Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong thiên nhiên có vùng bằng phẳng với nền đất mềm,. Đó là vùng đồng bằng.
Và cũng có những khu vực vùng nhô nổi lên cao hàng trăm, hàng ngàn mét với những khối tảng đá to lớn khô cứng rắn chắc so với mặt nước biển. Đó là núi đồi.
Không có sử sách khảo cứu nào chứng minh nói rõ khi nào núi đồi thành hình. Kinh Thánh nơi sách Sáng Thế ký thuật lại Thiên Chúa tạo dựng đất là nền tảng cho mọi loài cây cối thảo mộc trổ sinh phát triển vào ngày sáng tạo thứ ba. ( St 1,9-13). Nhưng không đề cập nói tới núi đồi. Dẫu vậy núi đồi hay chỗ cao cũng là nền tảng cho cây cối mọc lên phát triển như thấy trong thiên nhiên xưa nay. Và núi đồi cũng như đất có niên đại tuổi tác rất nhiều hơn so với con người.
Núi đồi có sức mạnh hùnh dũnng vĩ đại trồi vươn lên cao từ sâu thẳm dưới lòng đất, từ dưới đáy lòng đại dương biển cả. Độ cao của chúng vượt qúa tầm nhìn con mắt thường của con người. Có lẽ vì thế núi đồi và lòng đạo đức có cùng chung hợp với nhau.
Trong dòng lịch sử thời gian tất cả mọi tôn gíao trên vũ trụ đều có những ngọn núi đồi linh thiêng là nơi thờ tự. Vì nghĩ tin tưởng rằng nơi cao núi đồi gây mang đến cảm nhận linh thiêng cho tầm nhìn con mắt con người cùng cho tâm hồn con người.
Tin hay không tin: núi đồi cao được cho là nơi chốn cư ngụ, nhà ở của các Thần Linh. Và vì thế núi đồi toả ra sức vẻ huyền nhiệm thánh thiêng.
Ngày xưa Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Tiên tri Mose và ban cho 10 Điều Răn trên núi Sinai.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã lên núi cao Tabor biến hình và truyền đi sứ điệp quan trọng: ánh sáng vinh quang Thiên Chúa.
Như vậy nói được rằng từ núi Sinai đến núi Tabor, từ vầng đám mây tối đen vùng. Núi Sinai đến vầng đám mây sáng trong sáng vùng núi Tabor, từ sấm chớp ngày xưa nơi núi Sinai đến không khí bình an nơi núi Tabor, từ bản thề thần thánh cao siêu không thể hiểu nhìn thấu tới trên núi Sinai đến tới bản chất thiên nhiên con người của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu làm người nơi trần gian trên núi Tabor.
Trên núi cao người ta nhìn sự thể bên dưới với tầm nhìn xa rộng phổ quát rõ cùng có bình an. Trên đỉnh núi cao con người có thể có cảm nhận được gần gũi với Thiên Chúa Thần thánh.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa ngày xưa đã leo lên ngọn núi giảng hiến chương nước trời Tám mối phúc thật ( Mt.5, 1-12 ). Và đã lên núi Tabor biến hình:
“Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. ( Mc 9, 1-2).
Vậy đâu là hình ảnh cùng sứ điệp qua sự biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor?
Sự biến hình của Chúa Giêsu trên núi là hình ảnh tràn đầy ánh sáng và vinh quang rực rỡ.
Khuôn mặt Chúa Giêsu xuất hiện như là sự tiếp nối hướng dẫn về núi cao, như Thánh Phaolô đã diễn tả Chúa Giêsu Kitô là tảng đá ( 1 Cor 10,4). Chúa Giêsu là núi đá, là trung gian giữa Thiên Chúa Cha và con người qua cuộc gặp gỡ con người với Thiên Chúa. Và đồng thời Chúa Giêsu là ánh sáng thật soi chiếu vào bóng tối sự chết do tội lỗi gây ra.
Vạn vật trong vũ trụ được chiếu sáng do ánh sáng mật trời chiếu tỏa bao phủ, và đồng thời cũng có bóng tàn khuất tỏa xuống chung quanh. Nhưng nơi Chúa Giêsu Kitô thì khác không như thế. Ngài chính là ánh sáng. Ánh sáng chiếu tỏa phát ra từ tâm hồn thân thể ngài, và không có tàn bóng khuất lan tỏa bao phủ chung quanh.
Ánh sáng đó mang hình ảnh ý nghĩa sự vinh hiển của chính Chúa Giêsu được hiển thị trong sự sống lại, và lên trời của Ngài do Thiên Chúa Cha thực hiện.
Từ vùng bên dưới leo lên núi cao đòi hỏi nhiều sức lực cố gắng hy sinh cùng chịu đựng gian khổ.
Trong đời sống hằng ngày, nhất là đời sống tinh thần đạo giáo, nếp sống đào tạo giáo dục, cũng tựa như từ bên dưới leo lên núi cao. Nên con người luôn cần đến chí khí kiên nhẫn tập luyện để có thể đạt tới thành công.
Chúa Giêsu Kitô biến hình trên núi Tabor, tiên báo sứ điệp ánh sáng chiếu niềm hy vọng ơn cứu chuộc cho con người, là hình ảnh ẩn chứa động lực giúp cho tinh thần có chí khí sức lực vươn lên vượt qua những thử thách cám dỗ hướng chiều theo cảm quan thị hiếu.
Lễ Chúa Giesu biến hình 6.8.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Chúa Giêsu là bánh ban sự sống.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lúa gạo, cơn bánh, rau củ qủa là lương thực căn bản để nuôi dưỡng sức khoẻ thân xác mà con người xưa nay cần có hằng ngày.
Nhưng con người còn có nhu cầu lương thực khác hơn thế nữa cho đời sống. Nhu cầu cho đời sống tinh thần tâm linh.
Cơm bánh, mà chúng ta cầu xin hằng ngày khi đọc Kinh Lạy Cha: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày!, còn nhiều hơn là lương thực nuôi sống thân thể cho khỏi bị đói khát.
Lương thực còn là hình ảnh biểu tượng diễn tả về tình yêu thương, sự nâng đỡ an ủi, được công nhận đề cao, quê hương xứ sở…Không có những giá trị này, đời sống con người không trọn vẹn hạnh phúc.
Con người ngay từ khi còn là một em bé chào đời tuổi thơ, luôn cần không duy chỉ sữa lương thực cho bao tử, cho tay chân gân cốt thân xác khoẻ mạnh phát triển lớn lên, mà còn cần cả mối tương quan tình yêu thương liên đới tràn đầy gía trị qúy báu con người nữa.
Phúc âm thuật lại Chúa Giêsu nói Ngài là bánh ban sự sống.( Ga 6, 34).
Vậy đâu là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa ý nghĩa tâm linh tinh thần trong đó?
Ngày xưa dân Do Thái trên đường từ bên Ai cập trở về quê hương đất nước Chúa hứa ban, đi trong sa mạc họ đói vì thiếu bánh lương thực để ăn. Thiên Chúa đã làm phép lạ cho họ có bánh ăn là Manna từ trời rơi xuống làm lương thực ăn cho không còn đói nữa.
Mấy ngàn năm sau, Chúa Giêsu đã mạnh dạn nói với dân Do Thái: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ".
Với lời qủa quyết này, Chúa Giêsu so sánh ví mình là bánh Manna, mà ngày xưa Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái trong sa mạc. Họ có Manna để ăn cho được no bụng không bị đói nữa về thân xác. Nhưng họ vẫn phải chết.
Bánh lương thực Manna là chính Chúa Giêsu từ trời xuống trần gian, bánh sự sống, nếu ai ăn bánh này sẽ không phải chết., nhưng có sự sống đời đời.. Bánh mà Chúa Giêsu cho chính là thân xác người cho sự sống trần gian. ( Ga 6,50- 51)
Ngày xưa dân Do Thái giữa sa mạc hoang vu trong đói khát đã được Thiên Chúa cung cấp Manna cho ăn khỏi bị đói, có sức mà đi tiếp về miền đất hứa.
Bây giờ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa từ trời xuống sa mạc trần gian giữa cảnh sa mạc nghèo nàn tinh thần trống rỗng khô cằn, sa mạc đời sống có nhiều chao đảo bất an nghi nan về tinh thần về cảm quan. Sa mạc bị bỏ rơi thiếu vắng tình yêu thương, sa mạc bị khinh miệt phân biệt tủi hổ, sa mạc sống trong thất vọng thua thiệt… nên lời Chúa Giêsu nói là bánh ban sự sống trở thành bánh lương thực cho con người đang sống trong tình trạng sa mạc như thế.
