Hình ảnh ngọn đèn cháy sáng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khi trời tối ban đêm, hay cả khi ban ngày trong nhà đóng cửa kín không có ánh sáng chiếu lọt vào, luôn cần có ánh sáng của đèn dầu,hay đèn điện chiếu tỏa soi đường chỉ lối cho sinh hoạt trong cuộc sống.
Ánh sáng ngọn đèn cháy sáng mang đến niềm vui, không khí phấn chấn an ủi cho con người cùng cả thú vật nữa, như cho người bệnh, cho thú vật nuôi nhốt trong chuồng, trong rừng hoang…
Ánh sáng chiếu tỏa từ ngọn đèn xóa tan đẩy lùi bóng tối tăm sang một bên. Khuôn mặt những vật thể khi có ánh sáng chiếu dọi tới lộ diện ra được nhìn thấy rõ rệt hơn.
Các xe hơi lúc chạy trên đường ngày cũng như đêm, nhất là khi đi vào đường hầm u tối…cũng bật đèn sáng không phải chỉ để chiếu sáng cho thấy rõ đường, nhưng còn để được các xe khác cùng chiều chạy song song bên cạnh, hay xe chạy hướng ngược chiều tuyến bên cạnh nhìn thấy mà tránh khỏi bị tai nạn va chạm đụng vào nhau..
Ánh sáng ngọn đèn chiếu soi mang đến trật tự toàn cho đời sống.
Ngọn đèn cháy sáng báo hiệu người cầm đèn vẫn còn tỉnh thức, vẫn còn chờ đợi.
Cha mẹ thường bật đốt một ngọn đèn nhỏ trong phòng con nhỏ thơ ấu của mình. Khi em bé giật mình thức giấc mà nhìn thấy ánh sáng ngọn đèn em sẽ bớt sợ hãi kêu la khóc lóc.
Có những cha mẹ dùng ngọn đèn có cảm biến, hễ khi nào người con thức giấc kêu khóc, ngọn đèn sẽ tự động bật sáng lên để báo hiệu.
Trong căn phòng của người bệnh, người cao niên cũng thường hay bố trí có ngọn đèn nhỏ cháy sáng mờ nhạt vào ban đêm, để giúp họ bớt cảm thấy cô đơn sợ hãi.
Có những căn nhà trang bị những ngọn đèn tự động chiếu sáng vào ban đêm tối trời. Hễ khi có người hay con vật nào chạy ngang qua, ngọn đèn bật chiếu sáng lên báo hiệu nhà được canh giữ.
Ánh sáng ngọn đèn chiếu tỏa sự an ninh.
Chúa Kitô Giêsu đã dùng dụ ngôn năm người trinh nữ canh thức cầm đèn đón chờ chủ rể tới ( Mt 25,1-13) nói lên ý nghĩa của ngọn đèn cháy sáng: chúng tôi luôn sẵn sàng chờ đợi. Ngọn đèn cháy sáng trên tay chúng tôi là dấu hiệu không những chúng tôi còn tỉnh thức, nhưng nhiều hơn thế nữa. Tình yêu mến của chúng tôi luôn có để ngọn đèn cháy sáng, cho dù phải chờ đợi lâu cả trong mỏi mệt, cho dù phải cố gắng nỗ lực hy sinh.
Về tình trạng đời sống tâm linh phải sẵn sàng, Chúa Kitô Giesu dùng ngọn đèn cháy sáng làm hình ảnh ví dụ cho cung cách đời sống đạo đức tinh thần với Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên đời sống con người.
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay.” ( Lc 12,35).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh lễ Misa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ vài năm nay dấy lên làn sóng tranh luận về thánh lễ Misa cử hành theo phụng vụ canh tân từ Công đồng Vaticano II. năm 1965 bằng tiếng địa phương mỗi dân tộc, và phụng vụ theo Tridentino, thánh lễ bằng tiếng Latinh cũ thời trước Công đồng Vaticano II.
Đức Giáo hoàng, bây giờ đang nghỉ hưu, Benedictô XVI. năm 2007 bằng tự sắc SUMMORUM PONTIFICUM đã qui định cho phép được cử hành Thánh lễ Misa theo phụng vụ Tridentino cũ bằng tiếng Latinh
Và bây giờ đức Giáo hoàng đương kim Phanxico bằng tự sắc Traditionis Custodes ra qui định mới có phần giới hạn việc cử hành thánh lễ Misa theo truyền thống Tridentino cũ bằng tiếng Latinh.
Hằng ngày, hằng tuần, người Công Giáo đi tham dự Thánh lễ Misa nơi các xứ đạo được cử hành trong Giáo hội bằng tiếng địa phương.
Cung cách sống đức tin theo tập tục thói quen đạo đức là việc tốt lành. Nhưng nếu việc làm đạo đức của đức tin tình yêu mến ăn sâu rễ trong vùng trí khôn hiểu biết, sẽ giúp đời sống có nhiều ý nghĩa sâu đậm cùng vững chắc hơn.
Vẫn biết tin là việc của trái tim tình yêu. Suy nghĩ, tìm tòi hiểu biết thuộc về lãnh vực của trí khôn lý trí. Nhưng đời sống con người chúng ta cần cả hai. Tình yêu hay đức tin cần sự suy nghĩ tìm tòi hiểu biết của trí khôn về điều mình tin yêu. Như thế điều yêu mến, điều tin có cơ sở nền tảng cùng trở nên trong sáng.
Trí khôn tìm tòi suy nghĩ cũng cần đến trái tim tình yêu mến cùng lòng tin. Có thế, điều hiểu biết của trí khôn không trở nên chai đá lạnh lùng, hay dửng dưng với sự sống, với thiên nhiên cùng những điều bí ẩn mầu nhiệm trong đất trời, mà trí khôn giới hạn của con người không sao suy hiểu hết, cùng vươn sang tới được.
Hình ảnh Thánh lễ Misa chúng ta tham dự mang lại ý nghĩa gì cho đời sống con người?
Theo Giáo lý Công giáo Thánh lễ Misa là lễ tế tạ ơn Thiên Chúa . Là nguồn mạch và là trung tâm cùng cao điểm của đời sống đức tin người Công giáo.
Trong đời sống hầu như vào mọi thời đại cùng mọi nơi đều có những lễ mừng lớn nhỏ tưởng niệm đến những biến cố hiến tế hy sinh.
Nhà văn Khái Hưng trong tập truyện „ Anh phải sống“ thuật lại truyện một người mẹ đã hy sinh chịu chết chìm giữa dòng sông, để cho người chồng sống sót bơi vào bờ nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.
„ Bỗng Lạc run run khẽ nói: Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái bé!...không…Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.“ ( Khái Hưng, truyện Anh phải sống)
Những người con và chồng chị Lạc suốt đời, hằng ngày tưởng nhớ với lòng đau buồn thương mến cùng biết ơn sự hy sinh cao của người mẹ, của người vợ thân yêu.
Những buổi lễ tưởng nhớ hoặc công khai với tiếng hát, lời kinh, hoặc âm thầm trong tâm hồn, của con người nhớ đến lễ hiến tế sự hy sinh những người đã sống cho người khác hằng ngày , hằng tuần hằng năm hay vào những dịp kỷ niệm, là nhu cầu của đời sống nội tâm tinh thần con người.
Đó là nhu cầu của lòng biết ơn.
Như thế phải chăng Thánh lễ Misa cũng có chiều kích tương tự như thế sao?
Lẽ dĩ nhiên hình ảnh so sánh trên đây không thể nói lên hết nội dung ý nghĩa của Thánh lễ Misa, dù chỉ là một cắt nghĩa trợ giúp cho dễ hiểu thôi.
Trong Thánh lễ Misa chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến sự chết của Chúa Giêsu trên thánh gía, nhưng Thánh lễ Misa trình bày mầu nhiệm ẩn kín diễn tả sự cứu chuộc của Chúa Giêsu cho linh hồn con người thoát khỏi cảnh hình phạt linh hồn phải chết, mà từ khi Ông Bà nguyên tổ Adong-Eva đã phạm tội và bị Thiên Chúa ra án phạt phải chết.
Không phải bài giảng, cũng không phải phần rước lễ là trung điểm của Thánh lễ Misa. Nhưng là sự cứu chuộc cho linh hồn con người chúng ta, mà Chúa Giêsu đã mang đến qua của lễ hiến tế bằng chính sự sống của Ngài.
Nói đến của lễ hiến tế, người Công giáo chúng ta thường hiểu theo như đã được dậy bảo: cần phải sống sao càng nhiều là của lễ hiến tế, để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Hay liên kết của lễ hiến tế của Chúa Giêsu trên thánh gía như là ý muốn của Thiên Chúa đòi buộc Chúa Giêsu là con Thiên Chúa phải làm như thế.
Lễ hiến tế thật ra có ý nghĩa dâng lên cho Thiên Chúa, những gì Thiên Chúa ban cho con người ở dưới đất trần gian. Những điều đó thuộc về Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ Misa chúng ta đem đời sống mình hòa nhập vào đời sống Thiên Chúa, mà chúng ta đã lãnh nhận từ nơi Ngài. Làm như thế chúng ta có được bầu khí sự tự do thong dong. Và như vậy, ta không cần phải mang đem theo điều gì, cùng không phải làm gì trước như thành tích công trạng đem trình bày lấy phần thưởng. Chúng ta giữ đời sống mình thuộc vào trong vòng ân đức của Thiên Chúa là đủ cùng chính đáng. Ngài biết chúng ta là ai và chúng ta có nhu cầu gì.
