Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
13/06 Nước Thiên Chúa phát triển
- Viết bởi Mc 4, 26-34
Nước Thiên Chúa phát triển.
Chúa Nhật tuần 11 Thường Niên năm B.
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
Lời Chúa: Mc 4, 26-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.
Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh Nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.
Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng Lời Chúa cho họ, tùy sức họ có thể hiểu được và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Ed 17, 22-24; 2Cr 5, 6-10; Mc 4, 26-34
1. Bông lúa trĩu hạt
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh
chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người,
chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số dân trên thế giới.
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ.
Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa.
Có cần phải tin vào Đức Kitô nữa không?
Vào thời thánh Mác-cô viết sách Tin Mừng,
cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh.
Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi
chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nê-rô.
Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không
dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.
Đó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,
cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên,
theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi.
Trước hết mọc lên thành cây lúa,
rồi trổ đòng đòng và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ.
Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày, chẳng cần con người can thiệp.
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này
khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng,
hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.
Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu,
vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây,
và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác.
Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.
Nước Trời khởi đầu bằng Đức Giêsu
và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới.
Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.
Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất,
và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây.
Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái.
Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.
Đây là lúc ta phải sống niềm tin:
tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu,
bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.
Đừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa,
dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ở Việt Nam, Kitô hữu chỉ là thiểu số. Bạn nghĩ gì về sự đóng góp của các Kitô hữu Việt Nam cho quê hương đất nước hôm nay?
Theo bạn, những người ngoài Kitô giáo nghĩ gì về chúng ta? Họ có thiện cảm hay ác cảm? Chúng ta cần phát huy thêm tinh thần nào để gần gũi hơn với đa số đồng bào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
2. Hãy góp phần mình làm phát triển Nước Thiên Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đang ở trong trần gian, chịu ảnh hưởng của trần gian ấy vậy mà phải nghe chuyện Nước Thiên Chúa! Như thế, có phải là viễn vông hay nói cách khác là vớ vẩn hay không?
Xem chừng ra cũng vớ vẩn đấy chứ! Bởi lẽ trong nhiều cách diễn tả về Nước Thiên Chúa thì Chúa Giêsu dùng hình ảnh này, hình ảnh kia. Có khi Chúa lại ví Nước Thiên Chúa như viên ngọc quý được chôn trong thửa ruộng và người khôn thì biết cách về để bán tất cả mọi sự để mua cho bằng được cái thửa ruộng có viên ngọc quý đó. Có khi Nước Thiên Chúa lại được ví như tí men trong bột dù rằng chỉ một dúm men nhưng làm cho đống bột dậy nên.
Và, hôm nay, Chúa là dí dỏm và vó von Nước Thiên Chúa như hạt cải. Thoạt tiên, ta cũng khó nghĩ bởi lẽ cây cải thì có gì để đáng nói. Thế nhưng, ở đất nước Palesitine thì cây cải khác ở nhiều nước trong đó có cả Việt Nam.
Nhà khảo cổ về Kinh Thánh đã viết trong quyển sách: “Xứ Thánh và Kinh Thánh” như sau: “Tôi đã thấy cây cải trong cánh đồng phì nhiêu ở Akkar (Trung Đông), nó cao bằng con ngựa. Tôi đã nhổ được một cây cao hơn bốn mét. Nơi những cây cải này, có những đàn chim đến bu quanh để ăn những hạt cải đen”.
Và như vậy, Với sự cao lớn của cây cải như thế, thì hình ảnh “cành lá sum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ” là điều rất dễ hiểu. Từ cây cải cụ thể trong đời thường, Chúa Giêsu muốn dẫn đưa mọi người đến một thực tại vô hình, đó là sự lớn mạnh và phát triển không ngừng của Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu thật sự đã không nói quá với sự thật mà Chúa muốn diễn tả, muốn trình bày, muốn bày tỏ về Nước Thiên Chúa như vậy. Sự thật vẫn là sự thật khi khởi đầu Nước Thiên Chúa chỉ với 1 dúm nhỏ 12 môn đệ. Và, cái khó là trong cái nhóm 12 đó cũng không phải là hoàn hảo, cũng không phải là tròn vẹn.
Nhìn lại một chút, có quá đáng chăng khi nói 12 cột trụ của Giáo Hội, của Nước Thiên Chúa lại được xây trên 12 cột móng mà 12 cột móng đó lại là 12 tính cách, 12 con người hoàn cảnh, 12 suy nghĩ... để rồi tất cả đều hiệp nhất, yêu thương nên một để xây dựng Hội Thánh.
Trong nhóm 12 đó, chỉ trừ Giuđa là người đã “rẽ đường” khác để mà đi. Còn lại, 12 môn đệ sau khi đã có Barnaba thay thế Giuđa đã làm nên chuyện.
Giáo Hội trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cũng đã trải qua biết bao nhiêu thử thách để tồn tại. Trong niềm tin, cửa hỏa ngục cũng như ma quỷ dù thế nào đi chăng nữa vẫn không thắng được Nước Thiên Chúa.
Và, như Chúa Giêsu đã hơn một lần nói rằng muốn vào Nước Thiên Chúa phải vào cửa hẹp. Những ai đã không đủ can đảm, không đủ nhẫn nại, không đủ kiên nhẫn chắc chắn sẽ không được vào, sẽ không có chỗ để mà “làm tổ dưới bóng” như Chúa Giêsu mời gọi.
Ngày nay, ngày xưa và ngày nào cũng thế! Vẫn còn đó, vẫn có đó sự giằng co giữa những người đi tìm Nước Thiên Chúa và những con người đi tìm nước thế gian. Nước thế gian, thật sự ngay tầm tay với và quá gần để người ta nhìn thấy, người ta dễ nắm bắt trong tay để rồi người ta mãi miết đi tìm cái nước của trần gian này dẫu rằng người ta vẫn thường biết thế gian này không bền vững.
Bằng chứng hết sức cụ thể trong cuộc đời chúng ta, chúng ta cứ nhìn lại ngay cả ông bà cha mẹ của chúng ta, những người ngày xa xưa rất thân với ta nay không còn nữa. Họ đi đâu? Họ đã đi vào thiên cổ và không còn ai thấy họ được nữa. Ta cũng thế! Một ngày nào đó ta cũng ra đi như họ để tìm về Nước Thiên Chúa.
Vả lại, thật sự mà nói thì bả phù hoa thế gian có quá nhiều điều hay để ta mãi miết đi tìm và không còn tha thiết chuyện thế gian nữa.
Ngày nào cũng thế, thời nào cũng thế, người ta đi tìm danh vọng và vật chất để rồi danh vọng và vật chất làm cho người ta không còn sức mạnh, không còn ý chí đi tìm và xây dựng Nước Thiên Chúa nữa. Nhất là thời nay, khi chủ nghĩa vật chất lên cao, khi chủ nghĩa cá nhân quá lớn để rồi không còn tình yêu thương giữa anh chị em đồng loại và nhất là trong gia đình của mình.
Phải nói rằng như quá nhiều lần như Chúa Giêsu nói Nước Thiên Chúa như lúa mọc và kèm theo đó có cỏ lùng. Nước Thiên Chúa có đó nhưng sự dữ thế gian vẫn chen vào. Và khi đó, ta lại được mời gọi sống niềm tin vào Nước Thiên Chúa, sống diễn tả mầu nhiệm Nước Trời.
12 người đã đi khắp thế gian để loan báo Tin Mừng, để loan báo về Nước Trời. Ta cũng thế, ta cũng được mời gọi cũng là cho Nước Thiên Chúa được triển nở trong đời ta, ngay trong cách hành xử của ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày ta góp một chút xíu phần của ta vào cho công trình Nước Trời ngày càng lớn mạnh và Nước Cha trị đến.
3. Tin tưởng – kiên nhẫn
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ở Trung Quốc có một loại tre kỳ lạ trồng bằng hạt. Nó nằm trong lòng đất suốt 5 năm rồi mới ló chồi non lên trên mặt đất. Thế nhưng một khi đã trồi lên khỏi mặt đất thì chỉ trong vòng sáu tuần, nó mọc lên cao tới 5 mét. Các chuyên gia cho rằng suốt thời gian 5 năm trong lòng đất, hạt giống của loại tre ấy đã hình thành một hệ thống rễ phức tạp. Nhờ hệ thống rễ này, mầm non có thể tăng trưởng một cách mau chóng như vậy.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai hạt giống: Lúa và Cải để nói đến hạt giống Nước Trời. Nước Trời và Lời Chúa cần một thời gian dài nẩy mầm, bén rễ sâu vào Thiên Chúa hầu có đủ sức của Chúa Thánh Thần, đủ dữ dinh dưỡng là ơn Chúa thì chắc chắn cây đời sống đức tin của chúng ta mọc lên mạnh mẻ và sinh nhiều hoa thơm trái tốt cho đời và cho Đạo, đó mới là điều đẹp lòng Thiên Chúa.
Đôi khi thời gian này quá lâu khiến chúng ta băn khoăn tự hỏi: không biết hạt giống Nước Trời và Lời Chua được gieo vào tâm hồn ta trong ngày nhận bí tích Rửa Tội đã bén rễ chưa? Hay đã bị sỏi đá và gai góc là tội lỗi bóp nghẹt chết rồi? Vậy nếu sống thì sống như thế nào? Có trổ bông hạt hay không? Hay cây chỉ có lá sum suê mà chẳng có trái nào?
Thiên Chúa đã gieo Hạt giống Nước Trời (Chân, Thiện, Mỹ) và hạt giống Lời Chúa (Các điều răn và Tám Mối Phúc) trong lòng chúng ta khi chúng ta chịu phép Rửa Tội. Ngài biết tất cả đã, đang sẽ xảy ra nơi con người chúng ta, còn chúng ta lúc biết lúc không. Cho nên, chúng ta phải tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đồng thời cần phải kiên nhẫn chăm sóc chúng.
Vì vậy, nhiều khi hạt giống Nước Trời và Lời Chúa xem ra như không phát triển gì cả trong chúng ta, nghĩa là chúng ta dường như chẳng chân thực, thánh thiện và đẹp về nhân cách lẫn tâm hôn hơn tí nào, nhiều khi còn tệ hơn trước. Ví dụ, mấy tuần qua dân Việt Nam phẫn nộ vụ nhiều người mẫu, diễn viên tham gia đường dây bán dâm cùng á khôi. Mà những ngưới đẹp chân dài này là những người đã từng đoạt giải trong các cuộc thi sắc đẹp quốc gia đàng hoàng. Ấy thế, mà người đẹp nhưng mất nết, đáng bị nguyền rủa!
Còn đối với chúng ta, Chúa Giêsu đến rao giảng và kêu gọi làm cho Nước Thiên Chúa trị đến, thế mà hơn 2000 năm đã trôi qua, dường như Nước Thiên Chúa vẫn còn quá xa. Hội Thánh nỗ lực xây dựng vương quốc của tình yêu, công lý và hoà bình. Nhưng tội lỗi vẫn còn đó, lòng hận thù, bất công vẫn còn đó trong xã hội, giáo xứ hay gia đình mình. Trong bối cảnh đó, đôi lúc chúng ta không khỏi ưu tư và thất vọng, mất kiên nhẫn. Chúng ta đừng nản lòng. Tốt hơn chúng ta nên tiếp tục vun xới nhưng hạt giống trong chúng ta bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích chắc chắn sẽ có hoa có trái thơm cho đời mình và tha nhân. Vì chưng, Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc 1 khẳng định rằng: “Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi.
Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17,24).
Thánh Vinh Sơn – Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ và không hay biết”. Chúng ta đừng sốt ruột, đừng ai tự cho mình là thiện toàn hoàn hảo. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy hoạt động tông đồ hay kinh nguyện của mình không có linh nghiệm gì! Cũng đừng thất vọng khi không thấy kết quả trước mắt. Thái độ nôn nóng đôi khi là dấu hiệu của sự kiêu hãnh vì nghĩ rằng việc đạo đức của mình là do công lao của mình. Không biết kiên nhẫn đợi chờ có thể dẫn chúng ta đến những chọn lựa nghịch với Tin Mừng để tìm sức mạnh của quyền lực, giàu sang, và dối trá và chắc chắn không sớm thì muộn sẽ gặp phải thất bại. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng: “Chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa... Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (1Cr 6,6-8).
Vì thế hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác trong niềm tin. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin vào sự hướng dẫn của Chúa đối với cuộc sống ta. Niềm tin mời gọi chúng ta tiến bước, bền chí sống Lời Chúa vì biết rằng: “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa mới là người làm cho mọc lên” (1Cr 3,6). Tôi chỉ góp phần rất bé nhỏ, còn Thiên Chúa mới làm cho hạt giống Nước Chúa lớn lên theo cách của Thiên Chúa. Chỉ cần chúng ta khiêm nhường nép bên vào Chúa, chính lúc đó dù ta có tội- Chúa cho sạch, ta yếu Chúa cho ta mạnh, Ngài làm đẹp chúng ta từ trong ra ngoài.
Trong Thánh lễ, chúng ta được đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng ta. Hạt giống ấy hôm nay nhỏ bé nhưng sẽ âm thầm lớn lên trong chúng ta. Có Chúa sống trong ta, cuộc đời ta sẽ trổ sinh hoa trái, xanh tươi, hoa lá cành, đem lại bóng mát đó là niềm tin và hạnh phúc cho mọi người qua cung cách sống đạo của chúng ta trong đời sống hằng ngày.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con kiên tâm và vững chí làm cho cây đức tin của chúng con sống dồi dào và sinh nhiều trái tốt cho Nước Chúa. Amen.
4. Sức mạnh kỳ diệu của hạt giống
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Tin mừng Mc 4:26-34: Mỗi người Kitô Hữu cũng là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất Việt qua việc lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.
Ngày 19/06/2018, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hân hoan khai mạc Năm Thánh, kỷ niệm 30 năm ngày phong thánh cho Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đậy là một sự kiện quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành ân sủng và đức tin của Giáo Hội Việt Nam. Chính vì điều này mà trong thư công bố Năm Thánh, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã viết: “Năm Thánh 2018 mời gọi mọi tín hữu chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và Các Thánh Tử Đạo, vừa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài”; bên cạnh đó, “Năm Thánh 2018 nhắc nhở và thúc đẩy tất cả chúng ta sống tinh thần tử đạo trong môi trường hiện nay. Bằng cái chết của mình, Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trước mặt vua chúa, quan quyền và mọi người rằng Nước Trời là ‘kho tàng chôn giấu trong ruộng’ và ‘ngọc quý vô giá’ nên khi tìm được, các ngài sẵn sàng bán tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống, để ‘mua thửa ruộng và ngọc quý đó’ (x. Mt 13,44-46). Ngày nay, các Kitô hữu cũng được kêu gọi sống tinh thần hi sinh, từ bỏ theo bậc sống của mình để làm chứng cho Chúa và Tin Mừng Nước Trời”.
Khi tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam như vậy, Giáo Hội ca ngợi sự hy sinh cao quý của các thánh. Bởi vì các ngài đã chấp nhận trở thành hạt giống gieo vào lòng đất, thối đi và mọc lên để trở thành những cây to lớn mang lại hoa trái dồi dào cho Giáo Hội. Các ngài đã hy sinh tất cả, đánh đổi tất cả để làm vinh danh Chúa và phần rỗi của các linh hồn.
Có thể nói: các ngài chính là những hạt giống âm thầm, bền bỉ, trung kiên, nhỏ bé nhưng mãnh liệt.
1. Ý nghĩa các dụ ngôn
Hôm nay, qua Bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn để nói cho dân chúng biết về mầu nhiệm Nước Trời.
Trước tiên là dụ ngôn người gieo giống. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự kiên trì của người gieo và sức mạnh nội tại của hạt giống. Ngài nói: Hạt giống được gieo xuống đất, đêm hay ngày, người gieo dù ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả (x. Mc 4, 27-28).
Khi khẳng định điều này, Đức Giêsu muốn dạy cho dân chúng và nhất là các môn đệ bài học về sự sống tiềm tàng của hạt giống. Người gieo phải kiên trì, khiêm nhường và tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa. Lòng nhiệt tình của người nông phu sẽ được đến đáp xứng đáng. Bởi vì, việc hạt giống mọc lên và sinh hoa kết trái vượt ra xa khỏi tầm kiểm soát của con người.
Sống trong một hoàn cảnh như thế, người môn đệ sẽ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa để cậy trông vào Người. Đây là tiến trình trưởng thành của đức tin. Điều này phù hợp với giáo huấn của thánh Phaolô: “Phaolô trồng, Apolô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên (1Cr 3,6)”.
Thứ đến, Đức Giêsu dùng dụ ngôn hạt cải để nói về Nước Trời. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trình bày Nước Trời dưới một góc độ khác! Hạt cải nhỏ bé ở đây chính là Giáo Hội. Một Giáo Hội khởi đi từ nhóm người hết sức nhỏ bé vỏn vẹn chỉ có 12 người. Rồi hạt cải ấy bị biết bao khó khăn trù dập…. Ấy thế mà hạt cải vẫn lớn lên và to cao lạ thường, đến nỗi chim trời đến làm tổ và cư ngụ ở đó cách an toàn.
Điều kỳ diệu này cũng được tiên tri Ezekien nói đến trong bài đọc I hôm nay, ngài nói:“Từ ngọn cây hương bá cao chót vót, ta sẽ ngắt một chồi non. Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao, nó sẽ trổ cành kết trái thành cây hương bá huy hoàng. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp” (x. Ed 17, 22 - 24).
Lời tiên báo này, vị tiên tri muốn nói đến đường lối của Thiên Chúa thật phi thường không ai có thể ngờ được.
Còn với thánh Phaolô, qua Bài đọc II, ngài đã xác định yếu tố cần thiết để hạt giống đức tin được lớn lên và trưởng thành, đó là: hãy ra khỏi thân xác ích kỷ và hưởng thụ, để được gần Thiên Chúa và thuộc về Người. Nói cách khác, thánh nhân nhấn mạnh đến việc: hạt giống tâm hồn của chúng ta được lớn lên là nhờ ơn Chúa và sự nỗ lực không ngừng. Một sự hy sinh liên lỷ. Tất cả những cộng góp đó, làm cho đức tin lớn mạnh và vững vàng….
2. Bài học cho người Kitô Hữu Hữu
Dựa trên ý nghĩa hai dụ ngôn, chúng ta lần dở lại lịch sử cứu độ, nhất là lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hẳn ai cũng thấy: có những lúc Giáo Hội luôn gặp những thử thách từ nhiều phía. Thế nhưng, sự kiên trì và dũng cảm của các bậc tiền nhân đã làm cho hạt giống đức tin được lớn mạnh không ngừng và trổ sinh hoa trái thật xum xuê như hiện nay.
Sự lớn mạnh như vậy, không hệ tại nơi con người như trong bài Tin Mừng Đức Giêsu đã nói: hạt giống cứ âm thầm mọc lên. Chỉ cần có cơ hội là mở tung, phá vỡ vỏ hạt để đâm trồi nảy lộc.
Mỗi người Kitô Hữu cũng là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất Việt qua việc lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Hạt giống của mỗi người chúng ta đã biết bao lần gặp phải sóng gió, phong ba, bão táp ập đến. Nhưng nhờ ơn Chúa, hạt giống đức tin ấy vẫn lớn lên ngay trong những thử thách và đã trổ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng.
Tuy nhiên, vẫn còn đó biết bao hạt giống chưa chịu bức phá ra khỏi cái vỏ hạt xù xì xấu xa của mình để vươn lên đón ánh mặt trời và lớn lên như những hạt giống khác.
Sự khác biệt giữa mọc lên và nằm yên chính là việc có chấp nhận vượt ra khỏi vỏ bọc ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để sẵn sàng bung ra với sự kiên trì, can đảm, nhằm đạt được những hoa trái thánh thiện và tốt lành của những đức tính như bác ái, từ bi, nhân hậu hay không?
Có sẵn sàng vượt ra khỏi định kiến cá nhân, bảo thủ, để nghĩ đến người khác như: vợ chồng, con cái biết nghĩ, biết sống cho nhau và vì nhau? Mái nhà của gia đình có thực sự là nơi an toàn để mọi thành viên hưởng nếm sự ngọt ngào của yêu thương, sự quan tâm và lòng liên đới hay là nơi cắn xé, chửi bới, la rày nhau?
Bao lâu trong mái nhà ấy, mỗi thành viên chưa nghiệm thấy và đụng chạm được sự bình an, hạnh phúc và niềm vui, thì bấy lâu gia đình ấy là hỏa ngục, nơi chôn giấu những hạt giống ích kỷ, vụ lợi, thực dụng, kiêu ngạo.
Ngược lại, mỗi người hãy làm cho gia đình mình chan chứa niềm vui khi mỗi người là những cành yêu thương, hoa nhân ái và quả đạo đức.
Được như vậy, mỗi gia đình là cung thánh của lòng thương xót, để nơi ấy, tình thương của Thiên Chúa được diễn đạt rõ nét cho anh chị em xung quanh. Là nơi an toàn cho những cánh chim đang mỏi mệt, thất vọng. Nói cách khác, khi sống xứng đáng là người Kitô Hữu thực thụ với những đặc tính yêu thương bác ái, chúng ta sẽ là nơi nương tựa của những người đau khổ, bất hạnh, bị bỏ rơi, những người cô thế cô thân, những người bị áp bức bóc lột, đói khát bần cùng. Trở thành điểm tựa và niềm hy vọng cho những ai đang đánh mất niềm tin, đang xa đọa vào những con đường tội lỗi để dẫn đưa họ về với Chúa.
Có thế, chúng ta mới thực sự làm cho Nước Chúa lan rộng khắp nơi và lớn mạnh không ngừng như hạt cải tuy nhỏ bé, nhưng lớn lên vĩ đại.
Lạy Chúa Giêsu, hạt giống nơi tâm hồn mà Chúa đã gieo vào lòng mỗi người ngày chúng con lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Chúa mong ước cho hạt giống ấy mọc lên để thành những cây cao lớn làm nơi nương ẩn cho những ai cần đến.
Tuy nhiên, chúng con đã hồ đồ, ích kỷ, kiêu ngạo và không kiên định, nên làm cho hạt giống mà Chúa đã tin tưởng gieo vào tâm khảm chúng con bị chết nghẹt nơi thửa đất cằn khô sỏi đá. Xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức, để chúng con kiên trì, can đảm vươn ra khỏi những vỏ bọc an toàn tạm thời để làm cho danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được trị đến trên khắp hoàn cầu. Amen.
5. Hạt giống nhỏ nhất trở nên cây lớn nhất
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đến trong trần gian, Chúa Giêsu chỉ có một ý nguyện duy nhất là thiết lập Nước Thiên Chúa hay Triều đại của Thiên Chúa. Vì thế, trong việc rao giảng, Ngài thường nói đến vấn đề này theo nhiều cách, nhưng phần lớn Ngài dùng dụ ngôn.
Dụ ngôn là những hình ảnh rút ra từ cuộc sống hằng ngày, được trình bày dưới dạng thức một câu chuyện để khơi lên trong tâm trí người nghe một suy nghĩ nào đó, giúp họ đặt lại những vấn đề của họ. Chúa Giêsu thường sử dụng những hình ảnh của cuộc sống bình thường như hạt giống, muối, ngọn đèn, ruộng lúa, kho tàng… để lồng khung những giáo huấn của Ngài.
Hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta suy nghĩ về hai dụ ngôn ám chỉ Nước Trời: dụ ngôn hạt giống và hạt cải.
Nước Trời tương tự như một người nông dân gieo hạt. Gieo xong, dù người ấy ngủ hay thức, ngày hay đêm, hạt giống cứ tự mình từ từ nẫy mầm, lớn lên và sinh hoa kết quả.
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, nhỏ bé hơn nhưng hạt giống khác, khi lớn lên thì thành cây to đến nỗi có thể cho chim trời đến làm tổ trên cành.
Hai dụ ngôn chứa tràn đầy niềm hy vọng.
Hạt giống nhỏ bé được trao phó cho mảnh đất… nó vẫn nẫy mầm, triển nở và sinh bông hạt, không cần đến sự trợ giúp nào.
Sức sống mãnh liệt ẩn chứa trong sự nhỏ bé, và có thể tự mình vươn lên và sinh hoa quả.
Hạt cải nhỏ bé vẫn có thể thành cây to.
Nước Trời là thế đó.
Nước Trời không là một lực lượng hùng hậu chinh phục thế giới bằng vũ lực, mà chỉ là một hạt giống nhỏ thôi.
Chúng ta mơ tưởng những ngày vinh quang. Chúng ta mãn nguyện vì những thành công bên ngoài, những lễ hội rình rang, những đám đông rầm rộ…
Chúa Giêsu không ở trong đám đông, cũng không có mặt nơi con người tự tìm thấy vinh quang trong những lúc phô trương lực lượng.
Ngài sinh ra nơi Bêlem nghèo khó, vô danh… Ngài là hạt lúa được gieo vào mảnh đất nhân loại.
Chúng ta mơ những thành công rực rỡ, nhưng con số báo cáo thật kêu, còn Chúa Giêsu chỉ là một tử tội bị bêu trên thập giá. Thất bại tang thương! Bị chôn vùi trong mảnh đất Palettin, nhưng trong Ngài, trong con người bị chống đối, bị khinh khi, bị ruồng bỏ, có một sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng, sức sống của tình yêu.
Tình yêu không lộ diện, không chói sáng. Tình yêu như một vì sao nhỏ nhưng mãnh liệt: “Đừng sợ! Thầy đã thắng thế gian”.
Hạt giống chính là Tình yêu chứa đựng một sức năng động nội tại, có thể tự mình nẫy mầm và tăng trưởng, không cần một trợ lực nào. Người nông dân không biết vì sao nó mọc lên, vì đâu nó sinh hoa trái.
Chúng ta chỉ cần gieo nó vào lòng đất và đợi chờ đến ngày thu hoạch.
Chúa Giêsu chính là hạt giống đầu tiên của một nhân loại mới. Ngài là mầm sống bất diệt.
Thời thánh Maccô, Giáo Hội Rôma đang bị bách hại triệt để.
Nhiều người e sợ, giáo dân phải trốn chui trốn nhủi. Đó là hạt giống đầu tiên của Giáo Hội được gieo vào mảnh đất nhuốm máu, nhưng hạt giống vẫn mọc lên. Khi trời bước vào mùa xuân, khi ánh sáng tự do ló dạng, mùa gặt đã bội thu.
Giáo Hội Việt Nam cũng chịu bách hại suốt cả trăm năm, nhưng hạt giống đức tin vẫn âm thầm lặng lẽ mọc lên, và sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu luôn bảo: “Đừng sợ!”
Chúa Giêsu phải qua bao đau khổ mới đến vinh quang. “Giữa thế gian, chúng ta vẫn gieo trong nước mắt. Con thuyền Giáo Hội đang đi trên biển đời, làm sao không bị sóng gió? Nhưng tình yêu vẫn là sức mạnh không sóng gió nào dập tắt được. Đừng mơ mộng những ngày yên lành tươi vui, nhưng hãy đứng vững kiên trì. Vững tin vào Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Bao lâu còn Chúa Giêsu, chúng ta không buồn nản vì “thù trong giặc ngoài”. Chính những cơn bách hại, rõ ràng hay tiềm ẩn, lại là yếu tố giúp chúng ta can đảm.
Dụ ngôn hạt cải cũng chứa chan hy vọng.
Hạt giống nhỏ bé mọc lên thành cây lớn.
Khởi đầu khiêm nhượng, chôn vùi trong âm thầm suốt 30 năm trong làng Nadaret, sau đó tươi nở được mười một nhánh, hôm nay thành một cây cổ thụ, chim trời có thể làm tổ yên lành, líu lo…
Chúng ta không đắc thắng nhưng tin cậy. Chúng ta không là những trẻ mồ côi bị bỏ rơi trên đường. Chúng ta có lời hứa: “Thầy sẽ không để các con mồ côi, Thầy sẽ đến cùng các con”. “Thầy sẽ ở cùng các con cho đến tận thế”.
Chúng ta có lương thực thần linh để bước tới: “Nầy là Mình Thầy, hãy cầm lấy mà ăn”.
Và chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho Nước Trời triển nở và sinh nhiều hoa trái. Chúng ta đang mang trong chúng ta kho tàng Nước Trời, phải mang cho mọi người quanh chúng ta kho tàng vô giá đó.
Chúng ta có thể làm cho Nước Trời triển nở khi có một tâm hồn tội lỗi trở về với Đấng đang kêu gọi họ; Khi những nữ tu hay những người thiện chí tận tâm lo cho những người khốn khổ thoát khỏi những cơn quẩn bách, nghèo khổ, bị bệnh liệt kháng, hay bệnh cùi… Nước trời tiếp tục triển nở khi chúng ta dám nâng đỡ những người đang bị bỏ rơi, khi chúng ta dám tha thứ cho những người nhục mạ chúng ta… Khi có ai đó ngồi lặng trước nhà tạm để lắng nghe tiếng thì thầm yêu thương của Chúa… Tất cả những hành vi bác ái của chúng ta sẽ làm cho Nước Trời triển nở, vì Nước Trời chính là Tình Yêu.
Chúng ta không thể gói Nước Trời trong một tấm khăn tay. Tình Yêu không thể giữ trong một bình sành, nhưng tình yêu phải được san sẻ, phải cho đi. Bao lâu chúng ta không biết cho đi, chúng ta vẫn khóa chặt Nước Trời trong lâu đài ích kỷ nhỏ nhen của chúng ta. Hãy là con chim trời bay vút trên cao để hòa mình vào ánh sáng của mặt trời và làm sống động khung trời bao la im lặng. Hãy nói lên tiếng nói yêu thương trong cuộc sống, nhờ đó Nước Trời được rộng mở cho ai muốn lắng nghe.
Nước Trời chính là Giêsu được trao ban nhưng không cho mọi người.
6. Thử thách và đức tin
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay muốn nhắn gởi chúng ta những gì? Dụ ngôn hạt giống âm thầm mọc lên nhấn mạnh đến sức nuôi sống khó cưỡng lại của đất. Đất làm cho hạt giống nẩy mầm, mọc lên thành cây rồi đâm bông kết trái, xuyên qua một quá trình phát triển hài hoà. Con người chỉ đóng vai trò chủ động khi mùa gặt đến.
Dĩ nhiên hình ảnh người gieo giống gợi lên hình ảnh Chúa Giêsu. Ngài so sánh hoạt động của Người rao giảng Nước Trời với hoạt động của ông chủ trại, bằng lòng đợi ngày mùa thu hoạch. Sở dĩ như thế là vì Ngài muốn đề cao sức mạnh của công trình rao giảng của Ngài, một công trình không thể không đem lại kết quả. Khi gieo hạt giống vào những tâm hồn sẵn sàng đón nhận. Đức Kitô ban cho họ sức mạnh để đáp trả và sinh hoa kết quả.
Vả lại, ở đây cũng muốn gợi lên sự cần thiết của thời gian, của hạn kỳ Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử, Ngài quan tâm tới sự trưởng thành nhờ tác đợng của thời gian. Khi đó, người gieo giống trở thành thợ gặt. Và dĩ nhiên thợ gặt ở đây được đồng nhất với con người.
Dụ ngôn hạt cải cũng tạo được niềm phấn khởi lạc quan. Sự lớn lên kỳ diệu của hạt cải gợi lên sự phát triển của Nước Thiên Chúa. Dùng dụ ngôn này, Đức Kitô muốn tạo niềm tin tưởng nơi các môn đệ, có lẽ lúc bấy giờ đang dao động trước những khó khăn buổi đầu của công trình rao giảng của chính Chúa Giêsu. Do đó, Ngài không ngại tưởng tượng cái không-như-thật trong cách trình bày của Ngài, khi bảo rằng hạt cải mọc lên lớn hơn các thứ rau, cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Nhưng điều không như thật trên bình diện khoa học đó lại là như thật trên bình diện giáo huấn của Ngài. Thiên Chúa thích cho thấy sức mạnh của Ngài trong cái yếu đuối, mong manh của buổi ban đầu.
Để kết luận, Chúa Giêsu cho thấy rằng dụ ngôn hàm chứa trong chính nó cả một sự phong phú về mặt gợi ý và ứng dụng. Trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn, trong đó một số tấn công bất nhân nào đó của môi trường chung quanh hay một số suy thoái nào đó về ý thức tôn giáo, làm che khuất các cố gắng khiêm tốn, kín đáo cua những tâm hồn cao thượng, như hoàn cảnh ta đang sống, các dụ ngôn về sự tăng trưởng và phát triển của Nước Thiên Chúa mang lại một bầu khí phấn chấn, trong lành. Cũng giống như các môn đệ của Chúa Giêsu hay những người đương thời với Ngài, nhiều khi chúng ta cũng dễ dàng tỏ ra thiếu kiên nhẫn và dễ nghi ngờ sự phát triển của Giáo Hội. Thiết tưởng chúng ta nên đọc kỹ lại các dụ ngôn trên để củng cố niềm tin vào sự lớn mạnh của Giáo Hội nhất là giữa cảnh bão bùng giông tố, bởi sức phát triển bất khuất đó không do sức mạnh của con người, mà là do sức mạnh của Thiên Chúa.
Sự khẳng định kiên vững đó của đức tin sẽ hâm nóng lại niềm hy vọng của chúng ta, mang lại đà tiến cho lòng chúng ta cũng như cho phép chúng ta tiếp tục can đảm dấn thân cho Nước Thiên Chúa. Niềm hy vọng đó sẽ làm nẩy nở ước muốn của chúng ta, dạy cho chúng ta biết kiên nhẫn, biết thán phục công trình của Chúa mà nhiều khi mới nhìn thoáng qua, chúng ta không nhận ra hết được cái sức mạnh kỳ diệu của nó. Niềm hy vọng đó cũng sẽ không ngừng kích thích chúng ta trông chờ mọi sự ở Thiên Chúa bằng cách đặt mình trong thế sẵn sàng thực hiện thánh ý của Ngài.
7. Hạt giống.
Một trong những hạt giống kỳ lạ nhất trên thế giới, đó là hạt giống của một loại tre bên Trung Quốc. Nó nằm trong lòng đất suốt 5 năm rồi mới ló chồi non lên trên mặt đất. Trong khoảng thời gian này, người ta phải chăm sóc, phải tưới nước, phải bón phân đều đặn cho nó. Thế nhưng một khi đã trồi lên khỏi mặt đất thì chỉ trong vòng sáu tuần, nó sẽ mọc lên cao tới 5 mét. Các chuyên gia cho rằng suốt thời gian 5 năm trong lòng đất, hạt giống của loại tre ấy đã hình thành một hệ thống rễ phức tạp. Nhờ hệ thống rễ này, mầm non có thể tăng trưởng một cách mau chóng.
Từ hình ảnh trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, hạt giống Nước Trời cũng giống như hạt giống của loại tre Trung Quốc. Nó cần một thời gian dài trước khi trồi lên. Đôi khi thời gian này quá lâu khiến chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu hạt giống Nước Trời được gieo vào tâm hồn ngày nhận bí tích Rửa Tội đã bén rễ chưa? Hay đã bị tội lỗi là như những sỏi đá và gai góc bóp nghẹt mất rồi? Nói một cách thực tế, những điều trên có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Tôi xin thưa có hai ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất đó là chúng ta phải tin tưởng vào Chúa. Ngài đã gieo trồng hạt giống trong chúng ta, Ngài hiểu được điều gì đang xảy ra, đang chuyển biến cho dù chúng ta chẳng hề nhận biết. Ý nghĩa thứ hai đó là chúng ta cần phải kiên nhẫn. Dù Nước Trời xem ra như không phát triển gì cả trong chúng ta, nghĩa là chúng ta dường như chẳng thánh thiện gì hơn trước. Chúng ta đừng nản lòng. Tốt hơn chúng ta nên tiếp tục vun xới hạt giống trong chúng ta bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Mẫu gương kiên nhẫn này chúng ta có thể học được nơi các bậc cha mẹ.
Ai cũng biết rằng việc gầy dựng một gia đình đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và phó thác. Thực vậy, cha mẹ không thể lúc nào cũng có mặt bên cạnh con cái. Vì thế họ phải tin tưởng và phó thác vào chúng. Nếu như thỉnh thoảng sự tin tưởng ấy bị phản bội, thì lúc đó các ngài vẫn tiếp tục tha thứ và tin tưởng vào con cái mình. Hơn nữa, đôi khi cha mẹ thấy con cái mình chậm phát triển, chậm trưởng thành. Vậy phải làm gì? Họ càng phải yêu thương đứa bé hơn và tiếp tục kiên nhẫn đối với nó.
Chúng ta cũng hãy tin tưởng và kiên nhẫn như thế, bởi vì sẽ có ngày Nước Chúa sẽ trồi lên từ tâm hồn chúng ta và phát triển thành một thực tại vinh quang mà muôn đời chúng ta sẽ phải cảm tạ Chúa luôn mãi. Tóm lại, Thiên Chúa đã trồng hạt giống Nước Trời trong tâm hồn chúng ta vào ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Bổn phận của chúng ta hôm nay là phải nuôi dưỡng nó với lòng tin tưởng và kiên nhẫn, qua việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, để rồi đức tin sẽ nẩy mầm, lớn lên và đem lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta.
8. Gieo lời yêu thương – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Malcolm Dolkoff là một cậu bé nhút nhát, dễ bị tổn thương. Cậu có rất ít bạn và luôn phải lủi thủi một mình.
Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn. Loài vật là bạn thân của con người, sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dolkoff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau.
Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo đã cho không hề quan trọng. Đối với cậu, điều quan trọng nhất mà cũng là điều cậu nhớ nhất lại chính là 4 chữ cô giáo đã phê: “Em viết hay lắm!” Chỉ 4 chữ mà cũng đủ thay đổi toàn bộ cuộc đời cậu bé. Trước khi nhận được 4 chữ đó, cậu chưa bao giờ có khái niệm về bản thân hay những điều mình đã làm. Còn sau buổi học hôm ấy, cậu đã chạy thật nhanh về nhà, ngồi ngay vào bàn và bắt đầu viết một câu truyện ngắn, một câu truyện về tất cả những điều cậu đã từng mơ tới và không bao giờ dám nghĩ mình có thể biến những giấc mơ đó thành hiện thực.
Cậu viết ngày càng nhiều hơn và cứ được một truyện cậu lại mang ngay tới cho cô giáo của mình nhận xét.
Nhiều năm trôi qua, Malcolm Dalkoff đã trở thành một nhà văn nổi tiếng thay cho cậu bé tự ti ngày nào. Cậu trở về thăm trường cũ và thăm lại cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu phải cảm ơn cô không phải vì cô đã trở thành một người bạn của cậu mà chính là 4 chữ đầu tiên cô đã từng phê “Em viết hay lắm!”, bởi những chữ ấy đã có thể thay đổi cả một cuộc đời.
Có những lời nói, cử chỉ tưởng như vô tình lại trở thành nguyên nhân thay đổi cho cả một đời người. Biết bao con cái rơi vào sự tự ti mặc cảm khi cha mẹ vô tình lặp lại lời chê trách đối với con. Biết bao con người trở thành hung dữ khi cha mẹ luôn gieo vào tâm trí trẻ thơ những lời nói việc làm chất chứa đầy hiềm khích, bất công. Và ngược lại, biết bao con người đã bẻ gãy ổ khoá tự ti mặc cảm để can đảm vào đời, khi nhận được một sự khích lệ, một sự cảm thông từ những người thân. Biết bao con người đã hoàn thiện nhờ vào gương lành của tha nhân đã gieo vào lòng họ những lời nói, những việc làm tốt. Những lời nói, những việc làm của ta tưởng như vô tình nhưng thực ra nó vẫn âm thầm gieo vào lòng những người chung quanh ta để có thể biến đổi họ theo cách sống của chúng ta.
Cha ông ta vẫn thường nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nói cho vừa lòng nhau không phải để lấy lòng nhau hay lừa dối lòng mình. Nhưng là lựa lời để nói. Nói để xây dựng con người. Nói để giúp họ thăng tiến. Đừng dùng lời nói làm đau lòng người khác, và cũng đừng dùng lời nói để kết án anh em. Một lời nói có thể thay đổi cả đời người. Hãy trao tặng cho anh em những lời nói thật chân tình và đầy ắp yêu thương. Lời nói không mất tiền mua, không phải để chúng ta phung phí bừa bãi, nhưng biết quý trọng từng lời. Lời nói thể hiện nét đẹp văn hoá nơi con người. Hãy biết chắt lọc ngôn ngữ. Hãy làm cho lời nói của ta có giá trị bằng cách biết dùng lời cho vừa lòng nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ra đi gieo vãi Lời Chúa. Gieo trong kiên trì. Dù đêm hay ngày. Người gieo giống luôn gieo vào nhân thế hạt giống của tin mừng, hạt giống của yêu thương và hạnh phúc. Nếu cô giáo của Malcolm Dolkoff không gieo vào lòng cậu bé lòng tin và nghị lực thì không có một nhà văn tài ba. Người Kitô không gieo Lời Chúa thì làm sao có cánh đồng lúa bát ngát bông lúa vàng là tâm hồn các tín hữu?
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống này nảy mần và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết”. Sự kỳ diệu của hạt giống là vẫn âm thầm lớn lên theo quy luật tự nhiên và sẽ có một ngày nó trở thành cây cao bóng cả cho đàn chim trú ngụ. Người Kitô hãy gieo trong kiên trì, gieo với niềm cậy trông để nhờ ơn Chúa lời ta nói, việc ta làm sẽ sinh hoa kết trái nơi môi trường chúng ta đang sống.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn gieo vãi yêu thương trong hành trình cuộc sống của chúng ta, để mỗi bước chân chúng ta đi luôn để lại dấu ấn của yêu thương và hy vọng cho nhân thế. Amen.
9. Hạt cải
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh hạt cải.
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải nhỏ xíu, nhưng nó có thể lớn lên thành cây to cho chim trời tới đậu. Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu như muốn xác định lại lời rao giảng lúc ban đầu: Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Chính Ngài là người gieo hạt giống đầu tiên để hạt giống đó âm thầm phát triển. Ngài nói điều đó với tất cả niềm xác tín, bởi vì đó chính là sự nghiệp của Chúa Cha.
Hơn nữa, nếu đem so sánh những lời giảng của Chúa Giêsu với cả thế giới bao la bát ngát này, thì có lẽ nó còn nhỏ bé hơn cả một hạt cải. Thế nhưng, Tin Mừng vẫn đứng vững và lớn lên từng ngày, đồng thời có biết bao nhiêu người đã được nâng đỡ và ủi an.
Trong niềm tin, chúng ta xác tín rằng Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, mặc dù trên thế giới ngày hôm nay vẫn còn biết bao nhiêu những bất công và tội lỗi. Lời Chúa đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Vấn đề được đặt ra ra cho mỗi người, là chúng ta phải trở nên những hạt giống, được gieo vãi vào lòng cuộc đời, qua những việc làm nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng không kém phần hiệu quả.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã biết cuộc đời thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Cuộc đời ấy cũng như cuộc đời của biết bao nhiêu người khác. Thế nhưng nó mang đậm giá trị Tin Mừng, nên Giáo Hội đã tôn phong chị lên ngang bằng những vị đại thánh khác. Mẹ Têrêsa thành Calcutta, người phụ nữ nhỏ bé và mảnh khảnh, nhưng lại lớn mạnh trong cả thế giới qua những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những kẻ nghèo túng và bất hạnh. Và còn biết bao nhiêu người khác nữa chung quanh chúng ta, họ đang âm thầm làm việc, phục vụ cho những kẻ bất hạnh trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng Nước Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn âm thầm lớn lên, không phải theo nghĩa một lực lượng đối đầu với nước thế gian, như chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nhưng là những thực tại: kẻ què được đi, người mù được thấy, người điếc được nghe và kẻ chết được sống lại, người nghèo khó được rao giảng Tin Mừng.
Hãy tin vào Chúa Giêsu, là người gieo giống, đồng thời cũng là hạt giống đầu tiên được ươm trồng trên mảnh đất nhân loại này.
10. Hạt cải nhỏ nhất – Lm. ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đến Victoria và Vancouver nước Canada, du khách thấy tận mắt một cây thông mọc lâu hơn 300 năm, cao hơn 100 mét, chu vi thân cây dài 9 mét và một cây sống hơn 1.000 năm cao lớn lạ thường. Có lẽ đó là cây cao lớn nhất thế giới. Nhưng hạt thông chỉ nhỏ bằng hạt táo.
Nhìn cây cổ thụ kỳ lạ đó, con người cảm thấy mình quá bé nhỏ. Bé nhỏ về tuổi thọ, bé nhỏ về thân phận mỏng dòn, yếu ớt.
Càng kinh ngạc hơn nữa, nếu con người nhìn hạt lúa, với con mắt khoa học, sẽ thấy nó chứa hàng tỷ tỷ hạt nguyên tử hợp bởi tỷ tỷ hạt li ti nhỏ bằng một tỷ lần milimét chạy quanh một hạt nhân với tốc độ kinh khủng 297.000 km trong một giây đồng hồ. Hạt lúa đó gieo trong đồng ruộng, nảy mầm, mọc lên, trổ đòng đòng thành bông lúa chín nặng trĩu, người ta vui mừng gặt về một mùa lúa bội thu, người ta vẫn không biết ai làm cho nó mọc lên, trổ bông, chín vàng.
Xét cho cùng, tất cả vũ trụ này, chỉ là những hạt li ti như thế thôi, dần dần bành trướng to lớn ra hàng tỷ tỷ tỷ lần. Ai đã gieo thứ hạt giống đó? Ai đã làm nó vô cùng to lớn như thế?
Chẳng biết ai, các bác học chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã ví nước Thiên Chúa giống như những hạt giống đó. Đấng đã làm nên nước Trời thì cũng làm nên hạt giống đó, Ngài biết nó tự đâu có, Ngài đã cho nó mọc lên, trổ bông và chín nặng trĩu hạt.
Thiên Chúa còn gieo một thứ hạt giống lạ lùng vô cùng hơn nữa, thứ hạt giống từ trời gieo xuống đất, đó là Ngôi Lời xuống thế làm người. Thế gian chẳng ai biết Người bởi đâu! như Gioan viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian; thế gian nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người” (Ga. 1, 9-10). Dù thế gian không biết Người, Người vẫn như hạt cải mọc lên lớn hơn mọi thứ, xum xuê cho muôn dân tụ họp, sinh sống dưới bóng mát tình thương của Người. Lời Người, ân sủng của Người, công cuộc cứu thế của Người đang soi sáng và bao phủ khắp muôn dân. Người là đèn sáng, không ai có thể lấy thùng úp lại được, không một thế lực phàm trần nào có thể đè nén được. “Chẳng lẽ mang đèn đến để cho đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải đem đèn đến để đặt trên cao sao?” (Mc. 4, 21).
Do thái cậy mình con cháu Abraham đã ra sức vùi dập ánh sáng Đức Giêsu bằng xuyên tạc, chống đối, đe dọa, bắt bớ, đánh đòn và đóng đanh. Hy lạp tự kiêu khôn ngoan, bài bác, trục xuất Tin mừng Phaolô rao giảng. Rôma hùng mạnh đã tù đầy, kết án, xử tử những tông đồ tha thiết gieo giống cứu độ. Hạt giống nước Thiên Chúa vẫn nảy mầm mọc lên vươn cao, vươn rộng, vươn xa đến tận cùng trái đất và cho đến tận thế.
Người Tây phương chỉ thấy Thiên Chúa đã chết rồi (Nietzsch) mà không biết rằng: “Cha Ta hằng làm việc và luôn ẩn danh” (Deus abscondito). Ngài không nói sống sượng như kẻ kiêu ngạo, Ngài chỉ nói cách khiêm tốn và dịu hiền để ai có tai, có thiện tâm thì nghe rất thấm thía. Kẻ ác tâm, dã tâm, vô tâm chẳng bao giờ nghe được tiếng Ngài mà chỉ thấy chói tai quá!
Người Đông phương xưa, tuy không gần Ngài bằng xương, bằng thịt, nhưng cũng nhìn thấy: “Thiên hành kiện” – Trời hành động kiên cường không ngừng, mà chẳng nói gì “Thiên hà ngôn tai” – Trời không nói bằng miệng, nhưng nói bằng nhiều cách: nói bằng tác tạo trời đất muôn vật, nói trong lương tâm con người: “Thiên mệnh chi vị tính”, nói bằng ban phép tắc cho muôn vật: “Duy thiên sinh dân, hữu vật, hữu tắc”. Vì thế con người phải biết luôn luôn tìm ý Ngài để tuân theo. Không biết tìm ý Trời thì không đáng là quân tử, làm con Trời: “Bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử”.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta rất nhiều: Nói xa qua công việc tạo dựng và bảo tồn muôn vật, nói gần qua Hội thánh, qua các bài giáo lý, Tin mừng, ơn thánh và kinh nguyện.
Chúng ta có nghe được tiếng Người không? Có thiện chí tiếp nối công việc của Người đã làm không? Chúng ta có sống theo đời sống khiêm tốn, dịu hiền và thương yêu như Người không? Chúng ta có biết gieo những hạt giống tốt vào trong hồn các bé thơ để sau này nó sẽ tự nảy mầm, lớn lên và sinh hoa kết quả nặng trĩu không? Nhiều bà mẹ đã biết gieo vào lòng tuổi thơ những hạt giống tốt như kêu tên: Giêsu Maria Giuse, hay đọc kinh Kính Mừng. Nhờ những hạt giống nhỏ bé đó đã mọc lên những cây vĩ đại như Bernadette, Lucia, Giaxinta và Phanxicô để hàng triệu người được đến nương ẩn bóng mát ơn phúc của Lộ Đức và Fatima.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian như hạt giống bị vùi dập, chết đi trong lòng đất nhưng không bị hủy diệt mà đã sống lại vinh sáng. Xin cho chúng con cũng được sống lại sau những cái chết vì đau khổ dập vùi.
11. Công việc tông đồ – Cố Lm. Hồng Phúc
Tiên tri Ezechiel nhìn thấy những cảnh xáo trộn, thay ngôi đổi chủ, xảy ra tại Giêrusalem, trước ngày thành phố bị hủy, đã tiên báo về tương lai của dân Chúa. Mặc dầu bị lăng nhục tủi hổ… nhưng hãy trông cậy. Thiên Chúa sẽ cho mọc ra một chồi non, nó sẽ đâm chồi kết quả và trở thành cây hương nam vĩ đại. Lời hứa ấy tiên báo rằng Đức Messia sẽ đến, sẽ giữ lời Ngài đã phán: “Ta là Giavê, Ta sẽ hạ cây cao xuống và cho cây thấp mọc lên.”
Lời ngôn sứ ấy đưa ta đến dụ ngôn Phúc Âm về hạt lúa gieo xuống lòng đất mà Marcô một mình ghi lại. Chúa phán: Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất…, hạt giống tự nó đâm mầm và mọc lên thế nào, nào ai biết? Thì Nước trời cũng giống như vậy. Hạt giống Lời Chúa được rao giảng bên ngoài, sức tác động của Chúa hoạt động bên trong, thế là Phúc Âm sẽ sinh hoa kết quả. Nhưng, Chúa thấy trước, lời của Ngài, sứ vụ của Ngài sẽ gây kết quả từ từ, không gấp gáp, không gây chấn động. Vậy hãy nhẫn nại, hãy đợi chờ, như người nông phu đợi chờ hạt giống nẩy mầm sinh hoa.
Thánh Vinh Sơn Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ, không ai hay biết”. Chúng ta không được “sốt ruột”, đừng ai tự cho mình là cần thiết, không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thủy. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy việc Tông đồ của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất sẽ đâm chồi nẩy mộng. Và để kết luận, Chúa phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa?... Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.
Dụ ngôn mang lại cho chúng ta nhiều bài đọc. Trước hết, Nước Thiên Chúa âm thầm lớn mạnh, tuần tự nhi tiến, dưới sự thúc đẩy của Chúa. Nhưng sự tiến triển cũng đòi hỏi sự góp phần tích cực của chúng ta. Đừng ngã lòng khi không thấy kết quả trước mắt. Sự lỗi lầm lớn của người Tông đồ là dựa trên tài cán nghị lực của ta hơn là vào sức mạnh của Chúa. Nhưng hãy cố gắng hết sức ta, làm phận bé nhỏ của ta vì yêu mến. Và kết quả sẽ đến vào lúc thật bất ngờ nhất!
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương, nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứ hai: Các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là Công giáo cả.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?
- Thưa Cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật bản đã tái sinh.
“Nước Trời như hạt cải bé nhỏ nhất khi gieo xuống lòng đất, nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, chim trời đến núp bóng được”.
12. Hạt giống cây tre tầu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của cây tre Trung Quốc. Hạt giống này nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
****
Hạt giống Nước Trời cũng tương tự như hạt giống cây tre Trung Quốc. Cần một thời gian dài "vùi sâu dưới lòng đất", điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Khi hạt giống nẩy mầm lớn lên thành cây, nó phải đương đầu với tính khí thất thường của thời tiết, phải đối phó với cơn giận dữ của giông tố. Đây là lúc phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Người đến thời viên mãn, bất chấp những cản trở của con người. Vì thế, chúng ta không ngừng gieo vãi Lời Chúa, cho dù không thấy hạt giống đang âm thầm phát triển.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung Quốc. "Hạt bé nhất" lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Người biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh "âm thầm lớn lên" với bao gian nan thử và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Người dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Người không biết đến bao tội ác đang lan tràn thế giới. Dường như Người không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Người.
Nhưng với niềm tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong Ngày Cánh Chung sẽ tới.
Có thể nói Đức Giêsu cũng đã gieo hạt giống Đức tin vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Người cũng đang chờ đợi hạt giống ấy mọc lên và tăng trưởng: qua những lời cầu nguyện âm thầm, qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích, và qua đời sống chứng nhân của mỗi người. Đây là việc đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài và lòng trung tín suốt đời. Đức Giêsu nói: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt.10,22).
Wendell Holmes cho chúng ta một bí quyết: "Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có lúc phải lội ngược dòng. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, đừng neo thuyền lại".
Thánh Phaolô dạy: "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện" (Rm.12,12). Ngài cũng đã nêu gương bền chí: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" (2Tm.4,7).
***
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian như hạt giống chôn vùi dưới lòng đất nhưng Chúa đã sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết âm thầm chết đi cho tội lỗi, để được lớn lên trong nguồn ơn Thánh Chúa. Amen.
13. Tin tưởng và hy vọng vào sức mạnh của Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật XI thường niên B, trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu. Lời Chúa mời gọi chúng ta sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta là vô cùng vô tận, một tình yêu nhập thể (gieo vào thế gian) đối thoại với con người, khiến con người tin tưởng, kiên nhẫn, phó thác trong tin yêu vào Chúa là nguyên nhân mọi sự (x. Ed 17, 22-24), là sức mạnh, là niềm vui và là động lực, giúp con người nhận được ơn của Chúa, và sống tốt đời sống làm con Chúa.
Chủ nhật này, thánh Marcô, người con tinh thần của Thánh Phêrô thuật lại cho chúng ta hai dụ ngôn tuyệt vời, giàu ý nghĩa của Chúa Giêsu: dụ ngôn hạt giống tự mình mọc lên và dụ ngôn hạt cải (x. Mc 4, 26-34). Qua những hình ảnh nông nghiệp bình dân ấy, Chúa trình bày mầu nhiệm Nước Trời, và mời gọi con người hy vọng và tin tưởng nơi Chúa là Thiên Chúa quyền năng (x. Ed 17, 22 – 24).
Có người gọi dụ ngôn này là “hạt giống mọc lên một mình”. “Người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa” (Mc 4, 27). Thực tế, hạt giống không có tự mình mọc lên được như Phaolô nói: “Tôi trồng, Apôllô tưới, những chính Thiên Chúa cho mọc lên” (1Cr 3, 6). Một khi hạt giống được gieo vào lòng đất, tương quan giữa hạt giống với đất được thiết lập, một chuỗi những kỳ bí vô hình tuyệt vời bắt đầu, quá trình nảy mầm sẽ xảy ra, nếu như nhà nông không để ý đến những gì ông đã gieo và không ai quan tâm đến hạt rơi vào thửa đất.
Đây là một trong những dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Mưa hay nắng, các thực tại thần linh được gieo trong nhân loại và chắc chắn mỗi ngày một triển nở, sự yếu đuối của chúng ta là sức mạnh của hạt giống. Hạt giống Chúa Giêsu Con Thiên Chúa được gieo vào mảnh đất nhân loại chúng ta.
Nước Thiên Chúa được sánh ví như hạt cải với sự lớn mạnh của nó... Liệu tất cả những người tin có hy vọng thế không? Và các tín hữu có trông đợi như vậy không? Phải chăng “những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm, hết thảy là những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người sao?” (1 Cr 2, 9) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người” (1Cr 1, 25), nên điều nhỏ nhặt tốt lành của Chúa cũng lộng lẫy hơn sự bao la của thế giới.
Chúa Giêsu là Nước Trời. Theo cách thức của người gieo hạt, Người đã được gieo vào lòng đất thân xác Đức Trinh Nữ Maria. Người đã lớn lên và trở thành cây che phủ toàn thể địa cầu. Sau khi bị nghiền nát bởi cuộc Thương Khó, trái cây sinh ra đủ mọi hương vị, phù hợp với khẩu vị và tỏa hương thơm cho mọi vật sống chạm đến Người. Vì, như hạt cải, sự kiện hạt bị nứt ra chính là mạnh của nó. Tương tự như vậy, Chúa Kitô muốn thân mình được nghiền tán ra để sức quyền năng Thiên Chúa được thể hiện trong thế gia... Chúa là vua, là nguyên lý của mọi quyền hành là Nước Trời, vì tất cả vinh quang của nước ấy ở nơi Chúa.
Lời Chúa Giêsu: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được” (Mc 4, 30-32). Với ngôn ngữ văn chương của người Do thái, các loài chim tượng trưng cho các dân ngoại và những người nước ngoài đến ẩn náu với số lượng lớn. Tiên tri Êdêkien đã nói rất chí lý: “Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi Israel, nó sẽ đâm chồi, kết quả, và trở thành cây hương nam vĩ đại; các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ dưới tàn nó” (Ed 17, 23). Hình ảnh của hạt cải lớn lên trở thành nơi cho “chim trời” ẩn núp không có mục đích gì hơn là giúp cho chim trời sống thoải mái và bình an! Hình ảnh này nhấn mạnh đến Nước Thiên Chúa ở trong chúng ta, và hạt cải nhỏ bé sẽ trở thành một cái cây lớn, trong đó chim trời đến làm tổ, ám chỉ tình yêu vô cùng của Thiên Chúa được ban nhưng không cho chúng ta. Vương quốc của Thiên Chúa sẽ lan rộng đến tất cả các quốc gia trên khắp thế và người ta tìm nơi trú ẩn nơi một Kitô giáo tốt lành.
Ơn gọi của Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô không phải là để trở nên mạnh mẽ. Trở nên vĩ đại, không phải là ơn gọi của Chúa Kitô. Giáo hội không tìm cách trở thành bình đẳng của các vương quốc thế trần: đó không phải là sứ mạng của Giáo hội, càng không phải là chứng nhân mà Thiên Chúa mong muốn nơi Giáo hội. Dụ ngôn nói rằng chim trời đến ẩn núp. Đây không phải là sự bành trướng nhưng là sự hiếu khách. Nước Trời không đến để áp đặt lên con người, nhưng đón nhận họ. Trong cây sự sống hoặc cây mà cho phép loài chim đến đậu rồi bay đi và đôi khi được đón nhận ở đó, cho đến ngày làm tổ, đẻ ấp trứng và sống hình thành.
Trong bước đường thiêng liêng, chúng ta thường có thói quen mơ tưởng những điều được coi là vĩ đại. Và rồi thất vọng. Không, chúng ta phải tin tưởng và hy vọng. Niềm hy vọng nơi chúng ta qua đức tin và lòng mến, cho phép chúng ta khám phá ra Thiên Chúa bao bọc chung ta, khiến chúng ta không nản lòng hay thất vọng trong việc truyền giáo, nhưng giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn dắt mọi sự đến thành toàn mà Ngài đã khởi đầu. Dù điều gì xảy ra với chúng ta đi chăng nữa, thì đời chúng ta đã được đồng hành bởi lời hứa đáng tin này: “Nếu ta cùng chết, ta sẽ cùng sống! Nếu ta chịu đựng, ta sẽ đồng trị. Nếu ta chối Ngài, Ngài sẽ chối ta” (2Tm 2, 11-12).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con đặt tin cậy và hy vọng nơi Chúa. Amen.
14. Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây?
(Suy niệm của Nguyễn ngọc Thế SJ)
* Vài hàng sơ lược
Trước đoạn này, Chúa Giêsu cũng kể về hai dụ ngôn khác: Dụ ngôn người gieo giống (4, 1-20) và dụ ngôn cái đèn, đấu đong (4, 21-25). Về hài dụ ngôn trong đoạn này (26-29 và 30-32) Chúa Giêsu dùng để rao giảng về Nước Thiên Chúa.
Trong đoạn phúc âm này có thể chia ra làm ba phần: (1) Từ câu 26-29: Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên; (2) câu 30-32: Dụ ngôn hạt cải; (3) câu 33-34: Kết luận về các dụ ngôn.
Ở đoạn (1) chúng ta có thể nhận ra được trọng tâm chính yếu hướng về việc hoa màu sinh ra. Nhưng cần phải nhấn mạnh thêm là, tự động sinh ra (câu 28). Tất cả những câu trước và câu sau gắn liền và hương về câu trọng tâm này.
Trong khi đọan (1) nhấn mạnh đến việc hạt giống tự mọc lên, thì ở đoạn (2) trọng tâm hướng về việc hạt cải nhỏ nhất, nhưng khi mọc lênm thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ (câu 31 và 32). Đây là một sự tương phản rõ rệt. Ngoài ra, cả ba dụ ngôn: dụ ngôn người gieo giống (1-20) và hai dụ ngôn trong đoạn này đều có một điểm chung được nhấn mạnh và là hạt giống tự mọc lên, Nước Thiên Chúa sự tự đến vào thời gian nhất định, con người không có thể làm gì, ngoài việc gieo hạt xuống đất và chờ đợi.
Đoạn (3) là kết luận về các dụ ngôn. Điều được nhấn mạnh ở đây là cách thức rao giảng của Đức Kitô: “Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn“ (câu 34)
* Suy niệm
26 Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất.27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.
Dụ ngôn bắt đầu bằng câu: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện...” Ở đây Nước Thiên Chúa chính là chủ đề chính yếu mà Đức Giêsu muốn rao giảng, muốn cách nghĩa cho mọi người hiểu. Vậy chuyện mà Ngài dùng để hướng về Nước Thiên Chúa là chuyện gì? Đó là chuyện một người vãi hạt giống xuống đất (câu 26b). Trong câu này, Rudolf Pesch đã chú ý một điều là Mác-cô sử dụng động từ gieo vãi trong thì quá khứ, aorist (ba,lh - từ động từ ba,llw - gieo vãi) Như vậy hành động của người gieo giống được kết thúc ở đây. Điều này có nghĩa gì? Điều quan trọng giờ đây là việc lớn lên của hạt giống được diễn tả rất cụ thể. Đó là trọng tâm cần được chú ý.
Trong câu 27 hình ảnh một người nông dân “lười biếng“ được diễn tả qua một vài hành động: “ngủ... thức, không biết”. Nhưng có thực là anh nông dân này lười không? Phải chăng công việc của anh đã xong, giờ đây thì anh được thảnh thơi? Theo Adolf Pohl, thì việc gieo vãi hạt giống của anh nông dân không có ý nghĩa là vất bỏ, là quẳng đi không cần chú ý tới. Cũng giống như ở câu 3, Chúa Giêsu kể về người gieo giống: “Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống“, nhưng ở đây trong câu 27 này thì hình ảnh người nông dân được kể khác. Trong câu 3 thì việc gieo giống được kể rất chi tiết, còn ở đây thì hướng về thời gian sau khi gieo giống. Vì vậy mà hành động có tính cách bị động “ngủ” của người gieo giống ở đây được diễn tả như một hành động hướng về việc hạt giống mọc lên. Một cách nào đó, anh ta đã thi hành trách nhiệm của mình xong rồi, giờ đây thật bình tâm và thanh thản, anh ta tiếp tục sống và làm việc như mọi ngày, ăn ngủ, thức và làm việc cần làm. Còn chuyện hạt giống đâm chồi và mọc lên là chuyện sẽ đến và chuyện này đã có người khác lo rồi. Vì thế, nếu nói anh nông dân lười biếng thì tội nghiệp cho anh ta, và cũng không thể nói rằng anh ta chẳng màng gì đến việc hạt giống mọc lên thế nào. Như vậy, ở đây Chúa Giêsu muốn diễn tả một điều rất hay mà thánh Phao-lô đã nêu bật: “Vậy A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3, 5-7) Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng và Ngài cũng muốn ban tặng, nên người nông dân đã hiểu được điều này, vì thế người nông dân chẳng lo lắng, chẳng phiền muộn, mà ngược lại anh vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày. Điều này có lẽ cần giúp chúng ta suy nghĩ lại chính niềm tin của mình. Chúng ta có ý thức về sức mạnh tiềm ẩn của Thiên Chúa không? Chúng ta có tin tưởng vào hành động và ảnh hưởng của Ngài không? Hay chúng ta chỉ tin vào sức mình mà thôi, để rồi trong mọi chuyện chúng ta ra sức làm, để đạt được thành công mỹ mãn và hãnh diện về điều đó? Đâu rồi sự hiện diện sống động của Thiên Chúa? Ngài có chỗ trong đời sống chúng ta không? Còn nếu cố gằng hết sức mình nhưng vẫn thất bại thì sao đây? Lúc đó chúng ta mới đi tìm Thiên Chúa sao?
Ngoài ra, việc người nông dân vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày diễn tả một điều: Thời gian cứ xoay vần như vậy có nghĩa là, đây là thời gian mà hạt giống cũng được “vần xoay”, cũng đang được cho lớn lên, để rồi đến một lúc nào đó sẽ nẩy mầm thực sự. Đó là cao điểm của dụ ngôn, cao điểm của ân sủng và tình yêu. Và nhìn kìa:
28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
“auvto,matoj – Tự động” có nghĩa là không có nguyên nhân rõ rệt, và qua đó nói lên việc mọc lên của hạt giống là hành động lạ lùng của Thiên Chúa đã làm. Ba hình ảnh rất sống động nói lên được việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm: “cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt“. Như vậy, việc hạt giống mọc lên và phát triển người gieo giống biết tới (câu 27), mà cần gì phải biết tới những công việc Thiên Chúa làm. Ngài luôn có mặt và làm những việc cần làm, để sự phát triển không chỉ nở hoa thơm, mà còn phải được trổ sinh trái chín trĩu nặng cành cây. Vâng, không có mặt người gieo giống, nhưng có Thiên Chúa hiện diện. Vậy là tốt lắm rồi!
Nhưng việc là lùng Thiên Chúa làm ở đây theo Rudolf Pesch không gạt bỏ con người và những gì con người làm ra rìa. Có lẽ điều con người có thể làm là gieo hạt, là ưng thuận, là kiên nhẫn đợi chờ, là trung thành với Đấng là Chủ Đất Trời, là tin tưởng và cậy trông hoàn toàn, đến nỗi mọi chuyện đều do Thiên Chúa làm, phần mình chỉ góp một chút thiện chí nhỏ nhoi. Vâng, thái độ rất căn bản mà nhà nông cần có là kiên nhẫn đợi chờ, bình tâm và tín thác hoàn toàn (ss. Giacôbê 5,7)
Giờ đã đến. Giờ của Thiên Chúa, giờ của tình yêu đã đến. Đây là sứ điệp trọng yếu của Đức Kitô rao giảng. Từ cái không không trở thành điều tuyệt hảo, từ một hạt giống nhỏ nhoi trở thành đồng lúc chin vàng mơn mởn với hương thơm lan tỏa. Và giờ đây:
“29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
Vâng, đợi chờ đã đến đích. Kiên nhẫn và tin tưởng giờ đây được thưởng rồi: “Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín. (Gioen 4, 13) Tiên tri Gioen đã kêu lên như thế, nhưng trong ý nghĩa của tòa án chung thẩm, nơi Thiên Chúa sẽ kết án (xem thêm Gioen 4, 9-14). Còn với Giêsu tiếng kêu này không hướng về kẻ thù nào cả. Tiếng kêu gọi hãy cầm liềm hái ra gặt là tiếng kêu mừng vui về mùa gặt đã tới, vì cành lúa đã trĩu nặng lắm rồi. Vâng, mừng vui về ơn giải thoát của Gia-vê Thiên Chúa, như tiên tri Isaia nói: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng them nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt.” (Is 9,2) Trở về lại với điểm quan trọng của dụ ngôn. Đó là hạt giống “tự động” nảy mầm và lớn lên, qua đó chúng ta nhận ra rằng, niềm vui về mùa gặt chính là món quà lớn lao của Thiên Chúa. Vâng, món quà về hạt lúa được gieo vào trong lòng đất tối tăm, nhưng sau đó tự động nảy mầm, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Đây chính là công việc lạ lùng Thiên Chúa làm trước mặt chúng ta. Trong ý nghĩa này, theo Adolf Pohl, thì chính Giêsu cũng sống trong niềm tin tưởng trọn vẹn vào sự “tự động” và Ngài luôn hướng về niềm vui về mùa gặt sẽ đến trong thời cao điểm. Hành động lạ lung của Thiên Chúa xảy ra vào ngày thứ sáu tuần thánh và ngày Phục Sinh. Từ chương 8, trong Mác-cô, Giêsu đã từ từ loan báo hành động lớn lao này của Thiên Chúa. Đó là cái nhìn Kitô học trong dụ ngôn này.
Theo cái nhìn Kitô học luôn là hiệu quả trong nhãn quan của Giáo Hội học. Vâng, theo Adolf Pohl, thì với dụ ngôn này Giêsu đã đặt cộng đoàn của Ngài trong tâm tình của Dacaria chương 4, câu 6: “Không phải nhờ thế lực, cũng chẳng phải nhờ sức mạnh mà nó hoàn thành công việc Ta giao phó, nhưng là nhờ thần khí của Ta, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.” Vâng, điều xảy ra này cộng đoàn và các môn đệ của Giêsu không thể tự mình nài công vất vả để làm ra và tạo nên, mà họ chỉ có thể cầu xin, mở lời ngợi ca, làm chứng tá, và đôi khi phải đau khổ nữa.
Thực, một môn đệ đích thực không muốn những gì anh ta không thể làm. Anh ta không muốn tự mình xây lên Thiên Đàng. Đây chính là điểm mà chúng ta cần phải suy niệm sâu sa. Vâng, trong chính công việc truyền giáo, rao giảng tin mừng, làm chứng tá, xây dựng cộng đoàn hay dòng tu, ai ai trong chúng ta cũng hăng say, cũng ra sức. Đó chính là điểm son của lòng nhiệt thành và thiện chí. Nhưng nếu không khéo, thì chúng ta quên đi rằng, chúng ta chỉ là người gieo giống mà thôi. Còn việc hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết trái là của Chúa. Vâng, điều cần làm vẫn phải làm, đoạn đường cần đi vẫn phải đi, như anh người môn đệ đích thực, anh ta đã đi con đường mình cần đi rồi, thì với tất cả lòng khiêm tốn, anh ta dừng bước, và kiên nhẫn đợi chờ. Vâng, với lòng khao khát về Nước Trời sẽ đến, tình yêu sẽ nở bông lúa chín vàng nặng trĩu. Và khi mùa gặt đến rồi, anh ta với tất cả tấm lòng biết ơn sẽ mở lời tung hô Thiên Chúa, chứ không tự tung hô mình:
“Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!
ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126, 3)
30 Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?
Chúa Giêsu mở đầu dụ ngôn hạt cải với hai câu hỏi. Qua đó, Ngài như mời gọi người nghe đi vào câu chuyện với Ngài. Vâng, Nước Thiên Chúa được ví với cái gì?
31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Nước Thiên Chúa, một đỉnh cao chót vót, nhưng giờ đây trở nên nhỏ bé nhất. Đấng vĩ đại trở thành Kẻ bé nhỏ nhất. Một hình ảnh thật đặc biệt chứa đựng sự táo bạo. Vâng, tình yêu có thể thúc đẩy người ta làm những hành động ngược đời, chẳng logic chút nào trong đôi mắt của cuộc đời. Ờ đây nếu chiêm ngắm tường tận Giêsu, thì chúng ta sẽ nhận ra được cái ngược đời này. Vâng, ngược với cuộc đời, nhưng xuôi với Thiên Chúa. Và ở đây hạt cải mà Giêsu nhắc đến, theo Joachim Jeremias thì trong đôi mắt con người, hạt cải nhỏ như lỗ kim, nhỏ nhất trên mặt đất (câu 31), đến nỗi người ta ít chú ý đến.
Trong sự so sánh này, theo Joachim Jeremias thì điều mà Giêsu muốn so sánh với Nước Thiên Chúa, là ở phần sau. Nghĩa là, từ hạt cải nhỏ nhất, cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ. Những cây cải này theo Jeremias, ở bờ hồ Giê-nê-gia-rét, cao từ 2,5m đến 3 m. Và cây cải này có nhiều cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Cây cải này với Adolf Pohl như là Cây của vương quốc Thiên Chúa mọc lên ngay tại chỗ hạt giống nhỏ bé được gieo, và người người đã từng đi qua nhưng chẳng màng nhìn đến. Giờ đây, chim trời tìm đến chú ẩn. Chim được nhắc ở đây không còn là loại chim biểu tượng cho sự dữ mà Mác-cô nhắc đến trong câu 4: “Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất.” Loài chim ở đây liên hệ với loài chim mà Êdêkien nhắc đến, biểu tượng cho tất cả mọi dân tộc: “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ.” (31,6) Vâng, theo Êdêkien thì làm tổ trên cành cây, còn theo Mác-cô thì làm tổ dưới bóng cành cây. Bóng cây ở đây không phải là bóng của thần chết, mà là bóng mát che đầu, bóng che chở mọi người trước ánh nắng chói chang nóng nực kia.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì hình ảnh hạt cải này cũng nói lên sứ mạng của Giêsu. Một sứ mạng thật mầu nhiệm. Vâng, đó là mầu nhiệm về hành động yêu thương của Thiên Chúa đang sống động, đang bao trùm và ấp ủ thế giới này. Hành động của Thiên Chúa được thể hiện nơi Người tôi trung chẳng là gì, và cũng chẳng có nơi gối đầu, trong khi chim trời có tổ để ở. Qua chính sự dấn thân, việc làm và lời rao giảng của Ngài, mà hạt giống là Nước Trời được gieo vào lòng đất. Không chỉ dừng ở đấy, Người tôi tớ này bị hành hạ và đày ải, bị bắt bớ và kết án, bị đóng đinh trên thập giá và chết đi. Nhưng cái chết không thể thẳng được Ngài. Hay cái chết là điều cần thiết. Vâng, như hạt lúa mì cần phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái, thì Giêsu cũng cần chết đi, để rồi từ đó mà Ngài đã đem lại cho nhân loại Cây Cải thật lớn với cành lá xum xuê, với bóng mát che đầu. Vâng, nơi đây dưới cây cổ thụ này, chim trời thích tìm đến, và mọi người ai tìm tới sẽ tìm thấy nơi gối đầu, tìm thấy quê hương và ngôi nhà để trú ẩn. Vâng, trú ẩn cả cuộc đời. Theo Rudolf Pesch, thì đây chính là ý nghĩa của động từ theo tiếng Hy-lạp: kataskhnou/n (kataskhno,w) – trú ẩn, làm tổ cả cuộc đời trong vương quốc Nước Thiên Chúa.