Chúa Giêsu đồng hóa mình với bánh lương thực, khi hy sinh dâng hiến thân xác mạng sống cho trần gian. Ngài trở nên bánh nuôi dưỡng linh hồn con người, khi chịu chết bị đóng đinh treo trên cây thập tự.
Sự hy sinh chịu chết trên thập tự vì tình yêu thương nhân loại không điều kiện đã trở thành bánh lương thực nuôi dưỡng đức tin linh hồn con người.
Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu là hình ảnh dấu hiệu tình yêu của Ngài cho trần gian, mà khi xưa đã được thực hiện trọn vẹn trên cây thập tự qua sự chết của Ngài.
Sự sống Chúa Giêsu ban qua tấm bánh lương thực tình yêu của Ngài là sự chung hợp liên kết giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người.
Nên khi người tín hữu Chúa Kitô tiếp nhận tấm bánh lương thực tình yêu thần linh Chúa Giêsu, là sống trong mối tương quan liên hệ gặp gỡ với Chúa Giêsu. Như ngày xưa Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng nước Thiên Chúa ở trần gian đã gặp gỡ thông thương giao hảo với con người.
Cùng qua tấm bánh lương thực tình yêu thần linh Chúa Giêsu họ nhận tìm ra phương hướng cho đời sống hướng về Thiên Chúa, về trời cao.
Và như thế cũng cảm nhận ra sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu. Sự chết không còn là điểm chấm hết của đời sống. Nhưng còn có sự sống sau sự chết nữa, mà Chúa Giêsu qua tấm bánh lương thực tình yêu thần linh trao tặng con người niềm hy vọng cùng được dự phần vào sự sống vĩnh cửu mai sau.
Niềm hy vọng có được sự sống vĩnh cửu mai sau cho phép con người ngay cuộc sống trên trần gian mơ ước về một tương lai có được sự sống trọn vẹn hạnh phúc nơi biển lòng thương xót của Thiên Chúa.
Mỗi khi người tín hữu Chúa Kitô tham dự dâng thánh lễ Misa tạ ơn Thiên Chúa, và tiếp nhận tấm bánh lương thực Thánh Thể tình yêu Chúa Giêsu, họ không cùng chỉ chia sẻ với nhau một tấm bánh lương thực, nhưng họ còn thông tin cho nhau về hình ảnh mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa nữa, Đấng là sự sống vĩnh cửu mai sau cho con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Olympia mùa Hè 2021
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Theo chu kỳ mỗi bốn năm, thế giới lại tổ chức đại hội điền kinh Olympia mùa Hè. Thể thao điền kinh Olympia mùa Hè lẽ ra đã diễn ra từ ngày 24. Tháng Bẩy đến 09. Tháng Tám năm 2020 ở Tokyo bên nước Nhật Bản.
Nhưng vì đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên thế giới, nên Olympia 2020 phải dời lại tổ chức trễ hơn một năm từ ngày 23.07. – 08.08. 2021. Và để đề phòng bảo vệ sức khoẻ cho mọi người, đại hội Olympia 2021 kỳ này không có khán giả tham dự nơi các cầu trường.
Đại hội thể thao điền kinh Olympia dành cho các vận động viên thể thao được các quốc gia trên thế giới cử đến thi đấu tranh tài. Các vận động viên Olympia là những nhà chơi thể thao chuyên nghiệp khoẻ mạnh cường tráng nhất trong đất nước của họ. Vì thế Olympia quy tụ những nhà chơi thể thao tinh hoa nhất hoàn cầu cho những trận thi đấu tranh tài nơi các cầu trường.
Biểu tượng Olympia : Ngọn đuốc và lá cờ với 5 vòng tròn
Lễ hội thể thao Olympia theo nghi thức truyền thống xưa nay bắt đầu với lễ khai mạc cuộc rước ngọn đuốc cháy sáng cùng với cuộc diễn hành của các cầu thủ thể thao tiến đi vào cầu trường lễ đài chính. Ánh lửa của ngọn đuốc được đốt thắp từ nơi địa danh Olympia bên nước Hy lạp.
Ngọn lửa Olympia không là lửa bật lên từ hộp diêm quyẹt, hay do điện từ. Nhưng là lửa ( linh thiêng) thiên nhiên từ mặt trời chiếu xuống ngay nơi đã diễn ra Olympia đầu tiên thời cổ xa xưa bên nước Hylạp.
Lửa Olympia được lấy từ ánh lửa mặt trời tại nơi đền thờ thần Hera bên nước Hylạp - đền thờ và sân vận động đầu tiên Olympia này bây giờ chỉ còn lại những tàn tích cột trụ tường vách đổ nát.
Một vài tháng trước khi khai mạc Olympia, những nữ diễn viên mặc lễ phục truyền thống xa xưa đóng vai là những nữ tư tế thời cổ xưa, trong một nghi lễ theo tập tục lễ nghi tôn giao thờ thần thánh cổ xưa, cùng với sự trợ giúp của một tấm gương phản chiếu ánh sáng mặt trời, sẽ lấy lửa từ đó cầm mang chạy khắp vận động trường Olympia thời cổ xa xưa ở Hylạp.
Sau đó ngọn đuốc lửa Olympia sẽ được trao cho các vận động viên thể thao đã được cắt cử, chạy mang tiếp đi khắp nơi xuyên qua các quốc gia. Và sau cùng ngọn lửa Olympia sẽ về tới vận động trường nước đăng cai tổ chức Olympia vào ngày lễ khai mạc. Ngọn lửa Olympia sẽ được đốt cháy trong suốt thời kỳ diễn ra Olympia trong hai tuần lễ.
Lễ hội thể thao Olympia còn có năm vòng tròn vẽ treo trên lá cờ Olympia nữa với năm mầu sắc khác nhau cũng nói lên những đặc tính của Olympia:
Hoà bình, Vui tươi, Khoẻ mạnh, Chân thành và Tình bằng hữu.
- Vòng tròn mầu xanh da trời biểu tượng cho Châu đại dương hay còn gọi là Úc châu.
- Vòng tròn mầu vàng biểu tượng cho Á châu
- Vòng tròn mầu xanh lá cây biểu tượng cho Âu châu
- Vòng tròn mầu đen biều tượng cho Phi châu
- Vòng tròn mầu đỏ biểu tượng cho Mỹ châu
Và trong tranh tài thi đấu thể thao châm ngôn được đưa ra làm kim chỉ nam cho thành tích là citius, altius, fortius – nhanh hơn, cao hơn và mạnh hơn.
Khía cạnh tinh thần tôn giáo
Olympia là hội lễ thể thao ở bên Hy Lạp để tôn kính các Thần Xoi ( Zeus) của họ. Người Hy Lạp ngày xưa tổ chức lễ hội thi đấu thể thao vừa để giải trí và vừa nhằm luyện tập thân xác nên tráng kiện.
Và họ không chỉ chú trọng đến thể thao đến giải trí, nhưng họ còn chú trọng đến khía cạnh đạo giáo tinh thần. Vì thế giữa các cuộc thi đấu thể thao họ dành giờ rước kiệu ca hát tôn kính các Thần Thánh của họ.
Họ đặt ra luật lệ trong suốt thời gian diễn ra các cụôc tranh tài thể thao không được gây ra chiến tranh.
Các vận động viên tham dự các cuộc tranh tài phải có bộ mặt vui tươi niềm nở bặt thiệp.
Và khi luyện tập cũng như khi thi đấu họ phải biểu lộ sự chân thành, cái đẹp, cái hay của nghệ thuật, không được chơi xấu gây thương tích hay gian lận.
Vì thể thao là môn nghệ thuật nói lên sự dẻo dai uyển chuyển của thân xác cùng tinh thần trí tuệ. Và qua hội lễ thi đấu Olympia có những cuộc gặp gỡ trao đổi tạo nên tình thân hữu với nhau.
Những lễ nghi phụng vụ, nếp sống cầu nguyện, thi hành luật lệ Chúa trong Giáo Hội, có thể nói, là môn thể thao giúp luyện tập tâm hồn có đời sống lành mạnh thánh đức trước hết, và sau hết để ca tụng tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống, nguồn mọi ân phúc cho con người. Và qua đó con người cùng củng cố đời sống tình liên đới, nếp sống hòa bình giữa nhau thêm khắng khít hơn.
Nhân loại từ hơn một năm nay đang sống trong cơn khủng hoảng bị đe doạ do đại dịch Covid 19 truyền nhiễm làm cho sức khoẻ thể xác cũng như tinh thần bị trì trệ mệt mỏi...Vì thế con người hơn khi nào hết cần sức khoẻ cho thể xác cũng như tinh thần, nếp sống bác ái tình liên đới. Có vậy đời sống không bị buông xuôi chìm xuống, dù có mệt mỏi, nhưng có sức mạnh tinh thần chí khí đứng dậy vươn lên.
