- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 22
Trong sinh hoạt đời sống hầu như ai cũng mong muốn cùng cố gắng nỗ lực đạt được vị trí chỗ đứng tốt trong công ăn việc làm ở mọi lãnh vực.
Vị trí chỗ đứng tốt ít hơn về khía cạnh không gian văn phòng chỗ ngồi làm việc rộng rãi tiện nghi thoải mái, nhưng nhiều hơn tình trạng bầu khí sinh hoạt tốt thân thiện với những người cùng sinh hoạt làm việc chung. Nhiều hơn nữa chỗ đứng vị trí có thể gây ảnh hưởng với tiếng nói có trọng lượng cùng chất lượng bàn thảo trong quyết định đưa đến quy định kết luận.
Điều này thể hiện sự cạnh tranh mạnh cùng sâu rộng nơi những người đứng đầu các cơ quan cấu trúc lãnh đạo văn phòng, hãng xưởng khu vực trong đời sống xã hội con người xưa nay.
Có hình ảnh như thế nơi nếp sống đạo giáo tinh thần không?
Văn phòng cơ cấu dù nhỏ luôn cần phải có người ở vị trí đứng đầu. Vì thế vị trí chỗ đứng ở lãnh vực tôn giáo tinh thần đều cần có người đứng đầu.
Nhưng những vị ở vị trí lãnh đạo trong tôn giáo được tuyển chọn cắt cử sai đến, như Đức giáo hoàng được các vi Hồng Y bầu chọn, Đức giám mục được các linh mục giáo phận chọn đề cử và được Đức giáo hoàng chứng nhận bổ nhiệm sai đến làm việc ở giáo phận, các cha xứ được đức giám mục cũng vậy sai đến giáo xứ làm việc mục, nơi các nhà Dòng Tu viện càc Vị Bề Trên được các thành viên nhà Dòng tu viện bầu tuyển chọn. Các vị này có trách nhiệm quyền hành, có nhiều ảnh hưởng, nhưng các Vị luôn cần đến bầu khí tốt thân thiện cùng làm việc cộng tác của mọi người tín hữu Chúa Kito nơi sinh hoạt.
Qua Bí tích Rửa tội người tín hữu Chúa Kito có vị trí chỗ trong cộng đoàn Giáo hội Chúa ở trần gian. Nhưng Thánh Phaolo còn có xác tín sâu xa hướng về tương lai thieng liêng vượt qua khỏi cuộc sống trần gian: Chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kito.( Epheso 2,4-10).
Là con người tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng nuôi sống, không chỉ trên trần gian có được vị trí chỗ đứng làm việc sinh, có tiếng nói ảnh hưởng, nhưng cũng còn có vị trí chỗ đứng tốt ở trên trời bên Thiên Chúa nguồn sự sống, nguồn tình yêu, sau khi đời sống trên trần gian kết thúc.
Vì con người xưa nay không ai sống mãi mãi với thân xác hình hài như đang có. Cuộc đời dọc đường gió bụi trong thung lũng trần gian đầy nước mắt của bất kỳ ai có ngày kết thúc với sự chết. Chúa Giesu Kito là Con Thien Chúa xuống trần gian làm người cũng đã phải sống trải qua con đường đời như bao con người xưa nay. Nhưng Thiên Chúa không để cho Chúa Giesu Kito phải mãi mãi nằm trong nấm mồ sự chết, trái lại đã cho ngài chỗi dậy sống lại và lên trời lại.
Sự sống lại từ cõi chết của Chúa Giesu Kito là sự sáng tạo mới, sự sáng tạo thứ hai cho trần gian: sự cứu độ, sự sống mới cho linh hồn con người thoát khỏi hình phạt sự chết vì tội lỗi !
Người tín hữu Chúa Kito ở trần gian tin tưởng theo Chúa trong suốt dọc đời mình, sau khi chết, qua tình yêu, lòng thương xót của Chúa, không do thành tích của riêng mình tạo làm ra, cũng được Thiên Chúa cứu độ cho một vị trí chỗ đứng ngồi tốt trên nước trời cùng với Chúa Kito, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Ngày xưa dân Israel phải chịu cuộc sống cảnh lưu đày sang xứ đất nước Babylon xa quê hương xứ sở, họ đau buồn tủi nhục tưởng mình như đã chết, và chỉ còn biết đứng ngồi than van khóc lóc. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi. Ngài qua Ngôn sứ Ezechiel đã mang đến cho họ lời đoan hứa chan hòa sự sống niềm hy vọng: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.” (Ez 37,12).
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 27
Mùa Chay theo nếp sống văn hóa đạo Công giáo kéo dài 40 ngày, từ thứ Tư lễ Tro đến đại lễ mừng Chúa phục sinh. Trong những ngày này người tín hữu Chúa Kitô sửa dọn chuẩn bị tâm hồn cung cách sống không chỉ để đón mừng đại lễ Chúa phục sinh, nhưng còn là cơ hội tập luyện sống theo tinh thần kỷ luật của đạo đức Kito giáo.
Trong mùa Chay chúng ta dâng lời cầu nguyện” Lạy Chúa, với lòng tin tưởng vào Chúa, chúng con muốn sống mùa chay 40 ngày trong cung cách ăn năn thống hối và đền tội. Xin ban sức mạnh giúp chúng con sống theo nếp sống Kitô giáo, là từ bỏ lối sống chiều theo sự dữ tội lỗi, và quyết tâm sống theo sự tốt lành thánh thiện.”
Hình ảnh cung cách nào giúp sống mùa Chay?
Đức cố Giáo hoàng Benedictô 16. đã có suy niệm về nếp sống mùa chay: “Chúa Giêsu Kitô đưa ra ba bài tập thực hành, mà xưa kia Thánh Ngôn sứ Mose đã ban hành như lề luật hướng chỉ dẫn cho dân chúng trong đời sống: Làm việc bác ái, cầu nguyện và ăn chay. Những lưu truyền này cho mùa chay phù hợp như lời mời gọi ăn năn trở về tận trong tâm hồn trái tim với Thiên Chúa.”.
Làm việc bác ái giúp đỡ người khác trong đời sống là cung cách lối sống tương quan tình liên đới gần gũi với người khác, khi cùng chia sẻ với họ về sự cần thiết cho đời sống, mà họ đang gặp khó khăn thiếu thốn.
Trong ý nghĩa như thế, làm việc bác ái chia sẻ giúp đỡ người khác đang gặp hoàn cảnh thiếu thốn không chỉ về thực phẩm miếng ăn áo mặc, nhưng còn muốn mang đến cho họ chút niềm vui, khuôn mặt niềm hy vọng, và như thế đề cao tôn trọng phẩm giá con người của họ.
Cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa nguồn đời sống của mọi loài thụ tạo là cung cách sống tương quan gần gũi với Ngài. Chân nhận Ngài là nguồn mạch chủ đời sống mình. Con người chỉ là tạo vật do Ngài tạo dựng nên và nuôi sống. Con người là người đón nhận sự sống ân đức từ nơi Ngài.
Nên những thần tượng vật chất như của cải tiền bạc, tuy là cần thiết trong đời sống, nhưng không là chủ, là cùng đích đời sống, cần phải đặt sang một bên cạnh. Chúng chỉ là phương tiện cho đời sống.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, mới là thần tượng, là cùng đích của đời sống. Sống tương quan gần gũi Ngài không là cách sống chỉ nói về Ngài, nhưng là bước theo chân Ngài, sống theo tiếng gọi làm chứng cho tình yêu của Ngài giữa dòng sông đời sống xã trần gian.
Ăn chay không là cung cách thái độ sống khó chịu buồn sầu, vì sống hy sinh từ bỏ ý thích cùng nhịn ăn. Nhưng là cách sống gần gũi tương quan trở về đời sống chính mình, để cảm nhận nhận ra đời sống chân thật thiên nhiên của mình.
Ăn chay là lời mời gọi con người trở về gần gũi với chính mình. Hy sinh từ bỏ không là chối bỏ hóa giải mình, hay làm mình ra thấp kém bé nhỏ thành ra thiếu thốn, hay làm cho mình thành buồn bã u sầu. Nhưng để tìm lại chính mình là hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu, Đấng Tạo Hóa mọi loài trong công trình thiên nhiên hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Ba bài luyện tập thực hành này ẩn chứa khuôn khổ một nếp sống sự tự do niềm vui thanh thản, tình yêu và hữu ích cho đời sống thể xác cũng như tinh thần.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 34
Năm 2017 Đức thánh cha Phanxico đã đưa ra suy nghĩ khác về lời cầu trong kinh Lạy Cha. Ngài không cho rằng “ xin đừng dẫn chúng con sa vào chước cám dỗ “ là lời cầu nguyện tốt.
