Hình ảnh sức khỏe
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dân gian có ca ví khôn ngoan Sức khỏe là vàng- Sức khỏe rất quan trọng!
Gặp nhau hay những dịp mừng vui chúng ta chúc nhau Sức khoẻ, cầu xin được Thiên Chúa Trời ban cho có sức khoẻ tốt…Đây là cung cách nếp sống văn hóa tình người cao đẹp, cùng cần thiết cho tinh thần niềm tin trong đời sống .
Sức khoẻ làm thay đổi đời sống con người ảnh hưởng lên xuống thất thường, thường thì tiêu cực nhiều hơn. Kinh nghiệm này hầu như ai cũng đã đang có và sẽ trải qua!
Trong Kinh thánh có hình ảnh nói về sức khỏe không?
Con người là tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng, sức khỏe do Ngài ban cho, nên cũng là một trong sứ mạng của Chúa Giesu xuống trần gian cứu giúp con người.
Ngài chữa cho bà mẹ vợ Ông Phero khỏi cơn sốt rét. Và trong suốt dọc hành trình rao giảng nước Ngài luôn luôn chữa lành cho nhiều người bị mắc bệnh tật được khỏe mạnh trở lại. Điều này nói lên mối dây nối liền với sứ mạng rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa của Ngài nơi trần gian cho con người: Thiên Chúa yêu mến bảo vệ sự sống con người.
Bệnh nạn cản trở đời sống. Nó làm cho đời sống bị tê liệt mất hạnh phúc niềm vui. Chúa Giesu chữa cho người bị bệnh được lành mạnh trở lại nói lên Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống.
Chúa Giesu chữa lành bệnh cho các người đau yếu, vì Ngài muốn con người có sức khỏe lành mạnh trở lại, có niềm vui hạnh phúc. Với Ngài bệnh tật là vô nhân đạo và là sự xấu xa, sự dữ. Chữa lành cho khỏi đau khổ tật bệnh là dấu chỉ nói lên tình yêu của Thiên Chúa.
Thế nhưng trong đời sống có những người bị bệnh tật tê bại liệt đau nhức, như suốt cả đời họ phải chịu đựng ngồi xe lăn… cùng lệ thuộc vào sự giúp của người khác, hay những căn bệnh hiểm nghèo khác ..Như thế phải hiểu làm sao. Thật khó cắt nghĩa!
Lẽ dĩ nhiên bản thân người bệnh cũng cảm thấy như bị bỏ rơi tủi thân lắm chứ, tinh thần chao đảo khủng hoảng…. Nhưng dẫu vậy họ cũng vẫn có tâm tình đạo đức, niềm hy vọng, như một người bị bại liệt từ hàng chục năm sống ngồi trên xe lăn đã có tâm tình tâm linh tin tưởng trong hoàn cảnh đau khổ cay đắng nghĩ rằng Thiên Chúa muốn cuộc đời tôi như thế. Và dần dần tôi nhận hiểu ra rằng điều con người, như trường hợp của tôi, cho là cay đắng đau khổ nghiệt ngã thiếu bóng dáng tình yêu thương sự chữa lành của Ngài, không phải về sức khỏe và bệnh tật, mà nhiều hơn là sự tương quan liên hệ với Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống.
Đó là điều Chúa Giesu ngày xưa đã qua phép lạ chữa lành cho các bệnh nhân khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người trần gian muốn gửi đi sứ điệp tin mừng này.
Chứng bệnh nặng làm tinh thần con người hoang mang, nó xô đẩy đời sống con người ra bên lề nếp sống chung cộng đồng xã hội. Nó có thể phá hủy làm hao mòn kiệt quệ tinh thần cùng thân xác con người.
Nhưng bệnh tật không tự động nói lên hình ảnh dấu chỉ sự vắng bóng của Thiên Chúa. Trái lại có thể giúp chú ý suy nghĩ sâu xa hơn như hiểu nhận rằng sức khỏe là điều quý báu cho sự sống được ban tặng. Sức khỏe mang đến giá trị cao cả cho sự sống.
Và Thiên Chúa, Đấng tạo dựng bảo vệ sự sống là nguồn cao cả nhất. Một người sống trong liên hệ tương quan mật thiết với Người kín múc nếp sống mới là một người được chữa lành. Và như vậy họ có thể đóng góp loan truyền nước Thiên Chúa cách hiệu quả tích cực.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh theo tiếng gọi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống hai bạn trẻ nữ nam xa lạ bỗng gặp nhau, làm quen với nhau… và họ bắt được làn sóng tiếng gọi tình yêu của nhau. Họ hứa hẹn với nhau, không đòi hỏi gì, rồi từ gĩa gia đình đi thành lập gia đình riêng, xây dựng một tổ ấm xã hội mới với nhau từ hai bàn tay trắng, bắt đầu từ con số không. Điều mà không ai ngờ trước được như vậy. Trong dân gian có ca ví khôn ngoan: Tình yêu mạnh hơn sự chết!
Trong nếp sống đạo giáo có hình ảnh như thế không?
Kinh thánh thuật kể lại nhiều trường hợp những người nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa, từ gĩa mọi sự đi theo Người.
Ngôn sứ Elija đi ngang qua cánh đồng thấy Elischa đang nỗ lực cày ruộng, Elija ném tấm áo choàng mình phủ trên Elischa. Hiểu ý đó là tíêng gọi của Elija. Elischa bỏ cày bừa lại trên thửa ruộng, vội vã chạy lại Elija và khẩn khoản nài nỉ“ Xin thầy cho con trở về nhà từ gĩa cha mẹ con, con sẽ trở lại theo Thấy ngay! Elija bằng lòng cho phép như Elischa xin. Sau khi từ gĩa gia đình bạn bè, Elischa đi đến theo làm môn đệ Ngôn sứ Elija.
Elischa nghe theo, vì nhận ra tấm áo choàng của Elija bỗng ném phủ trên người mình như tiếng gọi. Nghe theo tiếng gọi đi theo không thắc mắc “tại sao”, không đặt điều kiện với chữ “nhưng”, và không do dự “ như thế nào”!( 1. Các Vua 19,19-21)
Ngay giữa dòng đời sống đang làm ăn cày ruộng Elischa nhận ra đó là tiếng của Thiên Chúa kêu gọi qua tấm áo choàng của Ngôn sứ Elija phủ chụp trên người mình! Một sự thể lạ lùng, nhưng có thật.
Thánh sử Luca thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria sứ mệnh được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu. Trong cuộc gặp gỡ truyền tin này không có thời giờ cho Maria suy nghĩ thêm, không có câu hỏi ngược trở lạị, chỉ có thắc mắc của Maria với chữ “ như thế nào được”. Sau khi nghe Thiên Thần cắt nghĩa, Maria nói vắn gọn xúc tích: Xin xảy ra cho tôi như lời Sứ Thần truyền!
Trong căn nhà sinh sống của Maria ở thành Nazareth, ý định chương trình của Thiên Chúa được Thiên Thần loan báo mang đến cho Maria. Căn phòng truyền tin lịch sử thánh này hiện còn ở bên dưới tầng hầm Vương cung Thánh Đường Truyền tin ở Nazareth.
Và theo tương truyền, bức tường căn nhà truyền tin của Đức mẹ Maria ở Nazareth, từ hồi thế kỷ 13. sau Chúa giáng sinh, để bảo quản cho khỏi bị tàn phá ở thành Nazareth đã được Thiên Thần di chuyển đem về bên Ý thành phố Loreto. Vì thế trong Vương cung thánh đường Loreto có ngôi nhà với ba bức tường nhà Đức mẹ, nơi ngày xưa Thiên Thần Gabreil hiện đến truyền tin. Ngôi nhà nhỏ này có kích thước 9,25 mét chiều dài, 4,12 mét chiều rộng và chiều cao 5 mét .
Phúc âm Chúa Giêsu thuật lại cảnh Chúa Giêsu đi dọc bờ hồ Galileo thấy các Ông Simon, Andre, Jacobe và Gioan đang làm công việc chài lưới đánh cá để sinh sống, chỉ nói vắn tắt kêu gọi họ” Hãy theo Thầy!”. Và họ cũng chẳng thắc mắc gì, không xin từ gĩa gia đình bạn bè, nhưng vô điều kiện lập tức bỏ chài lưới đồ nghề lại đi nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. (Mc 1,14-20).
Nơi bờ hồ chỗ làm ăn sinh sống đang đánh cá, Chúa Giesu đến kêu gọi họ ra đi làm Môn đệ “ Hãy theo Thầy!”
Giữa cảnh sống hằng ngày tiếng Chúa vang lên kêu gọi trong tâm hồn con người. Những gương nghe theo tiếng gọi theo Chúa như thế luôn hằng có trong đời sống xưa nay. Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta, người Albania, nghe theo tiếng gọi của Chúa, sang tận nước Ấn Độ thành Calcutta, cả đời sống chết với người nghèo, giúp đỡ săn sóc an ủi người bị bỏ rơi, và thành lập Dòng bác ái sống nhiệm nhặt khó nghèo giữa xã hội người nghèo khổ. Mẹ Thánh và các Chị nữ Tu đã nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa tình yêu đi đến sống với những người cần tình yêu thương giúp đỡ an ủi săn sóc về miếng cơm manh áo và tinh thần tâm hồn.
Rồi có những người xưa nay từ bỏ cuộc sống bảo đảm an toàn về mọi mặt xã hội cũng như chức vị, như các Vị Thừa Sai xưa nay ở bên Âu Châu bỏ xứ sở quê hương sinh ra, đã nghe theo tiếng Chúa kêu gọi, ra đi sang tận miền những đất nước xa lạ bên Phi Châu, bên Á châu, bên Nam Mỹ…thiếu thốn về mọi phương diện cùng sống chia sẻ lăn lộn với họ, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa., mà không đòi hỏi điều kiện gì.
Xưa nay tròng dòng lịch sử vẫn luôn hằng có biết bao nhiêu tâm hồn nghe nhận ra tiếng Thiên Chúa kêu gọi. Và họ đã từ bỏ mọi sự có thể được hưởng dùng, từ bỏ con đường công danh sự nghiệp đầy tương lai hứa hẹn, quảng đại hy sinh dấn thân chọn nếp sống đời vâng phục nhiệm nhặt khó nghèo tu trì theo tiếng ơn kêu gọi của Thiên Chúa giữa lòng dòng sông đời sống xã hội nơi các Tu Viện, nơi các Giáo phận xứ đạo cho việc mục vụ phụng vụ của Giáo hội Chúa.
