Ông đích thực là một người nói lời cảnh cáo nhắc nhở người khác về nếp sống đường luân lý, nếp sống phải thay đổi theo con đường ngay chính của Thiên Chúa.
Bài giảng của Gioan đanh thép không theo thị hiếu, nhân nhượng theo ý thích vui thú của người nghe. Gioan không loan báo tin mừng làm vừa lòng vui tai ai. Nhưng chất chứa lời lẽ cương quyết rõ ràng dứt khoát triệt để, không có đặc quyền cho ai:
“Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.11 Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”( Mt 3,7-12).
Cung cách sống khắc khổ, lời rao giảng đanh thép và phép rửa của Ông bên bờ sống Jordan xưa nay được hiểu cho là người đi trước dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng cứu thế tới.
Vì thế Gioan trở thành vị Tiên Tri cuối cùng như gạch nối giữa thời cựu ước bước sang thời tân ước với Chúa Giêsu đến liền sau ông.
Không có sử sách bút tích nào ghi lại chính xác ngày tháng Gioan đã sinh ra. Nhưng căn cứ vào kinh thánh như lời Thiên Thần Gabriel hiện đến báo tin nói với Đức Mẹ Maria:
“ Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”( Lc 35-37)
Nên sau này hằng năm Giáo hội đã chọn ấn định ngày mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu Kitô vào ngày 25. Tháng 12.thì ngày sinh của Thánh Giaon tiền hô hay còn gọi là tẩy gỉa vào ngày 24 . tháng 06. Sáu tháng trước lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kitô.
Ngày lễ mừng sinh nhật thánh Gioan tẩy gỉa 24.tháng 06. còn mang ý nghĩa là ngày bản lề trong năm theo khí hậu thời tiết bốn mùa trong năm.
Ngày 24.06. hằng năm là ngày cao điểm bắt đầu mùa Hè nóng bức. Ngày này ban ngày dài nhất, khoàng 05. giờ sáng trời đã sáng ,và ban đêm tối trời vào khoảng 22.00 giờ, ngắn nhất.
Và từ ngày này ánh sáng ban ngày dần thu ngắn lại, bóng tối trời dần dài ra cho đến ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kitô 25.tháng 12. Ngày bắt đầu mùa Đông, là đêm dài nhất khoảng 16.00 giờ trời bắt đầu tối, ngày ngắn nhất khoảng gần 08.00 trời mới sáng dần.
Và ý nghĩa bản lề cũng ẩn chứa Gioan tầy giả là vị tiên tri cuối cùng của thời cựu ước. Cha của ông là Thầy cả thượng phẩm có nhiệm vụ vào đền thờ Chúa dâng hương của hy lễ đền tội.
Còn Chúa Giêsu mà Gioan loan báo đến sau ông là thời gian bước sang thời Tân ước. Chúa Giêsu Kitô là Thầy cả thượng phẩm không vào đền thờ dâng hương hy lễ. Nhưng Ngài là Con Thiên Chúa dâng hiến chính con người mạng sống mình làm hy lễ đền tội mang lại ơn cứu chuộc cho toàn nhân loại trên thập gía.
Đền thờ là hình ảnh biểu tượng của thời cựu ước. Còn thập giá Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh biểu tượng thời tân ước.
Trong dòng thời gian lịch sử Giáo Hội Chúa ở trần gian, luôn hằng có những tâm hồn muốn chọn nếp sống ơn gọi đời sống khắc khổ từ bỏ, như các tu sĩ nam nữ ở các nhà Dòng khổ tu, hay các Tu sĩ chọn sống đời đơn giản thanh tịnh nghèo khó từ bỏ nếp sống tự do dễ chịu, chấp nhận ăn uống, ăn mặc nghèo hèn kham khổ, sống theo gương như Thánh Gioan ngày xưa, để tự giáo dục tinh thần của mình.
Bài giảng của Gioan cảnh cáo kêu gọi ăn năn, sám hối trở về với con đường của Chúa đanh thép gây cảm gíac khó chịu cho người nghe. Nhưng dẫu vậy nó vẫn luôn thời sự. Vì đời sống tinh thần lúc nào cũng cần đến những hướng dẫn nhắc nhở như thế.