Tâm tình lời cầu nguyện chung cũng như riêng tư hướng lên Đấng Tạo Hoá càn khôn là nguồn sự sống cùng mọi ân phúc chúc lành luôn cần thiết cho đời sống con người vào mọi thời điểm hôm qua cũng như hôm nay và ngày mai.
Châm ngôn Olympia
Bá Tước Pierre De Coubertin ( *1863 Paris - + 1936 Genf) khi đưa phương án ra phục hồi lại thế vận hội thể thao Olympia năm 1894 đã có suy tư châm ngôn làm nền tảng cho những thi đấu tranh tài của Olympia:
“Điều quan trọng nhất trong Olympia không phải là chiến thắng. Nhưng là cùng tham dự.
Cũng như điều quan trọng nhất trong đời sống không phải là chiến thắng đoạt phần thưởng. Nhưng là sự cố gắng đạt tới đích điểm.
Điều quan trọng nhất không phải là chinh phục chiếm đoạt. Nhưng là chiến đấu tốt.”
Thánh Phaolô ví cuộc sống trần gian của con người chúng ta là một cuộc chạy đua trên vận động trường trên đường về quê hương trên trời với Thiên Chúa.
Phần thưởng đạt được không phải huy chương vàng bạc hay đồng. Nhưng là triều thiên chiến thắng không bao giờ hư nát, tức là đời sống hạnh phúc trên trời. ( 1 cor 9, 24-25).
Olympia mùa Hè 2021
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh biến hoá ra nhiều
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào những ngày tháng giữa mùa hè nơi nhiều cánh đồng bắt đầu mùa gặt hái lúa. Những nhà sống nghề nghiệp, những nhà xay bột làm bánh hy vọng trông mong một mùa gặt hái thu lượm được nhiều lúa thóc làm lương thực căn bản cất giữ vào kho chứa.
Khi một mầm nhỏ bé nẩy nở phát triển từ một hạt lúa giống được gieo vãi xuống nền đất lớn thành một cụm cây lúa cao chừng hơn kém 50 cm lá rũ xuống mềm dẻo xanh tươi cùng chung sống chen chúc với những cụm cây lúa khác mọc sát bên cạnh nhau. Và từ cụm cây lúa đó phát triển trổ sinh ra những chùm bông lúa mang lại những hạt lúa mẩy nặng trĩu cho tới khi những hạt lúa lớn chín vàng đợi mùa thu hoạch.
Một sự lạ lùng trong thiên nhiên đã âm thầm từ từ biến hóa phát triển diễn xảy ra từ một hạt lúa giống bé nhỏ thành những bông lúa mang nặng trĩu với những hạt lúa chín vàng theo cấp số nhân thành 30, 50, 100… hạt lúa khác.
Phải đó là một phép lạ nhiệm mầu của thiên nhiên cho nhu cầu lương thực nuôi sống con người cùng cả thú vật.
Tương tự như vậy cũng thấy nơi những loại cây cối loài thảo mộc mang lại bông hoa trái. Như một hạt giống táo bé nhỏ biến hóa phát triển lớn lên thành một cây táo to lớn với những cành lá chùm hoa kết nặng trĩu hàng chục trái táo to nặng thơm ngon mỗi mùa thu hoạch.
Từ một hạt hoa hướng dương bé nhỏ bằng một hạt cát cũng biến hóa nẩy sinh ra một cây hoa to cao lớn có đường kính to hơn kém gần 04 cm và chiều cao hơn kém gần hai mét vươn lên trời không gian. Có cây hướng dương tỏa ra hai ba nhánh phụ. Rồi cây hoa đơm nở bông hoa tròn to có đường kính cỡ 20 cm mầu vàng ánh sáng mặt trời và nẩy sinh không biết bao nhiêu hạt hoa nhỏ nữa mới trong lòng nhụy hoa là thực phẩm cho chim trời, làm chất liệu chế biến thực phẩm, như dầu ăn... Khu vực có cây bông hướng dương với những hoa vàng sáng mang lại không khí dáng vẻ tươi mát dịu dàng cho khu vườn thiên nhiên.
Tất cả những cây cối thảo mộc, bông hoa kết trái phát triển biến hóa thành nhiều gấp bội theo cấp số nhân trên mặt đất đều nẩy sinh từ một khởi đầu bé nhỏ âm thầm như vô hình không nhìn thấy.
Con đường hay qúa trình phát triển sự sống nơi con người cũng có tiến trình biến hóa như vậy. Một tế bào mầm sống nhỏ bé li ty nơi thân thể người mẹ được kết nối liền hoà nhập với một tế bào mầm sự sống nhỏ bé li ty nơi thân xác người cha theo con đường biến hóa tự nhiên trở thành một bào thai sự sống mới. Bào thai sự sống đó dần phát triển lớn thành một con người – em bé- với đầy đủ cơ quan chức năng.
Em bé đó sau khi đủ ngày tháng do Đấng Tạo Hóa đã ấn định đi ra khỏi cung lòng mẹ mở mắt chào đời với các cơ quan bộ phận thân xác hình hài cùng trí khôn tinh thần. Trong dòng thời gian sinh sống em bé sơ sinh phát triển thành trẻ thơ, bạn trẻ, người trưởng thành, người lớn mạnh về thể xác cũng như trí khôn tinh thần trong xã hội con người.
Em bé đó biến hóa phát triển nẩy nở thành người cao lớn khỏe mạnh làm việc xây dựng xã hội, nhưng không phải là như “ bánh hoá ra nhiều”. Mà là một biến hóa sống động với (vật thể) những cơ quan bộ phận, cùng (tinh thần) với những khả năng ý chí, trí khôn, năng khiếu do trời phú bẩm ban cho.
Đây là một tuyệt tác trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Đấng Tạo Hóa càn khôn thực hiện nơi đời sống con người.
Đó là sự lạ lùng. Phải, đó là phép lạ sự biến hoá ra nhiều, mà chúng ta sống trải qua hằng ngày trong đời sống mà không nhìn thấy bằng con mắt thường được.
Cách đây hai ngàn năm Kinh Thánh nơi sách Phúc âm viết thuật lại Chúa Giêsu ngày xưa ở vùng Tabgha bên nước Do Thái, đã làm phép lạ biến hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều cho hàng ngàn người lúc họ đói có đầy đủ thực phẩm ăn no đủ, và sau cùng còn dư thừa tới 12 giỏ thúng. ( Ga 6, 1-15).
Nơi địa danh Tabgha ngày nay có ngôi nhà nguyện kính nhớ phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện. Trên nền cung thánh phía trước bàn thờ có khắc ghép bằng đá hình Mosaic bốn chiếc bánh và hai con cá, bàn thờ kính Chúa Giêsu là chiếc bánh thứ năm, để nhớ lại biến cố ngày xưa Chúa đã làm phép lạ biến 5 chiếc bánh và hai con cá thành lương thực cho năm ngàn người ăn no đủ dư thừa tại nơi này.
Xưa nay khi đọc đoạn Kinh Thánh này thường có những thắc mắc hoài nghi về tính xác thực khả tín của bài tường thuật.
Phép lạ là điều vượt khỏi tầm suy nghĩ của trí khôn, vượt khỏi tầm nhìn con mắt con người. Nhưng đâu là những hình ảnh chất chứa ý nghĩa trong bài tường thuật phép lạ bánh biến hoá ra nhiều?
Những con số viết thuật lại mang nhiều ý nghĩa hình ảnh ý nghĩa biểu tượng: hai con cá và năm chiếc bánh, và 12 thúng.
Con số năm (5) là hình ảnh biểu tượng nói về sự hoàn thiện tròn đầy, đang khi con số hai ( 2) nói về hình ảnh biểu tượng trời và đất. Những hình ảnh biểu tượng này nói lên Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa, cùng chung sống giữa thiên nhiên với con người.
Hai con số 5 và 2 cộng chung lại thành số bẩy ( 7) là con số thánh cũng diễn tả Thiên Chúa thực hiện cho xảy ra trong sự thánh đức.
Các Tông Đồ, sau bữa ăn của phép lạ, thu gom lại được 12 thúng giỏ dư thừa. Con số 12 là hình ảnh biểu tượng nói đến 12 chi tộc dân Do Thái. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người thuộc 12 chi tộc dân Do Thái.
Phép lạ biến hóa bánh ra nhiều do Chúa Giêsu thực hiện cho con người đang lúc họ đói khát lương thực không phải là một màn trình diễn ảo thuật. Nhưng đó là hình ảnh dấu chỉ mang đậm phẩm chất sắc thái linh thiêng thần thánh trong đời sống con người.
Thiên Chúa muốn ngay trong sinh hoạt hằng ngày gặp gỡ con người, và muốn thực hiện hình ảnh dấu chỉ thánh đức giữa con người.