Sống như thế có thể nói được họ kính trọng yêu qúy chất liệu nội dung đời sống hơn bao vỏ bọc bên ngoài. Nếp sống như thế khác nào hình ảnh phẩm chất rượu trong ly, trong chai bình quan trọng qúy giá hơn ly, hơn bình chai lọ đựng rượu. Họ nghe nhìn nhận ra từ trong sâu thẳm nội tâm tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa muốn họ dấn thân ra đi đến với con người xã hội là hình ảnh của Thiên Chúa tạo dựng nên.
Hai người nam nữ nghe theo tiếng gọi tình yêu của nhau ra đi cùng xây dựng tổ ấm gia đình không chỉ mang niềm vui hạnh phúc lại cho nhau, nhưng nhất là cho tương lai con cái của họ. Và như thế cũng cho xã hội và Giáo hội nữa.
Trong nếp sống con người ai cũng bị hay được hỏi, được kêu gọi dấn thân cho con người, và cho nước Chúa ở xã hội trần gian hôm nay và ngày mai.
Và như Đức Giáo hoàng qúa cố Benedictô 16. đã có suy tư xác tín về nếp sống theo tiếng Gọi của Thiên Chúa:” Chúng ta không được tạo dựng cho một đời sống an toàn dễ chịu, nhưng cho sự to lớn cao cả.”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Con chiên Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bên các xứ vùng Trung Đông, bên Âu châu ở những vùng đồi núi có bãi cỏ xanh tươi tốt, người ta nuôi thả đàn thú vật chiên cừu hàng chục, hàng trăm con to nhỏ chạy nhảy hiền hòa cúi đầu ăn gặm cỏ. Chúng đi thành đàn chen chúc nhau nghe theo hiệu lệnh của người mục đồng chăn dắt, và có những con chó chạy theo vòng quanh canh gác sủa vang trời lùa chúng đi theo hướng chỉ dẫn. Một bức tranh sống động thơ mộng giữa trời thiên nhiên!
Hình ảnh con chiên xưa nay trong văn hóa nghệ thuật Công giáo rất quen thuộc. Phải, nó là hình ảnh biểu tượng thần thánh nói chỉ về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao lại dùng hình ảnh biểu tượng này chỉ về Chúa Giêsu Kitô ?
Hình ảnh biểu tượng này có căn rễ nơi nền văn hóa đạo đức kinh thánh từ thời xa xưa. Con chiên là một con vật non trẻ của loài thú vật cừu hay thú vật dê. Con chiên có tư thái dịu hiền ngây thơ, nên được dùng là hình ảnh biểu tượng về sự thanh khiết và vô tội, hình ảnh về sự hiền dịu và kiên nhẫn.
Trong nhiều tôn gíao sự thanh khiết vô tội đóng vai trò quan trọng. Con chiên được chọn làm hình ảnh biểu tượng cho khía cạnh đó.
Trong Kinh Thánh thời cựu ước Do Thái giáo cũng vậy. Một con vật làm lễ tế hy sinh đền tội phải thanh khiết vô tội, mới có thể được dùng là lễ tế đền tội thay cho con người tội lỗi. ( St 22,8).
Ngày xưa khi người Do Thái xuất hành từ đất Aicập lên đường trở về quê hương nước Thiên Chúa hứa ban, họ mừng Lễ Vượt Qua và trong bữa ăn phải có con chiên: „Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được“ ( Xh 12,5).
Lễ tế dâng tiến Giavê Thiên Chúa theo luật ấn định„ Ngày sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế.“ ( Ds 28, 9).
Ngay thời xa xưa trước Chúa giáng sinh, Tiên tri Isaia cũng đã mường tượng hình ảnh người tôi trung của Thiên Chúa sau này như con chiên bị đem đi xét xử đền tội thay cho toàn dân:
„ Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,người chẳng hề mở miệng.“ ( Isaia 53,7)
Đến thời sau Chúa giáng sinh, chính Chúa Giêsu được ca ví là hình ảnh con chiên Thiên Chúa. Thánh Gioan tẩy gỉa đã giới thiệu Chúa Giêsu:
„ Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. „ (Ga 1, 29).
Chính Chúa Giêsu đã bị kết án chết trong dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái, lễ kỷ niệm giết chiên ăn bữa sau cùng trước khi người Do Thái xuất hành trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban cho.
Thánh Phaolô Tông đồ đã nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô đã hy sinh chịu chết làm con chiên lễ Vượt Qua cho chúng ta. ( 1 cor, 5,7).
Thánh Gioan tông đồ đã gọi các Tông đồ Chúa Giêsu Kitô là Tông đồ của Con Chiên. ( KH 21,14).
Trên trời, theo tường thuật của Thánh Gioan, các Thiên Thần Chúa ca hát chúc tụng Con Chiên vinh hiển. ( Kh 5,12).
Rồi trong một thị kiến trên trời, Thánh Gioan đã nhìn thấy Con Chiên Thiên Chúa đứng ở giữa bốn con vật. ( Kh 5,6). Và Ông còn nhìn thấy Con Chiên nhận cuốn sách từ bốn con vật và có 24 vị bô lão phủ phục qùy xuống đồng thanh chúc tụng Con Chiên. ( Kh 5,9).
Bốn con vật mà Thánh Gioan nhìn thấy trong thị kiến trên trời là hình ảnh biểu tượng của bốn thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Thánh sử Mattheo với hình một con người. Vì ngay chương đầu phúc âm Ông viết thuật lại lịch sử gia phả Chúa Giêsu theo khía cạnh con người từ thời tổ phụ Abraham tới Vua David có 14 thế hệ, rồi từ Vua David tới thời lưu đầy sang Babylon với 14 đời, và từ sau thời lưu đầy trở về tới Chúa Giêsu cũng có 14 thế hệ.
Thánh Marcô với hình con sư tử. Vì phúc âm của ông ngay chương đầu tiên bắt đầu với lời rao giảng tiếng hô hào lời kêu trong sa mạc của Thánh Gioan tiền hô như tiếng sư tử gầm rống trong rừng hoang .
Thánh Luca với hình tượng một con vật như con bò, con dê. Vì phúc âm của Ông thuật lại biến cố Thầy cả thượng phẩm Dacharia vào đền thờ dâng con vật bị giết tế lễ Thiên Chúa. Và thánh sử cũng thuật lại biến cố quang cảnh hài nhi Giesu sinh ra trong chuồng súc vật chiên bò lừa ngoài cánh đồng Bethlehem.
Thánh Gioan với hình con chim đại bàng. Vì những tư tưởng hình ảnh trong phúc âm của Ông biểu lộ tinh thần cao cả, cao sâu diệu vợi như con chim đại bàng dũng mãnh có sức cất cánh bay cao lên tận nền trời mà con mắt thường không sao có thể nhìn thấy nó tít tận trên cao. Và từ trên cao nó bay lượn đáp xuống mặt đất rất kỳ diệu ngoạn mục.
Rồi hình ảnh bốn con vật cũng được hiểu cắt nghĩa là hình ảnh chỉ về sự nhập thể làm người của Chúa Giêsu, về lễ vật tế lễ, sự sống lại và lên trời trời của Chúa Giêsu.
Nhưng tại sao lại dùng con chiên là hình ảnh biểu tượng cho Chúa Giêsu, mà không một trong bốn con vật đó?
Tiên tri Isaia đã diễn tả hình ảnh về người tôi trung của Thiên Chúa như một con chiên. Hình ảnh con chiên được tuyển chọn chỉ về Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Con Chiên này không có quan hệ gì với bốn con vật đứng chung quanh phục vụ Con Chiên. Hình ảnh này làm tương phản với hình ảnh Đấng Cao cả tuyệt đối, làm nổi bật rõ nét giữa Đấng là chủ sự sáng tạo và loài thụ tạo trong các mối liên hệ.
Con Chiên được dùng là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu còn nói lên khía cạnh chính yếu nổi bật của một Thiên Chúa nhập thể làm người trên trần gian. Chúa Giêsu làm người không muốn là một vĩ nhân, một con người tuyệt đối, một nửa Thiên Chúa. Nhưng là một con người toàn vẹn với yếu đuối, như Thánh Phaolo viết trong thư gửi Giáo đoàn Corinthô:
„ Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái.27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh;28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có.“ ( 1 cor 1,26-28).
Trong Giáo hội xưa nay có tập tục dây Pallium của Đức giáo hoàng và các Tổng giám mục đeo choàng trên cổ xuống trước ngực khi cử hành thánh lễ, được dệt bện bằng lông các con chiên Agnes - các con chiên được làm phép ngày lễ kính thánh Agnes 21.01.
Dây Pallium bện dệt bằng lông con chiên như Đức giáo hoàng qúa cố Benedictô 16. cắt nghĩa: Nhắc nhớ đến Chúa Giêsu sau khi sống lại đã trao trách vụ cho Thánh Phero hãy chăn dắt các con chiên của Thầy. Và cũng là hình ảnh nói về ách gánh nặng của Chúa Giêsu Kitô mà các vị mục tử mang trên vai khi nhận lãnh ý muốn sứ vụ Chúa trao cho.
Trong các thánh lễ, trước khi tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giesu Kitô, lời kinh cầu nguyện được toàn thể mọi người trong thánh đường cùng đọc lên hoặc hát ca xướng ba lần: „Lạy Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con „
Và sau cùng vị chủ tế giơ cao Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô cũng đọc lời giới thiệu như Thánh Gioan tẩy gỉa ngày xưa đã nói: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.“
Trong văn hóa, văn minh nhân loại nhất là bên vùng Trung Đông, thịt Chiên, Cừu là thực phẩm phổ thông lành mạnh cùng ngon. Lông con Chiên Cừu được cắt xén dùng cho việc may mặc quần áo cùng làm chăn nệm cho ấm, nhất là ở xứ lạnh mùa Đông.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh „chúng ta là người hành khất!“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay con người có mong muốn đạt tới được điều gì cao đẹp tốt lành cho đời sống. Và khi đã đạt tới địa vị cao như mong ước, thường lại có khát vọng muốn đi tìm kiếm điều gì mới lạ cao trọng đẹp hơn.
Ngày xưa, cách đây hơn hai ngàn năm, sau khi Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, ba nhà thông thái về khoa thiên văn, vẫn quen được xưng tụng là ba Vua, đã vượt qua hành trình đường dài từ Phương Đông bên nước xa lạ tìm đến bái kiến Hài nhi Giêsu mới sinh ra ở Bethlehem bên nước Do Thái.
Họ là những nhà thông thái, được xưng tụng vào địa vị là “Vua”, cùng hoàn toàn xa lạ với gia đình hài nhi Giêsu nghèo hèn, mà lại còn lặn lội tìm đến bái kiến Hài Nhi Giêsu làm gì ?
