Hình ảnh Chúa Giêsu trên núi Tabor
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội vào ngày 06. Tháng Tám mừng lễ biến cố Chúa Giesu biến hình trên núi Tabor.
Và Chúa nhật thứ hai mùa chay hằng năm, bài Phúc âm tường thuật về biến cố này được đọc trong thánh lễ.
Giáo Hội Chính Thống mừng biến cố Chúa Giêsu biến hình từ thế kỷ thứ năm. Vào thời Trung cổ lễ mừng biến cố này cũng được mừng ở vùng bên Tây phương. Và năm 1457 dưới thời đức gíao hoàng Calixto III. lễ mừng biến cố Chúa biến hình được chính thức ghi trong lịch phụng vụ Công giáo Roma.
Ngọn núi Tabor từ xa xưa thời trước Kitô giáo đã là nơi thờ kính tôn gíao và sách kinh thánh cựu ước cũng đã nói đến nơi này.
Núi Tabor cao 588 mét , nằm ở vị trí vùng Galileo phía Bắc nước Do Thái. Trên núi này có ngôi thánh đường Chúa biến hình. Xưa nay núi Tabor là địa điểm hành hương của các khách hành hương sang đất thánh Jerusalem, và của những người đi du lịch, người khảo cứu di tích lịch sử.
Kinh Thánh theo phúc âm Thánh Luca thuật lại Chúa Giêsu lên núi cao với ba môn đệ và bỗng chốc người biến hình trắng sáng như tuyết. ( Lc 9,28-26).
Đâu là hình ảnh nét đẹp trong sáng bình an cùng huyền nhiệm chiếu tỏa từ Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor với ba môn đệ lúc đó? Biến cố này có liên hệ trong đời sống đức tin không?
Đi tìm hiểu ý nghĩa sâu xa về biến cố này trong đời sống Chúa Giêsu, Đức Giáo hoàng Benedictô thứ 16. đã có suy tư theo lối so sánh biến cố đó giữa hai thời Chúa Giêsu và thời Cựu ước của tiên tri Mose.
Chúa Giêsu lên núi cao đem theo ba môn đệ Phero, Giacobe và Gioan ( Lc 9, 28-299. Họ là nhân chứng khi Chúa Giêsu chiếu tỏa ánh sáng trên núi, và họ cũng là nhân chứng trong vườn cây dầu sau này lúc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi bị nộp bắt ( Mc 14,33).
Tiên Tri Mose, ngày xưa đưa dân Israel xuất hành trở về đất Chúa hứa từ Ai cập, khi lên núi cầu nguyện cùng Thiên Chúa, cũng mang theo ba Ông Aaron, Nadab và Abihu vừa là người cùng đồng hành và cũng vừa là nhân chứng (Xh 34), lẽ dĩ nhiên Tiên tri Mose cũng mang theo 70 vị bô lão khác nữa cùng đi lên núi như những nhân chứng.
Hình ảnh núi khiến ta liên tưởng tới Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu cầu nguyện cũng trên nuí. Núi như vậy là nơi chốn đặc biệt gần gũi với Thiên Chúa. Và trong đời Chúa Giêsu đã trải qua nhiều ngọn núi khác nhau.: ngọn núi nơi ngài bị cám dỗ, ngọn núi nơi ngài rao giảng, ngọn núi nơi ngài cầu nguyện, ngọn núi nơi ngài biến hình trong sáng như tuyết, ngọn núi nơi ngài lo âu sợ hãi, ngọn núi nơi ngài bị trảm hình đóng đinh vào thập gía, ngọn núi nơi ngài sống lại và trở về trời, nơi chốn này hình ảnh một Chúa Giêsu tỏ hiện vinh quang chiến thắng „ Thầy được trao ban cho mọi quyền hành trên trời dưới đất“ (Mt 28,18) đối ngược lại với ngọn núi cám dỗ nơi ma qủy cũng đã nói mình có mọi quyền hành.
Hình ảnh ngọn núi đời Chúa Giêsu đã trải qua cũng là hình ảnh những ngọn núi Sinai, ngọn núi Horeb, ngọn núi Morija trong thời Cựu Ước, nơi 10 điều răn của Chúa được mạc khải trao cho dân chúng, ngọn núi báo hiệu cuộc khổ nạn thương khó.
Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn hiện đàng sau hình ảnh ngọn núi là nơi chốn bước đường thăng tiến sự đi lên không chỉ nơi bề ngoài nhìn thấy bằng mắt, nhưng còn cả bên trong nội tâm nữa.
Vị trí trên cao của ngọn núi gợi mang đến cảm gíac như được giải thoát khỏi gánh nặng trong đời sống hằng ngày, được hít thở không khí trong lành trong thiên nhiên, và từ đấy con mắt hướng nhìn xa hơn đi vào khám phá nét đẹp trong sáng lạ lùng của công trình thiên nhiên. Ngọn núi cao trổi vượt trên khỏi mặt đất bằng phẳng mang đến cho con người cảm gíac tâm hồn mình cũng được nâng vươn lên cao, và dễ dàng nhận ra dấu vết sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa.
Lần theo dòng lịch sử, người ta cũng khám phá thấy kinh nghiệm về một Thiên Chúa đã từng nói chuyện với con người và kinh nghiệm về sự khổ nạn thương khó. Cao điểm của biến cố đó trong lễ hy sinh hiến tế Isaak của Abraham cho Thiên Chúa, trong lễ hy sinh của Con chiên (Chúa Giêsu) Thiên Chúa trên núi Calvaria.
Tiên tri Mose và tiên tri Elija đã được tiếp nhận mạc khải của Thiên Chúa trên ngọn núi, và các Ông đã được nói truyện với Thiên Chúa, khi Người xuất hiện là một con người mang điều mạc khải cho các Ông.
Thánh sử Luca (9,29) viết thuật lại chi tiết hơn về Chúa Giêsu biến hình trong ý nghĩa về ngọn núi như bước đi lên: „Khi ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà“
Như thế có thể nói, biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi có ánh sáng bao phủ chiếu tỏa là biến cố cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện nói chuyện cùng Thiên Chúa Cha, tâm hồn Chúa Giêsu hòa lẫn vào làm một với Thiên Chúa Cha, Đấng là ánh sáng tinh tuyền trong sáng. Và qua đó con người Chúa Giêsu tiếp nhận được ánh sáng từ nơi Thiên Chúa Cha bao phủ truyền sang.
Ngày xưa tiên tri Mose „ từ trên núi Sinai đi xuống, tay cầm hai tấm bia Giao Ước, khi xuống núi, ông Môsê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa.30 Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông.31 Ông Mô-sê gọi họ: ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ.32 Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên núi Xi-nai.33 Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi.34 Khi vào trước nhan ĐỨC CHÚA để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được.35 Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa.“ ( Xh 34,29-25).
Được gặp nói chuyện với Thiên Chúa trên núi, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa bao phủ Ông tỏ hiện ra nơi gương mặt của Ông. Ánh sáng đó chiếu tỏa ở bên ngoài thân xác của Ông.
Đang khi Chúa Giêsu không chỉ tiếp nhận ánh sáng từ nơi Thiên Chúa, nhưng chính Chúa Giêsu là ánh sáng.
Khi biến đổi hình dạng trên núi, áo của Chúa Giêsu chiếu tỏa ánh sáng trong sáng như tuyết phủ. Hình ảnh này muốn diễn tả tương lai của con người. Sách Khải Huyền của Thánh Gioan viết thuật lại tấm áo trắng tinh ròng là hình ảnh đời sống trên trời, nơi đó các Thiên Thần của Thiên Chúa và những người được tuyển chọn hưởng ơn cứu độ mặc y phục mầu trắng tinh tuyền. ( Kh 7,9.13;19,14)
Y phục của những người được tuyển chọn mầu trắng tinh ròng, vì họ được tắm gội trong máu của Chiên Thiên Chúa (Kh 7,14). Qua làn nước Bí tích rửa tội họ được liên kết gắn bó với sự khổ nạn thương khó. Cuộc khổ nạn thương khó của Chúa Giêsu mang lại sự thanh tẩy và trả lại cho họ tấm áo trắng nguyên thủy tinh tuyền thuở ban đầu ( Lc 15,22).
Qua phép Bí tích rửa tội chúng ta cùng được tiếp nhận y phục ánh sáng cùng với Chúa Giêsu, Đấng chính là ánh sáng ơn cứu độ. (Theo Joseph, Ratzinger Benedikt XVI. , JESUS von Nazareth I., Freiburg i. Br. 2007, 9.Kapitel, tr. 356- 359.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cơn cám dỗ của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúa Giêsu Kitô, con Thiên Chúa, như Kinh Thánh viết thuật lại ( Phúc âm Lc 4,1-13) đi vào vùng sa mạc hoang vắng ăn chay, cầu nguyện 40 đêm ngày.