Một ý nghĩa nữa của lễ hiến tế là sự hy sinh. Trong Kinh Thánh diễn tả sự chết của Chúa Giêsu là lễ hiến tế. Điều này nói lên Chúa Giêsu đã làm trọn vẹn đầy đủ tình yêu thông qua sự hy sinh đến chết trên thặp tự.
Kinh Thánh không nói đến Thiên Chúa đã yêu cầu Chúa Giêsu con mình phải là của lễ hiến tế chết trên Thánh gía. Chúa Giêsu được sai đến trần gian không phải để chịu chết, nhưng để loan báo Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa.
Khi xuống trần gian Chúa Giêsu đã nhận ra sự va chạm với giới Thầy cả Luật sĩ thời đó, những nhà thông thái phái Saduxeo, phái Phariseo có thể dẫn đến sự chết cho chính Ngài. Biết vậy, nhưng Ngài không chạy trốn, vẫn một tâm nguyện trung thành đứng về phía những người thuộc về mình, cùng chứng tỏ tình yêu mình qua sự chết.
Chúa Giêsu Ngài đã muốn tình yêu mình, không vì bị hành hạ khổ nhục cho tới chết, trở thành tiêu tan ra vô ích. Nhưng đó là sự hy sinh cho những người tin theo Ngài. Như Ngài đã nói: Thầy hiến đời sống mình cho đoàn chiên…Không ai lấy mạng sống của Thầy đi được, nhưng chính Thầy hy sinh mạng sống mình cho họ.“ ( Ga 10,15-18)
Như thế sự chết của Chúa Giêsu nói lên cường độ sâu thẳm tình yêu mến của Ngài. Ngài đã yêu mến con người không giữ lại gì, và cho đến tận cùng.
Sự chết của Ngài cũng còn nói lên sự tự do cùng sự thản nhiên tự chủ chính mình. Ngài đã tự nguyện hy sinh chết cho con người.
Trong khi cử hành dâng Thánh lễ Misa là lễ tạ ơn, chúng ta đặt đời sống mình trong vòng tình yêu của Chúa Giêsu. Chúng ta tưởng nhớ với tâm hồn sâu thẳm đến hiến tế trên Thánh gía của Chúa Giêsu, là hiến tế tình yêu có sức cảm hóa làm thay đổi tâm hồn ta, cùng mang đến ân đức cứu chuộc cho linh hồn con người.
Thánh lễ Misa là lễ tế tạ ơn, tưởng niệm nguồn ơn chuộc của Chúa Giêsu hy sinh chịu chết trên Thánh gía cho con người.
Thánh lễ Misa là trung tâm cùng cao điểm của đời sống đức tin người Công giáo. Qua đó những người tín hữu Chúa Kitô cùng nhau đọc kinh cầu nguyện, ca hát mừng kính Thiên Chúa, và đồng thời củng cố tình liên đới với nhau trong cùng một đức tin, một Phép Rửa vào Một Thiên Chúa là Cha.
Thánh lễ Misa là cung cách sống đức tin của Giáo Hội, của người tín hữu Chúa Kitô còn đang trên con đường đời sống trên trần gian. Và khi cử hành tham dự Thánh lễ Misa người tín hữu cũng nhớ đến những người thân yêu ruột đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Đó là cung cách sống lòng hiếu thảo biết ơn, và cũng là điều tin nhận mầu nhiệm các Thánh cùng thông công: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau.“.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hành trang trong đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mỗi khi đi đâu xa, như lúc đi nghỉ hè, đi hành hương, hay đi du lịch tham quan thắng cảnh, ai cũng thường sửa soạn hành trang đồ dùng cá nhân cần thiết xếp gói vào Va-li mang theo.
Nhưng nhiều khi, chắc ai cũng đã có kinh nghiệm, mang nhiều hành trang đồ dùng qúa phải mang xách va-li nặng kéo lê chỉ thêm mệt. Vì mang theo cả những hành trang đồ dùng ưa thích tưởng là sẽ cần dùng tới, cùng cả đồ không cần dùng tới nữa.
Mang nhiều hành trang cần thiết cùng cả hành trang ham thích và không cần dùng. Nhưng có một hành trang thường hay quên ít được chú ý tới: mục đích của nghỉ hè, mục đích của hành hương! Mà loại thứ hành trang này gọn nhẹ cùng cần thiết nhất!
Còn trong đời sống, hành trang gì cần phải mang theo ?
Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi đến với con người, mang Lời Chúa đến cho họ. Ngài nhắn nhủ họ rất khác lạ:
„Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.“ ( Mc 6,7-13 )
Tại sao Chúa Giêsu lại bảo các Tông đồ đi đến với con người nhưng không được mang theo cái gì gây vướng trở kể cả thức ăn nước uống, quần áo đồ dùng? Trong trường hợp gặp lúc đói khát thì xoay trở thế nào đây?
Ai đã có kinh nghiệm khi đi xa bằng xe lửa, lúc xuống bến trạm phải lôi kéo hành lý túi xách cồng kềnh nặng, rồi còn phải đi đường xa nữa, lúc đó thấm mệt. Vì mang kéo đồ vừa nặng vừa nhiều, nên không đi nhanh được, chỉ đi từng quãng rồi lại dừng nghỉ lấy hơi sức. Rồi lại còn phải chú ý không biết có còn quên để lại trên xe không, hay dọc đường bị vướng vào cục đá bậc gồ ghề làm rách vali…
Chưa hết, những khi phải đổi xe lửa ở trạm dọc dường, lúc đó những gói túi va li cồng kềnh là một gánh nặng phải khuân kéo sang bến trạm chỗ khác. Và lúc đó thầm nghĩ: Phải chi mình mang theo ít đồ có phải nhẹ tiện hơn không. Như thế cuộc nghỉ hè, du lịch sẽ vui, có ý nghĩa tốt biết mấy !
Và suy nghĩ đồ đạc đâu quan trọng bằng mục đích của nghỉ hè, của du lịch tham quan thắng cảnh, sống rộn lên trong tâm trí càng rõ nét hơn.
Với Chúa Giêsu cũng thế. Nên khi sai các Tông đồ, Ngài nhắn bảo các ông mang theo điều quan trọng thôi: mang lời Chúa đến cho con người.
Các Tông đồ mang đến cho con người Lời Chúa. Họ kể thuật gì về Lời Chúa cho con người?
-Công trình sáng tạo trong thiên nhiên là ngôi nhà do Thiên Chúa sáng tạo dựng nên cùng gìn giữ cho luôn xanh tốt đổi mới.
-Sự sống mỗi con người, khả năng thể xác cũng như tâm trí tinh thần là báu vật ân phúc của Thiên Chúa trao tặng con người.
-Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời cao xuống thế làm người mang ơn cứu độ phần rỗi linh hồn cho con người bị vướng vào vòng tội lỗi, mà loài người hằng mong chờ.
-Chúa Giêsu đến khuyên bảo con người sống theo giới răn tình yêu thương: mến yêu Thiên Chúa và yêu mến kính trọng con người.
-Nước Thiên Chúa là nước tình yêu thương, tha thứ làm hòa.
-Con đường hy sinh trong đời sống không chỉ là số phận của con người, nhưng là gía trị giúp xây dựng đời sống: lửa thử vàng, gian nan thử đức!
Không phải những túi xách vali đồ đạc cồng kềnh nặng nề quan trọng cho cuộc nghỉ hè, cuộc du lịch tham quan thắng cảnh, nhưng chính cuộc nghỉ hè, cuộc du lịch.
Trong nghỉ hè, đi du lịch, ai cũng muốn nghỉ ngơi, muốn nhìn xem thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt nếp sống văn hóa của con người nơi vùng đó. Và cũng muốn có thời giờ để cùng bạn bè hay người quen thân đi dạo, nói chuyện, cùng làm quen với những người lạ gặp gỡ dọc đường. Để thực hiện những điều đó, chỉ cần mang theo loại hành trang nhỏ gọn.
Đến đất nước ngôn ngữ xứ lạ, cuốn từ điển nào cũng không giúp gì bao nhiêu. Nếu quên không biết nói làm sao, chân tay, đôi con mắt, những ngón tay giúp phần nào ra dấu hiệu diễn tả điều ta mong muốn nói gì.
Nụ cười thân thiện là tiếng nói mang lại niềm vui, cùng là tín hiệu cho người khác nhận ra điều gì đang mong cần giúp đỡ.
Hành trang quan trọng trong cuộc sống con người cần mang theo và có thể trao cho người khác được là tình yêu thương.