Vương quốc này theo Rudolf Pesch được tiềm ẩn trong cộng đoàn, trong Giáo Hội. Vâng, Giáo Hội chính là người có trách nhiệm gìn giữ chỗ cho Vương Quốc Thiên Chúa. Vâng, trong Giáo Hội nhỏ bẻ và bất toàn này Cây Vương Quốc rất thánh và rất huy hoàng đang ẩn mình. Như vậy, cây cải lớn lao này là biểu tượng cho vương quốc vĩ đại và mạnh mẽ, trong đó mọi người được trú ẩn, được chở che. Trong sách của tiên tri Edêkien chúng ta đọc được hình ảnh này:
“ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót,
Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non;
chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi.
Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên nó,
và ẩn thân dưới bóng lá cành.” (17, 22-23)
Tóm lại ý nghĩa của dụ ngôn này theo Jeremias là: Từ sự bắt đầu nhỏ bé nhất, từ cái không không chẳng đáng nhìn trong đôi mắt con người, Thiên Chúa đã làm nên vương quốc vĩ đại, bao la và mạnh mẽ của mình. Trong vương quốc này người người, nhà nhà của của thế giới được phép trú ẩn và sống dồi dào.
33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe.34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Đây là phần kết luận về các dụ ngôn trong đoạn này của Mác-cô. Ở đây từ ngữ “Lời” gắn liền với từ vựng “Lời” được nhắc đến 8x trong đoạn trước đó, từ câu 14-20. Giêsu chính là người đi gieo giống. Lời chính là Sứ Điệp, là Tin Mừng, là lời kêu gọi về sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa trong chính Con Người Giêsu và những gì Ngài làm. Nhưng sứ điệp này Giêsu trình bày một cách gián tiếp, không bao giờ trình bày một cách trực tiếp. Cách thức cổ điển về việc trình bày gián tiếp là các dụ ngôn. Nhưng dụ ngôn không chỉ là hình thức rao giảng của Giêsu, mà còn là lời dạy dỗ (xem Mc 4, 1tt), hay còn là lời tiên tri, là những lời dùng trong lúc tranh luận, là lời hướng dẫn mang tính cách luân lý. Như vậy Giêsu không bao giờ nói về chính Ngài một cách trực tiếp và thẳng thẳn cho người nghe, như cách Ngài nói với các môn đệ của mình, như trong Mc 8, 31-32 về cuộc thương khó của Ngài.
Nhưng tại sao Giêsu lại không nói rõ ràng và thẳng thắn cho dân chúng? Lý do không nằm ở nơi Ngài, mà nơi dân chúng. Vâng, Ngài rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Ở đây chúng ta nhận ra rõ ràng nghệ thuật giáo dục của Giêsu. Hơn nữa, nếu Giêsu nói trực tiếp và rõ ràng, thì có thể sẽ đem lại một bầu khí áp đặt. Hơn nữa, lời rao giảng trực tiếp cũng có thể đưa tới tình trạng là dân chúng sẽ ùa vào và trở thành một tập thể không tin tưởng vào Ngài và chống lại Ngài, vì họ hay một vài người trong họ không hiểu những gì Ngài giảng dạy.
Như vậy, lời rao giảng theo tính cách tượng hình, dùng dụ ngôn … là cách thức dễ dàng đi vào lòng người, dễ dàng đi vào tập thể nhất. Hơn nữa, dụ ngôn Giêsu dùng lại liên hệ rất chặt chẽ với đời sống thường ngày của dân chúng nữa chứ. Vì thế, Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn.
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết. Với nhóm môn đệ của mình, những người đã hiểu Giêsu một cách nào đó, thì Giêsu không sợ phải giải thích nhiều hơn hay nói thẳng ra rõ ràng. Có lẽ Giêsu đã biết chắc rằng, nhóm môn đệ này, khi nghe Lời giảng dạy trực tiếp sẽ không chống lại Ngài và trở thành những kẻ không tin vào Ngài. Ngoài ra, những gì các môn đệ được nghe trực tiếp cũng là một ân sủng: “Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn” (câu 11)
15. Giáo Hội là mầu nhiệm – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày hôm nay Chúa Giêsu đã diễn tả một chân lý mà tất cả chúng ta đều nhận biết, ít nhất là qua cuộc suy niệm. Sau khi hạt giống đã được gieo vào trong đất, nó phát triển ra thành một mùa gặt lớn lao. Chỉ với một ít nước, ánh sáng mặt trời và một ít kiên nhẫn thì một sự tăng trưởng kỳ diệu đã diễn ra.
Những điều đó xảy ra thế nào chúng ta không biết. Đây là một sự kiện kỳ diệu, khi một bụi cây được cắt tỉa, một số cành bị cắt đi, nó thực sự trở nên sung mãn và sinh được nhiều hoa trái.
Đó là một mầu nhiệm trong tự nhiên mà có thể được miêu tả lại nhưng không thể cắt nghĩa. Chúng ta có thể nói huyên thuyên rằng những gì sẽ bay lên hoặc phải rớt xuống, nhưng chúng ta không biết vì sao lại có trọng lực nhưng chỉ thấy những việc đó diễn ra. Vì sao mọi vật chất đều được kéo đến trung tâm trái đất mà không chuyển đi từ đó? Không người nào thể có hiểu một cách hoàn toàn về những điều này.
Chủ ý của Chúa Giêsu không phải dạy về một bài học canh nông hoặc vật lý, nhưng muốn chúng ta suy nghĩ về một mầu nhiệm sâu hơn, mầu nhiệm đó là sự ngự trị của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rằng, việc ngự trị của Thiên Chúa thì giống như hạt cải, nó có thể lớn lên như một cây lớn. Chúng ta có thể sẵn sàng thấu suốt chân lý mà Ngài đã so sánh. Giáo Hội đã bắt đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ ở Giêrusalem. Từ nhóm nhỏ đó đã trải dài lên phía bắc của Antiôkia và tiếp đó là băng qua Địa trung Hải để đến Rôma, xuyên qua Châu Âu và dần dần lan ra cả thế giới.
Tất cả những điều này đã xảy ra thì không mầu nhiệm hơn sự tăng trưởng của một hạt giống trở thành một cây lớn. Tuy nhiên một mầu nhiệm sẽ không chấm dứt từ đó. Mầu nhiệm không phải là một chân lý mà chúng ta không biết một tí gì. Mầu nhiệm là một chân lý mà trong đó chúng ta có thể biết về mầu nhiệm đó là Giáo Hội, là điều mà Chúa Thánh Thần đang thực hiện. Đời sống của rau cỏ thảo mộc cần ánh sáng và nước để tăng trưởng. Giáo Hội cũng cần Chúa Thánh Thần. Sau ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã được gởi đến trên Giáo Hội, Giáo Hội đã bắt đầu tăng triển và lan rộng.
Công trình này của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội sẽ không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Chính Chúa Giêsu đã thụ thai trong cùng lòng Mẹ Maria, bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta kêu cầu Chúa Cha: “Xin Thánh Thần của Người ban ơn xuống trên chúng con và làm cho chúng con nên thánh và chúng con xin Thánh Thần ngự trị trên những lễ vật này và làm cho chúng nên thánh để chúng trở nên cho chúng con là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Tiếp đó, chúng ta cầu xin cho tất cả chúng ta được thông dự vào Mình và Máu Chúa Kitô và để cho tất cả chúng ta được hiệp nhất bởi Chúa Thánh Thần. Sự hợp nhất này là Giáo Hội, là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Thánh Thần đã hình thành Đức Kitô trong dạ của Mẹ Maria, Người đã tiếp tục hình thành Đức Kitô trong Thánh Thể, cũng như trong Giáo Hội, Giáo Hội này là Giáo Hội hoàn vũ và chúng ta gọi là Công giáo, bởi vì nó đã đạt sự thân mật với mọi người nhân loại. Thánh Thần giống như sức mạnh của trọng lực lôi kéo tất cả mọi người đến trung tâm là Đức Kitô.
Để trở thành một người Công Giáo là suy nghĩ và nhận biết rằng, chúng ta là thành phần của Giáo Hội và Giáo Hội đó đã được thông truyền qua các thế kỷ do chính Chúa Kitô và bây giờ lan rộng khắp trái đất ở mọi nơi mọi chốn. Giáo Hội dù là hoàn vũ vẫn không hoàn hảo, chúng ta phải chấp nhận điều đó. Sự yếu đuối và lầm lẫn, là thân phận của chính chúng ta và những kẻ khác ở trong Giáo Hội, nhưng điều đó sẽ không bao giờ làm cho chúng ta nhát đảm. Như một bụi cây sẵn sàng chịu tỉa xén, để trở nên mạnh mẽ và tăng trưởng mạnh hơn thì Giáo Hội cũng như vậy, cũng cần phải thống hối và canh tân để cho những công trình của Chúa Thánh Thần phát triển. Quả thật chúng ta được đặc ân là thành phần của một Giáo Hội Công Giáo lớn lao này.
16. Hạt giống âm thầm.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người ngoại giáo, nên sau bài giảng cha tươi cười hỏi:
- Anh chị em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có Đức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứa hai: Các ông có vâng lời và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình khiết tịnh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công Giáo cả.
Cha Petijean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bây lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo, hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội Thánh sai đến không.
Kể từ đó, Giáo Hội Nhật Bản được tái sinh sau 200 năm cấm đạo. Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng đất Nhật Bản từ 200 năm trước vẫn âm thầm nẩy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả.
Sự kiện lịch sử này đưa chúng ta đến hai dụ ngôn về hạt giống trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên bằng cách nào, thì người ấy không biết. Nước Thiên Chúa cũng giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế giới. Nhưng gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Hai dụ ngôn đều cho thấy đây là Nước của Thiên Chuá, chứ không phải nước của con người, nên hạt giống Nước ấy lớn lên và sinh hoa kết quả là do sức tăng trưởng của nội tại của mình, do quyền năng của Thiên Chúa chứ không do tại sức của của con người. Và vì thế, chắc chắn kết quả chung cuộc sẽ lớn lao bất ngờ hơn so với hạt giống bé nhỏ ban đầu.
Có những loại phong lan ủ rễ trong lòng đất hàng chục năm trước khi nở ra những cành lá xanh và bông hoa xinh đẹp, quý hiếm. Bộ rễ của cây to thường phát triển chậm, nhưng có thể mọc xuyên qua vách đá hoặc xi măng, không có gì có thể ngăn cản nổi. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa có thể tăng trưởng chậm, lâu dài và âm thầm. Loài người có thể không nhận ra sự tăng trưởng của Nước ấy, nhưng chắc chắn Nước Thiên Chúa vẫn luôn tăng trưởng không ngừng, âm thầm nhưng mãnh liệt, không có gì có thể ngăn chặn được. Nước của Thiên Chúa vẫn luôn phát triển cả bề trong lẫn bề ngoài, cả chất lượng lẫn số lượng. Nước Thiên Chúa hôm nay vẫn chỉ nhỏ bé, nhưng Thiên Chúa đang làm cho Nước ấy lớn lên, trở thành nơi nương náu cho muôn dân muôn nước.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đến rao giảng sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa, thế mà hơn 2000 năm đã trôi qua, dường như Nước Thiên Chúa vẫn còn quá xa. Hội Thánh nỗ lực xây dựng Vương quốc của tình yêu, công lý và hoà bình. Nhưng biết đến bao giờ vương quốc ấy mới đến? Đôi khi xem ra lịch sử thay vì tiến lên thì lại thụt lùi tụt dốc. Tội lỗi vẫn còn đó, lòng hận thù, bất công vẫn còn đó. Hội Thánh là dấu chỉ của Nước Chúa trên trần gian, nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn chỉ là “đoàn chiên bé nhỏ” (Lc 2,32) giữa cộng đoàn nhân loại. Dân số thế giới vẫn gia tăng với những bước nhảy vọt, còn các Kitô hữu không tăng bao nhiêu, thậm chí ở một vài nơi lại sụp đổ từng mảng lớn và tỉ lệ lại càng chênh lệch lớn hơn.
Trong bối cảnh đó, đôi lúc chúng ta không khỏi ưu tư và nôn nóng. Càng nhiệt tình và thiện chí thì càng dễ thất vọng và mất kiên nhẫn. Phải chăng Thiên Chúa không còn can thiệp vào lịch sử này nữa? Phải chăng sự im lặng của Thiên Chúa chứng tỏ Ngài bất lực? Tin Mừng là một giải pháp vô ích và phải chăng Thiên Chúa đã chết?
Lời Chúa công bố hôm nay chính là Tin Mừng cho Hội Thánh lữ hành. Hội Thánh là bí tích của Nước Thiên Chúa, tức là dấu chỉ và là tôi tớ phục vụ cho Nước Chúa, nên Hội Thánh nghe được từ Lời Chúa hôm nay một sứ điệp quan trọng: tín thác và kiên nhẫn. Vì Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa, nên Hội Thánh luôn tín thác vào sự tác động quyền năng của Thiên Chúa. Hội Thánh – tức là mọi Kitô hữu- không được tự hào về thánh tích của mình, không được quyền nghĩ rằng Nước Chúa sẽ đến là do khả năng của mình, do nỗ lực hay sáng kiến của mình.
Thánh Vinh Sơn – Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ không hay biết”. Chúng ta không được sốt ruột, đừng ai tự cho mình là cần thiết: “Không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thuỷ”. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy hoạt động của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất cứ âm thầm đâm chồi nẩy mộng. Cũng đừng thất vọng khi không thấy kết quả trước mắt. Lỗi lầm của người tông đồ là dựa trên tài sức của mình hơn là vào sức mạnh của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể xây dựng trong một ngày, nhưng trường kỳ từ ngày này sang ngày khác. Thái độ nôn nóng đôi khi là dấu hiệu của sự kiêu hãnh vì nghĩ rằng sự tiến bộ là do công lao của mình. Không biết kiên nhẫn đợi chờ có thể dẫn Hội Thánh đến những chọn lựa nghịch với Tin Mừng để tìm sức mạnh của quyền lực, giàu sang và chắc chắn không sớm thì muộn sẽ gặp phải thất bại.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác trong niềm tin. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin vào sự hướng dẫn của Chúa đối với với lịch sử, để tất cả vũ trụ đi tới sự viên mãn chung cuộc của mùa gặt phong phú cuối cùng. Niềm tin mời gọi chúng ta tiến bước, bền chí lên đường reo rắc hạt giống Lời Chúa, vì biết rằng: “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa mới là người làm cho mọc lên” (1Cr 3,6). Tôi chỉ góp phần rất bé nhỏ, con Thiên Chúa mới làm cho hạt giống Nước Chúa lớn lên theo cách của Thiên Chúa. Có khi chính trong lúc ta tưởng ngờ- như Giáo Hội Nhật Bản đã phải trải qua 200 năm âm thầm và kiên nhẫn chờ đợi ngày tái sinh.
Trong Thánh lễ chúng ta được đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng ta. Hạt giống ấy hôm nay nhỏ bé nhưng sẽ âm thầm lớn lên trong chúng ta. Có Chúa sống trong ta, cuộc đời ta sẽ trổ sinh hoa trái, xanh tươi, hoa lá cành, đem lại bóng mát, niềm tin và hạnh phúc cho mọi người.
17. Hạt Giống Thiên Quốc
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bạn tôi đến Trung Quốc làm ăn cũng đã hơn 10 năm, và do nhu cầu công việc, tình cờ anh đến thăm một làng nọ, chuyên trồng tre làm hàng xuất khẩu. Khi anh đến thăm làng, ông chủ làng dẫn anh đi thăm khu vực đang trồng tre. Để cung ứng tre, họ trồng đủ cả: tre mới trồng, tre 1 năm tuổi, tre 2 năm tuổi, tre 3 và 4 năm tuổi, rồi tre 5 năm tuổi. Vào lúc 5 tuổi, những cây tre đã xanh, bự, cao ngất. Thế nhưng điều kỳ lạ là nếu bạn quan sát những mảnh đất trồng tre của 4 năm trước đó, thì bạn sẽ thấy… không gì cả.
Khi đó, anh bạn của tôi tưởng rằng do mất mùa, hoặc do làng không đủ vốn nên hỏi lại ông chủ làng: “Mất mùa thế kia, thì làng ta có thể cung cấp nguyên liệu đủ cho tôi nếu chúng ta ký hợp đồng nhiều năm không?”
Ông chủ làng cười và nói: “Anh có điều chưa hiểu. Tôi chắc khi anh nhìn vào các mảnh đất không gì cả ở đằng này của chúng tôi, anh nghĩ rằng chúng tôi sẽ không đủ khả năng cung ứng tốt những cây tre 5 năm tuổi cao, xanh và khỏe giống như đằng kia, đúng không? Thực ra không phải vậy. Cây tre ở làng chúng tôi đã được trồng nhiều đời theo cùng một cách… Nó là một giống tre khá lạ, chúng tôi gọi nó là giống tre Lã Vọng.”
Năm đầu tiên, khi những người nông dân của chúng tôi đem những cây giống của loại tre này trồng xuống, họ rất chăm chỉ làm cỏ, tưới nước, xới đất, bón phân với một niềm tin rằng cây tre sẽ phát triển nhanh, và mang lại nguồn thu nhập nuôi sống gia đình họ. Thế nhưng vào cuối năm ấy cái họ nhìn thấy là… không gì cả. Nhưng đến năm thứ 5, những cây tre này đã tự vọt cao một cách kinh khủng không ai hình dung nổi, lên tới hơn 24 mét.
Thực ra, trong những năm đầu, mọi tăng trưởng đều được dồn xuống dưới gốc tre. Sau đó khi đã có đủ bộ rễ, tất cả sự tăng trưởng của cây tre liền trồi lên mặt đất và mọi người lúc ấy mới có thể nhìn thấy được.” (Phùng Lê Sơn Hải, Câu chuyện cây tre Lã Vọng)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu ví Nước Trời như hạt giống gieo vào lòng đất âm thầm lớn lên thành cây lúa, hoặc như hạt cải nhỏ bé mà lớn thành cây cao bóng cả. Hình ảnh Nước Trời hoàn toàn trái ngược với các nước thế gian, thậm chí chẳng có lãnh thổ, chẳng có cơ cấu chính quyền và lẫn thần dân. Điều đó được Đức Giêsu công khai xác nhận với quan Tổng trấn Philatô:"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." (Ga 18, 36)
Tuy vô hình với thế gian, nhưng Nước Chúa vẫn hiện hữu, vẫn tồn tại trong lòng người thiện tâm, công dân Nước Trời với hiến chương Bát Phúc. Khi Nước Chúa được ví như hạt giống gieo xuống đất, chính là Lời Chúa gieo vào lòng mọi người. Nếu mảnh đất được chăm sóc, tưới nước, bón phân, diệt cỏ, thì hạt giống Lời Chúa mới có cơ hội phát triển, mặc dầu rất âm thầm, rất khiêm nhượng, nhưng sức sống hạt giống dồi dào, vô cùng mãnh liệt, mà chẳng ai có thể ngờ được, vì cây phát triển, lớn mạnh sau này.
Âm thầm & Phát triển
Giống tre Lã Vọng kể trên có lẽ phản ảnh phần nào hạt giống Nước Trời, vốn khiêm nhu, hiền lành, mộc mạc, sẽ âm thầm phát sinh sức sống mới trong tâm hồn những ai nghe và thực hành Lời Chúa. Họ đều được vinh hạnh sẽ trở nên huynh đệ, là người anh, chị, em của Đức Giêsu trong Thiên Quốc. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3, 35)
Với đất tốt, phì nhiêu, lòng chân thành, đạo đức, với sự chăm sóc, diệt trừ cỏ dại, ăn năn, sám hối, từ bỏ thói mê tật xấu, với sự đầu tư phân bón thích hợp, những việc lành phúc đức, bác ái, yêu thương, dấn thân phục vụ tha nhân, cùng hy sinh, chịu khổ cực, chịu chết đi tính xác thịt, thì hạt giống Nước Trời mới có cơ hội biến chuyển, nảy mộng, đâm chồi, bén rễ, tăng trưởng vượt bậc.
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.” (Mc 4, 27) Làm sao ai thấu đáo nổi sức sống thần linh của Lời Chúa? Chính Thánh Phaolô cũng đã chứng thực, đó là quyền năng tuyệt hảo: “Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên.” (1Cr 3, 6)
Không cần xảo ngôn, không cần tuyên truyền, không cần phô trương, diễu võ dương oai, không phức tạp những kỹ năng tiếp thị, Nước Chúa luôn chân chất bình dị, không cầu kỳ, màu mè, hương sắc, chỉ đơn sơ, hiền lành như hạt giống lúa, chỉ nhỏ nhắn, khiêm hạ như hạt giống cải, chỉ nhu mì, giản dị như nắm men làm dậy cả đấu bột, nhưng lại vô cùng phát triển, vô cùng vững mạnh, nhất là lại vô cùng cao quý hiếm hoi, tựa như kho báu chôn giấu kỹ dưới ruộng, hay viên ngọc đẹp nhất vô giá, vô song. Bất cứ ai ngay lành, công chính, có lương tri, cũng đều thao thức, trăn trở làm sao sở hữu được báu vật trường cửu viên mãn đó.
Quảng đại và thử thách
Hạt Giống Thiên Quốc không chỉ hạn hẹp gieo vãi vào những mảnh đất phì nhiêu, bờ xôi ruộng mật, đệ nhất đẳng điền, nhưng còn quảng đại gieo vào khắp nơi, không phân biệt xấu tốt, như nắng mưa đổ xuống mọi người lành cũng như kẻ dữ. Có hạt rơi bên vệ đường, hạt rơi trên sỏi đá, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi vào đất tốt. (Mt 13, 3-9) Thiên Chúa luôn giàu lòng từ bi, yêu thương tất cả tạo vật, tất cả loài người, nên rộng lượng ban phát Lời Chúa cho tất cả mọi người. Nhưng chỉ có những ai thiện tâm, được hồng phúc, mới ươm trồng được Hạt Giống Thiên Quốc nảy chồi trong tâm hồn, mới hội nhập vào Nước Chúa, mới hoàn tất được hồ sơ xin chiếu khán vào Thiên Quốc.
Tuy nhiên, nhập cảnh vào Thiên Quốc không hề dễ dàng chút nào, lẽ đương nhiên còn phải chịu bao thử thách, bao gian khổ, bao công lao khó nhọc, thậm chí có khi phải hiến cả mạng sống, để xứng đáng làm công dân Thiên Quốc. Bởi vì Hiến Chương Nước Trời đã quy định tám điều luật cần thiết và ắt đủ để được cứu xét quyền lưu trú, quyền định cư vĩnh viễn vào Thiên Quốc.
Không thể như thế gian, cứ bon chen chạy chọt, cứ lải nhải xin xỏ, bẻm mép là được cứu xét, vì Đức Giêsu đã tuyên bố điều kiện gia nhập Nước Trời rất cụ thể và hữu lý: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời. (Mt 7, 21)
Thực hiện Ý Thiên Chúa chính là làm những điều Đức Giêsu đã phán dạy, cũng như những điều Người đã vâng theo Thánh Ý Chúa Cha, mà chịu khổ nạn vả chịu chết. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình. Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì?”(Mc 8, 34-36)
“Hạt lúa gieo xuống đất không chết, trong nó sẽ phát xuất sự sống phong phú mới mẻ hơn. Hạt lúa nấu thành cơm nuôi nhân loại cũng không chết, nó tươi nở trong một cuộc sống khác đẹp hơn, cao quý hơn.” (Đường Hy Vọng, số 688)
Lạy Chúa Giêsu, xin gieo vào lòng chúng con Hạt Giống Thiên Quốc, xin Chúa ban cho hạt giống nảy nở, đâm chồi, phát lộc vững mạnh, phát triển bền đỗ, tránh được hiểm họa sâu bệnh, lẫn phong ba, bão táp, lũ lụt, vẫn một lòng trung kiên, trung thành với Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân hậu, xin Mẹ cầu bầu chở che chúng con được ở trong Nước Chúa, dù có sa ngã, lỗi lầm, vấp phạm, vẫn được Mẹ thương yêu sửa dạy, ân cần dìu dắt, chỉ đường dẫn lối cho chúng con can đảm dấn bước về quê Trời. Amen.
18. Nước Cha Trị Đến
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Chúa Giêsu chính là Người Đi Gieo Hạt Giống Tin Mừng, khởi sự mở cửa Nước Trời cho nhân loại. Tiếp đến, các Tông Đồ, các mục tử và cả đoàn chiên cũng đã và đang tiếp nối sứ vụ Đi Gieo, mà Chúa Giêsu đã trao phó.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28, 19-20)
1. Đi Gieo
Trước khi về trời, Chúa Giêsu ân cần trao cho các Tông Đồ sứ vụ Đi Gieo Hạt Giống, rao giảng Tin Mừng đến muôn dân, mở mang Nước Chúa. Nhờ ơn Đức Chúa Thánh Thần, các ngài đã can đảm và tích cực phát triển Nước Chúa ngoạn mục, ngay từ những giây phút đầu tiên.
Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em nhận được ân huệ là Thánh Thần…Và những ai đón nhận lời ông (Phêrô), đều chịu phép rửa. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. (Cv 2, 38-41)
2. Chim trời, đất sỏi và gai góc
Nhưng sứ vụ Đi Gieo không hề dễ dàng thuận lợi, mà trái lại, gặp vô vàn gian nan, thử thách, thậm chí chịu bức bách, tù tội và hành hình. Như chim chóc, ác điểu lạnh lùng kéo nhau đến tiêu diệt, như đất sỏi đá, môi trường khắc nghiệt, từ chối, chống đối, áp bức, như bụi gai, những thế lực đen gian ác uy hiếp, cấm đoán, bót nghẹt.
Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất, nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị chết cháy. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. (Mc 4, 4-8)
Vào Tháng 8 năm 64, Hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Kitô hữu. Cuộc bắt đạo diễn ra đến tận năm 313. Lúc ấy, Thánh Phêrô, viên đá tảng của Hội Thánh, là Đức Giám Mục Roma và là Đức Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh Công Giáo, được vinh dự làm chứng nhân Đức Tin, chịu tử vì đạo. Rồi Thánh Phaolô cũng chịu xử trảm.
Tại Việt Nam, vào thời Trịnh Nguyễn, Giáo Hội Công Giáo ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã làm chứng nhân Chúa Kitô. Bây giờ cơn thử thách vẫn còn tiếp diễn, nhưng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Khắp nơi lan tràn tinh thần thế tục, nếp sống hưởng thụ, chủ thuyết duy vật và các tà thuyết vô thần, đang hiệp đồng hăm hở đánh phá Nước Chúa, cùng ngăn chận những bước chân Đi Gieo.
3. Hạt Giống nhiệm mầu
Nhưng Hạt Giống vẫn âm thầm đâm chồi, nấy lộc, mọc lên. Tin Mừng vẫn tiếp tục được rao truyền. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm, che chở và tác động trên Dân Chúa, mọi nơi và mọi lúc, Nước Thiên Chúa vẫn phát triển mạnh mẽ không ngừng, mà chẳng ai có thể ngờ hay hiểu nổi.
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. (Mc 4, 27)
4. Bội thu
Mặc cho mưa sa, bão táp, mặc cho bạo quyền cấm đoán, bách hại, Nước Chúa vẫn lặng lẽ phát triển cho đến khi hoàn thành mỹ mãn.
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: Hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm. (Mc 4, 9)
Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. (Mc 4, 28)
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên, lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum suê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. (Mc 4, 30-32)
Trong số 118 vị tử đạo ở Việt Nam, đã có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào ngày 19, tháng 6, năm 1988. Và Thầy Giảng Anrê Phú Yên được phong Chân Phước ngày 5 tháng 3, năm 2000. Những Hạt Giống ấu chiu6 mục nát đi, để cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay xum xuê, tươi tốt, nhiều hoa thơm, trái ngọt. Dù bị cấm đoán, bách hại ngay từ thuở sơ khai, nhưng đến nay Nước Chúa vẫn mãi trường tồn và phát triền vững bền.
Lạy Chúa, xin gìn giữ, bảo vệ và an ủi, ban muôn hồng ân cho Dân Chúa trước những khó khăn, cấm đoán, bách hại, để Danh Cha luôn cả sáng, Nước Cha trị đến muôn đời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từng trải qua bao cơn bĩ cực, qua cơn bách hại của Hêrôđê ngày xưa, xin giúp con vượt qua hiểm nguy và cám dỗ, để vẫn mãi là con chiên trung thành của Nước Trời. Amen.
19. Hạt giống đức tin
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Cách đây vài năm, tôi được xem cuốn phim về cái chết của Đức cha Oscar Romero, Tổng giám mục El Salvador, ngài bị ám sát chết trong lúc dâng lễ. Khi xem cuốn phim này, nó làm cho tôi có nhiều cảm xúc và cảm phục về vị Giám mục đã hy sinh mạng sống của mình, ngài đứng lên bảo vệ chân lý và công bằng cho người nghèo, cho những người bị áp bức bất công trong xã hội lúc bấy giờ. Ngài như là hạt giống được gieo vào lòng đất để trổ sinh ra những bông hạt khác.
Biến cố xẩy ra vào lúc 6 giờ 25 chiều, ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của bệnh viện khi Đức cha dâng Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn thân vừa mới qua đời. Ngài đọc cho cộng đoàn nghe đoạn Phúc Âm của thánh Gioan:" Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." (Gioan 12, 23-24), rồi ngài áp dụng Lời Chúa vào tình cảnh khốn cùng của người dân nước El Salvador, họ phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt. Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta. Kẻ nào tránh né sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai có lòng yêu mến Chúa Kitô và hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa chết đi , nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài để sinh nhiều bông hạt khác". Ngài nói thêm:"Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong lòng người dân El Salvador của tôi."
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị dâng thánh lễ thì có tiếng súng nổ và một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện. Đức cha Romero bị trúng đạn, máu chảy ra lai láng và tắt hơi thở ngay dưới bàn thờ. Ngày nay không chỉ người dân El Salvador mà cả những người công giáo trên toàn thế giới gọi Ngài là vị Giám mục của người nghèo.
Ngày 29/5/2015, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô phong chân phước cho ngài với hơn 2 ngàn người tham dự. Theo báo chí tòa thánh đưa tin, khi thánh tích Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero là chiếc áo sơ mi vấy máu, ngài mặc khi bị bắn chết được rước lên, và cộng đoàn bắt đầu hát kinh Vinh Danh, bầu trời xám xịt trong một tuần đầy mưa bão đột nhiên trở nên trong sáng với một vầng hào quang, mà từ chuyên môn gọi là “solar halo”, một hiện tượng rất hiếm khi xảy ra.
Cha Manuel Dorantes, linh mục thuộc tổng giáo phận Chicago Hoa Kỳ, ngài xác tín rằng, hiện tượng siêu tự nhiên này cho thấy việc phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero là rất đẹp lòng Thiên Chúa. Nhiều Hồng y, Giám mục và linh mục đã rơi lệ vì cảm động trước những điều kỳ diệu Chúa làm.
Giáo hội ngày hôm nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy, cần có những hạt giống tốt gieo vào thế gian, thì Giáo hội mới có thể gặt hái được mùa bội thu, điều đó được tìm thấy trong hai dụ ngôn hạt giống của Chúa Giê-su. Ngài diễn giải Nước Trời giống như hạt cải nhỏ bé âm thầm gieo xuống đất. Dù đêm hay ngày thì hạt giống ấy vẫn mọc lên thành cây to. Nếu chúng ta áp dụng cái chết của vị Giám mục Romero vào bài Tin mừng hôm nay, thì chúng ta hiểu rõ hơn về những gì Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để nói về Nước Trời, hạt giống đó phải chấp nhận tự hủy chính bản thân mình thì mới sinh ra nhiều bông hạt khác. Vì chính nơi Đức Chúa Giêsu, Ngài đến trần gian để gieo hạt giống Tin mừng bằng chính đời sống và bằng cái chết của Ngài. Hạt giống của Chúa là bằng lời rao giảng, bằng sự yêu thương, bằng lời an ủi, chia sẻ và cảm thông, bằng giọt máu để cứu rỗi nhân loại. Hạt giống ấy dành cho những ai biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa.
Và mỗi người chúng ta cũng được ví như những hạt giống được gieo vào trần gian này. Nếu hạt giống đức tin của chúng ta được lớn lên và phát triển, thì cần có mãnh đất tâm hồn tốt. Đó là những tâm hồn biết mở ra cho tha nhân, tâm hồn quảng đại, yêu thương và tha thứ. Trái lại, hạt giống Lời Chúa và hạt giống đức tin không thể mọc lên với những tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, hận thù, ghen ghét, đố kỵ chỉ biết lo cho mình, cho nên, chúng không thể sinh ra hoa trái tốt và lợi ích cho người khác.
Đức Giám mục Oscar Romero là dấu chỉ hạt giống cho Tin mừng, hạt giống đức tin hôm nay, ngài là chứng nhân cho Đức Kitô tự hủy, sống cho chân lý, cho lẽ công bằng, cho người nghèo bị áp bức. Ngài nằm xuống để cho bao người khác được ngẩng đầu bước đi, cho Nước Chúa được lan tỏa khắp nơi.
20. Hạt giống, hạt cải.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
21. Vấn đề thân cận.
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
22. Sức mạnh của hạt giống Nước Trời.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thường ngày mà Ngài rút ra được từ cuộc sống thực tế để giảng dạy, vì nó đơn giản, dễ hiểu, sống động và gần gũi với dân chúng. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “Hạt giống tự mọc” (Mc 4,26-29) và “Hạt cải nhỏ bé” (Mc 4, 31-32) để nói lên sức mạnh quyền năng nhiệm mầu của nước Thiên Chúa.
Thật vậy, ai trong chúng ta nếu không biết nhiều thì cũng biết chút ít về việc gieo trồng của nhà nông. Hạt giống khi được gieo xuống đất, người nông dân có thể yên tâm mà làm những chuyện khác. Vì tự nó sẽ tiếp thu ánh sáng, khí trời, cùng những chất dinh dưỡng khác trong đất. Khi gặp điều kiện khí hậu, nhiệt độ thích hợp, nó sẽ âm thầm nảy mầm, từ từ mọc lên và trổ sinh bông hạt. Thế là mùa gặt đã đến. Người nông dân lại ra đồng gặt lúa đem về.
Cũng vậy, Chúa Giêsu đến trần gian và Ngài đã gieo hạt giống Nước Trời, hạt giống Tình Yêu, hạt giống Tin Mừng cứu rỗi là lời Ngài, cuộc sống, cái chết, và sự phục sinh của Ngài vào lòng nhân loại. Hạt giống ấy đã nảy mầm, lớn lên, có sức mạnh kỳ diệu, lan rộng khắp thế giới cách Nhiệm Mầu. Và Ngài đã âm thầm chờ đợi “mùa gặt bội thu.” Ngày Ngài lại đến để “thu hoạch”, để đưa tất cả những đồ đệ thân yêu của Ngài, những ai thật sự ước ao, khao khát nước trời, những ai suốt đời âm thầm lặng lẽ lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, hy sinh phục vụ Nước Trời với tinh thần yêu thương, quảng đại, vị tha, và tiếp bước theo Ngài để gieo hạt giống tin mừng khắp mọi nơi.
Sức mạnh Nước Trời còn ví như hạt cải, một loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. nhưng khi gieo, nó mọc lên và lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum xuê đến nỗi chim trời đến làm tổ ẩn náu (Mc 4,31). Thật thế, Nước Trời khởi đi từ sự vâng lời thi hànhThánh ý Chúa Cha của Chúa Giêsu qua sứ mệnh công khai rao giảng tin mừng của Người. Và Nước Trời lớn lên với việc kêu gọi, thiết lập nhóm mười hai (Mc 3, 13-19), những con người hầu như xuất thân từ tầng lớp nghèo, thất học, thấp cổ bé miệng. Thế mà, nó lại phát triển thành một “cây Giáo Hội” to lớn, lan rộng khắp nơi và vô cùng mạnh mẽ với qui mô lớn. Có hệ thống chặt chẽ, có phẩm trật trên dưới vững mạnh đến nỗi không gì có thể ngăn chặn được ngay cả quyền lực hỏa ngục cũng không thể nào làm chuyển lay ( x.Mt 16,)
Như những hạt giống gieo vào lòng đất, âm thầm, chết đi để sinh nhiều bông hạt. như những hạt cải bé nhỏ phải tự phân hủy mình đi thì mới mọc lên và trở thành cây to,là chỗ tựa nương cho bao sinh vật khác. Cuộc sống của người Ki tô hữu chúng ta cũng chết đi chính mình từng ngày, từng giờ từng phút cho tha nhân, cho Nước Trời một cách vô vì lợi. cho dù chúng ta có gặp nhiều chống đối, thử thách, ngay cả khi coi như thất bại, mất mát tất cả, chúng ta đừng nản lòng lùi bước. Vì chúng ta tin rằng, với cách sống âm thầm cầu nguyện, khiêm tốn dấn thân phục vụ trong hân hoan, tin yêu và phó thác của chúng ta, Thiên Chúa sẽ có cách làm cho những hạt giống bé nhỏ đời ta sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. sinh ích cho tha nhân và cứu rỗi các linh hồn. Phải chăng đây chính là sức mạnh Nhiệm Mầu của hạt giống nước trời?
Cầu nguyện:
Chúng con đang sống trong một xã hội thực dụng, mọi thành tựu đều được đánh giá trên kết quả của lợi nhuận trước mắt. Thế giới đang mong chờ những con người đầy khả năng, trí tuệ nhưng chúng con thì bất tài, kém cỏi chẳng giúp ích gì cho xã hội, giáo hội, giáo xứ và ngay cả gia đình cũng như chính bản thân chúng con. Nhưng Lời Chúa hôm nay đã cho con một sức manh. Sức manh của tình yêu và niềm tin. Dù chúng con chẳng là gì, chỉ là những hạt giống bé nhỏ tầm thường. nhưng chính Chúa có cách để làm cho hạt giống đó có một sức mạnh kỳ diêu trở nên cây vĩ đại, sinh nhiều bông hạt, trái tốt.
Xin cho chúng con biết gieo vào lòng đời những hạt giống yêu thương, phục vụ bằng chính con người và cuộc sống chúng con. Amen.
23. Giá trị của những việc nhỏ
(Suy niệm của Rev. Louis Kim Nguyen)
Hạt nhân nguyên tử có sức công phá khủng khiếp; vi trùng nhỏ bé lại là nguyên nhân gây ra bệnh tật cho con người; chỉ một hạt cát nhỏ nếu rơi vào mắt sẽ làm xốn xang, khó chịu... là những thí dụ đơn giản giúp chúng ta ý thức được những giá trị không thể kể hết của những gì vốn thường hay được coi là nhỏ bé và âm thầm trong cuộc sống thường ngày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, để quảng diễn những giá trị siêu việt và phổ quát của Nước Trời, Đức Giêsu cũng sử dụng những hình ảnh rất bình thường như hạt giống nhỏ bé được gieo vào lòng đất, âm thầm mọc lên, rồi sinh hoa kết trái. Nhỏ bé và âm thầm nhưng với thời gian, chúng để lại những hiệu quả không còn là nhỏ bé và âm thầm nữa.
Suy niệm Lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta thấy mình được mời gọi để nhận ra được những giá trị thật của những gì vốn rất bình thường, nhỏ bé. Thật thế, chúng ta cần tái khám phá ra những giá trị của chúng và sử dụng chúng để xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cuộc sống hiện tại.
Nói như thế là vì thông thường chúng ta hay quá chú trọng đến những gì gọi là vĩ mô, những kế hoạch to lớn nhưng lại thường quên, hay bỏ sót không chú trọng đến những gì là vi mô, đơn giản, âm thầm.
Thử xét xem chúng ta sẽ thấy: những đức tính nhân bản tốt lành như nhân, tín, lễ, nghĩa… mà chúng ta đang có vốn đã được Cha Mẹ, Thầy Cô dày công dạy bảo, giúp uốn nắn khi chúng ta còn bé. Chính những uốn nắn, sửa bảo thời xa xưa ấy đã giúp hình thành nên những nhân cách tốt đẹp sau này.
Những buổi đọc kinh tối chung trong gia đình, những câu kinh căn bản được Cha Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn cách cầu nguyện, sau này sẽ hình thành nên những thói quen đạo đức tốt lành trong hành trình sống đạo của chúng ta.
Những chân lý từ Tin Mừng được tiếp thu qua các lớp giáo lý căn bản, vỡ lòng khi còn niên thiếu, sẽ theo chúng ta qua năm tháng để rồi sau này sẽ được áp dụng trong cuộc sống giúp chúng ta trở thành những Kitô hữu tốt.
Có thể nói Cha Mẹ, Thầy Cô, và những người có trách nhiệm đã âm thầm gieo hạt giống Nước Trời vào trong tâm hồn chúng ta. Theo năm tháng chúng hình thành, được lưu lại trong tâm hồn và rồi sinh ra những hiệu quả tốt, tích cực trong các mối quan hệ xã hội và sống đạo của chúng ta.
Hôm nay chúng ta được mời gọi nhận thức lại những hướng dẫn tưởng như bình thường ấy và thực hành chúng trong cuộc sống hằng ngày. Đây là lúc chúng ta chuyển giao đức tin cho các thế hệ tương lai, và chúng sẽ được thể hiện qua những lời khuyên bảo ân cần; những tấm gương sáng bằng những hành động tốt, cụ thể.
Khi ý thức thực hiện những công việc này, chúng ta như những người đang gieo giống, đang xây dựng và làm hình thành Nước Trời ngay trong cuộc sống tại thế này bởi Nước Trời không ở đâu xa. Nước Trời ở ngay trong gia đình, trong xã hội, trong cộng đoàn của chính mình.
Chúng ta được mời gọi bởi Lời Chúa, qua dụ ngôn người gieo giống âm thầm, qua hạt giống nhỏ bé như hạt cải… tượng trưng cho những việc tốt nhỏ được âm thầm thực hiện hằng ngày. Những việc tốt nhỏ nhưng được làm với tâm hồn không nhỏ để làm gương sáng và để trở nên những nhân tố tích cực trong việc xây dựng Nước Trời trong lòng xã hội và thế giới này, một Nước Trời phổ quát và rộng lớn, không biên giới.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta xây dựng Nước Trời bằng việc âm thầm làm chứng và làm gương sáng về đức tin qua cuộc sống hằng ngày. Hãy làm những hành động nhỏ nhặt nhất, nhỏ nhặt nhưng với một tinh thần và ý thức lớn lao. Những việc ấy sẽ có tác dụng và để lại những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống, đến cộng đoàn.
Đức Giêsu đã gửi đến cho chúng ta một định hướng rõ ràng: không nên coi thường giá trị của những sự việc, hành động nhỏ bé. Và chính qua qua việc thực hiện những gì tưởng như là bình thường, đơn điệu ấy Nước Trời đang thực sự hiện diện và lớn lên giữa chúng ta.
24. Làm đẹp lòng Chúa.
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ - Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Chúa nhật hôm nay đáng gọi là là ngày phấn khởi và hy vọng. Bài sách Ezekiel cho chúng ta thấy một nhánh cây đã được trồng và mọc lên trở thành bá hương oai lẫm. Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Yêsu kể cho chúng ta nghe câu truyện hạt giống gieo xuống đất âm thầm mọc lên một cách tự nhiên nhưng chắc chắn. Và nhất là chúng ta phải bỡ ngỡ khi thấy hạt cải nhỏ bé nhất trong mọi thứ hạt mà lớn cao đến nỗi "chim trời có thể nương náu dưới bóng nó".
Những dụ ngôn và ví dụ ấy muốn nói gì với chúng ta về đời sống đạo đức? Có phải Lời Chúa hôm nay muốn khuyên chúng ta phấn khởi nhìn về tương lai, như thánh Phaolô nói trong bài thư không? Chắc chắn cả ba bài đọc đều phong phú, chúng ta không nên tổng hợp mau lẹ.
A. Nhánh cây bá hương
Bài sách Ezekiel đưa chúng ta trở về thời lưu đày của dân Dothái cách đây những 2,600 năm. Nhà tiên tri cũng ở trong số đám dân lưu lạc. Ông có chức tư tế nên càng thấm thía cảnh sống xa Đền thờ. Mọi nhân tố bên ngoài cho thấy chẳng còn hy vọng nào nữa cho đám người lưu vong này trở về quê cũ. Các tin tức bên nhà cho biết quê hương điêu tàn ngày nay đã có người khác đến ở. Họ không thờ Yavê và chẳng biết gì Luật pháp Môsê. Còn dân lưu đày, lúc đầu còn nhớ quê hương và noi giữ phong tục tổ tiên; nhưng dần dần đã muốn đồng hóa với dân ngoại, xây dựng cơ sở làm ăn và chẳng thiết gì việc trở về quê cũ nữa. Như vậy mọi lời hứa của Thiên Chúa Israel đã trở nên hão huyền sao? Người bỏ hẳn Dân được tuyển mãi ư? Niềm tin của những người chân chính như Ezekiel làm sao chịu được những ý nghĩ như vậy?
Nhưng cũng không vì vậy mà có thể lấy ước mơ làm sự thật. Thời gian đã cho thấy mọi kiểu mơ ước như vậy thật hão huyền và tai hại. Sấm ngôn của các tiên tri thì khác hẳn. Những người này không nói theo ước mơ của những kẻ bất lực và tuyệt vọng. Họ tuyên bố những điều phi thường nhân danh Thiên Chúa. Họ rất tỉnh và sáng suốt. Họ biết mình đang nói những điều không trí óc loài người nào nghĩ ra được. Họ chỉ tuyên bố những điều Chúa phán dạy.
Hôm nay Người nói qua miệng Ezekiel. Ông đến với đám dân lưu lạc không còn gì hy vọng. Ông nói với họ rằng: Chúa phán như sau. Người sẽ ngắt một nhánh trên ngọn bá hương cao ngất và đem trồng trên sơn lĩnh vòi vọi của Israel. Nó sẽ mang lá, sinh hoa và trở thành bá hương oai lẫm. Thú vật và chim trời sẽ đến núp bóng nó. Hơn nữa, người ta sẽ thấy nó vươn cao lên, đang khi cây gốc trước kia của nó sẽ cụp xuống và khô héo đi.
Thiên Chúa muốn nói gì vậy? Đám dân lưu đày thời bấy giờ đã hiểu ngay ý nghĩa. Ta có thể nhìn thấy mắt họ sáng lên và chân tay hồi sinh. Có thật như vậy không, bấy giờ họ hỏi nhau. Chúa đã dùng lời lẽ của loài người để nói với họ. Người mượn lại các quan niệm của họ quen sánh ví các dân tộc và các bậc vĩ nhân như các cây to lớn như giống bá hương. Do đó ở đây Lời Chúa muốn nói rằng, Người sẽ lấy một người hoặc một số ít người trên đất Babylon rộng lớn, vĩ đại này đem về trồng ở Israel. Tức là Người sẽ cho thiểu số dân lưu vong này được trở về Hứa Địa. Hơn nữa, nhóm dân nhỏ bé sẽ mang lá mang cành, mang hoa mang trái, trở thành cây bá hương oai lẫm, đang khi Babylon sẽ suy tàn héo hắt.
Rõ ràng phải hiểu Lời Chúa như vậy. Văn chương thời bấy giờ bắt phải cắt nghĩa như thế. Lời tiên tri hôm nay khẳng định Dân Chúa sẽ được hồi hương. Họ sẽ hồi sinh, họ sẽ trở thành chỗ tựa cho thú vật và chim trời tức là cho mọi thứ sinh linh. Đang khi ấy kẻ chiến thắng của họ trước đây sẽ bị quật xuống. Cây tươi (bây giờ) sẽ thành khô héo; và cây héo khô (lúc này) sẽ đâm chồi nẩn mầm. Vì chỉ có Thiên Chúa làm được như thế. Người hứa sẽ làm như vậy. Dân Chúa không thể nhận được lời hứa nào to lớn hơn. Tương lai quá sức huy hoàng. Mọi người phải phấn khởi. Tất cả phải hồi sinh. Hy vọng quá đỗi lớn lao!
Có chăng chỉ còn một thắc mắc: nhánh bá hương được Thiên Chúa ngắt và đem trồng trên Núi thánh Israel, là ai? Là một cá nhân được Thiên Chúa dùng để dựng lại nhà Đavít? Hoặc là cả thiểu số còn sót lại trong cuộc lưu đày sẽ được hồi hương và xây lại Dân Chúa? Bản văn không rõ ràng. Và lịch sử sau đó cho thấy, không phải một người nào -ngay cả trong hoàng tộc- đã dựng lại được cơ đồ cho Israel. Những người có công lớn trong việc trùng tu xứ sở như Ezra và Nêhêmya, cũng không đáng được coi như nhánh bá hương đã được ngắt từ Babylon đem về. Nhưng cũng không hoàn toàn đúng khi chúng ta hiểu nhánh cây lựa ấy ám chỉ toàn thể những con người hồi hương xây dựng lại Đất Hứa. Trước mắt thì đúng, vì công cuộc tái thiết quê hương là thành quả của cả dân còn sót lại sau thử thách lưu đày. Nhưng bảo rằng công việc của họ đã vươn lên trở thành bá hương oai lẫm khiến thú vật, chim trời đến núp bóng, tưởng không đúng với lịch sử. Israel sau lưu đày chẳng lúc nào được hoàn toàn quang vinh. Ngược lại, Dân Chúa lại mau chóng rơi vào lầm than khổ sở rồi lại bị ngoại bang đô hộ.
Như vậy lời sấm của Ezekiel đã đúng, nhưng chưa thực hiện hoàn toàn. Cây khô là Israel lưu đày có lúc đã được tươi tỉnh lại. Tuy nhiên người ta còn phải chờ xem khi nào cây mọc trên sơn lĩnh vòi vọi của Israel mới thật sự trở thành bá hương oai lẫm. Ngày nay nhờ đức tin chúng ta biết mọi lời tiên tri của Cựu Ước phải chờ thời Tân Ước mới hoàn thành. Và nhánh cây ưu tuyển mà Thiên Chúa lựa chọn trong Cựu Ước sẽ là một thực tại Tân Ước. Nó có phải là hạt giống và là hạt cải nói trong bài Tin Mừng hôm nay không? Chúng ta cứ thử tìm hiểu.
B. Hai dụ ngôn về hạt giống và hạt cải
Thoạt đầu, không ai thấy ngay có nét giống nhau nào giữa nhánh cây bá hương trong sách Ezekiel và dụ ngôn hạt giống. Tuy nhiên đọc lại người ta thấy bài Tin Mừng khẳng định: về Nước Thiên Chúa thì giống như khi người kia gieo giống xuống đất; dù người ấy ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, hạt giống cứ nảy mầm, lớn lên... cho đến lúc có hạt chắc, đợi đến mùa sẽ tra liềm hái.
Khi kể dụ ngôn này, Chúa Yêsu muốn nói đến tương lai chắc chắn của Nước Thiên Chúa. Người gieo có thức hay ngủ, ban đêm hay ban ngày, hạt giống vẫn cứ mọc lên cho đến ngày mang hạt chắc, sẵn sàng cho mùa gặt hái. Nói cách khác Nước Thiên Chúa sẽ lớn lên và đi đến chỗ thành tựu như Thiên Chúa đã dự định, dường như bất kể thái độ của con người. Đó là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Và Thiên Chúa đã dự định thế nào thì sẽ xảy ra như vậy.
Do đó ở đây cũng không khác trong sách Ezekiel: chính Yavê đã nói và sẽ làm. Người làm những việc không ai mường tượng được. Cây tươi, Người cho héo; cây héo, Người cho đâm chồi. Vậy nếu lời sấm của Ezekiel đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong đám dân lưu đày, đem tin tưởng phấn khởi lại cho những kẻ đang rã rời, thì dụ ngôn hạt giống cũng muốn đem đến cho những người trong thời đại Tân Ước một niềm tin tương tự. Nhiều khi họ không tự hỏi về tương lai Nước Thiên Chúa và của Hội Thánh sao? Những hiện tượng bên ngoài lắm lúc khiến người ta phải tự hỏi: Nước Thiên Chúa đâu rồi? Ước gì những lúc ấy lại tự hỏi cũng nhận được câu trả lời của bài Tin Mừng hôm nay: hạt giống Nước Thiên Chúa đã gieo xuống rồi thì dù con người ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, nó vẫn một mực nảy mầm lớn lên như Thiên Chúa đã dự liệu. Mùa gặt sẽ đến, ngày tận thếsẽ xảy ra. Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu trong vinh quang.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn ví Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, khi gieo xuống đất nó nhỏ tí; nhưng đã gieo xuống rồi nó mọc thành to lớn đến nỗi chim trời có thể nương náu dưới bóng nó. Chúng ta thấy dụ ngôn này gần với bài sách Ezekiel hơn. Như một nhánh bá hương ngắt trên đỉnh cao của cây bá hương to lớn, đã lớn lên thành bá hương oai lẫm, hạt cải nhỏ xíu ở đây khi gieo xuống bé hơn mọi thứ hạt; nhưng lớn lên nó to lớn hơn mọi thứ rau. Tương lai Nước Thiên Chúa cũng như vậy. Khởi sự nhỏ mọn thôi, nhưng rồi sẽ trở nên nơi nương tựa cho mọi người được cứu chuộc.
Tuy nhiên, nếu chỉ so sánh như vậy, chúng ta chưa thấy vẻ đặc sắc của bài Tin Mừng. Có thể bảo bài sách Ezekiel còn phấn khởi và "hùng vĩ" hơn. Nhà tiên tri nói đến cây bá hương, trên đỉnh cao chót vót của núi đồi Israel. Ở đây, Chúa Yêsu lấy ví dụ hạt giống và hạt cải, không to lớn bằng. Ấy cũng do điều này mà nhiều người Dothái đã không muốn đón nhận ngay giáo lý của Đức Yêsu. Người ta thấy Người giảng dạy có uy quyền; nhưng những điều Người hé mở cho thấy lại không có vẻ hùng vĩ, oai lẫm. Người ví Nước Trời như hạt giống, hạt cải, hoặc như lưới vét và như men trong bột... Cách thức Người sống cũng không hứa hẹn phong cách triều đình. Nhất là những kẻ đi theo Người hầu hết là kẻ nghèo và thứ dân. Người Dothái ao ước Vị Thiên Sai phải lớn hơn các tiên tri và thời đại của Người sẽ cho thấy một nước Dothái bá quyền. Như vậy Người có thực hiện các lời tiên tri không? Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay có giải đáp thắc mắc còn lại của bài sách Ezekiel không?
Đức tin khiến chúng ta trả lời không do dự. Ezekiel báo trước thời cực thịnh của Dân Chúa. Khi những người lưu đày trở về xây lại Israel, thì lời sấm của nhà tiên tri đã khởi sự thực hiện. Nhưng nó chỉ kiện toàn khi Đức Yêsu Kitô là mầm non của nhà Đavít đã trở nên thân nho ưu tuyển mà bất cứ kẻ nào muốn được cứu vớt cũng phải đến kết hiệp như cành phải gắn vào thân cây. Và Đức Yêsu Kitô Cứu thế hiện nay ở giữa chúng ta cũng là Hội Thánh mà Người đã thiết lập. Đó là dân Mới của Thiên Chúa. Dân đâm chồi trên cây héo là Israel xưa. Dân Mới khởi sự là một nhóm nhỏ, bé như hạt cải, thua mọi thứ hạt; nhưng đang lớn lên thành nơi cho chim trời đến nương bóng. Hội Thánh của Thiên Chúa sẽ thành tựu trong Thiên Chúa, sau khi trời đất này và mọi sự trong đó sẽ qua đi. Lúc đó lời sách Ezekiel mới hoàn toàn thực hiện. Bấy giờ người ta mới thấy rõ Hội Thánh là công trình của Thiên Chúa. Chính Người hướng dẫn lịch sử Hội Thánh chứ không phải con người; Hội Thánh lớn lên ban ngày # ban đêm, trải qua mọi thăng trầm của lịch sử loài người.
Qua bài Tin Mừng chúng ta còn nhận thấy nhiều hơn những điều Ezekiel muốn nói. Nhà tiên tri loan tin phấn khởi, nhưng có lẽ ông chưa cho người nghe thấy có thể cộng tác vào công trình của Chúa. Ông rao giảng một niềm tin chờ đợi. Còn Chúa Yêsu, trong khi kể dụ ngôn hạt giống và hạt cải, muốn cho người nghe phải tích cực hơn nhiều. Hạt giống gieo xuống, mọc lên, trổ bông, đậu quả, chờ đợi ngày gặt lúa, là hình ảnh Nước Thiên Chúa mà Đức Yêsu đang rao giảng. Thính giả của Người phải kiên trì. Đừng muốn có những kết quả thành tựu ngay. Phải chờ ngày gặt, mà theo Thánh Kinh, cũng là ngày Thiên Chúa xét xử. Như vậy thời gian trở nên giá trị. Đây là lúc Thiên Chúa có thể nói với người đã gieo xong. Người để cho các sự việc diễn tiến theo định luật của chúng. Ngày tận thế Người mới sai các thiên thần của Người tra liềm gặt hái: thóc sẽ được thu vào lẫm, cỏ sẽ bị đốt cháy trong khóc lóc nghiến răng. Và như vậy, đây cũng là thời gian để con người làm lành lánh dữ, xây dựng hay phá hoại hạnh phúc sau này.
Hơn nữa hạt giống Nước Thiên Chúa lại chỉ như một hạt cải. Nhưng nó sẽ thành cây rau lớn. Đức Yêsu và công việc của Người bề ngoài người ta chỉ thấy nhỏ mọn thôi, nhưng đừng vì vậy mà coi thường và không đón nhận. Phúc cho những ai không bị xúc phạm vì Người và cách sống của Người. Những kẻ không muốn trở nên bé nhỏ không thể vào Nước Thiên Chúa.
Những bài học ấy, ai bảo không còn cần thiết cho chúng ta?
C. Chỉ ao ước một điều: làm đẹp lòng Chúa
Chắc chắn cuộc đời của hết thảy chúng ta không giống như của thánh Phaolô, nhưng phương hướng phải như một, để chúng ta cũng thật sự có đức tin của các tông đồ.
Trong đoạn thư hôm nay, sau khi nhắc đến những gian truân thử thách xảy đến trong cuộc đời tông đồ, thánh Phaolô khẳng định lòng người luôn luôn vững vàng. Người ý thức rõ rệt cuộc sống hiện nay là lưu đày, không phải vì nhiều khổ sở, nhưng vì đang đi trong đức tin, chưa được ở bên Chúa như sau này ở trên trời. Chỉ ngày nào ra khỏi thân xác, mới ra khỏi nơi lưu lạc, mới không còn bước đi loạng choạng trong thứ ánh sáng nửa tối nửa sáng của đức tin, và mới được ở trước thiên nhan Chúa, diện đối diện, sáng tỏ hoàn toàn, không còn tranh tối tranh sáng nữa.
Do đó không phải chỉ khi gặp thử thách nặng nề, con người mới rơi vào chốn lưu đày. Nhưng bản chất của cuộc đời hiện nay là thời gian như không thấy Thiên Chúa hành động và các sức lực tự nhiên trong vũ trụ như cứ xảy ra theo định luật của chúng. Nước Thiên Chúa và sự công chính, nếu không hoàn toàn y như hạt giống đang nằm trong lòng đất, chẳng ai nhìn thấy, thì cũng chỉ giống như hạt cải đứng bên mọi thứ hạt khác, nhỏ bé đến nỗi người ta có thể không để ý đến nó. Chính vì vậy mà rất nhiều người hiện nay không quan tâm sống đạo đức và đi tìm Nước Thiên Chúa. Nhưng như hạt giống sẽ đi đến ngày gặt hái, hạt cải sẽ lớn thành cây, Nước Thiên Chúa cũng sẽ đi đến ngày tỏ hiện và sẽ bao trùm tất cả thế gian. Lúc ấy mỗi người sẽ lĩnh lấy thành quả đời mình khi còn sống trong thân xác, nơi chốn lưu đày. Thế nên điều quan trọng nhất cho chúng ta trong cuộc đời, là làm đẹp lòng Chúa, để khi Người đưa chúng ta ra khỏi chốn lưu đày, chúng ta được trở nên như nhánh bá hương oai lẫm; để khi mùa gặt đến, chúng ta là bông thóc chắc, để khi thời gian đã qua, chúng ta là cây rau to lớn... hoặc như khi chim trời được đến nấp bóng cây cải đã to là Hội Thánh trong thời viên mãn, là thân thể Chúa Kitô đã đạt tới tầm vóc kiện toàn.
Giờ đây mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được cử hành trong mầu nhiệm Thánh Thể. Bề ngoài chỉ có tấm bánh và chén rượu. Có là gì trước mắt thế gian và đối với lịch sử thế giới? Không như hạt giống hạt cải sao? Và cộng đoàn tín hữu này có hơn gì đám dân lưu đày thời Ezekiel? Nhưng đức tin dạy chúng ta nhìn thấy mầu nhiệm Chúa Cứu thế, mầu nhiệm Hội Thánh, mầu nhiệm cuộc đời nơi những sự bé nhỏ và thông thường kia. Chúng ta hãy đón nhận Chúa, hãy kết hợp với Hội Thánh, hãy quyết tâm sống đẹp lòng Chúa. Mọi sự trong cuộc sống của chúng ta sẽ có ý nghĩa mới và có thể sẽ giống như hạt giống, hạt cải và nhánh bá hương nói đến trong ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay.
25. Chúa Giêsu thích dùng Dụ Ngôn
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 4:26-34: Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy cũng không biết.”
Từ thời Giáo Hội sơ khai, người ta gọi dụ ngôn là loại chuyện Chúa Giêsu kể để minh giải lời giảng dạy của Người. Theo gốc Hy Lạp, từ ngữ- parabolê có ý tưởng so sánh. Thực vậy, tinh thần Đông Phương thích nói và dạy dỗ dưới hình thức so sánh; họ cũng dùng ẩn ngữ để khêu gợi tính tò mò, khích lệ việc tìm tòi; chúng ta thấy âm hưởng của sở thích đó trong Sách Thánh, đặc biệt trong những châm ngôn của các bậc hiền triết (Cn 10, 26; 12,4; Qa 14,14). Tuy nhiên đó không phải là điều cốt yếu để cắt nghĩa thể văn dụ ngôn này: ta phải hiểu dụ ngôn như là việc dàn cảnh những biểu tượng, nghĩa là các hình ảnh rút ra từ những thực tại trần thế để chỉ các thực tại được Thiên Chúa mạc khải và những thực tại này thường phải được cắt nghĩa sâu xa.
Chúa Giêsu thích dùng dụ ngôn
Mầu nhiệm Vương Quốc và con người Chúa Giêsu quá mới lạ đến nỗi chỉ có thể được biểu lộ dần dần và theo sức hấp thụ khác nhau của thính giả. Chính vì thế trong giai đọan đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu dặn bảo mọi người giữ bí mật về Đấng Massia mà thánh Marcô đã làm nổi bật (Mc 1,34.44; 3,12; 5,43…). Vì vậy Chúa Giêsu cũng thích nói bằng dụ ngôn, và các dụ ngôn dù đưa ra ý tưởng đầu tiên giáo thuyết của Người, chúng buộc thính giả phải suy nghĩ và cần phải giải thích, nếu họ muốn thấu hiểu chúng. Như thế chúng ta gặp một lời giảng dạy có hai cấp bậc được thánh Marcô nhấn mạnh rõ ràng (4, 33-34): dựa theo các chủ đề cổ điển (Vua, tiệc cưới, vườn nho, chủ chăn, hạt giống. . .) các thính giả đều có thể đoán ý nghĩa dụ ngôn nhưng các môn đệ có quyền xin Chúa Giêsu giúp đào sâu giáo thuyết… Như thế các dụ ngôn xuất hiện như trung gian cần thiết để lý trí đến gần đức tin: người tín hữu càng thấu suốt mầu nhiệm mạc khải, họ càng hiểu rõ các dụ ngôn; trái lại người nào càng từ khước sứ điệp của Chúa Giêsu càng thấy các dụ ngôn về Nước Trời khó hiểu. Các thánh sử nhấn mạnh sự kiện này, vì họ xúc động khi thấy nhiều người Do Thái cứng lòng trước Tin Mừng, nên họ trình bày việc Chúa Giêsu trả lời cho các môn đệ bằng một câu trích trong Isaia: các dụ ngôn làm nổi bật sự mù quáng của những kẻ cương quyết từ chối đón nhận sứ điệp của Chúa Kitô (Mt 13, 10-15ss). Tuy nhiên bên cạnh các dụ ngôn có liên quan đến thể văn khải huyền, cũng có những dụ ngôn rõ ràng hơn nhằm dạy luân lý mà ai cũng có thể lĩnh hội được (như Lc 8, 16tt ; 10, 30-37 ; 11,5-8)
J.Hervieux định nghĩa dụ ngôn như sau: “Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Với hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh”
Dụ ngôn hạt giống trong bài Tin Mừng hôm nay
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy cũng không biết.” (Mc 4,26-27).
Đức Giêsu kể một dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời.
Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy, nhưng chúng ta phải tâm niệm một điều đó là “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời”. Amen.
26. Có hạt giống Nước Trời ở trong tôi không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Thưa quý OBACE, khi bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Lời kêu gọi này gây ngỡ ngàng cho nhiều người, và họ tự hỏi Nước Trời là gì?
Trong sứ mạng loan báo Nước Trời, Đức Giêsu cũng đã dùng đến những hình ảnh nông nghiệp gần gũi, để diễn tả về Nước trời như dụ ngôn về hạt cải được thuật lại hôm nay. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé, vậy mà khi nảy mầm đâm nhánh, nó lại trở thành một cây to lớn đến độ chim trời có thể đến nương náu dưới cành của nó. Hình ảnh này đã được tiên tri Ezekian tiên báo trong thị kiến của ông: Ngày ấy, từ ngọn cây hương bá cao chót vót, Đức Chúa sẽ ngắt một chồi non, chính ta sẽ trồng chúng trên đỉnh núi cao vời vợi… nó sẽ trổ cành kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Cây hương bá của Israel là một loài cây gỗ quý giá, là niềm tự hào và hãnh diện của quốc gia, vì vậy những anh hùng dân tộc của họ cũng được sánh ví như cây hương bá, hoặc vẻ đẹp trong trắng và cao sang cũng được sánh ví như rừng hương bá núi Liban (như Đức Maria được sánh ví như vườn hương bá Liban). Với hình ảnh chính Thiên Chúa sẽ trồng trên ngọn núi cao vườn cây của Ngài, nó sẽ trổ sinh hoa trái, muôn chim sẽ tìm đến ẩn nơi cành nó, vị tiên tri muốn nói đến một thời mà Thiên Chúa sẽ cắt đi sự kiêu hãnh của Israel, và chính tay Ngài sẽ trồng và tạo nên một dòng dõi mới, một thế hệ mới, giống như một rừng cây hương bá mới. Chính Thiên Chúa sẽ chăm sóc vun trồng và làm cho nó nên xanh tươi, và muôn dân tộc trên khắp thế giới sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng đã trồng và đã làm nên như vậy, còn Israel cùng với sự kiêu căng tự mãn của họ sẽ bị Thiên Chúa làm cho khô héo.
Hình ảnh vườn cây của Thiên Chúa mà tiên tri Ezekien nói tới, đã được Đức Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Chính Đức Giêsu là Đấng sẽ gầy dựng nên một dòng giống mới, một khu vườn mới, vườn của Nước Trời. Trong vườn này, được trồng toàn những cây giống đã được tuyển chọn, và tưới gội bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài, và chính Thiên Chúa sẽ bảo vệ và làm cho vườn cây mới này được nên xanh tươi và sinh nhiều hoa quả tốt lành. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh nội tại, sức mạnh lan tỏa của nước Trời, những ai đón nhận lời rao giảng của Ngài, giới răn và giáo huấn của Ngài, bước đi theo Ngài, tức là đón nhận hạt giống nước trời, thì người ấy sẽ mang một sức mạnh từ bên trong tâm hồn và sẽ lớn mạnh trong đời sống đức tin, sẽ trổ sinh hoa trái thiêng liêng thánh thiện trong cuộc đời và còn trở nên có ích cho mọi người.
Nước Trời, quả thật là một hình ảnh thật mới mẻ và khó có thể diễn tả hết bằng lời và cũng không thể so sánh một cách đầy đủ bằng một hình ảnh, chính vì thế Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau để mạc khải về nước Trời: Nước Trời giống như vườn nho mà Thiên Chúa là người chủ vườn, như chuồng chiên mà Thiên Chúa là mục tử, như mẻ lưới được quăng xuống biển và bắt được nhiều cá, hôm nay Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt cải để trình bày về nước trời.
Nước trời bắt đầu bằng một sư nhỏ bé khiêm tốn như một hạt cải, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài như những hạt giống nhỏ bé đầu tiên, thế mà, với quyền năng của Thiên Chúa, hạt cải này đã trổ mầm và thành một cây to lớn hơn mọi thứ rau cỏ khác. Những hạt cải nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành cây to lớn là Giáo Hội, mà ngày nay cành lá của giáo hội đã lan tỏa khắp cùng trái đất, và Giáo hội đang trổ sinh hoa quả của Nước Trời cho con người và thế giới hôm nay. Hình anh một cây xum xuê hoa trái che phủ cả mặt đất, và chim trời đến nương náu dưới cành của nó, muốn nói đến cây Giáo Hội hôm nay cũng là nơi dành cho mọi người mọi dân có thể nương náu nơi sự chở che bảo vệ của Giáo hội.
Nhưng sâu xa hơn, hình ảnh hạt giống Nước Trời mà Chúa Giêsu nói hôm nay, còn muốn nói đến hạt giống tin Mừng ở trong mảnh đất tâm hồn của mỗi người. Nếu như người phật giáo cho rằng ở nơi mỗi con người đều có phật tính, thì chúng ta là những Kitô hữu, tức là những người có Chúa Kitô, những người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta tin rằng trong mỗi chúng ta đều có Chúa Kitô và có mầm giống Nước Trời ở trong tâm hồn, hay nói khác hơn là mỗi người đều có Nước Trời trong tâm hồn ngay hôm nay và ngay lúc này. Hạt giống nước trời trong chúng ta đã được gieo trong ngày chúng ta lãnh Bí tích Rửa tội, và chúng ta được chăm bón và vun tưới bằng các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Giải tội, vấn đề là mầm giống ấy hôm nay đang ở tình trạng nào? Hạt giống đức tin, mầm sống Nước Trời ở trong chúng ta có thực sự tươi tốt hay là chỉ còn đang sống một cách èo uột không có hoa trái?
Thưa quý OBACE, Nước trời trong tâm hồn chúng ta là gì, hiện nay chúng ta có sinh được hoa trái của Nước Trời hay không? Hay nói khác đi Nước Trời có ở trong chúng ta hay không?
Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài chính là nước Trời, có Đức Giêsu là có cả Nước trời, giữ Lời Đức Giêsu và đem ra thực hành là chúng ta đang làm cho hạt giống Nước Trời sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã có lần nói như thế với những người Do Thái: Nếu các ông tin và đón nhận Ngài, thì nước trời đang hiện diện trong lòng các ông rồi. Như vậy để chứng tỏ mình là công dân Nước Trời, là những người thuộc về chúa Giêsu, thì chúng ta phải có Chúa trong tâm hồn và trong cuộc đời, trong hành động của mình. Thực tế trong cuộc sống của nhiều tín hữu, họ chỉ có Chúa khi đến nhà thờ, chỉ có Chúa trên môi miệng, mà không hề có Chúa trong cuộc sống và không có Chúa trong các hành động của mình, chính vì vậy mà hành động của họ toàn là sự gian ác bất công, là mờ ám gian dối, là tội lỗi xấu xa; chính vì không có Chúa trong cuộc sống, nên cuộc sống của nhiều người tín hữu không khác gì cuộc sống của dân ngoại, thậm chí còn tệ hơn cả những người dân ngoại.
Chỉ khi có nước trời trong tâm hồn, chúng ta mới có thể sinh được hoa trái thánh thiện, hoa trái của nước trời, theo thánh Phaolô hoa trái ấy là: sự bình an, niềm vui, lòng quảng đại, nhân ái yêu thương, là khoan dung, nhân từ độ lượng… Như thế, nếu mỗi người tự xét mình mà không thấy những hoa trái nêu trên thì chứng tỏ người ấy chưa có nước trời trong tâm hồn, hoặc là hạt giống Nước trời chưa phát triển được trong tâm hồn người ấy.
Không chỉ có nước trời trong tâm hồn, mà mỗi người còn được mời gọi trở nên nước trời và là nước trời ngay trong xã hội hôm nay, làm cho hạt giống nước trời được trổ cành đâm nhánh trong thế giới và trở thành nơi nương náu an toàn cho mọi người. Hãy bắt đầu trổ sinh hoa trái ngay trong gia đình của mình, các bậc cha mẹ hãy làm cho gia đình của mình được che phủ bởi bóng mát của Nước Trời, hãy để cho những hoa trái là lòng nhân ái sự khoan dung tha thứ, sự thông cảm lắng nghe được nảy nở trong gia đình, hãy đem đến cho gia đình mình sự bình an thay cãi vã, sư tha thứ thay cho giận hờn, tiếng nói tiếng cười thay cho những lời chửi bới. Hãy làm cho gia đình mình thực sự trở thành nơi nương náu an tòan cho con cái, để mọi thành viên cảm nhận được gia đình chính là nơi nghỉ ngơi an toàn, là nơi mà mỗi người đều được đón nhận thông cảm và tôn trọng.
Các bạn trẻ cũng cần tự đặt cho mình câu hỏi như thế: Nước Trời có ở trong tôi hay không? Tôi có thuộc về Nước Trời hay không? Thưa các bạn, cuộc sống của chúng ta dành ưu tiên cho điều gì, dành phần lớn thời gian cho ai là chúng ta đang nghiêng chiều về phía đó, nhiều bạn trẻ ngày nay hầu như chỉ còn dành sự quan tâm cho công ăn việc làm, cho danh vọng bằng cấp, lương bổng nhiều hơn là quan tâm đến việc làm cho nước Trời lớn lên trong cuộc đời, và càng không quan tâm đên trổ sinh hoa trái nước trời trong cuộc sống, họ đã để mình cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội và không còn biết mình thuộc về ai, không biết mình thuộc về Thiên Chúa, về Nước trời hay thuộc về thế gian?
Xin cho mỗi người luôn biết tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi đang thuộc về ai? Nước trời có ở trong tôi hay không? Và biết tìm đến Chúa để có câu trả lời đúng đắn cho cuộc đời mình.
27. Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông)
Chúa Giê-su rao giảng cho đám đông bằng dụ ngôn, từ những hình ảnh đơn sơ giản dị được lấy ra từ đời thường, để dẫn đưa họ vào những thực tại cao vời khôn ví của Nước Trời. Văn chương Đông Phương (Ai-cập, Cận Đông) thích những bí nhiệm; các sách khải huyền Do thái được điểm tô với những bí nhiệm này. Các dụ ngôn rất gần với thể loại văn chương này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ, vì sau này, họ sẽ tiếp tục sự nghiệp của Ngài mà loan báo Lời rõ ràng và phong phú cho quần chúng. Tin Mừng Mác-cô đề nghị cho chúng ta hai dụ ngôn: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải: dụ ngôn thứ nhất thuộc nguồn riêng của Mác-cô, dụ ngôn thứ hai chung với Mát-thêu (13, 31-32) và Lu-ca (13, 18-19).
1. Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên (4, 26-29):
Bản văn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài Đọc I) giúp chúng ta hiểu dụ ngôn hạt giống tự mọc lên này. Chính Đức Chúa sẽ trồng một chồi non mà Ngài đã ngắt từ ngọn hương bá. Vì Đức Chúa trồng, chắc chắn chồi non này sẽ mọc và lớn lên: “Nó sẽ trổ cành và kết trái”. Cũng vậy trong dụ ngôn hạt giống tự mọc lên, hình ảnh Nước Thiên Chúa được phát triển trong thầm lặng nhưng chắc chắn. Có lẽ không dụ ngôn nào đem đến niềm an ủi hơn dụ ngôn này. Thiên Chúa hiện diện và hành động trong thế giới và hành động của Ngài chắc chắn rồi sẽ sinh hoa kết quả, dù bên ngoài âm thầm lặng lẽ. Thời gian cũng không được tính đến.
Phải chăng dụ ngôn này muốn nói rằng người Ki-tô hữu không cần phải hành động bởi vì “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Việc dọn đất được nêu lên, vấn đề đất có thuận lợi hay không cho hạt giống phát triển đã được bàn đến trong một dụ ngôn khác (dụ ngôn người gieo giống: 4: 1-9). Chúng ta không những có bổn phận cầu xin cho “Nước Chúa trị đến”, nhưng còn phải góp phần mình vào việc xây dựng Nước Chúa ở ngay trong cõi thế này. Ở đây, vấn đề được nêu lên đó là quyền năng tất thắng của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn Triều Đại của Ngài cho đến lúc phát triển viên mãn: đó sẽ là mùa thu hoạch.
Tuy nhiên, phải chăng Chúa Giê-su dùng dụ ngôn này nhằm nhắn gởi đến những người nôn nóng và bạo động, tức là nhóm Nhiệt Thành được nuôi dưỡng bằng những giấc mơ đầy tham vọng của họ mà vài người trong số họ là môn đệ của ngài. Ngài muốn dẫn các môn đệ của Ngài đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sứ mạng của Ngài. Ngài đã đến gieo lời Ngài và lời Ngài sẽ sinh hoa kết trái. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào lời Ngài, tuy nhiên, chiều kích năng động của lời này cốt yếu là nội tại và tinh thần.
2. Dụ ngôn hạt cải (4, 30-32):
Để diễn tả năng lực phát triển kỳ diệu của Nước Trời khởi đi từ khởi đầu rất khiêm tốn, Chúa Giê-su đưa ra một so sánh được mượn từ một hình ảnh rất quen thuộc thường ngày: hình ảnh hạt cải khi được gieo thì nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng khi “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời cũng sẽ như vậy. Khởi đi hầu như không gì cả: mười hai tông đồ, vài môn đệ và vài người phụ nữ, nhưng sẽ phát triển rực rỡ.
Chúa Giê-su ám chỉ đến các bản văn của Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en trong các dụ ngôn cây hương bá của họ; tuy nhiên, rõ ràng Ngài tránh lấy lại hình ảnh cây hương bá cao vút trên đỉnh non cao, biểu tượng cho quyền lực thống trị. Ngài cũng không lấy lại hình ảnh chồi non, vì hình ảnh này gợi lên hậu duệ nhà Đa-vít và có thể gợi lên việc phục hưng quyền lực chính trị. Hình ảnh hạt cải hàm chứa một sự mĩa mai, nhưng chắc chắn nói lên tính chất phi chính trị của Nước Trời.
28. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin mừng Mc 4:26-34: Hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cảm nhận việc Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn về nông nghiệp, gần gũi với đời sống thường ngày để mặc khải cho dân chúng về sự phát triển của nước Trời.
Hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cảm nhận việc Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn về nông nghiệp, gần gũi với đời sống thường ngày để mặc khải cho dân chúng về sự phát triển của nước Trời.
Xem ra, hai dụ ngôn nông nghiệp này dần xa lạ với cuộc sống ngày nay đối với người trẻ, vì chúng ta đang sống trong một cuộc sống công nghiệp hiện đại. Dẫu vậy, chắc hẳn chúng ta có thể hiểu ít nhiều về việc trồng trọt, tưới nước và thu hoạch. Chẳng hạn, kinh nghiệm việc mình gieo một hạt giống, có thể là hột ớt, hột cà hay hột một bông hoa. Và Chúa Giêsu đã sử dụng dụ ngôn gieo trồng mà con người ta quen thuộc, dễ nắm bắt để giúp hình dung về Nước Thiên Chúa, về Vương quốc tâm linh phát triển trong mỗi con người.
Để trở thành công dân của một quốc gia, chúng ta cần sự chuẩn bị trong một khoảng thời gian nhất định tùy mỗi người cho những thủ tục cần thiết. Cũng vậy, để trở thành công dân Vương quốc tâm linh nước Trời, mỗi người chúng ta cũng cần chuẩn bị cho mình tâm thế sẵn sàng. Như Đức Thánh cha Bênêđictô thứ XVI nhắc nhở chúng ta rằng “tâm hồn con người là vị trí thiết yếu của Vương quốc Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã gieo hạt giống là tiếng lương tâm vào trong tâm hồn con người, bất kể lương dân hay giáo dân. Và Ngài muốn hiện diện, sống và phát triển bên trong mỗi chúng ta. Khi chúng ta tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, khi sống theo điều luật Chúa truyền là làm làm lánh dữ, khi sống dưới con mắt của Đấng luôn xem thấy mọi sự, từ suy nghĩ, dự tính, lời nói, hành động của chúng ta, khi chúng ta thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh chị em như chính mình, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên mỗi ngày một vững chãi hơn.
Vâng, một người được gọi là thánh khi ngay từ những giây phút đời tạm này, người đó cố gắng sống tốt. Những thói quen tốt sẽ tạo thành nhân đức; những nhân đức giúp con người ta nên thánh. Và thánh nhân sẽ được ở trong Nước Trời. Và nếu như muốn trở thành người tốt, chúng ta hãy biết khởi đầu. “Cây non dễ uốn”, dẫu trong chúng ta có những bất toàn và va vấp, chúng ta hãy bắt đầu lại, hãy để cho hạt giống Thiên Chúa được gieo lại trong mảnh đất tâm hồn chúng ta. Không bao giờ là quá muộn cho một người muốn nên thánh, muốn sống tốt dẫu rằng còn đó những khuyết điểm.
Xin minh họa bằng câu chuyện về “Chiếc thùng nứt”:
Có người nọ dùng hai cái thùng để gánh nước. Theo thời gian, một trong hai cái thùng bị nứt, lỗ mọt làm nước rỉ ra. Cho nên, khi anh ta gánh nước từ giếng về thì một bên thùng đầy nước, và bên kia thì nước chỉ còn một nửa. Nhưng anh cảm thấy mỗi ngày mình thực hiện công việc gánh nước một cách vui tươi hơn, tinh thần phấn chấn hơn. Và rồi, một ngày nọ, anh phát hiện con đường quen thuộc anh gánh nước mỗi ngày, bên phía chiếc thùng rỉ nước xuất hiện những đóa hoa rực rỡ. Anh nhận ra chính những giọt nước rỉ ra đã tưới cho cây cỏ ven đường.
Lạy Chúa, con biết thân phận con người chúng con đầy những bất toàn yếu đuối, đầy những “vết nứt”, nhưng con cũng tin Chúa là Đấng toàn năng có thể biến sự xấu thành sự lành nơi tâm hồn chúng con. Xin giúp chúng con học biết nên thánh mỗi ngày. Amen.
29. Việc lớn, việc nhỏ – PM. Cao Huy Hoàng
Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.
Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.
Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.
Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những lời dặn dò dịu ngọt, những lời sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức âm thầm của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quý trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.
Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một linh mục, một nữ tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.
Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ nhặt, chê bai những người làm công việc tầm thường, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng nhưng đã tận tuỵ làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ.
Tưởng cũng nên nhắc đến ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng “trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… khiến nó trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!
Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Giêsu - Tấm lòng khiêm nhượng của Giêsu - Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Giêsu.
Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.
Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện âm thầm của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu, thì chắc gì bạn đã được bình yên, được khoẻ mạnh, được thành đạt trong việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình, giáo xứ và cả Hội Thánh nữa.
Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”.
Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.
Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc lớn, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.
Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới.
Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình, nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.
Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển.
Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.
Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình, đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 giáo dân trên tổng số 27.000 dân hải đảo, một ngôi thánh đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi.
Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quý chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quý chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.
30. Ai ngăn được Nuớc Trời tăng trưởng?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Dụ ngôn là một loại hình văn phong khá quen thuộc với người Do Thái, đặc biệt thời Chúa Giêsu. Dụ ngôn là một câu chuyện kể vốn được lấy trong đời thường. Ý của tác giả kể chuyện dụ ngôn thường nằm ở câu kết và có khi lại được gợi mở qua một hai chi tiết nào đó có vẻ nghịch thường, không hợp lý của câu chuyện.
Tin Mừng Hội Thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật XI TN B là hai câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể để nói về Nước Trời. Ý nghĩa của hai dụ ngôn dường như đã quá rõ, đó là sự phát triển cách diệu kỳ của Nước Trời như mùa gặt bội thu, như cành lá xum xuê của cây cải. Ý nghĩa của dụ ngôn còn hiển thị nơi chi tiết có vẻ nghịch thường đó là người nông dân làm mùa cách bàng quan và nơi hình ảnh chim làm tổ dưới cành lá cây cải vốn chỉ là một loại rau. Xưa nay ít có nhà nông nào đã gieo hạt mà chẳng cần biết lúa mọc ra sao. Chuyện chim làm tổ dưới cành lá cây cải cũng là chuyện xưa nay hiếm. Các chi tiết nghịch thường này muốn làm nổi rõ chân lý này: sự phát triển của Nước Trời không hệ tại bởi sức con người mà chủ yếu là do quyền năng của Thiên Chúa.
Dựa vào lời mạc khải, chúng ta có thể khẳng định Nước Trời là nước của Thiên Chúa, vương quốc của tình yêu và của sự thật. Con người đã bị sự tham lam ích kỷ chi phối, do đó tình yêu đã bị làm biến dạng và băng hoại cách nào đó. Sự ích kỷ tham lam cũng đã làm con người xa rời, tránh né sự thật. Đây là tình trạng mà thánh Gioan gọi là “thế gian”, theo nghĩa là tình trạng vắng bóng hay chối từ Thiên Chúa.
Thế nhưng, “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Con Thiên Chúa đã vào trần gian để “làm chứng cho sự thật”, để sống yêu thương bằng việc phục vụ và hiến dâng mạng sống của mình (x.Ga 18,37). Nước Trời đã ở giữa nhân loại chúng ta. Cho dù bị khuớc từ hay bị chống đối lúc này lúc kia, nơi này khác, bởi người này người nọ, nhưng Nước Trời vẫn không ngừng lớn mạnh, vì Thiên Chúa là Đấng xây dựng và làm cho Nước Trời phát triển. Hạt giống Nước Trời được gieo vải, có thể có nhiều hạt như là bị hoang phí vô ích vì rơi trên vệ đường, rơi vào đất sỏi đá hay đất gai góc, nhưng khi có hạt rơi vào đất tốt thì sẽ sinh được một trăm hạt, sáu mươi hạt và chí ít cũng sinh được ba mươi (x.Mt 13,18-23). Thế là vẫn dư lãi.
Vì sự tham lam ích kỷ, háo danh, tham quyền, hám lợi lộc, con người bị cám dỗ sống giả dối, gian trá, sống bất công, ghen ghét, hận thù, sát phạt lẫn nhau. Tuy nhiên niềm khát mong sống trong công lý và sự thật vẫn mãi còn đó, sự ao ước được sống trong yêu thương vẫn luôn có đó. Nền khoa học công nghệ của con người luôn tăng tiến và ngày nay xem ra tiến bộ cách tỏ tường, đặc biệt là nền công nghệ viễn thông. Nhân loại ngày càng xích lại gần nhau hơn và nhờ thế sự tương thân tương ái càng có điều kiện phát triển. Một tai ương hoạn nạn vừa xảy ra ở đây thì chỉ năm bảy phút sau nhiều người trên thế giới đã có thể cập nhật thông tin và tình người lại được dịp rộng mở với sự sẻ chia cách này cách khác. Bên cạnh đó nền thông tin hiện đại đã giúp con người dễ dàng tiếp cận với chân lý và có điều kiện để đòi hỏi quyền được sống trong sự thật. Các phong trào dân chủ nhân quyền đang phát triển đó đây là một minh chứng cụ thể.
Nước Trời, vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng cả về mặt không gian lẫn chất lượng. Không có gì, không có ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Trời. Tất thảy vì lý do này: chính Thiên Chúa là Đấng dựng xây Nước Trời. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn dành phần vinh dự cho con người khi trao trọng trách cho con người góp phần xây dựng vương quốc ấy. “Xin cho Nước Cha trị đến”. Một nội dung của lời kinh “Lạy Cha” mà Chúa Giêsu truyền dạy khẳng định với chúng ta chân lý này (x.Mt 6,10). Là Kitô hữu, bạn, tôi, chúng ta đã làm gì cho Nước Trời trị đến trên trần gian này và trên quê hương chúng ta đang sống?
31. Hạt giống âm thầm.
Suy niệm:
Bài Phúc Âm trình hai dụ ngôn khác nhau: dụ ngôn hạt giống tự mọc (Mc 4,26-29). Và dụ ngôn hạt cải (3,34).
I/ Dụ ngôn hạt giống tự mọc (c.26-29). Trước khi hiểu về dụ ngôn này, xin đừng quá nhấn mạnh vào chi tiết để hỏi ai là người gieo hạt giống tự mọc kia. Nếu cho đó là Chúa Kitô thì phải hiểu thế nào về việc Ngài ngủ Ngài thức, về việc Ngài không quan tâm và không hay biết gì về Nước Trời tiến triển ra sao trong khi chúng ta biết Chúa hằng quan phòng và săn sóc Giáo hội cho đến tận thế. Vậy chúng ta phải hiểu dụ ngôn bao giờ cũng trình bày một số bài học chính như sau:
1. Nước Trời, Giáo Hội của Chúa có sức mạnh tăng trưởng tự động bởi ơn Chúa.
2. Nhưng tăng trưởng một cách chắc chắn, từ từ và âm thầm, mà bất chấp mọi trở ngại thử thách. Thiên Chúa có giờ của Ngài chứ Ngài không đốt giai đoạn.
3. Đối với nhà nông, chúng ta hay cho rằng thành quả của mùa màng là do công lao của riêng mình. Có khi còn nghĩ rằng được mùa là do công khổ của mình; còn mất mùa là đổ thừa cho Chúa. Trên phạm vi mùa màng chúng ta thấy có gì? Chúng ta gieo giống, cấy giống, làm cỏ, thuỷ lợi, gặt hái. Thế nhưng cái căn bản nhất là sự tăng truởng, sự sống, và sự lớn lên, kết bông trái của mùa màng thì chắc chắn chúng ta không làm được đâu. Dù chúng ta thức hay ngủ nghỉ, dù muốn hay không thì cây lúa vẫn tự nó lớn từ từ không gián đoạn... cho đến ngày mùa.
Nước Trời cũng thế. Con người chúng ta có thể làm được nhiều chuyện, nhưng là những chuyện phụ thuộc thôi, chúng ta chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa. Nước Trời không lệ thuộc vào văn minh của chúng ta đâu. Điều này Thiên Chúa vẫn thường minh chứng trong lịch sử con người. Thiên Chúa đã cấy Giáo Hội của Ngài vào trong trần gian là cánh đồng. Cánh đồng ấy sẽ tăng trưởng, lớn lên và ngày mùa là ngày tận thế. Nước Chúa qua Giáo Hội vẫn cứ tăng trưởng qua mọi hoàn cảnh, thời gian và không gian.
Nước Chúa trị đến sẽ mãi mãi là đến chứ không lùi. Cho nên phía chúng ta là nhân loại đừng quá nóng ruột mà mất hy vọng, mất cả lòng tin và đức cậy nữa. Trong sách Khải Huyền có tiếng kêu: “Khi nào Thiên Chúa can thiệp?” thì được trả lời “khi nào số kẻ được chọn đủ số.” Số kẻ được lựa chọn vẫn cứ được bồi thêm mỗi ngày. Tóm lại Nước Trời vẫn trị đến cả lúc Babel sụp đổ giữa cả bao nhiêu nền văn minh tan nát, giữa hai lần thế chiến, giữa lòng người bất an với nhau... thì Kinh lạy Cha vẫn cứ vang lên “Danh Cha cả sáng.”
Dụ ngôn này cho chúng ta thấy một vẻ lạc quan an lòng. Nhưng cũng đừng quá lạc quan cho rằng mình như một thứ đồng hồ lên giây đủ rồi để rồi không làm việc. Không, con người phải làm bổn phận của mình như dụ ngôn nén bạc đã nói (Mt 25,14-30). Khi chúng ta làm xong bổn phận, hãy tạ ơn Thiên Chúa mà nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, làm việc mình phải làm” (Lc 17,10). Chúng ta nhớ lại lời Thánh Phaolô “Nhưng Chúa làm cho cây lớn lên” (1C 5,3-7)
II/ Dụ ngôn hạt cải muốn nói lên chân lý: bất cứ cái gì dù nhỏ bé đến mấy mà Thiên Chúa can thiệp vào đều trở nên quan trọng lớn lao và hữu ích.
Hạt cải theo Máccô là thứ hạt nhỏ hơn hết mặc dù không hẳn đúng như thế, nhưng quan niệm của người Do Thái khi muốn so sánh vẫn lấy hạt cải làm mốc. Cũng như kiểu nói Việt Nam vẫn lấy con kiến làm nhỏ “nhỏ như con kiến.” Vậy một hạt cải nhỏ bé tầm thường mà chúng ta có thể vo trong tay. Nhưng nếu gieo vào lòng đất, nó sẽ nẩy mầm, vươn lên. Nẩy mầm là khởi đầu một sự sống mới. Sự sống ấy tuy mỏng manh nhưng không gì ngăn cản được. Hạt cải gieo vào đất ít tháng sau có thể cao như cây trứng cá của chúng ta mà chim trời tới đậu được. Nhất là vào mùa hè trái cải chín mọng chim sẻ rất ham ăn... Còn trẻ con cũng tới đó để bắt chim vui nhộn.
* Ý nghĩa chung của dụ ngôn này là sức mạnh bành trướng chiều rộng của Nước Trời, của Hội Thánh Chúa ở trần gian.
1. Trước hết Đấng Sáng Lập là Đức Kitô sống ẩn dật không ai biết tới, bị khinh dể là ở Nagiarét, là con bác thợ mộc.
2. Giáo Hội của Chúa từ đầu bé nhỏ nghèo nàn, không quân quốc, không binh bị, tiền tài, uy thế. Tất cả công việc của Chúa lúc bình sinh xem ra thất bại và kết thúc bằng cái chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nhưng đó chính là hạt giống tự mục nát đi (Ga 12,24).
3. Sự thiếu thốn nhân sự. Vỏn vẹn lúc đầu chỉ có 12 tông đồ nhút nhát. Thật đúng như lời Chúa phán: “Hỡi đoàn chiên nhỏ của Ta, đừng sợ vì Cha các con thích ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúa Giêsu đã dùng ngay hình ảnh hạt cải để ám chỉ về Giáo Hội Ngài thành lập. Nhưng lúc ấy không mấy ai lưu tâm đến dụ ngôn này. Khởi đầu nước Chúa với con số 12 người. Ngày Chúa về Trời con số môn đệ khoảng 120, âm thầm sống và tăng trưởng đều đều.
Theo như 4 bản niên giám thế giới thì năm 1950 số tín hữu theo Chúa khoảng 800 triệu người. Đến năm 1975, số tín hữu (kể cả 3 ngành: Chính thống, Tin lành, Công giáo) lên tới một tỷ 24 triệu 106 ngàn 500 người. Nhưng con số đó không hề quan hệ cho bằng vấn đề ơn cứu rỗi. Có đức tin thì dễ, nhưng duy trì được đức tin là chuyện khác và thực hành đức tin lại là chuyện khác nữa.
Nếu chỉ có tin mà không thực hành là một cái xác không hồn, là thứ cây vả xanh um bên ngoài (Mc 11,20). Có lẽ ngày về trời chúng ta mới hiểu được thế nào là dụ ngôn hạt cải. Ngày ấy chúng ta có thể đếm những số các thánh mà ngày nay sách Khải Huyền cũng chịu, đếm không được, không xuể.
Đối với mỗi người cũng bắt đầu từ chỗ tầm thường nhỏ bé như vậy, từ một em bé thành người lớn. Kể cả trên phạm vi sự nghiệp cũng thế. Vậy thì trên lãnh vực đức tin, chúng ta nhớ rằng dù một hành vi nhỏ bé tầm thường đến đâu như cho đi một bát nước lã – là cũng đang đóng góp vào sự nghiệp nước trời. Chính việc bác ái gương lành đan kết thành triều thiên chói ngời trên trời ngày mai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, trong những bổn phận dù âm thầm hàng ngày, xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa. Chính Ngài sẽ làm cho công việc của chúng con thực hiện theo ý Chúa để đạt kết quả tốt. Như thế chúng con sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì gieo Lời Chúa dù gặp điều kiện thuận lợi hay không.
(Trích trong http://www.dmhcg.org)
32. Chuyện Nước Trời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mùa thường niên (còn gọi là mùa quanh năm) là mùa bát ngát màu xanh. Xanh tươi mát. Xanh hy vọng. Hy vọng được về Thiên Quốc. Nhưng muốn về nơi đó thì phải cố gắng miệt mài tìm kiếm Nước Trời. Chúa Giêsu đã từng căn dặn: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:31-33). Ngài còn đưa ra nhiều cách so sánh khác về Nước Trời, chứng tỏ Nước Trời vô cùng quý giá! Tuy nhiên, “chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22).
Đức Chúa là Chúa Thượng tuyên phán: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en. Nó sẽ trổ cành và kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành” (Ed 17:22-23). Thiên Chúa lấy một “chồi non”, chồi non thì nhỏ và yếu ớt, thế nhưng nó lại trổ thành cây cao bóng to đến nổi muôn chim ẩn mình dưới bóng cây đó. Thiên Chúa là Đấng toàn năng, biến “cái không thể” thành “cái có thể” (x. Mt 19:26).
Thật vậy, Ngài biết chắc: “Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi. Chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17:24). Ngài có thể biến khô thành tươi, cải tử hoàn sinh,… nói chung là Ngài biến đổi tất cả!
Một Thiên Chúa như vậy thì quá kỳ diệu, quá tuyệt vời. Và đó là Chúa của chúng ta. Thế nên tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Thú vị thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya” (Tv 92:2-3). Tác giả so sánh: “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn” (Tv 92:13-15). Chúng ta được như vậy là để loan truyền Danh Chúa uy linh, đồng thời phải nói to rằng: “Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Ngài chẳng có chút bất công” (Tv 92:16).
Cảm nghiệm niềm hạnh phúc đó, Thánh Phaolô xác định: “Ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5:6-7). Nghĩa là đức tin quan trọng hơn phép lạ. Chắc chắn là vậy, vì chính Đức Kitô cũng đã xác định: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Đức tin có đủ mạnh thì chúng ta mới có thể “mạnh dạn lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:8). Lìa bỏ thân xác mình bằng nhiều cách: Bỏ một thói xấu, bỏ đường tội lỗi, hy sinh làm điều gì đó hoặc khước từ điều gì đó,… Không dễ chút nào, nhưng với ơn Chúa thì chúng ta có thể dứt khoát hành động.
Thánh Phaolô nói thêm: “Dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Ngài” (2 Cr 5:9). Vậy mới là tham vọng thánh thiện, vì đôi khi chúng ta hành động vì đẹp lòng người khác (và mình được vinh danh) hơn là làm đẹp lòng Chúa. Cho nên chúng ta phải hết sức cẩn trọng: “Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:10).
Trình thuật Mc 4:26-34 hôm nay kể về “Chuyện Nước Trời”. Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời nhưng không hề bóng gió khó hiểu, trái lại, rất đơn giản và dễ hiểu. Dù người không được học văn hóa nhiều cũng có thể hiểu chính xác.
Rồi Ngài lại nói: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời thật kỳ lạ, nhỏ mà to, hẹp mà rộng, yếu mà mạnh. Nước Trời rất quý, là “chúa ngọc” của những viên ngọc, ai đã “thấy” thì không thể không bỏ mọi sự để có thể chiếm hữu Viên Ngọc đó.
Thánh sử Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Ngài không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Giống như ca dao Việt Nam nói: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Vậy đó, nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, Ngài giải nghĩa hết. Không phải Ngài thiên tư tây vị, mà Ngài làm vậy để giáo huấn và đào tạo các tông đồ và rồi trao trọng trách cho họ phải nói cho người khác biết rõ về Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin thương giúp chúng con can đảm từ bỏ chính mình, không ngừng tìm kiếm Nước Trời, để có thể quyết tâm triệt để và dứt khoát hành động bằng mọi giá. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
33. Dụ ngôn Nước Trời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Dụ ngôn cũng được gọi là ngụ ngôn. Hai danh từ này có nghĩa tương đương nhưng cũng nghĩa khác nhau.
Ngụ ngôn (Anh: parable, fable; Pháp: parabole, fable) là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi hoặc văn vần, mang tính hoang đường, truyền thuyết, hư cấu, “bịa” ra như chuyện phiếm, nhưng vẫn có bài học luân lý, mang tính giáo dục, răn đời; các nhân vật thường là vật hoặc con vật được nhân cách hóa, các nhân vật cũng có thể là người hoặc thần linh.
Dụ ngôn (parable, parabole) cũng là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi, nhưng khác là mang tính bí ẩn, mang tính tục ngữ, đặc biệt là mang chiều kích tâm linh. Chúa Giêsu dùng thể loại này, tức là Ngài dùng thể loại “dụ ngôn” chứ không dùng “ngụ ngôn”.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để minh họa chân lý, dùng hình ảnh dưới thế nhưng mang ý nghĩa trên trời. Ngài thích dùng dụ ngôn, có lẽ vì loại văn này độc đáo, như Kinh Thánh xác nhận: “Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34; Mc 4:34). Có khoảng 35 dụ ngôn trong các Phúc Âm nhất lãm.
Có lần các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” (Mt 13:10). Ngài nói: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13:11-15; x. Mc 4:10-12 và Lc 8:9-10).
Nhưng khi chỉ có Thầy trò với nhau, Chúa Giêsu giải thích hết cho các môn đệ hiểu. Ngài nói rằng việc sử dụng các dụ ngôn có hai mục đích: Mặc khải sự thật cho những người muốn biết và che giấu sự thật đối với những người dửng dưng, không quan tâm. Nhóm Pha-ri-sêu đã công khai khước từ Đấng Mê-si-a và phỉ báng Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ phạm loại tội nặng nhất, không được tha cả ở đời này và đời sau (Mt 12:22-32). Họ đã ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói về những người cứng lòng, đui mù và câm điếc: “Hãy đi nói với dân này rằng: Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kỹ, nhưng đừng nhận ra. Hãy làm cho lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa lành” (Is 6:9-10).
Sau khi dùng các dụ ngôn, Chúa Giêsu thường nói: “Ai có tai nghe thì nghe” (Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35). Đó là cách mời gọi lắng nghe dụ ngôn, không chỉ nghe chuyện đời thường mà là tìm kiếm sự thật của Thiên Chúa. Ngài ban cho mỗi người có HAI TAI và MỘT MIỆNG, tức là PHẢI NGHE nhiều hơn NÓI. (Ngoài ra còn hai mắt, hai chân và hai tay – nhìn nhiều, đi nhiều và làm nhiều).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán hứa: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en. Nó sẽ trổ cành và kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành. Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi. Chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17:22-24). Trong đó có “hình bóng” của dụ ngôn thời Tân Ước mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Đó là một lời hứa, nhưng là lời hứa đang ứng nghiệm trong “Thời Cánh Chung” – thời chúng ta đang sống.
Được lời hứa của Thiên Chúa thì còn gì hạnh phúc bằng, vì lời hứa đó chắc chắn ứng nghiệm và hiện thực, chứ không như lời hứa của phàm nhân – nhưng con người mang họ “hứa” và liên quan dòng máu Chú Cuội. Tác giả Thánh Vịnh thầm nguyện: “Thú vị thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya” (Tv 92:2-3). Tạ ơn và xưng tụng Chúa là trách nhiệm của phàm nhân, các “sinh vật cao cấp” được Ngài tạo dựng vì yêu quý và thương xót.
Tác giả Thánh Vịnh so sánh: “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng: Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất công” (Tv 92:13-16). Màu xanh thiên nhiên cho thấy sức sống dồi dào của cảnh vật, đó là nhờ bám rễ sâu vào lòng đất để hút các dưỡng chất; cũng vậy, con người sẽ thanh thản và bình an phát triển nhờ hồng ân Thiên Chúa, mãi mãi không tàn úa.
Thánh Phaolô bộc bạch: “Chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa. Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:6-8). Đức tin thực sự rất cần thiết, cần hơn việc “được thấy Chúa”. Thế nhưng, nhiều người vẫn “đua nhau” tìm kiếm “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, Thánh Thể là phép lạ vĩ đại nhất, hằng ngày vẫn xảy ra tại các nhà thờ hoặc nhà nguyện ở khắp nơi trên thế giới, thế thì còn tìm điều gì lạ ở nơi nào chứ?
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nhưng, dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người. Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:9-10). Ý Chúa có lẽ không phức tạp như chúng ta tưởng, ý Chúa là bổn phận của chúng ta trong thời điểm hiện tại, dù chúng ta ở nơi này hoặc nơi khác. Làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình là “làm đẹp lòng Chúa”. Đơn giản mà lại không dễ hoàn tất!
Trình thuật Mc 4:26-34 là dụ ngôn “Hạt Giống Tự Mọc Lên” mà Chúa Giêsu dùng với ngụ ý đề cập Nước Trời. Ngài nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa”. Cái mà chúng ta gọi là “tự động” hoặc “tự nhiên” thì thật ra chính là ý Chúa quan phòng và tiền định. Không ai thấy Nước Trời, nhưng Nước Trời vẫn lớn dần trong mỗi chúng ta và trong xã hội. Đơn giản và thực tế như chính phủ, chẳng ai thấy chính phủ và chẳng ai là chính phủ, nhưng chính phủ vẫn hiện hữu.
Nói dụ ngôn xong, Ngài đặt vấn đề: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Ngài muốn dùng cách nói cụ thể để ai cũng hiểu, tất nhiên tùy theo mức độ nghe và hiểu của mỗi người – nhưng phải hiểu đúng chứ đừng hiểu theo ý riêng mình.
Hiểu ý Chúa qua Phúc Âm cũng dễ mà cũng khó. Có lẽ dụ ngôn “Người Gieo Giống” (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20; Lc 8:11-15) là dụ ngôn duy nhất được Chúa Giêsu đã giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ. Để hiểu các dụ ngôn khác, có thể lưu ý mấy điểm này:
1. Xác định phạm vi tâm linh. Chúa Giêsu thường giới thiệu một dụ ngôn bằng cách nói “Nước Trời ví như...” hoặc “giống như…” (đề cập 7 lần trong chương 13, Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu). Trong dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và Người Thu Thuế”, Thánh Luca ghi: “Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác...” (Lc 18:9).
2. Phân biệt “chính” và “phụ”. Nói cách khác, không phải các chi tiết của dụ ngôn đều có ý nghĩa sâu sắc. Một số chi tiết chỉ làm cho câu chuyện thực tế hơn. Chẳng hạn, theo cách giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn “Người Gieo Giống”, Ngài không bình luận về bốn loại đất khác nhau. Chi tiết “bốn loại” chỉ là chi tiết phụ đối với toàn bộ dụ ngôn này.
3. So sánh Kinh Thánh. So sánh Kinh Thánh với Kinh Thánh là quy luật chú giải vô giá khi tìm hiểu các dụ ngôn. Các dụ ngôn của Chúa Giêsu không bao giờ mâu thuẫn với Lời Chúa (Kinh Thánh), bởi vì Ngài đã xác nhận: “Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì” (Ga 12:49). Các dụ ngôn minh họa giáo lý, và các giáo huấn của Chúa Giêsu luôn rõ ràng, mạch lạc.
Chúng ta thấy sách Châm Ngôn có những điều tương tự. Thánh vương Sa-lô-môn đã dùng cách so sánh (tỷ giảo cách) để dạy về sự thật, đặc biệt trong tính tương đương điển hình, sinh ra một “dụ ngôn đơn giản”. Chẳng hạn: “Cơn thịnh nộ của vua như tiếng gầm sư tử, kẻ làm vua nổi giận là làm hại chính mình” (Cn 20:2). Tiếng gầm của sư tử được “ví như” cơn giận của nhà vua với mục đích là so sánh. Cách so sánh là cách giúp người ta dễ hiểu vấn đề nào đó. Văn so sánh là đặc ngữ trong các dụ ngôn – ngụ ngôn không có loại này.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con hiểu rõ và biết cố gắng thực hành các huấn lệnh Ngài dạy, cụ thể là qua các dụ ngôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
34. Vương Quốc và Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. Mark Link, S.J.)
Một ngày kia, bé Sharon, năm tuổi, đến thăm bà ngoại. Trong cuộc thăm viếng này, bà đã cho cháu một trái dưa leo lớn nằm trong lọ thuỷ tinh.
Bé Sharon rất ngạc nhiên và hỏi: “Ngoại ơi, làm sao trái dưa leo lọt được vào cái chai qua cái miệng nhỏ xíu này?” Bà ngoại mỉm cười và nói:
“Cháu ơn, nếu bà nói cho cháu nghe bí mật này ngay lập tức, nó sẽ làm hư một bí mật lớn hơn mà bà muốn nói cho cháu nghe sau này. Hãy suy nghĩ một chút xíu đi.
“Bà biết là cháu sẽ tìm ra câu trả lời. Và lúc đó, bà sẽ nói cho cháu biết một bí mật lớn hơn.”
Khoảng một tuần sau, bé Sharon thơ thẩn hái bông trong khu vườn của bà ngoại. Bỗng dưng, nó thấy một cái chai mà trong đó bà ngoại đã nhét vào một nhánh nhỏ với trái dưa leo chút xíu. Bây giờ nó đã hiểu cách bà ngoại nó làm: bà nhét dưa leo vào cái chai khi nó còn nhỏ và để nó lớn lên ở trong đó. Nó chạy đến bà ngoại, vừa nhảy nhót vừa nói, “Ngoại ơi, con biết bí mật đó rồi. Bây giờ ngoại nói cho con biết bí mật lớn đi. Con không chờ được nữa!”
Bà ngoại nó bắt đầu:
“Bí mật thì như thế này: một thói quen tốt mà cháu tập luyện bây giờ giống như trái dưa leo nhỏ trong cái chai. Từ từ nó lớn lên và lớn hơn nữa bên trong con người cháu, như vậy khi cháu trưởng thành, không ai lấy đi được đức tính ấy.
“Và như vậy, điều bí mật là thế này: Nếu cháu muốn sau này hạnh phúc thì phải tập luyện một thói quen tốt ngay tự bây giờ.”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một bí mật cũng giống như bí mật của bà ngoại cháu Sharon đã kể.
Đức Giêsu gieo một hạt cải nhỏ xíu của Nước Trời trong lòng mỗi người chúng ta. Nó “đâm chồi và lớn lên” mà không ai biết.
Công việc của chúng ta là nuôi dưỡng nó với sự cầu nguyện và công việc lành cho đến khi nó lớn lên đến độ không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta – dù là những tai hoạ, những bách hại, và ngay cả cái chết.
Ở đây, điều quan trọng cần để ý là sự lớn lên của Nước Trời trong mỗi người chúng ta thì từ từ, thay đổi dần dần.
Cũng giống như cần phải có thời gian để trái dưa leo nhỏ xíu lớn lên trong cái chai, Nước Trời cũng vậy. Đây là lý do tại sao vẫn còn sự dữ bên trong tâm hồn chúng ta, và nhất là trong thế giới.
Hạt giống của Nước Trời đã được gieo xuống; nó đang mọc lên nhưng chưa đạt đến trọn vẹn.
Đây là lý do chúng ta xin cho “nước Cha trị đến” khi đọc kinh Lậy Cha.
Trong khi đó, “lĩnh vực của Satan” tiếp tục chiến đấu chống với Nước Trời.
Nói cách khác, vương quốc của Satan thì chỉ mới bị kết án tử hình. Nó chưa bị tiêu diệt. Và hậu quả là nó vẫn gieo rắc sự thù địch trong thế giới chúng ta.
Điều này đưa chúng ta đến điểm quan trọng thứ hai về Nước Trời.
Không giống như một cây rõ ràng xuất phát từ hạt giống nhỏ xíu, để mọi người đều thấy, Nước Trời thì vô hình và không thể thấy. Nó là tinh thần. Đức Giêsu nói:
“Nước Thiên Chúa không đến theo kiểu cách để được thấy. Không ai có thể nói, ‘Kìa, nó ở đây! Hay ‘Nó ở kia’; bởi vì Nước Thiên Chúa thì trong lòng anh em.” (Luca 17:20-21)
Điều này đưa chúng ta đến với vai trò của Giáo Hội. Đức Giêsu đã thiết lập Hội Thánh để phục vụ hai mục đích.
Thứ nhất, nó phục vụ như một “hạt giống” mà từ đó Nước Trời sẽ xuất phát. Thứ hai, nó là một “dấu hiệu” thấy được của vương quốc Thiên Chúa trong thế giới chúng ta.
Cũng giống như Đức Giêsu, Hội Thánh có hai chiều kích: chiều kích thiêng liêng và chiều kích nhân bản.
Chiều kích thiêng liêng thì vô hình. Không có ai khác hơn là chính Đức Kitô, Người là đầu và là sự sống của Hội Thánh.
Ngược lại, chiều kích nhân bản thì hữu hình. Đó là các phần tử của Hội Thánh.
Qua đời sống chứng nhân và phụng tự của chúng ta, là các phần tử của thân thể Đức Kitô, chúng ta làm cho Hội Thánh trở nên hữu hình và hoạt động trong thế giới.
Chiều kích nhân bản của Hội Thánh thì giống như bất cứ gì thuộc về con người; nó có khuyết điểm. Điều này không chỉ bao gồm các phần tử, nhưng còn cả giới lãnh đạo: các giám mục và linh mục của Hội Thánh.
Bởi vì có khuyết điểm, nó không luôn luôn trưng ra được “diện mạo của Đức Kitô” cho thế giới thấy như nó phải thi hành.
Nó cũng dễ sa ngã tội lỗi và vẫn phải tranh đấu để trở nên điều mà Thiên Chúa đã mời gọi.
Hậu quả là trong cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh, nó luôn luôn là một sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối.
Sẽ luôn luôn có đủ ánh sáng cho những ai thành tâm muốn được thấy và cũng đủ tối tăm cho những ai không muốn.
Đây là điều nó phải như vậy. Ánh sáng của Hội Thánh không bao giờ trùm lấp chúng ta. Nó chỉ mời gọi chúng ta.
Nói cách khác: khi nói đến sự hiện diện của Hội Thánh, nó không bao giờ quá sáng tỏ đến độ chúng ta không cần phải thắc mắc gì cả.
Nó cũng không ẩn giấu quá kín đến độ người thành tâm muốn tìm kiếm phải lầm lạc. Nó luôn luôn mở rộng cho cả hai điều khả dĩ.
Và đây là điều phải như vậy. Đức Giêsu tôn trọng sự tự do con người. Đức Giêsu không ép buộc chúng ta phải đi theo Người.
Hãy để tôi kết thúc với một đoạn trích từ bài thơ thật hay bởi một tác giả vô danh.
Nó hầu như tóm lược những gì mà chúng ta muốn nói. Bài thơ viết:
Tôi nghĩ không bao giờ tôi thấy được một Giáo Hội đúng như tất cả những gì nó phải là:
Một Giáo Hội mà các phần tử không bao giờ lệch lạc khỏi con đường thẳng và hẹp.
Một Giáo Hội không còn hàng ghế trống trong nhà thờ, và cha xứ không bao giờ phải thất vọng.
Các Giáo Hội tuyệt hảo như thế có lẽ cũng có nhưng tôi chưa bao giờ được biết.
Tuy vậy, chúng ta sẽ làm việc và chơi đùa và hoạch định để làm cho Giáo Hội của chính chúng ta trở nên tốt nhất có thể.
35. Sức mạnh của Nước Trời
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng về Nước Trời. Đây là một đề tài rất khó hiểu vì nó quá trừu tượng. Ngài phải vận dụng mọi sự vật chung quanh, mọi hình ảnh cụ thể để nói lên cho thính giả biết về những đặc tính của Nước Trời.
Vì thế, Đức Giêsu phải dùng nhiều dụ ngôn, để mỗi dụ ngôn nói lên một đặc tính của Nước Trời. Dĩ nhiên, dụ ngôn không làm cho người ta hiểu chính xác và thấu đáo về Nước Trời, nhưng cũng đem lại cho người nghe một vài ý niệm, để từ đó, dưới sự trợ giúp của ơn Chúa và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người ta sẽ có một quan niệm chính xác về Nước Trời.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ đưa ra hai dụ ngôn về người gieo giống và hạt cải để nói lên sức mạnh nội tại của Nước Trời, nghĩa là hạt giống Lời Chúa được gieo vãi, cứ âm thầm mọc lên và phát triển không ngừng. Hội thánh của Chúa từ một khởi đầu nhỏ bé, khiêm tốn, nhưng vẫn phát triển trong gian nan thử thách và một ngày kia Hội thánh sẽ lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ. Và sau cùng, Hội thánh sẽ trở nên thành toàn viên mãn trên thiên quốc.
Tuy Nước Trời có sức mạnh nội tại tự phát triển không ngừng, nhưng chúng ta là những thành viên, có nhiệm vụ góp phần làm cho Nước Trời phát triển lớn mạnh trong khả năng hạn hẹp của chúng ta. Phần việc của chúng ta thì chúng ta cứ làm, còn phần của Thiên Chúa thì Ngài sẽ làm theo sự khôn ngoan của Ngài. Chúng ta hãy tin chắc rằng Nước Trời sẽ thành toàn trong ngày sau hết và chúng ta sẽ được vào đó để hưởng vinh quang mà Chúa dành cho chúng ta. Nhưng trong khi chờ đợi đến ngày đó, theo lời thánh Phaolô trong bài đọc 2, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Ed 17,22-24
Đây là một dụ ngôn lạc quan mà tiên tri Ezéchiel nói với dân Israel đang bị lưu đầy bên Babylon để họ nuôi niềm hy vọng lớn lao.
Từ cây bị đốn ngã là Israel, chính Thiên Chúa sẽ ngắt một nhánh con trên ngọn và đem trồng nơi đất tốt để từ nhánh mới đó sẽ lại xuất hiện một cây hương bá sum suê, nghĩa là Thiên Chúa sẽ cho họ được hồi hương và đất nước họ sẽ được thịnh vượng.
Thực tế là Thiên Chúa sẽ tái thực hiện kế hoạch của Ngài, nhưng trong sự khiêm tốn và hèn mọn của một “số sót nhỏ bé”.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,6-10
Người Kitô hữu sống ở thế gian ví như bị lưu đầy “xa Chúa” (2Cr 5,6). Khi nói như thế, có lẽ thánh Phaolô nghĩ đến những người Do thái nơi tha hương, sống xa Đền thờ Giêrusalem. Quả thật, người Kitô hữu cũng ở trong hoàn cảnh tương tự với đền thờ mới là Đức Kitô vinh quang.
Tuy sống ở trần gian như bị lưu đầy xa Chúa, người Kitô hữu vẫn một lòng trông cậy sẽ thoát cảnh lưu đầy đó mà về với Chúa.
Trong khi chờ đợi đến ngày đó, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, để khi đến ngày đó, chúng ta sẽ được Thiên Chúa xét xử và thưởng công.
+ Bài Tin mừng: Mc 4,26-34
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn để nói về sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa theo hai đặc tính:
- Dụ ngôn thứ nhất: Đức Giêsu ví Nước Thiên Chúa như hạt giống gieo vào lòng đất, hạt giống cứ âm thầm mọc lên thành cây, không cần biết người gieo thức hay ngủ, đêm hay ngày. Điều đó nói lên sức phát triển nội tại của Nước Thiên Chúa.
- Dụ ngôn thứ hai: Đức Giêsu ví Nước Thiên Chúa như hạt cải rất nhỏ gieo xuống đất. Hạt cải dần dà lớn lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến núp dưới bóng của nó. Điều đó nói lên sức bành trướng rất mạnh của Nước Thiên Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Sức mạnh của Nước Trời
I. NÓI VỀ DỤ NGÔN
Đức Giêsu đi rao giảng về Nước Thiên Chúa cho mọi người, cách riêng cho người Do thái. Nước Thiên Chúa tức là Nước Trời như Ngài đã rao giảng:”Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15)… Đức Giêsu có ý phân biệt Nước Thiên Chúa mà Ngài sẽ thiết lập, tức là Hội thánh của Ngài, với nước trần gian theo kiểu người Do thái vẫn hằng mong ước, là được giải thoát khỏi ách nô lệ của đế quốc Rôma.
Đức Giêsu không dùng kiểu nói của các nhà hiền triết hay các nhà thần học với kiểu nói trừu tượng để nói về Nước Trời nhưng dùng những hình ảnh tự nhiên, quen thuộc và một kiểu nói bình dân để nói lên các đặc tính của Nước Trời. Hay nói cách khác, Ngài hay dùng dụ ngôn mà giảng dạy.
J. Hervieux giải thích:”Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh (L’Evangile de Marc, Centurion, tr 65).
Các dụ ngôn không cho chúng ta thấy toàn cảnh, nhưng dù sao cũng cho chúng ta một số khái niệm về Nước Thiên Chúa. Trong chương 4 của Phúc âm thánh Marcô, chúng ta thấy có 3 dụ ngôn khác nhau về Nước Chúa. Nhìn vào lần lượt từng dụ ngôn một, chúng ta có 3 hình ảnh khác nhau về Nước Thiên Chúa. Điều lý thú là cả ba đều nói về hình ảnh hạt giống. Hôm nay chúng ta chỉ nói tới hai dụ ngôn thôi.
II. HAI DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI
Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về người gieo giống và hạt cải để nói lên hai đặc tính của Nước Trời, đó là Nước Trời hay Hội thánh của Chúa cứ âm thầm tăng triển và từ một cộng đoàn nhỏ bé sẽ trở nên một cộng đoàn lớn mạnh.
1. Dụ ngôn người gieo hạt giống.
Đức Giêsu dùng lối so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Ngài đều biết rõ. “Gieo hạt giống” đó là cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Người ta đã gọi dụ ngôn này là “hạt giống tự mọc lên” vì mọi sự diễn tiến đúng như vậy.
Theo Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa như người kia gieo hạt giống xuống đất… hạt giống tự nó đâm mầm và mọc lên thế nào, nào ai biết? Thì Nước Trời cũng giống như vậy. Hạt giống Lời Chúa được rao giảng bên ngoài, sức tác động của Chúa hoạt động bên trong, thế là Phúc âm sẽ sinh hoa kết quả. Nhưng Chúa thấy trước, lời của Ngài, sứ vụ của Ngài sẽ gây kết quả từ từ, không gấp gáp, không gây chấn động. Vậy phải nhẫn nại, hãy đợi chờ, như người nông phu đợi chờ hạt giống nảy mầm và sinh hoa kết quả.
Vì vậy, người tông đồ không được sốt ruột khi thấy công việc rao giảng Tin mừng không đi đến đâu. Hạt giống đâu có thể lớn vượt thời gian được, nó phải lớn lên từng bước theo trật tự tự nhiên của vạn vật. Do đó, Lời Chúa cũng phải theo một trật tự như thế.
Chúng ta cần hiểu rằng Nước Thiên Chúa âm thầm lớn mạnh, tuần tự nhi tiến, dưới sự thúc đẩy của Chúa. Nhưng sự tiến triển cũng đòi hỏi sự góp phần tích cực của chúng ta.
Đừng ngã lòng khi không thấy kết quả trước mắt. Sự lỗi lầm lớn của các tông đồ là dựa trên tài cán, nghị lực của ta hơn là vào sức mạnh của Chúa. Nhưng hãy cố gắng hết sức ta, thi hành phận bé nhỏ của ta vì yêu mến. Và kết quả sẽ đến vào lúc thật bất ngờ nhất.
Truyện: Giải đáp ba thắc mắc
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không?
- Có.
Câu hỏi thứ hai: các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
Câu hỏi thứ ba: Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật bản đã tái sinh.
2. Dụ ngôn hạt cải
Đức Giêsu sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải. Dụ ngôn này cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Thật chẳng tương xứng chút nào! “Hạ cải… là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất, nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ”.
Cây cải ở xứ Palestine khác với cây cải ở xứ ta. Ở xứ Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn.
Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh thánh” đã viết:”Tôi đã thấy cây này trong cánh đồng phì nhiêu ở Akka, nó cao bằng con ngựa và người cưỡi ngựa. Với sự giúp đỡ của người hướng dẫn, tôi đã nhổ được một cây cao hơn 4 mét”.
Ví dụ này của Đức Giêsu không thổi phồng sự thật chút nào. Người ta vẫn thấy những loại cải hay cây cải to như vậy có bầy chim bu quanh, vì chim thích những hạt cải đen nên chúng đậu trên cây để ăn. Vì thế Đức Giêsu mới nói rằng Nước Ngài giống như hạt cải lớn lên thành cây.
Ý nghĩa của ví dụ này rất rõ ràng. Nước Thiên Chúa bắt đầu từ những bước khởi điểm hết sứ nhỏ bé, nhưng không biết khi nào nó kết thúc.
Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình. Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển.
Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Marcô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm nhường, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Ngài là Giáo hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống và khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kích toàn cầu (Theo J. Hervieux).
Bước khởi đầu của Nước Thiên Chúa khiêm tốn như vậy đấy, nhưng sự bắt đầu là rất quan trọng. Có nhiều việc lớn phải bắt đầu bằng những việc nhỏ, ví dụ: muốn xây một tòa nhà thì phải bắt đầu bằng từng viên gạch; muốn viết một cuốn sách thì phải bắt đầu bằng từng trang, thậm chí từng chữ; muốn làm một chuyến viễn du phải bắt đầu bằng từng bước; muốn xây một tình bạn thì phải bắt đầu bằng những cuộc gặp gỡ đổi trao.
Truyện: Hạt giống cây tre Tầu
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống cây tre Trung quốc. Hạt giống nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước, nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung quốc. “Hạt bé nhất” lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Chúa Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau 20 thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Ngài biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh “âm thầm lớn lên” với bao gian nan và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Ngài dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Ngài không biết đến bao tội ác đang lan tràn khắp thế giới. Dường như Ngài không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Ngài.
Nhưng với lòng tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong ngày Cánh chung sẽ tới.
III. NHIỆM VỤ CỦA CHÚNG TA.
Đức Giêsu đã thành lập Hội thánh qua 2000 năm rồi, Hội thánh vẫn trường tồn nhưng chưa hoàn chỉnh. Chúa còn cần đến sự đóng góp của chúng ta, tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết. Người ta thường nói:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, việc của chúng ta thì chúng ta cứ làm, còn kết quả là do Chúa định.
Truyện: Thế giới chưa hoàn chỉnh
Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, cỏ hoa, sinh vật, chim cá… Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi:”Thưa Chúa, vậy thế giới đã xong chưa”? Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ:”Ta mệt rồi. Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con”. Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Thiên Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là: ”Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của ta”.
Có những điều mà chúng ta có thể làm và phải làm, Thiên Chúa sẽ không làm điều đó thay chúng ta. Không phải vì Ngài không thể làm chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta phải gieo hạt giống, đó là phần việc của chúng ta. Nhưng khi làm điều ấy, chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta không thể làm mọi việc. Chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Đó là phần việc của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa làm phần việc của Ngài. Không một chủ nông trại hoặc người làm vườn nào sẽ nói với bạn điều ấy.
Chúng ta có nhiệm vụ truyền bá Nước Thiên Chúa cho người ta trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như không thuận tiện, cho những người muốn nghe cũng như cho những người không muốn nghe. Phần chúng ta cứ việc gieo Lời Chúa và để cho Lời Chúa âm thầm mọc lên.
Bên Phương Tây, có những người thẳng thừng chống lại Thiên Chúa, họ bảo rằng:”Thiên Chúa đã chết rồi” (Nietzsch), nhưng Thiên Chúa vẫn còn, Ngài là Đấng ẩn danh (Deus Absconditus), Ngài vẫn nói, nói một cách khiêm tốn và dịu hiền để ai có tai, có thiện tâm thì nghe rất thấm thía. Kẻ ác tâm, dã tâm, vô tâm chẳng bao giờ nghe được tiếng Ngài. Mà chỉ thấy chói tai.
Người Đông Phương xưa, tuy không gần Ngài bằng xương, bằng thịt, nhưng cũng nhìn thấy:”Thiên hành kiện” – Trời hành động kiên cường không ngừng, mà chẳng nói gì “Thiên hà ngôn tai” – Trời không nói bằng miệng, nhưng nói bằng nhiều cách: nói bằng tác tạo trời đất muôn vật, nói trong lương tâm con người:”Thiên mệnh chi vị tính”, nói bằng ban phép tắc cho muôn vật:”Duy thiên sinh dân, hữu vật, hữu tắc”. Vì thế, con người phải biết luôn luôn tìm ý Ngài để tuân theo. Không biết tìm ý Trời thì không đáng là quân tử, không xứng đáng làm con Trời:”Bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử”.
Để kết thúc, chúng ta hãy trở lại bài đọc 2, thánh Phaolô cho biết cuộc sống ở trần gian này được coi như cuộc lưu đầy “xa Chúa” (2Cr 5,6). Nhưng chúng ta tin chắc rằng một ngày kia chúng ta sẽ rời bỏ chốn lưu đầy này mà về với Chúa.
Tuy nhiên, trong khi còn sống ở trần gian này chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, góp phần làm cho hạt giống Lời Chúa được phát triển mạnh mẽ, được sinh hoa kết quả dồi dào, đợi chờ một mùa bội thu trong thời viên mãn là ngày Cánh chung.
36. Hạt giống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Mc 4:26-34: Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành.
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Hình ảnh cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng dọc dài thời gian của lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Thiên Chúa.
Dụ ngôn “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) chính là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá.
Hạt giống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Đạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái... khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.
Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người truyền giáo cần phải sống giữa những anh chị em nầy và chia sẽ đời sống của họ. Đó là điều cần phải làm trước tiên và đó là chìa khóa thành công của một nhà truyền giáo thật sự. Cần huấn luyện những cá nhân trưởng thành và những tổ chức tự lập ngõ hầu những thành phần của địa phương có thể rao giảng phúc âm cho chính đồng bào của họ và cung cấp những giáo dân có đức tin vừng mạnh, có trình độ trí thức tốt, có khả năng làm việc cách hăng say giữa anh chị em mình.
Tôi vừa mới đi du lịch hành hương đất nước Hàn Quốc(10-15/6/2012). Theo linh mục Piero Gheddo, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Milano: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).
Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.
Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.
Đức Hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.
Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay lên 10 triệu. (Sẽ chia sẻ thêm về Giáo hội Hàn Quốc trong những bài sau).
Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13).
Một Giáo Hội khiêm nhu nhỏ bé dễ hòa mình vào giữa đại đa số những người nghèo của Châu Á. Và một Giáo Hội không quyền lực dễ gần gũi số đông những người chỉ mơ ước được làm người, được cơm no áo ấm, được học hành và có việc làm. Vì phải chăng đã đến lúc cần sáng tạo ra những "mô hình" mới của Giáo Hội như là những cộng đồng nhỏ bé, dễ hòa mình vào những cộng đồng xã hội của người nghèo: những cộng đồng nghèo hơn, ít bề thế, ít cồng kềnh, khiến người ta không còn e dè sợ hãi khi tiếp cận, gặp gỡ, những cộng đồng mở rộng hơn là khép kín. Sau cùng đó là những cộng đồng quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống toàn diện của con người, không chỉ khép kín trong đời sống thuần túy tôn giáo, nghĩa là trong việc cử hành bí tích hay phụng vụ, mà còn dấn thân trực tiếp vào việc cải thiện đời sống vật chất, nâng cao văn hóa và giáo dục cho người dân, nhất là những người nghèo. Tục ngữ Việt Nam có câu: "có thực mới vực được đạo". Giáo Hội không được sai đến để giải quyết vấn đề kinh tế xã hội... nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội không quan tâm đến những vấn đề ấy. Chúa Giêsu đã loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, mà Tin Mừng của Người là "làm cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy" (Lc 7,22).
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, truyền giáo chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.
37. Hạt cải Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói chúng ta là công dân Nước Thiên Chúa và có bổn phận xây dựng Nước Thiên Chúa. Nhưng có lẽ chúng ta chưa hiểu bao nhiêu. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta những điều đó.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy và xin Chúa giúp chúng ta thực hành Lời Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta chưa sống đúng theo niềm tin của mình.
Chúng ta không làm chứng cho những giá trị tốt của Tin Mừng.
Chúng ta không quan tâm xây dựng Nước Thiên Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 17,22-24)
Ngôn sứ Êdêkien rao giảng dụ ngôn này trong thời dân Israel đang bị lưu đày bên Babylon:
Cây hương nam cao nhất ám chỉ Nabuchodonosor và đế quốc của ông. Nó sẽ bị Thiên Chúa chặt xuống.
Một chồi non được Thiên Chúa trồng và lớn lên thành cây hương nam vĩ đại ám chỉ dân Israel. Họ sẽ được Thiên Chúa cho hồi hương và đất nước họ sẽ thịnh vượng.
Tất cả những cây rừng khác ám chỉ các vua và các nước khác. Họ sẽ nhận biết uy quyền của Thiên Chúa và vinh quang của Israel.
2. Đáp ca (Tv 91)
Tv này cũng so sánh người hiền đức như một cây là cây chà là: được vun trồng trong nhà Chúa, lớn lên và trổ sinh hoa trái như cây hương bá đất Liban.
3. Tin Mừng (Mc 4,26-34)
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn giúp người ta hiểu về Nước Thiên Chúa:
Nước Thiên Chúa giống như hạt giống được gieo xuống đất và dù người gieo thức hay ngủ, dù ngày hay đêm, hạt giống cứ âm thầm mọc lên thành cây... Sức phát triển nội tại của Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa giống như một hạt cải rất nhỏ gieo xuống đất nhưng dần dà lớn lên thành cây to đến nỗi chim trời đến núp dưới bóng của nó. Sức bành trướng rất mạnh của Nước Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,6-10)
Giữa những gian truân khổ sở của cuộc đời, thánh Phaolô bày tỏ niềm trông cậy vào Chúa:
* bởi vì sống ở đời này cũng như bị lưu đày xa cách Thiên Chúa. Một ngày nào đó chúng ta sẽ thoát cảnh lưu đày mà về với Chúa.
* trong khi chờ đến ngày đó, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, để khi đến ngày đó chúng ta sẽ được Thiên Chúa xét xử và thưởng công.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt xuống đất"
Cách Đức Giêsu dùng để mô tả Nước Thiên Chúa rất xa lạ với trí tưởng tượng của con người. Ngài không nói Nước Thiên Chúa giống như một đất nước đông đảo hay một đạo quân hùng mạnh, nhưng nói "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt xuống đất". Câu này có nhiều ý nghĩa.
Nước Thiên Chúa là một hạt giống: thực chất của Nước Thiên Chúa không phải là hệ thống tổ chức quy mô hay thế lực mạnh mẽ bề ngoài, mà là những giá trị bên trong, những giá trị mà Đức Giêsu đã rao giảng trong Tin Mừng, như yêu thương, tha thứ, hòa thuận v.v.
Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt: Xây dựng Nước Thiên Chúa không phải bằng cách lập hội kêu gọi càng nhiều người ghi tên vào càng tốt, hay đem quân xâm lấn để mở mang bờ cõi, mà là gieo hạt: đem những giá trị Tin Mừng vùi vào thế giới này, gieo vào lòng nhân loại này.
Hạt giống sẽ dần dần mọc lên: Không nên nôn nóng mong chờ một sự phát triển nhanh chóng ngoạn mục mà phải kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng đồng thời cũng phải lạc quan tin tưởng vì thế nào Nước Thiên Chúa cũng lớn lên.
* 2. Nhỏ bé mà rất mạnh, âm thầm mà bền bĩ
Nhỏ bé mà rất mạnh, âm thầm mà bền bĩ: đó là những đặc tính của hạt giống.
Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt giống để dạy môn đệ Ngài sống và xây dựng Nước Thiên Chúa:
Chúng ta không cần làm những việc to tát vĩ đại. Chỉ cần làm cho tốt những việc nhỏ bé hằng ngày của mình.
Chúng ta không cần ồn ào phô trương hay quảng cáo cho niềm tin của chúng ta. Chỉ cần sống một cách âm thầm nhưng kiên trì những giá trị Tin Mừng mà mình đã nhập tâm.
* 3. Tính nóng vội
Thời nay có nhiều sản phẩm "xài liền", như mì ăn liền, cà phê uống liền, chụp hình lấy liền v.v. Dù chúng ta biết phẩm chất của những thứ đó không được tốt, nhưng chúng ta vẫn thích, bởi vì đỡ tốn công và đỡ mất giờ.
Thế nhưng chúng ta quên rằng có nhiều thứ không thể hối thúc được. Phát triển thành một con người chín chắn là công việc của cả một đời người. Xây dựng một tương quan tốt đẹp với ai đó đòi hỏi rất nhiều thời gian. Biết và hiểu con cái mình cũng đòi cha mẹ phải tốn nhiều thời giờ. Vượt qua tội lỗi và thói xấu cũng không phải là công việc một sớm một chiều.
Thời đại chúng ta ngày này cũng được gọi là thời đại nhấn nút. Nhấn nút một cái là đèn cháy, nhấn nút một cái là máy nổ, nhấn nút một cái là cửa mở ra... Quả thật nhiều phương tiện hiện đại nhằm tiết kiệm sức người là tốt. Thế nhưng kiểu sống "nhấn nút" như thế làm cho chúng ta có khuynh hướng tìm sự dễ dãi. Đi đến thăm một người già hay một người bệnh làm chi cho mất công, sao không gọi điện thoại cho tiện! Hơn nữa có rất nhiều chuyện không thể giải quyết bằng cách nhấn nút: không có nút nào thay thế việc nuôi dạy con cái cho nên người, cũng không có nút nào thay thế việc luyện tập thành thạo một kỹ năng...
Trong dụ ngôn hôm nay, người nông dân đã làm tất cả những gì phải làm, là dọn đất và gieo hạt giống. Sau đó là phần việc của hạt giống, phần việc này ngoài tầm của người nông dân. Người nông dân phải chờ, chờ trong kiên nhẫn và hy vọng.
Dụ ngôn này nhắc chúng ta rằng chúng ta có thể gieo hạt giống nhưng chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Chính Chúa làm việc đó. Nếu chúng ta làm xong phần bổn phận mình thì chắc chắn Chúa sẽ cho sinh hoa kết quả. Nhưng liệu chúng ta có đủ kiên nhẫn và đủ lòng trông cậy không? (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những sự bắt đầu nho nhỏ
Dụ ngôn thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay (hạt cải nhỏ mọc thành cây to) chứa đựng bài học này: có nhiều việc lớn phải bắt đầu bằng những việc nhỏ.
Có rất nhiều thí dụ: Muốn xây một tòa nhà thì phải bắt đầu bằng từng viên gạch; muốn viết một quyển sách thì phải bắt đầu bằng từng trang, thậm chí từng chữ; muốn làm một chuyến viễn du thì phải bắt đầu bằng từng bước; muốn xây dựng một tình bạn thì phải bắt đầu bằng những lần gặp gỡ đổi trao v.v.
Sự bắt đầu rất là quan trọng. Nếu bạn muốn con bạn lớn lên thành người tốt thì bạn phải bắt đầu chăm sóc dạy dỗ nó ngay từ nhỏ. Mà khi bắt đầu thì phải chú ý đến những điều rất nhỏ. Một tính tốt dần dần thành hình từ những thói quen tốt nho nhỏ. Một tính xấu cũng thành hình từ những thói quen xấu được lặp đi lặp lại.
* 5. Câu chuyện minh họa:
a/ Hạt giống:
Bà và cháu gái đang phân loại hạt giống chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt trong tay: "Những mong đợi nhỏ bé và mỏng manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?"
- Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi gặp đau khổ; được sức mạnh khi gặp thử thách; được ánh sáng cho những ngày tối tăm. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực.
b/ Chìa khóa vào thiên đường
Một thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em: "Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đường!"
Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lập lại lời đề nghị: "Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đường". Cuối cùng, họ đưa cho ông chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc nhìn chiếc kim trong tay và nói: "Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đường".
* 6. Hạt giống cây tre tàu.
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của cây tre Trung Quốc. Hạt giống này nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
***
Hạt giống Nước Trời cũng tương tự như hạt giống cây tre Trung Quốc. Cần một thời gian dài "vùi sâu dưới lòng đất", điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Khi hạt giống nẩy mầm lớn lên thành cây, nó phải đương đầu với tính khí thất thường của thời tiết, phải đối phó với cơn giận dữ của giông tố. Đây là lúc phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Người đến thời viên mãn, bất chấp những cản trở của con người. Vì thế, chúng ta không ngừng gieo vãi Lời Chúa, cho dù không thấy hạt giống đang âm thầm phát triển.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung Quốc. "Hạt bé nhất" lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Người biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh "âm thầm lớn lên" với bao gian nan thử và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Người dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Người không biết đến bao tội ác đang lan tràn thế giới. Dường như Người không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Người.
Nhưng với niềm tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong Ngày Cánh Chung sẽ tới.
Có thể nói Đức Giêsu cũng đã gieo hạt giống Đức tin vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Người cũng đang chờ đợi hạt giống ấy mọc lên và tăng trưởng: qua những lời cầu nguyện âm thầm, qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích, và qua đời sống chứng nhân của mỗi người. Đây là việc đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài và lòng trung tín suốt đời. Đức Giêsu nói: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt.10,22).
Wendell Holmes cho chúng ta một bí quyết: "Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có lúc phải lội ngược dòng. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, đừng neo thuyền lại".
Thánh Phaolô dạy: "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện" (Rm.12,12). Ngài cũng đã nêu gương bền chí: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" (2Tm.4,7).
***
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian như hạt giống chôn vùi dưới lòng đất nhưng Chúa đã sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết âm thầm chết đi cho tội lỗi, để được lớn lên trong nguồn ơn Thánh Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu đã phán: "Khi nào có hai ba người họp nhau cầu nguyện thì có Ta ngự giữa". Giờ đây chúng ta hãy hợp một ý một lòng dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện của chúng ta:
1. Hội Thánh chính là Nước Thiên Chúa hữu hình ở trần gian. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng vững mạnh và phát triển.
2. Thế giới ngày nay đang chạy theo những giá trị vật chất và xa dần những giá trị đạo đức. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp phát huy những giá trị Tin Mừng để hoán cải thế giới này.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ đặc biệt những người đang âm thầm gieo những hạt giống Tin Mừng trong môi trường sống của họ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta tích cực và kiên trì xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian.
CT: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã dùng dụ ngôn hạt giống âm thầm mọc để dạy các môn đệ Chúa hãy kiên trì và lạc quan xây dựng Nước Thiên Chúa. Sứ mạng ấy ngày nay được trao lại cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con chu toàn sứ mạng Chúa trao. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho Nước Cha được trị đến.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Ước gì mỗi người anh chị em trở thành một hạt giống Nước Chúa giữa cuộc đời. Chúc anh chị em bình an.
38. Tin tưởng và phó thác – Lm Paul Nguyễn Nguyên
Ai trong chúng ta cũng biết rằng: bất cứ một hạt giống nào, dù nhỏ bé đến đâu cũng đều mang trong mình một sức sống mãnh liệt, bằng chứng khi nó được gieo xuống đất nếu gặp điều kiện thuận tiện để nảy mầm thì nó sẽ phát triển cách rất mạnh mẽ, bất chấp mọi cản trở. Hôm nay, mượn hình ảnh từ thiên nhiên đó, Chúa Giêsu muốn nói tới sự phát triển của Nước Trời. Ngài không nói Nước Trời giống như một đất nước đông đảo hay như một đạo quân hùng mạnh, nhưng nói “Nước Trời giống như người kia gieo hạt xuống đất”, rồi âm thầm chờ đợi theo dòng thời gian, Nước Trời sẽ tự nhiên lớn mạnh, như hạt cải ban đầu nhỏ tí dần dần cũng mọc thành cây cao. Sở dĩ Chúa Giêsu lạc quan như vậy, vì Nước Trời là việc thuộc quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Không một sức mạnh hay gian khó nào có thể cản trở dự định của Thiên Chúa, không một yếu hèn sai lỗi nào của con người có thể là lực cản không cho Nước Trời hiển trị. Thiên Chúa sẽ thắng tội lỗi, thậm chí chính từ tội lỗi con người, Thiên Chúa có thể kéo ra sự lành, để ngay giữa dòng tội lỗi Nước Trời tiếp tục lớn mạnh.
Lịch sử giáo hội đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó: Nước trời khi khởi sự thật là khiêm tốn, chỉ là một Thầy Giêsu thuộc làng quê Nazaret và mười hai đệ tử, những con người hầu như xuất thân từ tầng lớp nghèo, thất học, thấp cổ bé miệng. Thế mà, trải qua năm tháng nó lại phát triển thành một “cây Giáo Hội” to lớn, đã có mặt ở mọi nơi trên mặt đất này, và vô cùng mạnh mẽ với qui mô lớn. Có hệ thống chặt chẽ, có phẩm trật trên dưới vững mạnh, đến nỗi không gì có thể ngăn chặn được ngay cả quyền lực hỏa ngục cũng không thể nào làm chuyển lay. Như vậy, trong nước Thiên Chúa điều quan trọng không phải là những việc làm đấy khó khăn vất vả, nhưng là sức mạnh của lòng tin và sức mạnh của tâm tình phó thác, và đó là điều kiện cho sự lớn lên.
Vì thế, tin mừng hôm nay làm cho chúng ta thêm can đảm sống một cách đầy tin tưởng hơn. Chúng ta không phải một mình làm hết mọi việc với sức riêng, không cần phải vất vả và lo lắng đến thành qủa, nhưng, như người gieo giống, chúng ta có thể thoải mái vô tư chờ sự lớn lên của hạt giống. Tuy nhiên, nói như thế, không có nghĩa là chúng ta không làm gì cả, vì “đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Vì công việc gieo vải, vun trồng và tưới nước là phải của con người, còn việc làm cho hạt mầm mọc lên và đâm hoa kết trái là công việc của Thiên Chúa. Vì yếu tố quan trọng căn bản không phải là đòi hỏi những kế hoạch hay chương trình sống to lớn, nhưng là sự bền bỉ và kiên nhẫn thực hiện từng bước nhỏ, là hoàn tất những hành động bé nhỏ tầm thường trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa sẽ được bắt đầu khi ở đâu có người biết mỉm cười an ủi người khác, biết nâng đỡ người đang gặp khó khăn. Nước Thiên Chúa được bắt đầu khi ở đâu có những bàn tay giơ ra và nắm chặt với nhau để làm hoà, khi ở đâu con người biết xích lại gần nhau với tất cả tâm hồn đầy thiện chí, khi ở đâu mọi người biết ngồi lại để cùng nhau bàn bạc và cùng nhau tìm cách giải quyết các vấn đề còn vướng mắc trong tâm tình đầy cảm thông và hiểu biết.
Vậy ước gì mỗi người trong chúng ta hôm nay ý thức được rằng: chúng ta không cần làm những việc to tát vĩ đại, mà chỉ cần làm cho tốt những việc nhỏ bé hằng ngày của mình, không cần ồn ào phô trương hay quảng cáo cho niềm tin. Chỉ cần sống một cách âm thầm nhưng kiên trì những giá trị Tin Mừng mà mình đã nhập tâm. Rồi Thiên Chúa sẽ có cách làm cho những hạt giống bé nhỏ đời ta sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. sinh ích cho tha nhân và cứu rỗi các linh hồn.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó. Xin cho chúng ta biết gieo vào lòng đời những hạt giống yêu thương, phục vụ bằng chính con người và cuộc sống chúng ta. Amen.
39. Nguồn sống – Lm Giuse Trần Việt Hùng.
Tiên tri Ezêkiel xuất hiện thực hành sứ vụ khoảng giữa năm 592-571 trước Công Nguyên. Tiên tri mang lại cho dân một niềm hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ không quên dân tộc mà Ngài đã chọn. Chúa không bỏ mặc dân trong lưu đầy khổ nạn. Chúa sẽ cứu họ và sẽ đưa họ trở về quê hương xứ sở. Hình ảnh cây hương nam được trồng nơi đỉnh núi Israel sẽ đâm chồi nẩy lộc là dấu chỉ sự phát triển thịnh vượng của dân tộc. Thiên Chúa đã làm cho cây khô trở nên xanh tươi. Cho dù Dân có phạm tội và ngoảnh mặt làm ngơ chạy theo bụt thần, Thiên Chúa luôn ngóng đợi và tạo mọi cơ hội cho dân trở về.
Giữa thời kỳ lưu đầy xa xứ, dân của Chúa đã phải đối diện với nhiều khó khăn nơi đất khách quê người. Họ bị tước mất quyền lợi và chịu đầu phục những kẻ ngoại bang thờ ngẫu tượng. Tấm lòng dần dà bị xa rời khỏi những luật lệ và giới răn. Họ đã chạy theo những cách sống của dân ngoại mà dần quên lãng những kỳ công Chúa đã thực hiện với cha ông họ. Dân còn bị lang thang phiêu bạt không đích hướng. Họ bị rơi vào sự chán chường thất vọng và không còn biết bám víu vào đâu. Tiên tri xuất hiện đã mang lại cho họ tin vui hy vọng. Họ có một Thiên Chúa để tôn thờ, một dân tộc được yêu thương chọn lựa và một quê hương để trở về xây dựng lại.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để giảng về Nước Thiên Chúa. Những hình ảnh áp dụng rất cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người ta gieo hạt xuống đất, từ từ hạt nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Thiên Chúa đã quan phòng cho tất cả các giống hạt, khi môi trường có đủ điều kiện thì hạt nẩy mầm cho dù người gieo hạt ngủ hay thức và có mặt hay không có mặt: Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết (Mc 4, 27).Trong khi hạt giống lời Chúa được gieo vào lòng người thì không phải tự nhiên sẽ mọc lên tươi tốt được, mà cần được ý thức chấp nhận, chăm dẵm và áp dụng vào đời sống.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi chúng ta lấy nước tưới lên khoảnh đất chai lì và khô cứng, nước sẽ chảy thoáng qua và bốc hơi ráo khô nhanh chóng. Mưa to nước thoáng chảy tuôn trào mặt đất, chỉ có mưa dầm chầm chậm thấm đất nguồn. Đất cần cầy xới và để khô ải, nguồn nước sẽ thấm mềm đất. Hạt giống gieo mới có cơ hội đâm chồi nẩy lộc và bám rễ sâu. Lòng con người cũng cần được khơi dậy và xới lở để đón nhận hạt giống lời Chúa. Những lời giảng dậy, những phê bình góp ý, những bài suy niệm và những lời mời gọi sám hối, đôi khi nó xoáy vào tâm làm chúng ta cảm thấy khó chịu và chướng tai. Chúng ta cần những có những giây phút thinh lặng, tâm tư phản hồi, xét mình, gẫm suy và muốn đổi mới. Muốn nên hoàn thiện, chúng ta cần những quyết tâm để thực hiện điều tốt và tránh điều xấu.