Và sau đó Ngài bị ma quỷ bày ra cạm bẫy cám dỗ. Chúng bày ra ba cạm bẫy cám dỗ thử thách tâm trí ý chí đời sống Chúa Giêsu: ăn uống, vinh quang lợi lộc danh vọng và lòng kiêu ngạo thách thức Thiên Chúa.
Vậy đâu là hình ảnh những cơn cám dỗ đó trong đời sống con người, và Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh phương thế nào chống lại chúng?
Ma qủi nhận ra nhu cầu ăn uống nơi con người, nhất là lúc đói, Chúa Giêsu đã ăn chay nhịn đói lâu ngày. Biết thế chúng bày ra cạm bẫy thử thách Chúa Giêsu đang lúc lâu ngày đã không ăn uống gì: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho đá biến hóa thành bánh mì đi để ăn cho qua cơn đói bụng!
Có thức ăn nước uống con người có thể lấp đầy nhu cầu cho bao tử, cùng mang lại sức lực cho các cơ quan thân thể hoạt động trở lại.
Có thực phẩm ăn no đủ, con người không còn, hay vơi ít cảm thấy sự bực tức nôn nao sợ hãi. Qua đó sự thất vọng bị đè ấn xuống ra đàng sau, sang ra một bên, và sự thiếu vắng hay ít tình yêu thương cũng được bù đắp lại cho quân bình.
Thức phẩm làm đầy bao tử luôn là nhu cầu cho đời sống con người. Chúng đẩy xa lùi sự thất vọng, sự sợ hãi, tức giận và cả sự ganh tỵ, dù chỉ tạm thời.
Đối diện với cạm bẫy cám dỗ về nhu cầu ăn uống cho thân xác con người, Chúa Giêsu Kitô đã quan tâm hướng đến khía cạnh khác: đời sống tinh thần.
Vì thế Ngài đã trả lời cho thách thức cám dỗ đó: “ Đã có lời ghi chép rằng:Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ lời từ miệng Thiên Chúa phán ra nữa!
Với những lời tâm linh là phương thế chống trả cám dỗ thách thức do ma qủi bày ra, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh nói đến sự sống con người phần thân xác cũng như tinh thần là do Thiên Chúa tạo thành ban cho. Con người được dùng thực phẩm ăn uống cho no đủ. Nhưng trong mức độ chừng mực. Không được lạm dụng dùng thực phấm làm mục đích để thỏa mãn, để muốn quên hay đẩy xa khía cạnh đời sống tinh thần linh hồn ra một bên.
Ma qủi bày cám dỗ thứ hai cho Chúa Giêsu về quyền lực và của cải: Ma qủi hứa trao cho Chúa Giêsu tất cả vinh quang giầu sang của thế giới, nếu Ngài phủ phục bái lạy chúng!
Cạm bẫy cám dỗ này hằng thời sự trong đời sống con người. Quyền hành, vinh quang giầu sang lợi lộc thường làm mờ mắt tâm trí con người, và con người dễ nhanh chóng nhượng bộ, bán rẻ nếp sống tinh thần danh dự (linh hồn) cho cạm bẫy cám dỗ loại thứ này. Những cám dỗ thử thách về quyền hành, vinh quang lợi lộc cho riêng mình luôn hằng xảy diễn ra trong mọi lãnh vực đời sống đạo cũng như phần đời nơi con người trần gian.
Con người bị lôi kéo vào vòng này mà nhiều khi không biết chú ý đến. Tâm tính con người hay hướng chiều làm sao để không chỉ đạt nắm giữ quyền hành địa vị, giàu sang phú qúi, nhưng còn muốn xây dựng củng cố mở rộng ra thêm nữa. Và như thế tiếng nói lương tâm bị đẩy lui dập tắt.
Quyền hành, vinh quang lợi lộc vật chất nơi trần gian không là sự việc của Chúa Giêsu. Sứ mạng của Chúa Giêsu trên trần gian hướng đến khía cạnh đời sống tinh thần linh hồn con người.
Chúa Giêsu đã có phản ứng chống trả cạm bẫy cám dỗ đó của ma qủi với chỉ dẫn nghiêm ngặt : không phải tiền bạc của cải vật chất, địa vị sức mạnh quyền thế là trung tâm cùng đích đời sống con người. Những điều đó không là thứ thần thánh. Những thứ đó nay còn, ngày mai mai một tan biến.
Duy chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng là khởi đầu và trung tâm cùng đích đời sống, con người phải hướng đến tôn thờ bái lạy kính mến: “ Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa của người, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”
Ma qủi lại bày ra cạm bẫy nữa để cám dỗ Chúa Giêsu: lòng kiêu căng muốn thử thách Thiên Chúa.
Trong đời sống con người, phần đời cũng như phần đạo, hằng vướng vào tâm trạng muốn được đề cao nổi tiếng, có khả năng xuất chúng vượt trội hơn người làm được những điều ngoạn mục, là người được hoan hô tôn vinh đứng ở trên sân khấu đàng trước nơi vị trí trung tâm.
Vì thế ma qủi bầy ra cạm bẫy thử thách Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống (từ trên cao nóc đền thờ Jerusalem). Vì có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn.”.
Chúa Giêsu nhìn ra âm mưu thâm độc của ma qủi, nên Ngài chống trả mãnh liệt bằng những lời răn đe quyết liệt nghiêm nghị: “ Người chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”
Phương thế Chúa Giêsu dùng để chống trả cạm bẫy cám dỗ rất tinh vi do ma qủi gài bẫy bày ra là phương thức tâm linh để chống chọi lại khía cạnh vật chất ma qủi nhử bày ra.
Phương thức tâm linh nói lên sự trung thành với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, là khởi đầu và cùng đích đời sống con người về phần thân xác cũng như tinh thần linh hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh từ bụi đất
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro bắt đầu mùa chay, năm nay vào ngày 02.03.2022, người tín hữu Chúa Kitô nhận lãnh chút tro rắc trên trán hay trên đỉnh đầu.
Khi cử hành nghi thức xức tro, vị chủ tế đọc:” Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về bụi tro!
Lời Kinh Thánh này là lời của Thiên Chúa nói với Ông bà nguyên tổ Adong-Evà, sau khi Ông Bà phạm lỗi luật Thiên Chúa cấm ăn qủa của cây biết lành biết dữ: “ Con người là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất.” ( Sách Sáng Thế 3,19).
Vậy đâu là hình ảnh con người được tạo thành từ bụi đất?
Kinh Thánh thuật lại sự sáng tạo con người: “ Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật .” ( Sách Sáng Thế 2,7).
Hơi thở của Thiên Chúa là thần khí của Ngài làm nên con người. Nhờ thế hình hài thân xác cùng với tinh thần trí tuệ, ý chí con người có sự sống và sự phát triển.
Trong dòng thời gian từ ngày đó, con người được Thiên Chúa phú ban cho khả năng sinh truyền. Mầm sự sống được Thiên Chúa gieo cấy khắc ghi vào cơ thể của người nam và nữ. Khi hai mầm sự sống nam ( dương) và nữ ( âm) này tác hợp nối liền với nhau, sẽ nảy sinh ra sự sống một con người mới.
Đây quy trình tự nhiên của Đấng Tạo Hóa đã tạo lập ra, để cho giống nòi con người cũng như các loài thú động vật, và thảo mộc cây cỏ được tiếp tục truyền sinh phát triển trên mặt đất do Thiên Chúa sáng tạo cùng nuôi dưỡng.
Con người, theo Kinh Thánh viết tường thuật, được Thiên Chúa tạo thành hình hài từ đất không trong ý nghĩa coi thường khinh chê, là vật hèn hạ. Nhưng nói lên ý nghĩa căn bản thâm sâu hơn: sự khiêm nhường và sự an ủi.
Khía cạnh sự khiêm nhường nói lên con người không phải là Thiên Chúa. Con người không tự mình làm tạo ra mình. Con người không làm được tất cả, và đời sống con người có giới hạn. Con người luôn luôn là loài thụ tạo sống động, và phải trải qua cảnh tuổi gìa, sức yếu và ngày chấm dứt tận cùng cuộc sống hành trình trên trần gian. Không con người nào có thể thoát khỏi cảnh phải qua đời.
Dẫu vậy con người cũng nhận được sự an ủi: con người không phải là loài ma qủy thần sự dữ. Con người không được tạo thành từ những quyền lực sức mạnh tiêu cực. Nhưng từ đất tốt lành do Thiên Chúa tạo dựng nên.
Trong dòng lịch sử trải qua mọi thời đại với nhiều nền văn hóa lịch sử khác nhau, nhưng sau cùng con người cũng vẫn là thụ tạo do Thiên Chúa tạo thành từ đất.