Thân xác con người và cả tinh thần trí khôn, tâm hồn lòng muốn ý chí đều có giới hạn về sức chịu đựng cũng như thời gian, yếu đuối bệnh tật, sao nhãng hay quên., dễ chiều nghiêng theo sự dễ dãi vui thích…
Lời cảnh báo nhắc nhở, nhất là về con đường đời sống tinh thần thiêng liêng, luôn hữu ích thời sự giúp phản tỉnh quay trở về với sự tốt lành thánh đức.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hành hương những thánh tích
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Có nhiều thánh địa hương hương trên thế giới như Jerusalem, Nazareth, Bethlehem, nơi quê hương của Chúa Giêsu Kitô đã sinh ra, giảng đạo, chịu chết và sống lại, bên Paris, Lourdes, Fatima, Lavang…nơi Đức mẹ Maria đã hiện ra.
Ngoài ra còn có những địa điểm hành hương khác có từ thời xa xưa hay Trung cổ. Ở những nơi này không có dấu vết Chúa Giêsu đến hay Đức Mẹ hiện ra. Nhưng có những di tích kỷ vật thánh lưu truyền lại từ lâu đời, như tấm khăn liệm Chúa Giêsu ở thành Turino, căn nhà Đức mẹ ở Loretto, tấm áo Chúa Giêsu ở Trier, vòng mạo gai Chúa Giêsu ở nhà thờ Đức Bà Paris…và còn nhiều nơi khác nữa còn cất giữ những di tích vật thánh khắp nơi bên trong Giáo Hội.
Những nơi còn cất giữ những di tích vật thánh lưu truyền trong dòng thời gian đã trở thành địa điểm hành hương. Những nơi đó trở thành thánh địa, rất thịnh hành phổ thông cho người tín hữu Chúa Kitô kéo đến hành hương kính viếng cầu nguyện.
Ở Giáo phận Aachen bên nước Đức trong nhà thờ chính tòa có cất giữ bảo quản 04 di tích vật thánh: Áo choàng Đức mẹ Maria, Tấm tã của Chúa Giêsu lúc còn thơ bé, tấm khăn bọc đầu Thánh Gioan Tẩy giả sau khi ngài bị tử đạo chém đầu, và tấm khăn áo Chúa Giêsu.
Bốn di tích vật thánh lưu truyền này được chuyển giao gìn giữ bảo quản từ thời Vua Carolo cả ( 747-814) ở Aachen, trong ngôi thánh đường của nhà Vua được xây dựng năm 795, và ngôi thánh đường cổ kính này ngày nay trở thành nhà thờ chính tòa của giáo phận Công giáo Aachen.
Trong dòng thời gian từ thế kỷ 14. cứ mỗi bẩy năm, Giáo phận lại tổ chức hành hương cho người tín hữu khắp nơi đến kính viếng hành hương những di tích vật thánh lưu truyền này.
Vào thời Trung cổ và những năm trước chiến tranh thế giới thứ nhất cũng như thứ hai, mỗi khi có hành hương ở Aachen, rất đông đảo người tín hữu kéo về kính viếng.
Câu hỏi đặt ra là những di tích vật thánh lưu truyền đó có đúng là bản chính gốc hay không. Những nhà khoa học đã nhiều lần nghiên cứu khảo sát, nhưng chưa tìm ra những dấu vết chứng minh rõ ràng.
Những vị trách nhiệm của Giáo phận Aachen không chú tâm đặt nặng vấn đề có phải là chính gốc hay không. Những di tích lưu truyền được tôn kính là vật thánh do lòng tin của con người giúp nâng đỡ đời sống đức tin mới là quan trọng. Qua đó ôn nhắc nhớ lại cùng học hỏi thêm đời sống của Chúa Giêsu, của Đức mẹ và các Thánh, cho nếp sống đức tin trở nên sống động.
Vì thế, Giáo phận vẫn duy trì tổ chức hành hương về nhà thờ chính tòa Aachen kính viếng những di tích vật thánh lưu truyền này. Năm nay cuộc hành hương được tổ chức từ ngày 09. - 19. Tháng Sáu 2023 ở thành phố Aachen với chủ đề “ Hãy khám phá Chúa”.