Tâm địa con người tốt hay xấu giống như mảnh đất có cả cây tốt lẫn cỏ dại. Cây tốt là các nhân đức, việc lành và việc thiện. Cỏ dại là những thói hư tật xấu. Tật xấu thì nhiều vô kể. Cây tốt hay cỏ dại, việc lành hay việc xấu, nếu không được vun tưới sẽ khó bề phát triển. Những thói xấu như ích kỷ, tham lam, lừa đảo gian dối, trộm cắp, hận thù, ghen ghét… nếu không được vun xới và nuơng chiều thì những thói hư cũng không thể lớn mạnh. Chính chúng ta đã tạo nhiều cơ hội giúp những thói xấu tiêu cực phát triển trong tâm hồn. Như khi nói xấu, nói hành, nói gian cho người khác, chúng ta muốn nói cho hả giận và nói cho đã miệng, đó chính là lúc chúng ta đang thêm phân đạm và mở lòng cho cỏ dại được tự do phát triển trong tâm hồn của chúng ta.
Cỏ dại mọc lên rất tự nhiên và rất mạnh mẽ. Người nông dân thường nói: Cỏ dại là con đẻ, còn lúa là con nuôi. Khi mảnh ruộng được bón phân chăm sóc thì cỏ dại phát triển lấn át cả lúa. Cho nên nhà nông cần phải diệt cỏ dại trước. Cây tốt như các nhân đức phải chăm sóc cách đặc biệt, vì nó rất mỏng dòn và dễ đốn ngã. Nhân đức khó có thể bon chen đối đầu với những thói xấu vây quanh. Sống trong môi trường xã hội xô bồ không định hướng, thường thì chúng ta bị nhiễm những thói đời hơn là tìm học những nhân đức. Thực ra, ai cũng muốn nên tốt, nên đẹp, nên giầu có và thành công. Cách thế nên tốt lành đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và gắng công không ngừng. Chúng ta hết sức cẩn thận nuôi dưỡng và trau dồi các nhân đức trong cuộc sống hằng ngày.
Hạt giống lời Chúa gieo xuống mảnh đất tâm hồn cần được thấm nhuần, bén rễ và nẩy mầm sinh hạt. Không có lời nào trở thành vô ích hay cùi cụt. Lời Chúa là lời hằng sống có sinh lực biến đổi. Có sức biến đổi tâm hồn trở nên tốt hơn, bén nhậy hơn và thánh thiện hơn. Không phải ngày một ngày hai mà chúng ta có thể cải đổi hoàn toàn cuộc sống. Chúng ta cần có sự quyết tâm và nỗ lực không ngừng. Thử nhìn một cầu thủ chơi banh, họ phải qua những thời gian tập luyện cực khổ để có những thành tích. Những người chạy Marathon đã phải kiên trì tập luyện ngày này qua tháng khác mới đạt kết qủa tốt.
Muốn lấy được bằng cấp nơi học đường cũng phải miệt mài đèn sách. Muốn có được bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ, cũng phải cố gắng trong suốt 15 tới 20 năm trường. Muốn trở thành một giáo sư, mục sư, nhà giảng thuyết, linh mục hay nhà hùng biện cũng phải học hỏi cả 20 năm nơi ghế nhà trường. Để trở thành một Kitô hữu ngoan đạo và hiểu biết cần có thời gian khả dĩ dài đủ. Muốn trở thành một vĩ nhân hay một vị thánh, chúng ta còn phải đầu tư cả cuộc đời để sinh hoa trái cho đồng loại. Cuộc sống không đơn giản và dễ dàng như chúng ta ngồi suy nghĩ và tưởng tượng. Phải dấn thân và hòa nhập trong cuộc sống. Không ai nên thánh một mình.
Thánh Phaolô tông đồ viết thơ gởi cho tín hữu Corintô: Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác (2 Cor 5, 10). Ngày phán xét sau cùng, mỗi người đều phải đứng trên đôi chân của mình, không còn thể dựa dẫm vào thành tích của ai cả. Phần thưởng sẽ dành cho những việc tốt mà chúng ta đã thực hành trong cuộc sống. Thành qủa hoa trái của các nhân đức sẽ trổ bông. Thiên Chúa nhân từ đầy lòng thương xót, nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng. Ngài không xét đoán thiên tư tây vị ai cả. Mỗi người chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận trong ơn gọi của mình để làm cho danh Chúa được cả sáng.
Chúng ta biết rằng khi thời gian đã qua đi, sẽ không bao giờ trở lại. Những lời đã nói, chẳng bao giờ rút lại được cũng giống như chén nước đã đổ, chúng ta sẽ không hốt lại nguyên vẹn. Nếu để vuột mất cơ hội trong cuộc sống, dịp may sẽ trôi qua và không tìm lại được. Chúng ta hãy dùng mọi thời gian Chúa ban để sống tốt, sống vui và sống thánh. Sống từng giây phút trong ân tình của Chúa và từ bi với mọi người. Chúng ta sẽ vui hưởng những hoa trái dịu ngọt của cuộc sống. Chúng ta sẽ hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Lạy Chúa, xin Chúa đốt lửa kính mến trong lòng chúng con để đón nhận lời Chúa. Xin cho hạt giống lời Chúa sinh xôi nẩy nở và phát sinh nhiều hoa trái tốt lành, yêu thương và thánh thiện. Để mọi người nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa.
40. Hạt giống Lời Chúa - Lm Giuse Trần Việt Hùng
Hạt giống được gieo xuống đất từ từ phát triển mỗi ngày. Đất tự nó làm trổ sinh hoa trái. Cho dù con người không cần vun xới hay chăm sóc. Chúa Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa cũng giống như người kia gieo hạt giống xuống đất, dù người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ nẩy mầm và mọc lên.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để diễn tả về nước trời. Hạt giống lời Chúa cứ tiếp tục được gieo vãi trong lòng người từ thời này qua thời kia. Hạt giống âm thầm nẩy nở và phát triển. Chúng ta quan sát sự phát triển của Giáo Hội qua các thời đại. Từ một nhóm nhỏ các tông đồ mà Chúa Giêsu đã kêu gọi và trao ban sứ mệnh. Hạt giống đầu tiên đã gieo vào lòng các ngài và hạt giống được nhân lên qua các thế hệ.
Đã có biết bao nhiêu người được lắng nghe lời Chúa qua sách vở, truyền thanh, truyền hình, điện thư, sự giảng dạy và đời sống chứng nhân. Đây là một sự cố gắng liên tục của Giáo Hội qua mọi thời đại. Lời Chúa được lắng nghe, suy niệm và sinh hoa trái trong đời sống. Hạt giống ngoài đồng nội cần có đủ môi trường sinh sống là hạt giống phát triển nhưng hạt giống lời Chúa cần được gieo vãi và chăm sóc.
Lạy Chúa, lời Chúa là hạt giống sống động. Lời Chúa có nguồn sinh lực nội tại phát triển không ngừng. Xin Chúa cho lời Chúa thấm nhập tâm hồn của chúng con để sinh hoa qua.
41. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu nói: "Chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng".
Đức Giêsu dùng một so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Người đều biết rõ. "Gieo hạt giống” đó là một cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Đây là việc làm rất mạo hiểm. Hạt giống này sẽ ra thế nào?
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự nó sinh ra hoa màu: Trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.
Người ta đã gọi dụ ngôn này là "hạt giống tự mọc lên". Quả nhiên, mọi sự diễn tiến như thế. "Không ai" chăm sóc hạt giống khi rớt xuống đất, như thể người nông dân đã không quan tâm đến hạt lúa mà anh đã gieo. Đây là một dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Máccô là thánh sử duy nhất đã kể lại dụ ngôn này. Chúng ta hãy để cho trí tưởng tượng hoạt động quay lại cuộn phim về sự tăng trưởng này, mà ta không nhận thấy và không hiểu được ngày nay cũng như vào thời Đức Giêsu.
Những nhà bác học của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều trong việc mô tả và phân tách những biến động bên ngoài, nhưng chưa vị nào biết được sự sống là cái gì. Ngay khi một hạt giống rơi xuống đất, thì trong vòng bí mật, bắt đầu một sự chuyển hóa vật chất thật tuyệt vời, một loạt những sự kỳ diệu mà ta không thấy được. Dù con người có lo lắng về việc đó hay không, thì trong phần cốt yếu của nó sự sống không tùy thuộc con người. Việc trồng trọt giúp thiên nhiên, nhưng không bao giờ thay thế thiên nhiên được. Hạt giống, rồi cọng cây xanh non, bông hoa nhỏ xíu, hạt lúa, và sau cùng là vô số những hạt khác.
Lạy Chúa, Chúa muốn nói gì với chúng con qua dụ ngôn hy vọng này? Chúa gởi đến chúng con lời mời gọi nào qua những câu đó? Không ai có thể thay thế chúng ta để trả lời những câu hỏi này. Tình trạng của tôi" như thế nào, vào lúc này, hôm nay, mà Chúa đang nói với tôi? Tình trạng của Giáo Hội, của thế giới hiện nay ra sao, để chúng ta có thể áp dụng bài học hy vọng này?
Lúa vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt vì đã đến mùa.
Bỗng nhiên tình thế biến đổi. Bản văn Hy Lạp của Mác-cô gồm hai từ nhấn mạnh về sự đối chọi này "nhưng" và “ngay sau đó". Sau một thời gian dài không hoạt động của nơi nông dân, bây giờ là lúc gặt hái sôi nổi. Chúng ta chớ quên phần đầu của dụ ngôn này. Đó là nói về "Nước Thiên Chúa". Thái độ của người nông dân giúp chúng ta hiểu thái độ của Thiên Chúa. Một lần nữa, Tin Mừng không phải là một bài học luân lý và chúng ta không nên vội áp dụng thực tế vào cuộc sống.
Trước hết Tin Mừng là mạc khải" về Thiên Chúa, và chỉ bằng cách liên quan với chân lý đức tin được khám phá rõ hơn, mà chúng ta mới có thể có một thái độ cụ thể một cách gián tiếp. Như vậy sự mạc khải về Chúa qua dụ ngôn này là thế nào? Đức Giêsu soi sáng cho tình hình vào thời của Người, mà Thánh Gioan Tẩy giả đã nói rõ lên sự thất vọng của ông. "Người có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một Đấng khác?" (Mt 11,3). Nhưng đó cũng là một câu hỏi ngày nay, như của mọi thời đại: Tại sao người ta không thấy Nước Thiên Chúa rõ hơn? Tại sao Người lại cho ta có cảm tưởng là Người không lo lắng gì đến những việc xảy ra trên thế giới? Đức Giêsu trả lời. Thiên Chúa không làm gì khác hơn là người nông dân. Các người hãy chờ đến "mùa gặt”. Trong khi chờ đợi, nếu ta nghĩ là không có gì xảy ra, thì chúng ta đã bị ảo giác. Các bạn thấy nhưng các bạn khống thấy được tất cả. Chúng ta cũng biết, những gì chúng ta không thấy không phải là không hiện hữu, ngược lại thì có. "Điều cốt yếu thì không thể thấy được", con chồn đã nói như vậy với vị hoàng tử nhỏ bé" trong chuyện của văn sĩ St Exupéry. Một hạt lúa mì chứa đựng hàng tỷ tỷ hạt nhân, gồm một lõi và những phân tử chỉ to bằng một phần tỷ của một phần tỷ một milimét xoay quanh lõi đó với tốc độ 297.000 cây số/một giây? Bạn không thấy hết được điều đó, nhưng đấy là sự thật của hạt lúa mì.
Tất cả những gì "thần thiêng" ở trong thế giới đều nằm trong đó: Sức mạnh tiềm tàng, khó nhận biết và tích cực... chỉ có những tâm hồn đơn sơ mới tìm thấy được, đó là những người chấp nhận "tin" những gì Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa.
Vậy đối với những người tin "hậu quả thực tế" là gì? Xin bạn hãy tự rút ra kết luận. Chúa tác động trong sự bí mật. Đó là một Thiên Chúa ẩn dật.
Bạn hãy để cho hạt giống chín mùi. Bạn chớ bao giờ nản lòng. Hãy khởi công. Hãy gieo hạt. Vũ trụ không đang đi đến cõi chết, nhưng đang tiến tới "niềm vui của mùa gặt". Hời nông dân bạn hãy giơ liềm lên!
Rồi Đức Giêsu lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?"
Đó là hai câu hỏi. Đơn thuần là một cách hành văn để nhắc nhở đề tài? Hay là những câu hỏi của Đức Giêsu để nhấn mạnh về sự khó khăn khi nói về Nước Thiên Chúa? Dù sao chúng ta cũng nên tìm hiểu Nước Thiên Chúa có thể như thế nào? Nước này sẽ đi đến đâu? Hình thức của nó ra sao? Nó giống cái gì?
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống để tự nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế gian. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ.
Lại một hình ảnh nữa. Đức Giêsu là một "Thầy dạy khôn ngoan" một nhà sư phạm giỏi, một người kể chuyện biết tìm những câu châm ngôn kích thích tính hiếu kỳ. “Hạt cải" đã được nổi tiếng trong những câu tục ngữ vì sự nhỏ bé của nó. Đức Giêsu đã ám chỉ hạt cải này một lần khác khi Người nói: "Nếu anh em có đức tin lớn hơn một hạt cải..." (Lc 17,6). Dụ ngôn này nhấn mạnh về sự bất trung xứng giữa lúc đầu "nhỏ xíu” và khi hoàn thành rất lớn. Trong sự so sánh. này cũng như trong so sánh trước đó. Đức Giêsu đã trả lời cho thái độ bất bình của những người đồng thời cũng là cớ gây chống đối Người. Sự can thiệp của Đấng Mêsia đã được mọi người mong đợi như một biến cố hiển thắng và mau lẹ, thế nhưng "buổi chiều tối quan trọng của Thiên Chúa đã không đến. Đứng trước những đảo lộn hiển nhiên của những niềm hy vọng người Do Thái, tác vụ của Đức Giêsu xem ra thật là vô vị, nhưng Máccô trả lời cho thái độ bất bình của thời ông, vào lúc ông viết Tin Mừng, có một sự kiện không chối cãi được, đã làm mọi người suy nghĩ xôn xao: Làm sao dân Chúa chọn, dân ít-ra-en phần lớn lại không đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu? Có phải là sự thất bại của chương trình Thiên Chúa không? Trang Tin Mừng của Máccô trên đây phù hợp cách diệu kỳ với câu hỏi đáng sợ nhất của thời đại chúng ta: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thì mọi việc sẽ sáng tỏ hơn... Vậy tại sao có rất nhiều người ngay thẳng và lương thiện mà lại không tin, hay cứ theo thuyết vô tri. Thiên Chúa có hiện hữu thực sự không? phải chăng đó chỉ là bóng ma, là chủ quan? Hay là ảo giác của một số người cuồng tưởng? Thiên tài, thánh thiện, toàn hảo như thế mà đã không làm cho người đồng thời trở lại được, ngay cả chính thân nhân của Người. (Như bài Tin Mừng Chúa nhật trước đã cho ta thấy). Tuy nhiên với một sự bạo dạn như điên rồ, Người đã tin rằng Người đã không mất thời giờ để gieo "hạt giống nhỏ bé" của Người, và lịch sử chứng minh Người đã có lý kể từ bây giờ, bất cứ ai đã gieo một "mầm" trong một linh hồn người nào để dấn thân phục vụ một công trình giúp đỡ anh em mình, bất cứ ai đã cố gieo Tin Mừng, có thể dựa trên lời nói của Đức Giêsu trên đây, để vượt qua mọi thất vọng và thất bại nhất thời. Cha mẹ, ông bà nào đã nghĩ mình đã thất bại trong giáo dục con cháu, quý vị hãy cầm lên một hạt cải nhỏ: Dù kết quả bề ngoài xem ra nhỏ bé, quý vị vẫn là những người được "mời gọi để hy vọng". Cuộc phiêu lưu nhỏ bé của Đức Giêsu đã được chứng thực: Cuộc phiêu lưu đó bây giờ đã "lớn lao". Cuối cùng rồi các bạn sẽ thấy!
Cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Hạt nhỏ nhất trong các hạt đã trở nên một cây nhỏ đẹp. Cây là chỗ cho "chim trời tới trú ẩn" đã là một hình ảnh cổ điển trong Thánh kinh (Đn 4,9; Ed 31,6-17,22-23; Tp 9,15). Đttc Giêsu đã hoàn toàn được xác định vị trí trong môi trường văn hóa của Người. Và nói theo lúc đó Người dám tiên đoán sự thành công cuối cùng này, chỉ là một con người u tối xứ Galilê, vùng Na-za-rét có 12 người nghèo khổ, không văn hóa, không thế lực đi theo. Lạy Đức Giêsu, con đọc lại lời hứa của Người và con áp dụng lời đó cho mọi cơn thất vọng của con. Xin Người cho chúng con niềm hy vọng và lòng tin tưởng.
Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng Lời Thiên Chúa cho dân chúng nghe tùy theo sức họ hiểu. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Vậy Đức Giêsu đã lưu ý đến trình độ đức tin của người nghe. Đó là mầu nhiệm của tự do. Đối với những người có thiện cảm với Người. Với các bạn hữu của Người, Đức Giêsu đã giải thích bổ túc cách riêng. Đức tin là một "sự sống" một tương giao sống động". Mỗi lời cầu nguyện chuẩn bị cho lời cầu kế tiếp. Mỗi suy niệm chuẩn bị cho suy niệm tiếp theo. Mỗi bước chân đi tới Chúa sửa soạn cho bước kế tiếp. Điều còn là tối tăm khó hiểu đối với nhiều người, lại là một thực tế dần dần trở nên hiển nhiên đối với những người khác. Nếu bạn muốn biết -Thiên Chúa nhiều hơn, bạn hãy bắt đầu bước đi đầu tiên tới Chúa đi. Bạn hỡi, chỉ một bước thôi. Bạn sẽ phải thể hiện một bước đi như thế nào, để cho sự sống tiếp tục nảy nở?
42. Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Qua các dụ ngôn trong bài Tin Mừng này, chúng ta hiểu rằng ngay bây giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại Thiên Chúa.
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô liên tục nhắc lại rằng Đức Giêsu giảng dạy, nhưng không bao giờ ghi lại nội dung cả (x. 1,21; 2,13; 6,2.6.34; 10,1). Ngoại trừ bài Diễn từ cánh chung (ch. 13), các giáo huấn được triển khai nhất của Đức Giêsu nằm trong Mc 4, có thể được gọi là "Chương các dụ ngôn (ba dụ ngôn)" (4,1-34). Chương này gồm có hai phân đoạn lớn và ba phân đoạn nhỏ:
* Mở (cc. 1-2);
1) Dụ ngôn Người gieo giống (cc. 3-9);
a- Mục đích của các dụ ngôn (cc. [10]11-12);
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (cc. 13-20);
b- Hình ảnh Cái đèn và cái đấu: trách nhiệm (cc. 21-25);
2) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (cc. 26-29) và Hạt cải (cc. 30-32);
c- Kết luận về các dụ ngôn (cc. 33-34).
Đây là cách hành văn quen thuộc của Mc: ghép các phần của các bài tường thuật vào nhau để soi sáng các bài lẫn nhau.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (4,26-29);
2) Dụ ngôn Hạt cải (4,30-32);
3) Kết luận về các dụ ngôn (4,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người (26): dịch sát "Nước Thiên Chúa tựa như một người". Trong lối diễn tả của các kinh sư, dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với một người; dụ ngôn chỉ muốn minh hoạ một sự thật liên quan đến Nước Thiên Chúa nhờ một câu truyện trong đó người ấy có một vai trò. Trong những ví dụ thuộc loại này, thường thường chính phần cuối mới cung cấp một hình ảnh trực tiếp hoặc gián tiếp gợi đến Nước Thiên Chúa. Trong bài dụ ngôn Mc, sự việc Nước Thiên Chúa đến thì tựa như những gì xảy ra vào lúc thu hoạch (c. 29).
- một người: Không nhất thiết phải đồng hoá người gieo giống với Đức Giêsu, bởi vì từ ngữ này được dùng rất tổng quát (không như bản văn Mt).
- Đêm hay ngày: Đêm đi trước ngày bởi vì ngày được coi như bắt đầu với lúc mặt trời lặn.
- Bằng cách nào thì người ấy không biết: Tiến trình theo đó hạt giống mọc lên có một quy luật bên trong nó; người gieo giống không phân tích tiến trình này, mà ông có băn khoăn về tiến trình này cũng không lợi ích gì.
- Đất tự động (HL. automatê) (28): Từ này mô tả một sự tăng trưởng tiệm tiến của hạt giống trước mùa gặt. Trong ngữ cảnh là sự so sánh với Nước Thiên Chúa, tác giả nhấn mạnh trên hoạt động ẩn giấu và tiệm tiến của Nước Thiên Chúa hầu đưa hạt giống đến chỗ tăng trưởng hoàn toàn.
- Lúa vừa chín (29): Trong giai đoạn tăng trưởng, người nông phu không phải làm gì trên cánh đồng cả; mọi sự tiến hành không cần ông. Nhưng hoàn cảnh thay đổi đột ngột với c. 29 (x. liên từ dé [= "nhưng"; "khi"] và trạng từ Hy Lạp euthys [= "tức khắc"]). Sau một thời gian không làm gì cả (những câu trước), người nông phu can thiệp không chút chậm trễ vào lúc thu hoạch. Bây giờ bản văn hoàn toàn chú ý đến người nông phu, đến sự thay đổi thình lình trong lối xử sự của ông.
- đem liềm hái ra gặt: Đây là câu trích mặc nhiên Giôen 4,13: "Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín". Vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét mà Thiên Chúa sắp thực hiện trong cánh đồng Giôsaphát để chống các dân tộc ngoại giáo (Ge 4,12-16). Sách Khải huyền cũng ám chỉ đến biến cố này (Kh 14,14-16).
- hạt cải (31): Tục ngữ xứ Paléttina coi đây là hạt giống nhỏ nhất. Để nói một vết máu thật nhỏ, các kinh sư nói: "Không lớn hơn một hạt cải". Điểm nhắm là một hạt giống nhỏ nhất và một cây thật to. Cách sử dụng thì (tense) hỗ trợ cho sự tương phản này: tác giả nói đến việc gieo hạt ở thì quá khứ aorist ("một khi người đã được gieo", cc. 31 và 32) và nói đến sự tăng trưởng ở thì hiện tại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (26-29)
Sẽ đến ngày Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch sử nhân loại. Trước đó, có một thời gian Thiên Chúa để cho mọi sự cứ đi theo dòng của chúng, khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài không quan tâm gì đến thế giới (x. sự ngạc nhiên của Gioan Tẩy Giả: Mt 11,2-6). Đức Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thế mà mọi người đều biết rằng sự thiết lập Nước Thiên Chúa được khởi đầu bằng việc phán xét để tiễu trừ khỏi dân Israel tất cả những kẻ tội lỗi, không xứng đáng được tham dự vào ân huệ của Nước Thiên Chúa. Vậy, nếu Thiên Chúa đã thực sự quyết định thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất, tại sao ta chưa thấy một dấu gì cho biết là cuộc phán xét khủng khiếp ấy đã đến?
Để trả lời, Đức Giêsu dùng một dụ ngôn để ví: Hạt giống là Lời. Hạt giống mang trong mình một sức mạnh vô phương kháng cự. Một khi đã được gieo, hạt giống-Lời đi sâu vào trong các tâm trí và con tim và biến đổi những ai nghe Lời. Hoa trái không lệ thuộc người gieo giống, người rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống có trong mình. Không ai có thể kéo một cây con để làm cho nó mọc nhanh hơn được! Dụ ngôn dạy chúng ta đặt tin tưởng nơi lời Tin Mừng. Làm cho hạt giống-Lời lớn lên: đây không phải là công việc của chúng ta. Chúng ta chỉ có một việc phải làm đó là gieo Lời trên mảnh đất được giao cho chúng ta. Rồi sẽ đến lúc thu hoạch. Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng thời gian Người hoạt động ở trần gian chính là giai đoạn cuối cùng của Lịch sử cứu độ, đi sát ngay trước cuộc can thiệp chung cuôc của Thiên Chúa. Ai có bổn phận cộng tác với Người để gieo hạt giống-Lời, hãy kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tất cả mọi người đều đón nhận Lời, hãy làm sao để hạt giống có thể thật sự mọc lên và sinh hoa trái.
* Dụ ngôn Hạt cải (30-32)
Một cây cho chim trời trú ngụ rất thường được dùng để nói về một vị vua biết dùng quyền lực mà che chở thuộc hạ (x. Đn 4,9.18; Ed 31,5...). Nhưng một đoạn như Ed 17,22-23 thì lại nhấn mạnh trên sự phồn vinh xảy ra với Nước Thiên Chúa vào thời tận thế. Đây cũng là ý nhắm của dụ ngôn Tin Mừng: hình ảnh một cây che chở chim trời báo trước tình trạng sự việc vào lúc Thiên Chúa thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất.
Vào lúc tiến trình đưa tới việc thiết lập Nước Thiên Chúa bắt đầu diễn tiến (sứ vụ của Đức Giêsu), người ta nghĩ đây là một biến cố không đáng kể. Nhưng cũng như hạt cải nhỏ bé hứa hẹn một cây lớn, sứ mạng của Đức Giêsu đúng là chặng đầu tiên của sự can thiệp của Thiên Chúa nhằm thiết lập Triều Đại của Người. Vậy nhận biết ý nghĩa đích thực của sứ mạng của Đức Giêsu, chính là hiểu rằng thái độ phải có trước sứ mạng này là chấp nhận hoặc từ khước quyền chủ tể cánh chung của Thiên Chúa. Chính thái độ này sẽ xác định vận mệnh của mỗi người trong thế giới bên kia.
* Kết luận về các dụ ngôn (33-34)
Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của thời gian hiện tại đối với các thính giả của Đức Giêsu. Hai dụ ngôn này mời gọi nhận biết sứ mạng của Đức Giêsu chính là khởi đầu cuộc can thiệp cánh chung của Thiên Chúa. Áp dụng giáo huấn vào trong đời sống Giáo Hội, thời gian hiện tại không còn phải là thời gian của sứ vụ của Đức Giêsu, nhưng là thời gian của nếp sống và hoạt động rao giảng của Giáo Hội.
+ Kết luận
Thoạt nhìn, chúng ta thấy kết luận của diễn từ các dụ ngôn không có vấn đề. Đức Giêsu loan báo Lời Thiên Chúa cho người ta ("đám đông"; x. 4,1-2). Người diễn tả bằng các dụ ngôn theo mức độ hiểu biết của họ. Dường như đối với Đức Giêsu, các dụ ngôn là một phương tiện để giúp các thính giả hiểu Người dễ dàng hơn. Ngoài ra, Người còn cung cấp các giải thích bổ sung cho nhóm môn đệ (c. 10). Mọi sự không rõ ràng rồi hay sao?
Vấn đề chỉ xuất hiện rõ ràng khi ta lưu ý rằng tác giả Mc đã muốn kết thúc với đề tài ngài đã đưa vào ở trên (cc. 10-12). Đối với công chúng, "những kẻ ở ngoài" (c. 11), Đức Giêsu "không bao giờ rao giảng mà không dùng dụ ngôn" (c. 34); "với những người kia..., cái gì cũng phải dùng dụ ngôn" (c. 11). "Nhưng khi chỉ có riêng thầy trò với nhau" (HL. kat' idian, c. 34), "khi còn một mình" (HL. kata monas, c. 10), Đức Giêsu "giải đáp" tất cả cho các môn đệ (c. 34), nghĩa là "những kẻ đang ngồi quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai" (c. 10), là những kẻ mà "mầu nhiệm nước Thiên Chúa đã được ban cho" (c. 11).
Vậy, các dụ ngôn là một thứ ẩn ngữ, mà chỉ các môn đệ mới có chìa khóa để hiểu được, còn đám đông, mà Đức Giêsu không muốn nói với họ bằng một ngôn ngữ rõ ràng, thì vẫn không thể nắm bắt được ý nghĩa đích thực của giáo huấn của Người: "Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa" không được ban cho "những kẻ ở ngoài"; chính vì thế mà Đức Giêsu "không nói gì mà không dùng dụ ngôn".
Đây chính là "thuyết các dụ ngôn" trong TM Mc (J. Dupont), mà thật ra, đây cũng chỉ là một phương diện đặc biệt của "thuyết về bí mật thiên sai" của tác giả. Vào lúc tác giả soạn TM I, có một sự kiện không thể phủ nhận, nhưng thật gai chướng: dân tộc Do Thái nói chung đã không đón nhận Tin Mừng. Phải chăng kế hoạch của Thiên Chúa đã thất bại? Hay là phải nhìn nhận rằng sứ mạng của Đức Giêsu không đến từ Thiên Chúa? Tác giả Mc tìm ra được câu trả lời thần học trong bản văn Is 6,9-10 (x. Mc 4,12). Trong sứ mạng của Đức Giêsu, đã được ứng nghiệm lệnh truyền của Thiên Chúa qua miệng của vị ngôn sứ, là phải nói với dân cách nào để "họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu...".
Vậy, vị sứ giả của Thiên Chúa phải diễn tả cách nào để người ta không hiểu được: đó đã là quyết định của Thiên Chúa mà! Người đã muốn làm cho sứ mạng của vị sứ giả trở thành một phán quyết chống lại một dân mù quáng và cứng lòng. Nhưng làm thế nào nhận ra sấm ngôn ấy là chương trình hoạt động của Đức Giêsu? Tác giả Mc tìm ra được đáp số nơi việc Đức Giêsu sử dụng các dụ ngôn: Người nói bằng dụ ngôn cho đám đông hoặc cho các đối thủ, vì Người không buộc phải làm cho họ hiểu Người. Dưới mắt Mc, dụ ngôn là như một phương tiện không phải để làm cho một giáo huấn nên dễ hiểu hơn, nhưng để che đậy ý nghĩa của giáo huấn này dưới những hình ảnh. Để người ta hiểu, thì cần có một lời giải thích; nhưng lời giải thích chỉ được ban cho các môn đệ mà thôi. Tuy nhiên, tác giả đã nhận ra ngay nguy cơ là thuyết này có thể đưa tới chủ trương bí truyền (esoterism); vì thế, ở 4,21-25, ngài mới xác định rằng các môn đệ đã nhận được mạc khải là để đi phổ biến rộng rãi, để đi hô to trên mái nhà.
Chúng ta có thể nhận định rằng thuyết của Mc về các dụ ngôn là một thuyết khá giả tạo. Nhưng để đánh giá đúng đắn, cần đo lường được mức độ nghiêm trọng của vấn đề đang được hoàn cảnh cụ thể đặt ra cho tác giả và cho Hội Thánh thời ngài: đoàn dân đông đảo được Thiên Chúa tuyển chọn đã không tin vào Đức Giêsu và đã không chấp nhận sứ điệp của Người. Bản văn Is 6,9-10 cho thấy là Thiên Chúa đã thấy trước (quan phòng) tình trạng sự việc như thế.
Rõ ràng công việc soạn thảo TM Mc mang dấu ấn của các hoàn cảnh và các vấn đề thời tác giả. Ngài đã nghĩ tới việc rao giảng khi kể lại dụ ngôn trong đó Lời Chúa được hình dung như một hạt giống. Ngài cũng đang cố gắng tìm một giải thích thần học cho thất bại của sứ vụ này, bằng thuyết về giáo huấn bằng dụ ngôn. Chứng nhân của Lời Chúa không phải là người chỉ biết bằng lòng với việc lập lại máy móc Lời Chúa, nhưng là người biết tìm nơi Lời Chúa câu trả lời cho những nhu cầu của những con người thời mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cả ba dụ ngôn (Người gieo giống, Hạt giống tự mọc lên, và Hạt cải) có điểm chung là không truyền đạt những giáo huấn đặc biệt, nhưng chỉ bàn về việc lấy lập trường trước lối hành động của Đức Giêsu. Dường như thực tại thấy được (sự từ chối, sự vắng mặt của Thiên Chúa, những khởi đầu không sáng sủa mấy) thì mâu thuẫn với sứ điệp và uy thế Mêsia của Người. Do đó, ba dụ ngôn đều mời gọi sống đức tin.
2. Qua các dụ ngôn, chúng ta hiểu rằng Triều Đại Thiên Chúa không những đến chắc chắn, mà bây giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại này. Tuy nhiên, chỉ người nào biết nhìn các sự việc với con mắt đức tin mới nhận ra được sức mạnh này.
3. Như tác giả Mc, thừa tác viên Lời Chúa cần phải tìm cho ra sứ điệp được gửi đến cho dân Thiên Chúa hôm nay từ bản văn Kinh Thánh. Đó chính là sống và thi hành chức năng ngôn sứ, bởi vì ngôn sứ chính là người thay mặt Thiên Chúa mà truyền đạt cho dân Ngài biết thánh ý Ngài đối với dân trong hoàn cảnh hiện tại.
4. Khi thấy rằng tình yêu, sự kính trọng đối với các quyền của con người và sự tự do, sự tha thứ, không đưa tới những kết quả mong muốn, có những Kitô hữu đã bị cám dỗ thúc bách Triều Đại Thiên Chúa đến cho nhanh bằng cách sử dụng những phương tiện Đức Giêsu đã cấm, như vũ lực, mưu mô, gian dối... Đức Giêsu dạy chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Lời Tin Mừng.
43. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
Dụ ngôn hạt giống tự triển nở một mình (4, 26-29)
Trình thuật này đơn sơ và rõ ràng: Đây là cách hành văn riêng của Maccô. Maccô khởi đầu bằng câu: “Chúa Giêsu nói” mà chẳng cần lưu tâm đến việc Ngài nói cho ai. Người ta có thể giả thuyết lần này không phải Chúa Giêsu nói cho nhóm thân hữu của Ngài như lần vừa rồi mà là nói với toàn đám đông đi theo Ngài. Đoạn cuối chương nói về các dụ ngôn sẽ cho thấy được điều suy đoán này (4, 33).
Trước hết, rõ ràng là hình ảnh dụ ngôn này là liên quan đến Nước Thiên Chúa (c. 26a). nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt này sinh thành cây rồi thành bông lúa (c. 26b-28). Vậy thì thính giả phải chú ý đến điều gì ở đây? Rõ ràng là phải lưu ý đến quyền năng mầu nhiệm không gì chống lại được của Thiên Chúa. Quyền năng này có thể làm phát sinh và tăng trưởng Vương Quốc Ngài mà chẳng cần loài người tham gia đóng góp gì vào đó cả.
Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để giúp cử tọa Ngài nhờ đó thoát ra được các tình cảnh khó khăn. Chắc chắn Maccô rất sung sướng khi đặt ra trước mắt các độc giả của ông sự đảm bảo là tổ chức sẽ dẫn đưa Vương Quốc Ngài đến chung cục tốt đẹp qua hành vi phù trợ liên tục, tuy âm thầm, nhưng hiệu quả. Giáo Hội Rôma được Maccô soạn thảo cho cuốn Tin Mừng này, lúc bấy giờ đang sống trong những ngày thử thách, hình như Thiên Chúa vắng mặt ở chốn trần gian này. Vì thế, thật an ủi biết bao khi biết Ngài vẫn đang hoạt động! Dụ ngôn hạt giống mọc lên một mình được hoàn tất ở câu kêu gọi mùa gặt (c. 29). Dù loài người có hành động xấu tốt thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành theo đuổi ý định của Ngài đến cùng, đó là sẽ thu hoạch hạt gieo. Thật hy vọng lớn biết bao cho những ai được trông thấy mùa gặt chín!
Dụ ngôn hạt cải (4,30-32)
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ tượng hình để giảng dạy (c. 30). Đây là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Giống như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn. Hạt cải bé xíu trở thành một cây lớn oai phong (c. 31-32a). Làm sao có thể đo được khoảng cách hạt cải bé xíu và cái cây to lớn mà nó phát sinh ra? Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịc lý tương tự như thế đó. Chớ vội thấy bước khởi đầu bé xíu mà lầm! Rồi nó sẽ gặt hái được thành công dị tiết khác thường đập mạnh vào trí tưởng tượng. Ở đây cái khác thường đó là sự to lớn bất ngờ của cây cải (c. 32b). hình ảnh thân cây hùng vĩ, có thể làm nơi trú ngụ Ngài cho vô số chim trời, là hình ảnh thuộc về Kinh Thánh. Người ta găp thấy hình ảnh này nơi tiên tri Daniel (4,7-9), ở đây Nước Thiên Chúa đã được đảm bảo sẽ gặt hái thành công mang chiều kích vũ hoàn.
Trong ánh mắt của Maccô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời nhất về bí mật Đấng Mêsia. Cho đến giờ này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị xét đoán là vô nghĩa và Vươn Quốc Thiên Chúa vận chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dầu vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của Vương Quốc ấy, như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Dù yếu đuối, Giáo Hội sơ khai vẫn ý thức được mình đang tham dự vào thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt đến toàn vũ truyện vào cuối giai đọan phát triển của nó.
Kết luận về bài diễn từ bằng dụ ngôn (4,33-34)
Năm dụ ngôn Maccô sưu tập vừa rồi không phải là năm dụ ngôn duy nhất Chúa Giêsu dùng (c. 33a). chắc chắn Ngài đã kể ra rất nhiều câu chuyện bằng hình ảnh thuộc loại này. Maccô nhắc rõ là lối giảng dạy này hoàn toàn thích hợp với đám cử tọa bình dân. Hẳn là đám đông có khả năng nắm bắt được điều cốt lõi. Tuy nhiên Maccô nhấn mạnh là Chúa Giêsu chỉ loan báo Tin Mừng cho họ bằng hình thức dụ ngôn trong mức độ họ có thể hiểu được (c. 33b). Như thế Maccô lại trở về với điều mà ông cố gắng giải thích, liên quan đến thời đại ông (ở chương 4,11-12) đó là một số đông người Do Thái không đón nhận Tin Mừng. Mặc dù mang mục đích làm cho quảng đại quần chúng hiểu được chủ ý, các dụ ngôn vẫn là những chuyện “khó hiểu” đối với phần lớn dân Chúa chọn.
Và Maccô đã kết luận “bài diễn từ” về chương bốn này trong tinh thần trung thành với quan niệm của ông về bí mật Đấng Mêsia. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói với đám đông, nhừng Ngài phải dẫn các môn đệ riêng ra để giải thích cho họ về các dụ ngôn ấy (c. 34). Đối với Maccô, như người ta biết, mầu nhiệm về Chúa Giêsu (tức thân thế và sứ vụ Ngài) vẫn không thể đến được với “người người ngoài” (4,11). Để vào được mầu nhiệm này, cần phải tin và hơn nữa, cần phải bước theo Chúa Giêsu trên con đường (rất não nề!) dẫn đến cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Chỉ các biến cố này mới có thể giúp chúng ta, nhờ đức tin, đạt đến được bản tính và sứ mệnh đích thực của Đấng Mêsia.
44. Chú giải của Fiches Dominicales.
HAI DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Hạt giống tự mọc lên.
Tiếp theo trình thuật về ai là thân nhân thực của Đức Giêsu, Máccô đã long trọng đưa vào một chương mới, phải nói là quan trọng. Lúc ấy Đức Giêsu đang ở ven Biển Hồ "Galilê". Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người. Nên Người phải "xuống thuyền mà ngồi dưới biển để giảng dạy đám đông đang ở trên bờ" (4,1-2).
Đây là lần đầu tiên Người giảng dạy "bằng dụ ngôn" (4,2). J. Hervieux giải thích: "Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh" ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 65).
Bỏ qua các dụ ngôn người gieo giống (1-9, 13-20) dụ ngôn cái đèn (21-23) cái đấu (24-25), là những dụ ngôn ta đã suy niệm trong năm A- Matthêu, bài đọc năm B này chỉ giữ lại hai dụ ngôn cuối cùng: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải.
Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật XI thường niên này là dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên.
+ Tiên vàn trình thuật vắn tắt gợi lại thời gieo vãi: chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người-vãi hạt giống xuống đất”.
+ Rồi kết thúc cũng một cách vắn gọn, nói về "thời gặt lúa”. "Lúc vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt". Kiểu nói sau này là mượn lời của ngôn sứ Joel 4,1 3 loan báo ngày phán xét của Chúa tương tự như mùa gặt: "Ta sẽ ngự tòa phán xét muôn dân - Hãy đem liềm hái ra, vì đã đến mùa gặt rồi".
+ Khoảng giữa hai thời kỳ là việc nảy mầm và phát triển của hạt giống diễn ra trong âm thầm và chậm chạp, được tác giả Tin Mừng gợi ra bằng những giai đoạn lần lượt nối tiếp nhau: “cây lúa”, “ trổ đòng" rồi "bông lúa nặng trĩu hạt”.
Đối lại với sự hoạt động của hai thời kỳ gieo và gặt, là tính vô lo rõ ràng của người gieo trong giai đoạn trung gian này. Thật vậy bác nhà nông của chúng ta đã trở lại nhịp sống thường ngày. Bác lo toan những công việc khác mà chẳng phải bận tâm đến đồng ruộng nữa. Vậy mà đang lúc ấy, "đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức”, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, "bằng cách nào” thì người ấy không biết.
Một dụ ngôn trả lời cho tâm trạng thiếu kiên nhẫn hoặc thất vọng của đám thính giả vốn dựa vào lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả nên đang trông đợi ngày Chúa phán xét và trừng trị những quân gian ác, cùng với sự xuất hiện của Nước Chúa. Về phần Đức Giêsu, Người muốn cho họ hiểu rằng Người sẽ thi hành quyền xét xử đó vào ngày tận thế, tức là vào thời kỳ gặt lúa. Còn sứ vụ hiện nay của Người là thời gian để hạt giống nẩy mầm và lớn lên; đó là thời trung gian cần thiết để Lời được gieo vãi vào lòng đất, hoạt động không ngừng trong lòng mọi người hầu chuẩn bị cho Ngày Thu Hoạch.
Khi lấy lại những lời này của Đức Giêsu để gởi đến cho các độc giả của mình, Máccô muốn đoan chắc với họ rằng dù họ đang phải sống những giờ phút gian nan thử thách thế mà Thiên Chúa lại có vẻ như vắng bóng, nhưng kỳ thực Người vẫn đang lèo lái công trình của Người bằng một hoạt động là lặng lẽ và âm thầm, nhưng miệt mài và có kết quả.
2. Hạt nhỏ nhất lại trở thành cây lớn
Dụ ngôn thứ năm và cũng là dụ ngôn cuối cùng của chương 4 Tin Mừng Máccô, cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ, thật chẳ người tương xứng chút nào! "Hạt cải... là loại hạt nhỏ nhặt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ".
Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình, Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển.
Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Máccô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm tốn, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Người là Giáo Hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống mà khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kịch toàn cầu (J. Hervieux).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời”
Đức Giêsu kể tiếp một dụ ngôn khác liên kết với dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên thời. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời. Mà thực ra chỉ mình Thiên Chúa và chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước ấy. Về phần ta, chỉ phải coi mình là những dụng cự bé mọn mà tay Chúa dùng. Hãy nhìn hạt giống đã gieo vãi xuống đất. Đêm hay ngày, người gieo có ngủ hay thức, lo âu hay thanh thản, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên. Không ai có thể thúc bách cho hạt giống mọc vội, mọc nhanh. Bởi lẽ chính Chúa mới là Kẻ Kiến Tạo Nước Trời.
Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Chúa. Nước Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy.
2. “Chỉ trong vài dòng mà đã nói lên tất cả hành trình cuộc đời của Đức Giêsu và tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời.
Quả thực, chuyện Nước Thiên Chúa cũng giống như chuyện của hạt giống vậy. Được gieo vãi vào lòng đất, hạt giống sẽ nẩy mầm, mọc lên và phát triển, không cần đến bày tay can thiệp của người gieo, không cần biết hạt giống mọc lên như thế nào. Nước ấy sẽ tỏ hiện vào mùa gặt, nghĩa là vào ngày “chung thẩm". Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, liềm hái và mùa gặt gợi ra hình ảnh ngày tận thế"? Từ khi gieo vãi cho đến mùa gặt là thời gian đất hoạt động âm thầm: mầu nhiệm sự chết và sự sống. Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu có vẻ đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn phát triển của phạt giống. Trọn hành trình cuộc đời của Đức Giêsu được nói lên ở đây, vắn gọn trong một vài dòng - Và đó cũng là tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời. Lời Chúa đã mang mầm mống nhân loại: "và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Giờ đây Người động ở trong cánh đồng nhân loại để gieo vãi. Rồi sẽ tới ngày là mùa gặt. Hiện giờ là phải sống tin tưởng và hy vọng vì là lúc hạt giống đang nẩy mầm và lớn lên.
Dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh đến tính cách nhỏ bé của hạt và tầm vóc lớn lao của cây. Thật lạ lùng! Hãy nhìn coi, vật nhỏ bé nhất của trần gian, mà phát triển như vậy đón Nước trời ở khắp mọi nơi. Ở đâu người ta đón nhận Lời Chúa, ở đó lời chúa trở nên hữu hình. Hạt giống của Lời nẩy mầm và lớn lên trong âm thầm của những cõi lòng, trong huyền nhiệm của những cuộc đời vậy.
45. Hạt cải, men bánh - Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Hạt cải, men bánh là biểu trưng con số nhỏ, hoặc hình ảnh con số còn lại.
Con số nhỏ bé nhưng quan trọng, bằng cách thuật chuyện, dụ ngôn diễn tả: như hạt cải gieo vào đất vườn, hạt ấy nhỏ bé, nảy mầm, thành cây, lớn lên, đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ. Tiến trình lớn lên trong một hạt nhỏ bé, một mầu nhiệm của sự sống diễn ra trong từng ngày. Nhỏ bé mang tầm vóc vũ trụ, những người theo Đạo giáo [Tôn giáo cổ phát sinh từ tín ngưỡng dân gian thờ các vị thần tiên bất tử, nên còn gọi là Đạo Tiên. Hình thành trở thành tôn giáo chính thức vào thời Đông Hán (thếkỷ I - II sau Công Nguyên), tôn Lão Tử làm thuỷ tổ, nên còn gọi là Đạo Lão, lấy Đạo Đức Kinh làm kinh điển. Sau này có nhiều nhánh phát triển: Thần tiên, luyện đan, phong thuỷ, bói toán.], xem hạt cải là hạt mang dấu chỉ trường sinh bất tử, vì hạt này rất nhiều trong một quả. Hạt bất tử nằm nhỏ bé trong đời sống con người như hạt ước mơ trường sinh mà con người hằng đi tìm kiếm.
Hạt bé nhỏ này Đức Giêsu gọi là Nước Trời. Nước Trời có trong tâm hồn của mỗi con người mang tính nhỏ bé, có thể sánh ví như hạt giống được người đi gieo hạt, gieo vào cuộc sống, hạt có thể bị chim trời ăn mất, hạt có thể chịu bụi gai chèn ép, hạt có thể chịu rơi vào sỏi đá và hạt có thể trổ sinh những hạt khác. Nước Trời khi sánh ví như hạt nhỏ bé được gieo vào lòng người, Đức Giêsu muốn liên hệ với trách nhiệm bản thân của mỗi người.
Với sự nhỏ bé của hạt, gợi ý hình ảnh số còn sót lại thờ phượng Thiên Chúa, con số nhỏ của các môn đệ tiên khởi, con số nhỏ của những người sống theo Đức Kitô giữa lòng thế giới, con số nhỏ bé liên hệ tới men.
Như một ít men ở giữa khối bột, men làm dậy cả khối bột. Lên men là một quá trình biến đổi, tiệm tiến từ hạt - chết đi - thành cây - sinh hoa - kết trái. Men là nguyên nhân tác động tiến trình biến đổi. Như vậy khi nói men Tin Mừng, Đức Giêsu muốn nói tới chất xúc tác hướng dẫn sự biến đổi tiềm tàng bên trong. Quá trình lên men còn được nói là quá trình của sự thăng hoá, con người không chỉ bám víu vào trái đất, mỗi ngày sống cần thăng hoá hơn về tinh thần và đạt cao hơn về cõi trời. Giải nghĩa dụ ngôn hạt cải và men này soi sáng nhiều dụ ngôn khác.
Nếu nói theo Dịch học, men là nguyên nhân làm cho mọi vật chuyển động, chuyển động làm phát sinh, sinh hoài và sinh mãi. Yếu tố của men rất quan trọng, sự sinh hoá tuỳ thuộc vào men tốt xấu. Men xấu làm hư khối bột, làm thành hôi thối. Sự phân rã là một trong những bước tiến trình để biến đổi, chết là sự phân rã, sự phân rã làm nên hai cách tái sinh, men xấu làm phân rã dẫn đến tiêu huỷ đờiđời và men tốt dẫn đến sự phân rã tái sinh, làm nên cái mới.
Nước Trời khi sánh ví như hạt cải và như men, có ý nghĩa làm cho men Tin Mừng thấm nhuần vào các nền văn hoá. Tin Mừng ấy chính là Đức Giêsu, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã mang lấy xác phàm nhân để cứu độ con người phàm nhân về với Thiên Chúa. Như hạt cải bé nhỏ, Thiên Chúa ưa thích đi lối nhỏ giữa cuộc đời, Con Thiên Chúa không sinh hạ trong hoàn cảnh của một gia đình quyền thế giàu sang, nhưng chọn một gia đình nghèo khó, sinh ra giữa những người nghèo.
Lối nhỏ, con đường nhỏ, những phận nhỏ là những nẻo đường Thiên Chúa đã dùng trong lịch sử. Để chọn một người làm tổ phụ dân tộc, Thiên Chúa chọn cụ già Abraham, đã gần đất xa trời mà chưa có đứa con nối dõi. Để đánh bại Goliat, Thiên Chúa dùng cậu bé Đavit, để chọn những người rao giảng sám hối Chúa đã chọn các bác nhà quê như Amốt, như Giêrêmia. Để chọn một bà mẹ làm mẹ Con Thiên Chúa làm người, Người đã chọn một thiếu nữ làng quê. Để chọn nơi cư trú cho Giêsu, Người đã chọn làng nghèo Nazareth, để chọn các tông đồ, Đức Giêsu đã chọn các bác làng chài, các bác nhà nông và người thu thuế và ngay cả Giuđa Iscariôt. Để chọn Đá Tảng xây dựng Hội Thánh, ngài đã chọn con người ba lần phản bội, Phêrô. Trong cách lựa chọn ấy, Chúa muốn chọn đi lối nhỏ, từ những gì xem ra hèn kém nhất, Thiên Chúa dùng để chinh phục những đỉnh cao. Từ đổ vỡ của thân phận, Chúa dùng kinh nghiệm bản thân ấy làm chứng tá. Có Giuđa bội phản kết liễu đời mình vì đã không tin vào lối nhỏ của Chúa dùng. Sự cứng lòng dẫn tới cái chết tự huỷ hoại.
Nếu bạn tin, niềm tin ấy nhỏ bé như hạt cải, nhưng hạt cải ngày kia sẽ mọc thành cây lớn và chim trời có thể đến cư trú. Nếu bạn tin, niềm tin ấy như nắm men, người đàn bà goá nọ đem trộn vào đấu bột, một ngày kia đấu bột dậy men. Lối nhỏ, phận nhỏ xem ra mong manh nhưng chẳng mong manh chút nào, bởi vì nơi ấy Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Tất cả chất liệu nỏ bé cuộc đời của bạn đều có thểtrở thành men thành hạt cải có giá trị nảy mầm hiến tế vô song để thánh hoá trần gian.
Lối đi nhỏ, con đường nhỏ và phận nhỏ đã hình thành con đường thơ ấu thiêng liêng của chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một bí quyết đơn giản để nên thánh và thánh hoá các thực tại bằng cách cho chúng một giá trị bền vững. Cách thức ấy là dù bất cứ làm việc gì cũng đều dâng lên Chúa như lễ vật, để từ lễ vật Thiên Chúa hiến thánh.
Một chiếc chìa khoá bé nhỏ so với một cánh cửa khổng lồ, thế nhưng chiếc chìa khoá sẽ mở được cánh cửa, nếu bạn tin điều bé nhỏ sẽ mở được điều lớn lao; từ hạt nhỏ trở thành cây lớn.
46. Suy niệm của Lm Đan Vinh
GÓP PHẦN PHÁT HUY SỨC SỐNG CỦA HẠT CẢI NƯỚC TRỜI
I. HỌC HỎI LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng 2 dụ ngôn là “Hạt giống tự mọc” (Mc 4,26-29) và “Hạt cải nhỏ bé” (Mc 4, 31-32) để nói lên sức mạnh nội tại và quyền năng nhiệm mầu của Nước Thiên Chúa hay Nước Trời do Người thiết lập.
CHÚ GIẢI:
- C 26-29: +Nước Thiên Chúa: Trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn mà rao giảng Lời Chúa. Dụ ngôn là những câu chuyện rút ra từ cuộc sống thực tế đời thường mà mọi người nghe đều có thể hiểu biết, để trình bày về các mầu nhiệm siêu việt của Nước Thiên Chúa. Chỉ những người nghe có thiện chí muốn tìm hiểu mới có thể lãnh hội được ý nghĩa của chúng. Còn những kẻ không tin Chúa Giê-su thì khi nghe Người rao giảng sẽ giống “như vịt nghe sấm”, hầu ứng nghiệm sấm ngôn của ngôn sứ Isaia: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.” (Mt 13,14-15). Sau đây có thể kể tên một số dụ ngôn: Nước Thiên Chúa giống như một cánh đồng lúa có cỏ lùng xen lẫn, hoặc giống như một hạt cải ban đầu nhỏ bé, như nắm men ít ỏi được hòa lẫn trong thúng bột lớn, như kho báu giá trị cao được chôn giấu trong thửa ruộng, như một viên ngọc rất quí giá, như việc ngư dân thả lưới bắt được mọi thứ cá... (x Mt 13). Qua các dụ ngôn này, Đức Giêsu cho biết Nước Thiên Chúa là điều có thực và đang tỏ hiện qua các dấu chỉ là các phép lạ do Người làm như: Xua trừ ma quỷ, chữa lành các thứ bệnh tật, chữa lành người phong, phục sinh kẻ chết… (x Mc 1,54). +Tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất: Hạt giống được gieo xuống ruộng; dù người gieo ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống vẫn có khả năng tự nảy mầm mọc lên thành cây lúa, rồi sẽ trổ đòng đòng trước khi trở thành bông lúa nặng trĩu nhiều hạt. Nước Thiên Chúa cũng sẽ dần lớn lên để đạt tới viên mãn vào ngày tận thế, dù gặp bao nghịch cảnh đàn áp bách hại.
- C 31-32: +Nước Thiên Chúa giống như hạt cải… nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất: Hạt cải theo Máccô là thứ hạt giống nhỏ bé nhất trong mọi thứ hạt giống khác, mặc dù thực tế có thể không hòan toàn như thế. + khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng: cây cải ở Palestine cao to, có cây cao tới 4 mét, khác với cây rau cải ở Việt Nam. Và cây cải cao lớn cũng có những con chim bay quanh để ăn những hạt cải đen của nó. Từ cây cải cụ thể đời thường, Đức Giêsu muốn đưa người nghe đến một thực tại vô hình là Hội Thánh. Hội Thánh cũng giống như Nước Thiên Chúa lúc đầu nhỏ bé nhưng sẽ ngày càng phát triển lớn mạnh. Nước Thiên Chúa khởi đầu chỉ vỏn vẹn có Nhóm nhỏ 12 Tông đồ ít học và không mấy hòan thiện… nhưng Nhóm nhỏ này sau này nhờ ơn Thánh Thần sẽ trở thành một Hội Thánh to lớn bao gồm nhiều dân tộc trên trần thế.
- C 33-34: + Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự: Khi rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn nhằm trình bày các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa. + Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết: Các môn đệ là những người tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng thay Đức Giê-su sau này, nên được Người giải thích cặn kẽ mầu nhiệm Nước Thiên Chúa trong các dụ ngôn, để các ông có thể chu toàn sứ vụ cách tốt đẹp.
CÂU HỎI: 1) Dụ ngôn là gì? Hãy kể ra một số dụ ngôn về Nước Thiên Chúa trong Tin Mừng. 2) Ý nghĩa của dụ ngôn hạt lúa được gieo tự mọc lên sinh hoa kết quả ám chỉ điều gì? 3) Ý nghĩa của dụ ngôn hạt cải nhỏ bé hơn cả nhưng lại mọc lên thành cây cải cao lớn có nhiều chim chóc làm tổ ám chỉ điều gì về Hội Thánh?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải [...] khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4, 31-32).
2. CÂU CHUYỆN: Về sức tăng trưởng của Hội Thánh:
Theo bản nghiên cứu thường niên về "Tình trạng Truyền giáo Toàn cầu" ngày 25/11/2011 được đăng trên Vietcatholic News cho biết số lương các Kitô hữu như sau: Tổng số Kitô hữu (gồm cả Công giáo, Chính thống giáo và Tin lành) hiện nay có khoảng 2,3 tỉ người và là tôn giáo có sức phát triển mạnh mẽ nhất. Cho đến đầu thế kỷ 20, Kitô giáo mới chỉ có 1.600 giáo đoàn. Nhưng đến nay, sau một thế kỷ đã tăng lên tới 42.000 giáo đoàn khác nhau.
Riêng Hội thánh Công giáo hiện nay có khoảng 1,16 tỉ tín hữu, và mỗi ngày lại thêm được 34 nghìn tín hữu. Việc tăng trưởng có thể do sinh sản tự nhiên kèm theo việc giáo dục đức tin. Việc theo đạo cũng có thể do sự tự nguyện từ các đạo khác hoặc không theo đạo nào cải sang theo đạo Kitô. Đã có hàng triệu người mỗi năm gia nhập Hội Thánh qua con đường hôn nhân với nguopwì công giáo.
Niên giám cũng cho thấy, số lượng các giám mục và linh mục cũng tăng trưởng theo tỷ lệ thuận với số người Công giáo trên toàn thế giới, tức là vào khỏang 1,3% trong năm 2008. Theo thống kê cuối năm 2009, Giáo Hội Công Giáo đã có 5.065 giám mục và 410.593 linh mục.
3. THẢO LUẬN:
1) Muốn giúp nhiều người lương gia nhập vào Hội thánh Công Giáo, mỗi tín hữu chúng ta cần phải làm gì?
2) Khi làm việc tông đồ mở mang Nước Thiên Chúa mà gặp phải trở lực và chống đối bách hại, các tín hữu cần làm gì noi gương Đức Giêsu khi đi rao giảng Tin Mừng?
4. SUY NIỆM:
Khi mạc khải về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời, Đức Giêsu thường dùng nhiều dụ ngôn với lời mở đầu như sau: “Nước Trời giống như…”. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dùng dụ ngôn. Người đã dùng hai hình ảnh đời thường là cây lúa và cây cải, để dẫn đưa người nghe từ những đuêù đã hiểu biết đến những điều mầu nhiệm chưa hiểu biết, từ cõi hữu hình đến thực tại vô hình là Nước Thiên Chúa như sau:
1) Về sức tăng trưởng của Nước Thiên Chúa là Hội Thánh:
Ở Việt Nam người ta có câu ví sau: “Bé hạt tiêu!”. Thực ra, hạt tiêu không phải loại hạt bé nhất. Cũng vậy, hạt cải ở Palestine cũng không phải là loại hạt nhỏ nhất (hạt trắc bá và hạt thông còn nhỏ hơn nhiều). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng mượn ý niệm của người thời đó qua câu nói “bé như hạt cải” để diễn tả về Tin Mừng Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập. Nước Thiên Chúa được hình thành từ một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ vừa ít học lại vừa có nhiều thói hư khuyết điểm.. Nhưng về sau, Nước ấy đã không ngừng lớn mạnh, giống như hạt cải, ban đầu chỉ là hạt giống nhỏ bé, nhưng sau này sẽ trở thành cây cải cao lớn, mà chim trời là các dân tộc đã đến xin gia nhập. Từ hình ảnh cây cải trong thiên nhiên, Đức Giêsu đã tiên báo về sức tăng trưởng lớn lao của Hội Thánh cả về số lượng cũng như chất lượng.
Thực vậy: Hội Thánh lúc đầu chỉ bé nhỏ như hạt cải. Nhưng về sau, nhờ ơn Thánh Thần mà Hội Thánh đã tăng trưởng về mọi mặt: trở thành một cây cải to lớn có thể đón nhận nhiều chim trời là các dân tộc gia nhập. Hiện nay Kitô giáo đã có trên 2 tỷ người, chiếm 1/3 dân số thế giới. Đồng thời vai trò của Đức Thánh Cha trong Hội Thánh cũng có ảnh hưởng lớn lao đối với các quốc gia trên thế giới. Đến ngày tận thế Thiên Chúa sẽ sai các thiên thần đi gặt hái: Lúa tốt là những tín hữu biết thực hành đức ái cụ thể, sẽ được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng. Còn cỏ dại ám chỉ những kẻ gian ác dửng dưng vô cảm, không thực hành đức ái cụ thể… sẽ bị hình phạt hỏa ngục muôn đời, “nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
2) Phải làm gì góp phần vào sự phát triển của Nước Thiên Chúa?
- Hạt giống phải tự hủy mới mọc thành cây và sinh hoa trái: Mỗi tín hữu cũng phải hằng ngày tập chết đi cho ý riêng ích kỷ tự mãn, các đam mê nhục dục thấp hèn, các thói hư tật xấu của mình… Mỗi khi việc loan báo Tin Mừng gặp phải chống đối thất bại, thay vì nản lòng thóai lui, các tín hữu cần xác tín rằng: Việc cứu độ là việc của Chúa. Chúng ta chỉ cần chu toàn sứ vụ hết sức của mình và hãy phó thác cho Chúa quan phòng những gì còn lại. Nếu chúng ta luôn sống khiêm tốn nhỏ bé, âm thầm cầu nguyện và can đảm dấn thân làm việc với sự tín thác cậy trông vào Chúa Thánh Thần trợ giúp… chắc chắn việc tông đồ của chúng ta sẽ đạt được kết quả đúng theo thánh ý Thiên Chúa.
- Nước Thiên Chúa giống như hạt giống âm thầm phát triển: Đừng đòi phải thấy kết quả trước mắt, nhưng mỗi người cứ làm hết sức mình với sự phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng. Ngài sẽ hoàn thành những điều tốt đẹp Ngài đã khởi sự theo thánh ý Ngài. Chúng ta chỉ cần góp phần vào sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa bằng việc năng cầu nguyện kèm theo một việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi... Nhờ đó Hội thánh sẽ ngày một lớn mạnh lên theo thánh ý Chúa.
3. Chúng tôi phải làm gì?
- Phải khiêm tốn chu toàn bổn phận:
Tuy mỗi người chúng ta chỉ là những con người nhỏ bé tầm thường, không quyền lực, không giàu sang tài giỏi để có thể làm được những việc lớn lao… Nhưng nếu chúng ta luôn ý thức sứ vụ “làm cho danh Cha cả sáng”, nghĩa là làm cho Thiên Chúa được nhiều người nhận biết tôn thờ, làm cho Nước Chúa mau đến trên mọi người, cho thánh ý Thiên Chúa muốn cứu độ toàn thể nhân loại sớm trở thành hiện thực… thì chúng ta cần làm những việc tốt trong tầm tay của mình. Mỗi việc tốt được ví như một hạt cải đức tin. Nếu làm được nhiều việc tốt, sẽ được hình thành một cánh đồng cây cải thiêng liêng, sẽ làm bừng lên ánh sáng tin yêu, tiêu trừ ma quỷ và các điều xấu xa tội ác của chúng ra khỏi môi trường sống là gia đình khu xóm, trường hoc, nhà máy, công sở và cộng đoàn Hội Thánh…
- Phải kiên nhẫn chờ đợi mùa gặt sẽ đến:
Điều quan trọng là sau khi gieo hạt giống Lời Chúa, chúng ta cần phải kiên nhẫn bình tĩnh chờ đợi mùa gặt chắc sẽ tới. Đất sẽ tự sinh ra hoa trái. Điều cần là phải kiên nhẫn chờ đợi chứ không quá nôn nóng. Việc truyền giáo của Hội Thánh có những lúc xem ra không tiến triển và còn gặp nhiều khó khăn; Trong lịch sử Hội Thánh, cũng có những lúc con thuyền Hội Thánh gió bão vùi giập như sắp bị chìm, sự khó khăn bác hại do các thế lực thù địch là ma quỷ và thế gian gây ra, hoặc do sự xuống cấp tinh thần nơi các vị chủ chăn trong Hội Thánh. Trong tình huống ấy, chúng ta hãy cầu nguyện và tin chắc Chúa sẽ ra tay cứu giúp chúng ta bằng việc sai một vị thánh đến mở ra một lối thoát, để Hội Thánh lại được bình an. Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta hãy lkiên nhẫn, khiêm nhường chờ đợi Chúa sẽ cấp thời đến cứu chúng ta.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha Tòan Năng. xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác vào quyền năng yêu thương và quan phòng của Cha trong công cuộc tông đồ cứu độ trần gian. Dù chúng con chỉ có khả năng làm việc giới hạn, chỉ làm được các việc nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng con tin rằng: Chính Chúa sẽ làm cho các việc nhỏ bé tầm thường ấy phát sinh hiệu quả lớn lao.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì gieo Lời Chúa mỗi khi có dịp tiếp xúc với tha nhân dù gặp hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi, dụ trong lúc bình an hay những khi bị phong ba bão táp… Xin cho chúng con luôn tín thác vào quyền năng và tình thương vô biên của Chúa. Chính Chúa sẽ hòan tất những gì còn thiếu sót nơi chúng con, như thánh Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con
12/06 Mẫu mực trong đời sống đức tin
- Viết bởi Lc 2, 41-52
Mẫu mực trong đời sống đức tin.
Thứ Bảy tuần 10 thường niên – Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Lễ nhớ.
"Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Lời Chúa: Lc 2, 41-52
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrsalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ tất cả những việc đó trong lòng.
Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trái tim người Mẹ.
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Suy niệm:
Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ,
hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ.
Người con này Mẹ đã cưu mang, dưỡng dục, và bảo vệ giữ gìn.
Người con này đã đem lại cho Mẹ biết bao niềm vui và hãnh diện.
Nhưng Mẹ cũng chịu nhiều đau khổ vì người con ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay vén mở một chút nỗi đau của Mẹ,
cho thấy một chút trái tim của Mẹ khi sống bên Giêsu.
Cậu Giêsu, mười hai tuổi, cùng với cha mẹ lên Đền thờ mừng lễ Vượt qua.
Kể cũng lạ khi cậu ở lại Giêrusalem mà không báo cho cha mẹ biết.
Hai ông bà đi một ngày đường mới nhận ra mình mất con,
vội vã đi tìm trong đám bà con thân thuộc,
nhưng không thấy, nên trở lại Giêrusalem mà tìm.
Phải qua ba ngày đầy lo âu và nước mắt mới tìm thấy con trong Đền thờ.
Kinh nghiệm mất- tìm kiếm- tìm thấy này thật đau đớn đối với người mẹ.
Mẹ Maria sợ mất con, mất điều rất quý đã được Thiên Chúa trao cho mình.
Nhưng khi thấy con mình ngồi giữa các vị thầy, rất bình an trò chuyện với họ,
thì Mẹ lại sửng sốt, ngỡ ngàng, thay vì vui sướng.
Như vậy là con không bị lạc, nhưng đã cố ý ở lại Đền thờ mà không báo.
Mẹ không nén được một lời trách móc: “Tại sao con làm thế với cha mẹ?
Cha con và mẹ đã khắc khoải tìm con” (c. 48).
Chuyện không ngờ là cậu Giêsu đã đáp lại câu hỏi của Mẹ bằng hai câu hỏi,
đầy vẻ sửng sốt và cũng là một lời trách: “Tại sao cha mẹ lại tìm con?
Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao ?” (c.49).
Cũng có thể hiểu là: cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?
Đức Giêsu, khi lên mười hai tuổi, đã bắt đầu có ý thức mình thuộc về Cha.
Người Cha trên trời này khác với người cha mà Ngài đang chung sống.
Ngài phải ở với và lo việc cho người Cha này, lẽ ra cha mẹ phải biết chuyện đó.
Dĩ nhiên hai ông bà chưng hửng, không hiểu được câu nói của cậu Giêsu (c.50).
Riêng Mẹ Maria có thói quen nghiền ngẫm về các biến cố khó hiểu.
Mẹ giữ kỹ trong trái tim mình những chuyện xảy ra (Lc 2, 19. 51b).
Chúng ta tưởng Mẹ Maria luôn luôn hiểu Con mình, hiểu ngay, hiểu trọn vẹn.
Chúng ta tưởng ai sống thánh thiện thì lúc nào cũng vui, chẳng bao giờ lo sợ.
Nhìn Mẹ Maria, chúng ta hiểu theo Chúa là bước vào một cuộc hành trình.
Có những lúc như đang chơi ú tim với Chúa, mất rồi lại tìm, tìm thấy rồi lại mất.
Chúng ta chẳng bao giờ nắm được Chúa, giữ chặt Chúa trong tay.
Chúa vẫn là Đấng không thể thấu hiểu được, và vẫn làm chúng ta sững sờ.
Mẹ Maria đã chứng kiến Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt (Lc 2, 40),
từ khi sinh ra đến khi mười hai tuổi,
và từ mười hai tuổi đến lúc trưởng thành (Lc 2, 52).
Ngài càng lúc càng ý thức mình thuộc về Cha và ý thức về sứ mạng.
Con của Mẹ là một mầu nhiệm khôn dò mà Mẹ phải tìm hiểu mỗi ngày.
Mẹ để cho Con tự do sống theo Ý Cha, dù điều đó đem lại nhiều đau khổ.
Chuyện mất Con hôm nay chuẩn bị cho việc Con sẽ chia tay Mẹ đi sứ vụ,
và chuẩn bị cho cuộc chia tay kinh hoàng trên thập giá.
Chúng ta cầu cho các bà mẹ đang đau khổ vì con.
Mong sự vâng phục của con cái làm tươi trái tim người mẹ.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm họa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
SUY NIỆM 2: Lễ kính Trái Tim vẹn sạch Đức Maria
(Lm HKT)
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng kính ngay sau lễ tôn kính Thánh tâm Chúa Giêsu. Điều đó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa ngày lễ của Mẹ Maria hôm nay.
Thật vậy, nếu như Thánh tâm Chúa Giêsu là dấu chỉ tình thương vô hạn mà Thiên Chúa dành cho con người, thì Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria cũng thế, cũng là dấu chỉ của tình yêu, nhưng là tình yêu của Mẹ đối với Thiên Chúa và đối với Đức Giêsu Kitô, con yêu dấu của Mẹ. Tuy nhiên, một cách đặc biệt, khi tôn kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria, Giáo Hội cũng tôn kính tình yêu hiền mẫu của Mẹ đối với toàn thể nhân loại.
Thế nhưng, tình thương của Mẹ Maria đối với con người không ngừng bị xúc phạm. Hình ảnh trái tim của Mẹ bị lưỡi gươm đâm thấu mà cụ già Simêon đã cho thấy điều đó. Và trong sứ điệp Fatima, Mẹ Maria đã tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Mẹ đã bị tội lỗi của thế gian gây nên biết bao thương tích. Bởi đó, một trong ba mệnh lệnh Fatima là “Hãy đền tạ trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria”.
Cũng như tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không thể hiểu thấu được tình yêu của Mẹ Maria đối với chúng ta. Thật thế, khi trao ban thánh Gioan cho Mẹ Maria, Đức Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ Maria. Bởi đó, dù thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật, mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria đón nhận như người con trọn vẹn của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria dành cho tất cả tâm tình và tình thương mà Mẹ đã dành cho Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Ma-ri-a dành cho một chỗ đặc biệt trong trái tim Mẹ.
Là con cái của Mẹ Maria, chúng ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để được Mẹ ủi an nâng đỡ và nhất là chúng ta hãy thi hành những lời căn dặn của Mẹ:
- Cải thiện đời sống,
- Siêng năng lần hạt mân côi,
- Tôn sùng Trái tim Mẹ – Amen.
SUY NIỆM 3: Mẫu mực trong đời sống đức tin
Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn đã được hoãn hành quyết hai năm để bà có thể cai sữa cho đứa con.
Hôm thứ Hai ngày 17/6/2002, tòa phá án thành phố Pontuar ở miền tây bắc Nigiêria vẫn duy trì cuộc hành quyết này sau khi xét đơn kháng cáo của bà Amila Nawanrami. Người phụ nữ này bị kết án tử hình hồi tháng 3/2002, sau khi bị tố cáo có thai với một người đàn ông không chính thức là chồng của chị. Kurami là người đàn bà thứ hai bị kết án tử hình vì có con ngoại hôn tại Nigiêria. Án tử hình của chị sẽ được thi hành vào năm 2004 sau khi đứa con của chị dứt sữa mẹ. Bản án thật bất công, nó ngược lại với mọi chuẩn mực văn minh của loài người. Tuy nhiên, vẫn còn thấy ở đây một giá trị mà cho dù có độc ác tới đâu loài người vẫn còn trân quí, đó là tình mẫu tử. Người mẹ Nawanrami sẽ chết đi nhưng ít ra đứa con của chị vẫn còn có được những giọt sữa mẹ nuôi dưỡng cho đến khi thôi bú.
Cho con bú mớm, đó là hình ảnh đẹp nhất mà người ta có thể nhìn thấy nơi bất cứ người mẹ nào. Hôm nay Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ. Mẹ đã sinh dưỡng Chúa Giêsu, Mẹ đã từng cho Ngài bú mớm. Một hôm, vào giữa lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy, có một người trong đám đông đã lên tiếng ca ngợi Mẹ: "Phúc cho kẻ đã cho Ngài bú mớm". Quả thật, cũng như bất cứ bà mẹ nào, Mẹ đã cho Chúa Giêsu bú mớm, Mẹ đã nhìn Ngài lớn lên từng ngày, Mẹ theo dõi và hân hoan với từng bước chân chập chững của Ngài, Mẹ vui với sự khôn lớn của Ngài, Mẹ buồn lo vì sự bất chấp xảy ra cho Ngài.
Câu chuyện Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được trái tim hiền mẫu của Mẹ: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con?" Lời trách móc này bộc lộ tất cả trái tim con người của Mẹ. Mẹ đối xử với Chúa Giêsu với tất cả tình cảm của một con người và chính vì là một con người cho nên Mẹ trở thành mẫu mực cho chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Nơi Mẹ, chúng ta nhận ra được một người tín hữu tiến bước trong mò mẫm, trong chiến đấu, trong tin yêu và vâng phục. Nhưng Mẹ không chỉ là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin. Mẹ là Mẹ của chúng ta. Mẹ đã yêu thương Chúa Giêsu với tất cả trái tim nhân loại của Mẹ. Ngày nay, Mẹ cũng tiếp tục dõi theo mỗi người chúng ta với trái tim hiền mẫu ấy. Mẹ đã trải qua thử thách, Mẹ hiểu được thế nào là khổ đau. Hơn ai hết, Mẹ đồng cảm với bao nỗi lo lắng và khổ đau của chúng ta. Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Mẹ đã từng dõi theo từng bước trong tiến trình trưởng thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ suy niệm từng biến cố của cuộc sống.