Dù là bậc vua chúa quyền thế chức vị, người giầu sang, người gặp may mắn, người nghèo khó, đau khổ gặp bước đường bất hạnh, người có tâm trí sáng suốt thông minh, hay người yếu kém, người có sức khoẻ mạnh to lớn hay người yếu đau bệnh tật…Tất cả đều là công trình được tạo thành từ đất do Thiên Chúa tạo dựng nên.
Cho dù xưa nay trong dòng lịch sử nhân loại có nhiều cơn khủng hoảng, nhất là về bệnh dịch, như lúc này đại dịch do vi trùng Corona gây ra, đang hoành hành gây bện nạn yếu đau cùng tử vong trên toàn thế giới. Nhưng con người vẫn luôn là một công trình được tạo thành từ đất và sau cùng trở về thành (bụi) đất.
Tất cả con người nam hay nữ đều được tạo thành từ một đất tốt lành của Thiên Chúa. Không có những máu và vùng nền, chủng loại giai cấp khác nhau, như những chuyện thần thoại, hay nơi nhiều tôn giáo và những lý thuyết về nhân sinh quan thế giới theo ý thức hệ luận, đặt ra những truyền thuyết phân biệt khác nhau trong dòng thời gian xưa nay.
Nhận lãnh chút tro trên trán, trên đỉnh đầu ngày đầu mùa Chay hằng năm nói lên lòng chân thành muốn chân nhận con người luôn cần có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình từ đất, hằng đồng hành ở bên cạnh.
Và như thế con người mong muốn trở về với nguồn tình yêu thương, nguồn sinh khí hơi thở sự sống bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa, để có được sự tha thứ và chúc lành bình an.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh lòng thương xót
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống đạo đức có kinh nguyện “Thương người có 14 mối”. Kinh nguyện lòng thương xót này nhắc nhớ đến nghĩa vụ lòng bác ái tình liên đới giữa con người với nhau qui hướng về hai khía cạnh đời sống: thân xác và tinh thần linh hồn con người:
Thương xác bảy mối:
Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn
Thứ hai: Cho kẻ khát uống
Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc
Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc
Thứ năm: Cho khách đỗ nhà
Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi
Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết
Thương linh hồn bảy mối:
Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người
Thứ hai: Mở dậy kẻ mê muội
Thứ ba: Yên ủi kẻ âu lo
Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội
Thứ năm: Tha kẻ dể ta
Thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta
Thứ bảy: Cầu cho kẻ sống và kẻ chết
Xưa nay hễ có thiên tai, tai nạn, chiến tranh xảy ra nơi nào trên thế giới, các cơ quan chính phủ cũng như tôn giáo đều kêu gọi mọi người rộng lượng cùng chung tay giúp đỡ những người bị vướng vào hoàn cảnh bất hạnh ở những nơi đó.
Cung cách này thể hiện sâu xa lòng bác ái tình liên đới chiều ngang đường chân trời giữa con người với nhau trong xã hội, và lòng đạo đức chiều thẳng đứng hướng lên Thiên Chúa trên trời cao.
Cung cách sống này diễn tả sự kính trọng nhân phẩm, thân xác sự sống con người, mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá tạo dựng ban cho mỗi người.
Cung cách sống này nói lên lòng biết ơn nhau. Vì trong qúa khứ đã được người khác giúp đỡ cách này cách khác rồi.
Cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người rách rưới ăn mặc không chỉ che đậy hay muốn xoá đi sự nghèo khổ của người bị nạn lớp bề mặt bên ngoài, nhưng còn sâu xa hơn. Đó là khám phá sự sống nơi người đó, một tặng vật cao qúi của Trời cao ban cho.
Đi thăm viếng người bệnh mang đến cho người bệnh chút an ủi niềm vui nói lên họ không một mình chịu đựng đau đớn.
Thăm viếng người bệnh còn muốn nói lên sự quan tâm đến họ nhiều hơn là miếng vải băng đậy vết thương, chút dầu thoa vết thương ngoài da…Sự sống cao qúi hơn tất cả.
Thăm viếng người bệnh nhìn ra nhu cầu cùng sự yếu đau của người bệnh, cùng mang đến cho họ niềm hy vọng.
Những việc làm như thế được Kinh Thánh đặt tên là lòng thương xót, mà Chúa Giêsu nói đến trong Phúc âm ( Lc 6, 27-38).
Lòng thương xót giữa con người với nhau diễn tả hình ảnh cùng đồng hành với trong đời sống, mang lại cho nhau tình yêu thương niềm hy vọng.
Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta thuật lại mẩu chuyện sống động về lòng bác ái tình liên đới yêu thương của một đôi vợ chồng trẻ.
“ Ở Calcutta một đôi vợ chồng trẻ đến gặp tôi, và trao cho một số tiền lớn để chung góp vào giúp người nghèo. Vì nhà chúng tôi một mình phải hằng ngày lo cho 9.000 người ăn.
Tôi cám ơn họ và hỏi lại: Làm sao các Bạn có thể có món tiền nhiều như vậy ?
Họ trả lời” Trước đây hai ngày chúng tôi thành hôn với nhau. Nhưng trước đó chúng tôi đã thỏa thuận không tổ chức tiệc cưới ăn mừng. Thay vào đó hai chúng tôi muốn thực hiện một nghĩa cử dấu chỉ nói lên tình yêu của chúng tôi với những người khác. Và chúng tôi mang số tiền này cho nhà của Mẹ.”
Ôi thật là một nghĩa cử quảng đại của tâm hồn rộng lớn chan chứa tình người!
Tôi hỏi thêm: “ Nhưng tại sao các Bạn lại làm như thế?”
Họ trả lời:” Chúng tôi yêu chúng tôi sâu đậm, nên chúnng tôi mong muốn cùng chia xẻ với những người khác, đặc biệt với những người mà Mẹ và chị em phục vụ giúp đỡ họ."
Ôi thật lạ lùng thay!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh được chúc phúc
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người xưa nay hằng luôn cần có nhu cầu cần được chúc phúc.
Cha mẹ cảm thấy mình được chúc phúc, khi họ tìm gặp thành lập gia đình với nhau, nhất là khi họ được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá ban cho có con. Con cháu là chúc phúc lành của Trời cao ban cho gia đình.
Con cháu nhận được chúc phúc lành ngay từ lúc còn thơ bé và trong suốt dọc đời sống từ cha mẹ mình qua sự sinh thành nuôi dưỡng, đào tạo giáo dục, mà cha mẹ vun xới xây dựng cho đời sống mình.
Chúc phúc lành mang đến cho đời sống hạnh phúc niềm vui, sức khoẻ mạnh. Chúc phúc lành hiển thị trong đời sống nơi thân xác và cùng trong tâm hồn tâm linh tinh thần.
Chúa Giêsu Kitô trong bài giảng mở đầu giáo lý - xưa nay gọi là Hiến chương nước trời, hay bài giảng Mối phúc thật - đã đề cập đến được chúc phúc lành. Nhưng bài giảng giáo lý đó diễn tả theo hai khía cạnh một bên bóng tối và một bên ánh sáng: phần bên ngoài thân xác thì phải hy sinh chịu đựng, nhưng phần đời sống tâm linh tinh thần lại được chúc phúc lành.
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười.
Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương.
Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.” ( Lc 6, 20-23).
Trong đời sống đâu có ai muốn sự đau khổ, cảnh phải sống chịu đựng, hy sinh căng thẳng Nhưng điều đó lại gắn liền với đời sống con người.
Và trong suốt dọc đời sống, hầu như ai cũng đều có kinh nghiệm cảm nhận đời sống về sự căng thẳng, hy sinh chịu đựng, đau khổ càng to nhiều bao nhiêu, niềm vui đến tiếp sau đó cũng to lớn gấp lên theo, càng thâm sâu ý nghĩa nhiệm mầu hơn.
Cha mẹ nào cũng vui mừng chờ đợi ngày người con trong mình chào đời. Nhưng trước đó nhất là người mẹ đã phải hy sinh chịu đựng đau khổ về phần thân thể rất nhiều. Nhưng khi người con mở mắt cất tiếng khóc chào đời khoẻ mạnh, niềm vui mừng trào dâng từ trong tâm hồn cha mẹ hiển thị ra nơi đôi mắt với những giọt nước mắt hạnh phúc nhiệm mầu thần thánh. Người mẹ quên đi những hy sinh đau khổ chịu đựng trước đó. Chị cảm thấy được chúc phúc lành qua sự sống thân thể hình hài người con là tác phẩm tình yêu của tâm hồn cung lòng chị, mà Trời Cao chúc phúc ban cho.