Kinh thánh thuật viết lại theo kiến thức chuyên môn khoa học thiên văn, họ đã nhìn thấy ra ngôi sao của một vị Vua mới xuất hiện trên nền trời. Và theo dấu hiệu đó họ lên đường hành trình đi tìm kiếm. ( Mt 2,1-2)
Sự hiểu biết, theo cách thế bình dân suy nghĩ, đã khơi lên sự tò mò trong lòng họ đi tìm kiếm điều mới lạ. Còn theo cung cách tâm linh nội tâm sâu xa hơn, điều đó đã thôi thúc họ đi tìm kiếm sự chân thật cho đời sống.
Vào quãng thời gian lúc cuối đời Matin Luther, người sáng lập đạo Tin Lành tách ra khỏi Hội Thánh Công Giáo, hồi thế kỷ thứ 16. ở nước Đức, đã có suy tư: „Chúng ta là người hành khất!“.
Trong hành trình đời sống người tín hữu Chúa Giêsu Kitô mang trong mình hai sứ vụ: tước hiệu là vua của Chúa Kitô, và thân phận cuộc sống người hành khất thiếu thống luôn cần sự che chở ban ơn gìn giữ của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, vì đời sống con người có giới hạn về mọi khía canh.
Trong công trình sáng tạo, con người được Thiên Chúa tạo dựng sau cùng vào ngày thứ sáu, như cao điểm của công trình sáng tạo trời đất và sự sống. Con người không chỉ là một tạo vật được tạo dựng như bao tạo vật khác. Nhưng họ được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Vua vũ trụ, tạo dựng nên họ, cùng được Thiên Chúa ban cho vai trò làm chủ sử dụng đất đai cùng cây cỏ súc vật làm của ăn sinh sống ( St1,1-31 ). Như thế, họ được hưởng tước vị là vua của Đấng dựng nên họ.
Ngày lãnh nhận làn Nước Bí tích Rửa tội, họ được xức Dầu Thánh Chúa Kitô, Đấng cũng đã được xức dầu là tư tế, tiên tri và vua của con người.
Là người hành khất, vì khả năng giới hạn của họ là con người về cả thể xác lẫn tinh thần cùng cả thời gian sinh sống trên trần gian. Những gì con người có, như thân thể, khả năng tâm linh trí tuệ, cơ hội sống …không do tự chế tạo làm ra, nhưng do được ban tặng cho.
Cha mẹ không là người biến chế làm ra con mình. Nhưng họ là người đón nhận sự sống đứa con của mình.
Cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng con mình nên người khôn lớn. Nhưng cha mẹ không là người tạo nên tâm trí cùng cả vận mệnh đời sống con mình. Chả thế mà ngạn ngữ có câu nói về lòng tin tưởng này: Cha mẹ sinh con. Trời sinh tính! Và ngay cả anh chị em ruột thịt cùng một cha mẹ sinh ra, nhưng mỗi người có một đường đời sống riêng, không ai giống với ai.
Trong đời sống, con người ngay từ lúc sơ sinh và rồi trong suốt dọc đời sống họ lệ thuộc vào sự tương quan liên đới với nhau. Con người cần nhau cho sự phát triển đời sống.
Ba nhà thông thái ngày xưa tuy có tước vị là vua, vì có chức tước trọng vọng, có kiến thức bác học uyên thâm. Nhưng họ cũng vẫn trải qua hành trình như người hành khất tìm đến hài nhi Vua Giêsu, nguồn ân đức bình an cho tâm hồn con người.
Họ đến dâng tặng hài nhi Giêsu Vàng biểu hiệu tình yêu của họ; Nhũ Hương biểu hiệu lòng thao thức chờ mong họ hằng mong đợi; Mộc Dược biểu thuốc chữa lành vết thương đau khổ họ hằng phải chịu đựng.
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô mang trong mình tước hiệu Vua, và thân phận cuộc sống người hành khất trên đường hành trình đời sống, họ có tình yêu là kho tàng qúy gía . Nhưng đồng thời chúng ta cũng cảm nhận ra sự nghèo nàn của mình. Nghèo nàn không ở nơi tiền bạc của cải vật chất, nhưng trong giới hạn của trí tuệ tinh thần và cả nơi sức lực thân thể nữa.
Lòng thao thức chờ mong của con người luôn hướng về một điều gì hơn nữa, một điều gì làm thỏa lòng. Điều thao thức mong ước đó là Đấng Tạo Hóa, là Thiên Chúa là Vua lòng con người. Với Ngài con người cảm nghiệm được no đủ thỏa lòng, và từ đó sống dấn thân cho xã hội, cho Giáo Hội.
Nhưng đồng thời sức lực khả năng của con người không thể tiến xa hơn lằn ranh giới suy hiểu của trí tuệ, của sức khoẻ cùng khả năng tuổi tác thân xác. Con người chỉ có thể làm được những gì, theo như khả năng có thể thôi, dù họ có nhiều thao thức ước vọng cao xa hơn: chúng ta là người hành khất!
Là con người có tước hiệu Vua của Đấng Tạo Hóa ban cho. Nhưng xưa nay đâu đã có ai không cần đến thuốc chữa bệnh bao giờ. Không phải chỉ cần đến thuốc chữa bệnh đau đớn phần thân xác, mà còn cần nhiều hơn nữa đến thuốc chữa những đau khổ phần tâm linh tinh thần.
Con người chúng ta cũng như Ba Vua ngày xưa như người hành khất hành trình đi tìm kiếm đến hang đá vua hài nhi Giêsu.
Cũng như Ba Vua đem đến qùa tặng cho vua hài nhi Giêsu Vàng của tình yêu mến, nhũ hương thơm của lòng thao thức trông chờ, Mộc dược thuốc chữa đau khổ phần tinh thần- và đồng thời chúng ta người hành khất cũng đến với hai bàn tay trắng. Vì ta đặt niềm trông mong chờ đợi tất cả nơi Hài nhi Giêsu, Đấng là kho tàng mọi ân đức phúc lộc làm tràn đầy thỏa lòng con người, như hình ảnh cung cách sống hành khất của Ba Vua ngày xưa đi tìm kiếm Hài nhi Giêsu, Đấng là vua tình yêu mến.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ Chúa giáng sinh, ngày lễ hòa bình.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các Kitô hữu thuở Giáo hội sơ khai bên vùng nước Do Thái, Palestina vùng Trung Đông trong đế quốc Roma, sau khi Chúa Giêsu Kitô đã trở về trời, có thói quen đạo đức mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra làm người. Họ mừng lễ như thế nào, không có sử sách hay truyền thống nào ghi thuật lưu truyền lại.
Duy chỉ có sách Phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo thánh sử Luca viết – vào khoảng từ năm 65.-80. sau Chúa giáng sinh- thuật lại biến cố Chúa Giêsu giáng sinh trên cánh đồng Bethlehem bên nước Do Thái nay thuộc vùng tự trị Palestina ( Lc 2,1-14).
Đến thế kỷ thứ tư sau Chúa giáng sinh – sau năm 313- Giáo hội Công giáo Roma ấn định chọn này 25. tháng 12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người.
Phúc âm theoThánh sử Luca viết thuật về khung cảnh biến cố Chúa giáng sinh năm xưa, nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian mang ánh sáng hòa bình từ trời cao cho trần thế: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Đây là lời loan báo tin mừng Chúa giáng sinh do ca đoàn các Thiên Thần ca hát năm xưa trong đêm thánh vô cùng hài nhi Giêsu sinh ra ở cánh đồng Bethlehem.
Thánh sử Luca bắt đầu bài tường thuật Chúa giáng sinh với biến cố lịch sử: “Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria...”
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao sinh xuống làm người là vị vua mang hòa bình đến cho nhân loại.
Còn Hoàng đế Cesare Augusto đang trị vì của đế quốc Roma, được mệnh danh ca tụng là Vị vua kiến tạo hòa bình trong đế quốc thời lúc đó, lan rộng bao gồm cả nước Do Thái.
Thế nào là hình ảnh vị vua kiến tạo hòa bình ?
Trước đó hằng thế kỷ, Ngôn sứ Isaia sống vào khoảng thế kỷ thứ 8. trước Chúa giáng sinh (Is 9, 2-4. 6-7) đã nói đến hình ảnh sứ mạng vị vua kiến tạo hòa bình giữa thảm cảnh chao đảo hỗn loạn đe dọa đời sống.
Ánh sáng của ngài chiếu tỏa vào bóng đêm tối hận thù. Cung cách nếp sống tự do của ngài mang đến sự chấm dứt khủng hoảng hoang mang lo sợ. Nếp sống hòa bình của ngài xóa tan đẩy lùi tham vọng chiến tranh. Áo choàng, đôi giầy ủng người lính chiến mang hình ảnh biểu tượng sức mạnh sự uy hùng đe dọa được cởi bỏ đem đi thiêu hủy.
Hình ảnh một nếp sống hòa bình là khát vọng của niềm hy vọng sâu thẳm phát tỏa nơi sự sinh ra của một trẻ thơ. Nơi hài nhi này chất chứa những gánh nặng trách nhiệm trên đôi vai em. Hài nhi này được xưng tụng là “ Vị Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”.
Làm thế nào một hài nhi có thể là người mang lại hòa bình cho khát vọng của con người đang sống giữa hoàn cảnh chao đảo hỗn loạn, hoang mang sợ hãi bị đe dọa? Lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa là giải đáp cho khát vọng trông chờ nếp sống hòa bình: “ Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó”.
Vào thời điểm cách đây hơn ngàn năm lúc hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra làm người, chắc không ai nghĩ bài tường thuật của ngôn sứ Isaia với những danh hiệu cao cả uy quyền như trên đây, nói về hài nhi Giêsu. Trái lại nghĩ liên tưởng nhiều hơn đến
Hoàng đế Cesare Augustus của đế quốc Roma đang thống trị thiên hạ. Hoàng đế Augustus sinh năm 63. trước Chúa giáng sinh, qua đời năm 14. sau Chúa giáng sinh. Ông cai trị đế quốc Roma từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh
Vị hoàng đế này được xưng tụng với danh hiệu cao cả thần thánh là “ Thiên tử” như khắc vẽ trên đồng tiền thời lúc đó. Người Ai cập xưng tụng Vua Augustus là vị “ Chúa tể cao cả”. Ở thành Roma ông được tôn kính là” người Cha của quê cha đất tổ”, và chính ông tự xưng mình là vị vua kiến tạo hòa bình cao cả Pax Romana.
Những danh hiệu cao cả đó vượt qúa giới hạn khả năng tài trí giới hạn của một con người trần thế. Nhưng xét cho cùng trong thời gian cai trị đế quốc Roma, hoàng đế Augustus đã có công chấm dứt cuộc nội chiến đã xảy ra từ một trăm năm trước đó rồi. Qua đó Ông đã có công kiến tạo mang lại nền hòa bình, sự phồn vinh thịnh vượng trong xã hội đế quốc Roma.