Như văn hào Saint- Exupery có suy tư ” Với trái tim (tâm hồn) nhìn sự thể rõ tốt hơn!”.
Cũng vậy con người có thể nhận ra ý nghĩa ẩn chứa nơi những hình ảnh biểu tượng trong thiên nhiên, trong đời sống con người, mà Đấng Tạo Hóa luôn hằng thực hiện nơi công trình sáng tạo thiên nhiên : những sự nhỏ bé được biến hóa thành sự lạ lùng mang lại hữu ích cho đời sống hằng ngày, bằng tầm nhìn của con mắt trái tim tâm hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Giáo Hội Công giáo nước Đức 2020
- Viết bởi Dân Chúa
Giáo Hội Công giáo nước Đức là một trong những Giáo hội Công giáo bên Âu Châu có bề dầy lịch sử từ hơn 10 thế kỷ nay. Và được biết đến là một Giáo Hội có khoa nghiên cứu về thần học, về kinh thánh sâu sắc cùng tiến bộ phát triển mạnh, nhất là từ thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Nhưng bên cạnh đó cũng có những hình ảnh tiêu cực. Hệ thống luật lệ pháp lý xã hội cho phép người tín hữu có quyền ra toà án nộp đơn chính thức xin từ bỏ ra khỏi Giáo hội. Chính vì thế số người xin ra khỏi sinh hoạt Giáo Hội hằng năm xưa nay luôn có ít hoặc nhiều, mà ngôn ngữ truyền thông cho họ là những người quay lưng lại với Giáo Hội.
Lý do xin ra khỏi Giáo hội có nhiều, như tiết kiệm không muốn đóng thuế nhà thờ theo như luật lệ xã hội qui định, xa lạ không muốn sinh hoạt chung trong cộng đồng Giáo Hội nữa, bất mãn với Giáo hội địa phương hay cả với giáo lý chung của Giáo hội…
Họ quay lưng ra khỏi Giáo hội trên mặt pháp lý giấy tờ và Giáo Hội tôn trọng quyền của họ. Hệ qủa là họ không còn được hưởng quyền lợi về các việc mục vụ của Giáo hội nữa, như lãnh nhận các Bí Tích. Dẫu vậy Giáo hội vẫn mở rộng vòng tay, mở cánh cửa đón nhận họ trở lại vào tiếp tục sinh hoạt nếp sống đức tin trong ngôi nhà chung của Giáo hội, khi họ muốn.
Không chỉ số người tín hữu ra khỏi Giáo hội làm hình ảnh Giáo hội lu mờ yếu kém ít đi, nhưng số người tín hữu thực hành tiếp nhận các Bí Tích cũng trên đà suy giảm cũng góp phần làm hình ảnh Giáo hội lu mờ yếu kém thêm.
Theo thống kê vừa được công bố ngày 14.07.2021, trong nước Đức có 22.193.347 người Công giáo, chiếm tỷ lệ 26,7 % dân số toàn nước Đức.
Các Giáo phận ở đây đang dần dần đề ra con đường mục vụ mới thu gọn nhiều xứ liền sát lại với nhau thành một cụm liên giáo xứ cho việc mục vụ, bây giờ còn 9.858 Giáo xứ.
Số Linh mục tổng cộng có 12.565 vị - Năm 2019 có 12.983 vị. Năm 2020 có 56 tân linh mục gồm cả Linh mục triều và Dòng.
Ngoài ra còn có 3.245 Phó Tế vĩnh viễn cùng chung lo việc mục vụ ở các giáo xứ.
Giáo hội Công giáo nước Đức còn có hai cấp người giáo dân gồm cả phụ nữ và đàn ông cùng chung làm việc với Linh mục, với Phó tế nơi các Giáo xứ việc dậy giáo lý hay lo việc bác ái: Cấp 1. hiện có 3245 người, Cấp 2. hiện có 4.426 người. Họ là những người có trình độ học thần học, kinh thánh, giáo luật bậc đại học chuyên môn như các linh mục.
Họ không có chức thánh Phó tế hoặc chức Linh mục. Nhưng họ được Giáo hội tuyển chọn, ủy nhiệm sai đi làm công việc mục vụ nơi các Giáo xứ cùng chu cấp nhà ở và lương bổng hằng tháng, như những người làm ngành nghề chuyên môn.
Cũng theo thống kê năm 2020 vì đại dịch Corana lây lan truyền nhiễm làm ngưng trệ giới hạn cả nếp sống thực hành các nghi lễ nơi thánh đường, nên có sự suy giảm nhiều về :
- Số người tín hữu tham dự thánh lễ ở thánh đường chỉ còn 5,9 phần trăm - năm 2019 là 9,1 phần trăm.
- Số người chịu Bí Tích Hôn phối là 11.018 đôi- năm 2019 là 38.537 đôi.
- Số trẻ em nhận Bí tích Rửa tội 104.610. - năm 2019 có 159.043 em.
- Số bạn trẻ Rước lễ lần đầu 139.752 em - Năm 2019 có 481 em.
- Số đám an táng người qua đời là 236.546 - năm 2019 có 233.937 đám an táng.
- Số người xin vào đạo Công giáo 1.578 người - Năm 2019 có 2.330 người.
- Số người sau khi đã ra khỏi Giáo hội xin trở lại vào Giáo hội 4.358 người - Năm 2019 có 5.339 người.
- Số người xin ra khỏi Giáo hội Công giáo 221.390 người - Năm 2019 có 771 người.
Theo thống kê Tổng giáo phận Koeln ( Cologne) là một Giáo phận lớn về số người Công Giáo bên nước Đức, năm 2020 có 1.868.567 người tín hữu Công giáo. Như thế ít đi 37.335 người so với năm 2019.
Năm 2020 có 17.281 người tín hữu xin ra khỏi Giáo hội ở Tổng giáo phận Koeln - năm 2019 có 24.298 người.
Hình ảnh nếp sống truyền thống trong Giáo hội Công giáo bên nước Đức suy yếu biến thể giảm dần, nhất là thời kỳ những tháng đại dịch bị hạn chế giới hạn, cùng những xì căng đan mang tiếng xấu trong Giáo hội, lại càng làm cho mức suy giảm yếu đi tăng thêm lên, nhất là nơi các người trẻ mất niềm tin nơi Giáo Hội.
Dẫu vậy, nước Đức nói chung, Giáo hội Công Giáo nước Đức nói riêng xưa nay sống chú trọng đến lòng quảng đại nhân đạo bác ái giúp đỡ những người ở những nơi bị nghèo đói, bị thiên tai đe dọa, như lời Chúa nói trong dụ ngôn ngày phán xét chung: Mỗi khi các con làm việc bác ái nhân đạo giúp cho một kẻ hèn mọn bé nhỏ giữa cảnh khốn cùng giữa các con là các con làm cho chính Thầy.
Hình ảnh tiêu cực với những con số tăng giảm như trên thuật viết lại vẽ nên hình ảnh lu mờ gần như đen tối trong nếp sống đạo bên Giáo hội Công giáo nước Đức, khiến phải đăm chiêu tư lự đến hoài nghi lo âu…
Nhưng hình ảnh người dân nước Đức, người Công Giáo nước Đức sống chú trọng thực hành lòng nhân đạo bác ái quảng đại, như Tám mối Phúc Thật của Chúa đề ra, liên đới với người gặp cảnh đời sống khốn khó, là một hình ảnh tích cực rất đáng kính phục, cùng có giá trị cao đẹp trước mặt Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, là khởi nguồn và cùng đích của đời sống con người.
Mùa Kiết Hạ 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Đức Mẹ núi Carmelo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Hội Thánh Công giáo cử hành lễ mừng kính Đức mẹ núi Carmelo vào ngày 16.07.
Lần đầu tiên năm 1386 các nhà Dòng Carmelo bên Anh quốc mừng lễ kính Đức mẹ Maria là quan thầy của Dòng Carmelo.
Từ thế kỷ 15. lễ mừng kính này được ấn định vào ngày 16. Tháng Bảy hằng năm.
Và trong dòng thời gian lễ này dần lan rộng trong Hội Thánh Công giáo hoàn cầu từ 1726 dưới thời Đức Thánh Cha Benedict XIII.
Từ năm 1960 ngày lễ mừng kính chỉ còn là ngày lễ nhớ.
Vậy đâu là nguồn gốc lý do khiến Carmelo trở thành nơi thánh ở trong nước Do Thái cũng như có tiếng tăm đạo đức với lòng sùng kính Đức mẹ trong toàn thể Hội Thánh?
Địa danh Carmelo là một chuỗi dẫy núi đá vôi trải dài từ vùng Samaria đến bờ biến Địa Trung Hải bên nước Do Thái thuộc địa hạt thành phố Haifa.