Thứ lọai hành trang này vừa gọn nhẹ vừa cần thiết ở trong trái tim tâm hồn mỗi người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh sai đi tới con người
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay trong nếp sống Hội Thánh có nghi thức sai đi vào những dịp sau đại hội đức tin, sau đại hội thánh mẫu, lễ mừng kỷ niệm năm thánh, hay sau khóa học hỏi về phụng vụ về mục vụ…
Các Thỉnh nguyện viện được cử sai đi làm công việc bác ái, công việc truyền giáo dậy giáo lý, cùng đồng hành với con người nơi môi trường sinh sống giữa dòng đời sống xã hội.
Một nhiệm vụ sống gần gũi đời sống với con người và chan chứa lòng đạo đức tinh thần.
Ngày xưa Chúa Giêsu Kitô cũng sai các môn đệ ra đi như thế “ Ngài chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.”
Hình ảnh này diễn tả điều gì về đời sống đạo giáo đức tin?
Các đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ các nước bên Âu Châu đưa tin mừng Chúa Giêsu Kitô sang các nước bên Á Châu, trong đó có đất nước Việt Nam. Hội Thánh Chúa được thành lập phát triển nơi các xã hội đất nước đó, và bên các nước ở Phi Châu, Nam Mỹ và Đại dưng Châu cũng theo con đường truyền giáo tương tự như vây.
Các vị Thừa Sai được Hội Thánh Chúa cử sai đi đến những nơi đó làm công việc loan truyền đức tin tinh thần đạo giáo vào Thiên Chúa cho con người.
Trong dòng lịch sử thời gian, việc sai đi làm công việc truyền giáo đã có nhiều thay đổi. Việc truyền giáo càng ngày càng được nhấn mạnh tập trung vào nền văn hóa tập tục, vào tinh thần lòng nhiệt thành hăng say của chính người dân nơi đất nước họ đang sinh sống.
Đời sống đức tin của họ vào Thiên Chúa là nhân chứng, là lời loan truyền tin mừng Chúa cho người khác. Việc truyền giáo đi liền với việc sống hội nhập vào nếp sống văn hóa xã hội, nơi con người sinh sống.
Một chị phụ nữ người Phi Châu trong cuộc hội thảo bàn luận về việc truyền giáo đã có phát biểu ý kiến về kinh nghiệm của xứ đạo bên đó “ Chúng tôi cử sai các anh chị em đến các làng mạc sống làm việc loan truyền tin mừng vào Chúa, không với các sách vở bích chương cắt nghĩa tuyên truyền quảng bá về đức tin. Nhưng là những gia đình sống thực hành tốt đời sống đức tin vào Thiên Chúa, để mọi người nhìn thấy thế nào là nếp sống Kitô giáo.”.
Ý kiến kinh nghiệm này sống động cùng cụ thể, như trong dân gian có ngạn ngữ khôn ngoan” Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo!
Có câu chuyện thuật lại về đời sống của Thánh Phanxico thành Assisi: Thánh nhân và một thầy tu trẻ tuổi đã cùng nhau đi vào thành phố và rao giảng nơi đó. Họ đi rảo qua các con đường trong thành phố và nói chuyện với nhau về đời sống cộng đoàn, về nếp sống đức tin của mình. Sau đó hai người trở về tu viện, người tu sĩ trẻ nói với Thánh Phanxico trong thái độ hoảng hốt kinh ngạc: Thưa Thầy, dọc đường phố chúng ta đã quên không giảng giải gì cả!
Thánh Phanxicô mỉm cười đặt tay lên vai học trò nói: ” Này con, chúng ta đã trong suốt thời gian đã không làm gì khác đâu. Mọi người đã nhìn quan sát thầy trò chúng ta trò truyện, khuôn mặt chúng ta, cung cách chúng ta xử sự với nhau. Có những phần chúng ta nói chuyện với nhau họ cũng nghe thấy cả. Như thế chúng ta đã rao giảng rồi vậy. Ra đi đến với đời sống con người là rao giảng rồi...”
Lời chứng này nhắc nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu Kitô nói với các Tông Đồ trước khi về trời:” Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp cả miền Judea, Samaria và cho đến tận cùng trái đất. ( Công vụ Tông đồ 1,8).
Làm chứng cho Chúa vượt qua mọi ranh giới hình thể thể địa lý đất nước châu lục vũ trụ.
Làm chứng cho Chúa vượt qua mọi ranh giới thời gian ngày giờ năm tháng, thế kỷ.
Làm chứng cho Chúa nơi con người ở mọi tầng lớp xã hội, mọi nền văn hóa, tập tục hoàn cảnh đời sống cùng tâm lý của họ nữa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh „Năm xưa cây sồi làng Fatima“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Fatima xưa kia là một ngôi làng nhỏ miền thôn quê, nhưng trong thời gian lịch sử đã trở thành tỉnh thành phố nhỏ của nước Portugal thuộc vùng Vila Nova de Ourém, cách thủ đô Lissabon 130 cây vể hưóng Bắc. Diện tích thành phố Fatima vào khoảng 71 cây số vuông với dân số hơn kém 10.000 người.
Quân Mauren đã chiếm thống trị vùng Santarem và năm 1147 người Công giáo Portugal đã chiếm lại vùng này. Tên thành phố „Fatima“ ngày nay có lịch sử từ cuộc chiến trên.
Theo lịch sử truyền lại, có tương truyền trong dân gian, Fatima là con gái của một vị hoàng tộc người Maure đến chiếm đóng vùng Santarem. Cô gái xinh đẹp được đặt tên Fatima là con gái thứ tư của Tiên tri Mahomed, người sáng lập đạo Hồi giáo.
Năm 1158 sau khi người Công giáo chiếm lại Santarem, người phụ nữ xinh đẹp này bị bắt cóc và đem giao nộp cho Ông Hoàng xứ Ourem. Tình yêu nảy nở giữa hai người, họ lấy nhau và cô ta chịu rửa tội gia nhập đạo Công giáo. Vì thế, tên Fatima sau này gia đình vị hoàng tộc đó đặt cho nơi đó, nơi bà Fatima được an táng sau khi qua đời.
Tỉnh nhỏ Fatima trở nên thánh địa hành hương nổi tiếng khắp thế giới vì Đức mẹ đã hiện ra nơi đây.
Fatima trở thành trung tâm hành hương lòng sùng kính Đức Mẹ Maria của nước Portugal và của Gíao Hội Công Giáo hoàn cầu. Mùa hành hương diễn ra từ tháng 05. tới tháng 10. Hằng ngày trong thời gian này đều có buổi lần hạt mân côi, rước kiệu Đức Mẹ Fatima với nến cháy sáng hát bài Ave Maria theo cung điệu của Fatima nước Portugal lúc 21.00 giờ rất lung linh huyền nhiệm.
- 1. Đức mẹ Maria hiện ra ở Fatima
Chỉ ở Fatima trước khi Đức mẹ hiện ra với ba em nhỏ chăn chiên cừu năm 1917 ở thôn Alijustrel, Thiên Thần năm 1916 đã hiện ra dạy cho các em biết cầu nguyện, cho các em rước lễ.
Đức mẹ đã hiện ra với ba em Lucia 10 tuổi, Phanxico 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi tất cả 6 lần vào các ngày 13. từ tháng Năm đến tháng Mười 1917. riêng hiện ra lần thứ tư không vào ngày 13.08. nhưng vào ngày 19.08.1917 vì hôm 13.08. 1917 ba em em bị nhà cầm quyền Vila Nova de Ourem bắt giam trong ba ngày.
Khi hiện ra với ba em, theo lời ba em thuật lại „ Bà đã hiện ra nơi cây sồi“ ở Cova da Iria . Bây giờ nơi thánh địa đó một nhà nguyện được xây dựng năm 1919 bên cạnh có cây sồi to lớn rào kín chung quanh làm di tích kỷ niệm biến cố lịch sử là năm xưa.
Nơi ngôi nhà nguyện mái bằng nhỏ đơn sơ này chung quang không có tường vách, hằng ngày đều có Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ, có bức tượng Đức Mẹ Fatima, từ sáng sớm tới chiều tối các đoàn hành hương các dân tộc có thể đến xin dâng lễ riêng cho đoàn mình nơi ngôi nhà nguyện lịch sử này.
- 2. Sứ điệp Đức mẹ Fatima
Khi hiện ra Đức mẹ nói với ba trẻ:“ Ta muốn các con tiếp tục lần chuỗi mân côi mỗi ngày cho những người tội lỗi. Hãy hy sinh cầu nguyện cho nhữnng người tội lỗi với lời nguyện: „Lạy Chúa, con xin dâng việc hy sinh này vì lòng mến Chúa cho kẻ có tội ăn năn trở lại, và để đền tạ những sự xúc phạm đến trái tim vẹn sạch Đức mẹ“. Ta muốn các con dâng mình cho trái tim vẹn sạch của ta, và rước lễ đền tạ mỗi thứ bảy đầu tháng. Nếu các con nghe lời Ta, nước Nga sẽ trở lại, thế giới sẽ được hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ phổ biến các sai lầm trên toàn thế giới gây ra chiến tranh và bách hại Giáo hội, nhiều người tốt lành sẽ bị chết vì đạo, đức thánh cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt, Nhưng sau cùng trái tim mẹ sẽ thắng.“.
- 3. Ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra
Từ ngày 13. Tháng Năm 2022 là năm mừng kỷ niệm biến cố lịch sử Đức mẹ hiện ra ở Fatima được đúng tròn 105 năm.