Một người mẹ thuật lại khi con chị bị bệnh phải giải phẫu nơi bộ óc. Chị căng thẳng hồi hộp sống lo lắng bất an chờ đợi bên ngoài. Sau cuộc giải phẫu vừa phức tạp vừa kéo dài lâu em bé nằm bất tỉnh hôn mê. Đây là những giờ phút cực kỳ căng thẳng cho người mẹ, cho người cha, cho thân nhân gia đình. Vì họ phải trong hồi hộp chờ đợi xem em bé có tỉnh thức lại không...
Nhưng sau hơn 08 tiếng đồng hồ hôn mê, em bé bỗng mở mắt thức dậy kêu gọi mẹ, gọi cha... Gia đình canh thức bên giường bệnh vui mừng bật òa trong tiếng khóc hạnh phúc, nhất là nơi người mẹ. Giây phút thần thánh nhiệm mầu là chúc phúc lành cho em bé hồi sinh sống lại, cùng cho cả gia đình thể hiện đổ xuống trên họ. Tất cả người nhà thở ra nhẹ nhàng trong dòng nước mắt vui mừng thần thánh lăn chảy từ đôi khoé mắt xuống trên đôi gò má mệt mỏi, vì đã sống trải qua trong lo âu căng thẳng khủng hoảng…Thân nhân họ hàng ngậm ngùi trong vui mừng hạnh phúc đốt thắp cây nến dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, Trời cao vì ân đức chúc lành này.
Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta khi xưa lúc còn sinh tiền đã viết thuật lại ngày vui mừng hạnh phúc nhất trong đời mình: ngày 03.02.1986. Khi đó đức thánh cha Gioan Phaolo đệ nhị tông du thăm nước Ấn Độ, mẹ Teresa đã mời ngài đến thăm ngôi nhà Nirmal Hriday dành cho những người hấp hối. Đức thánh cha được mẹ Teresa dẫn đến thăm những người bệnh nằm hấp hối, ngài yên lặng ngắm nhìn từng người và không cầm được lòng xúc động đến nỗi để cho dòng nước mắt chẩy trào ra bên ngoài. Có thể Đức Thánh Cha đã nhìn tận mắt nơi đây trong ngôi nhà Nirmal Hriday cảnh thương tâm của con người và đồng thời chúc phúc lành tình yêu của Thiên Chúa. Và ngài đã nhận ra tin mừng chúc lành của Chúa được loan báo rao giảng cụ thể trong ngôi nhà này?
Đức Thánh cha rất xúc động. Và sau cuộc thăm viếng ngài đã có những lời suy tư tâm huyết sâu xa nói với các chị em Nữ Tu phục vụ các người hấp hối trong ngôi nhà này:” Nirmal Hriday là nơi chốn của niềm hy vọng. Ngôi nhà này được xây dựng thành hình trên nền tảng sự can đảm và đức tin. Đó là không gian căn phòng của tình yêu thương ngự trị. Nirmal Hriday loan báo nhân phẩm sâu thẳm nhất của bản chất con người.
Nơi đây hình ảnh sự chăm sóc tràn đầy tình yêu thương âu yếm đùm bọc cho con người được thể hiện rõ ràng cụ thể. Điều này làm chứng rằng gía trị của mỗi sự sống con người không đo lường lệ thuộc vào thành tích cùng khả năng, cùng không dựa theo sức khoẻ hay bệnh tật, cũng không theo tuổi tác, nguổn gốc hay mầu da.
Nhân phẩm con người do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, tạo thành ban cho. Ngài đã tạo thành con người giống hình ảnh Ngài. Nhân phẩm giá trị này không bao giờ có thể bị tước đoạt phá hủy. Đó là điều cao cả thiêng liêng không thể bóp méo uốn nắn ra khác được. Trong con mắt nhìn của Thiên Chúa con người luôn luôn có gía trị cao qúi.”
Hình hài thân thể con người, nhân phẩm sự sống con người là chúc phúc lành của Thiên Chúa, dù con đường đời sống trải qua những giai đoạn lên xuống, phải hy sinh chịu đựng đau khổ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh niềm vui ơn cứu độ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh cầu Đức mẹ Maria có câu ca ngợi:” Đức Bà làm cho chúng con vui mừng.”
Con người xưa nay ai cũng có nhu cầu cần có niềm vui cho đời sống tinh thần cùng cho thể xác được bằng an khoẻ mạnh.
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng cùng nuôi sống con người là nguồn ban ân đức niềm vui, nhưng đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, theo lòng tin tưởng, là người mẹ phù hộ cho con người rất đắc lực bên ngai tòa Thiên Chúa.
Hang đá Đức Mẹ Lourdes
Đức mẹ Maria đã hiện ra với thiếu nữ Bernadette ở hang động vách núi đá Massabielle từ ngày 11. 02. đến 16.07.1858 ở thành phố Lourdes bên nước Pháp
Hang động này thời Bernadette sinh sống dơ bẩn, tối tăm, ẩm ướt và lạnh. Người ta gọi hang động này là một loại chuồng heo. Vì người dân ở đây thường dẫn heo ra ăn cỏ và tắm.
Nhưng Đức mẹ Maria, đấng tinh tuyền vẹn sạch không vướng mắc tội tổ tông truyền đã chọn nơi hang động dơ bẩn này hiện ra với thiếu nữ Bernadette. Tại sao?
Hai hình ảnh, hai sự kiện trái ngược nhau, có thể nói như ánh sáng với bóng tối, như trắng với đen, trong sạch với dơ bẩn...
Điều này nói lên Thiên Chúa qua Đức Mẹ Maria với trái tim lòng yêu mến muốn đến gặp gỡ con người chúng ta trong tình trạng bơ vơ khốn quẫn, vì tội lỗi khiếm khuyết trong đời sống.
Hang núi Lourdes, nơi Đức Mẹ hiện ra, không phải chỉ là nơi chốn hình thể địa lý. Nhưng còn là nơi theo ý nghĩa tâm linh, Thiên Chúa tỏ cho con người dấu chỉ Ngài hằng yêu thương con người, dù thế nào đi chăng nữa.
Hang đá Lộ Đức cũng là nơi Thiên Chúa gửi cho con người sứ điệp: Ngài đến với con người, Ngài yêu mến đời sống con người với thành công và cả với những vết thương đau khổ, bệnh nạn, những đổ vỡ, những dơ bẩn trong đời sống, những hạn chế giới hạn của con người. Và qua đó Ngài ban sức khỏe niềm vui thể xác cũng như tinh thần cho con người.
Nguồn nước ơn chữa lành mang đến niềm vui.
Tin tưởng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ, nên xưa nay hàng triệu người đi hành hương sang kính viếng Đức Mẹ bên Lourdes. Đến đây khách hành hương xếp hàng chờ tới phiên vào trầm mình tắm nơi buồng bể nước tuôn chẩy ra từ nguồn suối nơi núi hang đá, xin ơn chữa lành. Và hầu như ai cũng mang bình to nhỏ hứng nước ở những vòi nước chẩy ra từ hang đá Đức mẹ hiện ra. Hứng nước đem về nhà, và rửa mặt cùng uống nữa không chỉ cho nhu cầu giải khát và sức tươi mát tỉnh táo thân thể chân tay da mặt lúc trời nóng. Nhưng cùng với lòng tin xin ơn đức cho khoẻ mạnh tinh thần cùng thể xác nhờ lời bầu cử của Đức mẹ.
Trầm mình, lấy đôi bàn tay rửa mặt và uống nước Đức mẹ Lourdes nhắc nhớ đến làn nước Bí Tích rửa tội đã lãnh nhận ngày xưa lúc còn thơ bé. Làn nước rửa tội tẩy rửa tội nguyên tổ và mang đến cho tâm hồn đức tin vào Thiên Chúa.
Làn nước Đức mẹ Lourdes cũng nhắc nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn chảy từ trái tim cạnh sườn Chúa Giêsu, khi Ngài bị treo trên thập gía và bị người lính dùng lưỡi giáo đâm thâu thủng cạnh sườn. Làn nước ơn cứu chuộc từ trái tim Chúa Giêsu.
Khi lấy nước suối Lourdes rửa mặt như thế, người làm muốn nói lên tâm tình lòng đạo đức: Lạy Chúa, xin nhìn xem cung cách sống của con cần tình yêu của Chúa như thế nào cho đời sống con. Không có nước, sự sống không có thể phát triển cùng tồn tại được. Cũng vậy đời sống con trở thành mất ý nghĩa, khi không có Chúa! Ân đức của Thiên Chúa là nguồn niềm vui cho đời sống.