Ngày nay cũng thế, không có giây phút nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta mà không được Mẹ ôm ấp trong lòng. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta phó thác cuộc sống cho Mẹ.
SUY NIỆM 4: Lễ Trái Tim Đức Mẹ
Có thứ nghệ thuật cho rằng đặt trái tim bốc lửa ra ngoài ngực của Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a là một gương mù. Thế mà chiêm ngưỡng lối cách mạng này là trình bày cho chúng ta thấy hai Đấng thương yêu chúng ta đậm đà nồng ấm biết chừng nào, và chúng ta thấy hai Đấng đáng mến vô cùng. Người ta cho đó là thứ đạo đức thời trang; lấy lý do đạo đức trong sáng, người ta chê thiếu sự liêm chính tri thức và tinh thần thối thiểu trong đức tin; Nhưng người ta không thấy chướng tai gai mắt của lối thương mại in đúc những trái tim to bự bằng nhiều kiểu để trao tặng cho nhau trong ngày lễ Va-lăng-tin;
Như thế người ta nghĩ sao?
Thói chỉ trích đó do thứ thông minh đáng nghi ngờ cho rằng lối nghệ thuật cơ bắp đó chỉ lôi cuốn sự sùng kính cảm tình. Tuy nhiên, nghệ thuật tạo hình để bày tỏ sự thực của Thiên Chúa, nó nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Đừng cười chê quá lố; chúng ta thích biểu lộ tình yêu của chúng ta thế nào: bằng phá bỏ tưởng tượng này chăng? Phải, nếu muốn làm cho lòng yêu mến biến mất và không còn gì để kính tôn nữa. Cần phải đến những nhà thờ để chiêm ngưỡng; tôi đã đến và thấy rằng: “Những tượng ảnh xưa đầy gợi cảm đang sống động tốt”. Chúng có giá trị kích thích lòng đạo đức, chúng không thể là thứ danh từ tân thời như ngày nay.
Đức Ma-ri-a yêu thương chúng ta
Trái tim cực sạch Đức Ma-ri-a thế nào? Ngài yêu thương chúng ta. Trái tim cực sạch của Ngài đồng nghĩa với tình yêu chân thật, giống như tình yêu Con Ngài đối với chúng ta. Dù cho chúng ta tan tành cũ rách, và chẳng đáng để ý chút gì.
Thi hào Claudel nói:“Lạy Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, con không đến cầu xin, con đến chỉ để nhìn ngắm Mẹ thôi. Nhìn ngắm Mẹ không chỉ để một lát, mà suốt mọi lúc...
Vì Mẹ là bà Mẹ sáng ngời vinh quang nguyên tuyền...chỉ vì mẹ là Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, Xin đoái thương chúng con”.
SUY NIỆM 5: Tôi biết chạy đến với ai?
(Trích sách ‘Lẽ Sống’)
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.
Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết; Tô không biết phải chạy đến với ai nữa".
Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".
Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.
SUY NIỆM 6: Suy niệm trong lòng
(Trích trong ‘nguoitinhuu.com’)
Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Lc 2,51)
Suy niệm: Nhiều lần Chúa Giêsu đã gián tiếp ca ngợi Mẹ: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời tôi và đem ra thực hành” (Mc 3,35; Lc 8,21) và “Phúc thay ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28). Các Phúc Âm đã thuật lại những biến cố trong cuộc đời của Người Con, nhất là những biến cố trong thời thơ ấu, đã đi vào cuộc đời của Mẹ và cho biết Mẹ “hằng ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Hẳn đối với Mẹ, Lời Chúa không chỉ được nghe tại các hội đường mà còn vang lên nơi các biến cố đời thường và nhất là nhập thể nơi Người Con duy nhất mà Mẹ được diễm phúc sinh ra. Mẹ đã thường xuyên “đọc” Lời Chúa và suy niệm trong lòng như thế nên những phản ứng của Mẹ luôn biểu lộ thái độ của một người có lòng tin sâu xa, thấm nhuần Lời Chúa.
Mời Bạn: Mẹ Maria là người đã trải qua nhiều “đêm tối đức tin” hơn ai hết, nhưng nhờ Mẹ năng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa nên Mẹ có sức mạnh nội tâm vượt qua tất cả. Làm sao Mẹ có thể tin nổi lời sứ thần Gabriel, làm sao Mẹ có thể can đảm đi theo Chúa trọn con đường Thập giá nếu Mẹ không nhận ra và tin vào Lời Chúa? Giờ đây Mẹ vẫn chuyển cầu và dẫn chúng ta đến với Chúa mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thử thách: “Người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,3). Nhưng liệu tôi có nghe và làm theo không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một câu Lời Chúa để suy đi gẫm lại như Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã vâng phục Mẹ vì Mẹ đã thấm nhuần Lời Chúa. Xin giúp con biết để Lời Chúa hướng dẫn bước đường con đi trong suốt cuộc lữ hành trần thế này.
SUY NIỆM 7: LỄ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ
(JM Lam Thy ĐVD)
Để nói lên vai trò quan trọng bậc nhất của người mẹ, tục ngữ Việt Nam có câu: “Mồ côi cha ăn cơm với cá; Mồ côi mẹ liếm lá đầu đình”. Ấy cũng bởi vì tình cảm mẹ con vô cùng thắm thiết. Ngôn ngữ loài người đã dùng 2 tiếng Mẹ và Con để tôn vinh tình cảm bất khả thay thế đó, đồng thời cũng dùng 2 tiếng ấy trong cách xưng hô giữa 2 ngôi vị đó trong gia đình. Đối chiếu tình cảm đó với Thánh Kinh, khi nhìn vào mầu nhiệm Cứu Chuộc thì Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể), khi nhìn vào mầu nhiệm Hội Thánh thì Đức Maria là Mẹ Giáo Hội (vì Người Con của Mẹ đã nhận Giáo Hội làm Hiền Thê và chính thức trao phó cho Mẹ trước khi sinh thì trên Thánh Giá). Quả thật tình Mẫu Tử giữa Mẹ Thiên Chúa và Người Con là cao vời tuyệt đỉnh, muôn vật thụ tạo khôn sánh bằng.
Tuy nhiên, khi suy niệm Thánh Kinh thì lại nảy sinh thắc mắc: Tại sao Người Con Chí Thánh Giê-su lại gọi Mẹ mình bằng tiếng Bà nghe có vẻ xa lạ như vậy (như trong tiệc cưới Ca-na, khi thấy thiếu rượu, Đức Maria nói với Đức Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” – Ga 2, 4); thậm chí cả khi trối trăng dưới chân thập tự: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ Gio-an: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” – Ga 19, 26-27). Phải chăng vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người không muốn gọi người sinh ra mình nơi trần gian là Mẹ? Thắc mắc thật khó lý giải, đành phải nhờ vào việc tìm hiểu danh thánh Maria qua cách giải thích của các Giáo phụ, mới hiểu rõ được vấn đề:
Qua hàng bao thế kỷ, nhờ lòng tôn sùng tuyệt đối Đức Maria, các thánh Giáo phụ đã đề nghị nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của danh xưng “Maria”. Tựu trung, người ta đã có được một giàn ý nghĩa kỳ thú sau đây: Maria nghĩa là “Người Soi Sáng” bởi vì Người đã đem Ánh Sáng (Đức Giê-su Thiên Chúa – Nguồn Ánh Sáng Cứu Độ) đến cho thế gian; Maria nghĩa là “Sao Biển” vì những người đi biển được Sao Biển hướng dẫn về bến bờ như thế nào, thì Ki-tô hữu trong biển đời giông tố cũng đạt đến vinh quang nhờ sự soi đường chỉ lối của Đức Từ Mẫu Maria như vậy; Maria còn có nghĩa là “Lệnh Bà” (là Đức Bà của nhân loại). Trước đây ở Việt Nam, trong các kinh nguyện về Đức Maria đều gọi là Đức Bà. Điều đó cho thấy khi Đức Giê-su gọi Đức Maria là Bà, là Người tôn vinh Người Mẹ chí ái của minh vậy.
Còn về ngày lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, thì Lịch sử Phụng Vụ của Giáo Hội cho biết: Năm 1787, Đức Giáo hoàng Pi-ô VI ban phép các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel mừng lễ “Rất Thánh Trái Tim Mẹ Maria” vào ngày 22/8. Năm 1799, tất cả các nhà thờ giáo phận Palermô nước Ý được mừng lễ này. Năm 1805, tất cả các giáo phận và các dòng tu muốn mừng lễ này đều được Đức Pi-ô VII ban phép. Năm 1855, dưới triều đại Đức Pi-ô IX, giờ kinh và Thánh lễ đã được Thánh bộ Lễ nghi chấp thuận (1).
Từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917 ban hành mệnh lệnh “Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ”, vào ngày mồng 8/12/1942, Đức Thánh Cha Pi-ô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Tới tháng 5/1943, Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu Công Giáo kêu cầu sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Ngài cũng kêu mời mọi người dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1945, ngài chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22/8. Theo chiều hướng canh tân Phụng vụ, năm 1969, Đức Phao-lô VI đổi lễ này vào ngày thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su (cuối tuần Chúa nhật II sau lễ Hiện Xuống) (2).
Thật vô cùng ý nghĩa khi ngày lễ kính Trái Tim Người Mẹ đi liền với ngày lễ kính Thánh Tâm Người Con. Ấy cũng bởi vì 2 Trái Tim ấy luôn gắn liền với nhau, ở trong nhau trong suốt thời Cứu Độ và mãi mãi cho đến vô cùng. Để được hòa chung Máu của Mẹ với Máu của Con làm của dưỡng nuôi những tín hữu, cùng đồng công cứu chuộc nhân loại thoát khỏi sự chết đời đời, hẳn nhiên Đức Mẹ phải có đầy đủ trong lòng (trong trái tim) nguồn ân sủng chan chứa làm nên những hình ảnh Trái Tim Từ Mẫu tuyệt vời: Trái Tim Tinh Tuyền, Trái Tim Tín Thác, Trái Tim Cay Đắng, Trái Tim Nhân Hậu.
Trái Tim Tinh Tuyền: Mẹ đã được tuyển chọn ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội. Thiên Chúa đã tiền định một E-và Mới sẽ “đạp nát đầu con rắn (Xa-tan) đã cám dỗ E-và” (St 3, 1-15). E-và Mới đó chính là Đức Maria được hồng ân vô nhiễm nguyên tội ngay từ khi đầu thai trong lòng bà Anna. Đồng thời, trong suốt cuộc đời trần thế, Mẹ cộng tác mật thiết với Người Con (A-đam Mới) đồng công cứu chuộc loài người, gặp biết bao nghịch cảnh và cám dỗ của ba thù, Mẹ vẫn giữ nguyên tuyền vẻ đẹp trinh trong một Trái Tim Vẹn Sạch, không chút bợn nhơ trần thế.
Trái Tim Tín Thác: Sau khi nghe sứ thần truyền tin, Mẹ chẳng so đo ngần ngại, mà dứt khoát:“Xin Vâng”. Mẹ hoàn toàn vâng phục, phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng với tất cả tấm lòng tin, cậy, mến. Qua bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat), Mẹ cảm tạ, ca ngợi và tri ân Thiên Chúa đã đoái thương đến Mẹ và dân Chúa chọn. Vì nay lời Giao ước đã được thưc hiện, Mẹ phó thác vào Thiên Chúa, tuân phục theo những dấu chỉ, những mệnh lệnh của Người cách trực tiếp, hay gián tiếp qua người bạn trăm năm là Thánh Cả Giu-se. Dù bụng mang dạ chửa nặng nề, Mẹ vẫn vui lòng lên đường trở về Bê Lem cùng với Thánh Cả Giu-se, theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augusto. Sau khi sinh hạ Hài Nhi Giê-su nơi hang bò lừa Bê-lem lạnh lẽo, Mẹ lại tiếp tục vâng theo Thánh ý, đem Con sang Ai-cập lánh nạn Hê-rô-đê lung giết các hài nhi.
Trái Tim Cay Đắng: Ngày 13/6/1917, một trong ba thiếu nhi Fatima (Lucia, Jacinta và Francisco) là Lucia (được “Chúa Giê-su dùng để làm cho Mẹ được mọi người nhận biết và yêu mến”) đã trực tiếp nghe lời Đức Mẹ phán hứa: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa”. Thế rồi, trước khi biến đi, Đức Maria đã dùng tay phải chỉ vào ngực, cho 3 trẻ thấy một Trái Tim bị gai nhọn từ chung quanh đâm vào (3). Điều này cho thấy những gai nhọn, đinh sắc (tội lỗi loài người) không chỉ đâm vào Thánh Tâm Người Con mà còn đâm cả vào Trái Tim Mẹ. Trái Tim Mẹ khi còn tại thế đã đau đớn đúng như lời ngôn sứ Si-mê-on tiên báo (“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” – Lc 2, 35). Thật không ngờ cho đến 20 thế kỷ sau, khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (năm 1917), Trái Tim Mẹ vẫn tiếp tục bị gai nhọn, đinh sắc tội lỗi loài người đâm thâu. Danh thánh Maria với nghĩa là “Biển Đắng Cay” quả thật không sai.
Trái Tim Nhân Hậu: Nói về nhân hậu là nói về Đức Mến nền tảng của Ki-tô giáo. Đó chính là điều răn trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với Đức Maria thì Trái Tim Mẹ đã vượt trên tất cả phàm nhân về đức tính nhân hậu. Vì “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, Đức Maria đã dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa (khấn giữ đồng trinh). Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ đã “xin vâng như lời sứ thần truyền” dù cho Mẹ “không hề biết đến người nam”. Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ chấp nhận mọi gian nan vất vả khi sinh con tại hang bò lửa Bê-lem, khi mang Con lánh nạn sang Ai-cập. Từ khi hạ sinh Trưởng Tử Giê-su, Mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc Con, không những thế, Mẹ còn dạy mọi người đức mến yêu, vâng phục tuyệt đối Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2, 5). Cho đến khi Con tử nạn trên Gôn-gô-tha thì Trái Tim tan nát của Mẹ vẫn mở ra đón nhận đàn con cái trần gian do Người Con trao phó. Trái Tim của Mẹ vì khiêm cung nhân hậu đã xin vâng nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nay lại mở rộng lòng nhận hậu, nhận làm Mẹ Giáo Hội lữ hành.
Suy niệm về Trái Tim Từ Mẫu Maria thì vô cùng, không bút mực nào có thể diễn tả cho hết được về kỳ công Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một Evà Mới Maria, hạ sinh một Trưởng Tử Ađam Mới, cùng hiệp thông thi hành sứ vụ Cứu Độ nhân loại. Người Ki-tô hữu hãy chạy đến với Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, để được “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”, cầu xin Người ban cho một tâm hồn trong sạch, một trái tim tinh tuyền như Mẹ và như vua Đa-vit thủa xưa. Hãy tha thiết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51, 12). Ôi! “Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn cao dâng tâm tình kính mến. Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn trung kiên vững một niềm tin.” (TCCĐ “Trái Tim Tinh Tuyền”).
SUY NIỆM 8: ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM, VÌ ĐƯỢC CHÚA Ở CÙNG
(LM. Giuse Đinh Quang Thịnh)
Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Thiên Chúa (Hội Thánh kính ngày 1.1)
Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Hội Thánh, thì Đức Ma-ri-a là đấng Vô Nhiễm, vì là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu mà Hội Thánh kính hôm nay.
Chính Đức Giê-su đã gọi Mẹ mình bằng danh hiệu Bà lúc khởi đầu và lúc kết thúc cuộc đời công khai của Ngài.
- Khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su, Ngài “thai nghén” Hội Thánh qua tiệc cưới Cana là dấu chỉ. Nơi đây Đức Giê-su nói với Mẹ: “Này Bà, giữa tôi và Bà nào có việc gì” (Ga 2,4a). Đức Giê-su gọi Mẹ mình là Bà,Ngài có ý xác nhận Đức Ma-ri-a là Eva mới, sẽ làm ứng nghiệm lời hứa tiền Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ loài người: “Người phụ nữ sẽ đạp nát đầu rắn” (St 3,15 – Theo bản dịch Phổ Thông). Bà Eva mới này mới làm ứng nghiệm lời ông Adam nói với vợ: “Bà là mẹ các sinh linh” (St 3,20), nghĩa là mẹ của những người được Thiên Chúa cứu độ.
- Kết thúc đời công khai của Đức Giê-su, khi Ngài bị treo trên thập giá là thời điểm Ngài sinh ra Hội Thánh, là con của Bà Maria, Eva mới, như Lời Đức Giê-su nói về sự liên hệ giữa môn đệ của Ngài với Đức Ma-ri-a: “Hỡi Bà, này là con Bà”, đoạn Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”, và từ giờ đó môn đệ đã lĩnh lấy bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).
Như thế hai lần Đức Giê-su gọi Mẹ bằng danh hiệu Bà mở đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài, là Ngài có ý nhấn mạnh: Từ khởi sự cho đến hoàn tất, những công việc tôi đều có sự tham dự tích cực của bà Maria. Vì thế, thánh Phao-lô nói: “Cũng chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập vào thế gian, và vì tội, thì sự chết nữa và như vậy sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Ấy thế, mà sự chết đã ngự trị từ Adam cho đến ông Mô-sê, trên những kẻ không phạm tội (vì lúc đó chưa có Luật) bằng cách vi phạm giống như Adam phản ảnh của Đấng sẽ đến. Nhưng không phải sa ngã sao ơn huệ cũng vậy. Vì nếu bởi sự sa ngã của một người, nhiều người đã chết, thì còn dãy tràn hơn biết bao trên nhiều người, ơn của Thiên Chúa, lộc trong ơn của một người, Đức Giê-su Ki-tô”(Rm 5,12.14-15).
Bởi đó, Đức Ma-ri-a là tiền thân của các Ki-tô hữu, vì qua Bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu cũng là một trinh nữ thanh khiết, như Maria, Mẹ của mình, được đính hôn với Tân Lang Giêsu, (x 2Cr 11,2). Chính vì vậy mà Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a là một Trinh Nữ Vô Nhiễm Chúa chọn từ muôn thuở, để cùng với Adam cuối cùng (x 1Cr 15,45b) sinh ra dòng giống nhân loại mới là Hội Thánh. Do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Hội Thánh số 56: “Vì Eva không vâng Lời Chúa, nên đã sinh ra nhân loại phải chết ; nhưng nhờ Đức Ma-ri-a, Eva mới cùng với Adam cuối cùng, sinh ra dòng giống nhân loại mới được sống muôn đời hạnh phúc dồi dào”, và như thế Đức Ma-ri-a đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ: “Dòng giống chúng sẽ được biết đến trong các nước, và miêu duệ chúng lừng danh giữa muôn dân ; ai thấy chúng đều nhận biết đích thị là dòng giống được Thiên Chúa chúc lành” (Is 61,9: Bài đọc). Bởi đó, khi Đức Ma-ri-a vừa nghe bà Elizabeth người chị họ chúc tụng: “Trong nữ giới có người là diễm phúc ! Vì đáng chúc tụng thay quả lòng Bà! Và bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa đến với tôi” (Lc 1,42-43). Vừa nghe lời chúc tụng ấy, Đức Ma-ri-a cất tiếng ca ngợi Chúa: “Tâm hồn con nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,47: Đáp ca). Tâm tình ca tụng Chúa của Đức Ma-ri-a đã nối dài lời chúc tụng của bà Anna, dù hiếm hoi mà được Chúa cho sinh con trong tuổi già: “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa, nhờ Chúa con ngẩng đầu hiên ngang, con mở miệng nhạo báng quân thù. Vâng con vui sướng vì được Ngài cứu độ” (1Sm 2,1). Và như thế, lời tạ ơn trên của Đức Ma-ri-a lại làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời Thiên Chúa ra tay cứu loài người khỏi án tử vì tội: “Tâm hồn con vui sướng trong Chúa, mạng con nhảy mừng trong Thiên Chúa con thờ, vì Người đã mặc cho con áo cứu độ. Chiến bào công chính, Người phủ lên con, như tân lang chỉnh tề đai mão và tân nương điểm trang phục sức” (Is 61,10: Bài đọc). Và như thế Đức Ma-ri-a đã xác nhận mình là Tân Nương đã được Chúa điểm trang phục sức đứng kề bên Adam cuối cùng chỉnh tề đai mão, vì Ngài là Vua.
Ơn huệ quý báu Chúa ban cho Đức Ma-ri-a chỉ có thể tồn tại nhờ Mẹ đến Nhà Chúa gặp thấy Con đang giảng dạy giáo lý. Quả thật, mầu nhiệm này Đức Giê-su hữu ý bắt cha mẹ Ngài phải đến Nhà Thờ, mới được bình an. Đó là lý do Ngài trốn cha mẹ ở lại Nhà Thờ, để từ đó Con Thiên Chúa đồng hành với cha mẹ trở về quê Nazareth (x Lc 2, 41-51: Tin Mừng). Sau này từ Nazareth Đức Giê-su bắt đầu đời sống công khai, đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân (x Lc 4,14t).
Vậy ta hãy bắt chước “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a ghi nhớ Lời Chúa và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19: Tung Hô Tin Mừng), để qua Phụng Vụ Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Ma-ri-a, Hội Thánh muốn nhắc nhở con cái mình: Người Công Giáo đã được trở nên con cái Mẹ, thì phải nên giống Mẹ năng đến Nhà Thờ gặp Chúa, vì mỗi khi phạm tội là ta lạc mất Chúa, hãy trở lại Đền Thờ để tham dự Thánh Lễ, nhờ Chúa ta được thanh tẩy, và cho ta tham dự vào ơn Vô Nhiễm của Mẹ. Như lời thánh Gioan nói: “Mầm giống của Đức Ki-tô lưu lại trong kẻ ấy, và kẻ ấy không thể phạm tội, bởi chưng đã được sinh bởi Thiên Chúa” (1Ga 3,9). Đó là hiệu quả chính của Bí tích Thánh Thể mà sách Giáo Lý Roma đã xác quyết:
- Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước Mình Chúa Ki-tô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế Bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Ki-tô, nếu Chúa Ki-tô không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số 1393).
- Nhờ tình yêu mà Bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Ki-tô, chúng ta càng sống mật thiết với Người ; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa Chúa (số 1395).
- Nhờ tham dự Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giê-su Phục Sinh chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta, và bảo vệ ta khỏi phạm tội trọng (số 1416).
THUỘC LÒNG: Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2).
SUY NIỆM 8: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ (Lc 2, 41 – 51)
(Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc)
Xâm mình (xâm những hình ảnh trên thân thể) đang là mốt thời thượng của giới trẻ. Họ xâm trên mình nhiều hình ảnh hết sức lạ mắt và cho rằng xâm mình như vậy mới là “dân chơi”, mới là “sành điệu”. Có bạn trẻ xâm trên ngực hình trái tim bị một mũi tên xuyên qua đang rỉ máu với hàng chữ minh họa “hận tình đen bạc” hoặc “hận đời”…..
Khi nhìn trái tim rỉ máu ấy tôi liên tưởng đến 2 trái tim cũng bị đâm thâu: Một trái tim mà chúng ta mới mừng lễ hôm qua bị xé rách do lưỡi đòng của quân lính – Thánh Tâm CGS - và một trái tim bị đâm thâu do lưỡi gươm ác nghiệt mà Ông già Simêon đã tiên báo (Lc 2, 35b) – trái tim vô nhiễm Đức Mẹ mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Điểm khác biệt của 2 trái tim này với trái tim trên ở chỗ : 2 trái tim này bị đâm thâu và loang máu không phải vì “hận tình” và “hận đời” mà là vì “yêu Trời, yêu đời và yêu người”.
Sau khi Nguyên Tổ sa ngã, dù con người đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương Ađam và Evà. Người muốn họ và tất cả loài người phát xuất từ hai ông bà được sống trong tình nghĩa với Người nên đã sai Đấng Cứu Chuộc đến để giao hòa con người với Thiên Chúa (St 3,15) và phục hồi tình trạng ơn thánh cho chúng ta (Sách GL của HTCG).
Thế là trái tim thứ I có sứ mạng tuân hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên của lễ đền tội cho nhân loại: “Này con đây, con đến để thực thi ý ngài” (Dt 10, 8-9). Nhưng để có thể xuất hiện trong cuộc đời này, trái tim thứ I rất cần có sự cộng tác của trái tim thứ II để cho thánh ý được nên trọn. Thiên Chúa không phải chờ lâu, trái tim thứ II đã mau mắn đáp lại tiếng mời gọi của Sứ Thần Gabriel: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38).
Và bắt đầu từ đó, hai trái tim hòa quyện với nhau, trở nên một tâm tình, một ý chí và một lòng mến: yêu Trời (Chúa Cha), yêu đời (chấp nhận và thực thi sứ mạng của mình) và yêu người (vì yêu thương nhân loại), đến nỗi ta không bao giờ có thể tách biệt 2 trái tim ấy ra.
Có lẽ chính vì ý thức như vậy nên liền sau lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội mừng lễ trái tim vô nhiễm Mẹ Maria để muốn nói lên rằng Mẹ và Con Yêu Dấu của Mẹ đã liên kết với nhau chặt chẽ, đã đồng tâm nhất trí với nhau, đã một lòng một ý vâng lời Thánh ý Thiên Chúa Cha và hoàn toàn dâng hiến cho nhân loại. Có lẽ không có hình ảnh nào cao cả cho bằng hình ảnh Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá. Chính lúc lưỡi đòng đâm thâu trái tim Con của Mẹ thì cũng là lúc trái tim Mẹ nát tan. Có lẽ để chứng thực điều đó nên vào ngày 13/6/1929, khi hiện ra với Chị Lucia, Mẹ đã cho Chị nhìn thấy trái tim của Mẹ bốc lửa và bị vòng gai quấn chung quanh, bên cạnh là Thánh Giá Chúa Giêsu lơ lửng trên trần nhà nguyện.
Bạn thân mến, Mẹ Maria đang mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy gắn chặt và liên kết trái tim chúng ta với Thánh Tâm Chúa qua trung gian trái tim vẹn sạch của Mẹ. Điều kiện để được liên kết đó là hãy yêu như Chúa và Mẹ yêu, hãy sống như Chúa và Mẹ sống, hãy hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tha nhân như Chúa và Mẹ đã làm. Amen.
SUY NIỆM 9: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ
(Phêrô Dương Hải Văn SDB)
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...
Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).
Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.
Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.
Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ''để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ''. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.
Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.
Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.
11/06 Tình yêu.
- Viết bởi Ga 19, 31-37
Tình yêu.
Thứ Sáu tuần 10 thường niên – THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU. Lễ trọng.
Ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục.
"Tên lính đâm thủng cạnh sườn Người, và máu cùng nước chảy ra".
Lời Chúa: Ga 19, 31-37
Bởi lẽ là Ngày Chuẩn Bị, và để tránh cho các tử thi không còn treo trên thập giá trong ngày sabbat, vì ngày sabbat là một ngày trọng đại, những người Do-thái xin Philatô cho hạ các tử thi xuống, sau khi đánh giập ống chân. Bấy giờ những người lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu.
Khi đến gần Chúa Giêsu, chúng thấy Người đã chết, nên không đánh giập ống chân Người; nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức máu cùng nước chảy ra. Và kẻ đã xem thấy, thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cả chư vị cũng tin.
Những điều đó đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: "Không một cái xương nào của Người bị đánh giập". Và lại có lời Kinh Thánh khác rằng: "Chúng sẽ nhìn vào Đấng chúng đã đâm thâu qua".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Máu cùng nước chảy ra
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Muốn nhìn thấy Trái Tim của Thiên Chúa, phải đến với Giêsu.
Muốn nhìn thấy Trái Tim của Giêsu, chúng ta có thể đứng từ nhiều vị trí.
Thấy Trái Tim ấy khi Giêsu cúi xuống trên những bệnh nhân và tội nhân,
trên người thu thuế và gái điếm, trên phụ nữ và trẻ em.
Thấy Trái Tim ấy khi Giêsu nuôi dân ăn no, hay rửa chân cho các môn đệ.
Nhưng có một chỗ đứng đặc biệt để nhìn thấu Trái Tim của Giêsu,
nhìn rõ Trái Tim đó vào lúc yêu bằng tình yêu lớn nhất,
chỗ đó là Núi Sọ, lúc đó là buổi chiều thứ sáu, áp lễ Vượt Qua,
khi đó Trái Tim ấy đã ngừng đập và bị đâm thâu.
Chỉ riêng Tin Mừng thứ tư kể lại chuyện Đức Giêsu bị đâm vào cạnh sườn,
khi Ngài chịu đóng đinh trên thánh giá.
Có Mẹ của Ngài và người môn đệ Ngài thương mến đứng gần bên.
Chính người môn đệ này đã chứng kiến tận mắt
và muốn làm chứng một cách nghiêm túc cho các môn đệ tương lai
về điều đối với ông thật là quan trọng, để họ cũng tin như ông (c.35).
Câu chuyện xảy ra thật là đơn giản.
Người Do thái muốn hạ xác các người bị đóng đinh xuống,
vì chiều thứ sáu là đã bắt đầu ngày sabát,
cũng là ngày đầu tiên của tuần lễ Vượt Qua, một đại lễ trong năm.
Thấy Đức Giêsu chết rồi, lính đã không đánh giập ống chân nữa.
“Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người.
Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (c. 34).
Làm sao máu có thể chảy ra khi tim đã ngừng bơm máu và xác đã chết ?
Làm sao máu và nước có thể chảy ra một cách có vẻ biệt lập như vậy ?
Nhiều nhà khoa học đã tìm cách giải thích hiện tượng này,
và đối với họ điều này không phải là không có khả năng xảy ra,
đối với một người mới chết, đang ở tư thế thẳng đứng.
Người môn đệ được Chúa mến thương đã chứng kiến cảnh tượng ấy,
hẳn đã nhận ra và trân trọng ý nghĩa sâu xa của nó.
Giáo Hội vẫn coi các bí tích được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu.
Máu là máu của bí tích Thánh Thể, nước là nước của bí tích Thánh Tẩy.
Từ cạnh sườn Đức Giêsu chảy ra dòng nước mà Ngài đã hứa ban trước đây.
“Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7, 38-39).
Dòng nước ấy là Thần Khí Ngài ban khi gục đầu tắt thở (Ga 19, 30).
Chính vào giờ Đức Giêsu chịu treo, người ta giết chiên Vượt qua để mừng lễ.
Đức Giêsu mới là Chiên Vượt qua đích thực (Ga 1, 29. 36).
Ngài chết như con chiên hiền lành bị đem đi giết, như người Tôi Trung (Is 53, 7).
Ngài chết như con chiên Vượt qua không bị đánh giập cái xương nào (c. 36).
Lễ Thánh Tâm cũng là ngày thánh hóa các linh mục.
Chúng ta cầu cho các linh mục có trái tim của Thầy Giêsu,
trái tim bị đâm thâu, nên đã mở ra để đón mọi người chẳng trừ ai,
trái tim yêu đến cùng, yêu bằng tình yêu lớn nhất, yêu đến hiến mạng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
SUY NIỆM 2: Thánh Tâm Chúa Giêsu
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.
Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:
- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.
Máu Chúa đem lại ơn tha thứ, như giòng nước tinh tuyền gột sạch tâm hồn chúng ta, đem lại sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau.
Nếu như tâm hồn chúng ta đang thất vọng chán nản vì tội lụy, nếu như tâm hồn chúng ta đang mang những vết thương cuộc đời, thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa, để Người chăm sóc và băng bó, để Ngài chuyền máu mà cứu chữa. Bởi vì chỉ trong Người chúng ta mới biết được sống thực là gì.
Tiếp đến, chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chảy sang tâm hồn chúng ta và để trái tim chúng ta có chung một nhịp đập với trái tim Chúa.
Thực vậy, dù là ai chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được chia sẻ với trái tim Chúa, chúng ta vẫn được nghe nhịp đập của trái tim Chúa thổn thức như Gioan thuở trước. Nhân loại ngày nay đang cố gắng thay tim và ghép tim. Chúng ta cũng hãy đến với Chúa để Ngài đổi cho chúng ta một trái tim mới.
Đúng thế, có khi con tim chúng ta đã già nua và bệnh hoạn, trong khi tuổi đời vẫn còn trẻ. Có khi con tim của chúng ta đã bị chia năm xẻ bảy, trong đó Thiên Chúa chưa chắc đã có lấy được một phần nhỏ nhoi. Có khi con tim của chúng ta đã mệt mỏi và trở nên băng giá, không còn hăng hái nhiệt thành như thuở chúng ta mới biết Chúa và yêu Chúa. Có khi con tim của chúng ta đã ngoại tình, đã lang chạ, nghĩa là không còn trung thành với Chúa, trái lại đã xé rào để chạy theo những thần tượng giả dối như tiền tài, lạc thú và danh vọng.
Hãy hồi tâm, xét mình và kiểm điểm lại đời sống để xem tình trạng con tim mình như thế nào. Bởi vì không ai muốn mang lấy một trái tim bệnh hoạn, không ai muốn chấp nhận một trái tim bị chia xẻ.
Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng hay ghen, cho nên Ngài càng không thể chấp nhận bệnh hoạn, chia sẻ và chai đá. Ngài chỉ bằng lòng cư ngụ trong một trái tim trong sạch, và hoàn toàn trống không.
Tất cả những danh vọng, của cải và lạc thú phải được qua một bên để dành chỗ ưu tiên số một cho Chúa. Hãy dâng lên Chúa trái tim nhỏ bé của chúng ta, cùng với một tình yêu trọn vẹn, không chia năm xẻ bảy, để cuộc đời chúng ta được thuộc hẳn về Chúa.
SUY NIỆM 3: Thánh Tâm
Thế kỷ 16, Giáo Hội bị xâu xé bởi nhiều lạc giáo mệnh danh cải cách Giáo Hội. Luther chống lại tình thương tha thứ của Chúa đối với tội nhân. Chủ trương Thiên Chúa đã tiền định ai được lên thiên đàng, ai bị xuống hỏa ngục trước rồi, không còn phép tha tội nữa. Calvin chối phép Thánh Thể. Jensenis hạn chế rước lễ vì sợ Chúa phạt khi xúc phạm đến Chúa.
Giữa thời đại khủng hoảng về tình yêu Thiên Chúa, ngày 27 tháng 12 năm 1673 lễ thánh Gioan, người môn đệ dựa đầu vào Thánh Tâm Chúa trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Magarita giữa hào quang sáng láng như mặt trời, Chúa Giêsu đã phán: “Đây là Thánh Tâm Cha đã yêu thương loài người vô cùng … Con phải truyền bá việc tôn sùng Thánh Tâm Cha để làm phương thế kín múc kho tàng châu báu cho loài người”. Chúa cho thánh nữ thấy Thánh Tâm chứa đựng mọi ơn thánh hóa và ơn cứu độ cần thiết để kéo các linh hồn ra khỏi vực thẳm chết đời đời.
Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần kêu gọi thực hiện tôn sùng Thánh Tâm và đặc biệt năm 1675 Chúa đã dạy thánh nữ vận động lập lễ kính Thánh Tâm Chúa vào thứ sáu sau lễ Mình Máu Chúa. Tháng 7 năm 1685 lễ Thánh Tâm được mừng lần đầu tiên tại nhà dòng Đức Mẹ thăm viếng ở Paray le Monial. Đến năm 1765 Đức Thánh Cha Clêmentê 13 lập lễ và kinh nguyện Thánh Tâm mừng tại Rôma và các nơi.
Lễ Thánh Tâm nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa: “Thánh Tâm đã thương yêu loài người quá bội”.
Bài đọc I, tiên tri Ôsê đã mô tả tình yêu Thiên Chúa thương dân Người như tình yêu cha mẹ đối với con thơ, bồng bế, áp má, đút ăn, tập đi, săn sóc êm ái không ngơi: “Tim Ta thổn thức, ruột gan bồi hồi ở giữa các ngươi”.
Thánh Gioan còn mô tả tình yêu Thiên Chúa qua sự hy sinh chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Thân xác chịu trăm ngàn đòn, bị đóng đinh chết treo lên, thế mà vẫn còn để cho tên lính lấy giáo thọc sâu vào Thánh Tâm, đổ hết máu và nước ra cho chúng nhìn thấu Thánh Tâm Chúa thương yêu chúng dường nào.
Không phải vô tình mà thánh Gioan nhấn mạnh đến cái nhìn vào Thánh Tâm Chúa. Chính Thánh Tâm đã mở ra cho Gioan nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa, cho những người lành và còn đặc biệt cho chúng ta, cho quân dữ, cho kẻ thù và cho kẻ tội lỗi: “Họ sẽ nhìn vào Đấng họ đã đâm thâu qua” (Ga. 19, 37).
Thực sự, chính quân dữ đã được ơn nhìn vào Thánh Tâm, nên đã đấm ngực ăn năn và tuyên xưng: “Thật người này là Con Thiên Chúa”.
Chính Phaolô khi đi lùng bắt các Kitô hữu, đã được nhìn vào Thánh Tâm Chúa mà được ơn trở lại, nên khi viết thư cho giáo đoàn Êphêsô, Phaolô đã quỳ gối xuống trước mặt Chúa Cha trên trời dưới đất, cầu khẩn cho anh em được hợp cùng các thánh mà nhận biết chiều rộng, dài, cao, sâu của tình yêu của Chúa Kitô vượt quá trí loài người. Như thế, anh em mới được sung mãn trong nguồn ơn vô biên của Thiên Chúa.
Tình yêu Chúa đã thắng kẻ thù. Chỉ có tình yêu đó mới chiến thắng thế gian.
Đại đế Napolêôn là anh hùng vô địch, bách chiến bách thắng khắp các nước Âu châu. Chỉ trong một tháng, ông kéo 500.000 quân tràn qua Đông Âu, chiếm thủ đô nước Nga dễ dàng. Nhưng đoàn quân chiến thắng trở thành quân cướp của, giết người và đâm chém giết lộn nhau. Trong cảnh chém giết hỗn loạn, Napolêôn mới hiểu sức mạnh binh hùng dũng tướng mà thiếu tình yêu, thì khốn nạn đến chừng nào! Nên ông đã tuyên bố: “Chỉ có tình yêu mới chiến thắng”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu đang bốc lửa yêu mến loài người chúng con quá bội, xin cho trái tim mỗi người chúng con được cháy lửa yêu mến Chúa nồng nàn, cho chúng con thương yêu nhau, hy sinh phục vụ nhau, tha thứ cho nhau, mới mong làm cho cuộc sống nơi trần gian trở nên êm ái, nhẹ nhàng.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 4: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu
Mùa thu năm 1978, người ta trưng bầy tấm khăn liệm Chúa để tôn kính công khai. Có thật là khăn liệm xác Chúa không ? Không quan trọng ! Điều tôi biết là những tấm ảnh mà tôi được trông thấy, đặc biệt in hình xác Người chết nằm trong khăn liệm, hình người này ! “Đó là Người !” đẹp nhất trong con cái loài người ! cũng là Người đẹp nhất của thời đại đó !
Tại sao không phải là Người ? Tại sao Đức Ki-tô không phải là người có thể xác đẹp vô cùng để phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa !
Vẻ đẹp khêu gợi.
Người ta không thể lãnh đạm trước vẻ đẹp cường tráng này, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, không có chút gì là là thứ đẹp quyến rũ sắc dục . không phải là thứ vẻ đẹp đáng nghi ngờ. Người đẹp tinh toàn. Tại sao ? vì Người hiền hậu, khiêm nhường trong lòng. Vì Người là hình ảnh của Chúa Cha !
Con Người này in lại trên tấm khăn liệm, chiếu tỏa sức mạnh này, tuyên dương sức hiền từ này, nói lên niềm trông cậy này vào Đức Ki-tô đang mời gọi chúng ta.
Mời hết mọi người , trẻ già nam nữ.
Những trẻ em, những trẻ nhỏ, cảm thấy an tâm đến với Đức Giê-su, Người không kinh ngạc, về những thói trẻ con của chúng. Thiên Chúa nói : “Không gì đẹp hơn một em bé ngủ say trong lời cầu nguyện của nó !”. (Péguy).
Các bà các cô thuộc đủ mọi tuổi yêu mến Người. Người kính trọng các bà các cô. Nếu chúng ta kể đến các tông đồ. Chúng ta cũng phải kể đến các bà trong Tin Mừng. Người ta biết rõ không chỉ có mấy bà trong số các môn đệ của Người đâu.
Các ông, các anh yêu mến Người, Người lôi cuốn, không để cảm phục những chiến công của Người, hay vì ham muốn những kết quả của Người. Họ chỉ vì yêu mến Người mà thôi ! Họ không dám nghĩ bắt chước Người, nên giống Người. Nhưng chỉ mong tháp tùng Người, đi theo Người, khám phá trong đời sống mình con tim đã kêu gọi họ ! không để sao y con tim Người, nhưng là để chúng ta trở nên những con tim Kitô khác.
SUY NIỆM 5: TÌNH YÊU SẮT SON
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học Việt Nam qua mọi thời kỳ. Đặc biệt kho tàng văn học dân gian luôn dẫn chúng ta đến một tình yêu thanh khiết, bất tử vượt mọi thời gian.
Thanh khiết như câu thơ:
“Thuyền ai lơ lửng bên sông
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?”
Bất tử chung tình như lời thơ:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Lòng chung thuỷ của con người Việt Nam thật sắt son chung tình:
“Chừng nào cho sóng bỏ ghành
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em”.
Chắc chắn con sóng không bao giờ bỏ gành. Cù lao thì luôn ở giữa biển hay gắn liền với biển. Tình yêu cao đẹp cũng phải sắt son thủy chung như thế! Tình yêu cao đẹp sẽ luôn ở cùng nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Bất chấp gian khổ vẫn chia ngọt sẻ bùi với nhau.
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Chúng ta cũng được hưởng một tình yêu cao đẹp như thế! Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu trung tín sắt son cho dẫu phải hy sinh cả tính mạng mình vẫn dâng hiến cho người mình yêu.
Đó là tình yêu của Đức Ky-tô yêu thương nhân loại. Tình yêu Ngài thật thanh khiết, cho đi mà không cần đền trả lại. Tình yêu Ngài thật vị tha đến nỗi vẫn yêu con người ngay khi còn là tội nhân. Tình yêu Ngài trung tín sắt son, cho dẫu con người có phản bội thì Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Vì yêu mà Ngài còn hiến trao mạng sống mình đền bù tội lỗi nhân gian.
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Tâm Chúa, là dịp để chúng ta tạ ơn tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Vì yêu mà Ngài đã dốc cạn giọt máu đào để cứu chuộc chúng ta. Ngài còn yêu là yêu cho đến cùng qua mỗi thánh lễ lại tái hiện tình yêu bất diệt mà Ngài dành cho chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt mọi thời gian để đến với con người qua muôn thế hệ. Và hôm nay Ngài vẫn đong đầy tình Ngài cho chúng ta qua muôn ơn lành hồn xác. Nhất là qua các bí tích nguồn ân sủng của Chúa luôn ban sức mạnh, chữa lành và thánh hóa chúng ta.
Tạ ơn tình Ngài cũng mời gọi chúng ta họa lại tình yêu ấy nơi chính bản thân chúng ta. Một tình yêu xóa bỏ mọi ngăn cách của văn hóa, của nghi kỵ, của hiểu lầm để sống hòa thuận yêu thương nhau. Một tình yêu dâng hiến điể quên mình phục vụ tha nhân trong khiêm cung âm thầm. Xin Chúa giúp chúng ta trở nên giống như Chúa luôn yêu thương và phục vụ anh em. Amen. [Mục Lục]
SUY NIỆM 6: TRÁI TIM THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT TỘI NHÂN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu với lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa là Đấng có Trái Tim đầy lòng thương xót đối với tội nhân. Chính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu khi còn trên Thánh Giá đã bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta (Ga 19, 31-37). Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thánh hóa các linh mục. Chúng ta hãy xin với Chúa Ba Ngôi, cho Giáo hội có thêm nhiều ơn gọi thánh thiện. Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong cảnh cơ hàn. (Ca nhập lễ)
« Người ấy mừng rỡ, và vác chiên lên vai »
Đây là một hành động tuyệt đẹp phát xuất từ trái tim của người chăn chiên (mừng rỡ) khi tìm thấy chiên lạc và (vác chiên lên vai). Đoạn văn ngắn ngủi này (Lc 15, 3-7) không ngừng gây xúc động cho con người, và gợi lên nhiều ý nghĩa mới mỗi lần cho người đọc cũng như người nghe. Nó có sức nói về Thiên Chúa, đúng hơn, cho chúng ta biết khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha Đấng giầu lòng thương xót, và hơn thế nữa, Trái Tim của Thiên Chúa nhân hiền, vì yêu thương đã tạo dựng nên chúng ta và cho chúng ta có trái tim, Người cũng đau khổ khi chúng ta lầm lạc và ăn mừng khi chúng ta trở về : « Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc! » (Lc 15, 6). Dựa vào lời Chúa Giêsu, ta thấy tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa hơn : « Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải» (Lc 15, 7).
Quả thật, trái tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương! Tình thương ấy thể hiện qua sự sẵn sàng tha thứ, nhẫn nại đợi chờ tội nhân trở về, không khinh rể kẻ có tội, nhưng sẵn sàng hạ mình, cất công đi tìm kiếm, vui mừng khi tìm thấy, tha thứ và đưa chiên về đàn. Thiên Chúa đi tìm kiếm tội nhân không phải vì Thiên Chúa cần gì nơi họ, nhưng chỉ vì Thiên Chúa muốn ban phát một tình yêu vô điều kiện và chia sẻ hạnh phúc cho người Chúa yêu thương. Thiên Chúa muốn ôm ấp tội nhân vào lòng, để ngực áp ngực sao cho họ cảm nhận được nhịp đập yêu thương của Trái Tim Chúa. Một Trái Tim không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, kể cả từ chối lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Trong Trái Tim Chúa Giêsu chứa đựng nòng cốt của Kitô giáo.
Mỗi lần chiêm ngắm tượng, ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật hơn cả ngoài Trái Tim bị đâm thâu, là ngọn lửa bốc cháy, để « Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. » (Rm 5, 8). Còn có đôi bàn tay với những vết đanh. Chúng ta đặt mình trước Thánh Tâm Chúa và tự hỏi : Bàn tay con, lạy Chúa, đã làm những gì không phải, khiến bàn tay Chúa bị đanh đóng, và bàn chân con, đã bước đi những bước chẳng lành, để Chúa bị đóng đanh cả chân lẫn tay vào Thập giá? Câu trả lời, vì tội lỗi chúng ta, vì Chúa yêu thương loài người ta quá bội.
Biểu tượng tình yêu ấy đi xa hơn cái chết chính là cạnh sườn của Chúa bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Về điểm này, chứng nhân tận mắt là thánh Tông đồ Gioan đã quả quyết: « Một trong những người lính lấy đòng đâm vào cạnh sườn Người, và tức thì máu cùng nước chảy ra » (x. Ga 19,34). Lưỡi giáo của tên lính đã mở cạnh sườn Chúa, để từ vết thương máu cùng nước chảy ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi. Sau cùng, Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, bị chôn vùi để chúng ta được phục sinh.
Còn tình yêu nào ngọt ngào êm dịu hơn, đã được trao cho Hiền Thê ; đó chính là sự mở rộng vòng tay ôm chặt của tình yêu Chúa…Tình yêu tên trộm lành đã nhận được khi xưng thú tội lỗi ; Phêrô đã nhận được khi liếc mắt nhìn Chúa và khóc lóc van xin sau khi chối Chúa, đúng là từ ánh mắt đến trái tim. Có nhiều kẻ đóng đinh Chúa đã trở lại với Chúa sau khi Chúa Phục sinh, họ đã giao ước với Chúa bằng tình yêu. Khi Chúa ôm hôn những người tội lỗi và thu thuế, Chúa đã trở thành bạn hữu của họ và khách họ mời dự tiệc…
Vậy, Chúa đã làm gì để đưa họ về với Chúa, nếu không phải là Trái tim Chúa lôi kéo ? Trái tim Chúa Giêsu là Trái tim dịu hiền do Thần Linh ban tặng! Phúc cho những ai giữ kín trong lòng, họ được ấp ủ bởi Chúa, trong Trái tim Chúa, họ sẽ được Chúa vác trên vai, tránh khỏi những rắc rối ở đời này. Phúc cho những ai hy vọng vào sự ấm áp và chở che dưới cánh tay Chúa.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày cầu cho ơn thánh hóa các linh mục. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu” (số 1589).
Giáo Hội đang cần những linh mục thánh thiện; cần những thừa tác viên giúp các tín hữu cảm nghiệm lòng từ bi thương xót của Chúa và những chứng nhân đầy xác tín về tình yêu này. Xin Chúa làm cho con tim của mỗi linh mục được nồng cháy tình bác ái mục tử, có khả năng đồng hóa cái tôi của mình với cái tôi của Chúa Giêsu Linh Mục, để có thể noi gương Chúa trong sự tự hiến hoàn hảo nhất, xứng đáng là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa. Amen.
SUY NIỆM 7: NGƯỜI CHA MIỆT MÀI TÌM CON
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Năm ngoái, trên facebook, nhiều người chia sẻ hình ảnh người cha chạy xe máy, sau xe gắn tấm biển có hình và dòng chữ “Tìm con bị bắt cóc”. Sau nhiều tháng rong ruổi tìm kiếm, thông tin về đứa con vẫn bặt vô âm tín. Người cha gầy và phờ phạc đi rất nhiều so với trước đây. Anh là Lương Thế Huynh (42 tuổi) tìm con trai út 3 tuổi tên là Lương Thế Vương bị mất tích sáng 21/6/2015, tại xã Tà Nùng, Tp. Đà Lạt. Lúc xảy ra vụ việc, anh Huynh đang lúi húi sau vườn, nghe tiếng con trai kêu la nhưng nghĩ con chơi đùa với mấy con chó nên không để ý. Sau khi xong việc, anh lên nhà thì không thấy cháu Vương đâu nữa. Đến nay đã hơn một năm, với chiếc xe gắn máy cũ, anh đi khắp nơi với hy vọng tìm ra dấu vết đứa con nhỏ của mình. Cho đến nay, hy vọng tìm thấy đứa con chỉ còn rất mong manh, nhưng người cha này vẫn cứ rong ruổi khắp nơi, vào các hang cùng ngõ hẻm để tìm lại đứa con mình.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Tin Mừng Thánh Luca đã giới thiệu cho chúng ta hình ảnh một Thiên Chúa là Cha, vì yêu thương, Ngài đã lặn lội để tìm kiếm con người, bất chấp những gian nan khổ cực. Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho các biệt phái và kinh sư hôm nay nói về tình thương của Thiên Chúa dành cho các tội nhân. Khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc, trò chuyện, đồng bàn với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi, các luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu, họ chỉ trích Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã kể cho họ dụ ngôn để nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa : Ai trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho bằng được con chiên bị mất ? Chúa Giêsu muốn nói rằng : Ai trong các ông cũng sẽ hành xử như thế, huống nữa là Thiên Chúa. Việc đi tìm con chiên bị lạc là điều tất nhiên. Hiểu ngược lại, ai không hành động như thế, chắc chắn kẻ ấy là người vô cảm với chiên của mình.
Các luật sĩ và biệt phái đã để mình trở nên vô cảm trước đời sống của anh em. Họ là những người có trách nhiệm trong việc hướng dẫn người khác sống theo giới răn, lề luật của Thiên Chúa, như người mục tử chăm sóc, dẫn dắt đoàn chiên. Tuy nhiên, các luật sĩ và biệt phái chỉ lo chăm chút cho chiếc áo và những hình thức bên ngoài, họ đã để cho dân Chúa đi lạc đường, họ không cảm thấy áy náy và không cảm thấy bị thúc ép phải đi tìm đưa anh em mình trở về.
Chúa Giêsu cho thấy, việc Ngài tìm đến với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi không chỉ là trách nhiệm mà là sự thúc đẩy bởi một trái tim xót thương. Dụ ngôn cho thấy, trong mắt Thiên Chúa, mỗi người đều có giá trị và có một vị trí riêng. Vì thế, dù chỉ một con chiên đi lạc thôi, Thiên Chúa cũng không thể làm ngơ, Ngài dám liều mình để lại chín mươi chín con khác trong hoang địa để đi tìm con chiên bị lạc. Như người mục tử, Thiên Chúa cất bước đi tìm con chiên bị lạc. Vì khi bị lạc như thế, nó vô cùng hoảng sợ và gặp nhiều nguy hiểm. Nó sẽ bị sa chân trật bước, có thể bị rơi xuống vực sâu hoặc kẹt trong vách đá, cũng có thể bị thú dữ bao vây cắn xé. Hình dung được nỗi sợ hãi và tâm trạng của con chiên đi lạc, mục tử Giêsu đã không quản ngại nắng gió vất vả, cũng không ngại đường xá cheo leo trắc trở để đi tìm con chiên như tìm chính đứa con bị thất lạc.
Lý do con chiên đi lạc, có thể vì nó la cà mải mê với những thú vui ven đường nên bị rớt lại khỏi đàn. Nhưng nhiều khi nó đi lạc là vì những con chiên khác trong đàn đã hắt hủi nó, loại trừ nó, coi nó như đồ thừa trong đàn. Vì thế, nó cứ lẽo đẽo theo đàn mà không được sự khích lệ của các con chiên khác, khiến nó ngày càng xa đàn rồi bị lạc đàn. Hiểu được tâm trạng con chiên đi lạc, trái tim của người mục tử Giêsu đã hết sức cảm thông với nó. Khi tìm được con chiên, Ngài không trách nó, cũng không hỏi nó tại sao. Ngài chỉ thấy điều nó cần lúc này là cái ôm nồng ấm cảm thông. Vì thế khi tìm được con chiên, người mục tử đã ôm nó vào lòng, vác nó trên vai và đưa nó trở về với đàn. Trái tim và tâm hồn của mục tử Giêsu đối với con người tội lỗi của chúng ta là như thế.
Lòng thương xót từ trái tim Chúa luôn tuôn trào sự cảm thông, tha thứ. Ngài chấp nhận bước trên gai góc, vượt qua dốc đá cheo leo, băng qua vực đèo nguy hiểm để tìm gặp chúng ta là con, là chiên của Chúa. Chúa Giêsu không hề đưa ra bất cứ điều kiện nào, cũng không đặt một tiêu chuẩn nào. Ngài yêu chúng ta hoàn toàn bằng sự thúc đẩy của trái tim, mà trái tim thì luôn có những lý lẽ riêng của nó, không thể hiểu hết được. Ngài chỉ mong đợi nơi chúng ta một điều, là hãy ngoan ngoãn để cho Ngài ôm vào lòng, để cho Ngài vác trên vai đem chúng ta trở về.
Chúa Giêsu còn diễn tả sự vui mừng của Ngài và của cả Triều thần Thiên quốc khi đón nhận một người tội lỗi hối cải. Người mục tử khi tìm được con chiên bị lạc, ông vui mừng về báo tin cho mọi người và mời mọi người đến dự tiệc : Xin hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Chúa Giêsu kết luận : Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. Trong trái tim của Thiên Chúa, không ai bị bỏ rơi, không ai bị loại ra ngoài, dù chỉ là một người, thì người ấy vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được yêu thương và tôn trọng.
Thư Roma trình bày tình yêu của Thiên Chúa ở mức độ cao hơn, sâu hơn nữa. Thánh Phaolô diễn tả : Ngay khi chúng ta chưa tin Chúa, thì Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu chết để cứu chuộc chúng ta. Dù khi chúng ta chưa biết, chưa tin, chưa yêu Ngài, thì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Nay, Ngài đã cho Con của Ngài chết thay cho chúng ta. Đến con ruột của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, đã trao tặng cho chúng ta, thì không có lẽ gì mà Ngài lại không yêu thương ta, là những kẻ được Ngài cứu chuộc, đem vào lòng và nhận làm con của Ngài.
Mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa tình yêu, tôn thờ một trái tim vĩ đại của một người cha, một tâm hồn chạnh thương của một mục tử, một trái tim bao dung và đầy tràn lòng thương xót của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên ngoan ngoãn và sẵn sàng để cho mục tử Giêsu ôm ta vào lòng và vác ta trên vai. Chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương bao dung của Thiên Chúa để không bao giờ cố tìm cách trốn tránh ánh mắt yêu thương của Chúa, nhưng sẵn sàng mở tâm hồn và thành tâm để cho Chúa yêu thương, tha thứ và chữa lành vết thương trong tâm hồn ta.
Được Chúa xót thương tìm kiếm và tha thứ, được Chúa thông cảm và yêu thương, chúng cần phải mang trái tim của Chúa, biết chạnh thương với anh chị em chung quanh. Đừng bao giờ cố tình hay quá vô tình hắt hủi, xua đuổi, hoặc vì quá khắt khe, nghi kị, thiếu cảm thông khiến cho anh em mình phải xa đàn đến độ lạc đàn bỏ Chúa, bỏ Giáo hội. Hãy dùng ngôn ngữ và hành động do sự thúc đẩy của trái tim yêu thương để đối xử với nhau trong gia đình, với xóm giềng. Đừng để trái tim của mình trở lên lạnh lùng vô cảm hoặc khô cứng trước những nỗi đau của anh chị em.
Hôm nay cũng là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục. Ảnh hưởng của vật chất, khoa học công nghệ, đã biến một số linh mục trở nên như những người máy, vô hồn, vô cảm. Nếp sống tiêu cực của xã hội cũng đang ảnh hưởng trên các linh mục, khiến cho một số linh mục không còn là hình ảnh rõ nét của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúng ta cầu nguyện thật nhiều cho các linh mục luôn biết để cho Chúa Giêsu huấn luyện, uốn nắn để các ngài trở nên giống Chúa Giêsu mục tử hơn. Xin cho các linh mục có được trái tim, đôi mắt và tâm hồn chạnh thương của Chúa, để các Ngài không mệt mỏi yêu thương, phục vụ và tìm kiếm dân Chúa. Amen.
SUY NIỆM 8: NGUỒN THƯƠNG XÓT
Trầm Thiên Thu
Trong thời gian từ 1968-1969 , Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý). Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài đã xác định: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (Marguerite Marie Alacoque, 1647-1690), một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial (Pháp quốc), Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675 – có thể là ngày 16 tháng Sáu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được lòng biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Chúa Giêsu đã yêu cầu Thánh nữ vận động thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Thương Xót, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước – như đã được mặc khải cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (còn gọi là Thánh Faustina Thánh Thể, OLM, 1905-1938).
Ai cũng có tim nhưng không ai thấy tim. Mặc dù tim không nhìn thấy nhưng khả dĩ cảm nhận, và tim là một cơ phận rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là còn sống. Tim hoạt động âm thầm nhưng nuôi sống cả cơ thể. Mặc dù não là trung tâm điều khiển – ví như bộ tổng tham mưu, nhưng vẫn phải nhờ tim bơm máu. Người ta có thể chết lâm sàng chứ chưa chết thật bởi vì tim còn hoạt động, dù nhịp đập rất yếu. Những người bị chứng bại não, sống đời thực vật, không biết phân biệt điều gì, nhưng họ vẫn sống nhờ tim vẫn hoạt động. Chừng nào tim ngừng đập thì sự sống mới chấm dứt!
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.
Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài, không chỉ ghé thăm mà ở lại đó mãi mãi: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Ước gì mỗi chúng ta biết tìm về nghỉ ngơi nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu – Cao Nguyên Yêu Thương và Đại Dương Thương Xót!
Ơn cha mẹ mà chúng ta đáp đền cả đời còn chưa cân xứng huống chi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Nhưng thật là diễm phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32). Ngài đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất (Lc 19:10), chỉ cần chúng ta tin vào tình yêu cao cả của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng. Chỉ có chúng ta rời bỏ Chúa chứ Chúa không bao giờ rời xa chúng ta!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi ngôn sứ Êdêkien để mặc khải Thánh Ước: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được” (Ed 34:11-13). Đó là lời hứa chắc chắn, vì Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong mọi lời nói và mọi việc làm. Thật tuyệt vời!
Hồng ân nối tiếp hồng ân, Ngài lại tiếp tục thề hứa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34:14-16). Thật hạnh phúc khi được nương bóng cánh của vị mục tử như vậy! Nhưng lại thật bất hạnh nếu chúng ta cố chấp, như Chúa đã cảnh báo: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu (Mt 23:37; Lc 13:34).
Nếu thực sự có niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta khả dĩ tự nhủ và xác định với mọi người điều này: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1), và có thể tự hào nói: “Chúa là gia nghiệp đời tôi” (Tv 16:5). Đó cũng là một cách tuyên xưng Lòng Chúa Thương Xót.
Nói về đức tin, Thánh Phaolô giải thích rạch ròi: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy (Rm 5:2-4). Quả thật, đây là một chuỗi hệ lụy vô cùng kỳ diệu!
Còn nữa, và cũng để cho chúng ta an tâm, thánh nhân tiếp tục giải thích “dài hơi” thêm một chút: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Rm 5:5-9).
Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, hết lòng yêu thương muôn loài, đặc biệt là những kẻ xấu xa nhất, thậm chí Ngài còn chết vì họ – tức là chúng ta. Theo thế gian, cách yêu như vậy bị coi là mù quáng, ngu xuẩn, điên rồ,… Chắc hẳn chỉ có người điên mới hành động như thế. Vậy mà Chúa Giêsu đã yêu như thế. Nếu Ngài không “yêu điên rồ” như vậy thì chúng ta làm sao có được ngày nay?
Quả nhiên là vậy, “nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Ngài, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5:10). Mà không phải chỉ có thế, Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5:11).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 15:3-7) khá ngắn gọn, chỉ có 128 từ (theo bản dịch Việt ngữ, bản của VietCatholic). Đoạn Tin Mừng này là một trong các dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót.
Một hôm, nhóm Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Những người Pharisêu và các kinh sư là ai? Đó là những nhà thông luật, giữ luật nghiêm túc hơn người, giỏi giang hơn người, đạo đức hơn người, nói năng lưu loát hơn người, sang trọng hơn người, địa vị hơn người, quyền lực hơn người,… thậm chí có thể có ngoại hình “dễ nhìn” hơn người và giàu có hơn người, nhưng cũng hợm hĩnh, ỷ lại, hống hách và kiêu ngạo hơn người. Ngày nay người ta gọi dạng đó là “chảnh”. Nói chung, cái gì ở họ cũng hơn người ráo trọi!
Nhóm Pharisêu và các kinh sư kia cũng chẳng ai xa lạ, tức là chính chúng ta ngày nay, chứ chẳng ai trồng khoai đất này đâu!
Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Vậy, tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Người ta luôn thấy những “cái lạ” ở Chúa Giêsu, và người ta cảm thấy khó chịu. Vâng, Ngài lại gây “sốc” vì nói điều “nghịch nhĩ” quá! Ngài “điên” thật rồi! Có 99 con chiên béo tốt mà dám bỏ để cố gắng đi tìm duy nhất con chiên yếu đuối, bệnh hoạn, xấu xí,… Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi! Nhưng cũng chính nhờ cách “yêu điên” ấy của Chúa Giêsu mà chúng ta mới được phục hồi cương vị làm con và đồng hưởng thừa kế gia sản Nước Trời đấy!
Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997, MC – Missionaries of Charity, Thừa Sai Bác Ái, sẽ được tuyên hiển thánh ngày 4-9-2016) xác định “chuỗi hệ lụy” rất kỳ diệu: “Kết quả của IM LẶNG là CẦU NGUYỆN, kết quả của CẦU NGUYỆN là ĐỨC TIN, kết quả của ĐỨC TIN là TÌNH YÊU, kết quả của TÌNH YÊU là PHỤC VỤ, kết quả của PHỤC VỤ là BÌNH AN”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, con thành tâm xin lỗi Ngài vì con đã thường xuyên quên Ngài, thế nhưng Ngài vẫn không ngừng thương xót con, mặc dù con chẳng là gì và hoàn toàn bất xứng. Xin giúp con nhận biết Chúa và nhận biết chính con, nhờ đó con có thể yêu mến Ngài trọn vẹn. Xin ân thương và tha thứ những thiếu sót của con, lạy Đấng giàu lòng thương xót, và xin dạy con biết cách “yêu điên” của Ngài. Xin Nước và Máu Thánh Ngài tẩy rửa cuộc đời con, và xin cho con cũng được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài, hôm nay và mãi mãi. Ngài là Đấng hằng sống, hiển trị cùng Chúa Cha và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.
SUY NIỆM 9: SUY NIỆM LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU
Lm. Anthony Trung Thành
Đầu tháng 6 năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp, dân chúng tỉnh Maseilles bàn bạc với nhau để dâng cho nhà vua một lễ vật cho có ý nghĩa. Và hôm ấy, khi vua đến, dân chúng đều tụ tập đông đủ. Họ đề cử một cô thiếu nữ dâng lên nhà vua một quả tim bằng vàng. Bên trong quả tim có ngành bông huệ kết bằng kim cương rất quí, là biểu tượng của các vua nước Pháp, và có khắc mấy hằng chữ: “Đây là bằng chứng toàn dân tỉnh Marseilles yêu mến vua Louis, và họ luôn đặt vua trong trái tim họ”. Nhận lễ vật và đọc thấy dòng chữ trên, vua Louis hết sức cảm động. Nhà vua cũng đặt tay lên trái tim và nói: “Đây là bằng chứng vua Louis yêu thương Quốc dân Pháp, và luôn đặt họ trong trái tim vua”.
Câu chuyện trên rất ăn hợp với quan niệm người xưa rằng:
Trái tim biểu hiện tình yêu
Tình yêu phát xuất theo chiều trái tim
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng tình yêu. Tôi không biết nguồn gốc có từ bao giờ? Vì sao người ta lại lấy trái tim làm biểu hiện tình yêu? Có lẽ trái tim là trung tâm của cơ thể con người. Trái tim có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn bộ cơ thể. Trái tim không còn bơm máu, cơ thể sẽ khó thở. Trái tim ngừng đập, con người coi như đã chết. Vì vậy, trái tim có một tầm quan trọng đối với cơ thể con người. Từ đó, người ta thường dùng từ ngữ “Trái tim” để diễn tả tình yêu.
Có lẽ cũng vì lý do đó mà khi tỏ mình ta cho Thánh Margarita Maria Alacốc, Chúa Giêsu đã cho Thánh nữ được xem thấy Trái tim của Ngài. Và để diễn tả tình yêu, Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ rằng: “Đây là Trái tim đã thương yêu loài người vô cùng. Không tiếc gì với họ”.
Thật vậy, Trái tim Chúa Giêsu đã thương yêu chúng ta vô cùng. Đó là Trái tim nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, tha thứ và hy sinh tất cả không tiếc gì với chúng ta.
Trái tim nhân hậu. Ngài quan tâm hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Ngài quan tâm đám đông vì họ bơ vơ không có gì ăn nên đã hoá bánh ra nhiều nuôi họ(x. Mc 8,1-10). Ngài “chạnh lòng thương” trước đám tang người con trai duy nhất của bà goá thành Naim nên đã làm cho chàng sống lại(x. Lc 7,11-17). Ngài đã thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Maria khóc thương Lazarô nên Ngài đã cho Lazarô sống lại (x Ga 11,1-45). Ngài đã chữa lành nhiều bệnh tật, xua trừ ma quỷ: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế”(x. Cv 10,38).
Trái tim khiêm nhường. Chính Ngài đã tuyên bố : “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Khi các tông đồ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Chúa Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và dạy cho các ông bài học khiêm nhường: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”(x. Lc 9,47-48). Nơi khác, trong một bữa tiệc, Chúa Giêsu thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, Ngài đã lên tiếng dạy họ rằng “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11). Sự khiêm nhường được thể hiện rõ ràng nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong giờ tiệc ly (x. Ga 13,1-20).
Trái tim biết cảm thông và tha thứ. Ngài cảm thông sâu sắc với những người tội lỗi. Ngài đã đến cùng ăn cùng uống với họ để có thể cảm hoá họ trở về nẻo chính đường ngay.
Với Maria Mađalêna. Cuộc sống quá khứ đầy tội lỗi. Con một gia đình phú quý sang trọng. Sau khi Cha mẹ qua đời, cô được hưởng một gia tài kếch xù. Với gia tài lớn lao này, cô đã sống sa đoạ, truỵ lạc đến nỗi trở nên nô lệ cho ma quỷ. Mađalêna đã được Chúa cảm thông. Chúa chữa cô khỏi bảy quỷ. Chúa tha thứ tội lỗi cho cô. Sau khi sống lại, Chúa còn hiện ra với cô để trao sứ mệnh loan báo tin mừng phục sinh.
Với người phụ nữ ngoại tình. Chị bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Luật Môisê qui định tội này là tội chết. May mắn thay, chị gặp được Đức Giêsu. Ngài đã cứu chị một bàn thua trông thấy. Ngài tha thứ cho chị. Ngài không kết án: “Ta không kết án chị đâu” (Ga 8,11). Ngài muốn cho chị có cơ hội làm lại cuộc đời “chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với ông Giakêu, Mathêu là những người thu thuế. Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi người thu thuế là người phản đạo và phản quốc. Họ thuộc hạng tội lỗi ngang hàng với gái điếm, người ngoại và người Samari. Bốn hạng người này bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông và cách ly, không ai được phép quan hệ với họ. Thế mà, Chúa Giêsu đã kêu gọi Mathêu, chọn ông làm tông đồ. Mặc cho nhiều người chỉ trích “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào”, Chúa Giêsu vẫn chủ động mời ông Giakêu xuống khỏi cây sung và đến viếng thăm nhà ông. Qua cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã tạo ra một sự biến chuyển lớn lao trong cuộc đời của Giakêu. Ông hoán cải và thay đồi toàn diện đời sống. Bằng chứng là ông đã đứng lên thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,.8).
Với Phêrô, vị tông đồ trưởng. Chúa gọi ông. Chúa ưu ái ông. Thế mà, Phêrô chối Chúa ba lần. Phêrô khóc vì hối hận. Chúa tha cho Phêrô. Chúa còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21, 15-16), tức là làm đầu Hội Thánh, vị giáo hoàng tiên khởi.
Với người trộm lành. Ông đã từng đi đàng tội lỗi lâu năm. Vì những trọng tội mà xã hội Do thái phải trừng phạt ông bằng cực hình đóng đinh. Nhưng ông đã nhận biết tội lỗi mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với ông: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 42,43). Chúa đã tha thứ tội lỗi cho ông và cho ông vào thiên đàng ngay hôm đó.
Trái tim hy sinh. Chúng ta thấy rõ điều này nơi dụ ngôn người đàn bà bị mất đồng bạc và dụ ngôn con chiên đi lạc. Hình ảnh người đàn bà thắp đèn, quét nhà để tìm đồng tiền bị đánh mất, hình ảnh người chăn chiên trèo đồi lội suối đi tìm con chiên lạc nói lên sự hy sinh của Thiên Chúa đi tìm tội nhân. Dù chỉ một đồng bạc bị mất, dù chỉ một con chiên đi lạc thì Thiên Chúa vẫn cố tìm cho bằng được, Ngài không muốn một ai bị hư mất. Đó là bằng chứng nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể nơi Trái tim Chúa Giêsu. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu bằng việc hy sinh tính mạng của mình làm của lễ đền thay tội lỗi chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu vẫn tiếp tục được lan toả mỗi ngày trong Giáo hội nơi các Bí tích, đặc biệt là nơi Bí tích Giải tội và Thánh Thể. Vì yêu thương Chúa đã ẩn mình trong hình bánh rượu làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Vì yêu thương Chúa đã lập nên bí tích Giao hoà để tha tội cho chúng ta. Mỗi lần tội nhân đến với bí tích giao hoà với lòng thống hối ăn năn tội sẽ được tha thứ.
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa vẫn được tiếp tục nơi các thành phần của Hội Thánh. Gương của Thánh Maximilianô Kolbe, chết thay cho người tử tù. Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho anh Agca. Gương hy sinh của Giám Mục Oscar Romero, vừa được Giáo hội phong chân phước ngày 23 tháng 05 vừa qua. Ngài đã lên tiếng tố cáo tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên. Ngài can đảm tìm mọi cách để đứng về những người vô gia cư, đói rách và bị hành hung. Thế rồi, Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/03/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nẩy lửa của mình. Cái chết của Ngài là cái chết vì tình yêu. Đó là một tình yêu hy sinh.
Trong chuyến viếng thăm Sarajevo, ở Bosnia, Đức Phanxicô nghiêng mình trước các chứng nhân bị bách hại vì đức tin. Đức Phanxicô đã không giấu được sự xúc động sâu xa của mình khi nghe các chứng nhân trình bày. Cha Zvonimir Matijević nói với Đức Giáo Hoàng rằng ngài bị bắt, bị tra tấn đến gần chết. Những trận đòn chí tử năm xưa giờ đây đã tiến triển sang nhiều hình thức bại liệt, như một thánh giá ngài sẽ mang hết cuộc đời. Tuy nhiên, ngài nói ngài cảm thấy hạnh phúc được là một linh mục của Giáo Hội Công Giáo và hết lòng tha thứ cho những ai làm hại ngài – với hy vọng họ sẽ hoán cải sang một con đường của lòng nhân hậu. Đây đúng là một tình yêu tha thứ.
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta biến quả tim mình thành quả tim yêu thương, nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, hy sinh và tha thứ. Nhờ đó, tình yêu Thánh Tâm Chúa không chỉ được tiếp tục nơi một số người mà lan toả ra nơi mọi người. Để thế giới này không còn chỗ của ghen ghét oán thù nữa mà tràn ngập tình yêu thương như lời của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.
“Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa!
Xin đừng để con khép kín tâm lòng mình bao giờ!
Xin cho con trái tim quảng đại như Chúa,
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con lướt thắng mọi oán hờn nhỏ nhen,
và mọi thù hằn ti tiện!
Xin cho con luôn luôn bình an tươi sáng,
không một biến cố nào làm con bất ổn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con!
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng bối rối khi bị chỉ trích chê bai.
Xin cho con trái tim đủ lớn để có thể yêu cả người thù địch.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm hết tất cả mọi người trong tình yêu Chúa. Amen!
(Rabbouni, Lời Kinh đẹp nhất Thiên Niên Kỷ, trang 94)
SUY NIỆM 10: TÌNH YÊU LỆ THUỘC
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, thánh sử Lu-ca ghi nhận ba câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đã kể: đi tìm chiên lạc, tìm kiếm đồng bạc bị mất, và chờ đón người con đi hoang trở về. Tôi trộm gọi ba dụ ngôn trên như thế (không theo lối gọi truyền thống) vì bị ấn tượng sâu sắc bởi lòng thương xót rất con người của Thiên Chúa, theo cách diễn tả của chính Đức Giê-su.
Thường thì khi nói tới lòng thương xót, ta vẫn ít nhiều có cảm nghĩ: đó là một thái độ nhân nhượng quan tâm của một kẻ bề trên, một hành vi thi ân ban phát ân huệ cho người bất hạnh, xấu số. Thế nhưng đọc kỹ ba câu chuyện dụ ngôn trên ta mới nhận ra cả ba đều có chung một nét: lòng thương xót có vẻ như đặt Thiên Chúa dưới cả con người tội lỗi: Thiên Chúa xót thương không những cần tới, mà còn gần như lệ thuộc vào các người tội lỗi nữa là đàng khác.