Trước đó bản dịch kinh Lạy Cha bằng tiếng Pháp xóa bỏ câu “ ne nous soumets pas la tentation-đừng để chúng con bị cám dỗ đè bẹp quật ngã “, nhưng thay bằng lời cầu xin “ ne nous laisse pas entrer dans la tentation-xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của cám dỗ “
Theo ý tưởng đó Đức giáo hoàng Phanxico cho rằng như thế tốt hơn: Tôi bị vấp té ngã, nhưng không phải người để tôi sa vào cám dỗ. Một người cha không làm như thế. Trái lại người cha liền ra tay cứu giúp cho đứng chỗi dậy. Người cám dỗ chúng ta là ma quỷ.
Hình ảnh Chúa Giesu Kito bị cám dỗ như thế nào?
Phúc âm viết thuật lại: Chúa Giesu phải đi vào sa mạc, nơi hoang địa sống trải nghiệm cho có kinh nghiệm tâm linh chịu để bị ma quỷ cám dỗ! ( Mc 1,12-.15).
Ma quỷ cám dỗ Chúa Giesu, theo thánh sử Marco, là kẻ đóng vai trò đối ngược chống lại Thiên Chúa. Chúa Giesu vào trong sa mạc hoang vu sống cô đơn một mình giữa khung cảnh sức mạnh của satan cám dỗ, của sự dữ bao vây. Và Ngài phải chống chọi để vượt qua. Đây là điều thánh sử Marco không muốn làm ngơ không viết thuật lại. Vì điều này thuộc về bản tính đời sống con người của Chúa Giesu.
Điều này mang lại kinh nghiệm bản thân cho Chúa Giesu, mà sau này Ngài dạy các Tông đồ cầu nguyện : xin đừng để chúng con sa vào con đường sự cám dỗ. Như kinh thánh viết về Ngài:” Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.” (Thư Do Thái 2,18).
Ngày xưa Kinh thánh cũng nói đến “ cám dỗ thử thách ”. Trường hợp điển hình tổ phụ Abraham bị thử thách “ mang con Isaak giết làm hiến lễ như Thiên Chúa đòi hỏi “ (St 22,1).
Abraham đã làm như ý Thiên Chúa. Nhưng thật may mắn phước đức, mạng sống của Isaak không bị sát hại. Vào giây phút chót chính Thiên Chúa sai Thiên Thần đến cứu giúp can ngăn không để Abraham cầm dao đâm giết chết Isaak.
Sự cám dỗ này được hiểu là sự thử thách về đức tin vào Thiên Chúa của Abraham. Trong trường bi thảm này Tổ phụ Abraham được trình bày là người sống gương mẫu có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, cho dù ông không hiểu được ý định chương trình của Ngài. Vì nào ai có thể hiểu được, dù là sứ mạng thần thiêng thánh đức, phải giết sát hại chính con của mình làm của lễ dâng hiến cho thần thánh?
Một hình ảnh gương mẫu khác về sự thử thách đức tin trong kinh thánh thuật lại là trường hợp đời sống của Ông Giop. Thiên Chúa để cho những bất hạnh đau khổ tệ nạn không thể tưởng tượng được xảy ra cho gia đình đời của ông.
Satan hiện hình là người vợ của ông, người bạn của ông trình bày xúi đòi hỏi ông phải chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa trong lúc đau khổ sầu thảm. Nhưng Ông nhất quyết không làm chiều theo cám dỗ của Satan ma quỷ xúi bày ra.
Giop một mực giữ vững lòng tin tưởng trông cậy vào Thiên Chúa. Lòng xác tín trung thành của ông thể hiện qua câu tuyên tín thời danh làm phương châm đạo đức khôn ngoan cho con người trên trần gian qua mọi thế hệ thời đại xưa nay :“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!”
Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.”( Sách ong Giop 1,1-22).
Vậy ai là người cám dỗ chúng ta? Satan ma quỷ hay Thiên Chúa?
Đức giáo hoàng Phanxico đã xác định: Satan ma quỷ là thủ phạm của cám dỗ, còn Thiên Chúa là người cứu giúp chữa lành “ Thiên Chúa là người cha nhân lành, như thư của Thánh Tông đồ Giacobe : Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: “Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ”, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai.”( Thư Giacobe 1,13)
Thực tế đời sống con người xưa nay luôn sống trong vòng bị thử thách chịu đau khổ, như trường hợp của Tổ phụ Abraham, của Ông Giop trong kinh thánh thuật lại. Và luôn còn không biết bao nhiêu trường hợp xưa nay rất nhiều người đã đang và sẽ gặp phải những vướng mắc thử thách cám dỗ với những mức độ cay đắng cực kỳ đau khổ khốc liệt khác nhau dưới những hình thức thay đổi khác nhau…
Dĩ nhiên trong hoàn cảnh đau khổ bị thử thách con người sinh ra hoang mang chao đảo, có khi muốn rời xa bỏ đức tin vào Thiên Chúa nguồn sự sống, nguồn ơn cứu giúp.
Nhưng hình ảnh Thiên Chúa của đức tin Kito giáo nói cho biết, con người chúng ta qua đau khổ thử thách sẽ đạt được vinh quang sự phục sinh sống lại với Thiên Chúa.
Mỗi khi đọc lời cầu nguyện của kinh Laycha: xin chớ để chúng con sa vào cạm bẫy chước cám dỗ là muốn thân thưa cùng Chúa: Xin Chúa gìn giữ con trước những cám dỗ thử thách. Xin cứu giúp con, lúc con gặp thử thách. Xin đừng để sự thử thách vượt quá sức chịu đựng của con. Nếu không, con có thể rơi vào hồ nghi lầm lạc rồi bỏ xa lìa đức tin vào Chúa.
Và trong dân gian có kinh nghiệm khôn ngoan như kim chỉ nam cho đời sống:Lửa thử vàng, gian nan thử đức!
Lời cầu xin nơi kinh Laycha đọc hằng ngày, và kinh nghiệm khôn ngoan của dân gian như kim chỉ nam khích lệ giúp tinh thần thêm sức mạnh can đảm trên con đường đời sống làm người về mặt thể lý, cũng như tinh thần tâm linh cho hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 68
Theo Dương lịch năm mới có niên hiệu năm 2024 sau Chúa Gíang sinh. Nhưng theo Âm lịch năm mới có tên là Giáp Thìn. Ngày đầu năm mới âm lịch 01. tháng Giêng, Tết Nguyên Đán Giáp Thìn sẽ vào ngày 10.02.2024.
Thìn – còn có tên gọi là Rồng - là tên của một con vật theo như truyền thuyết trong cổ tích thần thoại diễn tả xưa nay, có nhiều chân mình uốn khúc như con rắn, có cánh bay được, có đuôi dài, miệng phun nước và lửa ra xa, bộ dạng dữ tợn kinh dị. Nó là một con vật có hình dạng của nhiều con vật hợp lại giữa loài rắn rết, loài cá sấu, loài chim khủng long độc dữ thời xa xưa cách đây hàng triệu thế kỷ, loài thú dữ ăn thịt như cọp beo sư tử...
Con Rồng được nói diễn tả trong các truyện thần thoại cổ tích theo như suy nghĩ cùng lòng tin tưởng của dân gian nhiều hơn. Và theo đó ngày nay người ta với kỹ thuật dựng đóng phim làm con Rồng như là một con vật sống động có thật.
Bên vùng các nước Đông Nam châu Á với ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, cứ 12 năm lại mừng hay nhận con Rồng thần thọai này đứng làm chủ cho thời gian một năm.
Hình ảnh con vật này là gì? Nó có liên quan gì tới đời sống con người, nhất là đời sống tinh thần không?
Theo thần thoại bên Đông phương và Tây phương, con Rồng là hình ảnh của sự lộn xộn mất trật tự chao đảo, là hình ảnh của con quái vật thù địch với Thượng Đế và con người. Vì con vật này hút nước phun lửa cho khô cạn làm tê liệt sự sống phát triển, cùng đe dọa ăn nuốt trửng mặt trời và mặt trăng. Một vị anh hùng nào đó hay chỉ Thiên Chúa mới có thể trị thắng con vật này được.
Trái lại bên vùng Đông Nam châu Á, con Rồng tuy là con vật không có hình dạng rõ rệt, nhưng là con vật có những đặc điểm tốt tích cực. Con vật này mang đến điều may mắn, là hình ảnh dấu hiệu của sự sinh sản phát triển phì nhiêu, và là hình ảnh chỉ sức mạnh của vua chúa hoàng đế.