Dịp này có những thánh lễ hành hương trong và bên ngoài nhà thờ chính tòa, những cuộc hội thảo diễn thuyết tìm hiểu về ý nghĩa đạo đức thần học cùng lịch sử những di tích vật thánh, và 04 di tích vật thánh lưu truyền được đem ra trình chiếu cho công chúng chiêm ngưỡng.
Áo choàng của Đức mẹ Maria, một di tích thánh lưu truyền giữ ở Aachen, có lẽ gợi suy tư nhiều cho đời sống con người.
Không biết đây có phải là tập tục nếp sống xưa nay không. Nhưng trong đời sống hằng ngày hầu như người mẹ, người phụ nữ cũng thường có khăn quàng rộng lớn bao phủ thân thể cho kín đáo, cùng bảo vệ cho khỏi bị gío rét lạnh thổi tạt vào.
Ngày lễ hôn phối, cô dâu thường có áo choàng dài rộng bao phủ từ đầu xuống tới chân. Áo chòang này không chỉ là phần trang điểm cho đẹp, cho lộng lẫy sang trọng ngày lễ cưới được long trọng. Nhưng còn muốn nói lên sự gìn giữ bảo vệ cung lòng trái tim của người mẹ tương lai. Từ trong cung lòng đó mầm sự sống người con được tạo dựng sẽ dần thành hình lớn lên, trước khi mở mắt chào đời.
Rồi khi đã có con, nhất là lúc chúng còn thơ bé, còn trẻ tuổi, người mẹ thường hay bồng ẵm con, hay lúc chúng nằm ngủ, quấn dấu ẩn con trong áo khăn choàng, để che chở cho con khỏi bị hơi lạnh nhất là khi trời gío to, hay tiếng động mạnh tạt vào người chúng.
Đức mẹ Maria cũng thường được khắc tạc hay vẽ với áo choàng rộng bao phủ quanh thân hình sát tới tận chân.
Có những bức tượng còn khắc tạc bên dưới áo choàng Đức Mẹ có nhiều hình tượng người lớn bé đứng ngồi ẩn khuất trong đó nữa. Họ là những người cần đến sự bảo vệ che chở của Đức mẹ:đàn bà, đàn ông, trẻ con, người lớn, những tu sĩ nam nữ, những chức sắc trong đạo, trong đời.
Hình ảnh này nói lên Đức Mẹ Maria là người mẹ của hết mọi người. Đức Mẹ Maria chấp nhận nuôi dưỡng bảo vệ tất cả những người con của bà Evà.
Ngày xưa, dưới bóng áo choàng của những vị vua chúa, những người bị bắt vì tội phạm còn tìm thấy được sự che chở ân xá tha thứ giảm hình phạt cho khỏi bị kết án.
Tấm áo choàng của Đức Mẹ Maria cũng có chức năng bảo vệ che chở cho những ai gặp hòan cảnh khó khăn nguy hiểm về nhiều phương diện tinh thần lẫn thể xác.
Có nhiều truyền thuyết, hay những cảm nghiệm trong đời sống thuật lại những trường hợp được gìn giữ che chở qua lời bầu cử của Đức Mẹ xin cùng Chúa Giêsu cứu giúp cho được vượt qua tai ương nạn khỏi, qua khỏi những tai biến thời tiết, bệnh tật không chỉ cho cá nhân ai, nhưng có khi còn cho cả vùng, cả một đất nước nữa.
Vì thế, có nhiều đất nước, hay vùng quê hương nhận Đức mẹ là quan thầy bảo vệ đời sống cho họ với lòng biết ơn và lòng thành kính cầu khẩn.
Cá nhân ai cũng cần sự an ủi trợ giúp từ Trời cao của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi cảm thấy mình yếu đưối không biết làm sao có thể kêu khấn đến được. Nên thường chạy đến dưới áo choàng của Đức mẹ, xin trợ giúp cầu bầu. Lòng sùng kính Đức mẹ ở những nơi hành hương, hay mỗi khi đọc kinh Kính mừng nói lên tâm tình của nhu cầu sâu thẳm đó của con người.
Các bậc vợ chồng, tuy họ là áo choàng che chở bảo vệ cho nhau, nhưng chiếc áo choàng của Đức Mẹ vẫn luôn là lá che chở thiêng liêng cần thiết cho niềm vui hạnh phức gia đình.