Những lễ mừng kỷ niệm biến cố lịch sử 105 năm, những chuyến hành hương sang Fatima được tổ chức trong suốt cả năm kỷ niệm. Đức Thánh Cha Phanxico cũng hành hương sang Fatima dịp này. Trung tâm Fatima cũng xây dựng con đường hành hương trong khu thánh địa để khách hành hương có thể đi theo con đường đó đến các trạm dừng lại cầu nguyện.
Hai em chăn chiên cừu được Đức mẹ hiện ra ở trên cây sồi vùng Cova da Ira là Phanxico và Jacinta được Đức Thánh Cha Phanxico tôn phong lên hàng Hiển Thánh trong Hội Thánh Công gíao vào ngày 13. Tháng Năm 2022 dịp mừng kỷ niệm 105 năm.
Thánh trẻ Phancico Marto sinh ngày 11.06.1908 ở Aljustrel, qua đời ngày 04.04.1919 ở Aljustrel Fatima. Trước hết thi hài em được an táng nơi nghĩa trang Fatima, và được cải táng đưa vào Vương cung Thánh Đường Fatima ngày 13.03.1952 cạnh bàn thờ Chúa Thánh Thần.
Thánh trẻ Jacinta Marto sinh ngày 11.03.1910, qua đời ngày 20.02.1920 ở bệnh viện Lissabon. Thi hài được an táng ở Vila Nova de Ourem cho đến ngày 12.09.1935. Sau đó được cải táng đưa về nghĩa trang Fatima, và lại được cải táng đưa vào Vương cung thánh đường Fatimma cạnh bàn thờ Truyền tin.
Hai em đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị phong lên hàng Chân phước ngày 13. Tháng Năm 2000 ở Fatima, dịp ngài sang hành hương lần thứ ba kính viếng và tạ ơn Đức mẹ Fatima đã cứu sống ngài thoát chết khi bị ám sát vào đúng ngày 13.05. 1981 ở Vatican.
Nữ tu Lucia, Lucia de Jesus dos Santos, sinh ngày 22.03.1907 ở Aljustrel Fatima, qua đời ngày 13. 02. 2005 ở Coimbra. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, năm 1948 Chị Lucia vào dòng kín Carmel ở Coimbra trong nhà Dòng kín cho tới khi qua đời.
Ngày 15.02.2005 ngày an táng Nữ tu Lucia toàn thể nước Portugal để tang là ngày quốc tắng để vinh danh Chị nữ tu trong lịch sử nước Portugal ngày xưa năm 1917 đã được Đức mẹ hiện ra ở Fatima. Và ngày 19.02.2006 thi hài Vị Nữ tu Lucia đưa cải mộ đem về an táng trong Vương cung Thánh đường Fatimabên cạnh hai vị Thánh Jacinta và Phanxico.
Và tiến trình phong Thánh cho Nữ tu Lucia đang trong giai đoạn lập dự án theo như luật Giáo Hội ấn định.
- 4. Hành hương kính viếng Đức Mẹ Fatima
Suốt dọc thời gian từ 105 năm nay, hàng triệu người trên khắp thế giới trong suốt cả năm kéo về thánh địa Fatima hành hương kính viếng Đức Mẹ, dâng thánh lễ, lần hạt đọc kinh cầu khấn. Cung cách sống đạo hành hương bình dân thôi, nhưng thế hiện đức tin sống động vào Chúa qua việc sùng kính lòng yêu mến tôn kính Đức mẹ là mẹ Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxico đã có tâm tình về ý nghĩa hành hương: ”Hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
”Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.”
Hằng tháng vào những ngày 12. và 13. là ngày cao điểm mùa hành hương, nhất là từ tháng Năm tới tháng Mười.
Vào chiều tối ngày 12. hằng tháng vào lúc 21.00 giờ lần hạt kính Đức mẹ bằng các thứ ngôn ngữ được chọn, sau đó hàng ngàn Gíao dân tay cầm nến cháy sáng cùng với đoàn kiệu có Vị Hồng Y , các Giám mục và hàng trăm Linh mục mặc phẩm phục trắng rước kiệu Đức mẹ Fatima vòng sân công trường Fatima đến lễ đài cuối Vương cung thánh đướng Fatima dâng thánh lễ mở đầu đêm canh thức hành hương tới 24.00 giờ.
Sáng ngày 13. hằng tháng ngày hành hương kỷ niệm Đức mẹ hiện ra vào lúc 09.00 giờ lần hạt, sau đó rước kiệu Đức mẹ ra ngoài công trường như hồi đêm canh thức, dâng thánh lễ đại trào kính Đức Mẹ. Sau Thánh lễ có Chầu Thánh Thể, ban phép lành cho các bệnh nhân và rước kiệu từ giã Đức Mẹ kết thúc ngày hành hương vào khoảng 12.00 giờ.
Hằng ngày tối nào cũng có lần hạt rước kiệu Đức Mẹ ngắn và nhỏ thôi với khoảng vài trăm cho tới một ngàn người ở công trường Fatima.
Ngôi Vương cung thánh đường kính Đức Mẹ Fatima cũ Basilica Antiga, được xây năm 1928, tháp chuông cao 56 mét, trên nóc tháp có triều thiên vĩ đại bằng đồng nặng 07 tấn. Trong nhà thờ có ba ngôi mộ của Chân Phước Phanxicô, Jaxinta và Lucia.
Vương cung thánh đường càng ngày càng trở nên nhỏ với số lượng khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn kéo đổ về. Vì thế một ngôi vương cung thánh đường kính Chúa Ba Ngôi -Igreja da Santissima Trindade- mới hiện đại đã được xây cất, và ngày 12.10. 2007 đã được khánh thành.
Ngôi thánh đường mới ở cuối quảng trường Fatima đối diện với Vương cung thánh đường cũ ở phía đàng cuối công trường. Ngôi thánh đường mới này có chu vi rộng 125 mét, có chỗ ngồi cho gần 9000 người trong lòng nhà thờ, cổng chính mang tên Chúa Giêsu với 64 mét vuông, chung quanh có 12 cửa ra vào với tên của 12 Thánh Tông Đồ.
Đây là ngôi thánh đường lớn thứ tư trên thế giới của Giáo Hội Công Giáo được xây cất vào thế kỷ thứ 21. Trong ngôi thánh đường này có nhiều nhà nguyện nhỏ khác nhau cho những nhóm hành hương muốn dâng lễ riêng.
Bên cạnh quảng trường Thánh địa Fatima có Bảo tàng viện trưng bày những di tích kỷ vật về Fatima, đặc biệt có triều thiên Đức Mẹ với viên đạn đã bắn làm bị thương Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị năm 1981. Triều thiên này vào những ngày 12. và 13. từ tháng 05. tới tháng 10. được đội lên tượng Đức Mẹ Fatima đem ra rước kiệu.
Khu chặng đàng Thánh gía nằm trong một khu rừng nhỏ. Cũng trong khu này có địa điểm với bức tượng Thiên Thần hiện ra trao Mình Thánh Chúa cho ba trẻ.
Cuối chặng đàng Thánh Gía có nhà nguyện kính Thánh Etienne, do người tỵ nạn Công Giáo Hung gia Lợi dâng cúng năm 1964.
Ở ngoài bìa khu rừng đàng Thánh giá có hai ngôi nhà di tích lịch của gia đình ba trẻ ngày xưa đã sinh ra và lớn lên. Trong khu vườn phía sau có giếng nước, nơi đây Thiên Thần đã hiện ra với ba trẻ. Còn giếng nước ngày xưa và có tượng Thiên Thần và tượng ba trẻ bằng đá cẩm thạch mầu trắng..
‘Thiên Thần hiện ra với ba trẻ dạy ba em cầu nguyện và cho các em rước lễ, Thiên Thần mặc áo mầu trắng.
Khi hiện ra trên cây sồi ở Fatima Đức mẹ mặc áo trắng.
Và trong sứ điệp thứ ba của Fatima mà Nữ tu Lucia viết lại như lời Đức mẹ đã nói với chị đề cập đến „vị Giám mục mặc áo trắng“ bị ám sát.
Có lẽ vì thế những Thánh đường xây dựng ở khu thánh địa Fatima cũ cũng như mới tường vách đều bằng mầu đá trắng, cả những trạm bàn thờ của 14 chặng đường thập gía Chúa Giêsu cũng xây dựng bằng đá mầu trắng.
Và ngày 13. hằng tháng, sau thánh lễ hành hương kết thúc ngày hành hương từ lễ đài Vương cung thánh đường trở về nhà nguyện thánh địa, mọi người tay giơ lên cao vẫy tấm khăn mầu trắng chào từ biệt khi kiệu Đức Mẹ đi ngang qua. Thật là một quang cảnh đầy cảm động và thi vị như một biển nước mầu trắng đang chuyển động hòa chung vào tiếng hát ca tụng Đức Mẹ vang lên khắp cả bầu trời nắng buổi trưa giữa công trường rộng lớn.