Từ trong đời thường ta cũng có thể suy ra: cuộc sống người chăn cừu ít nhiều lệ thuộc vào đàn vật của mình. Do đó hành động lên đường lặn lội đi tìm con chiên lạc của ông cũng dễ hiểu thôi: vì nhu cầu cuộc sống của chính ông. Ông cần tới con chiên đó, nói cách khác, đời sống của ông phần nào lệ thuộc vào con chiên đi lạc kia. Nếu đã dám nói như thế, ta cũng dám đi tới kết luận là: người chăn chiên đi tìm chiên lạc, không phải chỉ vì ‘thương’ nó, mà còn là vì nhu cầu sống của chính ông. Dụ ngôn về người đàn bà tìm kiếm đồng bạc bị mất càng cho thấy rõ hơn điều này: bà cần tiền chứ không thương đồng tiền… Tôi vẫn cảm thấy e dè khi dám có trong đầu tư tưởng rằng: chính Thiên Chúa cần tới con người tội lỗi trước cả khi người tội lỗi cần đến Người. Suy nghĩ thông thường vẫn là: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì con người tội lỗi phải chạy tới lòng thương xót đó. Rất ít ai dám nghĩ rằng: Chúa xót thương lại chủ động đi tìm kẻ tội lỗi trước để đưa họ về; thế nhưng đó lại chính là điều Tân Ước nhiều lần minh xác: ‘Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước’ (1 Ga 4:19). Tôi thấy sợ phải xác quyết điều này vì hình như nó quá xúc phạm tới sự cao cả, sung mãn của Thiên Chúa! Thần học kinh điển đã từng dạy tôi rằng: tình yêu của Thiên Chúa là hoàn toàn vô vị lợi (gratuitous) hiểu theo nghĩa Người ban phát mà không đòi hỏi bất cứ một điều kiện tiên quyết nào. Thế nhưng rõ ràng còn hơn cả thế nữa! Đức Giê-su cho thấy: tình yêu đó không đòi hỏi gì nơi con người nhưng lại đòi hỏi chính Thiên Chúa: người bệnh cần thầy thuốc là lẽ đương nhiên, nhưng chính thầy thuốc cũng cần tới bệnh nhân, vì nếu không có con bệnh, ông không thể là thầy thuốc. Trong tình yêu kể cả tình yêu nhân ái, lệ thuộc vào nhau là một yếu tính thực sự!
Hiểu như thế tôi mới thấy: các chi tiết dầu nhỏ nhất trong dụ ngôn đi tìm chiên lạc lại mang một ý nghĩa vô cùng to lớn: người mục tử tạm ‘bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang, để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Tìm được rồi người ấy mừng rỡ…’ Tìm cho bằng được và mừng rỡ khi tìm thấy, đó là thái độ tiêu biểu đối với những gì thiết thân hay thiết nghĩa! Đức Giê-su long trọng khảng định một điều không ai hiểu nổi: “tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Phải, nếu thiên đàng, theo lối suy nghĩ tự nhiên, là phần thưởng dành riêng cho những người công chính và thánh thiện, nơi mà Thiên Chúa cao sang vinh hiển ân thưởng những người dầy công nghiệp, thì thiên quốc chắc hẳn phải hoan hỷ đón mừng chủ yếu các bậc thánh hiền, đạo sĩ. Hạng tội nhân sám hối may mắn lắm, thì cũng chỉ được dành cho một xó xỉnh nào đó là cùng. Nhưng huyền nhiệm thay! Nước Trời của Đức Giê-su lại là chốn Thiên Chúa nhân ái và thương xót ngự trị. Vì thế vinh quang Nước Trời sẽ gia tăng mỗi khi lòng thương xót được dịp tỏa sáng trên các tội nhân là hợp lý. Nói cách khác: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì vương quốc của Người lại cần tới, lại lệ thuộc vào số các tội nhân sám hối gia nhập để nhờ đó lòng thương xót càng được tỏ lộ. Và còn triệt để hơn nữa khi ta dám kết luận: sự thánh thiện trọn lành của Ki-tô hữu (hiểu theo nghĩa tu thân tích đức) sẽ không đóng góp gì nhiều cho vinh quang Thiên Chúa nếu như nó không phát xuất từ lòng khiêm nhường chân thành ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Người. Nói cách khác, sẽ không có sự thánh thiện Ki-tô hữu đích thực nếu thiếu khiêm cung đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa nhân ái trao ban trong Đức Ki-tô Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi đi vào tương quan tình yêu quá thần linh mà cũng quá nhân loại này; thần linh: vì nét độc đáo (vượt quá mọi trí hiểu) mà chỉ có Đức Giê-su mới phác họa lên được, nhân loại: vì nó quá gần gũi với thân phận thấp hèn của con người. Thiên Chúa tình yêu mà lại lệ thuộc vào sự thấp hèn của kiếp sống con người sao? Phải! chính vì thế và điều duy nhất mà cuộc trao đổi tình yêu này đòi hỏi không gì khác hơn là lòng khiêm nhường sâu thẳm, khiêm tốn nhìn nhận thân phận thấp hèn của mình. Phải chăng chính Đức Giê-su đã mời gọi ta khai trác triệt để điều này, khi muốn ta hãy học cùng Người một bài học duy nhất: “Hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29)! Do đó, Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi khai thác triệt để các lỗi tội mình phạm, để biến nó thành vinh quang của lòng Chúa thương xót vô bờ bến.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin cho con được cảm nghiệm thứ tình yêu lệ thuộc mà Chúa đã mô tả. Xin cho con được cùng toàn thể thiên quốc vui mừng vì một tội nhân sám hối. Trước mắt, xin cho con biết vui mừng mỗi khi ban phát tình yêu tha thứ của Chúa, nhất là trong bí tích Giải Tội. Về phần mình, trước những lỗi phạm và yếu đuối riêng tư, xin cho con xác tín rằng: hơn bất cứ ai khác, Chúa đang khát khao được dịp thi thố lòng xót thương và thứ tha. Xin cho con được cảm nghiệm như Phao-lô, niềm tự hào chân chính về những yếu đuối, sa ngã của mình. A-men.
SUY NIỆM 11: “TÌM CHO KỲ ĐƯỢC CON CHIÊN BỊ MẤT”
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại một dụ ngôn thật nhỏ bé do chính Người kể lại, dụ ngôn «Con chiên bị mất». Dụ ngôn thật «nhỏ bé» nhưng có năng lực diễn tả và đánh động lòng chúng ta, điều thật «lớn lao», đó là Thánh Tâm Chúa, là LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, là tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giê-su Ki-tô, là tình yêu đến cùng mang lấy hình hài Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Đức Giê-su và những người tội lỗi
Vào thời của Đức Giê-su, có những người bị coi là tội nhân một cách công khai : vì họ có một thứ nghề nghiệp bị mọi người coi là xấu, chẳng hạn nghề thu thuế như ông Gia-kêu, hoặc vì họ có đời sống luân lí không tốt, chẳng hạn người phụ nữ bị mọi người coi là «người tội lỗi trong thành» (Lc 7, 37) hay vì họ không giữ những nghi thức hay qui định đạo đức, chẳng hạn các nghi thức thanh tẩy, ăn chay, ngày sa-bát…. Họ bị mọi người khinh chê, nhất là các người Pha-ri-sêu và luật sĩ.
Ngày nay, người ta không còn tùy tiện dán nhãn tội nhân vào người này người kia nữa, nhưng sự khinh chê vẫn còn nguyên, trong cung cách ứng xử giữa người với người. Thật vậy, chúng ta vẫn còn khinh chê nhau, vì sự yếu kém, nhỏ bé, giới hạn, thiếu khả năng, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình xã hội, ngoại hình… Thân phận làm người tự nó đã nặng nề, nhưng thay vì gánh vác cho nhau hay làm cho nhẹ đi, chúng ta lại luôn tìm cách chồng chất thêm cho nhau hay tự làm cho thân phận của mình nặng thêm. Thánh Phao-lô trong thư Roma chấn vấn chúng ta: «Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa… Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em?» (Rm 14, 8.10).
Chúng ta hãy trở lại với bối cảnh của của dụ ngôn «Con chiên bị mất» (c. 1-2), nhìn ngắm cách Đức Giê-su đón tiếp những người tội lỗi, những người yếu kém, những người nhỏ bé: họ đến để lắng nghe Ngài; và Ngài không chỉ đón tiếp họ, nhưng còn dùng bữa với họ. Đón tiếp và dùng bữa với ai, đó chính là làm bạn, thậm chí trở nên một với người đó. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh Đức Giê-su ở giữa những người tội lỗi, bởi vì hình ảnh này rất đánh động và an ủi đối với chúng ta.
Trong Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục ban lời của Ngài cho chúng ta, vốn là những người tội lỗi, yếu kém và nhỏ bé, và còn hơn cả việc dùng bữa với chúng ta, Ngài tự biến thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống hôm nay và sự sống muôn đời.
Kinh nghiệm được đón tiếp bởi Đức Giê-su, khi mà chúng ta vẫn còn là tội nhân, yếu kém và nhỏ bé, chính là động lực để chúng ta cũng có thể đón tiếp người khác, như họ là. Kinh nghiệm này cũng làm cho có thể ra khỏi chính mình để đi vào niềm vui lớn lao của Thiên Chúa và các Thiên Thần của Ngài trên trời.
“Con chiên bị mất”
Để thay đổi hình ảnh lệch lạc của chúng ta về thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân, và để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là còn ngài kết bạn với họ, Đức Giê-su kể «một hơi» ba dụ ngôn: dụ ngôn con chiên, dụ ngôn đồng bạc và dụ ngôn người cha có hai người con (Lc 15, 4-32). Và trên Thập Giá, Ngài còn đi xa hơn, khi để cho mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu chết giữa các tội nhân.
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu tiên, nhưng chúng ta nên hiểu cả ba dụ ngôn cùng nhau, vì các dụ ngôn soi sáng cho nhau và nêu bật khía cạnh đặc biệt của mỗi dụ ngôn. Thật vậy, ba dụ ngôn có một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý : 100 con chiên trong đó có một con bị mất ; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư mất. Như thế, xét về con số, sự mất mát càng lúc càng lớn : một trên một trăm, một trên mười và một trên hai ; hơn nữa, xét về điều bị mất, ban đầu là con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người con thì vô giá.
Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất mát càng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng ; trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.
Chính vì thế, logo của Năm Thánh Lòng Thương xót vừa đến từ dụ ngôn «Con chiên bị mất» qua hình ảnh vác trên vai, vừa đến từ dụ ngôn «Người con hoang đàng», qua hình ảnh con người được mang vác, thay vì con chiên, vừa diễn tả Đức Ki-tô, qua bàn tay in dấu đinh, vừa diễn tả căn tính thần linh của Đức Ki-tô «Ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót), qua lời mời gọi “THƯƠNG XÓT NHƯ CHÚA CHA”
Tuy nhiên, cả ba dụ ngôn có một sứ điệp khác đánh động chúng ta không kém : đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta, như thể, chúng ta là duy nhất, là quí nhất là yêu nhất, trong con mắt của Chúa. Và dụ ngôn đầu tiên làm bật lên sự điệp này một cách rạng ngời nhất: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. (c. 4)
Dụ ngôn đến từ đời thường, nhưng một khi thốt ra từ miệng Đức Giê-su, lại chứa đựng nhiều điều bất thường (tương tự như các dụ ngôn khác):
(1) Bỏ chín mươi chín con lại nơi đồng hoang; (2) Vác con chiên lạc trên vai, khi tìm thấy ; (3) và niềm vui quá lớn và lan tỏa, so với con chiên nhỏ bé được tìm lại, như thể đó là con chiên duy nhất, và như thể chín mươi chín con kia không hiện hữu ! Ba điểm bất thường diễn tả cho chúng ta một cách tuyệt vời về tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Tâm Chúa Giê-su muốn diễn tả:
– Thiên Chúa quan tâm đến từng người chúng ta, như thể mỗi người chúng ta là duy nhất. Đó chính là đặc điểm của tình yêu, nghĩa là tương quan giữa một ngôi vị với một ngôi vị. Và chỉ khi, có một con chiên đi lạc, đặc điểm này mới được tỏ lộ ra. Vì thế, kinh nghiệm «đi lạc» sẽ là cơ hội giúp chúng ta nhận ra đặc điểm này của tình yêu Thiên Chúa!
– Người mục tử không trách móc, la mắng xử phạt, giống như người cha chạy ra ôm người con trở về “hôn lấy hôn để” (x. Lc 15, 20). Bởi vì sự hiện diện của người con «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy (c. 24), là tất cả và là dư đủ để lất át tất cả, bù đắp tất cả và làm cho hi vọng1. Đó là bởi vì, tình yêu luôn đi đôi với bao dung tha thứ. Đặt vào trong bối cảnh của dụ ngôn, người tội lỗi được tượng trưng bởi hình ảnh con chiên đi lạc. Điều này thật an ủi cho chúng ta, vì dưới mắt Chúa, chúng ta là những con chiên đi lạc, phải đi tìm về cho kì được, và Thiên chúa đi tìm mỗi người chúng ta nơi Đức Giê-su. Chúng ta hãy nhìn mình như là Chúa nhìn; và chúng ta hãy là con chiên đi lạc mong được tìm thấy và được mang về. Thay vì tự biến mình thành con dê nổi loạn, con sói phá hoại.
– Tình yêu bao dung tha thứ mang lại niềm vui, và niềm vui lan tỏa sang nhiều người, sang tất cả mọi người, trên trời cũng như dưới đất.
* * *
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành đích thân cho từng người chúng ta như là « Đối Tượng Duy Nhất » trong Đức Ki-tô, để chúng ta có thể yêu mến Người như là « Đối Tượng Duy Nhất » của lòng trí chúng ta. Và thực vậy, dù chúng ta là ai, ở trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là:«Người môn đệ Đức Giê-su thương mến», vì chúng ta xác tín cùng với thánh Phao-lô rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Rm 8, 38-39)
Thánh Tâm Chúa Giê-su
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su có nguồn gốc nơi biến cố cạnh sườn của Đức Giê-su bị đâm thâu và từ đó, tuôn trao ra nước và máu (x. Ga 19, 34). Nhìn ngắm biến cố sau cùng này của cuộc Thương Khó, các Giáo Phụ nhận ra nơi đó sự khai sinh ra các bí tích của Hội thánh, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể:
Lạy Chúa Ki-tô, … xin Máu thánh Chúa làm cho con say mến… Xin nước bởi cạnh sườn Chúa rửa con cho sạch… Xin cất dấu con trong các vết thương của Chúa. (Kinh Anima Christi)
Không có lòng sùng kính nào có tính cách bắt buộc, ngay cả khi được Giáo Hội khuyến khích. Chúng được đề nghị thực hành trong mức độ chúng giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến và phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta. Tuy nhiên, phải nói rằng, những hình vẽ “Trái Tim rất thánh”, có từ thế kỷ XVII, xem ra không còn phù hợp với cảm thức của chúng ta ngày này. Nhưng, chúng ta được mời gọi vượt qua hình vẽ nghệ thuật, để nhận ra rằng hình ảnh trái tim ngày nay vẫn còn mang nhiều ý nghĩa. Trong thân thể của chúng ta, trái tim đưa máu đi, ngang qua các động mạch, tưới gội khắp chi thể, để làm cho thân thể sống động. Trong đời sống tinh thần, trái tim được coi là trung tâm của nhân cách, nghĩa là nơi của những cảm xúc và những năng động hướng chúng ta đến với người khác; trái tim làm trào vọt ra trên môi miệng chúng ta những lời nồng thắm và yêu thương, bởi vì “tim có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12, 34). Chính vì thế mà, hình ảnh trái tim có mặt khắp nơi trong Kinh Thánh, mặc khải những gì trào vọt ra từ trái tim của Thiên Chúa và những gì trào vọt ra từ trái tim con người. Đó là hình ảnh trái tim rung cảm, hơn là trái tim lưu chuyển máu huyết.
Như thế, dấu chỉ tấm bánh và hình ảnh trái tim diễn tả cùng một thực tại, đó là Tình Yêu đi xuống đến cùng tận, nghĩa là LÒNG THƯƠNG XÓT, để làm cho thế giới đứng vững trong Đức Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa và để mang lại cho thế giới năng động trở về với Đấng Tạo Dựng.
SUY NIỆM 12: TRÁI TIM MỤC TỬ
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta đặc biệt suy tôn Tình Yêu của Chúa Giêsu đã thể hiện qua trái tim của Người. Phụng vụ Lời Chúa năm C không có một từ nào nói về trái tim Chúa Giêsu, nhưng lại nói đến Tình Yêu của một Thiên Chúa là Cha qua hình ảnh của một người mục tử hết mình yêu thương đàn chiên.
Cùng với khẩu hiệu ”Thương Xót như Chúa Cha” (Lc 6,36), huy hiệu Năm Thánh Lòng Thương Xót (do Cha Marko I. Rupknik SJ sáng tác) trình bày người Cha đang vác người con lầm lạc trên vai. Một hình ảnh rất được Giáo Hội cổ kính quí chuộng, vì diễn tả tình thương của Chúa Kitô hoàn tất mầu nhiệm nhập thể của Người bằng công trình cứu chuộc. Hình của huy hiệu làm nổi bật sự kiện Vị Mục Tử nhân lành đi sâu vào thân thể con người, với tình thương yêu đến độ thay đổi cuộc sống của con người.
Ngoài ra, một sự kiện này không thể bỏ qua, đó là Vị Mục Tử nhân lành, với lòng thương xót tột độ, vác nhân loại trên vai, nhưng đôi mắt của Vị Mục Tử hoàn toàn giống như đôi mắt của con người. Chúa Kitô nhìn với con mắt của Ađam và Ađam nhìn với con mắt của Chúa Kitô. Như thế mỗi người nhận ra nơi Chúa Kitô là Ađam mới, chính nhân tính của mình và tương lai đang chờ đợi mình, khi chiêm ngắm, trong cái nhìn của Chúa Kitô, tình thương của Chúa Cha. (theo vi.radiovaticana.va)
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho dân Do Thái qua ngôn sứ Êdêkien về một thời đại mới mà chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân của Người. Vị mục tử sẽ tìm kiếm những con chiên bị tản mác khắp nơi, tập hợp và đưa chúng vào đất của chúng. Chăn dắt trong những đồng cỏ tươi tốt, màu mỡ trên các núi cao, các thung lũng Ít-ra-en và tại mọi nơi trong xứ có thể được. Con nào bị mất, Người sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Người sẽ đưa về; con nào bị thương, Người sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Người sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Người sẽ canh chừng. Người sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. (x. Ed 34,11-16)
Trong những ngày nắng hạn khô cằn, vị mục tử là Thiên Chúa sẽ dẫn đưa đàn chiên chúng ta đến nơi đồng cỏ xanh tươi, chỗ suối nước mát lành để chúng ta được no nê bổ sức và yên tâm nghỉ ngơi. Không còn những lo lắng, buồn phiền, mệt mỏi …. vì “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” Và rồi bình an trong vòng tay yêu thương chăm sóc, chúng ta tin tưởng khẳng định: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.”
Đối với Thiên Chúa, chúng ta là những người con yêu dấu. Trong đôi mắt Người, từng người chúng ta thật quý giá không trừ một ai. Tình Yêu xuất phát từ trái tim Người đã che chở chúng ta, đem lại cho chúng ta sự bình an. Thương lắm, quý lắm nên Thiên Chúa mới xức dầu thơm lên đầu chúng ta, châm rượu vào ly cuộc đời chúng ta với bao ân tình thương quý. “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa”. (TV 23,1-6)
Đức Giêsu chính là Vị Mục Tử Nhân Lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân và chính Người cũng xác nhận “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Không chỉ chăm sóc, bảo vệ, tình yêu của Đức Giêsu đối với chúng ta còn lên đến tột đỉnh khi Người hiến mạng sống mình cho chúng ta, như lời Thánh Phaolô: “Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,5-11)
Tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn chúng ta. Dụ ngôn con chiên lạc là một trong ba dụ ngôn Đức Giêsu nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa không bỏ rơi con người tội lỗi. Sự lo lắng của vị mục tử này xuất phát từ việc trống vắng con chiên lạc trong trái tim ông. Ông dám liều lĩnh bỏ 99 con trong hoang địa và chấp nhận tất cả những rủi ro sẽ xảy đến cho bản thân để cất bước lên đường tìm 1 con. Khi tìm được con chiên lạc, ông mừng rỡ ôm nó vào lòng, vác trên vai đưa nó trở và mời bạn hữu đến chia vui “vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên đã bị mất”. Vui mừng không phải vì con số 100 tròn đầy mà là vì con chiên lạc đã được tìm thấy!
Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. Cần phải hiểu bối cảnh của dụ ngôn là sự bàn tán, xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư khi thấy những người thu thuế và tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng dậy (x. Lc 15,1-7). Điều đó cho ta thấy sự khác nhau giữa lý luận của trí óc và cái lý lẽ của con tim. Chúa Giêsu muốn chúng ta phải nghe Lời Người bằng trái tim, để có thể hiểu được những hành động Người đã dành cho những người tội lỗi. Hơn thế, Người còn cho thấy, nếu một khi để cho trái tim thúc đẩy, thì ai cũng sẽ làm như Người đã làm.
Muốn cảm nghiệm được tình yêu, chúng ta cần phải biết nghe bằng trái tim, và để cho trái tim rung đập theo nhịp riêng của nó. Hãy suy ngẫm và cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, để rồi nghe theo sự mách bảo của trái tim, chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng với tình yêu hy sinh quảng đại Thiên Chúa đã dành cho mỗi người. Hãy mang lấy trái tim và cách cư xứ của Chúa đến cho anh chị em chung quanh để bất cứ ai khi tìm đến với những Kitô hữu như chúng ta, đều tìm được một ốc đảo từ bi thương xót. (ĐTC Phanxicô)
Nguyện xin Thánh Tâm Chúa Giêsu tuôn đổ Tình Yêu của Người vào trong trái tim của để chúng con luôn biết lấy Tình Yêu đáp trả Tình Yêu, luôn nhìn đời với ánh mắt yêu thương, biết cảm thông trước những nỗi khổ của tha nhân. Luôn biết tìm đến với những người đang cần chúng con cho đi dù chỉ là một lời cầu nguyện, một chút yêu thương, một chút chia sẻ.
Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa bằng con tim rộng mở, để qua lời rao giảng của các vị mục tử chúng con kín múc được những nguồn mạch thâm sâu của Tin Mừng. Cho chúng con có một trái tim khiêm nhường để biết mở lòng mình ra đón nhận những phê bình, sai sót của anh em. Biết từ bỏ cái tôi để tiếp thu những điều chưa hay, chưa biết thay vì tranh cãi, lí luận đủ điều để bảo vệ những thiếu sót, khiếm khuyết của mình.
Xin Trái tim nhân từ của Chúa Giêsu giúp con biết cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ và cư xử với những người trong gia đình, những người cùng làm việc trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày bằng sự hiền từ và tha thứ để cuộc sống ngày càng thêm thăng hoa và trổ sinh trái ngọt. Và khi trái tim con đã được đong đầy Tình Yêu Thiên Chúa, xin cho con vững bước đi làm chứng nhân cho cội nguồn Tình Yêu là Thánh Tâm Chúa Giêsu giữa lòng xã hội và thế giới hôm nay. Amen.
SUY NIỆM 13: TRÁI TIM THỔN THỨC
Dã Quỳ
Trái tim là phần quan trọng nhất và quí giá nhất của con người, là cơ quan sống động và chuyển động không ngừng trong con người. Đó là trái tim tự nhiên. Thế nhưng trong con người, còn có một trái tim thứ hai, mà chúng ta gọi là Tấm Lòng. Với ngôn ngữ Anh hay Pháp, người ta gọi chung một tên là Heart hay Coeur. Những ai có tấm lòng thì trái tim cũng sẽ thao thức, đau khổ và cũng sẽ yêu mãnh liệt. Vì Tình yêu và Trái tim đồng nghĩa.
Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô như là một sự kính nhớ Tình Yêu của Chúa và Tình yêu cụ thể đó là Cuộc Thương Khó của Người. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên khi yêu nhân loại, trái tim Chúa cũng đau khổ suốt cả cuộc đời nơi trần thế và mãi đau khổ vì sự vô ơn bội nghĩa của con người. Không có đau khổ nào sánh bằng đau khổ vì bị phản bội tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta tha thiết và muốn yêu chúng ta đến cùng nên Người cũng phải đau khổ nhiều. Nhưng đau khổ vì yêu thương của Chúa thật cao đẹp và tuyệt vời vì chính Chúa chọn chết vì yêu chúng ta “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.”(Ga 10,18)
Trái Tim Chúa Giêsu yêu tất cả nhân loại nhưng Chúa yêu và quan tâm, chăm sóc từng người chúng ta cách cá nhân. Chính vì thế, Chúa đã không vì chín mươi chín chiên trong đàn mà bỏ một chiên lầm lạc nhưng trái lại, Người để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất.(x. Lc 15,4) Đối với Chúa, một bằng chín mươi chín, vì mỗi người có một giá trị cao quí. Trái tim của Mục Tử Giêsu không thể yên khi ở với đàn chiên trên cánh đồng an bình, trong khi đó còn có những chiên lạc, chiên xa đàn. Người dõi theo và thao thức khi những chiên đau bệnh, ngây ngô lầm lạc ấy bỏ đi. Lòng Thương Xót của Chúa đã muốn đếm hết mọi người chúng ta và lo lắng, đau khổ cho mỗi người “Chính Người đã mang lấy các bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta.“( Is 53,4)
Trái tim không đau khổ, không thổn thức đó là trái tim không yêu. Còn Trái Tim của Chúa chúng ta thì luôn luôn gắn liền với Thánh giá. Thế nên khi Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Margarita Alacoque, trên tay Người cầm trái tim quấn vòng gai với hai vết thương chiếu sáng hai tia lửa yêu và Chúa nói “Đây là Trái Tim đã yêu thương loài người quá đỗi.” Trái tim Chúa đã yêu nhiều nhưng chỉ nhận được sự xua đuổi, lạnh nhạt và vô ơn. Chính chúng ta, những Kitô hữu lẽ ra là những chiên tốt lành, ở bên cạnh và an ủi, đền tạ, yêu mến và làm vinh danh Người; nhưng ngược lại, đời sống của ta, tội lỗi của ta đã xúc phạm đến Chúa, nhất là những tội từ trái tim, từ tình yêu của ta đã như thêm gai nhọn, thêm giấm chua vào Thánh Tâm Chúa.
Mặc dù Tình yêu của Thiên Chúa không được đền đáp, nhưng Trái Tim Chúa vẫn tiếp tục yêu và nghĩ đến những ai rời bỏ Người. Chúa yêu những người không yêu Chúa và Chúa lên đường tìm kiếm con cái của Người đang tản mác khắp nơi, để chỉ mong chúng cảm nghiệm được tình trìu mến của Người mà hoán cải và trở về. Bởi vì đi tìm là đã yêu, đã tha thứ và thương xót vô hạn. Thế nên, khi tìm được rồi, bất chấp tất cả, Mục Tử rất đỗi vui mừng “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.”( Lc 15, 5) Không chỉ công kênh trên vai đưa về, mà còn mở tiệc mời hàng xóm ăn mừng chia vui. Ôi, một hình ảnh kỳ diệu mà chúng ta cần mãi chiêm ngắm. Chính Thiên Chúa, Cha của chúng ta, luôn đối xử với mỗi người chúng ta như vậy. Niềm vui của Chúa là tìm thấy chúng ta, những người con lạc lối.
Thiên Chúa và cả Nước Trời có chung một niềm vui. Niềm vui ấy bừng tỏa chỉ “Vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15,7) Chỉ một người mà quan trọng hết sức đối với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Người không an lòng ngồi đó chờ đợi chúng ta trở về nhưng là nóng lòng đi tìm. Đó là Trái Tim của Thiên Chúa- Trái tim thổn thức khôn nguôi.
+ Còn đối với chúng ta, chúng ta có quan tâm đến việc cứu độ con người, đến sứ mạng cứu rỗi mà Chúa cũng trao cho mỗi Kitô hữu tiếp nối cánh tay và chương trình Cứu độ của Người hay không? Trái tim của chúng ta có phần nào giống Trái Tim Chúa Giêsu, cùng nhịp đập yêu thương, thao thức khôn vơi khi còn biết bao anh chị em ta chưa biết Chúa hay còn đang lầm lạc bỏ Chúa? Chúng ta được trao sứ mệnh và được sai đi để tìm kiếm những ai bị mất. Vậy ta có nhiệt tâm tìm kiếm, tạo cơ hội và giúp đỡ anh chị em ta nhận ra tình yêu của Chúa và trở về với Người không?
Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ và xót thương bao la của Thiên Chúa “Trái Tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.”(Hs 11, 8) Người luôn tìm kiếm và cứu chữa bởi bản tính của Người là “Nhẫn Nại và Xót Thương.” Khi đến trần gian, mối bận tâm của Chúa Giêsu “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”( Lc 5,32). Chính vì thế, Chúa Giêsu – Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng cho đoàn chiên, chỉ mong cho chiên được sống và sống dồi dào bằng chính sự sống của Người.
Là chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi ở lại trong tình yêu của Chúa và tin tưởng vào lòng xót thương chăm sóc của Chúa. Hãy tín thác cuộc đời ta trong cánh tay yêu thương của Mục Tử Giêsu và “Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em“(1Pr 5,7) Đồng thời ta hãy học nơi Thánh Tâm yêu thương nhân từ của Chúa, để chính ta cũng biết trao tặng tình yêu thương cho tha nhân cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của ta bằng việc cầu nguyện cho người tội lỗi; bằng bác ái, chia sẻ, cảm thông, tha thứ… Vì tất cả những gì phát xuất từ con tim đong đầy tình yêu Chúa thì nhất định sẽ là men, muối và hấp dẫn, lôi kéo đem nhiều anh em trở về với đoàn chiên và với Thánh Tâm trìu mến dịu dàng của Chúa chúng ta.
Hôm nay, ngày thánh hóa các Linh Mục. Chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho các ngài được Thánh Tâm Chúa Giêsu yêu mến, che chở và biến đổi để các ngài thực sự là những Mục tử mang trọn vẹn hình ảnh, khuôn mặt, trái tim của Chúa Giêsu. Cầu mong cho từng lời rao giảng, mỗi lời nói và trong mọi hoạt động của các ngài luôn thấm đẫm tình yêu và lòng nhân hậu. Cầu xin cho các Linh Mục có trong mình trái tim thổn thức của Chúa với những chiên lạc, chiên xa đàn và lo lắng nhiệt thành đi tìm kiếm. Cầu khẩn cho các ngài luôn hết lòng chú ý đến những chiên đau bệnh, chiên nhỏ bé và những nỗi khốn cùng của họ.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót tất cả chúng con và xin đổ đầy tình yêu của Chúa vào mỗi con tim chúng con. Amen.
SUY NIỆM 14: Tình yêu
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị chìm dần dưới lòng đại dương.
Hành khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng hát vang lên:
- Gần bên Chúa, linh hồn con sướng vui.
Với chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vui mừng và hạnh phúc.
Có lẽ không một lời nói nào của Chúa làm cho chúng ta xúc động bằng lời nói đầy yêu thương sau đây: - Này con, con hãy dâng lòng con cho Cha.
Khi nghe đọc những lời này, chúng ta dường như cảm thấy Chúa đang gõ cửa, đang dang tay van xin chút tình yêu thương của chúng ta.
Thực vậy, Ngài không phải chỉ van xin bằng lời nói, mà Ngài còn thực hiện sự van xin ấy bằng những việc làm cụ thể. Máng cỏ, Thập Giá và Thánh Thể đã chẳng phải là những bằng chứng hùng hồn nhất của một tình yêu điên khùng và mạnh mẽ đó sao?
Đúng thế, mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, khi quì bên máng cỏ, chúng ta không bồi hồi xúc động sao được. Hài nhi Giêsu nằm trên lớp cỏ rơm, không nói với chúng ta bằng ngôn từ, nhưng nói với chúng ta bằng việc làm, bằng chứng tích cụ thể của tình yêu:
- Con thấy không Cha đã yêu thương con biết bao, chính vì yêu con mà Cha đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất. Cha đã đến trong thế gian, chỉ vì yêu thương con mà thôi.
Rồi trong những phút giây thinh lặng ấy, chúng ta hãy ngước nhìn lên Thập Giá và tự hỏi:
- Ai đã chịu treo trên đó?
- Con Thiên Chúa.
- Tại sao Ngài lại chấp nhận một cái chết tủi nhục và đớn đau như thế?
- Chỉ vì yêu thương chúng ta mà thôi.
Thực vậy, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống nghèo túng và cực nhọc. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu đánh đòn, chịu đội mạo gai và sau cùng chịu đóng đinh vào Thập Giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu lưỡi đòng đâm qua trái tim.
Suy nghĩ về cực hình Thập Giá, chúng ta phải kêu lên như thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Sau cùng, hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết về hình ảnh người mục tử nhân lành. Đúng thế, người mục tử nhân lành dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Và khi chiều xuống, người mục tử nhân lành đưa đàn chiên về chuồng để nghỉ qua đêm.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta còn trở vượt hơn tình yêu của người mục tử nhân lành rất nhiều.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thấy được những gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Cả Mình với Máu thánh. Cả thân xác với linh hồn. Cả bản tính nhân loại với bản tính Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng đáp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Và sau cùng, tước tình yêu thương vô biên của Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời nguyện cầu chân thành:
- Lạy Chúa, xin cho con biết làm mọi sự vì lòng yêu mến Chúa.
10/06 Phải sống công chính hơn
- Viết bởi Mt 5, 20-26
Phải sống công chính hơn.
Thứ Năm tuần 10 thường niên.
"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".
Lời Chúa: Mt 5, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chớ giết người
Suy niệm :
“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.
Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa
qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).
Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.
Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới.
Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội.
Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng
và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,
cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).
Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.
Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.
Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em,
và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,
thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.
Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.
Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.
Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh
mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,
rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).
Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật
khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?
Để đến được với người đang xích mích với mình,
cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.
Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,
đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương.
Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay
trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,
một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.
Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,
những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.
Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.
Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.
“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.
Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,
những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.
Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.
Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.
Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?
Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?
Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,
trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động .
vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Công chính hơn Biệt phái
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa kiện toàn Lề Luật để phù hợp với Nước Trời. Và môn đệ phải sống theo luật mới để công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu.
Luật cũ đòi buộc bên ngoài. Luật mới đòi buộc trong tâm hồn. Luật cũ cấm ghen ghét. Luật mới đòi yêu thương. Không chỉ cấm giết người. Mà còn cấm cả ghen ghét. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người…Còn Thầy, Thầy báo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Không những không được giận anh em. Mà còn không được để cho anh em bất bình với mình. “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”. Luật mới là luật yêu thương. Yêu thương không phải ở bề mặt. Mà phải từ đáy sâu tâm hồn. Như thế mới đẹp lòng Chúa. Là của lễ xứng đáng dâng Chúa. Mới công chính hơn kinh sư.
Đó là không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Ê-li-a là người sống theo Thần Khí. Ông không để lòng giận ghét ai. Dù ông bị vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven làm hại. Ông chỉ làm theo lệnh Chúa. Xong việc rồi ông lại đối xử tốt với vua A-kháp. Khi Chúa tha tội, ban mưa xuống đất Do thái, Ê-li-a đã chăm sóc cho vua. Lo cho vua ăn uống cho kịp chạy mưa. Và khi mưa xuống ông chạy trước xe để tháp tùng vua theo đúng nghi lễ quân thần. “Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. Tay Đức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en”. Đó quả là con người sống theo Thần Khí (năm chẵn).
Phao-lô cho biết lý do luật mới công chính hơn. Đạo cũ đọc Kinh Thánh qua một tấm màn. Còn đạo mới gặp trực tiếp với Chúa. Chúa là Thần Khí. Thần Khí là tự do. Nên tâm hồn không bị ràng buộc trong sự chết. Nhưng phản chiếu vinh quang Chúa Ki-tô. Tự do yêu thương. Vì thế Tin Mừng Chúa Giê-su bừng sáng lên. Tuy nhiên những ai sống theo xác thịt vẫn không nhìn thấy ánh sáng đó. Chỉ những ai sống theo Thần Khí mới bừng sáng lên. Sống theo Thần Khí. Con người tràn đầy tự do. Và tràn đầy yêu thương. Đó là công chính hơn biệt phái (năm lẻ).
Lạy Chúa xin “làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng con, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa, rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô”.
SUY NIỆM 3: Sự thánh thiện đích thực
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thái độ nửa vời
“Anh em đã nghe người xưa rằng: “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 21-22)
Làm như mọi người
Xã hội nào cũng có những luật lệ, quy tắc, những điều được làm, những điều cấm đoán, mà người ta phải tôn trọng, nếu không cuộc sống của người khác sẽ gặp trắc trở phiền hà. Nói chung mọi người đều được yêu cầu đừng vượt quá giới hạn. Phải giữ một mức cư xử tốt đẹp tối thiểu hoặc cùng lắm cũng phải tỏ ra có tình người thật.
Không ăn trộm ăn cắp, không làm thiệt hại tài sản người khác, không mưu hại mạng sống và sức khỏe của ai, không làm giầu cách gian lận, tuân theo luật lệ giao thông. Đó là đại khái những loại luật lệ quy tắc mà ta phải tuân thủ. Khi chu toàn được những điều này – tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng – ta thường khá hài lòng về mình. Thiên hạ coi những ai giữ trọn được như vậy, chẳng phải anh hùng thì ít ra cũng là những con người lương thiện, những công dân tốt.
Làm hơn được chăng?
Chúa Giêsu còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Chúa đòi hỏi những ai tin vào Người phải có lòng tốt, lòng quảng đại, sự hiến thân mỗi ngày phải tiến xa hơn nhiều. Xã hội bất quá kêu gọi tôn trọng công bình. Còn Chúa Giêsu lại mời gọi người ta sống yêu thương. Dưới con mắt Chúa, công bình chỉ là một thái độ nửa vời, hoặc nên gọi là không trọn mức cũng được. Nếu chỉ cư xử với nhau theo đức công bình, ta chỉ mới được nửa đường tới dích thôi. Chúa mốn ta giữ đức công bình được tình yêu làm cho thăng hoa tốt đẹp. Đành rằng phải có đức công bình để con người có thể cùng nhau chung sống, nhưng không đủ cho con người được sống hạnh phúc.
Chúng ta thường chỉ coi đức công bình là đủ, như vậy là ta cũng chỉ có thái độ nửa vời. Những người có thái độ nửa vời, sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu.
Suy Niệm 5: HÃY TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH HƠN (Mt 5, 20-26)
Xem lại thứ Sáu tuần 1 MC
Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội...
Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”
Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!
Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: "Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời" (Mt 5,20).
Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.
Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình... Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sống luật yêu thương cách cụ thể
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Luật yêu thương Chúa Giêsu dạy cần thực hiện cách cụ thể: sống hòa thuận và biết tha thứ. Ta cần phải sống yêu thương tha thứ như lễ vật dâng Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con hân hoan dâng Cha tâm tình yêu mến cùng với anh em con. Hôm nay, con không đến với Cha một mình, nhưng con đến cùng với anh em khác.
Lạy Cha, trên đường đến với Cha, con còn gặp biết bao trở ngại từ chính con. Con chưa hòa hợp được với anh em. Con còn khó chịu với người bên cạnh. Nhưng Cha muốn con nắm chặt tay bạn bè trong tình thương mến. Cha muốn con đi bước trước đến với người bất hòa với con, làm hòa với họ trước khi đến với Cha.
Lạy Cha, con chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Con Cha trên thập giá, hy lễ của Chúa Giêsu. Trước khi hoàn tất hy lễ ấy, chung quanh thập giá đông vô kể những kẻ bất bình và thù oán, họ đang hả hê vì đã giết được Ngài. Con Một Cha đã ngước mắt lên thưa với Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Thật là cao cả. Chính Thiên Chúa đã làm hòa với người đang cướp mất mạng sống mình. Lạy Cha, đây chính là lý do duy nhất thôi thúc con tha thứ cho anh em. Tha thứ không phải là nhát đảm nhưng là hành động anh hùng, không phải là thua thiệt, nhưng là nhận được nhiều hơn. Cùng với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay, con xin dâng Cha không phải chỉ lời cầu nguyện, không phải chỉ tâm tình yêu mến, nhưng xin dâng lên Cha lòng quảng đại tha thứ cho anh em. Amen.
Ghi nhớ : “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.
Suy Niệm 7: Ta muốn lòng nhân từ
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Lần đầu tiên một buổi lễ được trực tiếp truyền thanh cho cả thế giới theo dõi là lễ đăng quang của vua George VI của Vương quốc Anh.
Trong lễ đó, có nghi thức Đức Tổng giám mục Canterbury trao cho nhà vua cuốn Kinh Thánh và nói: “Thưa Hoàng đế cao cả, chúng thần xin trình Ngài cuốn sách này. Đây là báu vật cao quý nhất trên thế giới. Sự khôn ngoan ở đây, quy luật của hoàng gia cũng ở đây. Đây là những lời hằng sống của Thiên Chúa”.
Suy niệm
Luật lệ tự nó tốt nhưng không hoàn hảo. Lề Luật luôn là phương tiện chứ không là cứu cánh, như Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát” (Mc 2,27). Chúa Giêsu đến để kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên, luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” Luật cũ, khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật nhưng sống theo luật với ân sủng và tình yêu, cho nên, luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi không dừng lại ở những việc làm hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Trong tinh thần luật vì con người như Chúa Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày Sabát” (Lc 6,9), Chúa Giêsu tiến xa và hoàn thiện luật, sự hoàn thiện đó đã thiết lập Luật Mới, khi Ngài dạy hãy biến “ách nặng nề, nô lệ” của Luật Cũ thành “sự tự do vui thỏa” trong Chúa Thánh Thần. Đừng câu nệ chỉ ở nơi chữ viết ràng buộc nhưng cảm nghiệm sâu xa từ trái tim mình là chủ đích của luật Chúa. Chúng ta thấy rõ minh họa đầu tiên qua “mối tương giao huynh đệ”: Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’ ?. Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng đích đòi hỏi của Lề Luật, khi tuyên bố rằng, việc không phạm tội sát nhân: Chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa: “Các con đã nghe người xưa dạy rằng ‘Không được giết người, … còn Ta, Ta bảo thật bất cứ ai phẫn nộ với anh chị em mình, thì sẽ bị phạt nơi tòa án…” (Mt 5,21-22).
Thật thế, trong sự hoàn thiện của luật, không chỉ giết người mới được coi là phạm luật, phải ra toà mà ngay cả thái độ giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em thì đã được coi là vi phạm luật. Và có ý muốn ngoại tình là đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi (x. Mt 5,27). Thậm chí chưa tích cực giải hòa với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng coi như là phạm Luật, không còn quyền dâng của lễ cho Thiên Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Chúa Giêsu đến để làm trọn Lề Luật trong tinh thần của luật yêu thương, có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích Lề Luật rắc rối bên ngoài làm cho con người trở nên vụ lợi và hình thức mà Chúa Giêsu đã kết án: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt 23,13-36).
Đức Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng cách thổi tình yêu của Ngài vào luật pháp khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế”. Ngài khẳng định giới răn trọng nhất mà toàn bộ Lề Luật và tiên tri đều quy về yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình (x. Mt 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ là chúng ta, kiện toàn Lề Luật khác hẳn việc tuân thủ các giới luật và mệnh lệnh của Chúa Kitô.
Ý lực sống:
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người pharisiêu,
thì sẽ chẳng được vào nước Trời”. (Mt 5,20)
Suy Niệm 8: Đức công chính của người môn đệ (Mt 5,20-26)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Hôm nay Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: Phải công chính hơn những người biệt phái và luật sĩ. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào cả, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Tại sao Chúa Giêsu đòi các môn đệ Ngài phải công chính hơn người biệt phái?
Thưa bởi vì, theo họ, thánh thiện là chu toàn cách chi li và máy móc những luật lệ đã được qui định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Đả phá quan niệm và cách thực hành của những người biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người biệt phái, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những biệt phái và luật sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước trời”.
Không dùng gươm giáo hay bất cứ vũ khí hoặc phương tiện nào để đổ máu, kết liễu mạng sống người khác, làm như thế, những người luật sĩ và biệt phái cho rằng đã là tuân thủ đúng luật Maisen là “Chớ giết người”. Không sai! Nhưng Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải công chính hơn thế, khi Ngài dạy giữ luật ngay từ ý hướng bên trong, vì đó là căn cội dẫn đến hành vi biểu hiện bên ngoài: có loại trừ được lòng giận ghét thì mới không mắng chửi người khác, và như thế mới loại trừ được một động cơ quan trọng dẫn đến tội sát nhân. Giận dữ, mắng chửi đã là giết người trong tư tưởng rồi. Đàng khác, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm người khác còn gây ra đau khổ nặng nề hơn cả việc làm hại đến thân thể tha nhân (5 phút Lời Chúa).
“Chớ giết người”, chúng ta phải hiểu thế nào?
Luật Maisen qui định kẻ giết người phải bị đem ra toà xử, và tùy nghi luật lấy lại sự công bằng đúng sai xét về mặt xã hội và được áp dụng mắt đền mắt răng đền răng khi phạm nhân đã hành động sai.
Sự kiện toàn của luật Tin mừng không chỉ dừng lại ở hành động cụ thể tay chân mới là tội, và ngay cả việc giận hờn mắng nhiếc nhau đã xứng bị đem ra hội đồng và đáng phải sa hỏa ngục rồi. Thật vậy, giết nhau không chỉ dừng lại ở thể xác, nhưng bằng lời lẽ và hiến kế thâm độc còn đáng sợ hơn biết chừng nào...
Sự kiện toàn không chỉ dừng lại ở tính tương quan con người, mà là thành tương quan đối với Thiên Chúa, xúc phạm đến nhau tức là xúc phạm đến Thiên Chúa và xứng đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
“Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật”
Việc bất bình ở đây hiểu thế nào?
Có thể xảy ra trường hợp một người thù ghét chúng ta mà không vì lỗi chúng ta. Đó không phải là vấn đề ở đây. Chính Chúa Giêsu cũng đã có những kẻ thù hung dữ, tàn bạo, tuy Ngài không hề có lỗi gì với họ. Vậy đừng lo lắng khi mình khám phá ra chung quanh mình có người nào đó cư xử với chúng ta như là có điều gì bất bình với chúng ta , mặc dầu chúng ta không làm điều gì phiền lòng họ. Trong trường hợp này, nếu chúng ta có thể đi bước đầu dàn xếp sự việc thì càng tốt, nếu không thể làm điều đó, hãy giao phó sự việc cho Chúa.
Nhưng điều Chúa Giêsu đòi hỏi là: để đến gần Chúa, chúng ta không được là nguyên nhân phát sinh bất công hay thiếu bác ái làm đau lòng người anh em. Điều này Chúa muốn dạy chúng ta.
Nếu có bất hoà xảy ra, thì phải mau chóng đi làm hoà ngay. Sự làm hoà này cần kíp và cấp bách như một điều kiện cần phải làm trước khi làm việc phụng thờ Thiên Chúa.
Không những không được thù oán, gây bất hoà với ai, mà còn không được là đối tượng cho lòng thù oán mà chúng ta có thể gây ra cho kẻ khác.
Ngay ở đời này, chúng ta phải cố hòa giải với Chúa bằng cách sống hòa thuận với nhau, chớ đợi đến đời sau, kẻo sẽ gặp án phạt rất nghiêm ngặt, vì đời này là chỗ tha thứ, đời sau là nơi thưởng phạt (Trần Hữu Thành).
Truyện: Hoà giải trước vị thần
Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Rôma xưa, đó là đền thờ dâng kính nữ thần có sứ mệnh hoà giải loài người với nhau, nhất là những đôi vợ chồng bất hoà.
Người Rôma xưa coi định chế hôn nhân là điều quan trọng trong sinh hoạt chính trị, xã hội; do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hoà và như vậy có thể nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải.
Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai cùng nói một lúc thì điều đó bị coi như phạm thánh.
Nghi thức này có thể mang đến những kết quả phi thường: sau khi trình bày lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ chồng thường làm hoà với nhau trước mặt vị thần.
09/06 Kiện toàn lề luật.
- Viết bởi Mt 5, 17-19
Kiện toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 10 thường niên.
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Để kiện toàn
Suy niệm :
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Kiện toàn lề luật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thấy Chúa Giê-su hành xử khá tự do. Chữa bệnh ngày sa-bát. Không ăn chay. Lui tới với người tội lỗi, phong cùi. Nhiều người nghĩ rằng Chúa đến để phá huỷ Lề Luật. Nhưng hôm nay Chúa minh định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Chúa kiện toàn thế nào? Có ba yếu tố cơ bản. Kiện toàn bằng tình yêu. Xưa kia luật là cứng ngắc. Khắt khe. Không nhân nhượng. Nhưng Chúa đã cho biết nền tảng của Lề Luật là tình yêu. Phải giữ luật vì lòng yêu mến. Mến Chúa và yêu người. Như Chúa dạy: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ”. Thậm chí Người còn ban hẳn một điều răn mới thay cho các điều răn cũ. Đó là phải thương yêu. Kiện toàn bằng lòng thương xót. Xưa kia máy móc nghĩ rằng cứ giữ luật là nên công chính. Tôi có thể tự mình nên công chính. Nay phải cậy nhờ lòng thương xót của Chúa. Chỉ nhờ lòng thương xót của Chúa tôi mới có thể được ơn cứu độ. Kiện toàn bằng Thần Khí. “Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống”
Ê-li-a là người đầy Thần Khí và có lòng yêu mến lớn lao nên dám hi sinh tính mạng khi chống lại hoàng hậu I-de-ven độc ác. Cả nước đã theo hoàng hậu mà thờ thần Ba-an, nhưng Ê-li-a, với lòng yêu mến Chúa trung tín, vẫn tuân giữ lề luật của Chúa. Ông tin tưởng vững vàng vào lòng thương xót của Chúa nên dám thách thức các sư sãi của Ba-an trong một buổi cầu nguyện dâng hi lễ công khai trước mặt toàn dân. Tin tưởng và khiêm nhường, ông đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa, và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này”. Vì thế Chúa đã nhận lời ngài. Cho lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật ông dâng. Và toàn dân đã lấy lại được niềm tin. “Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa!” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cho biết Chúa kiện toàn bằng Thần Khí. Giao Ước cũ căn cứ trên chữ viết. Giao Ước dựa vào Thần Khí. Chữ viết thì giết chết. Thần Khí mới ban sự sống. Chữ viết thì mau qua. Thần Khí thì vĩnh cửu. Vì thế Giao Ước mới là hoàn hảo. Và người phục vụ Giao Ước mới cũng sẽ được vinh quang. “Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua -, thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao…Thật vậy nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao”? (năm lẻ).
SUY NIỆM 3: Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Rắc rối yêu thương
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt. 5, 17)
Quá nhiều luật lệ!
Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.
Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.
Đức Giêsu với lề luật
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.
Suy Niệm 5: GIỮ LUẬT THEO TINH THẦN CỦA CHÚA (Mt 10, 7-13; hoặc Mt 5, 17-19)
Xem lại CN 6 TN A, Thứ Tư tuần 3 MC
Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?
Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabát, giới lãnh đạo Dothái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Đức Giêsu bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Đức Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Pharisêu: "Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các ngôn sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con tuân giữ Lề Luật của Chúa trong sự ép buộc, nhưng là trong lòng mến, để qua đó, nhờ Lề Luật mà làm cho chúng con được gần Chúa và anh chị em chúng con hơn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Giữ luật theo ý Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu kiện toàn luật Cựu ước, vì Người cho ta hiểu được ý nghĩa của lề luật, và vì Người thực hiện những lời tiên báo trong Cựu ước. Phải giữ luật theo ý hướng của Chúa Giêsu thì mới trở nên công dân Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa ban lề luật cho con là để con được tự do, được nên thánh, lề luật của Chúa là những bậc thang vững chắc đưa con đến với Chúa, đưa con vào Nước Trời.
Thế nhưng nhiều khi con có cảm tưởng luật Chúa ràng buộc con, làm con mất tự do thoải mái trong cuộc sống. Nhiều khi con cảm thấy nặng nề khi đi lễ ngày Chúa nhật. Nhiều khi con thấy luật hôn nhân công giáo giới hạn tự do của con. Nhiều khi luật Chúa đưa con đến những chọn lựa khó khăn và ngăn cản con chọn những giải pháp dễ dãi.
Với Lời Chúa hôm nay, con muốn đặt niềm tin vào Chúa. Chính vì yêu thương mà cha mẹ cấm cản hoặc truyền dạy con cái làm điều này điều nọ. Cũng vậy, con xác tín rằng chính vì yêu thương và muốn con sống tốt mà Chúa ban luật Chúa cho con. Xin cho con biết tin vào Chúa và vào tình thương của Chúa để con yêu mến và sống theo luật Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con tinh thần tôn trọng lề luật Chúa. Chắc chắn con sẽ phải hy sinh ý riêng mình rất nhiều, nhưng con tin rằng khi con hết lòng với Chúa, Chúa sẽ ban cho con cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc. Đời con sẽ như cây trồng bên bờ suối và trổ sinh hoa trái đúng mùa. Amen.
Ghi nhớ : “Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Suy Niệm 7: Giữ Luật Chúa với tình yêu mến
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cổ ngôn Đông phương có nói: “Nhân vô thập toàn”, nghĩa là con người không đủ mười phần hoàn toàn, lời của cổ nhân xác nhận sự chưa hoàn thiện của con người để khích lệ mọi con cháu thăng tiến thêm trên đường cải thiện. Các luật lệ đã được quy định để định hướng giúp con người làm việc thiện tránh điều ác. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa: “Luật pháp là những quy định của lý trí nhằm công ích, được ban hành do người điều khiển cộng đồng”. Thánh Giacôbê khẳng định Đấng Tối Cao tức Thiên Chúa tạo tác mọi quyền hành và luật lệ khi viết: “Chỉ có một Đấng làm ra Luật Lệ” (Gc 4,12).
Có Thiên luật và Nhân luật.
Thiên luật là luật thiên nhiên, luật phát sinh từ tâm linh của Thiên Chúa, chi phối mọi hành động và sinh hoạt (Summa Theologia, I-II, q. 93, a). Là luật tự nhiên được ban cho con người cùng với những hợp lý như những quy tắc của các hành vi tự do. Hay luật Thiên Chúa ban hành qua con người là những luật lệ được mạc khải trực tiếp cho nhân loại. Loại luật này được phân làm hai: Luật Cũ, cũng gọi là Cựu ước (ban hành qua Abraham, Môisê và các ngôn sứ) và Luật Mới, cũng gọi là Tân ước (ban hành cho con người qua Đức Giêsu).
Nhân luật được coi phát sinh từ Thiên Chúa khi giải thích những luật lệ do Thiên Chúa mạc khải, khuyến dụ mọi người tuân giữ để đạt tới cứu cánh thiện hảo, là luật dân sự hay Giáo luật.
Suy niệm
Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Luật này càng phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ.
Khổng Tử dạy các môn đệ rằng: “Trước hết hãy có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức họa” (Luận ngữ II, 8). Phải có phông nền rồi mới có thể tiếp tục công trình hội họa. Công trình hoàn thiện Luật được theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua mười điều răn, được các ngôn sứ phát triển và được chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu hoàn thiện.
Thật thế trong Đức Giêsu Kitô, Giáo huấn của Ngài làm nên Luật Kitô giáo: Tân ước hoàn thành các Lề luật đã được mạc khải sơ khởi mà ta gọi là Luật Do Thái giáo: Cựu ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ôliu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu là Đấng đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn Luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.
Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…). và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “… đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Xin Chúa thổi tình yêu của Ngài vào trong cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ giới răn Đạo Chúa và giáo huấn của Giáo hội Chúa Kitô, chúng ta giữ Luật Chúa không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, nhưng thực thi với tinh thần của tình yêu.
Ý lực sống:
“Hãy yêu mến Chúa rồi làm điều bạn muốn” (thánh Augustinô).
Suy Niệm 8: Kiện toàn lề luật (Mt 5,17-19)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu tuyên bố cho mọi người biết: Ngài đến không phải để bãi bỏ luật Maisen và lời dạy của các tiên tri trong Cựu ước, nhưng làm cho hoàn hảo và đầy đủ hơn.
Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúng với luật Maisen và giáo huấn của các tiên tri theo lối giải thích của những người Biệt phái, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ Luật Maisen. Vì thế Ngài phải giải tỏa sự hiểu lầm ấy: Ngài không huỷ bỏ mà là kiện toàn chúng. Kiện toàn bằng cách dạy người ta hiểu những khoản luật đó là ý muốn của Cha trên trời nên phải sống những khoản luật đó trong tinh thần Cha – Con.
Hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabat, giới lãnh đạo Do thái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Chúa Giêsu bất chấp Lề luật. Thấy được sự xầm xì của họ, Chúa Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Biệt phái: “Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề luật hay lời các tiên tri; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn mặc cho Lề luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.
Chúa Giêsu không phải là con người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Maisen truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ Lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ Lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho Lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến (Mỗi ngày một tin vui).
Ngay những năm đầu của lịch sử Giáo hội đã xảy ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng có nguy cơ làm tan nát Giáo hội còn non trẻ: đó là có cần phải tuân giữ những truyền thống của Luật Maisen hay không. Luật giữ ngày hưu lễ có còn đòi buộc nữa không, một khi người ta đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu? Đó cũng là những vấn nạn của mọi thời: trung thành bảo vệ truyền thống hay cách mạng đổi mới tận căn? Người ta nghĩ rằng đối với người môn đệ của Chúa Giêsu, mọi giáo huấn Cựu ước không còn giá trị nữa. Chúa Giêsu đã trả lời: “Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Đối với Ngài, vấn đề không hệ tại ở việc bảo thủ một ý hướng cứng nhắc, cũng chẳng phải là lật đổ đổi mới, mà là trao ban cho quá khứ một sự sống mới. Vì đâu có phải mọi truyền thống đều tốt và nên bảo vệ cả đâu. Cũng chẳng phải hễ cái gì mới cũng quí cả đâu! Điều mà các bậc tổ tiên đã sống, đã hệ thống hóa trong những thời xa xưa là điều đáng quí, nhưng chúng cần được Chúa Giêsu kiện toàn bằng cách lột bỏ sự khô cứng của Lề luật (5 phút Lời Chúa).
Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có chiếc nhẫn thần là Lề luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta đối với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc.
Truyện: Tiếng nói lương tâm của một vị vua
Dạo tháng 4 năm 1990 để khỏi ký đạo luật cho phép phá thai do Quốc hội thông qua, vua nước Bỉ đã từ chức trước đó hai ngày, vì với tư cách là Kitô hữu, lương tâm không cho phép ông ký nhận. Theo hiến pháp Bỉ, do sự từ chức của Nhà vua, Hội đồng Bộ trưởng sẽ thay nhà vua để công bố đạo luật. Theo đạo luật này, nếu gặp khủng hoảng khó khăn và có chứng nhận của bác sĩ, người phụ nữ có quyền phá thai trong 12 tuần lễ đầu. Nhà vua từ chức được đúng hai ngày, Quốc hội tuyên bố việc từ chức của ông chấm dứt, và ông lại tiếp tục cai trị.
Một ông vua từ chức để một luật lệ bất nhân ra đời, đó là hình ảnh của luật pháp loài người: hoặc con người tìm kẽ hở của luật pháp để thủ lợi và hành động ngược với tiếng lương tâm, hoặc do con người nhân danh pháp luật để chà đạp người khác. Mục đích của luật pháp là để phục vụ con người, do đó nếu luật pháp đi ngược lại con người và chối bỏ Thiên Chúa, thì lúc đó thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người (Mỗi ngày một tin vui).
08/06 Muối và Ánh Sáng
- Viết bởi Mt 5, 13-16
Muối và Ánh Sáng.
Thứ Ba tuần 10 thường niên.
"Các con là sự sáng thế gian".
Lời Chúa: Mt 5, 13-16
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Muối cho trái đất
Suy niệm:
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu :
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Muối và Ánh Sáng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi giảng bài Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su nói các môn đệ phải là muối và ánh sáng. Hiển nhiên là muối mang vị mặn thiên đàng. Và ánh sáng Nước Trời. Quả thật thế gian đang hư hỏng vì thói cạnh tranh. Tìm tiền của. Mạnh hiếp yếu. Tìm hưởng thụ vui chơi. Tàn nhẫn. Lương tâm hoen ố. Áp bức. Người tông đồ của Chúa cần có vị muối mặn và ánh sáng của Tám Mối Phúc. Không coi trọng tiền của. Tránh xa quyền lực. Giữ tâm hồn trong sạch. Biết cảm thương. Hiền lành khiêm nhường. Để ướp mặn thế gian. Để soi sáng thế gian. Thế gian sẽ không bị hư hỏng. Thế gian sẽ biết đi trong ánh sáng. Đến hạnh phúc.
Phao-lô là muối mặn của Chúa. Là ngọn đèn sáng của Chúa. Nơi ngài rạng ngời hương vị Tin Mừng. Giữa thế giới điên đảo gian dối hỗn độn, ngài làm chứng về một Thiên Chúa chân thật, trường cửu. Không lập lờ vừa “có” lại vừa “không”. Nơi Người chỉ là “có”. Là thực tại. Là sự thật. Là trường cửu. Chúa đã hứa ban hạnh phúc Nước Trời là đúng thật. Lời hứa còn được củng cố bằng việc Chúa xức dầu và ban Thần Khí cho ta: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (năm lẻ).
Ê-li-a cũng là muối và là ánh sáng của Chúa. Giữa một dân tộc hư hỏng vì chạy theo vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben, ông vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Muối đó ướp mặn bà goá Xa-rép-ta. Khiến cho bà tin tưởng vào Chúa. Không tìm chạy theo lợi lộc vật chất. Nhưng đã hi sinh phục vụ vị tiên tri. Tiên tri chiếu lên ánh sáng của Chúa. Ánh sáng sự thật. Nên lời hứa của tiên tri được thực hiện. “Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói….Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (năm chẵn).
Chúng ta hãy dám sống sự thật của Tám Mối Phúc. Chắc chắn Chúa sẽ thực hiện lời hứa. Ban phúc cho ta. Và ban phúc cho những người nghe và tin vào Lời Chúa. Bấy giờ ta trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
Suy Niệm 3: Muối và Ánh Sáng
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Muối và Ánh Sáng
Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà đã nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (Mt. 5, 13-14)
Thế giới chẳng đẹp gì
Thế giới chẳng đẹp đẽ cho lắm. Nào là chiến tranh, bất công, bạo lực và hận thù tràn lan. Bạn cứ đọc báo là thấy ngay! Chỗ này chỗ kia, người ta đâm chém nhau, ăn cắp của nhau, đánh lộn nhau, sâu xé nhau. Đâu đâu người ta cũng thấy phô ra cái chẳng đẹp, chẳng tốt, chẳng sạch. Xa xa thì ở nơi nhà hàng xóm, mà cần gì phải đâu xa ngay tại nhà mình cũng có nữa.
Người ta không yêu nhau nhiều. Chắc chắn là không đủ. Có nhiều những người bất hạnh hơn là phải có. Có quá nhiều phụ nữ bị bỏ rơi đang khóc. Quá nhiều trẻ em bị hành hạ. Quá nhiều người nghèo khổ chẳng ai thèm chú ý tới. Có quá nhiều mảnh đời đủ mọi hạng tuổi mà thật ra chẳng được bao nhiêu thú vui để sống.
Lãnh đạm đủ rồi!
Trước những thảm cảnh đó, ta phải làm gì? Có thể làm gì? Có người lên tiếng! Thì đã có chính phủ để mắt tới! Thì đã có những nghiệp đoàn họ lo! Thì đã có những cơ quan cứu trợ xã hội để họ làm tốt công việc của họ!” Chỉ có giải pháp đó thôi sao?”
Chúa Giêsu có những lời mà người nghe phải hiểu rằng có một giải pháp khác. Chúa nói với chúng ta: “Anh em là muối đất. Anh em là ánh sáng trần gian”. Người còn phán: “Chính anh em phải làm cái gì đó. Chính anh em phải động đậy lên, phải nhúng tay vào. Chính anh em phải thay đổi thế giới một chút. Chính anh em phải giúp đỡ người ta được hạnh phúc hơn một chút, được tốt hơn một chút, được có tình huynh đệ hơn nữa”.
Chúng ta có là muối mặn không? Là ánh sáng chiếu soi không? Nếu chúng ta là những kẻ chẳng soi sáng cho ai, chẳng khích lệ ai, chẳng nâng dỡ ủi an ai, chẳng đem đến cho ai nụ cười; nếu chúng ta là những người lãnh đạm ơ hờ. Chà!…Một phần nào đó chính là vì chúng ta mà thế giới không khá hơn đó.
Suy Niệm 5: MUỐI PHẢI LÀ MUỐI (Mt 5, 13-16)
Xem lại CN 5 TN A.
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: "Cá không ăn muối cá ươn”.
Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: "Chính anh em là muối cho đời”. Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?".
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta.
Muốn được như thế, như những hạt muối, chúng phải chịu hòa tan trong nước thì mới có giá trị, người Kitô hữu muốn trở nên chứng nhân, thì cũng phải tan hòa cuộc đời như những hạt muối, chấp nhận từ bỏ cái tôi ích kỷ để trở thành hữu dụng cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vẫn mãi là muối mang vị mặn của Chúa, để chính Chúa ướp chúng con và cũng để chúng con cùng Chúa ướp cho đời khỏi bị hư thối bởi những trào lưu tục hóa trong thế gian này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sự sáng thế gian
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Người môn đệ Chúa Giêsu phải là muối, là ánh sáng cho trần gian. Đời sống thánh thiện theo Tin Mừng sẽ gìn giữ xã hội khỏi suy thoái và giúp xã hội thăng tiến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hàng ngày con nhìn thấy biết bao tội ác diễn ra quanh con. Đời sống luân lý ngày càng suy thoái. Những trào lưu xấu và những lý thuyết lầm lạc, đang lôi kéo và làm hư hỏng nhiều tâm hồn. Đứng trước thực trạng bi đát ấy, người ta đã báo động, la ó. Nhiều người thiện chí đã cố gắng ngăn chặn điều xấu và làm một cái gì đó tích cực để lôi kéo xã hội thăng tiến. Nhưng trái lại, rất nhiều người vẫn thờ ơ, thậm chí còn gieo rắc tội ác để đẩy xã hội xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con là môn đệ của Chúa. Chúa muốn con hơn ai hết phải tích cực tiêu diệt sự xấu, sự dữ, sự lầm lạc và gieo rắc điều tốt, điều lành, điều đúng. Chúa trao cho con sứ mạng trở thành muối và ánh sáng cho đời. Thế mà nhiều lúc đời sống Kitô hữu nơi con đã xuống cấp. Muối thánh thiện nơi con đã trở nên nhạt nhẽo, ánh sáng nơi con đã lu mờ và đem úp dưới thùng. Thậm chí lắm lúc con đã lôi kéo anh chị em vào con đường tội ác, sai trái.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Xin ướp mặn lại đời con bằng ân sủng và sự thánh thiện của Chúa. Xin Chúa giúp con đừng bao giờ hợp tác với điều xấu, trái lại, xin cho con can đảm tiêu diệt điều xấu bằng cách làm điều tốt, dù có bị thiệt thòi hay bị cười chê. Xin Chúa thúc đẩy con dám nói chân lý, dám sống theo phúc âm, dám lôi kéo người khác đi trên đường ngay nẻo chính. Amen.
Ghi nhớ : “Các con là sự sáng thế gian”.
Suy Niệm 7: Muối ướp đời
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mahatma Gandhi (1869 - 1948), nhà ái quốc và được tôn vinh là vị cha già dân tộc Ấn Độ, cũng là vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động.
Một hôm người ta hỏi ông rằng: “Trước thảm họa nguyên tử, ngài sẽ làm gì?”
Ganhdi trả lời: “Tôi sẽ cầu nguyện”.
Gandhi là người rất yêu mến giáo huấn của Chúa Kitô, nhưng khi được hỏi thêm: “Vì sao ngài không theo đạo Công giáo?”
Ông trả lời: “Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi”.
Sau đó ông còn nói thêm: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”.
Chính vì không sống đúng tư cách người môn đệ Chúa Kitô, người tín hữu đã làm che mờ Chúa Kitô nên Gandhi đã không đến với Đạo Kitô. Câu trả lời của Gandhi làm cho chúng ta cảnh tỉnh nhớ lại Lời Chúa nói trong Tin Mừng Mt 5,13-16: “Các con là muối ướp đời, là ánh sáng cho trần gian”.
Suy niệm
Người môn đệ trở nên như muối, là muối thì luôn có vị, muối không được lạt đi! Tác giả Cl. Tassin chú giải: “Các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ” (Theo Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62). Không chỉ trở nên vị mặn và hữu dụng như tính chất của muối, người môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (x.Pl 2,15; so sánh với Ep 5,8-14), là tham dự vào sự sáng của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Lc 2,32; Ga 8,12; 12,35). Nguồn ánh sáng cứu độ như Thánh Vịnh đã tuyên xưng: “Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1).
Ánh sáng cũng được sử dụng như là một biểu tượng trong Kinh Thánh, thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia đã loan báo, người Tôi tớ Giavê được công bố là “ánh sáng muôn dân” (Is 49,6); và Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (x. Is 42,6).
Giáo lý Công giáo số 1216 xác định: Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Cho nên, thánh Phaolô mời gọi mỗi chúng ta: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Chúng ta đều được mời gọi nên như muối và ánh sáng:
Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”và ngài mời gọi chúng ta trong từng lời ăn tiếng nói phải mang vị mặn mà của muối: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4,5-6).
Trong ý nghĩa đó, mỗi hành động của chúng ta cũng phải mang hương vị mặn mà của tình yêu đậm đà sẵn sàng chia sẻ với anh chị em mình. Mỗi khi dấn thân, tham gia gánh vác công việc trong xã hội, Giáo hội cũng phải chan chứa vị mặn muối của trách nhiệm công vụ vì anh chị em.
Khi mang lời mặn mà dễ thương, hành động thắm nồng tình yêu, tinh thần trách nhiệm, người Kitô hữu đã trở nên ánh sáng như Công đồng Vaticanô II đã chỉ rõ: “…Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa”, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).
Tuy nhiên, khi chúng ta đi vào sống ở giữa và trong thế gian, dưới sự ảnh hưởng của các thế lực bóng tối, hương vị của muối trong chúng ta có thể trở nên nhạt, đèn của chúng ta có thể bị hết dầu nên lụi tàn ánh sáng. Để tìm lại được hương vị mặn và dầu cho đèn sáng, cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu tình yêu của Ngài qua các bí tích đặc biệt là bí tích Hòa Giải: Được tha thứ, chữa lành và thêm sức mạnh và bí tích Thánh Thể để được kết hiệp với Chúa Giêsu bằng sức sống thánh và tình yêu dâng hiến.
Từng bước đi và sống trong dương gian xin cho chúng con luôn tâm niệm như Chúa mời gọi là muối là ánh sáng.
Ý lực sống:
Chọn con là đèn
soi giữa thế trần.
Làm muối mặn mà
ướp đời dương gian…
Suy Niệm 8: Muối đất và ánh sáng (Mt 5,13-16)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính như bài Tin mừng hôm trước để có thể làm công dân Nước trời, Ngài bảo các môn đệ phải làm chứng cho Ngài: phải trở nên muối ướp mọi người cho khỏi hư hỏng; phải trở nên ánh sáng soi cho mọi người nhìn biết Chúa. Nếu các môn đệ là muối, là ánh sáng mà đã lạt, đã bị che khuất đi, nghĩa là không lo làm gương sáng gương lành, thì sẽ không giúp ích được gì cho ai, mà sẽ ra vô dụng bất lợi nữa.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình người. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho sự sống (Carôlô).
“Chính anh em là muối cho đời”
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khoẻ của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng sát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiêm nhường, yêu thương, tự huỷ, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối, vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta (Ngọc Biển).
“Chính anh em là ánh sáng cho thế gian”
“Thiên Chúa là ánh sáng” (1Ga 1,5), và chỉ có Chúa Giêsu mới dám nhận mình là ánh sáng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ là Kitô hữu chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian. Vì thế, muốn trở thành ánh sáng như Chúa Giêsu, chúng ta phải ở gần Người và kết hợp với Người, bởi “gần đèn thì ta được tỏa sáng”. Chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian khi phản chiếu vinh quang Chúa bằng đời sống chứng nhân:
Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho người chung quanh biết đường về cùng Chúa.
Ánh sáng Tin mừng của Chúa phải được minh chứng qua lối sống của người Kitô hữu.
Chính đời sống của người Kitô hữu phải là bài giảng Tin mừng cho thế gian: hoạt động của người Kitô hữu phải là dịp cho người ta ca tụng Thiên Chúa; vai trò của người Kitô hữu trong thế gian phải như ánh đèn chiếu sáng chân lý của Chúa, Tin mừng của Chúa cho mọi người.
Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian bằng cách nào?
Bằng chứng tá cuộc sống của mình, bằng lời nói ăn khớp với việc làm, không phải vừa có vừa không như thánh tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu thành Côrintô, mà phải luôn rõ ràng, dứt khoát, hoặc có hoặc không, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung tín và chân thật, một khi hiểu được sứ mệnh của mình thì đời sống người Kitô hữu không thể nào là tầm thường hoặc vô ý nghĩa được.
Tất cả mọi công việc dù nhỏ nhặt và tầm thường đến mấy đi nữa cũng không bị mất mát hoặc vô dụng, nhưng sẽ nên như một tia sáng lóe lên xóa tan tăm tối, sẽ như một cây cỏ làm cho mảnh vườn thêm xinh tươi, sẽ như một bông hoa nhỏ làm cho cảnh vườn thêm màu sắc, sẽ như một viên gạch xây dựng toà nhà xã hội và như những giọt nước tụ hợp lại để trở thành biển cả mênh mông.
Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng
Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Hồng y Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh vỡ lọ nước. Vị linh mục tức giận tát cậu bé và thốt lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính toà, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi cái lọ. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ là Đức cha rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói tới Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức cha, chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại (Chờ đợi Chúa).
07/06 Phúc thay !!!.
- Viết bởi Mt. 5, 1-12
Phúc thay !!!.
Thứ Hai tuần 10 thường niên.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Lời Chúa: Mt. 5, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phúc thay
Suy niệm:
Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,
đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,
dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.
Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,
kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,
cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do “nhân” là việc lành phúc đức của họ.
Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng phải do công sức của con người.
Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Phúc thay !!
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su đến khai mạc Nước Trời. Tám Mối Phúc là hiến chương. Đem đến bao niềm hi vọng. Hi vọng cho ta không tìm được ở trần gian này. Sẽ tìm được trong Chúa. Trong Nước Trời. Hi vọng vì chính Chúa Giê-su đã sống lời Người loan báo. Người đã sống nghèo giữa người nghèo. Hiền lành khiêm nhường vượt bậc. Gặp nhiều đau khổ. Khiến phải rơi lệ. Toát mồ hôi máu. Nhưng luôn giữ được tâm hồn trong sạch. Và trái tim xót thương. Cả trên thánh giá. Những người sống theo Chúa Giê-su sẽ đạt tới hạnh phúc như lời Chúa hứa. Nhưng ngay từ bây giờ họ đã trở thành niềm hi vọng cho trần gian. Tìm những giá trị cao hơn của cải vật chất. Không tìm quyền lực thống trị. Nhưng tìm khiêm nhường phục vụ. Biết hi sinh cho chân lý. Biết quên mình. Quan tâm yêu thương phục vụ người khác. Đó là điều thế gian đang thiếu thốn. Đó là phúc cho trần gian.
Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Bảo vệ giáo lý chân chính. Công khai chống lại vua A-kháp. Vì vua nghe lời hoàng hậu Giê-sa-ben. Bỏ Chúa mà thờ thần dân ngoại. Bị vua A-kháp, nhất là hoàng hậu Giê-sa-ben ghét bỏ, loại trừ. Nhưng Ê-li-a luôn được Chúa an ủi. Ông đói mệt. Chúa gửi thiên thần đến nâng đỡ, mang bánh và nước cho ông. Ông ẩn trốn trong hang núi. Chúa cho suối nước chảy. Cho quạ mang bánh hằng ngày. Ông đau khổ vì trần gian bách hại. Nhưng ông được phúc vì Chúa yêu thương. Và ông trở thành phúc lành cho dân Ít-ra-en (năm chẵn).
Chính vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa. Khi cùng Chúa chịu đau khổ. Vì bị thế gian bắt bớ. Chính Chúa sẽ an ủi ta. Và ta cũng hãy noi gương Chúa. Được Chúa an ủi. Ta cũng hãy biết an ủi nhau. Được Chúa chúc phúc. Ta hãy trở thành phúc lành cho anh em. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúc chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Theien Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”. Ta sẽ được phúc trên Nước Trời. Và ngay từ bây giờ ta mang phúc Nước Trời cho người trần gian (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Tám mối phúc thật
Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm tin của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Phúc thay!
Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt. 5, 1-4)
Những lời đầy hy vọng
Phúc thay, ai có tâm hồn nghèo khó! Phúc thay ai hiền lành! Phúc thay ai sầu khổ! Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính!
Người ta thuộc lòng những lời này. Đó là cốt lõi của Phúc âm. Có lẽ Chúa Giêsu đã không bao giờ nói lời đẹp hơn. Chưa có người nào trước Người đã nói những lời chứa chan hy vọng như thế cho những ai phải sống vất vả, chiến đấu, đau khổ, đi tìm sự thiện.
Quả là những lời đầy hy vọng! Một ngày nào đây tẩt cả những ai khốn khổ hằng tin cậy vào Chúa sẽ được hạnh phúc. Một ngày nào đây công bình sẽ được thực thi. Một ngày nào đây đau khổ sẽ biến mất, tiếng khóc sẽ đổi thành niềm vui cho những kẻ tin. Mọi sự sẽ đẹp, sẽ tốt, sẽ ngon lành. Những ai rồi đây sẽ phải vất vả, chiến đấu và đau khổ mà vẫn phó thác ngả mình vào vòng tay yêu thương của Chúa, sẽ hân hoan sống bên Người.
Những lời để sống ngay bây giờ
Nhưng hạnh phúc, phải chăng chỉ ngày mai mới có? Phải chăng đến tận cùng thời gian lời Chúa hứa cho ta hạnh phúc mới được thực hiện? Mà đã là người, ai lại chẳng ước mong khi chết rồi sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc? Chính ngay bây giờ, hôm nay, ngay lập tức mà chúng ta muốn được hạnh phúc.
Hạnh phúc dù phải vất vả, dù bị người ta hiểu lầm và giễu cợt, dù bị ốm đau, dù cuộc sống vất vưởng, có thể được chăng?
Chúa Giêsu trả lời: được chứ. Ngay bây giờ, chính những ai sống theo tinh thần của tám mối phúc, người ấy sẽ hạnh phúc. Nhưng mai ngày họ sẽ hạnh phúc hơn. Và niềm hy vọng này là nguồn vui cho những kẻ ấy ngay từ hôm nay.
Suy Niệm 5: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC (Mt 5, 1-12)
Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C, Thứ Sáu tuần 23 TN, lễ Các Thánh 1/11.
Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc”. Chính vì thế, nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.
Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy, hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?
Hôm nay Đức Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó; hiền lành; chịu đau buồn vì Chúa; khao khát điều công chính và sẵn sàng chấp nhận bị bách hại vì điều công chính đó; hãy thương xót người; có lòng trong sạch; ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước Trời.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta đi trên con đường Chân Phúc đó để được cứu độ, hạnh phúc và bình an. Tuy nhiên, con đường đó chẳng mấy ai đi! Bởi vì nó là con đường “hẹp”, con đường của từ bỏ, của chông gai. Nhưng để đạt được niềm hạnh phúc thực sự, chúng ta không còn con đường nào khác là đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi, bởi lẽ đường rộng và lối thênh thang sẽ dẫn đến đau khổ, bất hạnh và diệt vong.
Lạy Chúa Giêsu, đã biết bao lần chúng con khước từ con đường Chúa vạch ra cho chúng con để được hạnh phúc. Ngược lại, chúng con lại lựa chọn con đường dễ dãi, thênh thang hầu thỏa mã tính xác thịt nơi mình, mà bán rẻ lương tâm, nhân phẩm của chúng con để rồi mất đi hạnh phúc thật.
Xin cho chúng con biết tìm về nguồn cội của hạnh phúc là chính Chúa, biết đi trên con đường “các mối phúc” để dẫn tới hạnh phúc đích thực. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Giái đáp vấn nạn để được hạnh phúc
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tám mối phúc thật của Chúa Giêsu chính là giải đáp cho vấn nạn làm thế nào để được hạnh phúc thật. Con người sẽ được hạnh phúc thật khi tin vào Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cứ theo quan điểm thông thường của người thế gian, tám mối phúc thật mà Chúa đã tuyên bố thật ngược đời, thật khó chấp nhận, bởi loài người vẫn thường nghĩ rằng, để được hạnh phúc, phải thành đạt về tiền bạc, danh vọng và được hưởng lạc thú.
Đã có lúc chính con cũng cảm thấy tám mối phúc thật là những điều ảo tưởng. Hoặc chính con cũng lầm tưởng rằng Chúa ca tụng sự nghèo túng, và nếu sống theo lời Chúa dạy, con sẽ thành một người bạc nhược, tiêu cực và u sầu.
Lạy Chúa, Thánh Kinh cho con hiểu rằng: kẻ nghèo là kẻ coi Thiên Chúa đáng trọng hơn mọi sự ở đời. Họ không cậy dựa vào sự gì mà chỉ cậy dựa vào một mình Thiên Chúa thôi. Trong lòng của họ, Thiên Chúa được đặt chỗ cao nhất.
Vâng, lạy Chúa, xin cho con hiểu được chân lý cao siêu đó. Xin cho con biết noi gương Chúa, cảm nghiệm được cái phúc của kẻ mất mọi sự ở đời, để được chính Chúa là sự giàu sang hạnh phúc đích thực. Xin lấy đi trong trái tim con những ham muốn vật chất, những ích kỷ nhỏ nhen, những hận thù ghen ghét, và lấp đầy trái tim con bằng lòng khiêm nhường nghèo khó, bằng lòng bác ái vị tha và một tình yêu chân thật.
Lạy Chúa, Chúa chính là gia nghiệp và là hạnh phúc của con. Amen.
Ghi nhớ : “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Suy Niệm 6: Đặt niềm tin cậy vào Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ở Hoa Kỳ, hằng năm, những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…
Hạnh phúc là điều ai cũng mong tìm và đạt đến trong hành trình của cuộc sống như triết gia Aristốt đã nói xa xưa: “Hạnh phúc là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta đường tới hạnh phúc qua tấm bản đồ tám mối phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian trao cho con người tấm bản đồ để dẫn tới hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh.
Suy niệm
Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi vào đầu sứ vụ của Ngài đã dẫn nhân loại đến với hạnh phúc bằng tám phúc. Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc, trái lại là những khổ đau mà con người luôn tránh. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: họ hạnh phúc thật.
‘‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước Trời là của họ”. Người mang tinh thần nghèo khó là ý thức thân phận thiếu hụt của mình nên sẵn sàng mở tâm hồn để Thiên Chúa làm tràn đầy ân sủng. Chính trong thân phận nghèo, họ cảm nhận được sự thiếu thốn và sẵn sàng chia sẻ với anh em cùng khổ.
‘‘Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”. Hiền lành và khiêm nhường trong lòng, đó là những gì Chúa Giêsu đã sống và kêu gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29).
‘‘Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”. Trong đau khổ con người tham dự vào cuộc thương khó của Đức Kitô, Đấng chia sẻ với những bước đường đau khổ của kiếp người. Tình trạng khổ dưới mắt người đời là vô phúc nhưng được Thiên Chúa chúc phúc và cho tham dự vào cuộc khổ nạn của Thiên Chúa, cho nên chính họ được tham dự vào hạnh phúc vinh quang trong Đức Kitô Phục sinh.
‘‘Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”. Khao khát nên người công chính là khao khát chính Thiên Chúa và ai trở nên người công chính sẽ được Thiên Chúa bảo vệ: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa (Kn 3,1), hơn nữa: “Thiên Chúa yêu người công chính” (Tv 145).
‘‘Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Như Chúa Giêsu đã mang trái tim nhân ái xót thương tất cả mọi người, ngay cả những người tội lỗi, Ngài dạy con người lòng xót thương tha thứ trong Kinh Lạy Cha (x. Lc 11,4).
‘‘Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Tâm hồn trong sạch được khắc ghi Luật Chúa (x. Tv 40, 9). Yêu mến Chúa (x. Mt 22,37; Mc 12,30; Lc 10,27). Được gặp Chúa thổ lộ tâm tình như người yêu với người yêu (x. Hs 2,16-18; 21-22).
‘‘Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Người xây dựng hòa bình trên trái đất là đang tham gia thiết lập vương quốc hòa bình mà Thiên Chúa thiết lập Nước Trời bắt đầu nơi trần gian.
‘‘Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì nước Trời là của họ”. Chính trong lúc bị bách hại là cùng chịu khổ nạn và cùng được phục sinh vinh quang với Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: “…vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17).
Hạnh phúc được tính bởi tinh thần với sức mạnh, chúng ta tranh đấu với những vấn đề cuộc sống. Hạnh phúc được sinh ra trong lúc chúng ta đặt trong tim mình những công trình và thực hiện với sự vui mừng và hoan hỉ trong Thiên Chúa bất chấp mọi hoàn cảnh.
Ý lực sống :
‘‘Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 40,5).
Suy Niệm 7: Tám mối phúc thật (Mt 5,1-12)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Hôm nay Chúa Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó, hiền lành, chịu đau buồn vì Chúa, khao khát điều công chính và sẵn sàng nhận bị bách hại vì điều công chính đó, hãy thương xót người, có lòng trong sạch, ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước trời.
Hạnh phúc! Một điều mơ ước muôn thuở của con người. Tuy người ta chưa đồng ý với nhau về một định nghĩa của hạnh phúc, nhưng mọi người đều nỗ lực tìm đến hạnh phúc bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ giá nào. Giấc mơ lớn nhất của con người là hạnh phúc. Từ xa xưa, triết gia Aristote đã cảm nghiệm được điều này khi ông nói: “Hạnh phúc là một cái mà tất cả mọi người đều tìm kiếm”. Còn triết gia Blaise Pascal bảo rằng: “Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người thắt cổ tự tử”.
Có thể qui tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:
Mặt tiêu cực: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này... (nói cách khác: không màng đến nước trần gian).
Mặt tích cực: chỉ ước ao sống tốt theo thánh ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành Thiên Chúa (nói cách khác: được sống trong Nước trời).
Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa (Lm Carôlô)
Vậy hạnh phúc là gì? Thực ra chưa có một định nghĩa nào về hạnh phúc khả dĩ thúc đẩy mọi người phải công nhận, nhưng xét cho cùng, đối với chúng ta thì hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.
Con người trần thế tìm đủ mọi cách để dành cho được giàu sang, quyền thế, cho dù phải gây thù chuốc hận, cho dù phải gây ra những cuộc chiến tranh tương tàn khốc hại... Đang khi đó Chúa Giêsu lại cho nghèo là một mối phúc. Chắc chắn Ngài không ủng hộ thứ nghèo làm giảm phẩm giá con người. Ngài muốn cho con người có được sự giàu sang vĩnh cửu: được cả Nước trời làm gia nghiệp, chứ không phải thứ giàu sang chỉ đem lại cho con người niềm hạnh phúc chóng vánh ở đời này. Để đạt được thứ giàu sang vĩnh viễn ấy phải biết làm cho mình nghèo đi những thứ của cải tạm bợ và giả trá. Đó là “nghèo”: - nắm giữ chức quyền nhưng không tham quyền cố vị, trái lại phục vụ trong khiêm tốn; - làm ra của cải vật chất nhưng không bị lệ thuộc vào chúng, trái lại biết “hằng ngày dùng đủ” và cảm thông chia sẻ với nhau trong tình anh em. Nghèo như thế, chiến tranh, hận thù mới biến mất, và thế giới này chỉ có tình mến chan hòa. Nghèo như thế mới là hạnh phúc (5 phút Lời Chúa).
Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về quê hương đích thực là Thiên quốc. Tuy nhiên, niềm tin tưởng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Đây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Quỷ dữ cũng khát khao hạnh phúc
Một hôm khi cầu nguyện, một linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:
‘‘Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: đâu là hạnh phúc nhất?’’
‘‘Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là con số không.’’
‘‘Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng?’’
‘‘Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hoả ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi!’’
Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc (Chờ đợi Chúa).
06/06 Bàn tiệc Thánh Thể.
- Viết bởi Mc 14, 12-16. 22-26
Bàn tiệc Thánh Thể.
CHÚA NHẬT tuần 10 Thường Niên năm B – MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ. Lễ Trọng. Lễ HỌ.
"Này là Mình Ta. Này là Máu Ta".
Lời Chúa: Mc 14, 12-16. 22-26
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: 'Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?' Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta".
Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ – B
Lời Chúa: Xh 24,3-8; Dt 9,11-15; Mc 14,12-16.22-26
1. Vì muôn người
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm
Đại lễ Vượt qua gần đến.
Chúa Giêsu ước ao ăn lễ Vượt qua lần cuối với các môn đệ
trước khi chịu khổ hình (Lc 22,15).
Ngài đã tiên liệu nơi tổ chức bữa tiệc.
Một căn phòng rộng rãi trên lầu,
đã chuẩn bị sẵn sàng.
Các môn đệ chỉ phải lo những gì cần cho bữa ăn:
bánh không men, rượu, chiên và rau đắng.
Thế nhưng chỉ mình Chúa Giêsu biết
Ngài sẽ làm gì trong bữa tiệc Vượt qua này.
Bữa tiệc cuối là thánh lễ đầu tiên của Chúa.
Vẫn bánh đó, vẫn rượu đó trên bàn tiệc.
Nhưng đối với các môn đệ, thật là bất ngờ.
Khi Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho họ và nói:
“Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”.
Ngài còn mời họ uống rượu và nói:
“Đây là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra vì muôn người.”
Như thế bánh rượu đã được biến đổi tận căn
để trở thành Mình Máu Chúa.
Ăn bánh và uống rượu
trở nên hành vi thông hiệp vào cái chết sắp đến của Thầy.
Ngay hôm sau, trên núi Sọ, máu Chúa đã đổ,
và tấm thân Chúa bị nát tan.
Hy lễ núi Sọ chỉ diễn ra một lần,
nhưng ảnh hưởng trên cả dòng lịch sử.
Bữa tiệc ly chỉ diễn ra một lần,
nhưng Chúa muốn nó được lặp lại cho đến tận thế:
“Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc ly,
vị linh mục lặp lại cử chỉ và lời nói của Chúa.
Mỗi thánh lễ là một tưởng nhớ hy tế thập giá.
Cái chết cứu độ năm xưa, nay trở thành hiện tại
để đem đến sự sống cho tín hữu thuộc mọi thời.
Rước lễ là gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết,
là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng.
Ta được mời gọi sống như Đấng ta lãnh nhận,
nghĩa là bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và hiến trao.
Ta không thể tiếp tục sống ích kỷ và khép kín,
khi ngày ngày rước lấy Đấng đã chết vì muôn người.
Rước lễ không phải chỉ là nhận Chúa vào miệng,
mà là để Chúa chiếm lấy mọi ngõ tối của đời mình,
nhờ đó đời ta được hoàn toàn biến đổi.
Nhiều khi có một khoảng cách quá xa
giữa thánh lễ và đời thường của người Kitô hữu.
Thực sự gặp Chúa dưới hình bánh rượu
sẽ đưa ta gặp Chúa nơi những người nghèo khổ,
vì họ cũng là sự hiện diện thật sự của Chúa (x. Mt 25, 35).
Mặt khác, càng say mê phục vụ con người,
ta càng cảm thấy nhu cầu rước lấy Đấng phục vụ.
Khi dự lễ, bạn hãy đem theo hy lễ đời mình
để kết hiệp với Hy lễ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ:
Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ vì sợ mắc tội. Họ chán “xem lễ”. Theo ý bạn, những nguyên nhân nào đưa đến thái độ này? Có cách nào giải quyết không?
Rước lễ có thể trở thành một thói quen nhàm chán, vô nghĩa, nặng phần hình thức. Theo ý bạn, làm thế nào để việc rước Chúa thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta?
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con một tâm hồn
theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh:
Một tâm hồn trong trắng,
cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn
để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé,
nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ,
không biết đến những phức tạp của ích kỷ,
và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ,
hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình
không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó,
chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân,
quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa,
và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.
2. Ở lại với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mc 14: 12 -16.22.26; Với Chúa Giêsu Chúng ta lại thấy nó kì kì… nó khác với mọi người lắm! tại sao Chúa lại không hóa thân làm viên kim cương hay là thành một mảnh vàng hay là thành tiền để lại gọi là của hồi môn cho con cháu. Nhưng mà rồi Chúa Giêsu lại để lại cho trần gian này chỉ với tấm bánh...
Chắc có lẽ, mỗi người chúng ta đã hơn một lần nghe cái câu nói mà người ta có thể là đùa, mà có thể là thật:
Tiền là tiên là Phật,
là sức bật của lò xo.
Là sức đo của loài người.
Là tiếng cười của tuổi trẻ,
là sức khỏe của người già,
là cái đà của Danh Vọng
là cái lộng để che thân,
là cán cân của Công Lý.
Mà quả thật, tiền nó gắn bó với đời sống con người ghê lắm! và ai cũng cần tiền hết. Và chúng ta thấy thường thường:
Cha mẹ đi xa, về già, để lại cho con cháu gia tài là tiền bạc. Có thể quý hơn là vàng, có thể quý hơn nữa là kim cương… Thường thường cha mẹ đi xa, hay chết thì để lại cho con cái mình những thứ đó, gọi là vốn liếng để lại cho con cháu mình.
Với Chúa Giêsu Chúng ta lại thấy nó kì kì… nó khác với mọi người lắm! tại sao Chúa lại không hóa thân làm viên kim cương hay là thành một mảnh vàng hay là thành tiền để lại gọi là của hồi môn cho con cháu. Nhưng mà rồi Chúa Giêsu lại để lại cho trần gian này chỉ với tấm bánh. Với tấm bánh rất là nhỏ bé, rất là bình thường, thế nhưng rồi tấm bánh đó lại mang một chiều kích sâu xa, mang một ý nghĩa rất thiết thực trong đời sống của con người.
Bởi lẽ đơn giản, thịt và máu là hai yếu tố làm nên căn bản thân xác của một con người. Thịt và máu cũng là biểu tượng của sự gắn bó và hết sức tinh tế, hết sức nhạy cảm, hết sức ý nhị;
Trong cái bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể, đồng nghĩa rằng: Chúa Giêsu đã làm cho bánh trở nên thịt của Ngài và rượu trở nên máu của Ngài. Và chúng ta vẫn thường gọi đó là bí tích tình yêu, bí tích cao siêu. Chúa Giêsu muốn ở lại với nhân loại với con người, để Ngài cùng với con người chịu đựng cái kiếp người.
Và đặc biệt hơn nữa, qua cái bí tích Thánh Thể, qua cái Bí tích tình yêu này, Chúa cho phép con người được gắn bó với Chúa hơn. Nhờ vào việc con người ăn và uống thịt máu Người, chính là lương thực thần linh để vừa ban sức sống thiêng liêng cho con người ở tại thế, khi Giêsu đã về trời; và vừa bảo đảm cho họ có sự sống đời đời.
Và chúng ta thấy hình ảnh của Tấm Bánh Giêsu đã được loan báo ở trong Cựu Ước. Khi dân đi trong sa mạc đói khát manna chính là hình ảnh của bí tích Thánh Thể mà Chúa sẽ thiết lập trong bữa Tiệc Ly.
Nếu như người Do Thái còn in đậm trong trí nhớ phép lạ manna, thì Chúa Giêsu quả quyết với họ rằng chính là Chúa Cha ban cho họ lương thực huyền nhiệm đó.
Đồng thời Chúa cũng nêu lên sự khác biệt giữa manna và Bí Tích Thánh Thể. Manna chỉ là lương thực để nuôi dưỡng thân xác, còn Thánh Thể chính là lương thực thần liêng để mà nuôi sống tâm hồn. Manna là lương thực của đời này, mau qua chống tàn, còn Thánh Thể thì bảo đảm cho con người được sự sống đời sau.
Và rồi trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã cưu mang dân của Ngài và dẫn dân ra khỏi Ai Cập. Để chứng tỏ lòng thành tín của Chúa đối với dân, thì Chúa đã ban Bánh Thiên Chúa làm của ăn cho dân (Xh 16, 16)
Không chỉ làm lương thực đi đường, mà còn qua miệng của Môsê Thiên Chúa muốn gửi đến cho nhân loại, cho con cái của ngài một thông điệp là Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa đã cho mưa manna từ trời xuống mỗi ngày, để cha ông họ ăn được thỏa thích. Và đó là lý do mà tại sao người ta nói là: “bánh Thiên thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25)
Và rồi, dẫu rằng manna từ trời xuống nuôi dân trong sa mạc hay bánh Thiên thần mang đến cho Elia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm 40 năm nữa... Nhưng rồi những thứ bánh đó cũng qua đi. Và những kẻ ăn cũng phải đói và phải khát.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta, bánh bởi trời xuống chính là Chúa. Chúa đã đến trong trần gian này, để làm no thỏa cái đói tinh thần của con người. Ai ăn chính Người sẽ được sống muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời. Chính Ngài đã xác nhận: “TA là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.”
Thật hạnh phúc, khi mà người Kitô Hữu chúng ta đặc biệt hơn các tôn giáo khác, khi họ tham dự nghi lễ của họ thì họ ra về tay không, còn mỗi người chúng ta khi tham dự thánh lễ chúng ta được cùng ăn, cùng uống: Thịt và Máu Chúa.
Và cái dấu chỉ Mình và Máu Chúa, cho chúng ta thấy cái dấu chỉ của sự hiệp nhất, sự yêu thương. Hiệp nhất với nhau như là máu với thịt.
Mối hiệp thông này có 2 chiều kích, hiệp thông này có chiều dọc, và hiệp thông này có chiều ngang.
Hiệp thông này có chiều dọc đó là gắn bó với Chúa Giêsu để nhờ Người mà ta gặp được Chúa Cha.
Hiệp thông với chiều ngang đó là chúng ta cảm thông, chúng ta liên đới với anh chị em đồng loại của chúng ta. Và đặc biệt, thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côrintô ngài nhắc rằng:
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta cùng chia sẻ tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, nhưng chúng ta chỉ là một thân thể” . Qua hình ảnh một thân thể, vị tông đồ muốn nhắc chúng ta sống liên kết và yêu thương với nhau trong cùng một Tấm Bánh Giêsu. Lương thực ấy, kết hợp chúng ta thành một thân thể là Giáo Hội.
Và đặc biệt người Việt Nam chúng ta nói: «Máu chảy ruột mềm». Hình ảnh này muốn nói lên tình tương thân, tương ái giữa mọi thành phần trong Hội thánh với nhau. Và vươn cao hơn nữa, xa hơn nữa, rộng hơn nữa đó là tình đồng loại để cứu giúp những ai hoạn nạn khổ đau.
Và rồi Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta được lãnh nhận nơi CHÚA đó. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta, cũng trở nên tấm bánh như mọi người, như Chúa Giêsu; nghĩa là chúng ta phục vụ và yêu thương anh chị em đồng loại.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy trở nên bánh cho vợ của mình. Hãy trở nên bánh cho chồng của mình. Hãy nên bánh cho con của mình, và hãy nên bánh cho cha mẹ của mình.
Không cần đi làm bác ái ở đâu xa! không cần đi làm từ thiện ở đâu xa cả! Ngay trong chính gia đình của chúng ta.
Có khi chúng ta sống với một người mẹ cô đơn, đau khổ nhưng chúng ta có bao giờ biết rằng mẹ của chúng ta cô đơn?
Có khi chúng ta sống với một người bố trong nhà, trầm cảm, bởi vì bố không có khả năng lao động, bởi vì bố không có khả năng làm việc. Nhưng mà ta có cảm thức được sự cô đơn trầm cảm của bố, để sẻ chia yêu thương bố mình hay không?
Hay ngay trong gia đình của chúng ta có đứa em, nó bị khuyết tật, nó bị thiểu năng . Nó cần cái sự chung chia, nó cần cái tình thương của chúng ta lắm! Nhưng rồi chúng ta đã không cảm nhận được cái tình thương đó, và chia sẻ cho người thân trong gia đình của chúng ta.
Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ là mỗi lần chúng ta được biến đổi, được kết hợp với Đức Kitô và được biến đổi nên một với Đức Kitô. Sống cái tình yêu đó, và để tình yêu đó, được sống động trong cuộc đời của chúng ta.
Tình yêu mà Chúa mời gọi thiết thực nhất, là chúng ta cũng phải trở nên TẤM Bánh cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Đặc biệt, chúng ta thấy ngày 19 tháng 11 năm 2017, Đức thánh cha Phanxicô đã khởi xướng ngày Thế giới người nghèo lần thứ I và chính Ngài đã mở tiệc để mời những người nghèo. Và nhiều giáo phận khác trong đất nước Việt Nam của chúng ta, cũng hưởng ứng cái lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô để mà mở tiệc chia sẻ với những người nghèo. Và rồi Chính Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài huấn từ của ngài, ngài nói rằng: chính người nghèo là thẻ thông hành thiên đàng’ của chúng ta .
Xung quanh chúng ta có thể là người nghèo vật chất, nhưng cũng có thể là người nghèo về tinh thần. Có thể người nghèo về niềm tin. Mà chúng ta là những người may mắn hơn, có thể chúng ta đầy đủ hơn người khác, chúng ta khá hơn người khác. Nhưng mà liệu rằng chúng ta có mở mắt ra để nhìn ra người nghèo ngay trước mắt chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta.
Chúng ta được mời gọi để sẻ chia, để mà chung chia với những người nghèo khổ xung quanh chúng ta. Có thể chỉ bằng một lời nói yêu thương, có thể bằng một lời cầu nguyện. Hay là thiết thực nhất chúng ta có thể chia sẻ một bữa ăn nho nhỏ cùng với những người nghèo chung quanh chúng ta. Có khi chúng ta đi ăn tiệc, chúng ta gặp phải những con người nghèo lê lết bán vé số, xin ăn nhưng mà chúng ta vẫn làm ngơ. Bởi vì chúng ta không cảm thương được người nghèo.
Nói tới đây, con lại nhớ tới cái câu chuyện rất là buồn cười. Nhiều khi mình xài tiền nó buồn cười lắm! Đi vào nhà hàng ăn 5,7 trăm, 1 triệu dư 3, 4 chục ngàn, làm như sang lắm! không lấy lại, bỏ qua. Còn khi đi mua đồ, cái món gì đó, có nhiều khi nó chỉ là vài ngàn đồng thôi, mà mình lại bớt xén với những cái người buôn gánh bán bưng đó! Nhiều khi cái cảnh đó thấy rất nghịch lý và rất là buồn cười.
Bớt đi, bớt đi cái tính toán, bớt đi cái thiệt hơn.
Nhiều khi ăn uống xa hoa phú quý thừa mứa rồi cũng chẳng có ngại rằng là tiền dư tiền thối 5, 7 chục. nhưng mà đối với người nghèo trả giá với họ có đôi khi vài đồng bạc, vài ngàn bạc .
Chúng ta sống yêu thương, chúng ta sống bác ái đi. Những người buôn gánh bán bưng , họ nghèo, họ vất vả lê ở ngoài đường, họ đi kiếm cơm mà trong khi đó, chúng ta cũng hẹp hòi với họ lắm!
Đó là cái nghĩa cử rất là gần với cuộc đời của chúng ta những việc làm rất thật và rất gần với chúng ta.
Chúa Mời gọi chúng ta hãy yêu thương người nghèo. Chúng ta hãy trở nên tấm bánh cho người, khi mà chúng ta càng chia sẻ chúng ta lại càng thấy mình được hạnh phúc.
Có một gia đình kia, trong ngày thế giới người nghèo, hai vợ chồng 3 đứa con dẫn nhau đi xuống thăm mấy cái mái ấm nghèo ở Củ Chi. Tối về anh ta mới nói rằng là: Ồ, khi mà chúng con đưa cho con cái chúng con đi thăm người nghèo. Chúng con cảm thấy mình hạnh phúc hơn, được may mắn hơn, được chia sẻ hơn. Thế đó, tất cả những cái kinh nghiệm sống trong cuộc đời của chúng ta, khi chúng ta biết cho đi như Chúa Giêsu TẤM bánh đã để cho mọi người đến, và mọi người ăn trên cái cuộc đời của Chúa Giêsu, để rồi cảm nhận được cái tình yêu Giêsu đó! Và mang chung chia cái tình yêu đó cho những người chúng ta gặp gỡ.
Ngày hôm nay, chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Xin cho chúng ta cảm nghiệm được tính chất thiêng liêng và lương thực thần linh nơi Bí Tích Thánh Thể.
Để mỗi ngày mỗi ngày cố gắng chúng ta đến tham dự thánh lễ , chúng ta rước Chúa vào trong cuộc đời của chúng ta. Và khi chúng ta với Chúa nơi một thì cuộc đời của chúng ta sẽ thấy nhẹ nhàng lắm! Khi chúng ta với Chúa thành một rồi, thì tất cả mọi chuyện của ta đều là của Chúa, mọi chuyện của Chúa đều là của ta.
Và khi đó ta lại được mời gọi lên đường sống, loan báo Tin Mừng tình yêu, bằng cách chung chia hy sinh cho vợ, hy sinh cho chồng, hy sinh cho con. Và đặc biệt, cứ về nhà suy nghĩ đi! Khi chúng ta sống, chúng ta biết sẽ chia, chúng ta cho những người xung quanh chúng ta, thì khi ấy chúng ta lại nhận lại nhiều hơn, nhận lại tình thương của Chúa nhiều hơn.
Xin Chúa đến và ở lại với chúng ta, xin cho chúng ta luôn luôn kết hợp với Đức Giêsu Kitô, trong Bí tích Thánh Thể để chúng ta được nên một với Chúa. Và khi nên một với Chúa, chúng ta cảm thấy cuộc đời của chúng ta thư thái và bình an. Amen.
3. Đây là Mình Thầy. Đây là Máu Thầy
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Lễ Chúa Ba Ngôi nhắc chúng ta đến tình yêu của Ba Ngôi đối với chúng ta. Lễ Mình và Máu Thánh Chúa đưa chúng ta vào tận chiều sâu của tình yêu đó. Tình yêu đã chấp nhận trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Một điều kỳ diệu không thể hiểu được. Nhưng trước khi là của ăn, Chúa Giêsu là một của lễ.
Những bài Kinh Thánh chúng ta nghe đọc hôm nay đều nhắc đến Máu Giao Ước. Bài trích sách Xuất Hành nhắc đến Máu Giao Ước trên núi Xinai. Bài trích thư Do thái cũng nhắc đến máu Chúa đổ ra, hiệu lực hơn máu chiên bò: “Máu của Chúa thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống”. Tất cả các bài tường thuật của các thánh sử cũng đều nói đến Mình thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra…
Điều đó cho chúng ta thấy Thánh Thể trước tiên là một hy tế cứu chuộc. Trước khi là của ăn, Thánh Thể mang một chiều kích lớn và quan trọng hơn, đó là chiều kích hiến tế.
Tường thuật của thánh Maccô quá ngắn gọn không ghi đủ lời truyền phép của Chúa, nhưng nhấn mạnh đến tính cách hy tế của phép Thánh Thể. Khi trao chén. Maccô chỉ nói vắn tắt: “Đây là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước đổ ra vì muôn người”. Và Ngài thêm: “ Thầy bảo thật anh em, chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nầy nữa cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”.
Chúa muốn nói gì?
Chắc hẳn Ngài muốn nói đến cái chết của Ngài đang gần kề và cũng muốn nói đến ngày chung thẩm khi Ngài đến lại trong vinh quang.
Chúng ta cũng thấy trong các lời tường thuật của các thánh sử, những cử chỉ của Chúa được kể lại một cách hết sức trang trọng và tỉ mỉ: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông…” “Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông…” Tại sao lại tỉ mỉ như thế, đang lúc những cử chỉ nầy là những cử chỉ thông thường của một ông chủ gia đình Do thái trong bữa ăn?
Những cử chỉ thông thường và hằng ngày nầy hôm nay mang một tầm vóc khác, là tầm vóc hy tế. Đây là động tác của một tư tế trên bàn thờ. Giây phút đó, Chúa Giêsu được nhìn dưới khía cạnh tư tế. Ngài là tư tế và là của lễ: “Nầy là Mình Thầy, sẽ bị nộp. Đây là chén Máu Thầy sẽ đổ ra”.
Mình và Máu ở đây không chỉ là một phần mà là toàn vẹn con người. Ngài đã nói đến cái chết đau đớn đang chờ đợi Ngài. Nơi bàn Tiệc Ly, Ngài đã chết rồi trước khi chịu treo trên thập giá. Thánh Gioan-Phaolô II gọi “Thánh Thể là mầu nhiệm vô biên, mầu nhiệm của lòng thương xót. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy thực sự một tình yêu “đến tận cùng”, một tình yêu không còn ranh giới”.
Thánh Thể cũng là một hy tế, vì Chúa Giêsu dâng mình cho Cha Ngài, vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Nhờ đó, chúng ta được cứu thoát.
Thánh Thể là một hy tế, nhưng đồng thời là một của ăn. Chúa Giêsu đã muốn như thế. Ngài đã dùng một tấm bánh, một chút rượu nho và biến chúng thành thịt máu Ngài. Ngài dùng một thực thể vật chất để biến nó thành một thực thể thiêng liêng. Thật kỳ diệu! Chỉ có Thiên Chúa toàn năng mới làm được một việc lạ lùng như thế. Thánh Thể có thể nói là chóp đỉnh của quyền năng Thiên Chúa. Ngài không thể làm một việc gì lạ lùng hơn. Chúng ta có hiểu được không?
Đứng trước điều huyền diệu ấy, chúng ta chỉ có một cách là tôn thờ. Chúa làm công việc nầy để làm gì? Chỉ vì yêu thương chúng ta. Có ai yêu chúng ta và có thể làm được một điều huyền diệu như thế không? Và điều đó không thể gọi bằng từ gì khác mà chỉ gọi là tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể yêu đến như thế vì Ngài chính là Tình Yêu.
Tại sao Ngài muốn trở thành của ăn? Khi chúng ta ăn lấy Chúa, chúng ta nghĩ gì? Có những người ăn lấy Chúa như ăn một miếng bánh mà không hiểu biết gì. Chắc chúng ta không đến nỗi vô tâm như thế, nhưng chúng ta có thực sự biết mình làm gì khi nhận lấy Chúa trong môi miệng chúng ta, trong thân xác chúng ta?
Chúng ta ăn lấy Chúa chúng ta! Thiên Chúa toàn năng đã thành một của ăn! Làm sao có thể hiểu được? Chúng ta chỉ tin thôi, tin tuyệt đối. Chúa đã trở thành nhỏ bé đến độ chỉ còn là một tấm bánh! Đây là một thử thách cho đức tin, đồng thời cũng là một hồng ân vô giá.
Cứ vững tin vì đây là một hành động của Thiên Chúa toàn năng. Ngài làm những điều mà chúng ta không thể hiểu được. Dù xác thịt chúng ta cảm thấy khó tin, tinh thần chúng ta vẫn kiên vững. Xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra kho tàng tình yêu vô giá chứa đựng trong tấm bánh nhỏ đó.
Chính Chúa đã có sáng kiến dùng miếng bánh và rượu nho để thực hiện ý định tình yêu của Ngài. Ngài muốn yêu chúng ta đến tận cùng, đến nỗi không ai có thể yêu như Ngài được, nghĩa là nên một xương một thịt với chúng ta. Điều mà tình yêu loài người vẫn ước mơ mà không thể thực hiện: “Ai ăn mình Ta và uống máu Ta, người ấy sống trong Ta và Ta sống trong người ấy”. Ngài muốn sống trong mọi người để yêu mến Cha Ngài trong mọi người, để mọi người yêu mến Cha Ngài như Ngài. Ngài muốn tiếp tục làm việc, phục vụ và đau khổ trong mỗi người chúng ta, sống cuộc sống trần thế của chúng ta, để chúng ta hoàn toàn là một với Ngài như thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống , nhưng không phải tôi mà là Chúa Giêsu sống trong tôi”. Ăn lấy Ngài là trở nên một Giêsu mới. Điều nầy không chỉ là một mộng mơ mà là một thực tế. Thánh Phaolô và tất cả các thánh đã thành những Giêsu mới giữa trần gian. Các ngài đã sống mầu nhiệm Thánh Thể đến mức tối đa. Ăn lấy Chúa, chúng ta được thần hóa, hay đúng hơn được Kitô hóa mà chúng ta không hay biết. Phải liên lỉ kết hợp với Ngài, hành động như Ngài, yêu mến như Ngài.
Hơn nữa Chúa Giêsu muốn biến chúng ta thành thân thể của Ngài. Ngài sống trong mọi người và mọi người sống trong Ngài. Như thế, chúng ta trở thành Chúa Giêsu Toàn Thể là Giáo Hội. Giáo Hội không phải là một nhóm người liên kết với nhau bằng một dây liên kết nào đó, mà là Thân Thể Chúa Kitô, và mỗi người chúng ta là một thành phần. Thánh Thể biến chúng ta thành chi thể của Chúa.
Chúng ta ăn lấy Chúa là để nên một với Ngài thì đồng thời chúng ta cũng nên một với anh em. Bác ái Kitô giáo bắt nguồn từ đó. Chúng ta không xem người khác là một đối thủ hay một người xa lạ, mà là thành phần của Chúa Giêsu. Yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta không chỉ nghĩ đến Ngài mà nghĩ đến mọi người, chúng ta mới đủ can đảm yêu thương, phục vụ. Đó là ước muốn thâm sâu của Chúa. Ngài đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho họ nên một như Cha với Con là một”. Điều đó Ngài đã thực hiện bằng chính thịt máu Ngài, bằng cách trở nên của ăn cho chúng ta.
Nhưng chúng ta có thực hiện được ước mơ của Ngài không? Chúng ta vẫn còn ươn ái, chưa biết yêu thương. Chúng ta chưa cố gắng đủ. Vì thế, chúng ta càng phải ăn lấy Chúa thường xuyên, phải tự nuôi mình bằng của ăn thần linh đó vì chúng ta cần được thanh tẩy, được nâng đỡ và đổi mới để từ từ thực hiện ước mơ tình yêu của Ngài.
Hôm nay, chúng ta sẽ ăn Chúa với những tâm tình nào? Tình yêu Chúa đã quá rõ, chỉ có chúng ta không đáp lại với tất cả thiện chí thôi. Chúng ta vẫn còn thiếu sót. Xin Chúa giúp chúng ta càng ngày càng ý thức hơn và đáp trả một cách nhiệt tình hơn. Tình yêu chỉ đáp trả bằng tình yêu. Ăn lấy Ngài, chúng ta nguyện sống với Ngài mật thiết hơn, đậm đà hơn để công ơn Ngài không trở nên vô hiệu.
4. Bàn tiệc Thánh Thể
Tin Mừng thuật lại một bữa ăn. Đó là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu, được gọi là bữa Tiệc Ly, lại đúng vào tiệc Vượt qua, kỷ niệm biến cố Chúa giải thoát Israel ra khỏi đất Ai Cập. Trong đời thường, chúng ta đã từng ăn uống. Cơm nhà cơm khách, ăn cưới ăn giỗ. Ăn với gia đình hoặc vò võ một mình, cơm hàng cháo chợ. Cỗ bàn thịnh soạn hay dưa mắm cho qua bữa.
Chúa Giêsu cũng đã ăn uống. Ngài dự tiệc cưới tại Cana. Ngài nhận lời đến ăn cơm tại nhà Matthêu và Giakêu. Ngài dùng bữa với chị em Maria, Martha và Lagiarô tại Bêtania. Và chắc chắn Ngài cũng ngồi ăn với dân chúng trong biến cố bánh hoá nhiều. Tất nhiên, Ngài cũng thường xuyên ăn uống với nhóm 12. Và thậm chí, Ngài còn dùng bữa với những kẻ tội lỗi, khiến cho bọn biệt phái phải lên tiếng: Tại sao thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và phường tội lỗi như vậy.
Ăn để nuôi thân. Cơm rau cá thịt bồi bổ thân xác, tạo sinh lực. Và hơn thế nữa, bữa ăn còn là dịp để gặp gỡ, cảm thông và chia sẻ tâm tình như ăn cưới, ăn khao hay để tưởng nhớ một người đã khuất như ăn giỗ. Trong bữa ăn, thân xác tiếp nhận thực phẩm, còn tinh thần được hưởng niềm vui hội ngộ: cha mẹ con cái gặp nhau, họ hàng bè bạn gặp nhau. Có thức ăn được bày biện cụ thể trên mâm, nhưng cũng có thức ăn vô hình là những vui buồn được mọi người chia sẻ, cảm thông. Và như thế, bữa ăn nào cũng có hai loại thực phẩm. Hữu hình và vô hình. Hữu hình đó là cơm rau cá thịt. Còn vô hình đó là những nỗi niềm, những cảm xúc, những kỷ niệm.
Trong bữa Tiệc Ly cũng có hai loại thức ăn. Thức ăn hưu hình là một ít rau, một ít bánh không men và một ít rượu. Còn thức ăn vô hình đó là kỷ niệm về cuộc vượt qua khỏi kiếp sống nô lệ của dân Do Thái, là giao ước Thiên Chúa đã ký kết với dân Ngài, là ký ức về những tháng ngày Chúa Giêsu sống với các môn đệ; là niềm cay đắng khi biết có một môn đệ phải bội Ngài, là cuộc vượt qua do chính Ngài thực hiện qua cái chết.
Mọi bữa ăn trước đây, Ngài đã ngồi đồng bàn và trở thành đồng bạn. Đồng bàn vì cùng ăn uống những thực phẩm được dọn ra. Đồng bạn vì Ngài cùng hiệp thông và chia sẻ mọi nỗi vui buồn của họ. Còn trong bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu đồng bàn với nhóm 12 và trở nên bạn hữu của họ. Và hơn thế nữa còn trở nên kẻ hầu người hạ khi cúi xuống rửa chân cho họ.
Tình yêu vào giây phút ly biệt này đã thôi thúc Ngài đưa ra lời cam kết bằng chính mạng sống của Ngài, mạng sống của Thiên Chúa làm người. Lời cam kết này được biểu lộ bằng máu sẽ đổ ra ngày hôm sau trên đỉnh đồi Canvê. Đồng thời qua bữa tiệc này Ngài còn bày tỏ ước nguyện của mình: Đó là Ngài sẽ vượt qua mọi giới hạn của thân phận con người để đi vào cõi sâu xa bên trong hầu thông truyền cho con người sự sống của Thiên Chúa bằng cách cho con người được ăn và uống Thiên Chúa.
Như thế con người được nuôi dưỡng bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Được Thiên Chúa nuôi dưỡng, con người sẽ đi vào cuộc sống của Thiên Chúa. Ăn uống là để được nuôi dưỡng và gặp gỡ. Cũng vậy nơi bàn tiệc Thánh Thể, Thiên Chúa cũng nuôi dưỡng và gặp gỡ chúng ta, nhờ đó chúng ta được sống bằng chính cuộc sống của Thiên Chúa.
5. Thánh Thể cứu sống, giao hòa và tha thứ
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thật. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được. Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau (1264), vào ngày mồng 8 tháng 9, Đức Giáo Hoàng Urbanô ra sắc dụ lập lễ kính MÌNH MÁU THÁNH CHÚA trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm nay.
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu con người sẽ khó sống. Cho nên, nên khi thiếu máu nhiều cần phải truyền máu từ người khác vào. Vì vậy, mỗi khi cho máu, hiến máu là đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Cho nên, câu khẩu hiệu của chương trình hiếu máu nhân đạo: MỘT GIỌT MÁU CHO ĐI MỘT CUỘC ĐỜI GIỮ LẠI. Thế nhưng, Đức Kitô hôm nay không chỉ hiến máu mà còn cả thân mình Ngài cho chúng ta để cứu sống và làm cho đời sống ta dồi dào phong phú, để tha tội và để giao hòa giữa chúng ta với Thiên Chúa và chúng ta với nhau.
Trước hết, để cứu sống. Sách Xuất Hành kể rằng để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, hể thấy nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ vượt qua. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái giết chiên mừng lễ, và gọi là lễ Vượt Qua (cái chết). Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi. Vì chưng, Chúa đã khẳng định: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,53-56). Vì vậy, khi cử hành bất cứ thánh lễ nào, Hội Thánh mời gọi và mong muốn mọi tín hữu cần rước Mình Máu Thánh Chúa là vậy. Và nếu ai không đến tham dự thánh lễ được thì thừa tác viên Thánh Thể đưa Mình Thánh Chúa cho bênh nhân, ngược lại, bênh nhân cần rước Mình Thánh Chúa như của Ăn Đàng, vì “Ai ăn thịt và uống máu Chúa, thì ở lại trong Chúa, và Chúa ở lại trong người ấy”, cần là vậy!
Thứ hai, để được giao hòa giữa chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái Thiên Chúa và trở nên anh chị em với nhau. Cho nên, bài đọc 2, thư Do Thái quả quyết rằng: “Nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống”.
Cuối cùng, ăn thịt và uống Máu Chúa Giêsu để tha tội được. Thời cựu ước, khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thầy cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì chưng Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta. Cho nên, Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng rước lễ được những ơn ích này: Một là được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu hơn, và củng cố sự hiệp nhất trong Nhiệm Thể Người. * Hai là xoá bỏ tội nhẹ và giúp ta xa lánh tội trọng. * Ba là cảm mến và ước ao đạt tới hạnh phúc Thiên Đàng.
Nhân loại hôm nay đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau vì cuộc sống kinh tế, hưởng thụ. Cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình hay giáo xứ chúng ta cũng không thiếu những ích kỷ, genh ghét gây nhiều nỗi bất hòa và chia rẽ vì thiếu Lời Chúa và Mình Máu Thánh Ngài. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta siêng năng tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa để được trở nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể trong tư tưởng, lời nói và hành động đầy nhân ái đối với mọi người. Amen.
6. Chúa Giêsu trao ban sự sống
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Có một vị linh mục, khi được chọn và gọi để tiến lên bàn thánh, ngài đã chọn cho mình câu khẩu hiệu: “Cầm lấy mà ăn”. Trong bài giảng lễ tạ ơn, vị giảng lễ luôn tập trung vào hành động bẻ ra, trao ban của Chúa Giêsu để muốn nói lên một điều quan trọng, đó là: linh mục là hiện thân của Chúa Kitô, là tấm bánh tình yêu được chia sẻ cho mọi người. Tấm bánh ấy chính là sự cầu nguyện, hy sinh và chấp nhận tiêu hao sức khỏe, khả năng khi thi hành sứ vụ linh mục của mình cho con chiên đã được trao phó.
Hôm nay, Giáo Hội mừng trọng thể lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, Ngài là vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống vì đàn chiên, đã trở nên của ăn thiêng liêng nuôi sống con người. Đây là một chân lý vô cùng cao trọng trong đời sống của người Tín Hữu Kitô.
1. Chúa Giêsu trao ban chính sự sống của Ngài
“Này là Mình Thầy....Này là chén Máu Thầy”. Đây là lời thật sự đầy xúc động, tâm huyết trong bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi trao hiến thân mình trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại.
Khi tuyên bố: “Này là Mình Thầy....Này là chén Máu Thầy”. Chúa Giêsu đã thực sự trao ban chính sự sống của Ngài cho nhân loại. Ngài đã cho và cho đi tất cả. Đó là một tình yêu tròn đầy, tuyệt đối, trọn vẹn và dứt khoát của một Vị Thiên Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu. Trao ban một lần nhưng đến cùng. Cái "cùng" này của Thiên Chúa chính là “vô cùng”, nên một lần trao ban là ban mãi mãi. Lời tuyên bố: “Này là Mình Thầy....Này là chén Máu Thầy” là một bảo chứng cho một tình yêu vĩ đại bao trùm cả nhân loại, trải dài trong suốt dòng lịch sử.
Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã chấp nhận bị tiêu hao và trở thành thần lương nuôi sống con người. Nói cách khác, khi trao ban chính Thịt và Máu Ngài để trở thành của ăn của uống nuôi linh hồn ta, thì: Chúa Giêsu đã thuộc về chúng ta. Trong ta và Ngài cùng chung nhau một giòng máu- giòng máu Thần Linh.
2. Bí tích Thánh Thể - thần dược tâm linh
Khi nói về nguồn sống của Bí tích Thánh Thể, nhiều nhà tu đức đã liên tưởng như sau:
Nếu trong đời sống, những người đã từng thám hiểm, du khảo trong sa mạc, hẳn họ sẽ hiểu và cảm nghiệm sâu xa hơn ai hết về về lương thực và nước uống! Chỉ có nước và lương thực mới đảm bảo cho họ sống sót trong một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt của khí hậu và môi trường.
Hay, nếu trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải đối diện với nhiều trắc trở cam go, nhiều cám dỗ buông thả theo lối sống hưởng thụ, trụy lạc, khiến con người bị hư thối trong nhận thức, lối sống và hành động.
Thì Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự trở thành nguồn sống cho mọi người. Trở thành thần dược chữa trị những tâm hồn hư hoại. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống […] Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 51-54). Thánh Inhaxiô thành Antiokia cũng đã khẳng định:“ Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”.
3. Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi cử hành Thánh Lễ và tôn thờ Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy cảm nghiệm được tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Cảm thấu lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu qua việc trao hiến thân mình. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Vì thế, chính Ngài đã khẳng định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Hơn nữa, lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một lệnh truyền cho hết mọi người, không chỉ riêng cho các linh mục. Mệnh lệnh ấy mang một sứ điệp quan trọng, bởi vì: Thánh Lễ không thể kết thúc ở nhà thờ, mà Thánh Lễ ấy, linh đạo Thánh Thể ấy còn kéo dài cả đời.
Nên khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta đã kín múc được nguồn suối thương xót vô biên qua việc lãnh nhận Thánh Thể, thì khi ra khỏi nhà thờ, mỗi người hãy làm cho lòng thương xót ấy được lan tỏa ngang qua đời sống tràn đầy đức tin và đức ái của chúng ta.
Nói cách khác: khi Thánh Lễ trong nhà thờ đã kết thúc, thì Thánh Lễ cuộc đời ngay lập tức được diễn ra.
Tuy nhiên, trong thực tế, Chúa Giêsu đã không tiếc gì chúng ta, kể cả sự sống của chính Ngài, nhưng với bản tính yếu đuối và bản năng vị kỷ của con người, nhiều khi chúng ta so đo tính toán với Chúa từng chút từng chút một. Nhiều khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, tôn thờ Thánh Thể, nhưng lòng còn vương vấn biết bao chuyện như: cơm, áo, gạo, tiền. Hay nhiều khi chia sẻ một chút lương thực, tiền bạc cho người nghèo, hay những nhu cầu của Giáo Hội, chúng ta tính toán thiệt hơn!
Mong sao mỗi khi chúng ta rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu vào trong tâm hồn, chúng ta thuộc về Chúa, nên sẵn sàng biết noi gương Chúa. Sống cho đi, sống khiêm tốn – tự hạ để đem lại hạnh phúc cho anh chị em mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nhân loại mà Chúa đã chấp nhận trở thành một tù nhân giữa loài người. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết cảm tạ Chúa không ngừng. Biết noi gương Chúa để sống yêu thương, khiêm tốn và phục vụ. Amen.
7. Mình Máu Thánh Chúa
Dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và được đào luyện để trở thành dân riêng của Chúa. Một thứ giao kèo đã được thực hiện giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Thiên Chúa ban cho họ một lề luật quy định thái độ và cách sống của họ đối với Chúa, và của mọi người đối với nhau. Người Do Thái đã đồng thanh thề hứa xin thi hành mọi lời Chúa đã phán. Maisen lập bàn thờ và toàn dan cử hành nghi lễ ký kết giao ước với Thiên Chúa. Người ta giết bê để làm lễ tế. Máu bê một nửa được rưới trên bàn thờ, một nửa được rảy trên dân.
Ở đây lễ ký kết giao ước đã được thực hiện bằng máu bê. Và trong lịch sử của dân Chúa, giao ước này đã không được tuân giữ từ phía dân Ngài. Nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lòng yêu thương của Ngài. Và Ngài đã thực hiện một giao ước mới.
Nhưng lần này, giao ước được thiết lập không phải trong một nghi lễ, mà là bằng một cuộc sống. Lễ vật giao hoà không phải là chiên bò hay máu của chúng, mà là chính Con Thiên Chúa làm người, đã sống giữa con người, để mạc khải tình thương của Chúa đoi với con người và cuối cùng đã đổ đến giọt máu cuối cùng không phải trên bàn thờ mà trên thập giá.
Tin Mừng của thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đang chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, lễ kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Nhưng chúng ta lại cũng có thể thấy được rằng cảnh tượng diễn ra không còn ở trong một nghi lễ mà là ở trong chính cuộc sống. Hay nói cách khác trong chính việc cử hành lễ Vượt Qua này, cái ý nghĩa thâm sâu nhất, cái nội dung đích thực của mọi nghi lễ được cử hành đang trở thành hiện thực.
Chúa Giêsu và các môn đệ đang sống biến cố Vượt Qua, đang sống cuộc giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Cử chỉ của Chúa Giêsu, hãy cầm lấy bánh, hãy cầm lấy rượu, mang ý nghĩa là Mình Máu Ngài, nói lên cái chết của Ngài, một cái chết cho nhiều người mà đại diện là 12 môn đệ, đồng bàn với Ngai, nhưng cũng là những người sẽ chối Chúa, sẽ bỏ Chúa để thoát thân, những con người tội lỗi, yếu đuối như bao con người tội lỗi và yếu đuối khác. Nhưng với bữa tiệc ly trở thành tiệc Thánh Thể này, khi trao cho các môn đệ Mình Máu Ngài, Chúa Giêsu tự báo cho các môn đệ ơn tha thứ, ơn cứu thoát. Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa, các môn đệ lãnh nhận cho mình cuộc hy sinh của Chúa Giêsu và ơn cứu rỗi được dành cho con người.
Chính vì vậy mà sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nghĩa là sau khi các môn đệ đã có những cử chỉ bất trung, các ông vẫn có thể đồng bàn với Người. Sự đồng bàn ở đây có ý nghĩa của một sự giao hoà. Giáo Hội trong suốt dòng lịch sử, đã không ngừng lặp lại cử chỉ này như Chúa Giêsu đã truyền dạy để tưởng nhớ đến Ngài. Nhưng không phải chỉ là một sự tưởng nhớ trong tưởng tượng, trong tình cảm, mà là trong chính cuộc sống bằng cách sống trọn vẹn ý nghĩa, nội dụng của nghi lễ mình làm.
Việc cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau trong nhà thờ để cử hành thánh lễ phải là điểm khởi đầu và kết thúc của một giai đoạn dấn thân. Nghĩa là thánh lễ được cử hành trong nhà thờ cần phai được nối tiếp trong cuộc sống và cuộc sống cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ chứ không được tách thánh lễ ra khỏi cuộc sống. Bởi đó chúng ta thực sự kéo dài thánh lễ trong cuộc sống bằng cách thực thi bái ái yêu thương hay chưa. Đồng thời chúng ta có biết gom góp những hy sinh của cuộc sống để dâng tiến trong thánh lễ hay chưa.
8. Dâng tiến lễ vật.
Có một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước khi từ giã mái nhà Nagiarét để lên đường rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi Đức Mẹ: Thưa Mẹ, Mẹ muốn con để lại gì cho Mẹ sau những năm Mẹ đã giúp đỡ và an ủi con? Đức Mẹ đã trả lời: Mẹ chỉ mong được đứng cạnh con dưới chân thánh giá vào ngày thứ sáu hầu kết hiệp với hy lễ của con.
Đúng thế, kết hiệp với hy lễ của Đức Kitô cũng chính là điểm cao đẹp nhất mà người tín hữu chúng ta phải thực hiện. Để hiểu được điều đó, chúng ta hãy nhìn lên bàn thờ va chúng ta sẽ thấy những gì? Trước hết vị linh mục thượng phẩm chính là Chúa Giêsu. Sau khi thiết lập và cử hành thánh lễ đầu tiên vào chiều thứ năm tuần thánh, Ngài còn tiếp tục hiện diện và cử hành trong mỗi thánh le. Bởi vì nếu không có Chúa Giêsu thì cũng chẳng có thánh lễ. Và như sách giáo lý đã dạy, qua bàn tay linh mục chính Chúa Giêsu cử hành thánh lễ và dâng lên Chúa Cha của lễ tinh tuyền, bởi vì Đức Chúa Giêsu là linh mục đời đời theo dòng Melchisédech.
Bên cạnh Chúa Giêsu là vị linh mục, đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh. Nhờ ngài mà bánh rượu sẽ trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ ngài mà thánh lễ được cử hành ở khắp mọi nơi trên mặt đất này. Như chúng ta đã thấy trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã truyền chức linh mục cho các môn đệ, rồi trong dòng thời gian, các môn đệ lại truyền chức cho những người khác, như vậy quyền dâng tiến hy lễ và truyền phép được chuyển thông cho đến tận cùng thời gian. Vị linh mục rao giảng Lời Chúa, tha thứ tội lỗi và nhất là cử hành thánh lễ.
Thế nhưng, trong thánh lễ chúng ta không chỉ dừng lại ở đó để rồi có một thái độ thụ động, mơ mộng hay ngủ gục. Chúng ta không xem lễ như xem một vở kịch, một cuốn phim, nhưng chúng ta thực sự tham dự bằng cách kết hiệp tâm tình với những lời vị linh mục đọc và những việc vị linh mục làm. Và dưới một goc độ nào đó thì trong thánh lễ chúng ta cũng là những người cử hành, những người dâng tiến.
Để chuẩn bị cho con mình trong thánh lễ mở tay, có một bà mẹ đã cẩn thật trồng một đám lúa mì. Sau khi đã thu hoạch, bà xay thành bột rồi làm thành những chiếc bánh. Và trong ngày con bà cử hành thánh lễ đầu tiên, thì chính bà đã đem những tấm bánh ấy đến nhà thờ để dâng tiến.
Hơn thế nữa, trong ngày chịu phép rửa tội, chúng ta cũng đã được xức dầu để thánh hiến cho Thiên Chúa và như thế chúng ta cũng được tham dự vào chức vụ linh mục của Chúa Giêsu, và chúng ta gọi đó là chức linh mục cộng đồng của mọi người tín hữu, khác với chức linh mục thừa tác của những người được tuyển chọn qua bí tích Truyền Chức Thánh. Bởi đó trong thánh lễ chúng ta cũng thi hành chức vụ linh mục, chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu, chúng ta góp phần bằng của lễ cuộc đời chúng ta, đó là những lao công vất vả và những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng: cử hành thánh lễ là việc của Chúa Giêsu và các linh mục chứ không phải là việc của tôi. Bởi đó tôi có thể nghĩ đến những chuyện khác trong khi tham dự thánh lễ. Có ý thức vai trò của mình, chúng ta mới tham dự thánh lễ một cách sống động và việc tham dự sống động này mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta.
9. Ta là Bánh – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu dùng một ngôn ngữ vừa hình tượng vừa thân quen để diễn tả vai trò hết sức quan trọng của Ngài đối với sự sống của chúng ta, đó là bánh. "Ta là Bánh".
Nếu Chúa Giêsu ở Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: "Ta là cơm", vì ở đất nước chúng ta cơm là thực phẩm hàng ngày của mọi người.
Thân phận của bánh, của cơm là phải chịu nghiền, chịu nhai, chịu tiêu tan và phân hủy đi để đem lại sự sống cho người khác.
Để trở thành cơm thành bánh nuoi sống con người, thóc lúa bị phơi ra nắng, kế đó phải bị xay, bị nghiền, bị sàng sảy, chịu trầy vi tróc vảy, rồi mới thành hạt gạo trong ngần. Hạt gạo nầy lại phải chịu ngâm, chịu vò trong nước, chịu bỏ vào nồi nấu sôi roi mới thành cơm. Khi đã thành cơm lại còn bị hàm răng của con người nhai nghiến, chịu co bóp và phân huỷ trong hệ tiêu hoá rồi mới thành chất dinh dưỡng đem lại sức sống cho con người.
Nhưng để được lớn lên thành người, ngoài các loại cơm bánh thông thường, chúng ta còn cần những tấm bánh khác. Xét theo nghĩa rộng, cha mẹ cũng là cơm bánh cho con, vì nhờ cha mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi, con cái mới có thể lớn lên thành người.
Cha mẹ cũng là cơm bánh
Nhà thơ Kiên Giang có những diễn tả rất thiết tha về tình thương dạt dào của người mẹ, người mẹ hiến mình làm cơm, làm bánh cho con lớn lên:
"Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo giấy học trò.
Đêm nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mỏi mòn: nhịp võng đưa
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi! con lớn giữa niềm ru.
Nhớ ngày mẹ ốm nằm trong xó
Chiếu lạnh ủ không ấm vóc gầy
Đau đớn không hề rên siết khẽ
Sợ con nghe tiếng mà buồn lây"...
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ thức thâu đêm để cho con say nồng giấc ngủ.
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ đem bao nhiêu dinh dưỡng trong châu thân hoá thành dòng sữa nuôi con.
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ phải hao mòn đi cho con được lớn lên từng ngày; mẹ phải gầy guộc đi để cho con lớn mạnh; lưng mẹ ngày càng còng xuống cho con được đứng thẳng hiên ngang.
Mẹ đúng là tấm bánh rất cần thiết cho con. Mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi để con thành người khôn lớn.
Chúa là Tấm Bánh cho loài người
Chúa Giêsu phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh nầy sẽ được sống đời đời". Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu hoá mình nên như cơm bánh, chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi cho nhân loại được sống còn.
Chúa Giêsu hoá mình nên cơm bánh cho nhân loại khi Ngài gieo mình xuống thế, sống kiếp người lam lũ thấp hèn để đồng hành và khai hoá chúng ta.
Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho nhân loại khi Ngài chịu đau thương mất mát, chịu tiêu hao, chịu nghiền tán... cho chúng ta được hạnh phúc và vinh quang:
Ngài hạ mình xuống làm người phàm để cho chúng ta được tôn lên làm con Thiên Chúa;
Ngài cam chịu vô vàn sỉ nhục cho chúng ta được vinh quang;
Ngài phải mang đầy thương tích cho chúng ta được chữa lành;
Ngài phải chết đi trong đau thương cho chúng ta được sống lại trong vinh hiển;
Ngài xuống tận âm phủ cho chúng ta được lên cõi trời cao;
Và nhất là qua bí tích Thánh Thể, Ngài hiến ban thân mình như tấm bánh cho mỗi người chúng ta được ăn Ngài thực sự, để cho chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Ngài, để Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài, để Thiên Chúa và con người không còn là hai mà chỉ là một xương một thịt: Một sự kết hợp nhiềm mầu và đầy yêu thương...
Hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta hãy ăn Ngài.
Ăn Chúa Giêsu là vâng nghe lời Ngài phán dạy, là học với Ngài, noi gương bắt chước Ngài, là uốn nắn đời sống chúng ta nên giống Ngài... để lớn lên thành ngươi có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, có văn hoá.
Và một khi đã được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bánh Giêsu -"các con hãy nhận lấy mà ăn"- thì chúng ta cũng được mời gọi trở thành bánh cho người thân trong gia đình cũng như cho các anh chị em đang sống quanh ta - "các con hãy làm việc nầy (việc Thầy đang làm) để tưởng nhớ đến Thầy".
10. Này là Mình Máu Thầy – Lm. ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: “Này là Mình Thầy … Này là Máu Thầy”. Các môn đệ đã tin, đã kính cẩn lãnh nhận, dầu các ông không hiểu sự việc sẽ ra sao. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thấy rõ ràng: Trong vườn cây Dầu, Ngài nói với môn đệ: “Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi” (Mc. 14, 41). Khi quân dữ đến, Ngài nói với chúng: “Này tôi đây”. Trước lời nói đó, quân dữ và Giuđa đã giật lùi lại và ngã nhào xuống đất. Nếu cứ để chúng sợ hãi, thì hỏng việc cứu độ, nên Ngài đã cho chúng đứng dậy và tự ý nộp mình Ngài cho chúng. Ngài bảo: “Này tôi đây. Các ngươi bắt tôi thì để cho những người này ra đi” (Ga. 18, 5-8). Chúng đã hỗn độn tranh nhau chộp lấy mình Ngài.
Trước quảng trường dinh Philatô, Đức Giêsu bước ra, đầu đội triều thiên gai, khoác áo choàng đỏ. Ngài không nói, Philatô nói thay Ngài: “Này là Người”, các thượng tế, Pharisiêu và dân chúng la hét lên: “Đóng đinh, đóng đinh ngay đi” (Ga. 19, 5-6). Họ đã kéo lôi mình Ngài cách hằn học, dữ tợn, rồi đem đi giết, phanh thây, chọc tiết. Họ đã giết được một người, người đó Gioan tiền hô đã bảo với họ: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Giết xong, họ về nhà giết một con chiên khác, con chiên thú vật, để mừng đại lễ Vượt qua: một lễ quốc khánh của toàn dân Do thái để kỷ niệm hai biến cố lịch sử oai hùng vĩ đại nhất cua dân tộc. Một là: Thiên Chúa giải phóng dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Ngày đó Thiên Chúa đã truyền cho Môisen và tổ tiên họ: giết con chiên một tuổi, sung sức nhất, trong sạch nhất, lấy máu nó bôi lên cửa nhà dan Do thái để được cứu sống. Còn cửa nhà dân Ai Cập, không có máu chiên thì các con đầu lòng bị giết. Sau đó họ ăn thịt chiên với bánh không men lấy sức mạnh vượt ra khỏi đất Ai Cập để về quê hương đất hứa Thiên Chúa ban.
Hai là biến cố: Thiên Chúa đã lập giao ước với toàn dân ở núi Sinai. Thiên Chúa đã truyền cho ông Môisen xuống núi thuật lại lời giao ước và giới luật của Chúa. “Toàn dân đồng thanh đáp: Mọi lời Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành. Rồi họ ngả chiên bò làm lễ toàn thiêu và lễ hiệp thông.
Họ làm lễ toàn thiêu bằng thiêu đốt tất cả lễ vật dâng lên trước nhan Chúa để tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi loài, Ngài đã ban sự sống cho họ, vì thế, họ hoàn toàn phó thác mạng sống mình và dân tộc mình cho Thiên Chúa.
Họ làm lễ hiệp thông để lấy máu thịt chiên bò. Một nửa máu được rẩy trên bàn thờ, tượng trưng phía Thiên Chúa. Một nửa rẩy trên toàn dân, lúc đó Môisen tuyên bố: “Đây là Máu giao ước Chúa lập với anh em”.
Sau đó, họ ăn thịt chiên hy tế trước tôn nhan Thiên Chúa để hiệp thông sự sống của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Mình Máu Chúa Kito, bài đọc 1 nhắc đến giao ước cũ thời Môisen, bài tin mừng nhắc đến giao ước mới thời Chúa Giêsu và do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng Mình Máu Ngài.
Bài đọc 2, thánh Phaolô đã so sánh cho ta thấy giao ước cũ chỉ là hình bóng bề ngoài của giao ước mới.
Giao ước cũ chỉ là máu chiên bò không thể xóa được tội lỗi. Trái lại, năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho ta nhớ mình có tội. Vì vậy, Chúa chẳng ưa thích những sinh lễ đó (Dt. 10, 3-5).
Giao ước mới, chính là Đức Kitô vừa làm thượng tế đem phúc lộc của thế giới tương lai trường cửu đến cho loài người, vừa tự hiến tế chính máu mình, chỉ một lần, đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta, thanh tẩy lương tâm khỏi chết, xóa tội muôn người, đền tội nhân loại và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi mọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa (Dt. 9, 11-15. 28 và 10, 12).
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, Ngài đã thương mến trao mình máu Ngài cho các môn đệ, Ngài đã nhẫn nhục nộp mình cho quân dữ và hy sinh mạng sống mình cho chúng con. Ngài thương xót tất cả, kể cả kẻ thù, đều được máu Ngài thanh tẩy lương tâm khỏi chết rửa sạch mọi tội lỗi, Ngài muốn tất cả đều được đồng huyết nhục với Ngài, được hiệp thông bản tính vinh quang của Thiên Chúa và được hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban. Xin cho chúng con tha thiết kính cẩn đón rước Mình Máu Ngài, nhiệt tình yêu mến Ngài, đồng sinh đồng tử và đồng hành với Ngài luôn mãi. Xin đừng bao giờ để chúng con xô đẩy, đánh đập Ngài, phanh thây, đâm thủng trái tim từ ái của Ngài.
11. Hy lễ thập giá – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay lễ suy tôn Thánh Thể. Nói đến Thánh thể người ta thường hay nói đến một bữa ăn, một bữa ăn Agape, bữa ăn huynh đệ. Nhưng thực ra, "Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ" (Bí tích cứu độ).
Vì thế hôm nay, chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ.
Một họa sĩ người Ý, đã diễn tả giá trị thánh lễ qua bức tranh như sau: Khi linh mục dâng lễ, trên đầu ngài có 4 thiên thần bay lượn, miệng ngam loa, sẵn sàng báo tin ngày chung thẩm của thế giới. Nhưng xem ra các Ngài còn chờ đợi cho tới khi linh mục cuối cùng này cử hành xong thánh lễ giao hòa dâng lên Thiên Chúa, mới gióng lên tiếng loa định mệnh này.
Thực vay, Mẹ Têrêsa thành Calcutta thường hay nói với các chị em trong dòng rằng: "Không có thánh lễ Misa, chúng ta sẽ ra sao, mọi sự dưới gầm trời này hẳn sẽ bị tiêu hủy, chỉ có thánh lễ mới ngăn được tay Thiên Chúa. Không co thánh lễ, chắc chắn giáo hội sẽ không còn tồn tại và thế giới ắt sẽ bị diệt vong".
Vì cử hành thánh lễ là hiện tái hóa hy tế thập giá năm xưa của Chúa Kytô trên thập giá. Máu Thánh Chúa được tiếp tục đổ ra cho nhiều người được tha tội, được ơn cứư độ. Hy tế thập giá của Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn tiếp tục tái diễn để giao hòa thế gian với Thiên Chúa.
Nhìn vào thế giới hôm nay, người ta thấy tội lỗi mỗi ngày một gia tăng, sự dữ ngày càng ngập tràn. Tại sao Thiên Chúa không trút cơn thịnh nộ xuống trên địa cầu? Thưa, bởi vì hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, Con Chiên Thiên Chúa tế lễ trên bàn thờ, xoa dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chua Cha, "và tước khí giới nơi bàn tay sẵn sàng sửa phạt của Ngài". Chúng ta không thể đếm được các tia lửa từ các ông khói tàu thủy tung tóe ra. Thế mà, các tia lửa đó không gây hỏa hoạn. Vì chúng rơi xuống biển và dập tắt ngay. Cũng không thể đếm được các tội ác hằng ngày từ trái đất xông lên và đòi sự công thẳng của Thiên Chúa. Nhưng nhờ sự giải hòa của Thánh lễ, chúng ta được đẩy vào đại dương của lòng từ bi Thiên Chúa và hình phạt đã không trút xuống địa cầu.
Thánh Laurensô Giustinianô nói: "lưỡi loài người không thể kể hết những ơn phúc từ thánh lễ: nào là tội nhân được giao hòa với Thiên Chúa, người công chính nên công chính hơn, tội lỗi được xóa sạch, nết xấu được giảm thiểu, nhân đức và công nghiệp gia tăng, kế hoạch của ma quỷ bị bẻ gãy".
Cha sở họ Ars: "Mọi việc lành họp lại cũng không thể so sánh với thánh lễ Misa, vì mọi việc lành là của loài người, còn thánh lễ là của Thiên Chúa".
Thế nhưng, hôm nay nhiều người vẫn xem nhẹ thánh lễ. Họ đi lễ nhưng thiếu tấm lòng đón nhận ơn cứu độ, ơn tha thứ của Chúa. Đi lễ cho qua lần chiếu lượt. Đi lễ vì luật buộc. Vì người khác đi mình cũng được. Có mấy ai ý thức giá trị của hiến tế thập giá. Có mấy ai hiểu được hy tế thập giá cần phải được cử hành mỗi ngày để xin ơn tha tội và để Con Thiên Chúa lại tiếp tục đổ máu mình ra để giao hoa với Chúa Cha.
Bên cạnh đó, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kytô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kytô. Chúa Kytô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kytô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kytô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?
Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn the nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao cong con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa nghèo nàn này, nó thuộc về Chúa. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá Chúa gởi tới. Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, và xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền dâng lên trước tôn nhan Chúa. Amen.
12. “Này là Máu Ta” – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.
Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nao có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thanh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nưa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy mau rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.
Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy mau con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.
Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.
Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuan hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.
Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đen đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.
KIỂM ĐIEM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?
2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?
3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?
4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?
13. Hiến lễ tình yêu – Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Đối với tất cả những người Công giáo chúng ta thì Hiến tế trên Thập Giá là nơi Chúa Giê su đa đổ máu ra để ban ơn cứu độ, là nơi Chúa tuyên bố: “Mọi sự đã hoàn tất”(Ga 19,30), vì hiến lễ Misa chính là Hiến lễ Thập Giá kéo dài. Thế nhưng, khi chúng ta cùng các tông đồ đi vào bàn tiệc dự bữa Tiệc Ly với Chúa, chúng ta đã thấy Máu Chúa đổ ra ngay từ trong bữa Tiệc ly, vào lúc Chúa Giêsu cầm lấy chén và trao cho các tông đồ: “Này là Máu Thầy, Máu giao ước mới sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”(Mc 14,24). Không phai ở trên cây Thánh Giá, Máu Chúa mới đổ ra, mà ngay giờ phút này, Máu Chúa đã đổ ra cho nhiều người được tha tội, và các tông đồ là những người đầu tiên được ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa từ Nhà Tiệc Ly.
Hiến lễ Misa là hiến lễ được kéo dài từ Hy tế Thập Giá nhưng cũng bao hàm cả giờ phút xúc động Chúa lập phép Mình Thánh, Máu Thánh trong bữa Tiệc Ly. Có thể thấy, Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta chương trình cứu độ, không phải bằng mồ hôi – là những biểu hiện vất vả đời trần thế – hay bằng những con đường chông gai vác Thập Giá, mà ở đỉnh cao nhất, đó là Hiến Tế Cuộc Đời, trao ban Mình và Máu Ngài cho toàn dân.