Cung lòng, tấm áo khăn choàng của người mẹ luôn luôn có đó, là điều cần thiết cùng là tổ ấm che chở mang lại sự đầm ấm cho người con. Nhưng lời cầu xin khấn nguyện dưới tấm áo choàng của Đức Mẹ cũng vẫn là nơi chốn bến bờ bình an cậy trông, mà hầu như người mẹ trần gian nào cũng luôn chạy đến than thở khấn nguyện cho mình và cho con cái mình với cả dòng nước mắt thành khẩn kêu xin.
Thánh nữ Birgitta đã thuật lại về khuôn mặt mầu nhiệm ẩn dấu của Đức mẹ, khi nhìn ngắm tấm áo chòang của Đức mẹ: “Đức mẹ như nói với Thánh nữ: Tấm áo choàng rộng lớn của Mẹ tiềm tàng chứa ẩn ý nghĩa lòng từ bi thương xót. Người nào chạy trốn lòng từ bi thương xót, người đó thật bất hạnh. Con hãy chạy đến ẩn mình dưới bóng áo choàng lòng từ bi thương xót.”
Lòng từ bi thương xót, ai cũng cần cho mình cùng cho người khác trong đời sống.
“Mẹ từ bi! Ngày nay con đến nép thân, dưới áo Mẹ lành che khuất bao u buồn nơi khóc than...”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh bánh sự sống bởi trời
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội Công giáo mừng kính trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô. Vào ngày lễ trọng này các xứ đạo, ít là bên Âu Châu, có truyền thống đạo đức sống đức tin từ hằng thế kỷ nay, rước kiệu Mình Thánh Chúa qua các con đường trong xứ đạo hay trong thành phố.
Tấm Bánh Thánh Thể Mình Thánh Chúa Kitô là trung tâm điểm của cuộc rước kiệu ngày lễ trọng đại đi qua các ngả đường phố đời sống trong xứ đạo, trong làng khu xóm, nơi con người sinh sống.
Tấm Bánh Thánh Thể nhắc nhớ đến hình ảnh của ăn lương thức nuôi sống đời sống con người.
Ngày xưa dân Do Thái trên đường trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban cho, từ đất Aicập trở về nước Do Thái, như Kinh thánh thuật lại, họ lâm vào hoàn cảnh đói khát. Vì lương thực mang theo đã cạn kiệt. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay cứu giúp họ trong cơn nguy khốn. Ngài đã làm phép lạ cho Manna1 như bánh từ trời mưa xuống làm lương thực dưa thừa nuôi sống họ.
“ Nhà Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong”.( XH 16,31)
Manna đã trở thành lương thực cho họ có đủ sức lực sống còn, để đi băng vượt qua rừng núi sa mạc về đến quê hương đất Thiên Chúa hứa ban cho họ.
Và Thánh tiên tri Mose sau khi vượt qua đoạn đường hành trình suốt 40 năm trong sa mạc về đến ngưỡng cửa miền đất quê hương Thiên Chúa hứa ban cho, đã nói những lời từ gĩa dân Do Thái, và cùng căn dặn họ luôn phải nhớ đến với lòng biết ơn tôn kính tấm bánh Manna, lương thực nuôi sống do Thiên Chúa từ trời ban xuống cho.
"Các ngươi hãy nhớ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, Ðấng đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Và Người là Ðấng đã dẫn các ngươi vào nơi hoang địa mênh mông và kinh khủng có nhiều rắn hổ lửa, bò cạp, rắn lục, và không có một giọt nước nào; Người đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra. Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới". ( Sách dân số 8, 2).
Hình ảnh dân Do Thái ngày xưa vượt đường trường sa mạc, sống trải qua những ngày tháng năm phải dựng lều lên, gỡ lều xuống đi tiếp và rồi lại dựng lại làm nhà trú ngụ mỗi khi tới chỗ dừng chân. Họ phải chịu đựng nắng nóng khô cằn ban ngày, và ban đêm gía lạnh. Họ phải sống tiết kiệm nước cũng như lương thực ngày càng ít đi. Họ đã than phiền trách móc Mose, trách móc Thiên Chúa, và muốn quay trở lại đất Ai Cập, nơi họ có nước uống, có lương thực ăn no đủ, dù có phải sống cảnh đời nô lệ cho người Ai Cập!