Mầu trắng là mầu ánh sáng, chỉ về sự trong trắng và toàn vẹn. Khi một em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tối, tấm áo trắng được trao mặc cho em: chiếc áo trắng rửa tối. Và ngày sau cùng của đời sống người qua đời cũng được tẩm liệm mặc áo mầu trắng. Như thế có thể suy ra mầu trắng cho khởi đầu và cho sau cùng!
Và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan nói đến cảnh đoàn người mặc áo trắng đứng trước Con Chiên Thiên Chúa trên trời .
Mầu trắng là mầu biểu hiệu của Đức mẹ Fatima, mẹ Chúa trời hiển vinh.
105 năm Đức mẹ hiện ra ở Fatima
1917- 13.07.2022
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh với trái tim và linh hồn.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh Thánh cựu ước thuật lại, Tiên tri Mose ngày xưa vâng mệnh Thiên Chúa đã dẫn dắt dân Do Thái trong cuộc xuất hành từ nước Ai cập trở về quê hương đất nước Do Thái.
Thiên Chúa đã truyền ban cho dân qua Mose những lề luật họ phải tuân giữ trong đời sống. Nhưng dân chúng đã có thời sống xa lạ quên giữ luật lệ của Thiên Chúa. Vì thế Tiên tri Mose đã đưa ra những khuyến cáo kêu gọi : Hãy sống trở về cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn.”, như sách Đệ Nhị luật ghi thuật lại (30,10-14).
Thế nào là hình ảnh chất chứa ý nghĩa hết lòng hết linh hồn?
Những lời này tiên tri Mose là người Do Thái nói với người Do Thái, nên ẩn chứa nguồn gốc văn hóa của Do Thái.
Trong văn hóa Do Thái trái tim và cổ họng/ hơi thở là hai phần thân thể cơ quan được hiểu là phần đi ra trước bên ngoài của thân thể.
Trái tim là nơi chốn bao trùm những suy nghĩ ý tưởng, tình cảm và lương tâm nhiều hơn. Nơi trái tim diễn xảy bao gồm những xúc động tận trong thâm tâm, không chỉ những cảm xúc tình cảm, nhưng còn có cả những suy nghĩ theo chiều lý trí nữa.
Tất cả những gì gây xúc động cho con người, những gì con người suy nghĩ và cảm nhận, đều diễn xảy ra nơi trái tim.
Trái tim con người là một kỳ công hoàn hảo tuyệt diệu lạ lùng do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho. Nên theo Mose tất cả những chuyển động tận trong thâm tâm của con người cần phải trở về hướng tới ý của Thiên Chúa, hướng tới theo lề luật cho phép và không cho phép, mà Thiên Chúa đã loan truyền ban cho.
Hết trái tim và hết cả cổ họng hơi thở là toàn thể sức sống, nhất là những nhu cầu đời sống con người. Như thế tất cả những nhu cầu đời sống hướng trở về Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng nên con người với thân xác và với trái tim cùng cổ họng hơi thở tận thâm tâm.
Tiên tri Mose đã khuyến khích dân chúng tuân giữ lề luật của Thiên Chúa trong đời sống mình. Vì đó là điều tối thượng cần thiết . Lời Chúa ở trong đời sống con người: “ Lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi".
Mỗi khi người tín hữu Chúa Giêsu Kitô làm những cử chỉ dấu thánh gía bằng bàn tay trên trán, trên môi miệng và trên lồng ngực là lời cầu nguyện tuyên xưng:
Trên trán muốn tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa bằng trí khôn hiểu biết,
Trên miệng muốn tuyên xưng bằng lời nói qua môi miệng hơi thở,
Và trên ngực muốn tuyên xưng lòng yêu mến bằng trái tim của mình trong lồng ngực.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh đặt tay truyền chức thánh
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm trong khoảng thời gian từ sau lễ mừng Chúa Phục sinh, vào tháng Tư dương lịch, đến mùa Hè, ở hầu hết các Giáo phận Công giáo trên thế giới có lễ truyền chức Linh mục cho các ứng sinh linh mục sau những năm tháng học hành tu trì tập luyện khoa thần học, khoa tu đức, khoa Kinh Thánh và khoa mục vụ ở các trường đại chủng viện.
Vậy thế nào là hình ảnh Bí tích truyền chức linh mục ?
Trong Hội Thánh Công giáo, như người tín hữu Công giáo thường vào Chúa nhật đọc kinh Hội Thánh có bẩy phép Bí Tích: Rửa tội, Giải tội, Mình Thánh Chúa, Thêm sức, Hôn phối, Truyền chức thánh, và Xức dầu.
Bí tích Truyền chức thánh có ba cấp bậc: Chức Phó Tế, chức Linh mục và chức Giám Mục.
Bí tích chức Phó Tế cho những ứng sinh sẽ được lãnh nhận Bí tích chức Linh mục. Có thể nói Chức Phó tế là bước thứ nhất để chuẩn bị lãnh nhận chức Linh mục.
Từ sau Công đồng Vaticano II. năm 1965, chức Phó Tế vĩnh viễn dành cho nam giới được thiết lập, hay đúng hơn được phục hồi sống lại, trong Hội Thánh Công giáo. Những vị được nhận lãnh bí tích Phó tế vĩnh viễn là những người nam có gia đình, và họ không tiếp tục được nhận lãnh bí tích chức linh mục.
Các vị được nhận lãnh chức thánh Phó tế vĩnh viễn cũng trải qua thời gian ở trường đạo tạo về thần học, kinh thánh, phụng vu, mục vụ bí tích, lịch sử Hội Thánh. Điều kiện tuổi tác cùng trí thức cũng như đạo đức của các vị Phó tế vĩnh viễn được tùy theo Giám mục mỗi Giáo phận ấn định theo nhu cầu tại chỗ. Các vị Phó tế vĩnh viễn là những vị có chức thánh phụ giúp việc bàn thờ trong các nghi lễ phụng vụ, việc bác ái nơi các xứ đạo.
Chức Linh mục theo giáo luật Hội Thánh Công giáo Roma qui định, do đức Giám mục tuyển chọn những người phái nam chọn bậc sống độc thân, ban truyền cho. Linh mục là cộng sự viên trợ giúp đức giám mục giáo phận trong việc mục vụ cử hành các Bí Tích cho người giáo dân nơi các xứ đạo trong giáo phận.
Linh mục được Đức giám mục tuyển chọn truyền chức cho và sai gửi đi sống làm việc mục vụ ở xứ đạo với những người tín hữu Chúa Kitô nơi đó. Nhiệm vụ của ông không chỉ thu gọn trong việc cử hành các Bí Tích theo nhu cầu mục vụ tinh thần đạo đức, trong khuôn viên thánh đường, nhưng còn trải rộng ra là người sống làm chứng cho tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa, mà ông rao giảng loan truyền. Đây là một đòi hỏi thách đố cho ông, nhưng ông không một mình. Trái lại Thiên Chúa, Đấng kêu gọi ông trở thành linh mục ban ân đức sức trợ giúp, và cả người giáo hữu cũng nâng đỡ tinh thần cho.
Và trước khi được lãnh nhận Bí Tích chức Linh mục, ông phải trải qua thời gian đào tạo huấn luyện. Các ứng sinh Linh mục được đào tạo về mặt trí thức và đạo đức, cùng cung cách sống xử sự trong chiều tương quan với Thiên Chúa, nguồn đức tin, và với con người trong xã hội, nơi sau này họ cùng đồng hành sinh hoạt làm việc mục vụ.
Họ được huấn luyện tập tành không phải để trở nên người đã hoàn hảo hay như một máy móc tự động. Không, họ vẫn là con người với khả năng giới hạn về mọi mặt. Nhưng họ phải hai chân đứng trên mặt đất, và luôn nhận thức nhu cầu cần phải học hành tu luyện thêm, như Hội Thánh Chúa luôn trên con đường lữ hành trần gian, có bước đi tiến tới, và cũng luôn có nhu cầu phải phản tỉnh suy nghĩ lại để đổi mới cung cách xử sự bước đi. Không ai là con người hoàn toàn cả!
Trong nghi lễ Bí tích truyền chức thánh linh mục có nghi thức đặt tay của Đức giám mục chủ sự trên đỉnh đầu ứng sinh Linh mục.
Sau khi toàn thể dân Chúa hiện diện trong buổi lễ đọc hát Kinh cầu các Thánh, đức Giám mục chủ lễ sẽ đọc lời cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hóa ban chức Linh mục cho các ứng sinh chịu chức. Và sau đó từng ứng sinh lên trước vị chủ lễ, ngài sẽ âm thầm đặt hai bàn tay trên đỉnh đầu tân chức. Với nghi thức này họ trở thành linh mục, Tư Tế của Chúa trong Hội Thánh.
Và sau đó các vị giám mục, các linh mục có mặt trong buổi lễ cũng lần lượt đến đặt tay trên từng tân linh mục, để nói lên tình liên đới huynh đệ linh mục đoàn trong Hội Thánh phục vụ dân Chúa nơi Giáo phận.
Nghi lễ đặt tay phong chức thánh không là điều phát minh của Hội Thánh Kitô giáo, nhưng có nguồn gốc trong Kinh Thánh từ thời xa xưa.