Khách hành hương Đức mẹ Lourdes còn đến đốt thắp lên cây nến nguyện cầu xin ơn nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Maria. Thắp sáng cây nến cháy nơi thánh điạ còn muốn nhắc nhớ đến cây nến rửa tội năm xưa của mình lúc còn thơ bé. Và qua đó còn muốn lời cầu khấn của mình được tỏa ra từ trong trái tim tâm hồn: Lạy Chúa, ngày xưa khi nhận lãnh cây nến rửa tội thắp sáng từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu phục sinh. Chúa Giêsu là ánh sáng soi đường cho đời sống tâm linh đức tin của con, và Chúa cho con trở nên người bạn của Chúa. Con trở thành người mang ánh sáng của Chúa trong đời sống. Con cám ơn Chúa. Xin ánh sáng Chúa soi chiếu chữa lành những vết thương tâm hồn cùng thể xác, ban cho con niềm vui.
Ngày thế giới bệnh nhân
Từ 1993 Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã lấy ngày 11.Tháng Hai hằng năm, ngày lễ kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Lourdes, là ngày cầu nguỵện cho các bệnh nhân - Ngày thế giới bệnh nhân -
Trong đời sống xã hội, xưa nay con người hằng ra công gắng sức nghiên cứu tìm chế biến những thuốc trị bệnh giúp chữa trị bệnh nạn, phục hồi sức khoẻ cho người bị mắc bệnh.
Chúng ta vui mừng cám ơn những nỗ lực đầu tư đó mang đến những tiến bộ thành công to lớn giúp con người xưa nay rất hữu ích, rất nhiều. Và nhờ những công trình nghiên cứu như thế tình trạng chăm sóc y tế sức khoẻ con người càng có nhiều phát minh, giúp đời sống con người khoẻ mạnh và tiến bộ thêm. Và con người cũng luôn cần có nhu cầu được chăm sóc, nhất là lúc lâm bệnh nạn đau yếu tật nguyền.
Từ hai năm nay, nhân loại sống trong khủng hoảng, vì bệnh đại dịch Covid 19 đe dọa sức khoẻ cùng các sinh hoạt đời sống. Trên thế giới đã có gần 400 triệu người bị lây nhiễm vi trùng đại dịch Corona. Và vi trùng đại dịch này đã tàn phá hủy họai sự sống của hơn 05 triệu 7 trăm ngàn người khắp năm châu lục. Nên nhu cầu mong mỏi được chữa lành bệnh càng thời sự cần thiết hơn lúc nào trên khắp hoàn vũ. Họ mong mỏi mau thoát khỏi cảnh bị sống chìm ngập trong hoảng sợ, trong đau buồn. Các nhà khoa học hằng nỗ lực khảo nghiệm chế biến những phương thuốc chủng ngừa trị liệu cho con người có bình an sức khoẻ niềm vui trở lại, cùng tiêu diệt vi trùng đại dịch nguy hiểm này.
Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi mọi tín hữu Chúa Kitô tin tưởng sức cầu xin Thiên Chúa, nguồn sự sống, nguồn ơn chữa lành cứu giúp nhân loại công trình tạo dựng của Ngài. Và năm nay đức thánh cha nhấn mạnh đến nhu cầu tình liên đới mang lại niềm vui cho người bị bệnh tật:
“Mặc dù ngày nay khoa học tiến bộ, hỗ trợ rất nhiều cho việc điều trị chăm sóc, nhưng Đức Thánh Cha nhắc nhở: “Tất cả những điều này không bao giờ làm cho chúng ta quên đi tính độc nhất của mỗi bệnh nhân, với phẩm giá và yếu đuối của họ. Bệnh nhân luôn quan trọng hơn căn bệnh của họ, và vì lý do này, mà mọi phương pháp điều trị không được bỏ qua bệnh sử, tiền sử, lo lắng của bệnh nhân.
Ngay cả khi không thể chữa khỏi, nhân viên y tế luôn có thể an ủi, tạo cho bệnh nhân cảm giác gần gũi, thể hiện sự quan tâm. Vì lý do này, tôi hy vọng các khóa đào tạo nhân viên y tế có thể tạo ra khả năng lắng nghe và chiều kích tương quan”.(Sứ điệp của đức thánh cha Phanxico ngày thế giới bệnh nhân 2022)
Trong dòng thời gian từ 1858 đến nay, người tín hữu Chúa Kitô, hành hương sang hang đá Đức mẹ Lourdes cầu xin ơn chữa lành bệnh nạn tinh thần cũng như thể xác không chỉ là nhu cầu khẩn thiết cho riêng đời sống con người của mình.
Nhưng cung cách sống đạo đức tin đó còn nói lên lòng tin sâu thẳm vào Thiên Chúa, cùng lòng yêu thương muốn bảo vệ gìn giữ món qùa tặng cao qúi thiên nhiên mà Thiên Chúa ban cho nhân loại: con người và sức khoẻ.
Lễ Đức Mẹ Lourdes 11.02.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh về Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho sự sống cùng quan phòng nuôi dưỡng, như cha mẹ. Nhưng không ai nhìn thấy Ngài bằng chính con mắt.
Trái lại đó đây trong các thánh đường đền đài nơi thờ phượng tôn kính, cả ở nơi nhà riêng đều có những hình tượng về Thiên Chúa, như tượng hình Thiên Chúa ba ngôi, tượng hình Chúa Giêsu Kitô, Đức mẹ Maria cùng các Thánh.
Trong Kinh Tjánh từ thời thánh tiên tri Mose xa xưa có luật cấm tạc vẽ hình tượng Thiên Chúa
“ Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” ( Sách Xuất Hành 20,4, Sách Đệ nhị Luật 5,8).
Vì thế nơi Hội Đường Do Thái Giáo không có hình tượng tranh ảnh về Thiên Chúa. Nhưng chỉ có cuộn sách Tora Kinh Thánh Cựu Ước trên nơi cung thánh.
Vì nghĩ tin tưởng rằng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, qúa to lớm vượt qúa khỏi tầm suy hiểu của trí khôn con người. Và như thế con người không thể thu gọn Ngài nơi một hình ảnh hay bức tượng hay một hình ảnh biểu tượng nào.
Dẫu vậy hình ảnh về Thiên Chúa cũng tìm thấy trong Kinh Thánh qua ngôn ngữ chữ viết.
Ngôn sứ Isaia đã diễn tả hình ảnh về Thiên Chúa đầy uy phong quyền năng thần thánh như một vị Vua, trong thị kiến, khi Thiên Chúa kêu gọi ông sai đi làm Ngôn sứ ở đền thờ Jerusalem. ( Isaia 6,1-2, 3-8).
Bằng ngôn từ vẽ diễn tả Thiên Chúa nơi hoàng cung trên trời cung giống tựa như một hình ảnh vị hoàng đế nơi trần gian ở cung đình vua chúa. Thiên Chúa là vị Vua của thế giới hoàn vũ có tên là Giave. Sức mạnh uy quyền vinh quang của Ngài vượt qua khỏi mọi khung hình nơi chốn trên mặt đất. Sự xuất hiện của Thiên Chúa Giavê phủ kín tràn đầy cả đền thờ.
Ngôn từ biểu tượng hình ảnh này nhắc nhớ đến hình ảnh tượng các vị Vua Pharao bên xứ nước Aicập thời cổ xưa. Hình tượng các vị Vua Pharao được khắc vẽ tạc có hình con rắn thần Ureus với đôi cánh làm biểu tượng bảo vệ cho triều thiên vương miện vua, và cũng bảo vệ cả cung vua. Hình ảnh này không chỉ phổ biến bên nước Aicập, nhưng còn cả ở bên nước Do Thái cũng được biết đến ngay từ thời Ngôn sứ Isaia.
Lời tung hô ca hát Thiên Chua Giave là Đấng Thánh, mà Ngôn sứ Isaia nghe trong thị kiến do các Thần Sốt Mến ( Serafin) ca hát, ngày nay trong nghi lễ Misa được dùng hát lên long trọng ca tụng Thiên Chúa.
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa". Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà cửa đều đầy khói.”
Hình ảnh Các Thiên Thần Serafin với đôi cánh đứng qùi trước ngai Thiên Chúa trên trời ca hát ca ngợi Thiên Chúa diễn tả sự uy hùng Thánh thiêng của Thiên Chúa uy linh cao cả. Và đôi cánh của họ cũng diễn tả sự bảo vệ Thiên Chúa uy linh cao cả trước những tấn công của thần dữ.
Ngày nay người tín hữu Chúa Giêsu Kitô hát chúc tụng Thiên Chúa, như các Thiên Thần Serafin trên trời thi hành, không phải để bảo vệ Thiên Chúa, nhưng để xin được bảo vệ từ Thiên Chúa cho đời sống mình.
Ca ngợi sự thánh thiêng nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa vô hình, không phải để nói lên sự uy hùng cao xa diệu vợi của Ngài.