Trong Thánh Cựu ước nói đến Carmelo là một hình ảnh khô chồi
„Từ Xi-on, ĐỨC CHÚA gầm lên,
và từ Giê-ru-sa-lem, Người lên tiếng;
đồng cỏ của mục tử nhuốm màu tang tóc,
đỉnh núi Các-men nay đã héo tàn.“ (Sách Tiên Tri Amos 1,2)9
Và cũng có hình ảnh đồng cỏ xanh tươi:
„Ta sẽ dẫn Ít-ra-en về đồng cỏ của nó,
để nó được ăn cỏ ở Các-men và Ba-san,
trên núi Ép-ra-im và Ga-la-át, nó sẽ được thoả thuê.“ (Tiên tri Gieremia 50,19).
Vùng núi Carmelo nổi danh có nhiều hang động, nên ngày xưa có nhiều vị ẩn sĩ đã tìm đến những hang động nơi đây sống đời ẩn dật. Tiên tri Elia và học trò của ông là Elise đã sống lui vào ẩn dật hang động nơi vùng Carmelo. Và vì thế vùng này trở thành nổi tiếng.
Lịch sử Carmelo gắn liền với khuôn mặt đại tiên tri Elia.Vị thánh tiên tri này sống vào thế kỷ 9. trước Chúa giáng sinh.
Sách Các Vua (1 Các Vua 18,19-40) tường thuật chi tiết Tiên tri Elia đã thách thức các Thầy cả ngoại giáo Baal - 450 vị - trong một cuộc thi diễn xem Thiên Chúa của ai linh thiêng thật sự qua lời cầu nguyện khiến cho lửa từ trời xuống thiêu đốt những tế lễ con vật chất trên đống củi.
Những lời cầu nguyện lễ nghi của 450 Thầy cả Thần Baal đã không khiến được lửa rừ trời xuống châm thiếu đốt những con vật dùng làm lễ tế chất trên đống củi
Trái lại Thiên Chúa Giave đã nhận lời cầu nguyện của tiên tri Elia cho lửa từ trời cao xống đốt chết những con vật trên củi. Thế là chiến thắng đã về phía Tiên tri Elia. Cùng chứng tỏ cho con người thấy Thiên Chúa Giave của Tiên tri Elia là Thiên Chúa linh thiêng có quyền năng thật trên tất cả.
Ngày nay còn di tích hang động nơi Tiên tri Elia ngày xưa sinh sống trong đó. Và trong thánh đường kính Đức mẹ Carmelo bên dưới tầng hầm có bàn thờ, nơi ngày xưa Tiên tri Elia đã thách thức các thầy cả Baal, và Thiên Chúa Giave đã cho lửa từ trời xuống thiêu đốt những lễ vật qua lời cầu nguyện của Elia.
Vị đại tiên tri Elia là con người, nhưng ông không trải qua sự chết như những con người khác. Trái lại Ông được Thiên Chúa cho đưa rước về trời lúc còn sinh sống trước mặt học trò mình:
„Ông Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được."11 Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc.12 Thấy thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en! " Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh.13 Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.“ (2 Các Vua 2, 10-12).
Ngay thời Hội Thánh lúc ban đầu, sau khi Chúa Giesu trở về trời cũng đã có nhiều vị ẩn sĩ tìm đến những hang động vùng Carmelo sống đời ẩn tu xa tránh thế gian trông chờ ngày Chúa đến. Rồi nhiều Dòng tu bên Âu Châu cũng tìm đến nơi này vùng đất thánh thành lập Dòng sống đời chiêm niệm.
Thánh Simon, vị tu sĩ Dòng ẩn tu Carmelo, là người có lòng yêu mến sùng kính Đức mẹ Maria nữ vương trời đất , vào thế kỷ 13. được cử sang đất Thánh Do Thái vùng Carmelo làm Bề Trên. Bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn, vì những nghi hoặc giữa các Dòng Tu đang nở rộ phát triển nơi vùng đất Thánh, nên vị tu sĩ Bề Trên Simon đã trong dòng nước mắt cầu khấn xin Đức mẹ phù hộ gìn giữ che chở Dòng Carmelo của mình.
Và ngày 16.07.1251 đức mẹ Maria đã hiện ra với ông với hào quang ánh sáng trao cho ông hai mảnh vải nhỏ có dây nối liền để quàng đeo vào cổ trước ngực và sau lưng và nói:
„Con hãy tiếp nhận hai tấm vải có dây nối để đeo này như dấu hiệu Dòng của con. Đó là dấu hiệu ân đức đặc hiệt cho con và các người con của Carmelo. Người nào mang đeo áo ân đức này trong khi hấp hối qua đời, họ sẽ được cứu thoát khỏi lửa hoả ngục đời đời. Đây là dấu chỉ sự cứu rỗi chữa lành, là chiếc áo gìn giữ bảo vệ trước các nguy khốn đe dọa, là vật cầm giữ hoàn chuyển cho bình an và bảo vệ đặc biệt.“
Và từ đấy chiếc Áo Đức Bà Carmelo thành hình trong nếp sống đạo đức người Công giáo.
Và tập tục đạo đức tốt lành mang đeo Áo Đức Bà Carmelo được phổ biến sống động rộng rãi trong Hội Thánh Công Giáo.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nhóm hai người được sai đi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống ở các vị trí điều hành thường có hai người được tuyển chọn đứng đầu, như Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thủ tướng và phó Thủ tướng, Chủ tịch và Phó chủ tịch, Giám đốc và Phó giám đốc…
Trong mỗi gia đình có vợ và chồng, cha và mẹ. Nơi các xứ đạo có cha chính xứ và cha phó.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng đã sai từng hai Môn đệ đi rao giảng giáo lý ( Mc 6,7)
Ngày Chúa Giêsu vào thành Giêrusalen, ngài cũng sai hai môn đệ đi kiếm mượn dắt con lừa về để cho ngài cỡi. ( Mc 11,1..).
Để dọn bữa Tiệc ly ngày lễ bánh không men, Chúa Giêsu cũng sai hai môn đệ đi chuẩn bị dọn phòng để cùng các môn đệ khác ăn bữa tiệc ly. ( Mc 14,13).
Sau khi sống lại Chúa Giêsu đã cùng đồng hành gặp gỡ với hai môn đệ đi làng Emmaus. ( Lc 24,13.
Phải chăng đó là sự tình cờ, hay còn có nguyên do nào khác hơn nữa?
Ngay từ thời cổ xa xưa trong luật lệ Do Thái như sách đệ nhị luật viết phải cần có hai nhân chứng mới được. ( Sách Đệ nhị Luật 19,15).
Ông Kohelet, thầy dậy sự khôn ngoan đã viết theo kinh nghiệm thực tế đời sống:
„ Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn.10 Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả !“( Sách Giảng viên 4,9-10).
Chúa Giêsu đã tin tưởng vào sự hỗ tương kinh nghiệm như thế trong đời sống con người, nên ngài sai từng hai người cùng đi làm công việc mục vụ chung rao giảng giáo lý nước Thiên Chúa.
Vào thời Giáo hội ban đầu sau khi Chúa Giesu trở về trời, hai Ông Tông đồ Phero và Gioan cùng nhau lên đền thờ Gierusalem cầu nguyện và cùng làm công việc truyền giáo rao giảng chung với nhau. ( Cv 3,1). Rồi hai vị này cũng đại diện các Tông đồ anh em đến vùng Samari thi hành phận vụ việc truyền giáo nơi đó. ( Cv 8,14).
Hai Tông đồ Barnabe và Phaolô sát cánh cùng nhau đi làm công việc truyền giáo sang miền Antiochia. ( Cv 13,14).
Việc sống đức tin vào Chúa, việc truyền giáo bắt đầu từ tổ ấm gia đình nơi hai vợ chồng trước hết thực hành nếp sống đức tin đọc kinh cầu nguyện, và dần cùng chung với con cái gia đình, rồi lan rộng ra đến những người cùng thôn xóm, cùng làng mạc.
Thuở ban đầu sau khi Chúa Giêsu về trời, các tín hữu Chúa Kitô chưa có nhà thờ để đọc kinh dâng lễ cầu nguyện. Nhưng họ thường tụ họp nhau ở một nhà riêng của một người tín hữu, rồi cùng nhau đọc kinh thánh, học hỏi giáo lý và cùng nhau cử hành nghi lễ phụng vụ bẻ Bánh cầu nguyện. Qua đó họ giúp nhau giữ vững đức tin vào Chúa, nguồn hy vọng bình an cho đời sống.
Vì thế gia đình là ngôi thánh đường tiên khởi cùng quan trọng cho đời sống đức tin của con người.