Trong sách Dân Số (27,18-22) tường thuật lại Ông Jusua được Thánh Tiên tri Mose đặt tay truyền chức theo ý muốn của Thiên Chúa:
“ ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi mình, và ngươi sẽ đặt tay trên nó.19 Ngươi sẽ cho nó đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. Ngươi sẽ truyền lệnh cho nó trước mắt chúng.20 Ngươi sẽ chia cho nó một phần uy quyền của ngươi, để toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời nó.21 Nó sẽ đứng trước mặt tư tế E-la-da. Tư tế sẽ đến trước nhan ĐỨC CHÚA mà xin thẻ xăm u-rim cho nó. Theo lệnh của tư tế, toàn thể cộng đồng, nghĩa là nó và mọi con cái Ít-ra-en, sẽ ra sẽ vào."
22 Ông Mô-sê đã làm như ĐỨC CHÚA truyền cho ông: Ông đã đem theo Giô-suê và cho ông này đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng.23 Ông đặt tay trên ông Giô-suê và ra lệnh cho ông ấy như ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà phán.”
Trong sách Kinh Thánh tân ước nghi thức đặt tay giữ vai trò quan trọng với việc trao quyền nhiệm vụ trong Hội Thánh. Các vị tông đồ Phaolo và Barnabê đã tuyển chọn những vị lo việc tư tế thờ phượng cho các Cộng đoàn xứ đạo, mà các ngài đã thành lập. Sau khi cầu nguyện và đặt tay Thánh Phaolo và Barnabê đã truyền chức linh mục cho họ.( CV 14,2-24).
Cử chỉ đặt tay trên đỉnh đầu diễn tả sự tin tưởng tràn đầy lòng yêu thương. Xưa nay các bậc ông bà cha mẹ gia đình thường hay dùng bàn tay xoa đầu con cháu mình, nói lên tình yêu thương, sự vui mừng gần gũi lo lắng. Và con cháu khi được bàn tay ông bà cha mẹ xoa phủ trên đầu cảm nhận được chúc phúc lành, tình yêu thương âu yếm an ủi vỗ về dành cho mình.
Tân linh mục được Thiên Chúa qua Hội Thánh đặt tay chúc phúc ban truyền cho chức thánh linh mục để làm nhiệm vụ tư tế, nhiệm vụ loan truyền tình thương yêu của Chúa cho con người.
Tân linh mục được Chúa qua bàn tay của Hội Thánh chúc phúc, nên họ cũng dùng bàn tay mình mang phép lành chúc phúc của Chúa tiếp tục đến cho con người, qua đời sống là nhân chứng, và việc phụn g vụ tế lễ cử hành các Bí Tích của Hội Thánh.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh thời sự Giáo Hội Công giáo nước Đức
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Giáo Hội Công giáo nước Đức được biết đến với những cơ cấu truyền thống về nếp sống đức tin, về cơ sở cùng tài chánh, và nhất là việc quảng đại bác ái trợ giúp các dự án cho các Giáo phận, Dòng Tu…trên thế giới.
Từ ngày 01.tháng Mười Hai 2019 Giáo hội Công giáo nước Đức được bình luận nói đến nhiều hơn nữa. Vì Giáo hội nơi đây tổ chức chương trình cải cách xét lại con đường sống đức tin làm sao cho phù hợp với những thách thức đòi hỏi của thời đại: Con đường công nghị.
Con đường công nghị được Hội đồng Giám mục Đức cùng với Ủy ban trung ương người giáo dân Công giáo nước Đức –Zentralkomitee der deutschen Katholiken(ZdK) đề xướng tổ chức những cuộc hội thảo bàn luận xét lại về vai trò của nữ giới trong đời sống Giáo hội, về độc thân đời sống Linh mục, về giáo huấn luân lý giới tính, về việc quản trị trong Giáo Hội.
Những đề tài nóng bỏng thời sự này gây chia rẽ, hiểu trái ngược với truyền thống trong nếp sống Giáo hội hoàn vũ. Và cũng đưa đến sự hoang mang cho mọi người, cùng đã có những tiếng nói ý kiến trên thế giới phản bác cảnh cáo chống lại Con đường công nghị. Nhưng những cuộc hội thảo bàn luận vẫn không dừng lại…
Con đường Công nghị mong muốn khôi phục lại đời sống thực hành đức tin, ít là trong lòng Giáo Hội nước Đức. Vì nơi đây đang gặp cơn khủng hoảng trầm trọng mất sự tin tưởng, do tình trạng lạm dụng tình dục từ những thập niên qua.
Hôm 27.06.2022 Hội đồng Giám mục Công giáo nước Đức, như hằng năm, đưa ra bản thống kê về tình trạng đời sống Giáo hội nơi đây cho năm đã qua 2021.
Những con số thống kê không phản ảnh tích cực như Con đường Công nghị mong muốn. Giáo hội Công giáo nước Đức có 27 Giáo Phận với 21.645.875 tín hữu Công giáo, tương đương với 26 % dân số nước Đức.
Vì số giáo dân càng ngày càng giảm ít đi, nên các Giáo phận đã đưa ra những đề án cải cách về cấu trúc những xứ đạo gần nhau hợp chung lại thành một giáo xứ. Như Tổng Giáo Phận Cologne bây giờ thu gọn còn 186 đơn vị liên giáo xứ, mỗi đơn vị có hai Linh mục coi sóc chịu trách nhiệm về mục vụ. Và có chương trình đề án năm 2030 sẽ có còn khoảng hơn kém 60 vùng mục vụ trong toàn Tổng giáo Phận. Nơi các Giáo phận khác cũng đã và đang có chương trình cải cách cấu trúc các xứ đạo lại cho thích hợp với nhu cầu thời đại.
Năm 2021 có 9.790 giáo xứ với 12.280 Linh mục cai quản, cùng với 3.253 vị Phó tế vĩnh viễn, 3.198 vị Giảng viên Giáo lý cấp độ 1. ( Pastoralreferenten) Nữ và Nam, và 4.318 Vị Giảng viên Giáo Lý cấp độ 2. ( Gemeinderefernten) Nữ và Nam.
Năm 2021 có 62 tân Linh mục được phong chức cho Giáo hội nước Đức: 48 tân Linh mục triều thuộc các Giáo phận và 14 tân Linh mục Dòng thuộc các Dòng tu.
Theo tin tức từ Giáo Hội Công giáo Việt Nam, riêng năm 2022 có 141 tân Linh mục được phong chức trong các Giáo phận bên Việt Nam.
Số giáo dân tham dự Thánh lễ năm 2021 là 4,3 % , giảm so với năm 2020 là 5,9%.
Làn sóng số người tín hữu Công giáo quay lưng ra khỏi Giáo Hội năm 2021 đạt tới mức kỷ lục 359.338 người ( so với năm 2020 có 221.390 người, năm 2019 có 272.771 người xin ra khỏi nhà thờ).
Con số thống kê về tình trạng số người quay lưng xin ra khỏi Giáo hội nước Đức thật ảm đạm. Con số mất mát này nhiều hơn tổng số giáo dân sống giữ đạo của giáo Phận Vinh bên Việt Nam với 296.636 giáo dân, và nhiều hơn cả số giáo dân sống giữ đạo của Giáo phận Long Xuyên với 232.526 giáo dân.
Theo dự đoán năm 2060 số người tín hữu Chúa Kitô, cả Giáo hội Công giáo và Tin lành, sẽ còn giảm nữa, có thể không đạt tới một phần ba dân số toàn nước Đức.
Ngày xưa cách đây hằng trăm năm những vị Thừa Sai xuất thân từ bên Âu Châu, nôi của đạo Công giáo, nôi nền văn minh Kitô giáo, sang truyền giáo gieo vãi tin mừng đạo Công giáo đến các nước bên Á Châu, Phi Châu, Nam Mỹ…Nhưng ngày nay chính Giáo Hội địa phương nơi đây đang lâm vào tình trạng con đường khủng hoảng suy giảm đưa ra những đề án canh tân xét lại thu gọn nhỏ lại về số lượng lẫn cả chất lượng.
Dẫu vậy, Lời Chúa Giêsu đoan hứa từ ngàn xưa vẫn luôn là đà sức lực, điểm tựa cho đời sống đức tin hôm qua, hôm nay và ngày mai, : “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” ( Mt 28, 20).
Lễ mừng kính hai Thánh Phero và Phaolo Tông đồ, 29.06.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hai khuôn mặt của Thánh Phero và Phaolo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nơi đền thờ Thánh Phero bên Vatican, thành Roma bên nước Ý, ngay nơi sân hai bên cạnh những bậc thềm vào đền thờ có hai pho tượng to lớn Thánh Phero và Thánh Phaolô bằng đá cẩm thạch. Hai pho tượng hai vị Thánh này nhắc nhớ đến hai khuôn mặt vĩ đại nhất trong lịch sử Hội Thánh Công giáo.
Hình ảnh hai khuôn mặt vĩ đại này trình bày hội Thánh Chúa như thế nào?
Hình ảnh hai khuôn mặt vĩ đại này biểu hiện sự khác biệt và sự đa dạng trong dòng lịch sử Hội Thánh Công giáo.