Nhưng họ cũng nhớ đến những dấu chỉ biến cố trên đường trở về quê hương cho được thoát khỏi cảnh nô lệ là Thiên Chúa không bỏ rơi họ một mình. Ngài luôn hằng cùng đồng hành ra tay che chở cứu giúp họ trong mọi hoàn cảnh: Ban ngày có cột mây dẫn đường đi trước. Ban đêm một cột lửa xuất hiện soi đường cho nhìn thấy lối đi.
Trong sa mạc hoang vu khô cằn không có cây cỏ mọc lên, không có lương thực. Nhưng Thiên Chúa đã làm phép lạ cho nước vọt lên từ lòng đất từ tảng đá cho nhu cầu đời sống, và cho mưa Manna từ trời xuống làm lương thực cho ăn no đủ.
Nhớ đến toàn thể con đường hành trình như thế không có nghĩa chỉ toàn kinh nghiệm về biến cố tiêu cực,nhưng còn cả những điều tích cực đã trợ giúp dân Do Thái ngày xưa trên đường vượt qua sa mạc hoang vu phải đối diện những thử thách khó khăn nặng nề cùng lâu dài.
Như thế có thể nghiệm ra được rằng họ, dân Do Thái, như Kinh thánh thuật lại, đã sống kinh qua và học hỏi rất nhiều điều qúy báu trong thời gian sống trong sa mạc như là thời gian thử thách về sự kiên nhẫn, về lòng trung thành lòng khiêm nhượng với Thiên Chúa, trong đời sống mà Thiên Chúa đặt ra cho họ.
Bánh Manna trong sa mạc ngày xưa đã bảo đảm giúp dân Do Thái có được sức lực sự sống còn, để vượt qua những khó khăn thử thách trong đời sống trên đường đi về quê hươmg.
Đời sống con người xưa nay trên trần gian không chỉ là một giai đoạn của sự sống còn nhờ có lương thực nước uống, nhưng như Tiên tri Mose đã có xác tín sâu xa hơn:
“3 Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh (em) ăn man-na là của ăn anh (em) chưa từng biết và cha ông anh (em) cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra.” ( Sách dân số 8, 3).
Chúa Giêsu Kitô trong sa mạc hoang điạ bên nước Do Thái cũng đã nói với qủy cám dỗ, khi chúng thử thách bảo Người hãy làm cho đá hóa ra bánh mà ăn cho khỏi bị đói:
“ Người ta sống không nguyên chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn nhờ những lời do Thiên Chúa phán ra nữa!” ( Mt 4,4).
Đời sống ngày càng có nhiều phát triển về mọi khía cạnh, mà khía cạnh phúc lợi lương thực ngày càng sung túc dư đủ, nhất là ở những xã hội đất nước có đời sống văn minh thịnh vượng.
Nhưng câu tâm niệm” Con người sống không chỉ riêng một mình nhờ cơm bánh.” có thể suy nghiệm thêm mở rộng ra được rằng: Con người chết riêng một mình bên nơi cơm bánh!
Phải, không chỉ cần lương thực cơm bánh cho bao tử, cho gân cốt. Nhưng cả tâm hồn tinh thần cũng đói khát cần lương thực nữa: tình yêu thương, niềm hy vọng, niềm vui hạnh phúc, được công nhận tôn trọng, và ý nghĩa cho đời sống.
Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu là lương thực thần linh cho đời sống tâm hồn tinh thần đức tin người tín hữu Chúa Kitô trên con đường sa mạc hoang vu có nhiều thử thách cám dỗ đời sống trần gian.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh về Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người tín hữu Chúa Kitô tin có Thiên Chúa. Nhưng dẫu vậy vẫn luôn có thắc mắc về hình ảnh Thiên Chúa là ai và như thế nào.
Có trả lời cho thắc mắc này theo như truyền thống nơi Kinh Thánh: Chúng ta không biết gì cụ thể về Ngài. Và Thiên Chúa có ba ngôi vị.