Nhưng muốn nói lên tâm tư suy hiểu tin tưởng rằng Thiên Chúa là người mẹ đầy tình yêu thương che chở đùm bọc, là người cha hằng quan tâm lo lắng cho người con, là người mục tử nhân lành lo cho sự no đủ, sức khoẻ của đoàn vật.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh đời sống bước sang năm mới
- Viết bởi Dân Chúa
Bước sang năm mới con người xưa nay có tâm trạng vui mừng đón Tết mới, đón mùa Xuân mới. Con đường đời sống tiếp tục di chuyển như dòng sông chảy tiến vào không gian cùng thời gian năm mới. Nhưng nhiều người tự hỏi Ta cần gì cho tương lai năm mới nhằm giúp đời sống phát triển vươn lên tốt đẹp?
Mỗi người tìm câu trả lời riêng cho mình, tùy theo suy nghĩ mong muốn của mình.
Và chắc không ít người tìm ra câu trả lời cho mình: Cần có mong ước cùng dự phóng cho những chương trình hoạch định, cho đích điểm muốn đạt tới. Cho dù từ hai năm nay đời sống trong cơn khủng hoảng vì bệnh đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khỏe đời sống làm cho mọi sinh hoạt bị ngưng giới hạn đình trệ làm tinh thần suy giảm nhuệ khí!
Như vậy có thể hiểu mong ước dự phóng là tầm nhìn hướng về phía trước, muốn vẽ phác họa điều tích cực mong muốn thoát khỏi cảnh cơn khủng hoảng, cho đời sống có niềm hy vọng.
Đây là điều tốt cùng cần thiết cho đời sống được phát triển vươn lên. Ước mơ dự phóng là kết qủa của những suy nghĩ sâu thẳm tận trong tâm hồn con người, cùng ẩn hiện nguồn sức năng động khơi niềm phấn khởi hướng lên cao.
Và như vậy có thể nói được, sức mạnh đối nghịch lại với mong ước dự phóng là nản chí buông xuôi đầu hàng.
Cố Mục sư Martin Luther King bên Hoa Kỳ, năm 1963 có ước mơ dự phóng to lớn vĩ đại qua bài diễn văn thần thoại I have a Dream, đã có suy nghĩ phát biểu: „Người nào có đởm lược dám mơ ước, người đó có đủ sức mạnh chiến đấu.”
Ngày xưa Christoph Columbus (* 1451 ở Genua + 20.05.1506 ở Valladoid) đã có mơ ước dự phóng: bên kia „Terra finistra“, tận cùng biên giới của thế giới vùng bờ biển nước Tây ban Nha, còn có thể khám phá tìm ra vùng đất nước mới nữa... Và kết qủa Ông đã tìm khám phá ra châu Mỹ Latinh năm 1492.
Văn hào Antoine de Saint - Exupery có suy tư: “Khi bạn dự định đóng một con tầu, không phải chỉ đi thu thập người làm, cùng sắm gỗ, vật liệu cần thiết, đinh, búa... Nhưng Bạn phải nghĩ đến việc khơi lên nơi trái tim tâm hồn con người muốn ra khơi vượt đại dương.“.
Và luôn hằng có những người đạt được thành công to lớn trong đời sống. Vì họ đã có những mong ước dự phóng như đà thúc đẩy ý chí can đảm dám xông pha vượt khó khăn gian khổ.
Bệnh đại dịch Covid 19 từ hai năm nay lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Nó gây ra khủng hoảng hoang mang cho con người. Sống trong khủng hoảng, nhưng có những nhà khoa học trên thế giới luôn hằng nỗ lực kiên trì khảo cứu, thí nghiệm tìm cách phát triển chế biến loại Vaxin chủng ngừa, thuốc chữa bệnh để ngăn ngừa, điều trị chữa chứng bệnh nguy hiểm này. Họ luôn nuôi mong ước dự phóng hướng về một tương lai tốt đẹp mang lại sự lành mạnh an toàn cho nhân loại.
Trong tâm hồn chúng ta có những ước mơ tốt đẹp cho đời sống mình, cho dù có khi không đạt được như ý mong muốn trông chờ. Nhưng bao lâu còn mong ước được là nói lên đời sống còn khoẻ mạnh nơi các cơ quan thể xác, cùng sức lực tinh thần hăng hái muốn vươn lên.
Trong tâm trí suy nghĩ chúng ta còn có những ước mơ về một nếp sống đạo đức tinh thần lành mạnh, về công bình bác ái, về tình liên đới giữa con người với nhau, về lòng biết, hiếu thảo với tổ tiên, cùng mong ước sống làm việc hữu ích tốt đẹp góp công sức cùng xây dựng cho đời cũng như cho đạo giáo. Cung cách nếp sống như thế lành mạnh giúp cho tinh thần có sức lực can đảm chống trả lại những cám dỗ sự xấu, sự dữ.
Khi nghĩ đến những hy sinh cố gắng trong đời sống đức tin của mọi người, Thánh Gioan Tông Đồ đã viết nhắn nhủ lại: „Anh em phải có dự phóng canh chừng đừng để đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng.“ (Thư 2. Ga 8)
Theo tập tục nếp sống văn hóa Á Đông xã hội Việt Nam, năm mới Nhâm Dần, vào ngày 01.02.2022, tiến vào không gian trời đất kết tạo nên thời gian mùa Xuân năm mới theo cách tính Âm Lịch. Năm mới Âm lịch có tên Nhâm Dần theo ngôn ngữ văn chương. Còn theo ngôn ngữ thông thường trong đời sống là năm con Cọp hay con Hổ.
Loài Hổ, loài Cọp là loài thú rừng hoang dã. Đặc tính của chúng là loài thú dữ ăn thịt những con vật khác trong rừng. Chúng là loài thú vật có bốn chân có sức khoẻ hùng mạnh cùng vóc dáng bộ mặt, tiếng gầm gừ cùng những chiếc răng nanh to nhọn, lộ vẻ tính khí dữ tợn, tầm nhìn sắc bén tinh xảo cùng đánh hơi tìm mồi nhạy bén.
Những phóng sự hình ảnh thu thập phim chiếu về loài thú dữ này trong các hang động vùng núi rừng gây cảm giác tiêu cực rùng rợn sợ hãi đe dọa. Nhưng dẫu vậy, chúng cũng có đặc tính tích cực khác nữa: con Hổ mẹ rất âu yếm bảo vệ thương con của nó, săn sóc cho con bú sữa no đủ, kiếm mồi nuôi con, và theo cung cách giáo dục chỉ dậy cho con mình cách săn mồi để biết sống tự lập sau này.
Đón mừng mùa Xuân năm mới, mừng Tết Nguyên Đán năm Nhâm Dần, chúng ta cùng cầu chúc cho nhau trong năm mới bằng an mạnh khoẻ hồn xác, và củng cố ý chí vươn lên nuôi mong ước dự phóng hữu ích tốt đẹp cho đời sống hôm nay và ngày mai, cho dù có những khó khăn thử thách, hay cả khi gặp thất bại trong đời sống.
“Ngoài đại dương những làn sóng bạc đầu dâng cao, đuổi nhau, chạy xô đập vào bờ biển làm bắn tung toé bọt sóng nước trắng phau lên bờ đá gồng ghềnh. Và rồi lại từ bờ đá sóng nứơc lấy đà tăng tốc độ chạy ngược trở ra ngoài khơi mênh mông. Ngọn sóng nước ầm vang như muốn gào thét thành lời:’’Đời sống là một cuộc đuổi chạy vòng vo uổng công lao sức lực đi tìm tự do.’’
Trên bầu trời cao, xa tít tận mây xanh chú chim Phượng Hoàng dương đôi cánh bay lượn, chao đi chao lại, oai nghi hùng dũng cất tiếng quát:’’Đời sống là vươn lên, vươn lên và vươn lên cao mãi!’’
Một cơn giông kéo tới sườn đồi, tạt mạnh qua cánh đồng cỏ mọc xanh rì. Khiến thảm cỏ xanh nằm rạp xuống tận mặt đất theo chiều gío và phát ra những âm thanh rì rào như lời phát vào không gian: Đời sống là một cuộc uốn mình: có lúc phải ngả nghiêng theo chiều gío, có lúc phải khép mình theo một trật tự; có lúc phải âm thầm im lìm ẩn khuất, nhất là những khi đường đời có nhiều gánh nặng, lo âu, có nhiều khó khăn phải vượt qua... Mặt trời đã lặn sang phía chân trời bên kia. Và màn đêm buông xuống bao phủ khắp cánh rừng. Trong lùm cây rậm rạp chú chim Cúmèo nhẹ nhàng chuyền từ cành này sang cành khác tìm mồi, thỏ thẻ lên tiếng: Đời sống chẳng qua là những cơ hội cho ta, khi những con vật khác đi ngủ!