Theo quan niệm thời cổ xưa, con Rồng tạo nên một hình ảnh ghê sợ rùng rợn, cùng là dấu hiệu của sự thống trị. Vì thế vua chúa thời xưa, hay thêu vẽ hình con rồng trên lá cờ, trên mũ áo khi đi đâu ra mắt công chúng, ăn mừng chiến thắng, hay khi ra quân đánh trận. Nhiều vua chúa thời xa xưa cũng cho thêu hay in vẽ trên huy hiệu hình con rồng như biểu dương sức mạnh oai hùng của mình.
Vào giai đoạn cao điểm thời Trung cổ chủ đề vượt trổi nổi bật là hình ảnh trình bày trận chiến chống con rồng, một biểu trưng chống sự dữ xấu xa tội lỗi, tội nguyên tổ. Vì con rồng là hình ảnh con rắn đã cám dỗ Bà Evà phạm tội chống lại Thiên Chúa gây ra hậu qủa tội nguyên tổ cho cả nhân loại. Hình ảnh vẽ về ngày tận thế cũng có cái hang động hỏa ngục nhốt con rồng vào trong đó. Con rồng là hình ảnh của thần qủy dữ.
Ngay ở bên vùng Đông Nam Châu Á cũng có nhiều hình dạng về con rồng tùy theo mầu sắc và số móng chân. Hình con rồng mầu vàng với năm móng chân chỉ dành để thêu trên áo mũ của vua chúa, như các vị vua thuộc triều đại nhà Minh bên Trung Hoa ngày xưa thường mặc.
Theo niềm tin Ấn giáo và Lão giáo con rồng biểu hiệu của bản thể tinh thần có thể biểu hiện sự trường sinh bất tử.
Bên Trung Hoa và Nhật bản, con Rồng mang đến điều may mắn hạnh phúc và được tôn thờ như chống lại qủy thần. Con Rồng biểu hiệu sự sinh sôi nẩy nở phát triển, mùa xuân và nước mưa. Nó có sức mạnh như dòng thác nước chảy, cùng được xếp vào nguyên lý Yang- một nguyên lý chỉ về tích cực, dương tính, nam tính, trong sáng, trời, sự họat động, đường thẳng kéo dài không bị đứt khúc –
Theo văn hóa cùng tập tục với chút niềm tin dân gian, con Rồng trong âm lịch bên vùng Đông Nam Châu Á, là con vật biểu trưng đứng chủ trì một năm trong vòng chu kỳ 12 năm một lần.
Cũng theo sự tin tưởng trong dân gian, năm con Rồng (Thìn) là một năm tốt cho sinh sản và cho lập gia đình.
Theo nhà phân tâm C. Jung trận chiến con Rồng trong các truyện thần thoại dân gian là hình ảnh sự chiến đấu tranh giành giữa bản thể cái tôi và sức lực hung hãn nằm tiềm ẩn trong mỗi người.
Hình ảnh con Rồng trong Kinh Thánh được trình bày với tính chất dữ tợn xấu xa, một con vật to lớn quái dị dưới nhiều dạng hình thù khác nhau. Nó là con vật gây đảo lộn mất trật tự, sát hại mạng sống con người và thù địch với Yaweh Thượng Đế
Ngôn Sứ Isaia diễn tả nó là một con vật bay được: “Hỡi toàn cõi Phi-li-tinh, chớ vội vui mừng, vì cây gậy đánh ngươi đã bị bẻ gãy; bởi chưng từ dòng dõi rắn sẽ vọt ra một con rắn hổ mang, và con của nó sẽ là một con rồng bay.” ( Isaia 14,29)
Ngôn sứ Daniel đã thuật lại tập tục :“ Bấy giờ có một con rồng lớn được dân Ba-by-lon sùng bái” ( Daniel 14,23). Nhưng Daniel đã chứng minh ngược lại là con rồng không phải là thần thánh phải sùng bái. Ông đã giết chết con rồng này. (Daniel 14. 24-27).
Ngôn sứ Giêremia diễn tả ví vua Babylon như con rồng đầy sức mạnh tranh giành nuốt trôi tất cả: “ Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã xâu xé, đã loại trừ tôi, gạt tôi ra như chiếc bình rỗng; tựa con rồng, nó đã nuốt trửng tôi,các miếng ngon của tôi, nó nhét đầy bụng, rồi xua đuổi tôi đi.” ( Geremia 51,34)
Con Rồng như một con thuồng luồng sống ở dưới nước: ”Xin thức dậy, xin Ngài thức dậy đi, lạy Ðức Chúa, xin vung mạnh cánh tay của Ngài! Xin thức dậy như những thời trước, như những ngày xưa. Chẳng phải chính Ngài đã phanh thây thủy thần Ra-háp, đã xé xác thuồng luồng đó sao?” ( Isaia 51,9)
“Chính Ngài đã ra oai xẻ đôi lòng biển,
trên làn nước biếc, Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng;
chính Ngài đã nghiền nát bảy đầu con giao long,
vứt nó làm mồi cho thủy quái;” ( Thánh vịnh 74, 13-14)
Con Rồng hiện hình như con rắn tinh quái bò chui luồn dưới đất: “Người thở hơi làm trong sáng bầu trời, và đưa tay xả thây con rắn chui nhủi” (Sách Ông Gióp 26,13)
Thánh Giaon Tông đồ trong sách Khải huyền đã ví con rồng như con mãng xà, con rắn thần dữ ma qủy ngày xưa đã đường mật dụ dỗ bà nguyên tổ Eva phạm tội lỗi luật Thiên Chúa. Con rồng rắn ma qủy này đã bị Tổng lãnh Thiên Thần Michael trong một trận giao chiến trên trời đè bẹp đuổi khỏi thiên đàng.
“Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micaen và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. (8) Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không có chỗ trên trời nữa. (9) Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xatan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.” ( Khải huyền 12, 7-9).
Dù bị tống xuống khỏi thiên đàng, con mãng xà là con rắn ma qủy hằng theo dõi dụ dỗ sát hại con người trong hình ảnh một người phụ nữ sinh con, và dòng dõi hậu duệ của bà từ bỏ sống xa Thiên Chúa. Hình ảnh này là hình ảnh Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội mình mặc áo xanh da trời, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao vàng sáng chói ánh mặt trời, chân đạp mặt trăng hình lưỡi liềm đạp trên đầu con rắn.
“Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai. (14) Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời, ở xa Con Rắn. (15) Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đàng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi. (16) Nhưng đất cứu giúp bà: đất há miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra. (17) Con Mãng Xà nỗi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Ðức Giêsu.” ( Khải huyền 12,13-17)
Trong nghệ thuật hình ảnh con rồng là thần qủy dữ Lucife bị Tổng lãnh ThiênThần Michael chiến thắng cầm đao kiếm đâm đứng đạp trên nó rất thịnh hành ở thời Trung cổ bên Âu châu.
Sau này có hình ảnh Thánh Georg chiến thắng cưỡi ngựa, tay cầm đao nhọn đâm đè bẹp con rồng ma qủy đang phun lửa nằm dưới mặt đất.
Và Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội cũng được vẽ trình bày là người chiến thắng đứng đạp trên đầu con rồng rắn ma qủy cám dỗ phạm tội chống lại Thiên Chúa.
Nghệ thuật này dựa theo lời kinh thánh trong sách Khải huyền “ et proiectus est draco ille magnus serpens antiquus qui vocatur Diabolus et Satanas qui seduit universum orbem proiectus est in terram et angeli eius cum illo missi sunt- Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xatan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.”. ( KH 12, 9).
Theo sự tin tưởng trong dân gian người nào sinh vào năm con Rồng ( Thìn) có những đức tính tích cực như quảng đại, chân thành, óc sáng tạo biến báo, thích mạo hiểm, ngay thẳng… Nhưng ngược lại cũng có những đức tính tiêu cực như bồng bột không suy nghĩ chín chắn, quá lạc quan, hoang phí, ít thiếu mềm dẻo… Đây chỉ là suy đoán theo cảm tính tin tưởng bình dân hay theo tập tục tử vi bói toán đoán vận mạng xưa nay trong dân gian thôi.
Với người Công giáo năm tháng ngày giờ do Thiên Chúa tạo dựng nên. Trong dòng thời gian năm tháng ngày giờ nào cũng có những lúc may mắn hạnh thông xuôi chẩy, và những thách đố thử thách, những thử luyện mà con người phải sống trải qua.
Những thách đố thử thách không là những bước gây hoang mang đổ vỡ chao đảo. Nhưng trái lại giúp tinh thần con người sống vững chắc có thêm kinh nghiệm trưởng thành hơn vào ngày mai.
“ Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” ( Thánh vịnh 90 ,12)
Chúc mừng Năm Mới Giáp Thìn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 48
Hằng năm hầu như mọi dân tộc trên vũ trụ đều có lễ hội mừng Xuân mới tùy theo tập tục văn hóa riêng của mỗi dân tộc đất nước, cùng cả cung cách đón mừng mùa Xuân cũng khác nhau. Thật là một bức tranh văn minh, văn hóa sống động muôn mầu sắc trong công trình vũ trụ thiên nhiên.
Hình ảnh nếp sống tâm linh hướng về mùa Xuân mới có thể như thế nào?
Kinh Thánh nơi sách Khải Huyền của Thánh Gioan có đoạn diễn tả: „ Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa.“ (Kh 21, 1,). Và Thiên Chúa phán: „này đây ta đổi mới mọi sự“ (Kh 21,5).
Mùa Xuân năm mới về trên trần gian, mang đến không khí mới cho đất trời. Và qua đấy lòng con người cũng rạo rực bừng lên niềm vui mới.
- Niềm vui mới bừng lên trong lòng chúng ta không chỉ vì không khí mới mùa Xuân, nhưng còn có gắn bó mật thiết với cung cách sống đức tin nữa. Ta tin nhận rằng trời đất, bốn mùa thời gian ngày giờ năm tháng, thức ăn nước uống cùng cơ hội sống ở đời là do Thiên Chúa, Trời Cao ban tặng.
Con người chúng ta là người đón nhận và cùng là người quản lý gìn giữ những gia tài cao cả châu báu đó!
- Niềm vui mới bừng lên trong lòng dịp mùa Xuân năm mới còn nằm trong mối tương quan tình người với nhau nữa.
Theo tập tục đời sống xã hội con người, những ngày đầu mùa Xuân năm mới, bên tây hay bên ta, hầu như ở mọi nền văn hóa của các dân tộc, đều là những ngày „thiêng liêng“ của và cho gia đình. Trong những ngày này con cháu thường tụ tập về bên Ông Bà Cha Mẹ cám ơn nhau, cùng mừng tuổinhau, và nói với nhau lời cầu chúc tốt đẹp may lành cho đời sống trong Năm Mới.
Một nếp sống đạo đức văn hóa lòng hiếu thảo chan chứa tình người!
- Niềm vui mới bừng lên trong lòng vào mùa Xuân năm mới với nhiều Bạn Trẻ là bước khởi đầu đang bước vào ngưỡng cửa đời sống, cùng hòa chung vào nhịp sống học hành làm việc phát triển xây dựng xã hội với những người cùng trang lứa, cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng hướng đi đích điểm, cùng niềm tin tôn giáo.
Nhịp điệu đời sống thời gian năm mới giúp họ khám phá ra hình ảnh: tôi không một mình, mà còn có những người khác chung quanh nữa.
Mùa Xuân năm mới là cơ hội tốt cho họ sống vươn lên tiến về ngày mai!
- Niềm vui mới bừng lên trong lòng mùa Xuân mới không chỉ do không khí đất trời mang đến, nhưng còn do con người góp phần vào nữa. Khi lòng con người đón nhận ân đức mùa Xuân do Chúa Xuân trao tặng và tiếp tục chia sẻ mang đến cho người khác mùa Xuân tình người sự an ủi giúp đỡ. Chúng ta không giữ lại chỉ cho riêng mình, cho riêng gia đình mình những qùa tặng mùa Xuân đó.
Niềm vui mùa Xuân năm mới cho mình và cho người. Một nếp sống bác ái tình liên đới.
-Niềm vui mới bừng lên trong lòng mùa Xuân mới không chỉ riêng cho người còn đang sống trên đường lữ hành nơi trần gian, nhưng cũng còn cho cả những người đã từ gĩa ra đi bước sang con đường đời sống bên kia thế giới.
Vui hưởng không khí mùa Xuân mới, nhưng người còn trên trần gian vẫn luôn hằng nhớ đến họ với lòng ngậm ngùi thương cảm về những ân tình, những mắc nợ nhau, cùng những kỷ niệm thân yêu vui buồn ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với nhau
Niềm vui mùa Xuân mới với lòng biết ơn cho người thân yêu đã thành người thiên cổ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 50
Dân gian có ca ví khôn ngoan Sức khỏe là vàng- Sức khỏe rất quan trọng!
Gặp nhau hay những dịp mừng vui chúng ta chúc nhau Sức khoẻ, cầu xin được Thiên Chúa Trời ban cho có sức khoẻ tốt…Đây là cung cách nếp sống văn hóa tình người cao đẹp, cùng cần thiết cho tinh thần niềm tin trong đời sống .
Sức khoẻ làm thay đổi đời sống con người ảnh hưởng lên xuống thất thường, thường thì tiêu cực nhiều hơn. Kinh nghiệm này hầu như ai cũng đã đang có và sẽ trải qua!
Trong Kinh thánh có hình ảnh nói về sức khỏe không?
Con người là tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng, sức khỏe do Ngài ban cho, nên cũng là một trong sứ mạng của Chúa Giesu xuống trần gian cứu giúp con người.
Ngài chữa cho bà mẹ vợ Ông Phero khỏi cơn sốt rét. Và trong suốt dọc hành trình rao giảng nước Ngài luôn luôn chữa lành cho nhiều người bị mắc bệnh tật được khỏe mạnh trở lại. Điều này nói lên mối dây nối liền với sứ mạng rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa của Ngài nơi trần gian cho con người: Thiên Chúa yêu mến bảo vệ sự sống con người.
Bệnh nạn cản trở đời sống. Nó làm cho đời sống bị tê liệt mất hạnh phúc niềm vui. Chúa Giesu chữa cho người bị bệnh được lành mạnh trở lại nói lên Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống.
Chúa Giesu chữa lành bệnh cho các người đau yếu, vì Ngài muốn con người có sức khỏe lành mạnh trở lại, có niềm vui hạnh phúc. Với Ngài bệnh tật là vô nhân đạo và là sự xấu xa, sự dữ. Chữa lành cho khỏi đau khổ tật bệnh là dấu chỉ nói lên tình yêu của Thiên Chúa.
Thế nhưng trong đời sống có những người bị bệnh tật tê bại liệt đau nhức, như suốt cả đời họ phải chịu đựng ngồi xe lăn… cùng lệ thuộc vào sự giúp của người khác, hay những căn bệnh hiểm nghèo khác ..Như thế phải hiểu làm sao. Thật khó cắt nghĩa!
Lẽ dĩ nhiên bản thân người bệnh cũng cảm thấy như bị bỏ rơi tủi thân lắm chứ, tinh thần chao đảo khủng hoảng…. Nhưng dẫu vậy họ cũng vẫn có tâm tình đạo đức, niềm hy vọng, như một người bị bại liệt từ hàng chục năm sống ngồi trên xe lăn đã có tâm tình tâm linh tin tưởng trong hoàn cảnh đau khổ cay đắng nghĩ rằng Thiên Chúa muốn cuộc đời tôi như thế. Và dần dần tôi nhận hiểu ra rằng điều con người, như trường hợp của tôi, cho là cay đắng đau khổ nghiệt ngã thiếu bóng dáng tình yêu thương sự chữa lành của Ngài, không phải về sức khỏe và bệnh tật, mà nhiều hơn là sự tương quan liên hệ với Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống.
Đó là điều Chúa Giesu ngày xưa đã qua phép lạ chữa lành cho các bệnh nhân khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người trần gian muốn gửi đi sứ điệp tin mừng này.
Chứng bệnh nặng làm tinh thần con người hoang mang, nó xô đẩy đời sống con người ra bên lề nếp sống chung cộng đồng xã hội. Nó có thể phá hủy làm hao mòn kiệt quệ tinh thần cùng thân xác con người.
Nhưng bệnh tật không tự động nói lên hình ảnh dấu chỉ sự vắng bóng của Thiên Chúa. Trái lại có thể giúp chú ý suy nghĩ sâu xa hơn như hiểu nhận rằng sức khỏe là điều quý báu cho sự sống được ban tặng. Sức khỏe mang đến giá trị cao cả cho sự sống.
Và Thiên Chúa, Đấng tạo dựng bảo vệ sự sống là nguồn cao cả nhất. Một người sống trong liên hệ tương quan mật thiết với Người kín múc nếp sống mới là một người được chữa lành. Và như vậy họ có thể đóng góp loan truyền nước Thiên Chúa cách hiệu quả tích cực.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 68
Trong đời sống hai bạn trẻ nữ nam xa lạ bỗng gặp nhau, làm quen với nhau… và họ bắt được làn sóng tiếng gọi tình yêu của nhau. Họ hứa hẹn với nhau, không đòi hỏi gì, rồi từ gĩa gia đình đi thành lập gia đình riêng, xây dựng một tổ ấm xã hội mới với nhau từ hai bàn tay trắng, bắt đầu từ con số không. Điều mà không ai ngờ trước được như vậy. Trong dân gian có ca ví khôn ngoan: Tình yêu mạnh hơn sự chết!