Rồi ông cũng là người, như Thánh sử Luca thuật lại trong phúc âm Chúa Giêsu Kitô về biến cố Chúa giáng sinh, khới lên phong trào sự chuyển động trên toàn thế giới đế quốc Roma. Sắc lệnh chiếu chỉ của hoàng đế Roma bắt mọi người về quê quán cũ nơi mình đã sinh ra ghi tên vào sổ nộp thuế. Điều này thể hiện nói lên sức mạnh quyền uy cùng ảnh hưởng rộng lớn của hoàng đế Augustus, đã khiến thiên hạ trong toàn đế quốc Roma lên đường di chuyển lên đường trở về quê quán cũ của mình, bất kể họ đang sinh sống nơi đâu trong đế quốc thời lúc đó. Như gia đình Thánh Giuse phải lặn lội từ miền Galileo làng Nazareth phía bắc nước Do Thái di chuyển xuôi về quê cũ nơi sinh ra miền Judea, thành Bethlehem phía nam nước Do Thái.
Tại sao Thánh sử Luca lại đưa hình ảnh hoàng đế Augustus vị xưng là con trời, vị vua kiến tạo hòa bình vào bài tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh, Đấng cũng là Thiên tử, là vua hòa bình, là người cố vấn kỳ diệu muôn thuở, như đồng hình dạng hay cạnh tranh với hoàng đế Augustus của đế quốc Roma?
Thánh sử Luca không phải là người chuyên môn về lịch sử triều đình đế quốc Roma. Theo tương truyền cùng ý kiến của các nhà nghiên cứu chú giải kinh thánh, Ông là một thầy thuốc, một họa sĩ, một người có nền học thức văn hóa Hylạp. Như thế ông là người có tầm nhìn kiến thức sâu rộng. Và sau này ông trở thành học trò môn đệ của Thánh Phaolô, cùng theo chân Thánh Phaolô đi làm công việc đạo đức truyền giáo cho tin mừng vào Chúa Giêsu Kitô. Với căn bản kiến thức đó Ông viết phúc âm giáo lý về Chúa Giêsu Kitô theo cung cách trên nền tảng đạo đức thần học lồng khung trong các biến cố thời sự lịch sử xã hội đời sống.
Vì thế Luca muốn dùng hình ảnh của hoàng đế Augustus như mốc điểm lịch sử trong đời sống xã hội thời lúc đó để tường thuật về một biến cố thần thánh khác: Giesu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người, và ở giữa con người.
Thánh sử Luca dùng hình ảnh một vị hoàng đế Augustus quyền uy sức mạnh trần thế có ảnh hưởng sâu rộng trong đế quốc Roma để diễn tả nói về một biến cố hình ảnh khác cho nổi bật rõ nét hiện lên khởi đầu chỉ là một hài nhi sơ sinh, yếu mềm, nhưng lại có sức mạnh tâm linh cao cả sâu rộng không chỉ trong thế giới đế quốc Roma của hoàng đế Augustus giới hạn về không gian địa lý và thời gian. Biến cố hài nhi Giesu giáng sinh làm người chiều kích thần học tâm linh có ảnh hưởng sâu rộng trong toàn thể hoàn cầu vũ trụ thiên nhiên, không có giới hạn về thời gian cùng tâm lý, văn hóa xã hội đời sống con người
Hai hình ảnh biến cố đó như bóng tối với ánh sáng; sự dữ tội lỗi hận thù với sự trong lành tha thứ làm hòa; sức mạnh của quyền lực áp chế bắt buộc với tình yêu lòng nhân từ; hòa bình trên nền tảng của vũ khí chiến thắng đánh bại với nếp sống hòa bình tâm linh từ trong thâm tâm của lòng tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng là nguồn hòa bình, nguồn sự sống; sự dối trá chiêu thức lừa đảo với lòng ngay thẳng chân thật; ích kỷ với bác ái, trần thế với thần linh…
Hài nhi Giesu, Con Thiên Chúa, vua hòa bình sinh xuống trần gian làm người là niềm hy vọng cho con người. Nhưng trong thực tế đời sống xã hội xưa nay luôn hằng có chiến tranh, hận thù, tàn phá gây hoang mang chao đảo cho đời sống. Dẫu vậy niềm hy vọng vào hài nhi Giêsu, Vua hòa bình, không vì thế bị rơi biến vào hư vô, vào khoảng không trống rỗng. Trái lại như các mục đồng trong đêm hài nhi Giêsu giáng sinh đã được Thiên Thần báo tin:” Các bạn sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ", cũng vậy nước Thiên Chúa, nước hoà bình cho tới ngày hôm nay vẫn còn bao bọc như trong nôi tã của một hài nhi sơ sinh.
Khi hài nhi Giêsu lớn thành người trưởng thành ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, nước tình yêu, nước hòa bình đã dùng hình ảnh hạt giống cây lúa, cây cải nhỏ bé so sánh với nước Thiên Chúa ( Mc 4, 26-34): hạt giống tuy nhỏ bé nhưng lại chất chứa mầm sức mạnh sự sống nảy sinh thành cây to lớn có cành lá xum xuê!
Ngay xưa và ngày nay biến cố đời sống diễn ra giữa hai trạng thái đối ngược nhau: cũ và mới, niềm hy vọng và hoang mang nghi hoặc, tình yêu và sự phá đổ. Dẫu vậy nước Thiên Chúa, nước hoà bình tình yêu vẫn luôn là khát vọng của con người muốn có.
Giữa cảnh sống sai lạc chao đảo không đúng phương hướng hòa bình tình yêu đó, một nếp sống chân thật vẫn có thể thành hiện thực đạt tới, khi nếp sống đơn giản chân thành đặt tin tưởng vào tin mừng sứ điệp của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng hòa bình, ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa cho con người, như Ngài rao giảng trong bài giảng Tám mối phúc thật:
“ Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai buồn sầu,
vì họ sẽ được an ủi.
Phúc cho những ai hiền lành,
vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát sự công chính,
vì họ sẽ được no thỏa.
Phúc cho những ai có lòng thương xót,
vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai xây dựng hòa bình,
vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính,
vì Nước Trời là của họ. “ (Mt 5, 3-10)
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ Chúa giáng sinh, ngày lễ hòa bình.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các Kitô hữu thuở Giáo hội sơ khai bên vùng nước Do Thái, Palestina vùng Trung Đông trong đế quốc Roma, sau khi Chúa Giêsu Kitô đã trở về trời, có thói quen đạo đức mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra làm người. Họ mừng lễ như thế nào, không có sử sách hay truyền thống nào ghi thuật lưu truyền lại.
Duy chỉ có sách Phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo thánh sử Luca viết – vào khoảng từ năm 65.-80. sau Chúa giáng sinh- thuật lại biến cố Chúa Giêsu giáng sinh trên cánh đồng Bethlehem bên nước Do Thái nay thuộc vùng tự trị Palestina ( Lc 2,1-14).
Đến thế kỷ thứ tư sau Chúa giáng sinh – sau năm 313- Giáo hội Công giáo Roma ấn định chọn này 25. tháng 12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người.
Phúc âm theoThánh sử Luca viết thuật về khung cảnh biến cố Chúa giáng sinh năm xưa, nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian mang ánh sáng hòa bình từ trời cao cho trần thế: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Đây là lời loan báo tin mừng Chúa giáng sinh do ca đoàn các Thiên Thần ca hát năm xưa trong đêm thánh vô cùng hài nhi Giêsu sinh ra ở cánh đồng Bethlehem.
Thánh sử Luca bắt đầu bài tường thuật Chúa giáng sinh với biến cố lịch sử: “Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria...”
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao sinh xuống làm người là vị vua mang hòa bình đến cho nhân loại.
Còn Hoàng đế Cesare Augusto đang trị vì của đế quốc Roma, được mệnh danh ca tụng là Vị vua kiến tạo hòa bình trong đế quốc thời lúc đó, lan rộng bao gồm cả nước Do Thái.
Thế nào là hình ảnh vị vua kiến tạo hòa bình ?
Trước đó hằng thế kỷ, Ngôn sứ Isaia sống vào khoảng thế kỷ thứ 8. trước Chúa giáng sinh (Is 9, 2-4. 6-7) đã nói đến hình ảnh sứ mạng vị vua kiến tạo hòa bình giữa thảm cảnh chao đảo hỗn loạn đe dọa đời sống.
Ánh sáng của ngài chiếu tỏa vào bóng đêm tối hận thù. Cung cách nếp sống tự do của ngài mang đến sự chấm dứt khủng hoảng hoang mang lo sợ. Nếp sống hòa bình của ngài xóa tan đẩy lùi tham vọng chiến tranh. Áo choàng, đôi giầy ủng người lính chiến mang hình ảnh biểu tượng sức mạnh sự uy hùng đe dọa được cởi bỏ đem đi thiêu hủy.
Hình ảnh một nếp sống hòa bình là khát vọng của niềm hy vọng sâu thẳm phát tỏa nơi sự sinh ra của một trẻ thơ. Nơi hài nhi này chất chứa những gánh nặng trách nhiệm trên đôi vai em. Hài nhi này được xưng tụng là “ Vị Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”.
Làm thế nào một hài nhi có thể là người mang lại hòa bình cho khát vọng của con người đang sống giữa hoàn cảnh chao đảo hỗn loạn, hoang mang sợ hãi bị đe dọa? Lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa là giải đáp cho khát vọng trông chờ nếp sống hòa bình: “ Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó”.
Vào thời điểm cách đây hơn ngàn năm lúc hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra làm người, chắc không ai nghĩ bài tường thuật của ngôn sứ Isaia với những danh hiệu cao cả uy quyền như trên đây, nói về hài nhi Giêsu. Trái lại nghĩ liên tưởng nhiều hơn đến
Hoàng đế Cesare Augustus của đế quốc Roma đang thống trị thiên hạ. Hoàng đế Augustus sinh năm 63. trước Chúa giáng sinh, qua đời năm 14. sau Chúa giáng sinh. Ông cai trị đế quốc Roma từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh
Vị hoàng đế này được xưng tụng với danh hiệu cao cả thần thánh là “ Thiên tử” như khắc vẽ trên đồng tiền thời lúc đó. Người Ai cập xưng tụng Vua Augustus là vị “ Chúa tể cao cả”. Ở thành Roma ông được tôn kính là” người Cha của quê cha đất tổ”, và chính ông tự xưng mình là vị vua kiến tạo hòa bình cao cả Pax Romana.
Những danh hiệu cao cả đó vượt qúa giới hạn khả năng tài trí giới hạn của một con người trần thế. Nhưng xét cho cùng trong thời gian cai trị đế quốc Roma, hoàng đế Augustus đã có công chấm dứt cuộc nội chiến đã xảy ra từ một trăm năm trước đó rồi. Qua đó Ông đã có công kiến tạo mang lại nền hòa bình, sự phồn vinh thịnh vượng trong xã hội đế quốc Roma.