Khu rừng bây giờ chìm hẳn trong đêm tối và trở nên yên lặng tĩnh mịch
Đêm đã khuya, xa xa trong một ngôi làng bên cạnh khu rừng, một cha xứ vừa thổi tắt ngọn đèn dầu hoa kỳ và nhủ thầm: Đời sống ư, quanh năm ngày tháng bận bịu với việc đọc sách báo và dọn bài. Đời sống có khác gì là một bài giảng!
Cũng trong ngôi làng đó một thầy giáo ngồi chấm bài, âm thầm suy nghĩ: Đới sống cũng chẳng khác gì hơn là suốt đời gắn liền với trường học!
Đêm đã về khuya, trên con đường vắng bóng người, một chàng trai lầm lũi, dáng điệu mệt mỏi thất thểu bước đi lẩm bẩm một mình: Cuộc đời nói cho cùng lúc có nhiều giai đoạn : lúc hứng khởi rộn ràng, lúc sống dửng dưng lạnh lùng, lúc có niềm vui, lúc sống trong sầu buồn thất vọng...!
Một cơn gío nhẹ trong đêm khuya thổi tạt qua, như muốn nói cùng chàng trai này: Phải rồi, cuộc đời là một chuỗi vô định, nào có ai biết được sẽ đi về đâu!
Đêm dài qua đi. Bình minh ló dạng. Mặt trời mỉm cười lên tiếng: Các bạn hãy xem đây, tôi mang niềm vui, ánh nắng sức sống cho vạn vật. Tôi là dấu hiệu khởi đầu cho một ngày mới. Cuộc đời là khởi đầu bước vào ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu!’’ (Theo truyện thần thoại xứ Thụy Điển: Das Maerchen vom Leben)
Chúc mừng Tết Nguyên Đán Nhâm Dần, 2022.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tín hiệu mùa Xuân Nhâm Dần
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào dịp lễ mừng như dịp cưới hỏi, sinh nhật, kỷ niệm hôn phối, lễ Chúa Gíang sinh, dịp đầu năm mới…chúng ta thường viết thiệp chúc mừng nhau.
Đây là cung cách sống vừa có văn hóa cao đẹp, vừa sống động tình nghĩa con người nhớ đến nhau, và cũng nói lên lòng biết ơn nhau nữa.
Lẽ tất nhiên ngày nay, thời đại điện tử kỹ thuật thông số, thay vì viết thiệp gửi qua đường bưu điện tem thư, càng ngày người ta viết thiệp nhiều hơn gửi qua đường Internet vừa nhanh lẹ, vừa tiết kiệm được nhiều thời giờ cùng tiền bạc…
Mùa Xuân năm mới âm lịch Nhâm Dần đang về với đất trời và lòng người, vào ngày 01.02.2022 dương lịch. Tấm thiệp chúng ta viết cho nhau những lời chúc Năm Mới tốt đẹp thắm thiết tình tự con người, trong đó có gói ghém chút ít suy nghĩ về Năm Mới nữa.
Chúng ta có suy nghĩ gì về hình ảnh tín hiệu năm mới âm lịch Nhâm Dần?
Viết cánh thiệp chúc mừng Năm Mới Nhâm Dần, chúng ta cũng muốn thu lượm những gì năm mới nói với chúng ta. Năm tháng ngày giờ đâu có để lại lời hay viết chữ nghĩa nào gửi đi cho con người. Nhưng nó lại nhắn gửi đi nhiều hình ảnh tín hiệu.
Hình ảnh tín hiệu thứ nhất là tên của năm mới. Năm mới Dương lịch có tên theo con số, như năm nay mang niên đại 2022. Đang khi năm mới Âm lịch, cách tính thời gian theo Mặt Trăng con nước, có tên theo truyền thuyết tập tục văn hóa khác, mỗi năm có một con thú vật đứng chủ trì cho năm đó.
Năm mới âm lịch có con Dần, là con Hổ, hay còn gọi là Cọp - đứng tên cho cả năm. Và con Hổ có thêm tên đệm chữ Nhâm đứng đàng trước thành năm Nhâm Dần.
Hình ảnh tín hiệu thứ hai là lối sống của con Dần. Hổ là loài thú vật dữ ăn thịt tươi sống như Nai, hưu, nai, chuột, chó sói con, heo rừng ... Chúng sống trong vùng núi cao, rừng rậm và được gọi là chúa của vùng đồi núi. Loài thú dữ này chạy rất nhanh, răng nhọn nanh vuốt sắc bén, đôi mắt sáng nhìn trời tối ban đêm rất tinh, tai thính, mũi ngửi mùi rất bén nhậy. Chúng chạy nhảy chuyền lượn lẹ làng nhẹ nhàng thoăn thoắt từ chỏm núi đá này sang chỏm núi đá bên kia. Chú Hổ được kể xếp vào loài mèo rừng.
Tuy được xếp vào loại giống mèo, nhưng chú Hổ có thân hình to lớn, nó có thể chạy nhảy phóng bay xa từ 2 mét tới 8 mét khi săn đuổi con mồi. Con Hổ mái có trọng lượng nặng tới gần 200 kílô; con Hổ trống có sức cân nặng đến hơn 300 kílô.
Loài Hổ sống tụ tập bên vùng rừng rậm ở các nước Indonesia, Ấn Độ, Trung quốc, Tây bá lợi Á. Mầu lông da của Hổ có nhiều vân rằn ri đẹp lắm. Ngày nay người ta chế biến kiểu mầu quần áo rằn ri đốm khoang đen trắng hay vàng giống như kiểu lông con Hổ, rất hấp dẫn khách hàng.
Hình ảnh tín hiệu thứ ba là biểu tượng giống tính của con Dần. Loài Hổ là loài thú vật biểu tượng của sức mạnh, yếu tố giống đực. Nhưng loài Hổ có da lông mầu trắng lại là biệu tượng loài thú vật giống cái.
Theo truyền thuyết của văn hóa xưa nay trong cách tính phân chia âm lịch bên phương trời văn hóa Á Đông, con Hổ đứng hàng thứ ba trong vòng 12 con thú vật của niên đại âm lịch.
Hình ảnh tín hiệu thứ tư là nhiệm vụ của năm Dần. Hình ảnh con Hổ được sơn hay vẽ dán ở trên cửa nhà với ý nghĩa mong muốn để canh giữ cửa nhà chống lại thần dữ, sự xấu.
Hình ảnh tín hiệu thứ năm là đặc tính của Hổ trong đời sống. Con Hổ có lối sống hung bạo. Nhưng lại có đặc tính can đảm và rất thương con của nó. Đặc tính này cần thiết cho con người trong đời sống. Ai cũng đã đang và sẽ còn trải qua những khúc đường đời sống phức tạp khó khăn. Những khi gặp vướng vào hòan cảnh như thế, lòng can đảm kiên trì cùng lòng thương người rất cần thiết giúp giữ vững ý chí vượt qua khó khăn. Có thế mới đạt tới đích điểm mong muốn.
Lòng can đảm không phải là tính cứng nhắc hay nhu nhược mềm yếu. Trái lại là lối sống âm thâm chịu đựng, biết tự trọng, không để cho con đường đời sống của mình bị ngoại cảnh chi phối làm lung lạc, một khi đã xác tín là tốt, là đúng cho đời mình rồi. Chả thế mà dân gian có ca dao ngạn ngữ làm phương châm cho đời sống:
„Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Thì ta cứ vững như kiềng ba chân.“
Từ hai năm nay - và cũng chưa hay không biết đến bao giờ mới thoát ra khỏi – nhân lọai sống trong khủng hoảng vì bị vi trùng đại dịch Covid 19 truyền nhiễm lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Mọi sinh hoạt bị ngưng đình trệ, bị giới hạn, sống trong lo sợ xa cách nhau, đề phòng cho khỏi bị lây nhiễm.
Về lâu dài đời sống tinh thần vì thế trở nên nặng nề uể oải. Trong hoàn cảnh này, sức mạnh củng cố cho tinh thần đứng vững rất cần thiết. Lòng can đảm giúp tâm trí tìm nhận ra lối cách sống cẩn trọng sáng suốt, cùng lòng thương yêu nhau, hầu có được bình an để vượt qua cơn khủng hoảng nặng nề đe dọa đời sống.
Trong đời sống đức tin Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ: “ Thầy nói với anh em, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” ( Phúc âm Thánh Gioan 16, 33).
Một đời sống can đảm cũng nói lên lòng trung thành với lý tưởng, với người mình dấn thân gắn bó yêu mến. Nhiều vợ chồng từ khi còn trẻ mới lập mái ấm gia đình với nhau, họ cùng can đảm chia sẻ với nhau bước đường chật vật thiếu thốn, có khi cả bệnh tật nữa, nhất là trong thời gian có con còn nhỏ thơ bé. Chính lòng cảm đảm chấp nhận khó khăn của người vợ hay của người chồng chịu đựng phấn đấu trải qua gian nan, đã giúp gia đình họ đứng vững trung thành với nhau. Và từ căn bản đó họ có niềm vui hạnh phúc.