Ngày xưa khi sang truyền giáo bên đất nước Việt Nam, các Vị Thừa sai khuyến khích người giáo hữu Chúa Kitô đọc kinh cầu nguyện hằng ngày ở gia đình mình.
Trong thời buổi lúc này thế giời đang trong cơn khủng hoảng, vì bị đại dịch do vi trùng Corona lây lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ gây bệnh nạn cùng tử vong, khiến cho đời sống công cộng bị giới hạn không chỉ về kinh tế, văn hóa, mà còn cã lãnh vực tôn giáo nữa.
Sự cấm cách hay giới hạn lúc này vì để bảo vệ sức khoẻ con người, không còn có cơ hội cho người tín hữu Chúa Kitô đến thánh đường dâng lễ cầu nguyện như khi trước. Nhưng căn nhà riêng mỗi gia đình lại trở nên ngôi thánh đường quan trọng cùng sống động, khi cha mẹ con cái cùng nhau đọc kinh cầu nguyện. Và như thế họ giúp nhau củng cố đức tin vào Chúa vượt qua cơn hoang mang khủng hoảng trong đời sống.
Và đó cũng là hình ảnh ngày xưa Chúa Giêsu sai cử từng hai môn đệ đi rao giảng nước Thiên Chúa, để họ cùng nâng đỡ nhau, giúp nhau thêm can đảm. Và có cơ hội cùng nhau trao đổi kinh nghiệm việc thành công cũng như khi gặp thất bại.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh cái dằm đâm vào thịt.( 2 cor 12, 7)
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người xưa nay ai cũng hằng cầu xin mong muốn có được mạnh khoẻ hồn xác. Nhưng trong đời sống lại có nhiều nghịch cảnh xảy đến khiến thân xác cũng như tinh thần trở nên yếu nhược đau bệnh. Và có khi đưa đến hậu qủa không tốt đẹp, khiến đời sống bị giới hạn. Vì gân cốt chân tay hay cơ quan trong người bị bệnh tật biến chứng kinh niên, hay tùy theo thời gian tuổi tác đời sống…
Có người khi bị vướng mắc vào nghịch cảnh xảy ra như thế, có tầm nhìn suy nghĩ cho đó là một thử thách cho đời sống, nhất là về lòng tin, về ý chí. Và từ đó suy tìm một con đường sống cho thích hợp như một lối thoát tự cứu chữa mình, để mong có niềm vui đời sống.
Nhưng cũng có người chỉ biết kêu than trách móc cho đó là số phận đời sống hẩm hiu, rồi sinh ra mệt mỏi chán chường muốn bỏ cuộc buông xuôi.
Thánh Phaolô diễn tả tình trạng nghịch cảnh đó là „ cái dằm đâm vào thịt“.
Không biết „cái dằm gì đâm vào thân thể“ đời Thánh Phaolô là cái gì. Nhưng Ông chân nhận đã than vãn hao tổn sức lực tranh luận cầu xin với Thiên Chúa:„ Đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. „
Và như thế chính Phaolo cũng đã thắc mắc tự hỏi : Tại sao tôi lại bị thử thách nặng nề như thế?
Tâm tư thắc mắc kêu than của Ông đã được lắng nghe. Và câu trả lời cho số phận đời ông thắm đượm sự an ủi phấn chấn:
„ Nhưng Người phán với tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối“
Câu trả lời của Thiên Chúa vang lên cho Phaolô: con đừng lo, dù con có gặp nghịch cảnh trong đời sống, Ta luôn có mặt bên cạnh con. Ta sẽ ban cho con đủ sức mạnh, cho con có ân sủng đặc biệt trong cung cách sống, và lời con rao giảng có sức thuyết phục người khác.
Và Thánh Phaolô đã rút ra bài học hữu ích cho đời sống mình từ những yếu đuối nghịch cảnh:
„ Vậy tôi vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.“
Trong nghi nan thắc mắc vì phải chịu đựng nghịch cảnh như bị tê liệt, nhưng Thánh Phaolo cho đó là sự thử thách. Ông xác tín rằng sức mạnh do từ Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa là bến bờ sự an ủi, sự vững chắc giúp tinh thần vượt qua cơn khốn khó khủng hoảng.
Nhưng làm sao Thánh Phaolô lại có thể qủa quyết mạnh mẽ „ Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh“? Hai thái cực qúa đối nghịch nhau!
Sự yếu đuối có thể là một cơ may, khi không cần thiết phải có bề mặt bên ngoài. Nên „ cái dằm đâm vào thân thể“ cũng có thể là một trạng sư bào chữa chống lại tất cả những hào nhoáng bề mặt bên ngoài để biểu hiệu sức mạnh và sự hoàn hảo, chống lại ý tưởng phô diễn làm ra vẻ hoàn mỹ cao sang, và sự khao khát về sự hoàn thiện tuyệt đối.
Trong đời sống con người xưa nay luôn vướng vấp vào nghịch cảnh „ cái dằm“ đâm vào đời sống. Nhưng quan trọng là cung cách sống tiếp cận với nó. Có thái độ cung cách tìm ra con đường, bài học tích cực, để đi ra khỏi vướng trở đó giúp cho có ý chí sức mạnh vươn lên.
Hay thái độ chỉ dừng lại nơi điểm đó, và sau cùng buông xuôi bỏ rơi mặc kệ cho đời sống trôi đi ra sao. Đây là cung cách tiêu cực dậm chân tại chỗ và đi giật lùi.
Từ hơn một năm rưỡi nay thế giới lâm vào hoàn cảnh khủng hoảng „cái dằm đâm vào thân thể“ vì đại dịch vi trùng Corona truyền nhiễm lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Cơn khủng hoàng đó kéo dài làm tê liệt ngưng trệ các sinh hoạt kinh tế, văn hóa, tôn giáo xã hội con người.
Nhận chân ra hình ảnh cơn khủng hoàng nguy hiểm đen tối đó, con người không dậm chân tại chỗ than trách, hay tìm cách coi nhẹ phớt lờ bỏ qua.
Không tiêu cực như thế. Trái lại con người luôn hằng báo động cảnh giác, và tìm ra những biện pháp phòng ngừa bảo vệ, cũng như tìm chế biến phương thuốc chữa trị.
Như thế là đã nhận chân ra sự yếu đuối bấp bênh nỗ lực đi tìm con đường phương cách vừa sống chung với „cái dằm“ đại dịch gây ra khủng hoảng, cùng vừa tìm phương thuốc tốt chữa trị ngăn ngừa vi trùng bệnh dịch, để sống vượt qua.
Cái dằm gây ra khủng hoảng khốn khó đè bẹp làm cho suy yếu đi. Nhưng lại có lực thúc đẩy tâm trí nẩy sinh sự sáng tạo mới, như Thánh Phaolô nói lên kinh nghiệm tâm linh qúy báu: khi tôi yếu là lúc tôi mạnh!
Người có lòng tin tưởng luôn hằng hướng tâm hồn lên trời cao xin ơn trợ giúp che chở của Thiên Chúa ban sức mạnh bằng an cho hồn xác.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chuyến xe buýt đời tu trì
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cách đây 54 năm ( 1967) chú Trần Mạnh Nam đã vào sống học tập trong trường Hội Dòng Salesien Don Bosco bên Việt Nam
Rồi bảy năm sau, (1974), chú dự tu Trần Mạnh Nam đã tuyên khấn dấn thân trở thành tu sĩ trong Hội Dòng Salesien Don Bosco.
Và cách đây một phần tư thế kỷ, 1996-30.06.- 2021, Thầy Dòng Don Bosco Daminh Trần Mạnh Nam đã cầm cây nến cháy sáng tiến lên cung thánh bàn thờ Thiên Chúa nhận lãnh thánh chức Linh Mục: Lạy Chúa, này con đây!, ở Beuron bên nước Đức
Và từ 07 năm nay Cha Trần mạnh Nam được cắt cử làm việc mục vụ cho người Công Giáo Việt Nam rải rác khắp bốn giáo phận nước Đức: Limburg, Mainz, Speyer, và Freiburg.
Vùng mục vụ trải dài rộng khắp bốn Giáo phận như thế là một thách thức đòi hỏi hy sinh dấn thân thể lý „ cơ bắp“, cùng tinh thần rất nhiều. Vì hằng tuần, có khi trong tuần nữa, cha phải lái xe đi tới các Cộng đoàn, gia đình người giáo hữu, ban các Bí Tích, thăm hỏi và cùng sinh hoạt chung sống với những người tín hữu Chúa Kitô những nơi đó.
Cha hằng dí dỏm ca ví chiếc xe của cha có đầy đủ dụng cụ phụng vụ như một phòng áo lưu động, và cũng có những ngăn chứa thực phẩm như một nhà bếp lưu động!
Như thế Cha có nếp sống „ mobil“ lưu động dọc đường gío bụi!