Thiên Chúa là ai và như thế nào để có thể nhận ra Ngài?
Tâm trí con người xưa nay trong dòng lịch sử thời gian đều có câu trả lời: Chúng ta không biết gì về Ngài, và chưa có ai đã nhìn thấy Ngài!
Kinh Thánh nơi sách Xuất Hành ( 34,4-6. 8-9) viết thuật lại Thánh tiên tri Mose đã được gặp Thiên Chúa trên núi Sinai. Nhưng dẫu vậy Thiên Chúa vẫn ẩn mặt, và Mose đã không nhìn thấy được bằng mắt của mình hình ảnh Thiên Chúa.
Trong đời sống có cuộc gặp gỡ, mà không thể nhìn thấy tận mặt thật hình hài khuôn mặt người đó. Vì người đó chỉ ở bên cạnh xa xa bên ngoài.
Có khi chúng ta không thể nhìn thấy thật khuôn mặt hình hài ai đó. Vì họ không cùng ở lại bên cạnh, nhưng vội vàng đi qua, và chỉ lên tiếng chào gọi hỏi thôi.
Cũng thế với câu trả lời về hình ảnh Thiên Chúa là ai và như thế nào: không biết gì về hình ảnh Ngài. Ngoại trừ theo truyền thống niềm tin thuật lại nơi Kinh Thánh về Ngài.
Người tín hữu Chúa kêu xin, nói chuyện cầu khấn Ngài. Họ xưng tụng Ngài từ thời xa xưa như Kinh Thánh thuật lại là Thiên Chúa, là Cha, là Đấng Thánh, là Thiên Chúa nhân từ giầu lòng xót thương… và trong dòng lịch sử thời đại văn hoá nhân loại, Ngài được xưng tụng gọi là Cha và cũng là Mẹ.
Rồi không có biết bao nhiêu câu chuyện lịch sử, ngay cả trong Kinh Thánh, tường thuật về Một Thiên Chúa: Đấng hoạt động phán truyền, ra tay cứu giúp cùng cảnh cáo răn dậy. Dẫu vậy không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa nói và hành động.
Không ai có thể nói được Thiên Chúa là ai và Ngài như thế nào, đã xử sự với con người dân chúng, khi họ phạm tội lỗi luật Chúa truyền.
Không ai đã chứng kiến nhìn thấy Thiên Chúa tạo dựng công trình thiên nhiên vũ trụ trời đất.
Không ai đã nghe thấy Thiên Chúa nói với Tổ phụ Abraham, với các Thánh Tiên tri.
Nhưng Chúa Giêsu Kito trong phúc âm Thánh Gioan viết lại đã nói: Ai nhìn thấy Thầy là nhìn thấy Đấng đã sai Thầy đến trần gian( Ga 12,45). Và ai nhìn thấy Thầy, là nhìn thấy Thiên Chúa Cha. ( Ga 14,9).
Nhìn thấy đây không phải bằng đôi con mắt, một kỳ công diệu vợi thần thánh mà Thiên Chúa tạo dựng ban cho con người để sinh sống, nhưng bằng tâm tình lòng khẩn nguyện cầu xin của con người hướng lên Thiên Chúa.
Tâm tình lời khấn nguyện của người tín hữu nói với Thiên Chúa, Đấng vô hình, từ thuở xa xưa, cùng với Chúa Giêsu Kitô, gọi Ngài là là Cha, ngày nay cũng gọi Ngài là Mẹ. Và rồi xưng tụng Chúa Giêsu Kitô là Con. Và cùng với Cha và Con chung hợp xưng tụng Chúa Thánh Thần.
Chúng ta cầu nguyện như thế không lên ba Chúa, nhưng Một Chúa qua Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa được xưng tụng là người Cha hay người Mẹ, đấng vô hình chúng ta không thể nhìn thấy bằng đôi con mắt, và cũng không nghe thấy bằng đôi tai, và cũng không cảm nhận được bằng cảm giác của đầu ngón tay, và cũng không nếm thử hương vị được bằng lưỡi của mình.
Thiên Chúa là cha là mẹ vô hình hiện thân nơi Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian làm người ở thành Nazareth bên nước Do Thái. Ngài không ẩn hiện dấu mình trong vầng mây trên bầu trời cao xa, nhưng là một con người sinh sống trên trần gian.