Trong nếp sống đạo giáo có hình ảnh như thế không?
Kinh thánh thuật kể lại nhiều trường hợp những người nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa, từ gĩa mọi sự đi theo Người.
Ngôn sứ Elija đi ngang qua cánh đồng thấy Elischa đang nỗ lực cày ruộng, Elija ném tấm áo choàng mình phủ trên Elischa. Hiểu ý đó là tíêng gọi của Elija. Elischa bỏ cày bừa lại trên thửa ruộng, vội vã chạy lại Elija và khẩn khoản nài nỉ“ Xin thầy cho con trở về nhà từ gĩa cha mẹ con, con sẽ trở lại theo Thấy ngay! Elija bằng lòng cho phép như Elischa xin. Sau khi từ gĩa gia đình bạn bè, Elischa đi đến theo làm môn đệ Ngôn sứ Elija.
Elischa nghe theo, vì nhận ra tấm áo choàng của Elija bỗng ném phủ trên người mình như tiếng gọi. Nghe theo tiếng gọi đi theo không thắc mắc “tại sao”, không đặt điều kiện với chữ “nhưng”, và không do dự “ như thế nào”!( 1. Các Vua 19,19-21)
Ngay giữa dòng đời sống đang làm ăn cày ruộng Elischa nhận ra đó là tiếng của Thiên Chúa kêu gọi qua tấm áo choàng của Ngôn sứ Elija phủ chụp trên người mình! Một sự thể lạ lùng, nhưng có thật.
Thánh sử Luca thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria sứ mệnh được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu. Trong cuộc gặp gỡ truyền tin này không có thời giờ cho Maria suy nghĩ thêm, không có câu hỏi ngược trở lạị, chỉ có thắc mắc của Maria với chữ “ như thế nào được”. Sau khi nghe Thiên Thần cắt nghĩa, Maria nói vắn gọn xúc tích: Xin xảy ra cho tôi như lời Sứ Thần truyền!
Trong căn nhà sinh sống của Maria ở thành Nazareth, ý định chương trình của Thiên Chúa được Thiên Thần loan báo mang đến cho Maria. Căn phòng truyền tin lịch sử thánh này hiện còn ở bên dưới tầng hầm Vương cung Thánh Đường Truyền tin ở Nazareth.
Và theo tương truyền, bức tường căn nhà truyền tin của Đức mẹ Maria ở Nazareth, từ hồi thế kỷ 13. sau Chúa giáng sinh, để bảo quản cho khỏi bị tàn phá ở thành Nazareth đã được Thiên Thần di chuyển đem về bên Ý thành phố Loreto. Vì thế trong Vương cung thánh đường Loreto có ngôi nhà với ba bức tường nhà Đức mẹ, nơi ngày xưa Thiên Thần Gabreil hiện đến truyền tin. Ngôi nhà nhỏ này có kích thước 9,25 mét chiều dài, 4,12 mét chiều rộng và chiều cao 5 mét .
Phúc âm Chúa Giêsu thuật lại cảnh Chúa Giêsu đi dọc bờ hồ Galileo thấy các Ông Simon, Andre, Jacobe và Gioan đang làm công việc chài lưới đánh cá để sinh sống, chỉ nói vắn tắt kêu gọi họ” Hãy theo Thầy!”. Và họ cũng chẳng thắc mắc gì, không xin từ gĩa gia đình bạn bè, nhưng vô điều kiện lập tức bỏ chài lưới đồ nghề lại đi nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. (Mc 1,14-20).
Nơi bờ hồ chỗ làm ăn sinh sống đang đánh cá, Chúa Giesu đến kêu gọi họ ra đi làm Môn đệ “ Hãy theo Thầy!”
Giữa cảnh sống hằng ngày tiếng Chúa vang lên kêu gọi trong tâm hồn con người. Những gương nghe theo tiếng gọi theo Chúa như thế luôn hằng có trong đời sống xưa nay. Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta, người Albania, nghe theo tiếng gọi của Chúa, sang tận nước Ấn Độ thành Calcutta, cả đời sống chết với người nghèo, giúp đỡ săn sóc an ủi người bị bỏ rơi, và thành lập Dòng bác ái sống nhiệm nhặt khó nghèo giữa xã hội người nghèo khổ. Mẹ Thánh và các Chị nữ Tu đã nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa tình yêu đi đến sống với những người cần tình yêu thương giúp đỡ an ủi săn sóc về miếng cơm manh áo và tinh thần tâm hồn.
Rồi có những người xưa nay từ bỏ cuộc sống bảo đảm an toàn về mọi mặt xã hội cũng như chức vị, như các Vị Thừa Sai xưa nay ở bên Âu Châu bỏ xứ sở quê hương sinh ra, đã nghe theo tiếng Chúa kêu gọi, ra đi sang tận miền những đất nước xa lạ bên Phi Châu, bên Á châu, bên Nam Mỹ…thiếu thốn về mọi phương diện cùng sống chia sẻ lăn lộn với họ, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa., mà không đòi hỏi điều kiện gì.
Xưa nay tròng dòng lịch sử vẫn luôn hằng có biết bao nhiêu tâm hồn nghe nhận ra tiếng Thiên Chúa kêu gọi. Và họ đã từ bỏ mọi sự có thể được hưởng dùng, từ bỏ con đường công danh sự nghiệp đầy tương lai hứa hẹn, quảng đại hy sinh dấn thân chọn nếp sống đời vâng phục nhiệm nhặt khó nghèo tu trì theo tiếng ơn kêu gọi của Thiên Chúa giữa lòng dòng sông đời sống xã hội nơi các Tu Viện, nơi các Giáo phận xứ đạo cho việc mục vụ phụng vụ của Giáo hội Chúa.
Sống như thế có thể nói được họ kính trọng yêu qúy chất liệu nội dung đời sống hơn bao vỏ bọc bên ngoài. Nếp sống như thế khác nào hình ảnh phẩm chất rượu trong ly, trong chai bình quan trọng qúy giá hơn ly, hơn bình chai lọ đựng rượu. Họ nghe nhìn nhận ra từ trong sâu thẳm nội tâm tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa muốn họ dấn thân ra đi đến với con người xã hội là hình ảnh của Thiên Chúa tạo dựng nên.
Hai người nam nữ nghe theo tiếng gọi tình yêu của nhau ra đi cùng xây dựng tổ ấm gia đình không chỉ mang niềm vui hạnh phúc lại cho nhau, nhưng nhất là cho tương lai con cái của họ. Và như thế cũng cho xã hội và Giáo hội nữa.
Trong nếp sống con người ai cũng bị hay được hỏi, được kêu gọi dấn thân cho con người, và cho nước Chúa ở xã hội trần gian hôm nay và ngày mai.
Và như Đức Giáo hoàng qúa cố Benedictô 16. đã có suy tư xác tín về nếp sống theo tiếng Gọi của Thiên Chúa:” Chúng ta không được tạo dựng cho một đời sống an toàn dễ chịu, nhưng cho sự to lớn cao cả.”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 79
Bên các xứ vùng Trung Đông, bên Âu châu ở những vùng đồi núi có bãi cỏ xanh tươi tốt, người ta nuôi thả đàn thú vật chiên cừu hàng chục, hàng trăm con to nhỏ chạy nhảy hiền hòa cúi đầu ăn gặm cỏ. Chúng đi thành đàn chen chúc nhau nghe theo hiệu lệnh của người mục đồng chăn dắt, và có những con chó chạy theo vòng quanh canh gác sủa vang trời lùa chúng đi theo hướng chỉ dẫn. Một bức tranh sống động thơ mộng giữa trời thiên nhiên!
Hình ảnh con chiên xưa nay trong văn hóa nghệ thuật Công giáo rất quen thuộc. Phải, nó là hình ảnh biểu tượng thần thánh nói chỉ về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao lại dùng hình ảnh biểu tượng này chỉ về Chúa Giêsu Kitô ?
Hình ảnh biểu tượng này có căn rễ nơi nền văn hóa đạo đức kinh thánh từ thời xa xưa. Con chiên là một con vật non trẻ của loài thú vật cừu hay thú vật dê. Con chiên có tư thái dịu hiền ngây thơ, nên được dùng là hình ảnh biểu tượng về sự thanh khiết và vô tội, hình ảnh về sự hiền dịu và kiên nhẫn.