Thánh Phero được Chúa Giêsu kêu gọi là môn đệ trực tiếp theo Chúa ngay từ lúc đầu khi Chúa Giêsu đi ra giảng nước Thiên Chúa ở miền vùng Galilee. Trong hàng 12 Môn đệ đầu tiên Chúa Giêsu, Phero là vị môn đệ được xếp hạng thứ nhất.. Tên của Phero do chính Chúa Giêsu đặt cho mang ý nghĩa là “ tảng đá”. Danh hiệu này báo trước sau này Hội Thánh Chúa ở trần gian được xây dựng trên nền tảng đá vững chắc kiên cố.
Phero là người đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống công khai trước Chúa Giêsu và anh em các môn đệ khác.( Mt 16,16).
Sau khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, được mai táng trong mồ dưới lòng đất và đã chỗi dậy sống lại, Phero là một trong những nhân chứng đầu tiên ra thăm viếng ngôi mộ Chúa Giêsu, nhưng không còn nhìn thấy xác Chúa Giêsu nằm nơi đây nữa, mà Ngài đã chỗi dậy sống lại.
Thánh Phaolô là nhà thần học khoa đạo đức kinh thánh đầu tiên của Kitô giáo về giáo lý của Chúa Giêsu kitô. Những suy tư thần học này Ông đã viết lại trong các thư gửi cho các Giáo đoàn mà ông đã đến rao giảng giáo lý của Chúa, mà xưa nay trở thành kho tàng căn bản Giáo lý của Hội Thánh Chúa.
Phaolô là người đã mở đường từ nước Do Thái sang tận các đất nước bên vùng Âu Châu rao giảng thành lập các Giáo đoàn cho tin mừng nước Chúa Giêsu ở trần gian. Với công việc truyền giáo lan rộng trong khắp đế quốc Roma thời đó, Phaolo được mệnh danh là “ Vị Tông đồ muôn dân”.
Vị Tông đồ này, tuy không thuộc vào hàng 12 vị Tông đồ trực tiếp với Chúa Giêsu, nhưng với việc ra đi truyền giáo cho muôn dân bên ngoài nước Do Thái, Ông như người bắc nhịp cầu vươn sang hội nhập vào nền văn hóa Roma Hylạp, và đặt nền móng căn bản cho đạo giáo văn minh Kitô giáo bên vùng các nước Âu Châu được biết đến cùng phát triển thịnh vượng.
Hai khuôn mặt, hai cột trụ kiên cố vĩ đại sáng ngời của Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô, nhưng hai khuôn mặt vĩ đại này cũng có lịch sử qúa khứ với bóng tối che lấp bao phủ.
Hai vị cũng có mặt yếu điểm khiếm khuyết và mặt sáng trong đời sống.
Như Phúc âm Chúa Giêsu thuật lại, lúc Chúa Giêsu, Thầy mình bị bắt thẩm vấn, Ông Phero đã ba lần chối bỏ Thầy mình: tôi không biết Người đó là ai, khi bị người ta hỏi.
Nhưng may mắn thay, Phero đã nghe tiếng gà gáy sáng nhớ lại lời Thầy mình đã tiên báo nói trước, ăn năn khóc lóc xin Chúa tha thứ cho tội chối bỏ Thầy Mình.
Sau khi Chúa sống lại Ngài đã hiện ra với các Tông đồ bên bờ hồ Galileo, dịp này Phero đã ba lần tuyên xưng: Con yêu mến Thầy, và được Chúa Giêsu trao cho quyền đứng đầu Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Phaolô là người trước đó đã tìm mọi phương cách đi truy lùng bắt các tín hữu Chúa Kitô, ông muốn tiêu diệt không cho tin theo giáo lý của Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng cú ngã ngựa trên đường đi Damaskus lùng bắt các tín hữu Chúa Kitô được Chúa Giêsu hiện ra soi sáng đã khiến Phaolô ăn năn hối cải trở lại thành vị Tông đồ nhiệt thành hăng say mang tin mừng Chúa Giêsu ra bên ngoài nước Do Thái cho mọi dân nước bên Âu Châu.
Hai khuôn mặt thánh vĩ đại của Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô đã sống trung thực với con người mình như Chúa tạo dựng nên mình.
Phero một người trực tính lạ nhát gan chối bỏ Thầy mình. Nhưng lại là người sống tình cảm biết nhận tội lỗi ăn năn thống hối xin ơn tha thứ, cùng biểu lộ niềm tin tình cảm: Thưa Thầy, con yêu mến Thầy.
Phaolô một nhà trí thức, một người đem nhiệt huyết theo truyền thống Do Thái giáo phủ nhận cùng quyết bài trừ đức tin Kitô giáo của Chúa Giêsu Kitô. Biến cố ngã ngựa thành Damaskus với tiến nói của Chúa Giêsu đã không chỉ ban cho Phaolô ơn kêu gọi trở thành Tông đồ Chúa Giêsu Kitô, nhưng còn là sự thức tỉnh khiến ông ăn năn thống hối trở về với đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Nền trí thức và bầu nhiệt huyết của Phaolô đã trở nên dụng cụ của Chúa cho công cuộc truyền giáo lan rộng khắp vùng các đất nước Âu Châu. Và nhất là những suy tư thần học của Phalo là kho tàng về giáo lý trong Hội Thánh Kitô giáo xưa nay.
Tình yêu mến và lòng nhiệt thành hăng say là hai đức tính cá biệt nổi bật của hai khuôn mặt vĩ đại Phero và Phaolô trong Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.
Lễ kính hai Thánh vĩ đại Phero và Phaolô
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh công trình thiên nhiên
- Viết bởi Dân Chúa
Mùa Hè thời gian nghỉ ngơi cho gân cốt thể xác cùng tâm trí có lại sức lực niềm vui phấn khởi. Vì sau những tháng ngày tuần lễ trong năm mài miệt mẫn cán làm việc, học hành tập luyện, thể xác cùng tinh thần tâm trí trở nên căng thẳng mệt mỏi tựa như sợi giây đàn kéo căng thẳng đang có chiều hướng chùng giãn ra, hay có thể đứt đoạn, hay như chiếc máy vơi cạn hết xăng dầu nhớt, khí đốt. Và mùa hè thời tiết nóng bức cũng gây ra mệt nhọc mau chẩy đổ mồ hôi, nên làm việc không mang đến hiệu qủa thành tích cao tốt như mong muốn!
Vì thế thể xác cùng tinh thần tâm trí cần có thời gian thư giãn nghỉ dừng lại kín múc năng lượng, để lấy lại đà sức cùng niềm vui phấn khởi cho đời sống làm việc ngày mai.
Có nhiều cách thức nghỉ ngơi bồi dưỡng sức lực trong mùa Hè, tùy theo nhu cầu ý thích của mỗi người, mỗi hoàn cảnh cùng tập tục thói quen đời sống.
Đi vào thưởng thức, khám phá thiên nhiên là cách nghỉ ngơi trong mùa hè không chỉ lành mạnh cho gân cốt thể xác, mà còn mở mang sự hiểu biết cho tâm trí nhiều nữa.
Vậy làm thế nào có thể tìm nhận ra hình ảnh công trình thiên nhiên?
Theo đức tin Kitô giáo, con người chúng ta tìm nhận dấu vết những hình ảnh công trình thiên nhiên do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, đã tạo dựng nên: “ Từ khởi thủy Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ trời và đất.” ( Sách Sáng Thế, 1,1).
Bài tường thuật đầu tiên trong kinh thánh về công trình sáng tạo với những chi tiết: nước, đất, núi rừng, sông nước đại dương, bầu trời, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, cây cỏ thảo mộc, các loài thú xúc động vật các thứ loại và sau cùng là con người. ( Sách Sáng Thế 1, 1-31).
Những công trình sáng tạo này là những dấu vết của Đấng Tạo Hóa khắc ghi in dấu vết hình ảnh rõ nét luôn tồn tại trong thiên nhiên từ xưa nay. Vì thế càng đi sâu vào chi tiết tìm hiểu thiên nhiên, càng có nhiều bỡ ngỡ đầy thú vị, khám phá ra những hình ảnh lạ lùng của công trình thiên nhiên. Có thể nói được công trình thiên nhiên luôn ẩn dấu chất chứa những kho tàng bí ẩn to lớn bao la bất tận, mà con người tìm hiểu khám phá từ thế hệ này sang thế hệ khác không sao hết được.
Mỗi loài cây cỏ thảo mộc là một kỳ công lạ lùng. Tuy chúng có chung một tên thảo mộc, nhưng mỗi thứ loại có hình dạng thân thể cành lá hoa trái, mầu sắc đặc thù khác nhau. Chưa hết ở mỗi vùng đất nước vùng miền tuy cùng thứ loại mọc lên, nhưng lại có phát triển khác với loài thảo đồng chủng mọc phát triển ở vùng miền đất nước vũ trụ nơi khác.
Ánh sáng mặt trời, nước mưa và đất là thực phẩm nuôi cho chúng phát triển mọc lớn lên như chúng là, mà Đấng Tạo Hoá đã tạo dựng nên chúng từ thuở ban đầu. Đấng Tạo Hóa đã ký thác phú bẩm vào bản chất nhân lõi của chúng tế bào gốc mầm sự sống, để chúng sinh sôi nẩy nở ra thêm nhiều cây mới, không bị hủy diệt mất giống nòi chủng loại. Trái lại vẫn luôn có sự nối tiếp tồn tại, dù cây gốc theo dòng thời gian năm tháng tàn héo chết đi.