Rồi ông cũng là người, như Thánh sử Luca thuật lại trong phúc âm Chúa Giêsu Kitô về biến cố Chúa giáng sinh, khới lên phong trào sự chuyển động trên toàn thế giới đế quốc Roma. Sắc lệnh chiếu chỉ của hoàng đế Roma bắt mọi người về quê quán cũ nơi mình đã sinh ra ghi tên vào sổ nộp thuế. Điều này thể hiện nói lên sức mạnh quyền uy cùng ảnh hưởng rộng lớn của hoàng đế Augustus, đã khiến thiên hạ trong toàn đế quốc Roma lên đường di chuyển lên đường trở về quê quán cũ của mình, bất kể họ đang sinh sống nơi đâu trong đế quốc thời lúc đó. Như gia đình Thánh Giuse phải lặn lội từ miền Galileo làng Nazareth phía bắc nước Do Thái di chuyển xuôi về quê cũ nơi sinh ra miền Judea, thành Bethlehem phía nam nước Do Thái.
Tại sao Thánh sử Luca lại đưa hình ảnh hoàng đế Augustus vị xưng là con trời, vị vua kiến tạo hòa bình vào bài tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh, Đấng cũng là Thiên tử, là vua hòa bình, là người cố vấn kỳ diệu muôn thuở, như đồng hình dạng hay cạnh tranh với hoàng đế Augustus của đế quốc Roma?
Thánh sử Luca không phải là người chuyên môn về lịch sử triều đình đế quốc Roma. Theo tương truyền cùng ý kiến của các nhà nghiên cứu chú giải kinh thánh, Ông là một thầy thuốc, một họa sĩ, một người có nền học thức văn hóa Hylạp. Như thế ông là người có tầm nhìn kiến thức sâu rộng. Và sau này ông trở thành học trò môn đệ của Thánh Phaolô, cùng theo chân Thánh Phaolô đi làm công việc đạo đức truyền giáo cho tin mừng vào Chúa Giêsu Kitô. Với căn bản kiến thức đó Ông viết phúc âm giáo lý về Chúa Giêsu Kitô theo cung cách trên nền tảng đạo đức thần học lồng khung trong các biến cố thời sự lịch sử xã hội đời sống.
Vì thế Luca muốn dùng hình ảnh của hoàng đế Augustus như mốc điểm lịch sử trong đời sống xã hội thời lúc đó để tường thuật về một biến cố thần thánh khác: Giesu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người, và ở giữa con người.
Thánh sử Luca dùng hình ảnh một vị hoàng đế Augustus quyền uy sức mạnh trần thế có ảnh hưởng sâu rộng trong đế quốc Roma để diễn tả nói về một biến cố hình ảnh khác cho nổi bật rõ nét hiện lên khởi đầu chỉ là một hài nhi sơ sinh, yếu mềm, nhưng lại có sức mạnh tâm linh cao cả sâu rộng không chỉ trong thế giới đế quốc Roma của hoàng đế Augustus giới hạn về không gian địa lý và thời gian. Biến cố hài nhi Giesu giáng sinh làm người chiều kích thần học tâm linh có ảnh hưởng sâu rộng trong toàn thể hoàn cầu vũ trụ thiên nhiên, không có giới hạn về thời gian cùng tâm lý, văn hóa xã hội đời sống con người
Hai hình ảnh biến cố đó như bóng tối với ánh sáng; sự dữ tội lỗi hận thù với sự trong lành tha thứ làm hòa; sức mạnh của quyền lực áp chế bắt buộc với tình yêu lòng nhân từ; hòa bình trên nền tảng của vũ khí chiến thắng đánh bại với nếp sống hòa bình tâm linh từ trong thâm tâm của lòng tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng là nguồn hòa bình, nguồn sự sống; sự dối trá chiêu thức lừa đảo với lòng ngay thẳng chân thật; ích kỷ với bác ái, trần thế với thần linh…
Hài nhi Giesu, Con Thiên Chúa, vua hòa bình sinh xuống trần gian làm người là niềm hy vọng cho con người. Nhưng trong thực tế đời sống xã hội xưa nay luôn hằng có chiến tranh, hận thù, tàn phá gây hoang mang chao đảo cho đời sống. Dẫu vậy niềm hy vọng vào hài nhi Giêsu, Vua hòa bình, không vì thế bị rơi biến vào hư vô, vào khoảng không trống rỗng. Trái lại như các mục đồng trong đêm hài nhi Giêsu giáng sinh đã được Thiên Thần báo tin:” Các bạn sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ", cũng vậy nước Thiên Chúa, nước hoà bình cho tới ngày hôm nay vẫn còn bao bọc như trong nôi tã của một hài nhi sơ sinh.
Khi hài nhi Giêsu lớn thành người trưởng thành ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, nước tình yêu, nước hòa bình đã dùng hình ảnh hạt giống cây lúa, cây cải nhỏ bé so sánh với nước Thiên Chúa ( Mc 4, 26-34): hạt giống tuy nhỏ bé nhưng lại chất chứa mầm sức mạnh sự sống nảy sinh thành cây to lớn có cành lá xum xuê!
Ngay xưa và ngày nay biến cố đời sống diễn ra giữa hai trạng thái đối ngược nhau: cũ và mới, niềm hy vọng và hoang mang nghi hoặc, tình yêu và sự phá đổ. Dẫu vậy nước Thiên Chúa, nước hoà bình tình yêu vẫn luôn là khát vọng của con người muốn có.
Giữa cảnh sống sai lạc chao đảo không đúng phương hướng hòa bình tình yêu đó, một nếp sống chân thật vẫn có thể thành hiện thực đạt tới, khi nếp sống đơn giản chân thành đặt tin tưởng vào tin mừng sứ điệp của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng hòa bình, ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa cho con người, như Ngài rao giảng trong bài giảng Tám mối phúc thật:
“ Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai buồn sầu,
vì họ sẽ được an ủi.
Phúc cho những ai hiền lành,
vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát sự công chính,
vì họ sẽ được no thỏa.
Phúc cho những ai có lòng thương xót,
vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai xây dựng hòa bình,
vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính,
vì Nước Trời là của họ. “ (Mt 5, 3-10)
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cọng rơm hang đá Chúa giáng sinh.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Phúc âm thuật lại ( Lc 2, 1-14) hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, hạ sinh trong chuồng thú vật ngoài cánh đồng thành Bethlehem. Và trong hang chuồng thú vật không thể không có rơm cỏ khô cho xúc vật ăn.Vì thế nơi hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh ngày nay luôn có những cọng rơm khô rải trong đó. Rơm cỏ khô là chất vật liệu thực phẩm cho xúc vật ăn cùng cho sưởi ấm không có gía trị gì cho lắm. Nhưng lại là quan trọng, không thể thiếu trong hang đá mừng lễ Chúa Giêsu gíang sinh.
Vậy cọng rơm cỏ khô trong hang đá Chúa giáng sinh diễn tả hình ảnh gì?
Theo gương các Mục đồng ngày xưa, vào ngày lễ kỷ niệm Chúa Giêsu giáng sinh một vài em thiếu nhi rủ nhau đến thăm viếng hang đá trong Thánh đường. Các em đến viếng Hang đá Chúa thường hay bỏ một vài đồng tiền đã để dành vào hộp dựng ngay bên hang đá, để giúp cho các trẻ em nghèo thiếu thốn khác. Nghĩa cử đạo đức tình người này rất tốt và hợp với khung cảnh lễ Chúa giáng sinh. Lễ tình yêu mến!
Sau khi thăm viếng hang đá các em ra về thường thì tay không. Nhưng một em trong đám rút cầm về một cọng rơm trong hang đá. Dọc đường chúng bạn nhìn thấy bạn đó cầm vật gì trong tay. Tò mò họ hỏi xem cái gì. Bạn đó trả lời ngay: Tôi rút được một cọng rơm từ hang đá Chúa Giêsu, cầm về làm kỷ niệm!
Các chúng bạn có vẻ cười nhạo, sao người bạn bé nhỏ này lại rút một cọng rơm khô về làm kỷ niệm! Họ bắt đầu nói chế diễu bạn nhỏ này về cử chỉ có vẻ khác người.
Bạn nhỏ mặt đỏ tía tai biện hộ: „ Tôi chỉ rút có một cọng rơm khô thôi về làm kỷ niệm. Vì tôi thấy trên cỏ rơm khô này Chúa Giêsu hài nhi nằm. Tôi thấy có cái gì dễ thương gần gũi với Chúa với cả tôi nữa. Nên tôi thích và rút mang về. Tại sao các Bạn lại cười chê tôi?“
Hai người bạn trong đám cười to tiếng hơn nói chen vào: Cọng rơm khô đem về làm kỷ niệm! Mày biết rơm khô đâu có gì đáng qúy gía đâu. Thôi vất đi cho rồi. Chỉ là rác bẩn nhà thôi. Ðem về nhà thế nào trước sau chính mày hay mẹ mày cũng quăng vào thùng rác thôi!“
Bạn nhỏ lắc đầu nói lại: Bạn nói cái gì? Nó là rác, đem vứt quăng nó đi ư? Không, tôi không làm chuyện đó. Tôi đã nói đó là một kỷ niệm yêu qúi. Vì Chúa Giêsu hài đồng nằm trên đó. Mỗi lần tôi cầm cọng rơm khô này trên tay, tôi nhớ lại Chúa hài đồng, nhớ lại lời Thiên Thần ngày xưa đã nói với các Mục đồng.“
Hai ngày sau, gặp lại nhau, các chúng bạn khác hỏi người bạn về cọng rơm khô đêm giáng sinh: Này Bồ, bồ có còn giữ cọng rơm khô nữa không đấy?
Bạn nhỏ: Có chứ, có muốn xem không, đây này!
Chúng bạn: Chúng tao chỉ hỏi vậy thôi, chứ ai đâu muốn xem làm gì. Thôi vất bỏ đi cho rồi, giữ làm gì cho bẩn nhà, bẩn túi áo ra. Rơm cỏ khô có gía trị gì đâu mà giữ làm kỷ niệm!
Bạn nhỏ: Không, nó không là vật vô gía trị đâu. Trên cọng rơm khô Chúa hài đồng nằm.
Chúng bạn: Thì đã có ảnh hưởng gì? Chúa Hài đồng có gía trị cao cả, nhưng cọng rơm cỏ khô thì không đâu đấy nhé bạn nhỏ!