Trong nhiều tôn gíao sự thanh khiết vô tội đóng vai trò quan trọng. Con chiên được chọn làm hình ảnh biểu tượng cho khía cạnh đó.
Trong Kinh Thánh thời cựu ước Do Thái giáo cũng vậy. Một con vật làm lễ tế hy sinh đền tội phải thanh khiết vô tội, mới có thể được dùng là lễ tế đền tội thay cho con người tội lỗi. ( St 22,8).
Ngày xưa khi người Do Thái xuất hành từ đất Aicập lên đường trở về quê hương nước Thiên Chúa hứa ban, họ mừng Lễ Vượt Qua và trong bữa ăn phải có con chiên: „Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được“ ( Xh 12,5).
Lễ tế dâng tiến Giavê Thiên Chúa theo luật ấn định„ Ngày sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế.“ ( Ds 28, 9).
Ngay thời xa xưa trước Chúa giáng sinh, Tiên tri Isaia cũng đã mường tượng hình ảnh người tôi trung của Thiên Chúa sau này như con chiên bị đem đi xét xử đền tội thay cho toàn dân:
„ Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,người chẳng hề mở miệng.“ ( Isaia 53,7)
Đến thời sau Chúa giáng sinh, chính Chúa Giêsu được ca ví là hình ảnh con chiên Thiên Chúa. Thánh Gioan tẩy gỉa đã giới thiệu Chúa Giêsu:
„ Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. „ (Ga 1, 29).
Chính Chúa Giêsu đã bị kết án chết trong dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái, lễ kỷ niệm giết chiên ăn bữa sau cùng trước khi người Do Thái xuất hành trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban cho.
Thánh Phaolô Tông đồ đã nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô đã hy sinh chịu chết làm con chiên lễ Vượt Qua cho chúng ta. ( 1 cor, 5,7).
Thánh Gioan tông đồ đã gọi các Tông đồ Chúa Giêsu Kitô là Tông đồ của Con Chiên. ( KH 21,14).
Trên trời, theo tường thuật của Thánh Gioan, các Thiên Thần Chúa ca hát chúc tụng Con Chiên vinh hiển. ( Kh 5,12).
Rồi trong một thị kiến trên trời, Thánh Gioan đã nhìn thấy Con Chiên Thiên Chúa đứng ở giữa bốn con vật. ( Kh 5,6). Và Ông còn nhìn thấy Con Chiên nhận cuốn sách từ bốn con vật và có 24 vị bô lão phủ phục qùy xuống đồng thanh chúc tụng Con Chiên. ( Kh 5,9).
Bốn con vật mà Thánh Gioan nhìn thấy trong thị kiến trên trời là hình ảnh biểu tượng của bốn thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Thánh sử Mattheo với hình một con người. Vì ngay chương đầu phúc âm Ông viết thuật lại lịch sử gia phả Chúa Giêsu theo khía cạnh con người từ thời tổ phụ Abraham tới Vua David có 14 thế hệ, rồi từ Vua David tới thời lưu đầy sang Babylon với 14 đời, và từ sau thời lưu đầy trở về tới Chúa Giêsu cũng có 14 thế hệ.
Thánh Marcô với hình con sư tử. Vì phúc âm của ông ngay chương đầu tiên bắt đầu với lời rao giảng tiếng hô hào lời kêu trong sa mạc của Thánh Gioan tiền hô như tiếng sư tử gầm rống trong rừng hoang .
Thánh Luca với hình tượng một con vật như con bò, con dê. Vì phúc âm của Ông thuật lại biến cố Thầy cả thượng phẩm Dacharia vào đền thờ dâng con vật bị giết tế lễ Thiên Chúa. Và thánh sử cũng thuật lại biến cố quang cảnh hài nhi Giesu sinh ra trong chuồng súc vật chiên bò lừa ngoài cánh đồng Bethlehem.
Thánh Gioan với hình con chim đại bàng. Vì những tư tưởng hình ảnh trong phúc âm của Ông biểu lộ tinh thần cao cả, cao sâu diệu vợi như con chim đại bàng dũng mãnh có sức cất cánh bay cao lên tận nền trời mà con mắt thường không sao có thể nhìn thấy nó tít tận trên cao. Và từ trên cao nó bay lượn đáp xuống mặt đất rất kỳ diệu ngoạn mục.
Rồi hình ảnh bốn con vật cũng được hiểu cắt nghĩa là hình ảnh chỉ về sự nhập thể làm người của Chúa Giêsu, về lễ vật tế lễ, sự sống lại và lên trời trời của Chúa Giêsu.
Nhưng tại sao lại dùng con chiên là hình ảnh biểu tượng cho Chúa Giêsu, mà không một trong bốn con vật đó?
Tiên tri Isaia đã diễn tả hình ảnh về người tôi trung của Thiên Chúa như một con chiên. Hình ảnh con chiên được tuyển chọn chỉ về Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Con Chiên này không có quan hệ gì với bốn con vật đứng chung quanh phục vụ Con Chiên. Hình ảnh này làm tương phản với hình ảnh Đấng Cao cả tuyệt đối, làm nổi bật rõ nét giữa Đấng là chủ sự sáng tạo và loài thụ tạo trong các mối liên hệ.
Con Chiên được dùng là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu còn nói lên khía cạnh chính yếu nổi bật của một Thiên Chúa nhập thể làm người trên trần gian. Chúa Giêsu làm người không muốn là một vĩ nhân, một con người tuyệt đối, một nửa Thiên Chúa. Nhưng là một con người toàn vẹn với yếu đuối, như Thánh Phaolo viết trong thư gửi Giáo đoàn Corinthô:
„ Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái.27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh;28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có.“ ( 1 cor 1,26-28).
Trong Giáo hội xưa nay có tập tục dây Pallium của Đức giáo hoàng và các Tổng giám mục đeo choàng trên cổ xuống trước ngực khi cử hành thánh lễ, được dệt bện bằng lông các con chiên Agnes - các con chiên được làm phép ngày lễ kính thánh Agnes 21.01.
Dây Pallium bện dệt bằng lông con chiên như Đức giáo hoàng qúa cố Benedictô 16. cắt nghĩa: Nhắc nhớ đến Chúa Giêsu sau khi sống lại đã trao trách vụ cho Thánh Phero hãy chăn dắt các con chiên của Thầy. Và cũng là hình ảnh nói về ách gánh nặng của Chúa Giêsu Kitô mà các vị mục tử mang trên vai khi nhận lãnh ý muốn sứ vụ Chúa trao cho.
Trong các thánh lễ, trước khi tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giesu Kitô, lời kinh cầu nguyện được toàn thể mọi người trong thánh đường cùng đọc lên hoặc hát ca xướng ba lần: „Lạy Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con „
Và sau cùng vị chủ tế giơ cao Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô cũng đọc lời giới thiệu như Thánh Gioan tẩy gỉa ngày xưa đã nói: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.“
Trong văn hóa, văn minh nhân loại nhất là bên vùng Trung Đông, thịt Chiên, Cừu là thực phẩm phổ thông lành mạnh cùng ngon. Lông con Chiên Cừu được cắt xén dùng cho việc may mặc quần áo cùng làm chăn nệm cho ấm, nhất là ở xứ lạnh mùa Đông.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 92
Xưa nay con người có mong muốn đạt tới được điều gì cao đẹp tốt lành cho đời sống. Và khi đã đạt tới địa vị cao như mong ước, thường lại có khát vọng muốn đi tìm kiếm điều gì mới lạ cao trọng đẹp hơn.
Ngày xưa, cách đây hơn hai ngàn năm, sau khi Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, ba nhà thông thái về khoa thiên văn, vẫn quen được xưng tụng là ba Vua, đã vượt qua hành trình đường dài từ Phương Đông bên nước xa lạ tìm đến bái kiến Hài nhi Giêsu mới sinh ra ở Bethlehem bên nước Do Thái.
Họ là những nhà thông thái, được xưng tụng vào địa vị là “Vua”, cùng hoàn toàn xa lạ với gia đình hài nhi Giêsu nghèo hèn, mà lại còn lặn lội tìm đến bái kiến Hài Nhi Giêsu làm gì ?
Kinh thánh thuật viết lại theo kiến thức chuyên môn khoa học thiên văn, họ đã nhìn thấy ra ngôi sao của một vị Vua mới xuất hiện trên nền trời. Và theo dấu hiệu đó họ lên đường hành trình đi tìm kiếm. ( Mt 2,1-2)
Sự hiểu biết, theo cách thế bình dân suy nghĩ, đã khơi lên sự tò mò trong lòng họ đi tìm kiếm điều mới lạ. Còn theo cung cách tâm linh nội tâm sâu xa hơn, điều đó đã thôi thúc họ đi tìm kiếm sự chân thật cho đời sống.