Vì thế chúng ta nhận ra được:
-Chúa Giêsu Kitô là Lời của Thiên Chúa.
-Công việc của Chúa Giêsu Kitô thể hiện những hoạt động của Thiên Chúa.
-Thân phận của Chúa Giesu Kitô là lịch sử của Thiên Chúa với con người trần gian chúng ta.
Nếu chúng ta bỏ quên Chúa Giêsu thành Nazareth, và như thế bỏ mất Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cũng chỉ hóa là một người đã qua đời trong số những người đã qua đời từ thuở xa xưa nay, mà không ai nhớ tới nữa, không ai biết đến nữa, nếu Chúa Thấnh Thần, thần khí của Thiên Chúa không hiện diện giữa chúng ta và làm cho trở nên sinh động,
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ mừng kính trái tim Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ mừng kính trái tim Chúa Giesu theo danh xưng ngôn ngữ có hai kiểu diễn tả: một là có từ ngữ thánh vào bên cạnh từ ngữ trái tim như Sacro Cuore, Sagrado Corazon, Sacre-Coeur, thánh tâm Chúa Giêsu…, hai là không có từ ngữ thánh thêm vào trái tim như nơi một số ngôn ngữ Herz Jesu Fest, lễ Trái tim Chúa Giêsu, Heart of Jesus festival…
Vậy nói lên hình ảnh ý nghĩa gì?
Tập tục đạo đức sùng kính trái tim Chúa Giêsu có từ đầu thời trung cổ trong Giáo Hội. Và trong dòng thời gian dần trở nên phổ thông thịnh hành khắp nơi.
Dù có thêm từ ngữ thánh hay không có chữ này thêm vào, trái tim Chúa Giêsu vẫn luôn trung tâm chính yếu của lễ mừng kính. Vì từ trái tim của vị Thánh hay của một con người nào luôn là nguồn phát xuất tình yêu thương lòng thương xót, sức sống.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thánh cao cả nơi trời cao. Nhưng đã xuống trần gian làm người có trái tim là cơ quan bơm luân chuyển máu biến thành sức sống nuôi dưỡng các cơ quan thân thể, và trái tim cũng là nơi chốn phát tỏa tình yêu thương, lòng nhân ái từ tâm ra bên ngoài.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không phải chỉ là Thiên Chúa ở bất cứ nơi đâu, và bất cứ như thế nào, một sức mạnh quyền năng cao cả xa xôi, hay một bản thể khác xa lạ nào. Nhưng Ngài là một Thiên Chúa đã xuống trần gian làm người sinh sống như mọi người.
Đức tin Kitô giáo tin tưởng xác tín vào một Thiên Chúa, Đấng hiện thân là con người nơi Chúa Giêsu Kitô đã sống chiếu trái tim tỏa tình yêu, lòng thương xót đến với mọi người xung quanh cách cụ thể nơi xã hội con người trần gian ngày xưa ở nước Do Thái.
Lễ mừng kính trái tim Chúa Giesu diễn tả niềm hy vọng của con người giữa những hoàn cảnh chao đảo khốn khó trong đời sống vào tình yêu thương lòng thương xót thánh thiêng của Chúa Giêsu.
Người tín hữa Chúa Kitô trông cậy tin tưởng vào tình yêu, mà Thiên Chúa thể hiện trong thiên nhiên cho đời sống con người trong vũ trụ.
Và họ cũng tin tưởng vào tình yêu thương giữa con người cùng chung sống với nhau, như xưa kia chính Chúa Giêsu đã sống làm gương mẫu với mọi người cho đến tận cùng đời sống của Ngài hy sinh cho đến chết, vì tội lỗi nhân loại.
Nguồn gốc lễ mừng kính trái tim Chúa Giêsu đặt nền tảng trong kinh thánh, nơi phúc âm theo Thánh Gioan. Sau khi Chúa Giêsu bị kết án đóng đinh vào cây thập tự, một người lính canh đã dùng ngọn giáo đâm vào cạnh sườn nơi trái tim của Người, và từ nơi đó tuôn chẩy trào ra “ máu cùng nước” ( Ga 19,34).