Như cha thuật kể lại, hầu như hằng tháng phải rong ruổi lái xe đi làm việc mục vụ tổng cộng năm ngàn cây số. Hình ảnh cha lái xe đường trường liên tục như vậy nói lên sự hy sinh quảng đại không quản ngại mệt nhọc cho công việc mục vụ trong khu vườn cánh đồng của Chúa ở trần gian.
Và hình ảnh này còn nói lên chiều sâu lòng đạo đức của người được sai đi làm việc mục vụ.
Vậy đâu là căn rễ ý nghĩa việc mục vụ đó?
Ngày xưa Thiên Chúa khi kêu gọi Tiên Tri Giêrêmia đã nói với Ông: Con đừng nói, con còn trẻ! Cha sai con đi đâu, con cứ đi; Cha bảo con nói gì, con cứ nói. Con đừng sợ, vì Cha hằng ở cùng con để cứu giúp con ( Gr 1, 7)
Làm việc cho niềm tin và cùng sống niềm tin là bổn phận căn bản của người Linh mục. Nhưng để thực hành bổn phận đó, linh mục cần đến sự cộng tác tiếp tay của mọi người. Linh mục không sống thay niềm tin cho ai, và cũng không thể sống thay cho người khác, hay bắt người khác sống như mình được.
Thiết nghĩ hình ảnh ẩn dụ mang tính sống động cùng nói lên được ý nghĩa đời sống mục vụ của linh mục là hình ảnh bác tài xế lái xe buýt. Bác tài xế lái xe buýt chuyên chở hành khác từ trạm này đến trạm khác đáp ứng theo nhu cầu của họ. Và Bác còn có trách nhiệm giữ cho xe được an toàn cùng sạch sẽ vệ sinh nữa.
Và xe dành cho mọi người. Bác lái xe đưa họ đi đến bệnh viện, ra chợ, đi nhà thờ, đến trường học, đến công viên vườn chơi giải trí, đưa đi du lịch tham quan thắng cảnh, rồi đưa họ trở về nhà.
Họ cần Bác. Và Bác làm công việc chuyển chở cùng đồng hành đó với sự dấn thân hy sinh cùng niềm vui.
Linh mục cũng thế. Trong Hội Thánh nơi các xứ đạo, nơi các giáo đoàn ông là người được tín nhiệm trao cho nhiệm vụ cùng dân Thiên Chúa sống làm nhân chứng cho tình yêu của Chúa. Ông cùng đồng hành với mọi người muốn tìm đến với niềm tin vào Thiên Chúa.
Khi họ có tâm sự vui buồn thắc mắc. Họ đến với linh mục. Và ông là người lắng nghe họ.
Khi họ cần lời an ủi cho tâm hồn. Linh mục là người bạn nói chuyện với họ.
Khi họ cần đến sự trợ giúp của Chúa qua dấu chỉ các phép Bí Tích, dâng lễ cầu nguyện cho. Linh mục là người được Chúa và Hội Thánh uỷ thác làm công việc thánh thiêng mục vụ cho họ.
Người tín hữu có niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng họ cần linh mục, là người hướng dẫn và cùng sống thực hành niềm tin với.
Như Bác tài xế lái xe từ trạm này tới trạm khác đón khách và đổ khách nơi các trạm. Linh mục đón tiếp và tìm đến thăm viếng người cần đến lời an ủi trợ giúp, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, lớn bé, trẻ con người lớn, nam hay nữ, bệnh tật hay khoẻ mạnh.Và sự hiện diện của ông giữa dân chúng là dấu chứng của niềm tin: Thiên Chúa hằng cùng đồng hành với con người.
Dù sống trong khung cảnh văn hóa xã hội Giáo Hội càng ngày trên đà bị tục hóa, gặp những thử thách khủng hoảng, nhưng người tín hữu Chúa Kitô không vì thế mà sao nhãng quên căn rễ đức tin vào Chúa. Trái lại họ luôn cần đến tình yêu, niềm hy vọng thánh thiêng của Chúa cho đời sống.
Vì thế, họ vui mừng có Linh mục được Chúa, được Giáo Hội sai đến thi hành công việc thiêng liêng mà họ mong mỏi chờ đợi. Nên khi có Linh mục đến cùng sinh hoạt mục vụ thiêng liêng, như dâng thánh lễ, họ vui mừng cảm động đón nhận nhu cầu thiêng liêng này.
Nhiều người tín hữu đã không ngần ngại nói lên tâm tư vui mừng mong sao có thánh lễ để cùng tham dự, nhất là vào những dịp gia đình có niềm vui mừng hay đau buồn tang tóc, dịp giỗ chạp cầu nguyện tưởng nhớ đến người thân gia đình đã ra đi trước về đời sau.
Không dám nói tất cả các linh mục từ ngày lãnh chức linh mục là đã đỗ “Bằng lái xe buýt” như các bác tài xế xe buýt đâu. Nhưng niềm tin, tâm hồn rộng mở, lòng phấn khởi trung thành sống cho niềm tin, và sẵn sàng cùng đồng hành với những người cùng đi tìm niềm tin vào Chúa nơi linh mục, có khác chi đi tìm bác tài xế có “Bằng lái xe buýt” đâu!
Xe buýt khi chạy cần phải có năng lượng xăng dầu nhớt, khí gas hay điện. Bác tài xế hằng canh chừng để xe lúc nào cũng có đủ năng lượng cần thiết cho xe. Sự trợ giúp của Thiên Chúa là “năng lượng” cho niềm tin của chính linh mục và cho mọi người. Đó là đời sống liên kết hiệp thông với Đấng là nguồn sự sống, nguồn năng lượng cho tâm hồn.
Không dám nói linh mục là người phải có năng khiếu thu hút quần chúng. Nhưng một linh mục có được, do Chúa ban cho, khả năng có sức lôi cuốn tập họp mọi người lại. Nhất là gây được hào khí niềm vui phấn khởi nơi các người trẻ, trong các buổi lễ sinh hoạt nghi thờ phượng Chúa, là điều tốt, hữu ích và rất đáng quý chuộng.
Mỗi người đều được Thiên Chúa dựng nên ban cho một khả năng đặc biệt, không ai giống ai. Đó là tài nguyên quý báu tiềm tàng nơi mỗi người. Tài nguyên này cần phải được khuyến khích đem ra sử dụng vào công việc trình bày tin mừng của Chúa, và thu tập con người về với đạo giáo niềm tin.
Linh mục không phải là Thiên Thần, cũng không phải là siêu nhân, và cũng không thuộc vào hàng khanh tướng sang trọng thần thánh, như người ta vẫn lầm tưởng và thêu dệt ca hát tung hô trong các bài hát quen thuộc, nhất là ở bên quê nhà Việtnam vào thời kỳ những thập niên năm 50., 60.70. của thế kỷ trước.
Không, Ông vẫn còn là con người với sở trường và sở đoản, với mặt nhân đức cao qúy và mặt yếu đuối tội lỗi.
Ông vẫn còn là con người bất toàn về mọi mặt. Chính điểm yếu đuối bất toàn. Phải, những lỗi lầm khiếm khuyết của con người nơi ông làm nên một phần đời sống của ông. Vì xưa nay có ai là con người hoàn toàn đâu!
Đời ông có niềm vui hạnh phúc, và mang niềm vui hạnh phúc đến cho người khác, khi chính cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa của ông không trở thành xa lạ. Nhưng là nhân chứng cho niềm tin và cùng đồng hành với mọi người.
Cha Daminh Nam được Chúa kêu gọi trở thành Linh mục làm công việc mục vụ của Chúa cho dân Thiên Chúa. Và sau khi làm việc mục vụ, chắc mỗi chiều tối Cha cũng hằng tâm sự nói với Chúa: Lạy Chúa, con chỉ là người đầy tớ vô dụng!
Và như Thánh Phaolo đã xác tín sâu xa : Tôi Phaolô trồng, Appolo vun tưới chăm sóc, nhưng chính Thiên Chúa làm cho cây mọc lên phát triển! cũng là tâm niệm phươmg châm nếp sống đời linh mục của Cha.
Xin chúc mừng chuyến xe buýt đời tu trì của Cha dịp mừng kỷ niệm thánh đức 25 năm chức Linh mục, 1996-30.06.- 2021.
Cầu xin chúc lành của Thiên Chúa từ Trời cao che chở gìn giữa ban cho Cha khỏe mạnh hồn xác, niềm vui với việc mục vụ „Bác tài xế xe buýt“, và như Cha hằng mong muốn cầu xin khấn nguyện „ sống khoẻ, chết lành!“.
Ad multos annos!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người bạn của Cha.