Vào quãng thời gian lúc cuối đời Matin Luther, người sáng lập đạo Tin Lành tách ra khỏi Hội Thánh Công Giáo, hồi thế kỷ thứ 16. ở nước Đức, đã có suy tư: „Chúng ta là người hành khất!“.
Trong hành trình đời sống người tín hữu Chúa Giêsu Kitô mang trong mình hai sứ vụ: tước hiệu là vua của Chúa Kitô, và thân phận cuộc sống người hành khất thiếu thống luôn cần sự che chở ban ơn gìn giữ của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, vì đời sống con người có giới hạn về mọi khía canh.
Trong công trình sáng tạo, con người được Thiên Chúa tạo dựng sau cùng vào ngày thứ sáu, như cao điểm của công trình sáng tạo trời đất và sự sống. Con người không chỉ là một tạo vật được tạo dựng như bao tạo vật khác. Nhưng họ được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Vua vũ trụ, tạo dựng nên họ, cùng được Thiên Chúa ban cho vai trò làm chủ sử dụng đất đai cùng cây cỏ súc vật làm của ăn sinh sống ( St1,1-31 ). Như thế, họ được hưởng tước vị là vua của Đấng dựng nên họ.
Ngày lãnh nhận làn Nước Bí tích Rửa tội, họ được xức Dầu Thánh Chúa Kitô, Đấng cũng đã được xức dầu là tư tế, tiên tri và vua của con người.
Là người hành khất, vì khả năng giới hạn của họ là con người về cả thể xác lẫn tinh thần cùng cả thời gian sinh sống trên trần gian. Những gì con người có, như thân thể, khả năng tâm linh trí tuệ, cơ hội sống …không do tự chế tạo làm ra, nhưng do được ban tặng cho.
Cha mẹ không là người biến chế làm ra con mình. Nhưng họ là người đón nhận sự sống đứa con của mình.
Cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng con mình nên người khôn lớn. Nhưng cha mẹ không là người tạo nên tâm trí cùng cả vận mệnh đời sống con mình. Chả thế mà ngạn ngữ có câu nói về lòng tin tưởng này: Cha mẹ sinh con. Trời sinh tính! Và ngay cả anh chị em ruột thịt cùng một cha mẹ sinh ra, nhưng mỗi người có một đường đời sống riêng, không ai giống với ai.
Trong đời sống, con người ngay từ lúc sơ sinh và rồi trong suốt dọc đời sống họ lệ thuộc vào sự tương quan liên đới với nhau. Con người cần nhau cho sự phát triển đời sống.
Ba nhà thông thái ngày xưa tuy có tước vị là vua, vì có chức tước trọng vọng, có kiến thức bác học uyên thâm. Nhưng họ cũng vẫn trải qua hành trình như người hành khất tìm đến hài nhi Vua Giêsu, nguồn ân đức bình an cho tâm hồn con người.
Họ đến dâng tặng hài nhi Giêsu Vàng biểu hiệu tình yêu của họ; Nhũ Hương biểu hiệu lòng thao thức chờ mong họ hằng mong đợi; Mộc Dược biểu thuốc chữa lành vết thương đau khổ họ hằng phải chịu đựng.
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô mang trong mình tước hiệu Vua, và thân phận cuộc sống người hành khất trên đường hành trình đời sống, họ có tình yêu là kho tàng qúy gía . Nhưng đồng thời chúng ta cũng cảm nhận ra sự nghèo nàn của mình. Nghèo nàn không ở nơi tiền bạc của cải vật chất, nhưng trong giới hạn của trí tuệ tinh thần và cả nơi sức lực thân thể nữa.
Lòng thao thức chờ mong của con người luôn hướng về một điều gì hơn nữa, một điều gì làm thỏa lòng. Điều thao thức mong ước đó là Đấng Tạo Hóa, là Thiên Chúa là Vua lòng con người. Với Ngài con người cảm nghiệm được no đủ thỏa lòng, và từ đó sống dấn thân cho xã hội, cho Giáo Hội.
Nhưng đồng thời sức lực khả năng của con người không thể tiến xa hơn lằn ranh giới suy hiểu của trí tuệ, của sức khoẻ cùng khả năng tuổi tác thân xác. Con người chỉ có thể làm được những gì, theo như khả năng có thể thôi, dù họ có nhiều thao thức ước vọng cao xa hơn: chúng ta là người hành khất!
Là con người có tước hiệu Vua của Đấng Tạo Hóa ban cho. Nhưng xưa nay đâu đã có ai không cần đến thuốc chữa bệnh bao giờ. Không phải chỉ cần đến thuốc chữa bệnh đau đớn phần thân xác, mà còn cần nhiều hơn nữa đến thuốc chữa những đau khổ phần tâm linh tinh thần.
Con người chúng ta cũng như Ba Vua ngày xưa như người hành khất hành trình đi tìm kiếm đến hang đá vua hài nhi Giêsu.
Cũng như Ba Vua đem đến qùa tặng cho vua hài nhi Giêsu Vàng của tình yêu mến, nhũ hương thơm của lòng thao thức trông chờ, Mộc dược thuốc chữa đau khổ phần tinh thần- và đồng thời chúng ta người hành khất cũng đến với hai bàn tay trắng. Vì ta đặt niềm trông mong chờ đợi tất cả nơi Hài nhi Giêsu, Đấng là kho tàng mọi ân đức phúc lộc làm tràn đầy thỏa lòng con người, như hình ảnh cung cách sống hành khất của Ba Vua ngày xưa đi tìm kiếm Hài nhi Giêsu, Đấng là vua tình yêu mến.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chi tiết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lượt xem: 95
Các Kitô hữu thuở Giáo hội sơ khai bên vùng nước Do Thái, Palestina vùng Trung Đông trong đế quốc Roma, sau khi Chúa Giêsu Kitô đã trở về trời, có thói quen đạo đức mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra làm người. Họ mừng lễ như thế nào, không có sử sách hay truyền thống nào ghi thuật lưu truyền lại.
Duy chỉ có sách Phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo thánh sử Luca viết – vào khoảng từ năm 65.-80. sau Chúa giáng sinh- thuật lại biến cố Chúa Giêsu giáng sinh trên cánh đồng Bethlehem bên nước Do Thái nay thuộc vùng tự trị Palestina ( Lc 2,1-14).
Đến thế kỷ thứ tư sau Chúa giáng sinh – sau năm 313- Giáo hội Công giáo Roma ấn định chọn này 25. tháng 12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người.
Phúc âm theoThánh sử Luca viết thuật về khung cảnh biến cố Chúa giáng sinh năm xưa, nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian mang ánh sáng hòa bình từ trời cao cho trần thế: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Đây là lời loan báo tin mừng Chúa giáng sinh do ca đoàn các Thiên Thần ca hát năm xưa trong đêm thánh vô cùng hài nhi Giêsu sinh ra ở cánh đồng Bethlehem.
Thánh sử Luca bắt đầu bài tường thuật Chúa giáng sinh với biến cố lịch sử: “Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria...”
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao sinh xuống làm người là vị vua mang hòa bình đến cho nhân loại.
Còn Hoàng đế Cesare Augusto đang trị vì của đế quốc Roma, được mệnh danh ca tụng là Vị vua kiến tạo hòa bình trong đế quốc thời lúc đó, lan rộng bao gồm cả nước Do Thái.
Thế nào là hình ảnh vị vua kiến tạo hòa bình ?
Trước đó hằng thế kỷ, Ngôn sứ Isaia sống vào khoảng thế kỷ thứ 8. trước Chúa giáng sinh (Is 9, 2-4. 6-7) đã nói đến hình ảnh sứ mạng vị vua kiến tạo hòa bình giữa thảm cảnh chao đảo hỗn loạn đe dọa đời sống.
Ánh sáng của ngài chiếu tỏa vào bóng đêm tối hận thù. Cung cách nếp sống tự do của ngài mang đến sự chấm dứt khủng hoảng hoang mang lo sợ. Nếp sống hòa bình của ngài xóa tan đẩy lùi tham vọng chiến tranh. Áo choàng, đôi giầy ủng người lính chiến mang hình ảnh biểu tượng sức mạnh sự uy hùng đe dọa được cởi bỏ đem đi thiêu hủy.
Hình ảnh một nếp sống hòa bình là khát vọng của niềm hy vọng sâu thẳm phát tỏa nơi sự sinh ra của một trẻ thơ. Nơi hài nhi này chất chứa những gánh nặng trách nhiệm trên đôi vai em. Hài nhi này được xưng tụng là “ Vị Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”.