Bạn nhỏ: Có chứ sao không! Cọng rơm khô đó có gía trị lắm chứ. Trên cỏ rơm khô Chúa hài đồng đã nằm. Trong chuồng súc vật, có cái gì khác hơn đâu, nên khi sinh ra, Ngài đã nằm trên đó. Ðấng cao cả gía trị cao sang nằm trên cỏ khô vô gía trị. Như thế chưa đủ có gía trị sao? Không phải chỉ vậy thôi đâu. Thiên Chúa trở nên người bé nhỏ, một hài nhi. Người cần sự gì nhỏ bé. Vâng, sự gì bị cho là vô gía trị. Thiên Chúa cần con người như tôi, như chúng ta tất cả, những người nghèo hèn bé nhỏ, người không có thể làm gì được nhiều, người bị cho là không có gía trị kí lô gì!
Bạn nhỏ đó qúy trọng gìn giữ cọng rơm đêm giáng sinh, cọng rơm đêm thánh rất cẩn thận. Vì nó quan trọng với bạn ta.
Một ngày khác, một người bạn đến chơi, thấy cậu ta cầm cọng rơm đó trên tay. Anh ta xin được cầm cọng rơm. Có cơ hội anh ta liền gấp bẻ cọng rơm lại và vất quăng xuống đất trong thái độ tức giận khiêu khích: Mày là thằng điên rồi hả? Cọng rơm khô nào có gía trị gì đâu mà giữ mãi!
Người bạn nhỏ chủ cọng rơm đứng nhìn bạn mình hành động vội vã đầy tức giận. Quan sát xong, bạn nhỏ cúi mình xuống nhặt cọng rơm khô lên kéo thẳng lại ra và nói:
„Nhìn đây, cọng rơm vẫn còn là cọng rơm như lúc trước. Sự giận dữ của anh đâu có thay đổi được cọng rơm. Cọng rơm nhỏ mềm dễ bị uốn cong. Tôi đã nói: trên cọng rơm khô Hài nhi Giêsu đã nằm. Từ một trẻ thơ bé nhỏ, hài nhi Giêsu đã trở thành người trợ giúp mạnh mẽ đầy quyền năng, không ai có thể giết chết Người được. Dù con người có tức giận khinh khi Người, nhưng Người vẫn can đảm chịu đựng vượt qua và trước sau vẫn đứng vững giữa mọi thử thách. Hài nhi đó là Ðấng Cứu độ của Thiên Chúa cho con người.
Tình yêu Thiên Chúa không bị dập tắt, bị uốn cong làm cho nhỏ bé đi.“
Phỏng theo một truyện về lễ mừng Chúa Gíang sinh xứ Mexicô
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Gioan Tẩy gỉa, người sống lòng khiêm nhượng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Một người tín hữu ( NTH) có thói quen đạo đức đến thánh đường viếng thăm cầu nguyện không chỉ nơi bàn thờ nhà Chầu Mình Thánh Chúa hay bàn tòa kính Đức Mẹ Maria, nhưng còn tìm đến bàn tòa kính Thánh Gioan tiền hô. Trong cầu nguyện NTH bày tỏ tâm tình mình với vị Thánh qua cuộc nói chuyện tâm linh.
- 1. NTH: Con xin chào Thánh nhân. Con là người tín hữu hôm trước đã có lần đến đây và tò mò nói chuyện với Thánh nhân. Về nhà suy nghĩ nhớ lại những gì Thánh nhân đã nói với con. Con rất đỗi vui mừng. Con cám ơn Thánh nhân. Hôm nay con lại đến muốn nói chuyện cùng Thánh nhân nữa. Vậy Thánh nhân có cho phép con không?
Thánh Gioan: Ta chào Bạn. Sao lại không ? Ta vui mừng được nói chuyện với Bạn. Có Bạn đến nói chuyện, ta không cảm thấy lẻ loi một mình đứng trên đế đài này với hoa nến héo tàn ngày này qua ngày khác, năm tháng này qua năm tháng khác... Như vậy còn gì vui hơn nữa.
Có một điều ta muốn nói với Bạn. Đúng hơn ta khen Bạn. Bạn không xin xỏ gì với ta như những người khác hay than thở kêu xin. Lẽ dĩ nhiên ta cũng lắng nghe họ than thở kêu xin, và sẵn sàng cầu bầu xin Thiên Chúa ban ân phúc lành cho họ. Nhưng ta vẫn thích người như Bạn có tâm tâm hồn tìm hiểu đức tin không chỉ cho trái tim tâm hồn mà còn cho cả trí óc hiểu biết nữa. Bạn là người có nếp sống quân bình. Tin kính nhưng cũng có nhu cầu hiểu biết của lý trí về điều mình tin. Xin Bạn cứ tự nhiên.
- 2. NTH: Thưa Thánh nhân. Không dám đâu, xin cám ơn Thánh nhân. Con chỉ là người tò mò thôi đấy mà.
Hôm trước Thánh nhân đã cắt nghĩa cho con về nhiệm vụ tiền hô của Thánh nhân. Nhưng cũng qua đó Thánh nhân nói đến công việc làm phép Rửa cho dân chúng bên bờ sông Jordan. Có phải vì thế mà người ta cũng còn gọi Thánh nhân với danh xưng Tẩy gỉa nữa không?
Thánh Gioan: Bạn đúng là người tò mò. Nhưng sự tò mò của Bạn là điều tốt giúp tâm trí rộng mở hiểu biết thêm. Ta không biết có đúng như thế không. Nhưng ta nghĩ, người ta đặt thêm danh hiệu như thế, có thể họ căn cứ theo sự kiện ta đã làm phép rửa cho dân chúng và cho cả Chúa Giêsu nữa, mà đặt thêm danh hiệu tẩy giả này cho ta. Và biết đâu cũng để phân biệt với những vị Gioan khác. Nhưng điều đó không quan trọng.
Quan trọng ở chỗ, phép rửa ta làm là dấu hiệu nói lên lòng ăn năn thống hối từ bỏ con đường sự dữ tội lỗi trở về con đường ngay chính tốt lành, dọn con đường tâm hồn đón tiếp Đấng là ánh sáng cứu độ đến trong trần gian, của người lãnh nhận phép rửa.
- 3. NTH: Thưa Thánh nhân ngoài hai danh hiệu Tiền hô và Tẩy gỉa, còn có thêm danh hiệu nào đặt cho Thánh nhân nữa không?
Thánh Gioan: Bạn đúng là người tò mò chính hiệu. Không có danh hiệu nào nữa đặt thêm cho ta đâu. Như vậy đủ rồi, và đã nói lên hết nhiệm vụ chính yếu của ta nữa.
Có điều khi người ta nghe tin ta rao giảng phép rửa ăn ăn thống hối, người ta đến hỏi ta: Ông là ai?. Ta không chút do dự nói ngay: Các ngươi an tâm và đừng lẫn lộn: Ta rao giảng, nhưng ta không phải là Đấng Kito cứu thế, cũng chẳng phải là vị Ngôn sứ nào đâu.
Họ vặn hỏi mãi, ta nói ngay “ Ta là tiếng hô trong sa mạc hãy dọn đường cho thẳng để Thiên Chúa đến. Họ vẫn chưa chịu bằng lòng với câu trả lời của ta. Họ vặn hỏi thêm: Thế tại sao Ông làm phép rửa?
Ta cũng không ngần ngại nói ngay: Các Ông nên biết cho điều này. Ta rao giảng làm phép rửa trong nước. Nhưng có Đấng quyền thế hơn ta. Người đang ở giữa các ông mà các ông không nhận ra Người. Còn ta, ta đâu có xứng đáng hầu hạ cởi quai dép cho Người.
- 4. NTH: Như thế Thánh nhân còn có thêm danh hiệu là tiếng hô trong sa mạc nữa. Tiếng hô của Thánh nhân là lời loan báo, tiếng kêu gọi con người trở về với con đường đời sống ngay chính. Nhưng tiếng hô đó của ngài còn loan báo gì khác hơn nữa không?
Thánh Gioan: Phải, tiếng hô là lời rao giảng loan báo của ta không chỉ dừng lại nơi đó. Nhưng quy tới một đích điểm, đúng hơn tới một con người. Con người đó là Thiên Chúa xuống trần gian làm người giữa xã hội con người .
- 5. NTH: Vị Thiên Chúa làm người đó là ai vậy?
Thánh Gioan: Vị Thiên Chúa làm người đó chính là Con Thiên Chúa tên là Giêsu Kitô.
Vị đó là Ánh sáng của Tiên Chúa từ trời cao xuống hiện thân làm người. Ánh sáng của Ngài không là ánh sáng đèn điện chiếu tỏa tia sáng cực mạnh nóng bỏng làm chói mắt. Không, không phải như thế. Ánh sáng chiếu tỏa từ nơi Ngài là ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa, ánh sáng tình yêu mến của Trời cao, ánh sáng niềm hy vọng cho con người, ánh sáng ơn tha thứ làm hòa giữa Trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người.
- 6. NTH: Làm sao Thánh nhân có thể qủa quyết thuyết phục người nghe như thế được?
Thánh Gioan: Nhiệm vụ của ta là rao giảng làm chứng cho Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng đến trong trần gian.
Mốc điểm thời tiết là hình ảnh tốt, giúp cắt nghĩa hiểu về ánh sáng của Chúa Giêsu. Bạn biết không, theo dòng tộc gia đình, ta là anh em họ hàng với Chúa Giêsu sinh ra làm người. Ta sinh ra đời trước Chúa Giêsu vào ngày 24.06. Còn Chúa Giesu sinh ra vào ngày 25.12. Đây là theo cách tính của niên lịch phụng vụ Kitô giáo.
Theo luật tuần hoàn trong vũ trụ thiên nhiên, vào cuối tháng Sáu thời tiết bắt đầu vào mùa Hè, mặt trời chiếu sáng ngày dài hơn ban đêm. Và cũng từ thời cao điểm đó, mỗi ngày thời tiết xuay chuyển mặt trời ngày ngắn lại, ban đêm tối trời dần dài hơn thêm ra. Và cao điểm ngày ngắn ít ánh sáng mặt trời chiếu, ban đêm dài nhất trong năm là những ngày cuối tháng Mười Hai.
Giáo Hội mừng ngày ta sinh ra vào ngày 24.06. ngày cao điểm trời sáng, Và sau ngày đó từ từ ngày ngắn lại, đêm tối dài thêm ra.
Lễ mừng Chúa Giêsu sinh ra làm người vào đêm tối trời nhất trong năm ngày 25.12. Và từ sau ngày này ánh sáng ban ngay từ từ dài thêm ra, đêm tối trời ngắn lại.
Chúa Giêsu sinh ra làm người vào thời gian đêm tối trời. Sự sinh ra của Ngài vào thời điểm đó nói lên: Ngài đem ánh sáng từ trời cao soi chiếu vào đêm tối trần gian. Đêm tối trần gian trong không gian thời gian thời tiết hình thể địa lý, và đêm tối trong tâm hồn con người vì sự dữ tội lỗi che khuất làm ra cho tối tăm.
Ngài đến trần gian mang ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Sau này khi ra rao giảng, chính Ngài đã nói Ngài là ánh sáng cho trần gian.
Rồi cũng vào ngày 25.12. thời thượng cổ xa xưa dân tộc Roma dành kính thờ Thần Mặt Trời. Và từ khi đạo Kitô được hoàng đế Roma Vua Constantino năm 313 công nhận cho tự do sống đức tin công khai, Giáo hội Công giáo đã rửa tội ngày 25.tháng 12. hằng năm thành ngày mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng Mặt Trời công chính đã xuống trần gian.
Nên ngày lễ kỷ niệm Chúa giáng sinh ngày 25.12. nói lên ý nghĩa căn bản của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng, đi vào soi chiếu ánh sáng trong đêm tối trần gian. Ánh sáng ơn cứu độ của Chúa xóa tan bóng tối, đem lại sự an bình cho con người.
- 7. NTH: Thưa Thánh nhân, Kinh Thánh đề cập đến Thánh nhân với ánh sáng như thế nào?
Thánh Gioan : Ta rao giảng kêu gọi con người dọn con đường tâm hồn cho Chúa đến. Nhưng Vị Thánh tên là Gioan, người Tông đồ trực tiếp của Chúa Giêsu, và sau này đã phụng dưỡng nuôi đức mẹ Maria sau khi Chúa Giêsu về trời, đã viết Phúc âm Chúa Giêsu. Trong đó Ông nói đến ta ngay trong phần đầu của sách Phúc âm: „Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng.“ Ga 1,6-8.
- 8. NTH: Thưa Thánh nhân, Thánh nhân có biết mình sinh ra vào thời nào không?
Thánh Gioan: Thời của ta lúc sinh ra không có giấy khai sinh như bây giờ. Nên ta không biết mình sinh ra thời nào.
Sau này trong đời sống, theo khoa học người ta làm ra lịch năm tháng ngày giờ cho phân biệt rõ ràng như đang dùng ngày hôm nay. Theo cách tính niên lịch, người ta lấy năm Chúa Giêsu giáng sinh là năm thứ nhất sau Chúa giáng sinh, khoa học gọi là năm thứ nhất sau Công nguyên. Như thế biến cố Chúa Giêsu sinh ra làm người là mốc điểm giữa hai thời đại trước và sau Công nguyên. Ta sinh ra đời trước Chúa Giêsu nửa năm. Vậy ta chào đời vào nửa năm cuối cùng thời trước Chúa Giêsu. Nên người ta còn nói ta là vị Ngôn sứ cuối cùng thời cựu ước, thời trước công nguyên, chuyển tiếp sang thời Tân ước với Chúa Giêsu Kitô, thời sau công nguyên.
Người ta không biết rõ năm nào Chúa Giêsu sinh ra. Có thuyết cho rằng, vì sau này mới làm lịch, nên tính sai năm Chúa sinh ra đời, và có lẽ Chúa Giêsu sinh ra vài năm trước đó rồi, năm 07. trước Công nguyên! ( Joseph Ratzinger, Benedikt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog die Kindheitsgeschichten, Herder Freibug i. Breisgau 2012, tr. 106 -110)
Thánh sử Luca viết trong Phúc âm Chúa Giêsu có nói đến thời điểm lịch sử chính trị và tôn giáo lúc ta đi ra rao giảng làm phép rửa ăn năn thống hối dọn đường cho Chúa:
„ Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberio, thời quan Pontius Pilatus làm tổng trấn miền Judea, Herode làm tiểu vương miền Galileo, người em là Philiphe làm tiểu vương miền Iture và Khana va Caipha làm Thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là Ông Gioan trong hoang địa. Ông đi khắp vùng ven sông Jordan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.“ (Lc 3, 1-3).
- 9. NTH: Con xin chào tạm biệt và cám ơn Thánh nhân qua nói chuyện đã chỉ dẫn cho con hiểu rõ về vai trò của Thánh nhân trong công việc xây đắp gìn giữ đức tin vào Chúa. Qua đó con dần hiểu rõ ra hơn, tại sao Hội Thánh hằng năm vào mùa Vọng lấy hình ảnh cùng đời sống của Thánh nhân ra làm trung tâm cho giáo lý chuẩn bị tâm hồn mừng lễ ánh sáng Chúa Giesu Kitô giáng sinh làm người…
Thánh nhân cùng với đức mẹ Maria là hai nhân vật chính yếu trong mùa Vọng. Cả hai trông mong chờ đợi Chúa đến, và giúp mọi người hướng tâm hồn trông chờ Chúa đến. Và chúng con nhìn học được nơi Thánh nhân cung cách nếp sống lòng khiêm nhượng: nhận mình chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng để mở đường giới thiệu cho Thiên Chúa đến.
Thánh Gioan: Ta cũng cám ơn Bạn đã đến thăm viếng ta và trò truyện với ta. Điều này thật đáng qúi lắm.
Ta cầu chúc Bạn khoẻ mạnh, lòng tràn đầy niềm vui cùng sự hăng say nhiệt thành nếp sống tinh thần cho trái tim cùng trí khôn suy biết nữa. Chúc bằng an thành công. Gioan, người bạn của các Bạn!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh hang đá Chúa giáng sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào dịp lễ mừng Chúa giáng sinh, khắp nơi hang đá được tạo dựng trang hoàng theo nhiều kiểu khác nhau. Lễ mừng Chúa giáng sinh mà không có hang đá, thì kể như chưa là lễ giáng sinh, ở bên ta cũng như bên tây!
Người ta dựng hang đá mừng lễ không phải chỉ trong thánh đường hay tại các tư gia. Nhưng ngày nay hang đá được bày dựng trong cả các cửa tiệm hoặc để trang hoàng hấp dẫn khách qua lại đến xem mua hàng hóa, hoặc làm việc thương mại bán hang đá.
Như thế, Chúa sinh ra làm người mang chúc lành từ trời cao: Sứ điệp tình yêu của Chúa cho tâm hồn con người và niềm vui lợi nhuận kinh tế trong cuộc sống!
Ngày nay ở những nước văn minh tiêu thụ, mùa mừng lễ Chúa giáng sinh là dịp rất thuận tiện bán được nhiều hàng hóa và qua đó thúc đẩy mãi lực nền kinh tế quốc gia phát triển tích cực. Đó cũng là tin mừng cho nhân gian. Nhưng mừng kỷ niệm Chúa sinh ra làm người đâu có thể chỉ dừng lại ở điểm đó.
Hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh diễn tả hình ảnh gì cho nếp sống tâm linh đạo đức?
Tin mừng thánh Luca (2,7) thuật lại: Đức Mẹ Maria hạ sinh hài nhi Giêsu giữa cánh đồng Bethlehem trong chuồng thú vật ngoài cánh đồng và nôi nằm của hài nhi là một máng đựng thức ăn cho súc vật. Có những chuồng thú vật thời đó trên cánh đồng Bethlehem được xây dựng trong một hang của gò núi đá hay được làm bằng gạch đá.
Ngày nay sang hành hương kính viếng địa điểm hang đá Chúa giáng sinh bên thành Bethlehem chỉ còn thấy một đền thờ to lớn được xây dựng lại từ thế kỷ 18. Và bên dưới tầng hầm đền thờ, theo tương truyền nơi ngày xưa hài nhi Giêsu sinh ra được đặt nằm trong một nôi máng cỏ cho thú vật ăn, có khắc hình ngôi sao 14 cánh trên nền đất đánh dấu địa điểm lịch sử biến cố thần thánh nơi hài nhi Giêsu đã nằm lúc mở mắt chào đời cách đây hơn hai ngàn năm. Ngôi sao có 14 cánh là hình ảnh biểu tượng nói đến 14 thế hệ trong gia phả Chúa Giêsu Kitô.( Mt 1, 1-17).
Hang đá cùng chiếc máng cỏ hài nhi Giêsu đêm giáng sinh nằm như thế nào, không ai biết rõ. Dựa theo phúc âm và theo dòng lịch sử người ta đã làm ra nhiều kiểu về hang đá cùng máng cỏ Chúa giáng sinh.
Theo tập tục bên Đông phương máng cỏ, nôi Chúa nằm lúc sinh ra, được làm bằng đá có hình thể trông giống như một quan tài. Và hài nhi Giêsu được quấn khăn tã đặt nằm trong đó như xác một người qua đời.
Hình ảnh này muốn diễn tả Chúa Giesu sinh ra trong hang đá và lúc qua đời cũng được mai táng trong mồ đá. Trong hang đá sự sống đã khởi đầu khi Chúa Giêsu sinh ra làm người, và cũng trong mồ đá Chúa Giêsu đã sống lại, khởi đầu một đời sống mới. Đời sống ơn cứu độ.
Nghệ thuật cùng tập tục bên phương tây xây dựng hang đá máng cỏ như một bàn thờ. Hình ảnh này muốn diễn tả lễ tế tạ ơn, bí tích thánh thể. Bethlehem có nghĩa là “ nhà làm bánh mì“. Khi cử hành bí tích Thánh thể là tưởng nhớ lại sự sinh ra làm người của Chúa khi xưa trong hang đá ngoài cánh đồng Bethlehem. Và trong mỗi thánh lễ chúng ta cùng tiếp nhận tấm bánh thánh thể từ trời cao, ngày xưa đã sinh xuống trên đồng Bethlehem “ngôi nhà làm bánh mì“, là lương thực cho niềm tin tâm hồn vào Chúa.
Hang đá máng cỏ vì thế không nhất thiết phải bằng đá thiên nhiên, nhưng đa số làm bằng gỗ. Trong đó Chúa Giêsu được đặt nằm trên rơm cỏ, có đàn súc vật bò lừa ngồi nằm thở hơi ấm chung quanh. Hình ảnh này nói lên sự khó nghèo, khiêm hạ của Chúa.
Người ta cũng không biết rõ hình thù hang đá máng cỏ lúc Chúa sinh ra như thế nào. Máng cỏ ( có năm mảnh ván nhỏ ghép lại) Chúa Giêsu nằm khi sinh ra ở Bethlehem, theo tương truyền còn lưu giữ ở đền thờ Đức Bà cả S. Maria Maggiore bên Roma. Điều này không có gì chắc chắn đúng trăm phần trăm cả.
Lòng đạo đức kính thờ Chúa sinh ra làm người đã thúc đẩy con người vẽ kiểu làm ra hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh. Việc này không có gì xấu cả, trái lại tốt lành và nâng đỡ niềm tin con người rất nhiều.
Thánh Phanxicô Assisi năm 1223 ở vùng Walde von Greccio đã cùng với các anh em Dòng của ngài dựng làm ra hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên dựa theo những lời thuật lại trong phúc âm về đêm Chúa sinh ra năm xưa và theo kiểu ru con trong một chiếc nôi. Hang đá là một ngôi nhà hay chòi lều của một cái hang cho thú vật nghỉ ngơi trong đêm khuya có tượng những nhân vật thần thánh như thuật trong phúc âm: Hài nhi Giêsu, mẹ Maria, thánh cả Giuse, các Thiên Thần, các người mục đồng và các con thú vật chiên bò lừa của họ. Khung cảnh này diễn tả mầu sắc lung linh thần thánh thật sống động cùng thi vị huyền thoại: “Trong chuồng bò nửa đêm tăm tối Chúa giáng sinh đã ra đời!” ( Lm. Hoàng Kim)
Từ thời điềm đó hang đá mừng lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người trở thành truyền thống nhất định trong nếp sống phụng vụ văn hóa của Giáo hội hoàn vũ.
Năm nay 2023, kỷ niệm 800 năm hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên được xây dựng làm ra do Thánh Phanxicô thành Assisi và anh em Dòng, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh 2023 ở quảng trường Thánh Phero, và trong đại thính đường Phaolo bên Vatican cũng được xây dựng theo tinh thần kiểu mẫu hang đá Greccio thần thoại đầu tiên này từ ngày 09.12.2023 đến ngày 07.01.2024.
Nhạc điệu và nôi ru con là một hình thái rất phổ thông được qúy trọng trong dân gian. Và từ thế kỷ 14 xuất hiện nhiều kiểu hang đá Chúa giáng sinh theo hình thức này. Hài nhi Giêsu được đặt trong một máng như một nôi cho em bé nằm, trong đó có lót cỏ rơm khô cho êm ấm,..có Mẹ Maria và Thánh Giuse đứng bên cạnh. Chung quanh là các thú vật bò, lừa, cừu, các mục đồng đến thăm viếng trò truyện, trên cao chỗ tường vách có Thiên Thần bay lượn ca hát.
Hình ảnh này thật đẹp, thơ mộng và mang tính trẻ thơ thần thoại hoang đường. Nhưng nó gợi lên tâm tình đầm ấm trong một mái nhà, tuy nghèo hèn đơn sơ, nhưng là quê hương tổ ấm cho con người.
Rơm cỏ lót cho hài nhi nằm êm ấm trong máng cỏ cũng là sứ điệp nhắn gửi: Hang đá máng cỏ do con người chế biến làm ra và tâm hồn con người cũng có thể là nơi Chúa Giêsu sinh ra. Khi sống bác ái tình người, khi làm việc thiện hảo tốt lành cho người đồng loại.
Ngày nay, người dựng hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh phần nào theo truyền thống hang đá Thánh Phanxicô khó khăn đã nghĩ làm ra lần đầu tiên năm xưa1223.Nhưng vật liệu xây dựng khác nhau hoặc bằng gỗ, hoặc bằng giấy rồi sơn phết mầu xám của đá. Ngoài những bộ tượng giáng sinh đặt trong đó, đèn điện cũng được chăng mắc thêm vào tùy theo văn hóa, thẩm mỹ cùng lòng cung kính đạo đức của từng dân tộc thời đại.
Hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh dù xây dựng bằng vật liệu gì , theo kiểu cách nào và trang trí thế nào đi nữa, đều muốn gợi lại tình yêu cùng lòng khiêm hạ của Thiên Chúa xuống trần gian làm người, và cũng phần nào nói lên tâm tình yêu mến của con người với Đấng là tình yêu cho tâm hồn con người.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Gioan, người mở đường.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày xưa cách đây hơn 500 năm nhà thám hiểm Christoph Columbus ( 1451-1506) đã dùng thuyền buồm vượt biển từ Âu châu khám phá ra các quốc gia đất nước vùng châu mỹ Latinh ( Nam Mỹ).
Nhà vạn vật học Charles Darwin ( 1809-1882) sau nhiều năm tìm hiểu nghiên cứu động vật và thực vật thiên nhiên, đã suy tìm khám phá ra lý thuyết tiến hóa nơi sự sống của các giống nòi„On the origin of species by means of natural selection, or the preservation of favoured races in the struggle for life“.
Nhà vật lý học Albert Einstein ( 1879-1955) đã nghiên cứu tìm ra thuyết tương đối trở thành nền tảng trong khoa học vật lý về không gian và thời gian.
Có hình ảnh người dọn đường khám phá như thế trong đời sống đạo giáo tâm linh không?
Xưa nay cũng có những người như vậy trong lãnh vực tâm linh đạo gíao. Giáo Hội Công giáo tôn kính Ông Thánh Gioan tiền hô là người có cung cách nếp sống thám hiểm dọn đường cho Thiên Chúa đến trần gian trong lãnh vực tâm linh như thế.
Có thể nói những nhà thám hiểm trong lãnh vực khoa học như trên là những người dấn thân nỗ lực tiên phong đi trước hàng đầu tìm cách xây dựng con đường, bắc cây cầu cho những nghiên cứu tìm hiểu phát triển tiếp theo sau.
Những thành qủa nghiên cứu mở đường của họ mở ra chân trời mới cho nghiên cứu khám phá mới. Việc làm khám phá của họ là đà cho bước nhảy vọt tiến về phía trước.
Thánh Gioan, người anh em với Chúa Giêsu Kitô, theo kinh thánh thuật lại, con trai thầy cả thượng phẩm ông Zacharia và Bà Elisabeth, sinh ra đời sáu tháng trước Chúa Giêsu.
Gioan có danh hiệu tiền hô. Vì ông sau khi đã thành người trưởng thành, từ bỏ nếp sống hàng tư tế thời lúc đó của cha mẹ ở nhà vùng En Karim, chỗ ở của những nhà vị vọng vương giả quyền qúi. Ông tự nguyện lui đi vào vùng sa mạc hoang vắng sống cuộc đời ẩn dật khắc khổ, chay tịnh nghèo khó một mình, xa tránh nơi thành thị có lối sống nhộn nhịp tranh đua.
Samạc như Kinh thánh diễn tả về địa lý không chỉ là nơi chốn âm thầm vắng vẻ cô đơn, chỉ toàn cát cùng nắng nóng, gía lạnh buốt ban đêm, thiếu vắng cây cỏ, nước và sức sống … nhưng cũng còn là nơi chốn nhuốm mầu tâm linh tốt thuận lợi cho gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa nữa.
Theo kinh thánh cựu ước, dân Do Thái ngày xa xưa đã hai lần sống trong sa mạc hoang vu. Đầu tiên họ đã trải qua cuộc sống người di cư trong sa mạc ròng rã 40 năm trên đường từ đất nước nô lệ bên Aicập trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban cho. Và sau này họ cũng phải đi băng qua sa mạc hoang vu từ cuộc sống lưu đày thành Babylon ( nước Irac) trở về quê hương nước Do Thái.
Phúc âm nhắc nhớ đến sách Cựu ước viết về vai trò của người đi trước mở dọn đường cho Chúa trong sa mạc hoang vu:”Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Isaia 40,3).
Xây dọn mở đường trong sa mạc hoang vu tựa giống như xây xa lộ đường cao tốc, để lưu thông được mau chóng dễ dàng thuận lợi.
Núi đồi thung lũng san cho bằng phẳng ( Isaia 40,4) vang vọng một con đường rộng để đón tiếp khách tới.
Có thế Thiên Chúa mới có thể vượt qua đến với trong sự vui mừng.
Những lời cùng chỉ dẫn trong kinh thánh cựu ước trên được thể hiện thành hiện thực với lời rao giảng công khai của Ông Gioan tiền hô trong sa mạc, bên bờ sông Jordan. Ông rao giảng kêu gọi con người phải thay đổi lối sống bất chính cũ, ăn năn trở về với Thiên Chúa. Phải sẵn sằng cho nếp sống thanh sạch không tội lỗi. Xưa kia đã sống sai phạm, cần thành tâm hối lỗi sửa đổi lại. Hãy tỉnh thức cố gắng đừng để đời sống đi lạc lối, nhưng theo con đường chân chính thẳng lối!
Rất ngạc nhiên, lời rao giảng đanh thép của Gioan không rơi vào thinh không, nhưng được mọi người nghe theo từ người sốt sắng đạo đức tới người tội lỗi, người dân bình thường và cả những người trí thức học giả:” Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan.” ( Mc 1,5).
Phép Rửa do Ông Gioan tiền hô thực hiện theo nghi thức được ấn nhận chìm trong dòng nước sông Jordan diễn tả lại hình ảnh ngày xa xưa dân Do Thái trên đường từ Ai Cập trờ về quê hương đất nước Do Thái cũng đã đi qua lòng Biển Đỏ, cùng nói lên từ bỏ những gì là cũ để có khả năng thu nhận cái mới. Điều mới mang lại sự cứu rỗi bình an cho tâm hồn đời sống của con người.
Gioan tiền hô không dừng lại nơi lời rao giảng cùng việc làm của mình đang nổi tiếng được mọi người kính trọng yêu mến. Ông không đứng lại cản đường, cản lối cho Thiên Chúa đến.Trái lại Ông mở đường lấy ngón tay chỉ về hướng con đường khác phía trước: "Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần". ( Mc1,8).
Gioan tiền hô không phủ nhận hay hạ gía phép Rửa do ông thực hiện. Nhưng ông nhấn mạnh đến vai trò người mở đường của mình muốn làm nổi bật rõ nghĩa sự chính yếu đang đến: Phép Rửa do Chúa Giêsu Kitô thực hiện.
Thánh Gioan tiền hô không như những nhà khoa học mở đường trong lãnh vực nghiên cứu phát minh như Christoph, Darwin, Einstein…Nhưng Ông có nếp sống theo con đường chay tịnh cầu nguyện trở về với Thiên Chúa nguồn sự thánh thiện.
Thánh Gioan tiền hô cũng không nhận lãnh giải thưởng Nobel vì lời rao giảng cùng công việc cho Thiên Chúa. Nhưng dẫu vậy Ông là người chỉ đường mở lối khám phá ra con đường mới xây dựng đời sống tâm linh cho con người hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn đời sống .
Cung cách thái độ sống khiêm nhượng của Gioan tiền hô luôn có gía trị thần thánh cao cả trước Thiên Chúa và con người xưa nay.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh con người Maria được tuyển chọn
- Hình ảnh người canh cửa cổng.
- Hình ảnh tiếng Sư Tử gầm thét
- Hình ảnh „Giêsu, Vua dân Do Thái“
- Hình ảnh khả năng được ban cho
- Hình ảnh lối sống khôn ngoan
- Hình ảnh đời sống vĩnh cửu
- Hình ảnh bài giảng từ nấ
- Hình ảnh được chúc phúc lành.
- Hình ảnh Đức mẹ Maria với đời sống người di cư