Hình ảnh con đường đời sống vượt qua mệt mỏi
- Viết bởi Dân Chúa
Thánh Tông đồ Phero cùng với Thánh Tông đồ Phaolo là hình ảnh hai cột trụ của Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Hình ảnh hai đại thánh đường Thánh Phero và Thánh Phaolô to lớn nguy nga được xây dựng bên thành Roma từ mấy thế kỷ nay diễn tả ý nghĩa này.
Thánh Tông đồ Phero được Chúa Giêsu kêu gọi trực tiếp rồi cắt cử phong làm Giáo hoàng thứ nhất Hội Thánh Công giáo Roma lúc Chúa Giêsu còn trên trần gian.
Vâng theo mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền, sau khi Chúa Giêsu Kitô về trời, Thánh Phero đã bôn ba lặn lội từ nước Do Thái sang Roma rao giảng tin mừng nước Chúa thành lập Hội Thánh Công Giáo nơi đây ở khu đồi Vatican.
Thánh Phero sau cùng bị bắt trải qua ngục tù, và bị kết án đóng đinh vào thập gía năm 67 sau Chúa giáng sinh
Thánh Phaolô cũng được Chúa kêu gọi tuyển chọn, nhưng trễ lúc Chúa Giêsu đã trở về trời đang khi Phaolô trên bước đường đi săn lùng bách hại Giáo hội Chúa Giêsu ở thành Damascus. Chúa Giêsu đã hiện ra và hoán cải Ông, rồi sai Phaolô đi truyền giáo rao giảng nước Thiên Chúa cho các dân tộc trong thế giới đế quốc Roma thời bấy giờ.
Thánh Phaolô cũng từ nước Do Thái bôn ba đáp tầu thuyền đến tận các nước Hylạp, đảo Zypre, đảo quốc Malta, nước Thổ nhĩ Kỳ, các nước vùng Balkan, và sau cùng đến thành Roma. Nơi đây cũng như Thánh Phero, Phaolô bị bắt giam cầm cùng bị chết vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô vào khoảng sau năm 60 sau Chúa giáng sinh.
Thánh Phero đã viết hai bức thư để lại cho Giáo Hội cắt nghĩa nhắn nhủ về cung cách nếp sống đức tin vào Chúa.
Thánh Phaolô viết 13 bức thư gửi cho các Giáo đoàn mà ông đã đến thành lập, cho hai môn đệ thân tín Timotheo và Tito. Nội dung diễn giải giáo lý của Chúa Giêsu Kitô, cung cách sống đức tin cùng những lời khuyên răn về nếp sống tinh thần đạo đức lành mạnh, những lời phấn chấn giúp tinh thần ý chí phấn khởi vươn lên, dù phải trải qua đau khổ.
Những lời viết suy tư của Thánh Phaolô diễn tả chiều thâm sâu của một nhà đạo đức thần học, nhưng thực tế theo với đời sống đức tin. Văn phong cùng bố cục diễn tả của Phaolo nói lên chiều trí thức sâu rộng của một học gỉa, đúng hơn của một triết gia thấm nhuần tinh thần phúc âm Chúa Giêsu Kitô, cùng có tầm nhìn xa trông rộng hướng về đời sống mai sau trên trời bên Thiên Chúa.
Trong bức thư thứ hai gửi Giáo đoàn Côrinthô ( 2. Corinthô, 4,13-5,1), có lời viết: Chúng ta không nản lòng thối chí!
Trong đời sống thực tế nơi trần gian xưa nay con người luôn hằng gặp phải những cảnh ngộ từ lo âu hoài nghi đến đau khổ bi thương, hầu như làm tâm trí, ý chí cùng cả thân thể mệt mỏi chán nản chùng xuống.
Đời sống con người có nhiều mệt nhọc hơn niềm vui. Mệt nhọc vì công việc làm ăn sinh sống có nhiều đòi hỏi, khiến thân thể cũng như tinh thần bị gánh nặng chồng chất như đến độ qúa tải sức chịu đựng, có khi phát sinh bệnh nạn tâm trí cũng như cả thể xác nữa!
Mệt nhọc vì có khi phải cố gắng chịu đựng lâu dài với đồng nghiệp, với hàng xóm.
Gia đình riêng là tổ ấm bến bờ hạnh phúc niềm vui cho đời sống. Nhưng cũng đòi hỏi nhiều căng thẳng khủng hoảng, cố gắng chịu đựng, nên cũng đưa đến sự mệt nhọc.
Rồi còn những lo toan, sợ hãi nghi nan về sức khoẻ bệnh tật, về công ăn việc làm gặp bấp bênh bị đe dọa thất nghiệp, trong hòan cảnh chiến tranh bị đe dọa khủng bố, và ngay cả trong lòng đời sống Giáo Hội có những tình trạng khủng hoảng đen tối thoái trào đi xuống… cũng làm cho ra mệt mỏi chán chường.
Nhất là trong hoành cảnh lúc này từ hơn một năm nay nhân loại đang trong cơn khủng hoảng bị vi trùng đại dịch Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ con người, nên mọi sinh họat đạo đời xã hội bị giới hạn, tê liệt ngưng đình trệ gây sinh ra mệt mỏi.
Sự mệt mỏi nhọc sức dễ đưa đến tình trạng thất vọng, nản lòng thối chí, nếu không có ánh sáng niềm hy vọng từ xa gần dọi chiếu tới.
Và có lẽ chính Thánh Phaolô xưa kia trên bước đường bôn ba đi truyền giáo từ nơi nọ đến nơi kia, từ nước này sang nước khác, từ dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, niềm tin…cũng đã phải nếm mùi chịu đựng mệt mỏi phải trải qua.
Nhưng tại sao Thánh Phaolô có thể viết : chúng ta đừng thối chí nản lòng“? Phải chăng đó chỉ là lời an ủi như người mẹ dỗ con cho khỏi khóc thôi? Điều gì Phaolô đã sống trải nghiệm qua, để ông có thể nhận ra ý nghĩa tích cực nơi suy tư đó ?
Có lẽ câu trả lời trong thư ông viết tiếp: „Trái lại, mặc dầu con người bên ngoài của chúng ta bị tiêu huỷ đi, nhưng con người bên trong của chúng ta ngày càng được canh tân.“
Câu trả lời chất chứa kinh nghiệm sống của dân gian và suy tư của riêng Phaolo phải chăng có thể hiểu là lời khuyên nhủ phấn khích? Phải chăng suy tư khôn ngoan đó hướng về cung cách nếp sống nội tâm? Phải chăng suy tư đó giúp đạt được sự quân bình thăng bằng nội tâm cho đời sống tinh thần cùng cả thể xác nữa?
Có thể nói đây là một kinh nghiệm cảm động, mà Phaolô muốn cùng chia sẻ với mọi người. Kinh nghiệm mà Phaolô cũng như dân gian đã thu lượm trong những giai đoạn thời gian đời sống bị thử thách dập vùi làm cho mệt mỏi nhọc nhằn kiệt quệ nản chí muốn buông xuống.
Nhưng cũng có kinh nghiệm sống trừng trải qua giúp mang lấy lại sức lực bắt đầu mới lại. Cho dù có giai đoạn đời sống tưởng chừng như tận cùng chấm dứt, nhưng bỗng chốc có sức lực giúp khởi sự lại từ điểm khởi đầu.
Kinh nghiệm này con người chúng ta không làm ra được, không thể bắt ép cố gượng tạo nặn ra cho thành. Nhưng con người chỉ có thể để cho được ban tặng sức lực tích cực đó.
Và kinh nghiệm đời sống cho hay cung cách thái độ sống cởi mở cùng sẵn sàng đón nhận điều tốt lành tích cực cần thiết để có niềm an ủi hy vọng cùng sức lực vươn lên.
Đức tin vào Thiên Chúa, nguồn đời sống, nguồn ơn chúc phúc lành là sức mạnh vươn lên cho đời sống tinh thần cùng thể xác, để không bị thối chí nản lòng, cho dù có bị thử thách làm cho ra mệt mỏi.
Con người luôn cần có niềm hy vọng, niềm ủi an giúp canh tân đời sống vượt qua cơn mệt mỏi thối chí nản lòng.
Lễ mừng kính hai Thánh tông đồ Phero và Phaolô
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh đời sống của Thánh Gioan tẩy gỉa
- Hình ảnh con đường đời sống chao đảo
- Hình ảnh môn bóng đá trên sân cỏ
- Hình ảnh trái tim Chúa
- Hình ảnh bản chất căn bản sự thể
- Hình ảnh Đức mẹ Maria “Regina familiae - Nữ vương các gia đình“
- Hình ảnh cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần
- Hình ảnh những ngón tay cầu nguyện
- Hình ảnh dấu vết Chúa Giêsu để lại
- Hình ảnh „Đức mẹ phù hộ các giáo hữu“