Làm thế nào một hài nhi có thể là người mang lại hòa bình cho khát vọng của con người đang sống giữa hoàn cảnh chao đảo hỗn loạn, hoang mang sợ hãi bị đe dọa? Lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa là giải đáp cho khát vọng trông chờ nếp sống hòa bình: “ Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó”.
Vào thời điểm cách đây hơn ngàn năm lúc hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra làm người, chắc không ai nghĩ bài tường thuật của ngôn sứ Isaia với những danh hiệu cao cả uy quyền như trên đây, nói về hài nhi Giêsu. Trái lại nghĩ liên tưởng nhiều hơn đến
Hoàng đế Cesare Augustus của đế quốc Roma đang thống trị thiên hạ. Hoàng đế Augustus sinh năm 63. trước Chúa giáng sinh, qua đời năm 14. sau Chúa giáng sinh. Ông cai trị đế quốc Roma từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh
Vị hoàng đế này được xưng tụng với danh hiệu cao cả thần thánh là “ Thiên tử” như khắc vẽ trên đồng tiền thời lúc đó. Người Ai cập xưng tụng Vua Augustus là vị “ Chúa tể cao cả”. Ở thành Roma ông được tôn kính là” người Cha của quê cha đất tổ”, và chính ông tự xưng mình là vị vua kiến tạo hòa bình cao cả Pax Romana.
Những danh hiệu cao cả đó vượt qúa giới hạn khả năng tài trí giới hạn của một con người trần thế. Nhưng xét cho cùng trong thời gian cai trị đế quốc Roma, hoàng đế Augustus đã có công chấm dứt cuộc nội chiến đã xảy ra từ một trăm năm trước đó rồi. Qua đó Ông đã có công kiến tạo mang lại nền hòa bình, sự phồn vinh thịnh vượng trong xã hội đế quốc Roma.
Rồi ông cũng là người, như Thánh sử Luca thuật lại trong phúc âm Chúa Giêsu Kitô về biến cố Chúa giáng sinh, khới lên phong trào sự chuyển động trên toàn thế giới đế quốc Roma. Sắc lệnh chiếu chỉ của hoàng đế Roma bắt mọi người về quê quán cũ nơi mình đã sinh ra ghi tên vào sổ nộp thuế. Điều này thể hiện nói lên sức mạnh quyền uy cùng ảnh hưởng rộng lớn của hoàng đế Augustus, đã khiến thiên hạ trong toàn đế quốc Roma lên đường di chuyển lên đường trở về quê quán cũ của mình, bất kể họ đang sinh sống nơi đâu trong đế quốc thời lúc đó. Như gia đình Thánh Giuse phải lặn lội từ miền Galileo làng Nazareth phía bắc nước Do Thái di chuyển xuôi về quê cũ nơi sinh ra miền Judea, thành Bethlehem phía nam nước Do Thái.
Tại sao Thánh sử Luca lại đưa hình ảnh hoàng đế Augustus vị xưng là con trời, vị vua kiến tạo hòa bình vào bài tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh, Đấng cũng là Thiên tử, là vua hòa bình, là người cố vấn kỳ diệu muôn thuở, như đồng hình dạng hay cạnh tranh với hoàng đế Augustus của đế quốc Roma?
Thánh sử Luca không phải là người chuyên môn về lịch sử triều đình đế quốc Roma. Theo tương truyền cùng ý kiến của các nhà nghiên cứu chú giải kinh thánh, Ông là một thầy thuốc, một họa sĩ, một người có nền học thức văn hóa Hylạp. Như thế ông là người có tầm nhìn kiến thức sâu rộng. Và sau này ông trở thành học trò môn đệ của Thánh Phaolô, cùng theo chân Thánh Phaolô đi làm công việc đạo đức truyền giáo cho tin mừng vào Chúa Giêsu Kitô. Với căn bản kiến thức đó Ông viết phúc âm giáo lý về Chúa Giêsu Kitô theo cung cách trên nền tảng đạo đức thần học lồng khung trong các biến cố thời sự lịch sử xã hội đời sống.
Vì thế Luca muốn dùng hình ảnh của hoàng đế Augustus như mốc điểm lịch sử trong đời sống xã hội thời lúc đó để tường thuật về một biến cố thần thánh khác: Giesu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người, và ở giữa con người.
Thánh sử Luca dùng hình ảnh một vị hoàng đế Augustus quyền uy sức mạnh trần thế có ảnh hưởng sâu rộng trong đế quốc Roma để diễn tả nói về một biến cố hình ảnh khác cho nổi bật rõ nét hiện lên khởi đầu chỉ là một hài nhi sơ sinh, yếu mềm, nhưng lại có sức mạnh tâm linh cao cả sâu rộng không chỉ trong thế giới đế quốc Roma của hoàng đế Augustus giới hạn về không gian địa lý và thời gian. Biến cố hài nhi Giesu giáng sinh làm người chiều kích thần học tâm linh có ảnh hưởng sâu rộng trong toàn thể hoàn cầu vũ trụ thiên nhiên, không có giới hạn về thời gian cùng tâm lý, văn hóa xã hội đời sống con người
Hai hình ảnh biến cố đó như bóng tối với ánh sáng; sự dữ tội lỗi hận thù với sự trong lành tha thứ làm hòa; sức mạnh của quyền lực áp chế bắt buộc với tình yêu lòng nhân từ; hòa bình trên nền tảng của vũ khí chiến thắng đánh bại với nếp sống hòa bình tâm linh từ trong thâm tâm của lòng tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng là nguồn hòa bình, nguồn sự sống; sự dối trá chiêu thức lừa đảo với lòng ngay thẳng chân thật; ích kỷ với bác ái, trần thế với thần linh…
Hài nhi Giesu, Con Thiên Chúa, vua hòa bình sinh xuống trần gian làm người là niềm hy vọng cho con người. Nhưng trong thực tế đời sống xã hội xưa nay luôn hằng có chiến tranh, hận thù, tàn phá gây hoang mang chao đảo cho đời sống. Dẫu vậy niềm hy vọng vào hài nhi Giêsu, Vua hòa bình, không vì thế bị rơi biến vào hư vô, vào khoảng không trống rỗng. Trái lại như các mục đồng trong đêm hài nhi Giêsu giáng sinh đã được Thiên Thần báo tin:” Các bạn sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ", cũng vậy nước Thiên Chúa, nước hoà bình cho tới ngày hôm nay vẫn còn bao bọc như trong nôi tã của một hài nhi sơ sinh.
Khi hài nhi Giêsu lớn thành người trưởng thành ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, nước tình yêu, nước hòa bình đã dùng hình ảnh hạt giống cây lúa, cây cải nhỏ bé so sánh với nước Thiên Chúa ( Mc 4, 26-34): hạt giống tuy nhỏ bé nhưng lại chất chứa mầm sức mạnh sự sống nảy sinh thành cây to lớn có cành lá xum xuê!
Ngay xưa và ngày nay biến cố đời sống diễn ra giữa hai trạng thái đối ngược nhau: cũ và mới, niềm hy vọng và hoang mang nghi hoặc, tình yêu và sự phá đổ. Dẫu vậy nước Thiên Chúa, nước hoà bình tình yêu vẫn luôn là khát vọng của con người muốn có.
Giữa cảnh sống sai lạc chao đảo không đúng phương hướng hòa bình tình yêu đó, một nếp sống chân thật vẫn có thể thành hiện thực đạt tới, khi nếp sống đơn giản chân thành đặt tin tưởng vào tin mừng sứ điệp của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng hòa bình, ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa cho con người, như Ngài rao giảng trong bài giảng Tám mối phúc thật:
“ Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai buồn sầu,
vì họ sẽ được an ủi.
Phúc cho những ai hiền lành,
vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát sự công chính,
vì họ sẽ được no thỏa.
Phúc cho những ai có lòng thương xót,
vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai xây dựng hòa bình,
vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính,
vì Nước Trời là của họ. “ (Mt 5, 3-10)
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh lễ Chúa giáng sinh, ngày lễ hòa bình.
- Hình ảnh cọng rơm hang đá Chúa giáng sinh.
- Hình ảnh Thánh Gioan Tẩy gỉa, người sống lòng khiêm nhượng
- Hình ảnh hang đá Chúa giáng sinh
- Hình ảnh Thánh Gioan, người mở đường.
- Hình ảnh con người Maria được tuyển chọn
- Hình ảnh người canh cửa cổng.
- Hình ảnh tiếng Sư Tử gầm thét
- Hình ảnh „Giêsu, Vua dân Do Thái“
- Hình ảnh khả năng được ban cho