Ngay từ thuở xa xưa trái tim Chúa Giêsu đã trở thành là hình ảnh biểu tượng bản tính nhân loại của Ngài, và cũng được hiểu là cung cách diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người.
Nơi trái tim bên cạnh sườn chỗ bị đâm thủng của Chúa Giêsu Kitô trên thập gía ngay từ thời Giáo hội lúc ban đầu hiểu cắt nghĩa như là cửa tuôn trào ơn chúc phúc chữa lành, là nguồn mạch phát sinh ra các Bí Tích trong Giáo hội Chúa ở trần gian.
Trong đời sống con người xưa nay luôn hằng có những mẩu chuyện vui mừng cảm động thương tâm tường thuật nói về trái tim tình yêu của con người trần gian với nhau.
Hôm 09.06.2023 theo tin tức khắp nơi trên thế giới thuật lại. Như một phép lạ thần thánh nhiệm mầu, 4 em bé : 13 tuổi, 9 tuổi, 5 tuổi và 1 tuổi, đã được tìm thấy bên trong rừng rậm nước Colombia. Các em đã sống sót sau tai nạn máy bay hôm 01.05.2023, và đã lưu lạc sống trong rừng 40 đêm ngày.
Em bé gái lớn 13 tuổi đã thuật lại cho biết mẹ các em đã sống sót thêm 04 ngày sau tai nạn máy bay. Bà bị thương, nhưng biết mình không sống được nữa, nên đã khuyến khích chỉ dẫn các con mình tìm cách sống còn và khuyến bảo họ “ hãy đi” khám phá tìm sự sống!
04 chị em đã dắt dìu nhau đi, chúng nương tựa vào nhau hành trình lần mò đi tìm con đường lối thoát trong rừng rậm hoang dã. Và chúng đã sống còn qua nhờ phép lạ của Trời Cao phù hộ gìn giữ che chở.
Trái tim tình yêu của người mẹ đó luôn ở bên các con mình. Chắc rằng trái tim tình yêu của bà, tuy bà đã chết ra người thiên cổ, hằng luôn theo dõi cầu xin Trời Cao phù hộ cứu giúp các con bà đang trong cảnh mồ côi bơ vơ giữa rừng hoang có nhiều thú dữ hoang dã rất nguy hiểm cho mạng sống của chúng.
Và sau 40 ngày tìm kiếm, người ta đã tìm thấy các em vẫn còn sống, chỉ bị những vết thương nhẹ nơi thân thể, dù thiếu lương thực ăn bị suy yếu mệt mỏi đói lả. Vì chúng đã suốt 40 đêm ngày lưu lạc trong rừng rậm, lấy nước mưa, hoa qủa, lá cây rừng làm lương thực ăn thôi…
Một em đã nói câu đầu tiên với người lính cứu hộ tiến đến chỗ các em đang nằm trên nền đất giữa cây cỏ nơi rừng rú: Mẹ của em đã qua đời rồi!
Câu nói tâm tình qúa xúc động tràn đầy niềm nhớ nhung đau buồn diễn tả sâu đậm hình ảnh trái tim tình yêu của mẹ em luôn hằng ở bên em. Và trái tim tình yêu của em cũng luôn hằng ở bên mẹ em. Thật qúa cảm động chan chứa lòng hiếu thảo tình mẫu tử, và cũng qúa thương tâm đau lòng!
Ôi trái tim tình yêu thật thánh thiêng nhiệm mầu cao vời khôn ví!
Mừng kính trái tim Chúa Giêsu là mừng kính tình yêu Thiên Chúa chiếu tỏa cho đời sống con người hôm qua, hôm nay và ngày mai
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh truyền thông thần linh
- Hình ảnh ngọn lửa Đức Chúa Thánh Thần
- Hình ảnh tình mẫu tử thần thánh.
- Hình ảnh nguồn suối nước sự sống
- Hình ảnh bông hoa ngọn nến kính mừng Đức mẹ Maria
- Hình ảnh vườn hoa tháng Năm
- Hình ảnh con cá
- Hình ảnh hoài nghi thắc mắc
- Hình ảnh 12 cây nến chung quanh cây nến Chúa phục sinh
- Hình ảnh bái qùi gối