Thánh Phaolo ngày xưa vượt biển đi truyền giáo gặp giông bão. Ông và đoàn tùy tùng bối rối lo sợ, nhưng khi cập bến cảng bình an gặp các tín hữu Chúa Giêsu ra đón tiếp, Ông vui mừng tạ ơn Thiên Chúa và lấy lại can đảm. ( Công vụ Tông đồ 28, 11-16).
Con đường đời sống trong năm mới Nhâm Dần đang mở ra phía trước, và có không ít những gian nan phức tạp về mọi mặt đức tin đạo giáo cũng như đời sống thường nhật sẽ xảy đến. Nhưng lòng can đảm là nhịp cầu cần thiết giúp duy trì lòng trung thành và ý chí vươn lên.
Chúc mừng mùa Xuân năm mới Nhâm Dần!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh đời sống hợp nhất
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Nếp sống hợp nhất là trung tâm sứ điệp tin mừng Chúa Giêsu rao giảng trên trần gian. Sứ điệp này luôn luôn thời sự cùng cần thiết cho đời sống có hòa bình trong mọi lãnh vực.
Chúa Giêsu trước khi trở về trời đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha cho các tông đồ, cho Giáo Hội “ xin cho họ hợp nhất nên một như chúng ta”.
Nếp sống hợp nhất luôn là khát vọng của con người. Nhưng lại là điều khó thực hiện. Vì mỗi người, mỗi dân tộc khác biệt nhau về tâm tính, văn hóa, tập qúan phong tục.
Vậy có hình ảnh nào diễn tả về nếp sống hợp nhất không?
Trong lịch sử dân gian xưa nay có nhiều những tường thuật, những ngụ ngôn nói về chuyện này.
Trong lịch sử thành Roma bên nước Ý đại Lợi đã xảy ra nhiều những diễn biến chia rẽ ly khai tách triệt chia rẽ thành hai chiến tuyến chống đối nhau. Sử gia Livius ( * 50 trước Chúa giáng sinh - + 17. sau Chúa giáng sinh) đã viết thuật lại biến cố dân Plebejer vào năm 449 trước Chúa giáng sinh đã ly khai xuất hành ra khỏi thành Roma.
Dân Plebejer là thành phần đa số của thành phố. Nhưng họ lại phải sống phục vụ làm việc cùng chiến đấu canh gác bảo vệ cho lớp người thượng lưu dân Patrizier, một thành phần thiểu số. Dân Plebejer phải sống chịu đựng phục dịch cảnh đau buồn không bình đẳng. Vì thế họ quyết định tập họp kéo ra khỏi thành phố về sống chung ở một khu đồi gần bên.
Thượng viện chính quyền và dân Patrizier rơi vào tình trạng hoảng loạn vì cuộc di dân xuất hành này. Thành phố Roma ngày xa xưa còn có vùng di dân xa lạ sát gần. Đây là mối đe dọa an ninh cho thành phố. Nên họ nhất trí muốn cùng chung sống trở lại với nhau. Họ cử sứ giả Menenius Agrippa đến nói chuyện thương thảo với dân Plebejer.
Lúc đầu dân Plebejer lạnh lùng tiếp sứ giả Agrippa, và không muốn nghe ông ta trình bày gì. Nhưng sau đó ông đã thành công thuyết phục họ nghe ông nói chuyện…
Sử gia Livius đã viết lại những lời huyền thoại mang hình ảnh dấu tích ẩn dụ của sứ giả Agrippa nói với dân ly khai Plebejer: “ Có chuyện xảy ra những thành phần chi thể của thân thể nổi lên chống đối Bao Tử. Tất cả cùng đồng lòng cho rằng: Bao Tử một mình trở nên vô ích không làm được việc gì, trong khi đó tất cả những thành phần khác phải làm việc. Nên chúng cũng từ chối không làm việc. Bàn Tay không muốn lấy thức ăn thực phẩm cho vào Miệng nữa. Miệng và Hàm Răng cũng cùng cung cách không muốn làm nhiệm vụ của mình.
Tình trạng như thế kéo dài không lâu. Vì tất cả các thành phần cơ thể cùng càng cảm nhận ra qua sự từ chối của họ, chính họ phải chịu đựng thiệt thòi nhiều nhất. Họ tỉnh ngộ nhận ra chức năng ý nghĩa và sự quan trọng của Bao Tử lo nghiền tiêu hóa những thức ăn thực phẩm đưa vào cơ thể, và nhờ đó mang lại cho các thành phần cơ quan sự sống và sức lực niềm vui phấn khởi! Vì thế các thành phần cơ quan thân thể cho rằng tốt hơn là sống hài hòa với Bao Tử, và hoạt động làm công việc của mình trở lại.
Vị Sứ gỉa khôn ngoan Menenius Agrippa đã thuyết phục dân ly khai Plebejer nhận ra chính điểm vị trí của họ: “ Cũng vậy trong quốc gia đất nước không ai có thể đứng tồn tại mà không có người khác. Chỉ trong sự hợp nhất nảy sinh gây sức mạnh.”
Dân Plebejer đòi ly khai xuất hành nghe hiểu chấp nhận những lý luận thuyết phục của sứ giả Agrippa. Nơi mỗi công việc chân tay, và tất cả những việc phục vụ khác không ai có thể từ chối kinh nghiệm và nghệ thuật điều hành của Thượng viện chính phủ. Sự tương quan và mối giao thương liên lạc với đất nước láng giềng bên cạnh là điều không thể làm ngơ bỏ qua được.
Trên căn bản đó dân Plebejer và dân Patrizier đã lập ra điều luật tuyệt hảo: Họ thỏa thuận thành lập cơ chế diễn đàn nhân dân. Cơ chế này dành quyền bổn phận cho dân Plebejer có tiếng nói được đề nghị can thiệp vào những biện pháp do dân Patrizier giới lãnh đạo thống trị ban hành.
Và dân Plebejer cũng được phủ quyết chống lại luật lệ nữa, nếu luật lệ chống lại họ. Qua đó, cơ chế diễn đàn nhân dân trong dòng thời gian được chấp nhận kính nể rộng rãi trong thành phố Roma.
Thánh Phaolô, được mệnh danh là Tông Đồ cho các dân ngoại có lẽ đã lấy ý nghĩa bài tường thuật văn hóa lịch sử ẩn dụ trên đây của Livius viết về thành Roma ngày xa xưa, để nói về hình ảnh sứ điệp hợp nhất trong nếp sống đạo giáo tinh thần với nhiều chi thể thành phần trong một thân thể cũng như đời sống có nhiều thành phần dân Chúa nơi cộng đoàn đức tin.
Mục đích của sứ điệp hướng đến sự liên kết tất cả mọi sức lực trong đời sống Giáo Hội, cụ thể là đời sống đức tin nơi Giáo đoàn Corinthô bên Hy Lạp lúc thời Thánh Phaolô sang giảng đạo. ( Thư 1. Corinthô 12,12-31).
Trung tâm sứ điệp là hình ảnh sự hợp nhất: tất cả cần nhờ nhau, không có thành phần nào, dù nhỏ bé, là dư thừa, là yếu kém, không có gía trị. Mỗi người, mỗi thành phần đều có khả năng vị trí bổn phận riêng của mình, cùng đều có gía trị hữu ích quan trọng như nhau.
Mọi thành phần sống làm việc bổn phận của mình để cùng giúp nâng đỡ nhau làm việc tiếp tục cho bộ máy chạy điều hòa. Đó là nếp sống đức tin trong hợp nhất.
Người tín hữu Chúa Kitô cùng chịu một Phép Rửa tin vào Chúa, cùng tiếp nhận Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu cho tâm hồn đức tin, cùng đọc Lời Chúa ghi thuật lại trong Phúc âm.
Nơi nào nếp sống hợp nhất của đức tin Kitô giáo thể hiện sống động trong sinh hoạt, hình ảnh Giáo hội Chúa Giêsu càng hiển thị rõ nét mang đến không khí hòa bình phấn khởi vươn lên.
Ngạn ngữ trong dân gian xưa nay có khôn ngoan” Hợp quần gây sức mạnh!”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
- Hình ảnh tiệc cưới Cana
- Hình ảnh ơn kêu gọi qua phép rửa
- Hình ảnh qùa tặng của ba nhà Chiêm Tinh
- Hình ảnh cánh cửa năm mới
- Hình ảnh ngày cuối năm bên hang đá Chúa giáng sinh
- Hình ảnh đêm thánh vô cùng
- Hình ảnh người mục đồng đêm Chúa sinh ra
- Hình ảnh địa danh Bethlehem
- Hình ảnh nếp sống lòng bác ái nhân đạo
- Hình ảnh Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội