Dân Chúa Âu Châu

VRNs (14.02.2015) – Sài Gòn – Bệnh phong còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen (1) gây ra. Vi khuẩn này không có bào tử nên nó không lây qua vật trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1-2 ngày. Loại vi khuẩn Mycobacterium Leprae và Mycobacterium Lepromatosis là tác nhân gây bệnh phong. Da thịt bệnh nhân thường nổi nhọt, lở loét, nặng hơn thì vết thương lõm vào da thịt, lông mày rụng, mắt lộ ra,…

Bệnh nhân phong chịu đựng sự đau nhức vào những đêm trăng sáng, trăng càng sáng thì họ càng đau nhức vì vi khuẩn rúc rỉa, do đó mà Thi sĩ Phanxicô Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí, 1912-1944) đã mong ước “khác người” khi ông thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).

Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co rút lại, khiến đôi tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Ước vọng của họ rất đơn giản: Khỏi bệnh. Họ khổ cả thể lý lẫn tinh thần vì bị mọi người xa lánh, kỳ thị. Ngày nay, bệnh phong đã trị được, nhưng người ta vẫn “ngại” khi tiếp xúc với bệnh nhân phong.

Bệnh phong xuất hiện từ xa xưa, thời Cựu Ước cũng đã có. Thời đó, Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Kinh Thánh giải thích: “Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, nó bị vết thương ở đầu” (Lv 13:43-44). Các bệnh nhân hóa nạn nhân, vì họ không chỉ khổ thể lý mà còn khổ tâm, có thể nói đối với họ là điều sỉ nhục!

Thật vậy, vì thời đó người ta lập ra “quy chế người phong hủi”, khắt khe và tàn nhẫn lắm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:45-46). Ngày nay, cái quan niệm tàn nhẫn đó vẫn chưa thể “tẩy não” hoàn toàn được! Nếu có dịp đến Trại Phong Di Linh (2), bạn sẽ thấy các bệnh nhân phong thật đáng thương. Họ có vẻ ít nói với vẻ ngần ngại lắm. Có lẽ họ không dám tin rằng người đối diện với họ không ác ý, vì trong tâm trí họ đã in sâu “nếp nghĩ” rồi!

Phong cùi thể lý thật đáng sợ và đáng thương, nhưng phong cùi tâm linh còn đáng sợ và đáng thương hơn. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị chứng “phong cùi” này. Nhưng thật diễm phúc vì chúng ta có Đại Bác Sĩ Giêsu chữa trị. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Dạng diễm phúc này đôi khi chúng ta không để ý, nhưng thực sự là niềm hạnh phúc khôn tả, vì được Thiên Chúa chúc phúc.

Một khi cảm nhận được như vậy, chắc hẳn người ta không ngần ngại hoặc lần lữa đến với Bí tích của Lòng Chúa Thương Xót: “Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32:5). Sau đó, người ta còn chia sẻ với người khác về niềm vui thánh thiện: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo!” (Tv 32:11).

Có Chúa là có tất cả. Người có Chúa không còn ham mê điều gì khác ngoài Chúa, và họ làm gì cũng chỉ muốn tôn vinh Chúa. Đúng như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:31-33). Người biết sống vì Chúa thì cũng biết vì tha nhân, bởi vì thước đo lòng mến Chúa là lòng yêu người. Vả lại, ai nói yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân thì là kẻ nói dối (1 Ga 4:20). Ước gì chúng ta khả dĩ mạnh dạn nói được như Thánh Phaolô khi chúng ta tâm sự với người khác: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).

Trình thuật Mc 1:40-45 nói về việc Đức Giêsu chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16). Một hôm, có người bị phong hủi đến gặp Ngài, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chữ “” ở đây không phải là nghi ngờ, mà chỉ là “một cách nói” mà thôi. Chắc hẳn người này đã rất khổ sở vì mắc bệnh phong đã lâu, khổ đủ thứ, và anh rất muốn được khỏi để không bị xã hội ruồng rẫy. Anh đến cầu xin với Chúa Giêsu, chứng tỏ anh rất vững tin vào Ngài, tin chắc Ngài là người có quyền phép vô song. Anh tin thật chứ không mê tín dị đoan hoặc xin theo phong trào như nhiều người ngày nay vẫn làm. Vâng, vấn đề quan trọng là niềm tin chân thành và vững vàng.

Nghe anh nói, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”. Thật hạnh phúc cho anh vì ước muốn của anh hoàn toàn hợp ý Chúa. Thế nên ngay lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Anh đã được toại nguyện.

Nhưng Ngài nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”. Chúa Giêsu bảo anh “coi chừng” vì anh có nói ra cũng chẳng ai tin, và những kẻ có quyền hành chỉ muốn tìm dịp để bắt giết Ngài. Tuy nhiên, làm sao anh có thể im lặng được, và anh không thể hoãn lại cái sự sung sướng ấy, thế nên vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Ngài không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.

Nhưng Ngài có đi đâu thì người ta cũng tìm cho bằng được, bởi vì họ đã tận mắt thấy anh chàng phong cùi hôm nào đã sạch hoàn toàn. Lạ quá sức! Và rồi dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài, đông như trẩy hội.

Ai cũng có những ước vọng, dù lớn hay nhỏ, ước vọng cho chính mình và cho người khác, nhất là cho những người thân yêu. Ước vọng có thể cao thượng, bình thường hoặc tầm thường. Thi văn sĩ kiêm lý luận phê bình Samuel Johnson (1709-1784, Anh quốc) nói: “Mỗi người đều giàu có hay nghèo khổ tùy thuộc tỷ lệ giữa niềm ước vọng và sự thỏa mãn của mình”.

Thiên Chúa biết rõ mọi ước vọng thầm kín của chúng ta (Tv 38:10). Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn; Ngài cho họ an lòng và lắng tai nghe họ, để bênh kẻ mồ côi và người bị áp bức, khiến cho kẻ mang thân cát bụi, chẳng còn khủng bố ai” (Tv 10:17-18).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết cầu xin Con Một Ngài chữa lành “chứng phong cùi” tâm hồn của chúng con. Xin dẫn chúng con đến với những người nhỏ bé hèn mọn trong xã hội, trong Giáo Hội, để chúng con thông cảm và chia sẻ với họ bằng tấm lòng chân thành vì Danh Thánh Đức Giêsu Kitô. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(1) Bác sĩ Armauer Hansen, người Na-Uy, đã phát hiện vi khuẩn gây bệnh phong vào năm 1873.

(2) ĐGM Cassaigne, thường được gọi thân thương là Cha Sanh, thuộc Hội Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. Chính ngài đã lập Trại Phong Di linh (Djiring) năm 1929. Ngài sinh ngày 30-1-1895 tại Grenade (Pháp), thụ phong linh mục ngày 19-2-1925. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa Saigon, lễ tấn phong giám mục diễn ra tại Nhà Thờ Đức Bà ngày 24-6-1941. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor). Ngài qua đời lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973 và được mệnh danh là “Tông Đồ của Người Cùi”.

Nguồn: DCCT