Rồi hình ảnh đa dạng lạ lùng trong thiên nhiên của các loài thú động vật. Khoa nghiên cứu ước tính ra có chừng hơn một triệu thứ chủng loại động vật. Loài động vật lớn nhất có kích thước 30 mét chiều dài và cân nặng hơn một trăm tạ.
Loài động vật nhỏ nhất có kích thước nhỏ li ti chỉ to hơn vài milimét, và bằng mắt thường của con người không thể nhìn thấy chúng được. Rồi mầu da hương sắc bộ y phục của chúng cũng rất đa dạng nhiều mầu sắc, có loài vật mang nhiều mầu sắc khác nhau thay đổi tùy theo tình trạng thời tiết, hoàn cảnh nơi sinh sống…
Trong lòng đại dương những nhà khảo cứu khám phá ra những đàn cá to nhỏ đủ mọi chủng loại có tới hằng trăm ngàn triệu con bơi lội thành từng bầy san sát nhau theo một trật tự lạ lùng. Chúng là nguồn cung cấp thực phẩm thức ăn cho nhau, cùng cho con người. Có những loài cá sống ở dưới nước, nhưng lại có thể bay nhẩy lên cao khỏi mặt nước được, có những lài cá sống sâu tận cả 10.000 mét trong lòng nước ở ngoài đại dương, cùng có khả năng chiếu sáng như một chiếc đèn pin cầm tay có năng lương tỏa sáng.
Rồi trên nền trời có những bầy đàn chim to nhỏ khác nhau, hình dạng mầu lông y phục sặc sỡ muôn mầu khác nhau bay lượn thành đàn thứ tự như những cảnh chiểu trình diễn màn vũ múa rất ngoạn mục hấp dẫn, vừa bay lượn vừa ca hót gọi nhau phát ra những âm thanh tiếng khác nhau vang trời. Chúng thuộc về công trình thiên nhiên.
Đời sống của chúng tô điểm trình bày tạo nên bức tranh hình ảnh rực rỡ sống động cho công trình thiên nhiên. Và cũng vậy, Đấng Tạo Hoá đã ký thác phú bẩm cách lạ lùng vào trong thân thể máu mủ của chúng tế bào gốc mầm sự sống, để giống nòi chủng loại của chúng sinh sôi nẩy nở phát triển thêm lên luôn mãi, nối tiếp không bị cắt đứt chấm dứt từ đời này qua đời khác.
Trong khu vườn thiên nhiên nơi đồng ruộng, nơi vùng thung lũng núi đồi trùng điệp có hằng hà sa số không biết bao nhiêu thứ chủng loại những động vật côn trùng to nhỏ khác nhau, hoặc bò sát dưới mặt đất, hoặc bay lượn nhảy chuyền trong không gian, hoặc sống chạy nhảy sống trong hang động dưới lòng đất, trong lòng khe núi đá, trong lùm gốc cây, làm tổ dưới tùm lá cành cây, chạy nhảy chuyền từ cành cây nhọ sang cành cây khác. Lá cây, rong rêu, phấn hoa là thực phẩm nuôi sống chúng. Và chúng cũng là thực phẩm cho nhau nữa.
Sự cư ngụ sinh sống có mặt của chúng nói lên nơi đó sự sống phát triển thịnh vượng sinh động. Và Đấng Tạo Hoá cũng ghi khắc phú bẩm vào thân thể dòng máu chúng tế bào gốc mầm sống cho sự nẩy nở phát triển không ngừng luôn mãi.
Nơi thân thể mỗi người có một trái tim bằng thịt. Nhưng đó là một kỳ công lạ lùng. Trái tim là trung tâm của sự sống, được ví như một động cơ ( motor) của sức sống. Trái tim ta hằng ngày đập 100.000 lần và bơm luân chuyển đi khắp cùng thân thể tới tận các cơ quan trong người 5.000 lít máu cho thân thể có năng sức hoạt động. Mỗi người có con đường sống trên trần gian dài ngắn tùy như Đấng Tạo Hóa sinh thành ban cho, dù 30, 40, 50,60, 70, 80.,90, hay 100 tuổi đời, nhưng trái tim luôn làm việc hoạt động mẫn cán ngày đêm điều hòa như thế mà không bao giờ phải thay pin năng lượng, hay bơm thêm dầu mỡ gì vào. Điều này vượt qúa tầm mức thành tích hạng bậc nhất tối cao của một cỗ máy về klhoa học kỹ thuật do con người chế tạo làm ra.
Rồi nhìn lên bầu trời hằng ngày mặt trời từ bình mình cho tới chiều tối luôn luôn chiếu sáng. Ban đêm mặt trăng và các vì tinh tú chiếu toả ánh sáng dịu mát trong lành. Và những hành tinh này cũng không bao giờ cần tới pin năng lượng gì để hoạt động từ ngày khởi thủy được Đấng Tạo Hóa dựng nên.
Và với dụng cụ viễn vọng kính tối tân to lớn, xưa nay con người càng ngạc nhiên hơn nữa. Vì luôn còn khám phá ra những dải ngân hà, những hệ thống mặt trời xa diệu vợi khác nữa trong bầu trời vũ trụ bao la không có biên giới cùng tận.
Khoa học khám phá ra trái đất di chuyển xuay vòng quanh mặt trời theo đúng đường qũy đạo, cùng đúng với vận tốc mà Đấng Tạo Hoá đã vạch ra. Có thế con người cùng những loài tạo vật khác trong trái đất không bị sức nóng của mặt trời thiêu cháy, nhưng theo thứ tự tuần hoàn thời giờ của ngày và của năm có đủ số lượng ánh sáng cùng hơi nóng ấm cần thiết cho sự sống, cho phát triển tồn tại. Giả như nếu một vật thể nhỏ li ti thôi đi trật đường ra ngoài vòng qũy đạo này, nó sẽ bị sức nóng mặt trời đốt chảy thiêu hủy không thể sống còn được nữa.
Các nhà khoa học khoa thiên văn đã nghiên cứu đưa ra kết qủa đo lường về khoảng cách giữa trái đất và mặt trời là 150 triệu Kilômét. Một khoảng cách qúa xa dài diệu vợi!
Và còn không biết bao nhiêu sự lạ lùng trong công trình thiên nhiên mà con người từ cổ chí kim chưa hay không sao phám phá ra được. Vì khả năng trí khôn, cùng thời gian sống trên mặt đất của con người có giới hạn, đang khi công trình thiên nhiên bao la không có giới hạn.
Một trật tự hoàn hảo của công trình thiên nhiên, mà con người chúng ta biết đến, dù chỉ là một phần trăm hay góc cạnh nào đó thôi, cũng đã vượt qúa tầm suy hiểu của tâm trí ta. Điều lạ lùng này không thể là ngẫu nhiên. Vì điều gì xảy ra ngẫu nhiên không có trật tự, nhưng là sự chao đảo hỗn loạn.
Trật tự lạ lùng trong vũ trụ công trình thiên nhiên diễn xảy ra từ bao ngàn triệu năm nay, mà con người chúng ta mới chỉ khám phá nhận ra một góc phần, cũng đủ gợi lên trong tâm trí suy nghĩ của chúng ta là phải có một kỹ sư bậc thầy lỗi lạc siêu việt đã làm nên công trình này, người đã tạo dựng làm nên tất cả, và không để dấu vết sự sống, hình dạng khả năng cùng sức mạnh sự nối tiếp tồn tại của các công trình bị biến mất tàn lụi. Trái lại đã ghi khắc tế bào gốc mầm sự sống, hình dạng sức mạnh cho nòi giống chúng phát triển nối tiếp luôn mãi qua mọi dòng thời gian niên đại.
Như người hướng dẫn đoàn người mạo hiểm leo núi đạt tới ngọn đỉnh núi, sau khi đã vượt qua mọi lối đi nhỏ hẹp với những rào cản sườn núi tảng đá chênh vênh gồng ghềnh khó khăn…
Cũng vậy những hình ảnh dấu vết công trình thiên nhiên này dẫn đưa tâm trí hướng đến Vị Kỹ Sư Siêu Việt đó có tên là Thiên Chúa, như Vua Thánh David đã viết lên tâm tư qúa đỗi ngạc nhiên lạ lùng cùng lòng tin chân nhận và cũng là lời ca tụng nguyện cầu:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.” ( Thánh Vịnh 19,2)
Mùa kiết Hạ 2022
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh lời nhận xét tuyên xưng
- Hình ảnh lễ Mình Máu Thánh Chúa
- Hình ảnh ba chiều - 3 D
- Hình ảnh Đức Chúa Thánh Thần, thần khí hòa bình.
- Hình ảnh bảy ân đức Chúa Thánh Thần
- Hình ảnh mạch nước hằng sống
- Hình ảnh vầng mây trên bầu trời
- Hình ảnh “Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành.”
- Hình ảnh Nữ vương ban sự bình an
- Hình ảnh về người mẹ