Máu là biểu hiện của sự sống. Vì thế, khi người ta thề hứa với nhau một điều gì trọng đại thì người ta thường gọi là “Uống máu ăn thề” (Thành ngữ). Người Do Thái ngày xưa, khi muốn hiến dâng cho Thiên Chúa một lễ vật tinh tuyền và đẹp lòng Thiên Chúa thì người ta muốn dâng sự sống của mình, nhưng vì mạng sống của con người cao quý nên được thay thế bằng mạng sống của chiên cừu dâng tế lễ cho Thiên Chúa. Do đó, máu chiên được bôi lên thành cửa (tại đất nước Ai Cap) được biểu hiện là sự sống. Sự sống không chỉ của thể xác, mà sự sống của linh hồn. Sự sống thể xác là lễ Vượt qua của thời Cựu Ước, khi Thiên thần Chúa đi qua, thấy máu chiên bôi trên thành cửa thì để cho nhà đó được bình an, nhưng nhà nào không có máu bôi trên thành cửa thì Thiên thần Chúa lập tức giết chết con đầu lòng của nhà đó (x. Xh 12, 1-14). Năm ấy, cả đất nước Ai Cập đều có đại tang. Còn bên đất nước Israel thì sự sống tràn đầy và bình an đã làm cho toàn dân Do Thái được sống hạnh phúc. Sang thời Tân Ước, Máu của Chiên Thiên Chúa, từ nhà Tiệc Ly cũng như từ trên Thập Giá đổ ra đã trao ban cho tất cả mọi người, cho sự sống linh hồn được bảo đảm. Vì vậy, máu là biểu hiện của tình yêu, của giao ước. Và Chúa Giêsu gọi giao ước này là giao ước mới, mặc dầu xét về bề ngoài, trước sau vẫn là máu, nhưng giao ước mới được đổ ra từ Chiên Thiên Chúa. Giao ước ấy mới hoàn tất được Chương trình Cứu độ và trao ban sự sống đời đời cho những kẻ tin.
Bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi ngày là nhắc lại cho chúng ta một hiến tế tình yêu, một hiến tế mà Chiên Thiên Chúa đa bị sát tế và lễ Vượt qua của thời Tân Ước hôm nay không phải chỉ vượt qua Biển Đỏ, mà còn vượt qua cả sự chết để được vào đất hứa là Thiên Đàng. Với một ý nghĩa quan trọng đó, Bí tích Thánh Thể là nơi hội tụ của tình yêu, là nơi kết tinh của trời đất, là trung tâm điểm của ơn cứu độ. Nơi đây, chúng ta đến không phải bằng lòng tin mà cả bằng lòng kính mến, vì tình yêu phải đáp đền bằng tình yêu, mà bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình yêu đã được Đức Giê su thiết lập không phải là bằng một lời phán, và cũng không phải chỉ là bằng những biểu tượng bên ngoài nhưng là chính Thịt và Máu Ngài từ tay Ngài trao cho các tông đồ, Ngài nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, các con hãy cầm lấy mà uống. Này là Mình Ta, này là Máu Ta”. Một giao ước mới được ký kết trong chính Thân Mình và Máu Chúa Giêsu. Giao ước ấy là Giao ước Tình yêu Hiến tế. Vì vậy, đức tin chưa đủ mà cần phải có lòng mến tha thiết để đáp lại tình yêu vô cùng của Chúa đã trao ban cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể yêu thương.
Điều lạ lùng trong Bí tích Thánh Thể đó là dùng tình yêu để xóa đi hận thù; dùng tình yêu để cảm hóa những oán ghét. Đức Giêsu đã dùng tình yêu của mình trên Thập Giá để xóa tội trần gian, và tình yêu ấy đã làm cho những kẻ thù của Chúa Giêsu phải thốt lên: “Người này đích thực là người công chính”(Lc 23,47). Tình yêu ay đã làm cho bao nhiêu những người từ trong cõi chết sống lại. Tình yêu đánh thức tất cả nhân loại và đánh thức tất cả những ai đang ở trong cõi chết. Đến với Bí tích Thánh Thể không chỉ bằng lời nói mà bằng cả việc làm, bằng lòng yêu mến, bằng những hy sinh có thể được và bằng sự kết hợp tha thiết với Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu tha thiết thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con muốn rằng con ở đâu thì những kẻ Cha ban cho Con cũng ở đó với Con” (Ga 17,24). Bí tích Thánh Thể đã phát xuất từ lời cầu nguyện Hiến tế của Chúa Giêsu để đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, và khởi đi từ Bí tích Thánh Thể với việc chúng ta ăn Thịt va uống Máu Ngài, chúng ta được trở nên sự sống trong Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Chúng ta là người Kitô hữu, chúng ta không chỉ mặc lấy danh hiệu Kitô hữu mà còn được nên đồng hình đồng dạng với Ngài, vì được ăn Thịt và uống Máu Ngài, được ở trong Ngài. Khi chúng ta ý thức như vậy thì Bí tích Thánh Thể làm cho người ta được tẩy sạch tội lỗi. Như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan diễn tả: “Tôi thấy một trăm bốn mươi bon ngàn người thuộc đủ mọi thành phần, giai cấp. Họ mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành thiên tuế”. Và thánh Gioan tả tiếp: “Tôi hỏi những người này từ đâu mà đến thì được trả lời ‘họ từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt ao và tẩy áo trong Máu của Con Chiên’”(Kh 7, 9,14). Chính Máu Đức Giêsu Kitô đã tẩy sạch trần gian, đã tha thứ tội lỗi và đã đưa những người yêu Chúa vào sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tất cả được khởi điểm từ Bí tích Thánh Thể. Cho nên, điều mà Chúa Giêsu tiên quyết: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Những lời tiên quyết của Chúa Giê su đã khiến nhiều môn đệ của Người thốt lên: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được. Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”(Ga 6, 60, 66). Chỉ có tông đồ Phê rô đại diện tông đồ đoàn mười hai đã thưa với Chúa Gie su rằng: “Chúng con bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6, 68-69).
Hôm nay, sự sống đời đời nơi Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta: Hãy cầm lấy mà ăn; hãy cầm lấy mà uống. Một lần nữa, mỗi người chúng ta đến với Bí tích Thánh Thể trong tất cả lòng tin yêu của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Thánh Thể,
Chúa đã cho chúng con được mặc lấy danh hiệu Kitô hữu.
Chúa còn cho chúng con ăn Thịt và uống Máu Chúa,
để chúng con được đồng hóa trong Chúa
và được sống bằng sức sống của Chúa
là sự sống của Tình yêu Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người.
Xin cho chúng con thực hiện được lời Chúa đã cầu nguyện, đó là:
“Chúa ở đâu, chúng con cũng ở đó với Chúa”,
và để chúng con được nên một
trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi
là Cha và Con, và Thánh Thần. Amen.
14. Kết hiệp với Đức Kitô và với nhau.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Chúng ta biết rằng niềm tin vào Thánh Thể đã khai mào cho nhiều cách hiểu khác nhau về sự hiện diện của Đức Kitô trong bánh và rượu. Các cách hiểu khác nhau này đôi khi đã là nguồn chia rẽ giữa các Giáo Hội. Đó đây, chúng còn là một trong nhiều cản trở mà hướng đại kết phải cố gắng vượt qua. Người ta sẽ thích đọc đoạn văn dưới đây, tuy không có tính cách chính thức, nhưng đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong bước hiệp nhất giữa Giáo Hội Công giáo và Anh giáo. Đây là một trích đoạn trong bản tuyên ngôn chung về học thuyết Thánh Thể ban ngày 7-9-1971 do uỷ ban quốc tế Anh giáo-Công giáo- La mã.
Sau khi đã nói rằng: “Chúng tôi ao uớc diễn tả trong tài liệu này sự đồng nhất mà chúng tôi đã đạt được”, Uỷ ban nói tiếp:
“Việc hiệp thông với Đức Kitô trong Thánh Thể giả thiết Ngài hiện diện thật sự, được biểu lộ dưới hình thức bánh và rươu. Bánh và rượu này trở nên Mình và Máu Ngài trong mầu nhiệm này. Nhưng sự hiện diện thật sự Mình và Máu Đức Kitô chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh công cuộc cứu độ, nhờ đó Ngài tự hiến bản thân Ngài, và cũng nhơ đó Ngài ban cho những kẻ thuộc về Ngài, ơn giao hoà, bình an và sự sống. Một đàng ơn huệ Thánh Thể xuất phát từ Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, nhờ đó ý định cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện cách dứt khoát. Đàng khác mục đích của Thánh Thể là thông ban cho thân thể Ngài là Giáo Hội, sự sống của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, đến nỗi các chi thể của Ngài luôn được kết hiệp với Đức Kitô và với nhau một cách trọn vẹn hơn nữa.
Những lời của Đức Giêsu nói trong bữa Tiệc ly: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta” không cho phép ta tách biệt ơn huệ sự hiện diện với tác động của bữa ăn bí tích. Các yếu tố không hẳn chỉ là những dấu chỉ đơn thuần: Mình và Máu Đức Kitô hiện diện thực sự đấy và cũng được thực sự trao ban là để khi lãnh nhận chúng, các tín hữu được liên kết trong sự hiệp thông với Đức Kitô, Chúa chúng ta.
Theo quy luật phụng vụ cổ truyền, lời nguyện truyền phép dẫn đến việc tín hữu rước lễ. Nhờ lời nguyện tạ ơn này, 1 lời kinh tin tưởng dâng lên Chúa Cha, bánh và rượu nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà trở nên Mình và Máu Đức Kitô, cho nên khi rước lễ, chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Kitô.
Vị Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chính là vị Chúa quang vinh. Trong nghi lễ tạ ơn, chúng ta hưởng trước các niềm vui của thế giới sẽ đến. Nhờ tác động biến đổi của Thần linh Thiên Chúa, bánh rượu của trần thế trở nên man-na bởi trời và rượu mới, bữa tiệc cánh chung cho người mới. Các yếu tố của tạo thành thứ nhất trở nên bảo chứng và của đầu mùa cho trời mới đất mới.
Từ đoạn văn khá cô đọng về mặt đạo lý trên, ta hãy ghi nhớ các điều này:
- Mình và Máu Đức Kitô thật sự hiện diện trong bánh và rượu Thánh Thể.
- Việc hiệp lễ Thánh Thể nối kết lại với Đức Kitô và với nhau.
- Việc hiệp lễ Thánh Thể ngay từ bây giờ đã hướng chúng ta vào một định mệnh: Định mệnh liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Việc kết hiệp này bắt đầu từ hôm nay sẽ đạt tới mức viên mãn khi thời gian kết thúc.
15. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
Anh chị em thân mến.
Đoàn kịch nói Kim Cương tuy bây giờ không còn tồn tại, nhưng những vở kịch của đoàn đã đi sâu vào lòng người. Tôi còn nhớ đến vở kịch mang tên Lá Sầu Riêng. Trong đó nói lên tình cảnh của một người đàn bà nghèo trải qua những khó khăn, gian khổ. Bà mới được quyền nuôi đứa con mà mình đã sinh ra. Mẹ góa con côi, bà phải tảo tần hôm sớm để lo cho con được nên người. Khi nó đã trở thành mot vị bác sĩ và sắp thành hôn với một cô gái mà nó đã yêu thương. Bất ngờ một hôm vì nhớ con quá, bà mẹ lên thăm con mà không báo trước.
Bà bước vào nhà thấy con không được vui vì đang có cô người yêu hiện diện trong nhà. Bà mới chợt hiểu ra con mình không dám cho người ta biết về nguồn gốc nghèo khổ của mình, nhất là đối với cô người yêu. Chính vì thế anh ta không dám nhận mẹ mình trước mặt người yêu vì dáng vẽ quê mùa nghèo hèn của người mẹ. Anh ta sợ mất người yêu mà đành chối người đã sinh ra và đã hi sinh cả cuộc đời cho mình. Thấy thế, mẹ anh buồn quá mới thốt lên một câu:" Con ơi, nhớ lúc nhỏ, mẹ cho con chỉ một cái kẹo thôi, con cũng vui, nhưng bây giờ, mẹ đã cho con cả cuộc đời mà con cũng không vui được sao?" Lời nói đó đã đánh động đứa con, nó chợt hiểu ra không có gì sánh được với tình mẹ.
Khi nó chấp nhận người mẹ nghèo hèn, đã hy sinh cả cuộc đời cho nó, chẵng những nó có được người mẹ, mà trái lại người yêu nó cũng chấp nhận khi thấy một người sống có nhân nghĩa và có hiếu.
Chúng ta vừa chứng kiến lại một sự kiện lịch sử của sự cho đi, không phải chỉ một cái kẹo hay chỉ một cuộc đời, mà là cả mạng sống. "Đây là Mình Ta... Đây là Máu Ta." Ngài không còn giữ lại gì cho Mình, Ngài đã cho đi tất cả. Ngài tự hiến làm của ăn cho những người mà Ngài yêu thương, để nuôi dưỡng ho trong mọi hoàn cảnh. Ngài muốn hòa nhập vào chính cuộc sống của họ để nuôi dưỡng, để thông cảm, để yêu thương và để đem họ về hưởng hạnh phúc với Ngài. Trải qua thời gian, biết bao người đã cảm nhận được Tình Thương bao la đó, nên họ đã được cải hóa để có cuộc sống xứng đáng với những gì họ đã nhận được.
Nhưng cũng có không ích người lo sợ, họ sợ mất đi những cái mình đang có, sợ mất đi những cái mình đang tận hưởng được, sợ mất đi chỗ đứng trên trần gian nầy, sợ mất đi những tiền tài danh vọng mà một ngày nào đó nó sẽ phản bội và từ bỏ họ. Thế mà họ lo sợ mất những thứ đó, nên họ tìm cách bám lấy nó, để rồi trong cuộc sống hằng ngày, họ sống mà không cần biết đến Đấng đã từng yêu thương họ, đã từng cho họ cuộc sống an lành, đã dám đổ máu ra và chết vì họ. Họ đã quên Đấng đã cho họ cả cuộc đời, cả mạng sống của mình. "Đây là Mình Ta... Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người..."
Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta như thế. Lời nói đó chúng ta nghe rất thường, chút nữa đây trong thánh lễ chúng ta cũng nghe lại lời nói thâm tình đó. Có lẽ lời nói đó không đủ đánh động tâm hồn chúng ta, nên chưa thay đỗi được con người quá khô cứng này. Lời nói đó cũng không lai động nỗi con tim chúng ta, để nó biết run lên và cảm nhận được tình yêu thương bao của Đấng dám cho chúng ta cả cuộc đời, cả mạng sống của mình.
Như vậy làm sao chúng ta có thể so sánh được với người con trong vở kịch, nó nhìn thấy được những sai lầm của mình và biết sữa đỗi. Còn chúng ta, nghe nhiều quá nên không còn suy nghĩ, không còn có thể thay đỗi được nữa, mặc dù hằng ngày chúng ta vẫn dùng thức ăn của Tình yêu để nuôi sống mình. Nhưng chúng ta đến rước Chúa mà vẫn không một chút ý thức. Nếu mỗi người chịu khó suy tư về những việc mình làm, chịu khó để hết tâm trí vào những gì mình thực hiện, thì công việc của chúng ta sẽ tốt hơn, và vì thế chắc con người của mình cũng sẽ được tốt hơn. Được như thế, Thiên Chúa cũng vui mừng khi nhìn thấy Tình yêu của Ngài đã được đáp trả.
Xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình yêu Chúa, xin Chúa cải hóa để chúng ta biết quay trở về với Tình yêu của Ngài.
16. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.
I. Bí tích Thánh Thể là mot sáng kiến tuyệt vời
Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn mươi năm trường. Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có lương thực để ăn? Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân. Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người. Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời…” (Ga. 6, 32).
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niêm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh em;” cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em” (Mc. 14, 23-24).
Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người. Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người. “Ai không ăn bánh này, sẽ không có sự sống nơi mình” (Ga.6, 53).
II. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa
“Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?” (Ga. 6,52). Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật “khó nghe” đối với không chỉ con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại. Đứng trước người phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất đặc biệt.
Đứng trước lời nói “sống sượng” của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa. Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ Ngài: “Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi” (Ga. 6,60). Đức Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: “còn các anh, các anh có muốn bỏ đi không?” (Ga. 6,67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: “bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Ga. 6,68). Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy. Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.
Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác? Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt. Người này phải có một nguồn gốc thần linh. Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức Giêsu. Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người khác. Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.
III. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô
Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabbát để nghe đọc Lời Chúa. Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Giêsu phục sinh cho người Do Thái. Với niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh: “Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán…” (Mc.14, 22). Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.
Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết. Ngày nay, với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người ta không can đến với nhau nữa. Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.
Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo. Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể khong chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô. Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức Giêsu không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể. Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có bị khủng hoảng niềm tin vào bí tích Thánh Thể bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
2. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống đức tin Kitô hữu không?
3. Đức Giêsu Kitô hiện diện nơi cung lòng bạn và hiện diện nơi bí tích Thánh Thể khác nhau như thế nào? Xin giải thích theo sự hiểu biết của bạn.
17. Mầu nhiệm tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”. Đó là lời của bà Suzanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Armêni vào tháng 12/1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Suzanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩa táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp chúng ta hiểu phần nào bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá và Ngài lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta.
Chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể, bí tích của Giao Ước mới: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, đó là cử chỉ thuộc nghi thức bữa tiệc Vượt Qua (x.Xh 12,26-27). Nhưng lời mời gọi: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy”, Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của cử chỉ thuộc lễ Vượt Qua cũ, và làm cho nó trở thành cử chỉ của riêng Ngài. Cả lời Chúa phán trên chén rượu cũng vậy: “Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Lời này đã gợi lại Giao Ước Sinai, nhưng ở đây giao ước không còn được niêm ấn bởi máu chiên bò, mà là máu của chính Con Một Thiên Chúa, máu có hiệu lực thanh tẩy tội lỗi (Bđ. 2)
Hơn nữa, nếu trong lễ Vượt Qua, người ta cùng ăn thịt con chiên chịu sát tế, thì cử chỉ Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho, ám chỉ thân xác Chúa bị xâu xé, hiến cho người khác, và lời nói: “Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người…” lại càng làm nổi bật ý nghĩa hy tế của lễ Vượt Qua mới, tức là Bàn Tiệc Thánh Thể. Nói cách khác, dưới hình thức bánh rượu, Chúa Giêsu đã thể hiện trước, đã cảm nếm trước cuộc vượt qua của chính Ngài, tức là cuộc khổ nạn và Phục Sinh sẽ xảy ra hôm sau. Ngài biến cái chết thành hy lễ cứu độ đem là sự sống, thành quà tặng và lương thực siêu nhiên cho tất cả những ai tin vào Ngài. Nhờ đó, các môn đệ Chúa Giêsu khi ăn bữa tiệc này, đã được dự phần vào Giao Ước mới, được hiệp thông với Ngài trong biến cố chết và sống lại, được cùng với Ngài đi từ cõi chết vào cõi sống muôn đời. Và cũng từ đó, qua muôn thế hệ, mỗi lần cử hành Thánh Thể, một mặt Giáo Hội tái diễn và hiện tại hoá cuộc hiến tế của Chúa Giêsu để nhớ đến Ngài; mặt khác, Giáo Hội lại hướng về tương lai, hướng tới ngày Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng ta vào dự bàn tiệc Nước Trời, bàn tiệc viên mãn đã được khơi mào từ Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay.
Theo lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24b), mỗi ngày và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, Giáo Hội cử hành Thánh Thể để nhắc con cái mình nhớ đến tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống vì nhân loại, Đấng ấy vẫn đang hiện diện để trao ban cho nhân loại bánh sự sống là chính Mình Máu Ngài. Vì thế, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không hiện diện như khán giả xem một vở kịch, cũng không phải chỉ nhớ đến một kỷ niệm trong quá khứ không liên hệ gì đến cuộc sống thực tế, nhưng là hiệp thông sự sống với Chúa Kitô, là chia sẻ hy tế thập giá của Ngài và cùng với Ngài tôi hiến dâng thân mình làm lễ tế sống động đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1). Do đó, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không lập đi lập lại những cử chỉ, những động tác theo thói quen, nhưng tôi hiến dâng cho Chúa niềm vui nỗi buồn, những lo âu và hy vọng, những tâm tư thao thức của tôi. Nói chung là tất cả những gì đan dệt nên cuộc sông đời thường đều có thể trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa, những hy lễ như dấu chỉ tình yêu của tôi nhằm đáp trả Đấng đã yêu thương đến nỗi hiến ban chính Con Một yêu dấu cho tôi.
Mặt khác, Thánh Thể không chỉ tạo mối tương quan ân tình giữa Chúa và cá nhân tôi, nhưng còn mờ rộng, bao trùm mọi người. Thật vậy, bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ chính là bánh của bữa ăn hằng ngày nơi Ngài sống. Chén rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã được biến đổi thành Mình Máu Ngài. Do đó mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm chia sẻ, chia sẻ để mọi người cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa Giêsu dùng như dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến Ngài: Hai môn đệ đi Emmau đã nhân ra Đấng Phục Sinh và chính lúc Ngài “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).
Ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung nhưng buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiẹm yêu thương ngay trong cuộc đời mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực, nếu chúng ta sống dững dưng ích kỷ, bưng tai bịt mắt trước nhưng anh em đói khát khốn cùng, đòi khát cơm bánh vật chất, nhất là đói khát công lý và tình thương.
Giờ đây, chung ta sắp cùng nhau chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta, một khi đã hiệp thông với Ngài, thì cũng biết thông hiệp với anh em bằng cuộc sống yêu thương phục vụ, Có như thế, Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đây chúng ta được nối kết với Chúa Kitô, thông chia cùng một sự sống với Ngài. Nơi đây, chúng ta nối kết với mọi ngươi anh em, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng, yêu thương, đang lúc chờ đợi Bàn Tiệc hạnh phúc vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.
18. Bánh bởi Trời
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Tại Xứ Bùi Thái, tỉnh Biên Hoà, giáo phận Xuân Lộc, Việt Nam, có một gia đình làm nghề mổ thịt chó. Ông chồng làm xong, bà vợ đem ra chợ bán. Vào quãng năm 1984 bà vợ lâm trọng bệnh. Cha chính xứ Bùi Thái, lúc ấy là Cha Bách, được mời đến để ban các phép cuối cùng. Cha xứ tới ban phép Giải tội và Xức dầu xong, khi trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, thì không thấy Mình Thánh trong hộp đựng Mình Thánh đâu! Ngài tưởng mình quên, nên chỉ khuyên bảo bệnh nhân đôi lời rồi ra về.
Ngày thứ hai, trước khi tới nhà bà ấy, Cha Bách đã nhắc mình nhớ lấy Mình Thánh Chúa. Ở tại nhà kẻ liệt, khi ngài làm các lễ nghi xong, tới lúc mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, ngài cũng chẳng thấy Mình Thánh đâu. Thật lạ lùng, chẳng hiểu tại sao. Sau đó, ngài cũng lại âm thầm trở về.
Tới lần thứ ba, Cha Bách mới nói với Ông Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ biết, hôm trước ngài đem Mình Thánh đến nhà kẻ liệt, mà thấy Mình Thánh Chúa biến mất. Lần này ngài xin ông ấy làm chứng, ngài đã lên nhà thờ lấy Mình Thánh Chúa, để đem tới nhà kẻ liệt. Nhưng kết quả lần thứ ba này cũng như hai lần trước: khi mở hộp Mình Thánh Chúa ra, thì cũng chẳng còn Mình Thanh Chúa nữa. Cha Bách và Ông Chủ Tịch trở về đầy kinh ngạc.
Tới lần thứ tư, Cha Bách cùng với ông Chủ Tịch đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt như ba lần trước. Lần này trước khi mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, thì Cha Bách hoi bệnh nhân:
- Đã ba lần tôi đem Mình Thánh cho bà, mà cả ba lần Mình Thánh Chúa đều biến mất. Vậy để lần này Chúa khỏi biến mất đi như trước, thì bà xét mình lại, xem có điều gì ngăn trở cho được chịu lễ chăng? Những lan xưng tội vừa qua bà xưng tội có nên không? Có giấu tội không?
- Thưa cha con không giấu tội.
- Vậy không hiểu tại sao Mình Thánh Chúa biến đi? Bà thử nhớ lại coi, trong gia đình có sự hoà thuận yêu thương nhau không?
- Thưa cha, không có hoà thuận, vì trước đây có mấy lần con đi bán thịt về, bán không được giá, phải bán rẻ, nhưng nhà con không hiểu, lại hồ nghi cho con giấu tiền, hay làm thế này thế nọ, nên giữa con và chồng con từ đó khong tin tưởng và yêu thương nhau nữa!
- Nếu vậy thì bà hãy làm hoà với ông ấy, để xứng đáng Chúa ngự vào lòng bà. Chúa không muốn ngự vào những tâm hồn giận ghét nhau.
Cha xứ cho mời ông chồng đến bên giường. Hai vợ chồng làm hoà cùng nhau. Sau đó ngài mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, Mình Thánh Chúa vẫn còn. Bệnh nhân đã được Rước lễ, sau đó mấy ngày thì qua đời. Một người trong cuộc đã thuật lại câu chuyện này trong tuần tĩnh tâm cua tổ chức Gia đình Đồng Công tại Thủ Đức, Việt Nam. (Tu sĩ Kim Ngân, CRM, Dongcong.net)
Tin Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa hôm nay, Thánh Máccô thuật lại Đức Giêsu thành lập Bí tích Thánh Thể. “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người.” (Mc 14, 22-24)
Hy tế
Giao Ước Cũ dùng chiên bò làm của lễ hiến dâng lên Thiên Chúa, như Bài Đọc I, trích sách Xuất Hành vào thời ông Môsê. “Sáng sớm, ông chỗi dậy, lập bàn thờ ở chân núi, dựng mười hai cột trụ, chỉ mười hai chi họ Israel, ông sai các thanh niên trong con cái Israel mang của lễ toàn thiêu và hiến dâng lên Chúa những con bò tơ làm hy lễ giao hoà.” Mặc dù dân Chúa luôn sống bất tín bất trung, nhưng “Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung.” (Tv 85, 5b)
Sang đến thời Giao Ước Mới, Chúa Giêsu dùng chính Máu và Thịt của mình làm của lễ hiến tế, gánh hết tội lỗi nhân loại, làm giá cứu chuộc muôn dân, tái lập mối giao hoà giữa Thiên Chúa và con người, cùng như hoà giải con người với nhau. “Đức Kitô Giêsu, Đấng tự hiến làm giá cứu chuộc mọi người.” (1Tm 2, 6)
Phục vụ
Chính Đức Giêsu cũng đã công khai sứ vụ nhập thể là phục vụ và hy te: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mt 20, 28)
Khiêm hạ, thầm lặng, nhẫn nhục, nhập thể trong nghèo khó, Đức Giêsu hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, rao giảng, chịu lăng mạ, khổ nạn, chịu chết và phục sinh, vì sức sống của Người chính là tuân phục Thánh Ý: “Lương thực của Thầy là làm theo thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.” (Ga 4,34). Không những phục vụ Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu còn phục vụ con người, tự biến mình thành lương thực trường sinh, dưỡng nuôi và giải thoát con ngưởi khỏi vũng lầy tội nhơ, khỏi vong thân chịu chết, được sống viên mãn muôn đời. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” (Ga 6, 54-55)
Đức Giêsu cũng không chỉ phục vụ bằng việc rao giảng, mặc dù Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 119,105), nhưng còn bằng chính hành động, thái độ phục vụ tha nhân cụ thể, như biến nước thành rượu giúp đôi tân hôn ở Cana, chữa bệnh, trừ quỷ, tha thứ lội lỗi, hoá bánh ra nuôi hàng ngàn dân, cho sống lại. Cao điểm phục vụ nhân loại là Chúa Giêsu hoá thân vào Bánh và Rượu để trở nên lương thực trường sinh. “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.” (Lc 22, 19)
“Mỗi khi trao Chúa Giêsu Thánh Thể cho giáo dân, con hãy ý thức trao cả đời con, thời giờ của con, sức khoẻ, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người, không phân biệt ai.” (Đường Hy Vọng, số 376)
Hiệp nhất
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.”( Ga 6, 56) Người Kitô hữu được hiệp nhất và thánh hoá nhờ Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, đón rước Thánh Thể. Như cành nho kếp hợp chặt chẽ với cây nho, chung một dòng nhựa dưỡng nuôi toàn thân, toàn thể mọi cành, người tín hữu Kitô cùng chịu khổ nạn với Chúa Giêsu qua những thánh giá bổn phan, trách nhiệm hằng ngày.
Như thế nhờ Người, với Người và trong Người, người Kitô hữu dồi dào ân sủng, thanh khiết, mới có thể xứng đáng trở nên con cái Thiên Chúa, cũng như gắn bó mật thiết với nhau, trở thành anh em với mọi người. “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau.” (Ep 4, 3)
“Giọt nước hoà tan vào rượu thế nào, đời con tan biến trong Chúa Kitô như vậy.” (Đường Hy Vong, số 368)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Người hằng đêm ngày, thầm lặng chờ đợi chúng con đến với Người, dâng lời cảm tạ và ngợi khen, cùng được đón rước vào lòng. Nhưng chúng con đã nhiều khi hững hờ, thờ ơ, lười biếng, ngại ngùng, quên bẵng, chỉ vì thiếu lòng mến, thiếu tình yêu Chúa. Kính xin Chúa Thánh Thần tái sinh chúng con, ban xuống Tin Cậy Mến dồi dào, cho chúng con biết trở về với Tình Yêu vô biên, với Lòng Thương Xót vô bờ.
Lạy Mẹ Maria, Người Nữ Thánh Thể, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II đã khẳng định, xin cầu bầu, giúp đỡ chúng con luôn hiệp nhất với Mình Máu Chúa Giêsu, để chúng con đầy tràn hồng ân, đem chia sẻ tình yêu Thiên Chúa với mọi người. Amen.
19. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
Trong một dịp gặp gỡ với những bạn bè cùng lới thời phổ thông trung học, thì bất ngờ, một người bạn ngồi bên cạnh đặt câu hỏi như thế này: "Bánh Thánh trên bàn thờ mà mọi người sẽ lên nhận lấy, có phải là Mình Chúa thật sự, hay đó chỉ là một biểu tượng?" Và con đã trả lời rằng: "Đây là một vấn đề thuộc lãnh vực đức tin. Nếu không cùng một niềm tin, thì làm sao anh có thể chấp nhận được những điều tôi nói."
Thưa anh chị em! Câu chuyện đã kết thúc một cách ngắn ngủi như vậy. Thế nhưng dư âm của nó thì có thể nói là vẫn còn kéo dài cho tới ngày hôm nay. Và rồi hàng năm, mỗi khi đến ngày lễ này, ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, con đều nhớ lại kỷ niệm đó, một kỷ niệm không chỉ đơn giản là một lần tay bắt mặt mừng, mà dường như đó là một cơ hội Chúa gửi đến để giúp mình xác tín mạnh mẽ hơn về sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể.
Khi còn ở trần gian này, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: "Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." Nghĩa là trong tình thương của Chúa, Người sẽ đồng hành với chúnmg ta suốt mọi ngày trong đời sống của mình. Nếu đọc lại lời hứa này trong cái nhìn tâm lý, chúng ta sẽ thấy rằng: Đức Giêsu không thể không hiện diện trong Bí tích Thánh thể được. Bởi vì khi yêu nhau, người ta không bao giờ muốn rời xa nhau. Va nếu vì lý do nào đó mà người ta không thể ở gần nhau được, thì họ sẽ cảm thấy một nỗi trống vắng rất lớn lao, cho nên người ta mới nói rằng:
"Người đi một nửa hồn tôi mất,
một nửa hồn kia đứng dại khờ."
Bước vào trần thế này bằng con đường Tình Yêu: "Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào", Đức Giêsu cũng mang một nỗi niềm như thế. Nghĩa là trong ước mơ của Chúa luôn có bóng hình của chúng ta. Chúa hoàn toàn không hề muốn xa lìa những kẻ Người thương mến, nên đã có lần Người mở miệng kêu xin rằng: "Lạy Cha! Con muốn rằng: con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đó với con." Yêu là muốn gần nhau, là muốn đồng hành với nhau.
Người ta không thể cứ ở xa nhau mãi, rồi chỉ gửi biểu tượng đến thay thế cho tình yêu. Như vậy thì làm sao ta có thể nói bánh và rượu trên bàn thờ, mà chút nữa đây tôi sẽ rước lấy, chỉ là biểu tượng của Mình và Máu Chúa Kito. Vã lại, nếu tấm bánh trên bàn thờ đó không là sự hiện diện thật của Chúa, thì rõ ràng, Người đã không yêu chúng ta bằng con người thật, mà ngược lại, đó chỉ là bóng hình của tình yêu mà thôi.
Mà nếu chỉ là bóng hình thôi thì chắc chắn rằng, tình yêu giữa Thiên Chúa và con người vẫn mãi mãi là một tình yêu dang dở. Hơn nữa, xét trong ý nghĩa: yêu là cho đi tất cả, là cho đi trọn vẹn, thì quả thật, bánh và rượu trên bàn thờ phải thật sự là thịt và máu Chúa. Bởi vì Chúa muốn ở gần với tôi và ở trong tôi, cho nên Chúa không thể và không bao giờ gửi một biểu tượng đến ở với tôi. Chính vì thế mà khi nói rằng: Bánh và rượu trên bàn thờ chỉ là biểu tượng của mình máu thánh Chúa, thì đó mới thật sự là một điều khó hiểu, vì nó hoàn toàn mâu thuẫn với hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Người đã chấp nhận chết trên thập giá để minh chứng tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Thưa anh chị em! Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay xoay quanh một vấn đề rất căn bản: "Đức Kitô chính là tấm bánh mang lại sự sống đời đời cho tất cả những ai tin vào Người". Có lẽ chúng ta cũng vẫn còn nhớ phép lạ vĩ đại mà Đức Giêsu đã thực hiện để nuôi sống hơn năm ngàn người trong nơi hoang vắng. Ngày hôm ấy, liền sau khi dân chúng được no nê thừa thãi một thứ bánh đặc biệt, thì Đức Giêsu giới thiệu cho họ mot thứ bánh đặc biệt hơn, cao quý hơn.
Thứ bánh đặc biệt này mới thật sự cần thiết và đem lại sự sống đời đời cho chính họ, đó chính là Mình và Máu Chúa: "Tôi chính là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi sẽ không hề đói. Ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ". Và hôm nay đây, trong khung cảnh ấm cúng của bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng với các đồ đệ của mình, Đức Giêsu đã xác nhận một lần nữa khi cầm bánh và rượu trong tay mà đọc rằng: "Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy. Này là Máu Thầy, Máu Giao ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội".
Như vậy Đức Giêsu đã tìm ra được một phương thế để ở lại với các môn đệ, cũng như là với tất cả những ai tin vào Người, đó chính là Bí tích Thánh thể, Bí tích của tình thương Chúa. Và chắc chắn rằng ai trong chúng ta đang ngồi đây cũng đã tin vào Chúa Giêsu hiện điện trong Bí tích ấy. Thế nhưng chúng ta hãy dành một chút thơi giờ để nhìn lại xem: thái độ bên ngoài của chúng ta có ăn khớp với niềm tin của mình không? Nói khác đi là tôi có kính trọng đủ và coi Bí tích Thánh thể như là một thứ lương thực cần thiết cho đời sống của mình không?
Bởi vì thực tế đã cho thấy rằng: có khi chúng ta đến với Bí tích Thánh thể, đến với Thánh lễ ngày Chúa nhật một cách gượng ép ngại ngùng. Người ta đi lễ thì tôi cũng đi. Tôi đi lễ vì sợ người ta có một cái nhìn không tot về tôi. Tôi đi lễ vì sợ ông cha biết mình bỏ lễ ngày Chúa nhật. Vào trong nhà thờ: người ta đứng thì tôi đứng; người ta ngồi thì tôi ngồi; người ta quỳ thì tôi cũng thế; người ta đi rước lễ thì tôi cũng vậy, mà tôi hoàn toàn không có một chút ý thức nào cả. Tệ hơn nữa là tôi đang ở trong tình trạng tội nặng mà tôi vẫn ung dung đi rước lễ như mọi người. Hoặc là ngược lại với thái độ trên, tôi quá kính trọng Mình Thánh Chúa đến độ mà giờ đây thứ lương thực siêu nhiên đó đã trở thành xa lạ với tôi. Tôi luôn cảm thấy mình bất xứng thấp hèn, nên không bao giờ tôi dám đến gần, mà cũng chẳng bao giờ tôi dám rước lấy.
Thưa anh chị em! Chúng ta cần loại trừ ngay cả hai thái độ ấy trong đời sống niềm tin của mình, bởi vì như lời một Thánh Vịnh đã viết: "Nếu Chúa tôi nhớ hoài sự lỗi, nào có ai chịu nổi được ư". Dĩ nhiên là khi muốn rước Chúa, chúng ta cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo, ít ra là theo những điều kiện mà Giáo hội đã chỉ dạy. Thế nhưng việc rước lễ sốt sắng sẽ mang lại cho chúng ta nhiều ơn ích thiêng liêng, mà trong đó, chúng ta sẽ nhận được ơn tha thứ các tội nhẹvà những sức mạnh cần thiết để chúng ta sống cuộc đời này tốt hơn, đẹp lòng Chúa hơn.
Ước mong rằng, cùng với việc tìm kiếm lương thực nuôi dưỡng cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng biết sắp xếp công ăn việc làm của mình để tìm đến với Bí tích Thánh thể, với Thánh lễ hàng ngày, hàng tuần bằng tất cả lòng tin tưởng và kính trọng, để lãnh nhận thứ lương thực thiêng liêng, một thứ lương thực mà Chúa đã bảo đảm là sẽ ích lợi và can thiết cho cuộc sống này và đời sau vĩnh cữu. Đó chính là đều mà chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau trong Thánh lễ hôm nay.
20. Đây là đất thánh - Arthur Tone.
Một linh mục Mỹ, cha Frank Ramsberger đi viếng đất thánh. Cha muốn khảo cứu, đặc biệt những nơi Chúa Giêsu đã sống, đã làm việc, đã chịu nạn, chết và sống lại từ cõi chết. Cha làm thân với một cậu trai tên Yosef, người có bộ mặt nâu của một người chăn cừu Ả-rập. Cậu bé giúp le cho cha, dạy cha một vài từ ngữ Ả-rập khó.
Khi vị linh mục sắp sửa từ biệt để đến một vùng khác của đất thánh, ngài nói với Yosef: “Có ít con trai và con gái được đặc ân sống trên mảnh đất Đức Giêsu đã sống. Con biết rằng Con Thiên Chúa đã sống như một cậu con trai, một người đàn ông, đã đi đứng trên những con đường này và đã thở bầu không khí này. Cái đó không giúp con yêu Người hơn sao?
Yosef trả lời một câu đầy ý nghĩa: “Cha chẳng cần phải sống ở đây để yêu Chúa, vì bây giờ Chúa ở khắp nơi trên thế giới. Ngày nay mỗi một nơi đều là đất thánh. Bất cứ nơi nào chúng ta ở, chúng ta ở trên đất của Chúa Giêsu.
Có bao giờ bạn nghĩ như vậy không? Pilsen (thay thế bằng tên họ đạo của cha) là một phần đất thánh. Đức Giêsu ở ngay đây, ngay lúc này.
Đây là ý tưởng về ngày lễ Mình Thánh Chúa. Thân thể Đức Kitô. Chúng ta nhắc lại thứ năm tuần thánh. Lúc đầu tiên Người nói những lời này: “Đây là Mình Ta… đây là Máu Ta”. Hôm nay chúng ta mừng lễ, về việc những lời trên được lặp lại trên khắp thế giới mỗi ngày, về việc Đức Giêsu hiện diện trên mọi bàn thờ khắp thế giới. Đức Kito ở nơi đây. Đây là đất thánh Pilsen (tên họ đạo thành phố) là đất thánh.
Đây là Betlehem. Đức Giêsu sinh ra tại đây trong mỗi Thánh Lễ. Đây là Nazareth. Đức Giêsu lớn lên ở đây trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu làm phép lạ ở đây, phép lạ thiêng liêng: Người chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Người chừa những người què thiêng liêng để họ có thể bước đi trên đường lối của Người. Người mở mắt cho những ai không thấy được những sự thiêng liêng. Đức Giêsu tha thứ tội lỗi tại nơi đây trong tòa cáo giải.
Quan trọng nhất, ngôi Thánh đường này là “Căn phòng rộng trên lầu” trong Tin Mừng hôm nay, ở đó Đức Giêsu đã nói lời truyền phép đầu tiên. Không có nơi nào Thánh hơn nơi này.
Đây cũng là Cana, Đức Giêsu tham dự đám cưới trong nhà thờ này. Người dự đám tang nơi quê hương Người. Người ở ngay đây, khi chúng ta an táng một người thân yêu. Đây là Đền Thờ Giêrusalem. Đức Giêsu giảng dạy ở đây qua vị linh mục của Người, qua các thầy cô giáo lý, qua cha mẹ của các con em. Chúa Giêsu hiện diện trong làng, trong nhà thờ, ngoài phố, ngoài cánh đồng, trên bờ hồ, trên đỉnh đồi, và ngôi nhà ở đất thánh. Người cũng hiện diện trong nhà của chúng ta.
Hôm nay là ngày của Chúa Cha, trên đất thánh Đức Kitô tôn kính Cha trên trời của Người. Trong phương cách giới hạn của chúng ta, chúng ta hãy tôn kính Cha mình. Bạn hãy nói với cha bạn như Đức Giêsu thường nói với Cha Người rằng: Bạn yêu Người, bạn quý mến những gì Cha bạn làm cho bạn.
Vâng, bạn và tôi thực sự đang sống trên đất thánh, vì Thiên Chúa làm người sống tại nơi đây ở giữa chúng ta: Mình Thánh Chúa Kitô ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
21. Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy
(Suy niệm của Noel Quesson)
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264) vào ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm nay.
Đã có nhiều phép lạ về Thánh Thể. Chắc Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của chúng ta vào bí tích này, cho chúng ta hiểu rõ ý định của Người khi lập phép Thánh Thể, đó thực là của nuôi linh hồn chúng ta, cần thiết cho linh hồn cũng như đồ ăn cần cho thân xác. Đó thực là Thịt và Máu của Chúa, dù mắt thường không nhận rõ thực tại này.
Trong Thánh Lễ, linh mục làm những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa Tiệc ly, cũng đọc những lời Chúa đã đọc: “Các con làm việc này để nhớ đến Thầy”. Làm việc này là việc gì? Là cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và phân phát cho mọi người.
Bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống Kitô hữu. Trước hết vì ở đây cử hành mầu nhiệm Cứu độ. Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc nhân loại. Người chết vì yêu thương chúng ta. Ngoài việc chết một lần trong lịch sử, Chúa còn dùng Thịt và Máu nuôi dưỡng ta, để biểu lộ Tình yêu của Chúa, để ta thông hiệp với sự sống vô biên của Chúa, của một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến muôn đời. Những thực tại này được thể hiện trong bí tích Thánh Thể, trong Thánh Lễ. Sống cuộc sống thế trần chúng ta cốt đem sự sống tới cho loài người và bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn sự sống. Chúng ta cần năng tiếp xúc với nguồn sống đó, chúng ta mới có sự sống để có thể chuyển thông sự sống ấy cho người khác.
Trong Thánh Lễ, chúng ta được đón nhận Lời Chúa và tiếp nhận Mình Chúa vào tâm hồn. Lời Chúa đã thành cụ thể đi vào tâm hồn ta khi ta tiếp nhận Mình Chúa. Chúa đã hiến mạng sống cho mọi người và trao ban chính mình cho chúng ta như là bánh sự sống, vì lẽ đó, tiệc Thánh Thể là nhiệm tích Mình và Máu Đức Kitô, nhiệm tích của sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Chính Thánh Linh đã làm cho Đức Kitô thực sự có mặt và hiến ban trong Bánh và Rượu (Conseil oecuménique năm 1974).
Tiệc Thánh Thể còn là cuộc họp mặt của các tín hữu. Muốn được Ơn Chúa, chúng ta phải hiệp nhất với nhau. Thánh Thể là dấu hiệu hiệp nhất rõ ràng và vững chắc: chỉ có một tấm bánh, một chén rượu chia ra cho mọi người. Trong chúng ta đều lưu hành một của ăn và một thức uống, đều có chung một nguồn sống. Từ Thánh Lễ đi ra, chúng ta ý thức mình là một phần chi thể, là Thịt Máu Đức Kitô, chúng ta mang Đức Kitô trong mình. Trong khi đó, người anh chị em bên cạnh ta cũng là phần chi thể Máu Thịt Đức Kitô như ta. Còn gì gần gũi hơn và thân thiết hơn thế.
Lạy Chúa, nhờ bí tích Thánh Thể, chúng con được hòa nhập vào sự sống Thánh thiện của Chúa. Nhờ hiến lễ Tạ Ơn, chúng con cũng được tôn vinh Thiên Chúa; nhờ Tiệc Thánh, chúng con được hiệp nhất với nhau trong Ngài. Chúng con xin cảm tạ Ngài.
22. Dự tiệc Chiên Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mc 14: 12 -16.22.26: Trước lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho giáo dân, linh mục chủ tế nâng cao Mình Thánh và đọc: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Lời này gợi lên niềm vui...
Trước lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho giáo dân, linh mục chủ tế nâng cao Mình Thánh và đọc: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Lời này gợi lên niềm vui, hạnh phúc cho mọi người tham dự thánh lễ được Chúa mời đến dự tiệc. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, mỗi tín hữu là khách mời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh lễ khởi nguồn từ Tình Yêu Ba Ngôi được mặc khải nơi Thập giá Chúa Kitô. Cử hành Thánh Thể là cử hành mầu nhiệm hy tế thập giá của Chúa Giêsu, hy lễ tình yêu Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Cử hành Công Việc của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thúc đẩy Chúa Kitô hiến mình làm Lễ Hy Sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa (Dt 9,14). Rước lễ là đón nhận Chúa Giêsu Phục Sinh và trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa.
1. Hy lễ cứu độ
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Ngài đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn hai ngàn năm qua.
Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh Thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Ngài. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Ngài mà không hội tụ trong Thánh Thể.
Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
2. Phúc cho ai đến dự tiệc.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Linh mục đọc lời này giới thiệu Mình Thánh Chúa Giêsu cho cộng đoàn tín hữu, trước khi rước lễ.
Khi nói "đây chiên Thiên Chúa" là linh mục chủ tế nhắc lại lời trong sách Khải huyền: Thiên thần bảo tôi, "Hãy viết, Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên!". Người lại bảo tôi, "Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa." (Kh 19,9). Sách khải huyền nhắc tới "con chiên" mà thánh Gioan Tiền Hô đã giới thiệu, "Hôm sau, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.." (Ga 1,29). Thánh Gioan tiền hô thì nhớ tới "con chiên" mà tiên tri Isaia đã nói đến trong chương 53.
Trên đường Emmau, chính Chúa Phục Sinh đã đến đồng hành với hai môn đệ, đã dừng lại bẻ bánh trao cho họ, và bấy giờ họ mới nhận ra Ngài. Câu chuyện này đã được Thánh Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”. Trong năm cuối cùng của sứ vụ Giáo hoàng, Thánh Gioan Phaolô II đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.
Trong Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu đến hiện diện với chúng ta, gặp gỡ chúng ta, qua Phụng vụ Lời Chúa và việc Bẻ Bánh.
Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng Bí tích Thánh Thể. Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”. Rước lễ là gặp gỡ Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại : “Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy”. Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Trong Tông huấn “Bí tích Tình Yêu” năm 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 đã dùng thành ngữ “con người Thánh Thể” để nói về các tín hữu. Con người Thánh Thể là người năng rước Chúa vào lòng, để Thịt và Máu Chúa thấm nhập vào trọn vẹn cuộc sống của họ, nhờ đó, họ có thể nói như Thánh Phaolô Tông đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Con người Thánh Thể là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa để nhờ đó mà họ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Con người Thánh Thể còn là người ý thức mình là chi thể của Giáo Hội, chuyên tâm sống và nỗ lực kiến tạo tình hiệp thông giữa những người con cái Chúa, xây dựng một xã hội bình an và nhân ái. Từ mỗi con người Thánh Thể, chúng ta có thể kiến tạo những cộng đoàn Thánh Thể, tức là một cộng đoàn có Thánh Thể là trung tâm, là mối giây liên kết và là ý lực sống cho mọi thành viên của cộng đoàn này. Cộng đoàn Thánh Thể lấy sự hiệp nhất yêu thương làm nền tảng, vì mọi người được nuôi dưỡng bởi cùng một lương thực, như Thánh Phaolô viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta chỉ là một chi thể” (1 Cr 10,17).
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại thánh lễ ban đầu của Giáo Hội sơ khai bằng một đoạn văn ngắn: “Các tín hữu hợp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42). Họ được toàn dân thương mến, điều đó có nghĩa là cứ sau những nghi thức bẻ bánh như thế, người chung quanh xóm giềng thương nhóm tín hữu này. Và rồi “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”, nghĩa là sau các thánh lễ như thế, dân chúng thương nhóm tín hữu này rồi họ xin nhập đạo. Kết quả của Bí tích Thánh Thể là mức độ tăng trưởng về tình yêu.
3. Đồng bàn và rửa chân.
Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 51 tổ chức tại Cebu, Philippines từ ngày 24 đến 31.01.2016. Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi sứ điệp cho đại hội. Ngài gợi lên hai cử chỉ của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và mời gọi suy ngẫm theo chiều kích truyền giáo của Thánh Thể. Đó là việc đồng bàn và rửa chân.
Ngồi vào bàn ăn, Chúa Giêsu có thể lắng nghe người khác, nghe chuyện đời của họ, cảm thông với niềm hy vọng và khao khát của họ, và nói cho họ biết tình yêu của Chúa Cha. Mỗi khi đến với Thánh Thể, bàn Tiệc Ly của Chúa, chúng ta được thúc đẩy noi theo tấm gương của Chúa, bằng cách đến với người khác, trong tinh thần tôn trọng và cởi mở, để chia sẻ với họ ơn huệ chúng ta đã lãnh nhận.
Hình ảnh khác mà Chúa gửi đến chúng ta trong Bữa Tiệc Ly là rửa chân. Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ của Ngài như là một dấu chỉ của sự phục vụ khiêm hạ, của tình yêu vô điều kiện mà Người đã hiến mạng trên thập giá để cứu rỗi thế giới. Bí tích Thánh Thể là trường dạy phục vụ khiêm hạ. Bí tích Thánh Thể dạy chúng ta sẵn sàng hiện diện vì người khác. Cả điều này cũng phải ở nơi con tim của người môn đệ truyền giáo.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa.
Thánh Gioan Phaolô II viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng”(Tông huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”, số 24).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
23. Tặng phẩm thần linh.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26,26-29; Lc, 22,14-20). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần.Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô (1Cor 10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô- hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép:
“Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
“Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh The IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo,vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống …” (Mt 25, 35-36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài.Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép.
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một … (Ga 3,16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chua Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
24. Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong một số nhà thờ, nơi gian cung thánh hay trước bàn thờ có chạm trổ hình con chim bồ nông mẹ đang truyền của ăn cho các chim con. Biểu tượng của chim bồ nông mẹ nuôi con có gốc tích trong truyền thuyết cổ xuất hiện trước thời Kitô giáo. Theo truyền thuyết, trong mùa đói khát, chim bồ nông mẹ đã lấy mỏ tự mổ vào ngực để dùng máu mình mà dưỡng nuôi các con. Có một truyền thuyết khác nói rằng chim bồ nông mẹ đã dùng máu mình để tái sinh các con đã chết, nhưng chính mẹ lại bị chết. Chúng ta dễ hiểu tại sao các Kitô hữu thời sơ khai đã dùng hình ảnh này để ám chỉ Chúa Giêsu. Chim bồ nông mẹ là biểu tượng Chúa Giêsu cứu độ đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Con người đã chết trong tội và được vui hưởng sự sống mới qua giá Máu Châu Báu của Chúa Kitô.
Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Bí tích Tạ Ơn (Thanksgiving). Chúa Giêsu đã lập Bí tích này trong Bữa Tiệc Ly như là Giao Ước mới. Ngày xưa, ông Môisen đã dâng lễ toàn thiêu và hiến dâng Thiên Chúa của lễ đền tội. Dân Dothái đã giết những con bò tơ làm hy lễ giao hoà. Ông Môisen hướng dẫn Dân theo nghi thức hoà giải. Ông dâng của lễ và mời gọi dân chúng đồng lòng tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa: Ông lấy cuốn sách giao ước đoc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Thiên Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24,7). Ông lấy máu rảy trên dân để ký kết giao ước: “Đây là máu giao ước Thiên Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8).
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái diễn tả về Chúa Giêsu: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9,12). Ngày xưa người ta dùng máu dê và tro bò rảy trên kẻ ô uế còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, thì nay Chúa Kitô đã hiến tế chính máu mình để tẩy sạch tội lỗi chúng sinh. Trước khi dâng mình hiến tế trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Thánh Marcô đã ghi lại: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14,22). Bánh và rượu là của ăn, của uống nuôi sống chúng ta hằng ngày. Hình ảnh tấm bánh được kết thành bởi muôn hạt miến và chén rượu được ép bởi muôn ngàn trái nho chín. Chua dùng cả bánh và rượu để biến đổi nên Mình và Máu Thánh Chúa: Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,23-24).
Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần và các linh mục lập lại lời truyền phép của Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục thượng phẩm, bánh và rượu đã trở nên Mình Máu Chúa. Sau khi đọc lời truyền phép, linh muc chủ tế đã tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tin thật Chúa Giêsu ngự trong Bí tích Thánh Thể. Sự biến đổi bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lúc chúng ta lên rước lễ, trước khi trao Mình Thánh, linh mục nói: Mình Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Khi trao Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên nâng cao chén thánh và nói: Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm của đời sống người Kitô hữu. Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể. Tín hữu trong Giáo hội Công giáo tin nhận Chúa Giêsu hiện diện thật nơi Nhà Tạm và Mình Thánh là của ăn đàng cho những kẻ đau yếu bệnh hoạn hay trong cơn hấp hối.
Chúa Giêsu đã dưỡng nuôi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh. Hình ảnh thứ hai rất thân thương và gần gũi là người mẹ nuôi con cũng bằng chính dòng sữa của mình. Các trẻ thơ đã được bú trực tiếp từ nguồn sống của người mẹ. Ở các nước chậm phát triển, các bà mẹ thường cho con bú từ 6 tháng tuổi cho tới 2 năm. Chúng ta biết nguồn sữa từ vú mẹ là loại sữa tốt nhất trong các loại sữa. Sữa được tiết ra từ dòng máu của mẹ. Sữa mẹ là nguồn sống và là nguồn tình yêu. Sữa có đủ các chất béo, ngọt, nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho bé phát triển. Có một điều lợi ích của việc cho con bú là trung bình 500 lượng calo, một ngày sẽ giúp người mẹ giảm cân sau khi sanh.
Chúa Giêsu đã nhiều lần hoá bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cũng đã làm biến đổi sáu chum nước ra thành rượu tại tiệc cước Cana. Chúa biết những nhu cầu cần yếu của cuộc sống con ngươi. Con người sống thì cần phải ăn phải uống và phải hít phải thở. Ăn uống làm tăng thêm chất bổ dưỡng để nuôi sống. Thật lạ lùng, khi chúng ta ăn bánh, uống rượu và bất cứ loại đồ ăn thức uống nào, khi đã nuốt vào bao tử trong vòng 30 phút, các cơ quan trong thân thể nhanh chóng biến đổi các thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi sống các cơ quan. Thức ăn trở thành máu, thành thịt và giúp làm sống động các cơ năng tuần hoàn trong thân thể. Đây là một chu kỳ nhiệm mầu mà Thượng Đế đã an bài.
Thức ăn bổ dưỡng sẽ giúp cho thân xác khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn. Bí tích Thánh Thể cũng đáp ứng những nhu cầu về linh hồn và thân xác. Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Có nhiều nơi, các tín hữu có thói quen thay phiên nhau Chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm. Có những người quỳ lặng cầu nguyện trước Nhà Tạm hàng giờ để kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn suối ủi an và nơi nương tựa. Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể sẽ mang lại nguồn tươi mát và dịu êm. Giáo Hội mời gọi chúng ta năng kính viếng và lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa. Chúng ta sẽ gặp gỡ một Chúa thật có trái tim biết cảm thông và yêu thương.
Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu mà Chúa Giêsu đã lập để tiếp tục lễ hy sinh trên Thánh giá và để ban Mình Máu Người hiện diện trong hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong thánh lễ. Thánh le dâng mỗi ngày cũng là một lễ như xưa trên cây Thánh Giá, vì cũng là một Chúa Kitô làm chủ tế và của lễ nhưng không còn đổ máu như xưa. Thánh lễ quý trọng vô giá. Thánh lễ giao hoà con người với Thiên Chúa. Thánh le liên kết mọi người hợp nhất với nhau. Thánh lễ là lời tạ ơn tuyệt vời. Thánh lễ mang lại ơn tha thứ và cứu độ. Mỗi khi cử hành thánh lễ, chúng ta tuyên xưng việc Chúa Giêsu chịu đau khổ, chịu chết và sống lại cùng mong đợi Chúa lại đến trong vinh quang.
Chúng ta hãy năng tham dự thánh lễ. Tham dự một cách sốt sáng và hiệp thông. Chúng ta không đi xem lễ hay dự lễ như khách bàng quan, nhưng hãy tham dự một cách tích cực. Hiệp lễ bằng cách cùng thưa kinh, dâng lời ca tiếng hát, hoà điệu trong mọi nghi thức cử hành và nhất là lắng nghe và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống. Có đôi trường hợp, chúng ta đi tham dự thánh lễ như để chu toàn bổn phận giữ ngày Chúa Nhật. Đi trễ về sớm. Không hiểu ngôn ngữ, nghe tai này ra tai kia. Để nuôi dưỡng đời sống nội tâm, chúng ta cần dành chút thời giờ riêng tâm sự với Chúa và sưởi ấm tâm hồn.
Lạy Chúa, con nhìn thấy Nhà Tạm nơi Chúa ẩn ngự, nhưng con chẳng muốn đến gần. Con tất bật lo lắng công việc và đi qua đi lại lo sửa soạn mọi thứ. Đèn chầu vẫn cháy sáng, nhưng lòng con đã ngụm tắt từ bao giờ. Xin Chúa giúp chúng con khơi lại ngọn lửa mến để sưởi ấm tâm hồn. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con thờ ơ lãnh đạm và làm ngơ trước sự hiện diện của Chúa. Xin thương xót chúng con.
25. Giao Ước Tình Yêu
(Suy niệm của Huệ Minh)
Nhớ lại trong lịch sử cứu độ, thì các lễ hy sinh đền tội là việc sát tế, hiến tế và lễ toàn thiêu được dân dâng lên Thiên Chúa. Tất cả các lễ dân dâng lên Thiên Chúa bằng máu chiên bò chỉ là lễ phẩm chứ không thể nào xóa hết tội lỗi của dân được.
Duy nhất chỉ có sự hiến tế chính Con Một của Thiên Chúa mới thật sự là lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Ta vẫn biết máu chính là nguồn của sự sống. Nếu cơ thể của ta thiếu máu hay máu của ta bị lỗi thì sự sống trong ta sẽ yếu ớt hay sẽ không còn nữa.
Máu của Đức Kitô hiến dâng trên thập giá dù chỉ một lần là đủ cho tất cả công trình cứu độ. Thư gởi tín hữu Do thái viết đã xác tín điều này: Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta (Dt 9,12).
Ta con nhớ của lễ hy sinh mà Thiên Chúa đòi hỏi tổ phụ Abraham là hiến dâng mạng sống chính con một của mình. Của lễ hiến dâng này không phải để đền tội, nhưng để tỏ lòng tin tưởng, lòng tín thác vào Thiên Chúa duy nhất ma ông tin nhận.
Đáp lại lòng tin vào Thiên Chúa, ông Abraham đã tuyệt đối vâng lời và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông Abraham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai Ixaác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi (St 22, 6).
Có lẽ, lòng tin của Abraham là một lòng tin hết sức đặc biệt. Đến ngày giờ đã được chỉ định, ông và con trai lên đường dâng tiến lễ hy sinh cho Thiên Chúa. Của lễ dâng chính là đứa con trai duy nhất. Ông đã không từ khước đứa con thừa tự yêu quí. Abraham đã dám hy sinh sát tế con của mình. Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt len bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình (St 22, 9-10).
Không còn gì để thử thách lòng tin quá chân thành của ông, Thiên Chúa đã tha chết cho đứa con yêu. Đứng trước lòng tin như vay, Thiên Chúa đã chọn ông làm tổ phụ của tất cả những kẻ tin.
Nhìn lại những lễ nghi của người Do-thái, các Thượng Tế và Thầy Cả đại diện dân giết các con vật làm lễ hiến dâng để đền tội. Vì giá máu là giá của mang sống. Mạng sống của các con vật được dùng để thế mạng sống cho con người. Sách Lêvi đã dậy rằng: Vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống (Lv 17, 11).
Thật thế, ta thấy máu là của lễ hiến tế tinh tuyền, nên sách Đệ Nhị Luật dạy rằng không nên ăn tiết cùng với thịt con vật: Tuy nhiên, anh em phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh em không được ăn mạng sống cùng với thịt (Đnl 12, 23).
Và rồi, ta thấy máu là biểu tượng của sự cứu độ và hy sinh.
Trong ngày Lễ Vượt Qua, Thiên Chúa đã cứu dan Do-thái khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập. Môisen đã ra lệnh cho mỗi gia đình chuẩn bị một con chiên tinh tuyền để sát tế. Máu của chiên sẽ được bôi lên cửa để làm dấu. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, roi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên (Xh 12,6-7).
Dấu chỉ của sự cứu thoát chính là máu được bôi trên các khung cửa. Khung cửa nhà nào có dấu vết máu, thiên thần của Chúa sẽ vượt qua và không sát hại con trai đầu lòng. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng họa trên đất Ai Cập (Xh 12, 13). Máu vượt qua là giao ước Chúa đã lập để đánh dấu sự giải thoát.
Ta nhớ lại hành trình trong hoang địa cũng như khi đã về miền Đất hứa, dân Do Thái tiếp tục tưởng nhơ ngày Thiên Chúa đã đoái thương cứu họ khỏi thân phận nô lệ.
Để ghi nhớ ngày được giải thoát, dân đã cử hành nghi thức giết chiên và lấy máu rẩy trên dân chúng để thanh tẩy được truyền lại từ đời này tới đời kia:Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này."(Xh 24, 8).
Và rồi đến thời Chúa Giêsu, các thầy thượng tế vẫn tiếp tục nghi thức giết chiên bò làm hy lễ đền tội. Họ buôn bán chiên bò, đổi chác tiền bạc ngay nơi tiền đình. Họ đã lạm dụng đánh đổi giá cả và làm ô uế nơi cầu nguyện: Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 15).
Ta vẫn thấy tiếp nối truyền thống của dân Do-thái, Chúa Giêsu đã lập giao ước mới qua chính máu của Ngài. Chúa không dùng máu chiên bò để hiến tế mà dùng máu thịt của chính mình làm của ăn, của uống và là lễ hy tế đền tội cho nhân loại: Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (Ga 6,53).
Và, Chúa Giêsu còn hứa ban cho những ai ăn và uống Máu của Ngài sẽ có sự sống đời đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga. 6,54-55).
Làm thế nào Chúa Giêsu có thể lấy thịt máu mình mà nuôi dưỡng mọi người. Chúa Giêsu đã chọn cách thế tuyệt hảo nhất là dùng bánh và rượu hiến dâng và thánh hiến trở thành Máu và Thịt của Ngài.
Ắt hẳn chúng ta không thể nào quên được rằng Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa nhập thể.
Trong bữa cuối cùng với các môn đệ, chính Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy làm việc này mà nhớ đến Chúa: Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội (Mt 26,27-28).
Máu Châu Báu của Chúa không chỉ nuôi dưỡng linh hồn và thần trí của chúng ta, mà còn có hiệu lực tha tội và ban ơn cứu độ. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô đã viết: Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người (Ep 1,7).
Trong giây phút cầu nguyện trước khi chịu nạn, Chúa Giêsu đã van xin cùng Chúa Cha rằng nếu Cha muốn thì Cha có quyền và có thể cất chén này. Nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ngài đã lãnh chịu tất cả hình khổ để đi trọn con đường cứu rỗi. Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha."(Mt 26, 42).
Tuyệt đỉnh của lễ đền tội là Chúa Giêsu đã hiến chính mạng sống mình trên thánh giá. Chúa đã đổ đến giọt máu cuối cùng để hòan tất hy le hiến dâng.
Chúa Giêsu hiến mình chịu chết giang tay trên thập giá để đền tội cho nhân loại. Chúa đã hòa giải và nối kết giữa trời và đất. Chúng ta biết tội nguyên tổ đã đánh mất nguồn ân sủng siêu nhiên và biến mọi người thành tội nhân. Chính nhờ máu Châu Báu của Chúa giao hòa giúp chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhơ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính (Rm 5, 19).
Sự hòa giải này phải trả bằng giá máu.
Ta thấy, không ai có thể thay thế của lễ hy sinh đền tội này. Duy chỉ có Con Thiên Chúa nhập thể đền thay tội lỗi của nhân loại.Cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật tren trời (Cl 1, 20).
Thư gửi Do Thái đã so sánh rằng máu dê bò rẩy trên mình có thể thánh hóa con người nên trong sạch: Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch (Dt 9,13).
Vậy Máu Thánh của Chúa Giêsu đã đổ ra trên thập giá có hiệu lực tuyệt đối, sẽ xóa sạch mọi lỗi lầm và ban cho chúng ta có sự sống đời đời: Thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (Dt 9, 14).
Thư gửi tín hữu Do-thái đã tóm tắt tất cả hiệu qủa của lễ toàn thiêu và hiến tế, duy chỉ có hy lễ của Chúa Kitô đem lại ơn cứu độ muôn đời: Thật the, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 4-7).
Một giao ước tình yêu, một giao ước cứu độ được chính Chúa Giêsu thiết lập để cứu độ con người, để đem con người hư mất về cho Thiên Chúa.
Từ ngày ta lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, ta được ghi dấu ấn của tình yêu Ba Ngôi trên cuộc đời ta và đặc biệt khi ta được đón nhận Mình và Máu của Chúa vào trong đời ta qua bí tích Thánh Thể. Ước gì dòng máu của Chúa Giêsu - dòng máu của yêu thương đi vào trong cuộc đời ta để ta ngày mỗi ngày kết hiệp mật thiết với Chúa hơn và sống trọn vẹn giao ước tình yêu với Chúa và với anh chị em đồng loại hơn.
26. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
Trong bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con, hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con (Ga 20, 22)
Chưa từng có nhà thần học nào dám nghỉ rằng mình hiểu và diển tả đủ về mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, miệng lưỡi, tâm trí ta phải "khựng" lại trước mầu nhiệm tình yêu quá cao sâu kỳ diệu này. Trong đời thường, nhiều Kitô hữu lại xem nhẹ Thánh Thể. Nhiều người rước Mình Chúa đều đều, nhưng đời sống chẳng thay đổi bao nhiêu, có khi còn tệ hơn. Có mấy ai nghỉ tại sao Chúa Giêsu lại lập Bí tích Thánh Thể trong một bữa tiệc. Thánh Thể liên hệ đến đời sống Kitô hữu thế nào? Chúng ta cùng suy niệm qua bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay.
a. Mình Máu Chúa Kitô là của ăn nuôi người Kitô hữu: Chính Chúa Giêsu ý thức rõ điều đó, khi nói: "Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy hiến ban cho các con..." Hội Thánh tin vào Lời Chúa Giêsu nói; vì thế, qua 20 thế kỷ, Hội Thánh được sống động và tồn tại nhờ thứ lương thực này. Chính Đức Kitô đã nói: "Ai ăn thịt và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời". "Vì thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống..." (Ga 6, 54-55) "nếu các ông không ăn thịt và uống máu Ta, các ông không có sự sống nơi mình..." (c. 6, 52).
Những điều Chúa nói trên, hoàn toàn không có tính tượng trưng, hay chỉ là nói theo nghĩa bóng (vì có người ngày nay, cũng không tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể); Thịt và Máu: chỉ toàn diện con người Đức Kitô đã hiến tế trên thập giá; dòng Máu Chúa đổ ra và cái chết của Người, đã ký kết Giao Ước mới vĩnh cửu để cho nhiều người được tha tội, nhất là trở nên của ăn nuôi người tín hữu, ngay ở đời này...
Một số cac thánh được Chúa ban cho đặc ân là: cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể; chính Chúa Giêsu mỉm cười với Cha Thánh họ Ars trong khi ngài dâng Mình Thánh Chúa lên. Bà Têrêsa Newman và Bà Marthe Robin hầu như chỉ sống nhờ Bánh Thánh thể và nước lả trong mấy mươi năm trời.
b. Tiệc Thánh Thể, chính là tái diển Hy Lễ xưa trên thập giá, và ban Thịt Máu mình hiện diện trong bánh rượu làm của ăn nuôi nhân loại "Tiệc Thánh Thể cũng là bữa Tiệc Hiệp thông trong tình yêu, và trong sức sống của Thiên Chúa; vì thế khi dự Tiệc Thánh Thể, mức độ hiệp thông càng lớn, ta càng giống Chúa Kitô, càng biến đổi nên như Người, sức sống thần linh càng chiếm ngự trong ta"... Chính đời sống các Thánh qua 20 tk, đã minh chứng hùng hồn cho ta về hiệu quả cuả thức ăn này, và sự hiệp thông trong cuộc sống thần linh với Thiên Chúa.
c. Gợi ý suy niệm:
* Chúng ta giử đạo đã mấy mươi năm, rước Chúa có khi đã mấy ký bánh rồi, vậy mà sự sống đời đời có ngập tràn trong ta chưa? Tình yêu của Thiên Chúa có đầy dẩy trong ta không? Hay ta cũng chẳng có gì khác lạ? Hội Thánh qua 20 thế kỷ, đã sống nhờ chính lương thực kỳ diệu này, còn ta thì sao? Nếu chưa có, ta có cách nào sữa đổi, để đón nhận lương thực quá kỳ diệu này?
* đi tham dự thánh lễ chính là để được ăn bánh ban sự sống, để Chúa hiện diện trong ta, cho ta được ngụp lặn trong sự sống thần linh và trong tình yêu Chúa; thế mà bao nhiêu lần ta đi lễ quá nhàm chán, đi lễ cho có, cho rồi, để không lỗi luật ngày Chúa nhật, nhất là đi lễ, rước lễ mà chẳng dọn mình xứng đáng chút nào cả. Hiểu được điều này, ta có nghỉ rằng đây là do lỗi ta, không phải do Thiên Chúa không muốn đến với ta, không muốn yêu thương ta chăng?
27. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị. Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách song Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mon, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
28. Cậu bé Marcellino.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
- “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
- “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay cua Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiec Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta song “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm the Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân ly này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cung hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống đe làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
29. Tình yêu và sự sống.
Đã bao thế kỷ trôi qua, Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Dẫu có gặp muôn vàn thử thách, dẫu phải đương đầu với bao chỉ trích, người tín hữu vẫn kiên vững trong niềm tin không lay chuyển, bởi chính họ biết rõ Thánh Thể đã đem lại cho họ những gì trong cuộc hành trình thiêng liêng của cuộc đời.
Mỗi thánh lễ là một lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ngày lễ trọng được ấn định hàng năm phải là một dịp đặc biệt để chúng ta suy niệm cách sâu sắc hơn về một chân lý vốn được gọi là suối nguồn, là đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu, đó là Bí tích Thánh Thể.
Đã hẳn, trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ở đó để thực hiện lời hứa: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng trước hết sự hiện diện ấy nhằm tái diễn hy tế thập giá của Ngài. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể không phải là một hy tế mới và độc lập, thay thế hay bổ túc cho hy tế thập giá, nhưng là lặp lại hy tế chỉ diễn ra một lần trên thập giá. Cũng một lễ vật, cũng một Đấng đã tự hiến đời mình thuở xưa trên thập giá, còn nay hiến tế qua tác vụ của linh mục trong thánh lễ. Có khác chăng là khác trong cách thức biểu lộ mà thôi.
Như dân Do Thái hằng nhớ lại những kỳ công Thiên Chua, đặc biệt là hai biến cố: Thiên Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và không ngừng ban lương thực của Ngài cho dân suốt dọc theo những nẻo đường sa mạc. Trong thánh lễ, Giáo Hội cũng nhớ lại cuộc vượt qua của Đức Kitô và việc Ngài ban Thánh Thể cho dân mới trên đường lữ hành trần thế.
Thực vậy, tiếp nối Manna trong hoang địa, Thánh Thể trở nên lương thực, trở nên của ăn đàng cho Israel mới là Giáo Hội. Nhưng Manna mới chỉ là hình ảnh tượng trưng, chứ không thể nào sánh ví được với Bí tích Thánh Thể. Bởi vì cũng như bao lương thực trần gian khác, Manna vẫn để con người lại đó với cơn đói và nỗi khát khao vĩnh cửu. Manna chỉ cho người ta sống tạm đe khỏi chết chứ không giúp người ta khỏi chết đời đời. Chính thân thể vinh hiển của Đức Kitô mới thực là bánh ban sự sống: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.
Chúa Giêsu đã trở nên bánh khi hiến mình làm lễ tế dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha đã chấp nhận lễ hy tế ấy bằng cách tôn vinh Chúa Giêsu và đưa vào trong vinh quang của Ngài. Ngài nhận lễ vật mà Chúa Giêsu thay cho loài người dâng tiến, để rồi ban lại cho loài người như của ăn thánh. Từ của ăn thánh ấy, loài người kín múc sự sống để thông hiệp với Thiên Chúa… Và trong bữa tiệc ấy, Thiên Chúa hòa niềm vui của Ngài với tiếng cười của nhân loại. Những ai đón nhận của ăn thánh ấy sẽ được lôi kéo vào trong quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa và lưu lại trong Ngài: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ ở lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Người ăn uống Mình Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa từ đời này và mai này thuộc về Ngài mãi mãi.
Như thế, Thánh Thể thực hiện trước bữa tiệc cánh chung trong nước trời, sẽ được cử hành trong niềm vui rượu mới. Và như thế Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự và là bảo chứng cho sự sống lại trong ngày sau hết.
30. Thánh Thể
Nói đến chuyện ăn thịt người đã là một việc ghê tởm, phương chi còn nói đến chuyện uống máu người. Nhất là đối với dân Do Thái, máu được coi như là chính sự sống của con người và chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền trên máu huyết, không những của con người mà còn của mọi loài động vật. Đó chính là lý do dân Do Thái không ăn máu huyết, thậm chí còn kiêng cả thịt thú bị chết ngạt, và họ chỉ ăn những thú thịt đã làm sạch không còn tí máu nào sót lại.
Vì thế phản ứng của những người nghe Chúa Giêsu nói: Thật Tôi bảo thật các ông nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình, là một phản ứng dễ hiểu. Đúng là những lời lẽ chối tai không ai nghe nổi. Nhưng đó lại là những lời thực tế nhất, khoa học nhất bởi vì nếu Chúa Giêsu muốn trở nên sự sống cua nhân loại, Ngài phải để cho thiên hạ ăn thịt của Ngài. Chúng ta không thể sống nếu không ăn. Và khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó trở nên máu thịt chúng ta, trở nên chính chúng ta.
Cũng vậy, vì muốn cho chúng ta được sống và sống bởi chính Ngài, Chúa Giêsu đã trở nên bánh cho chúng ta ăn. Hơn thế nữa, Bí tích Thánh Thể còn là bí tích của hiệp thông, vì nhờ ăn thịt và uống máu Ngài, chúng ta trở nên Ngài và Ngài trở nên chúng ta. Nghĩa là Ngài trở nên thịt máu chúng ta và chúng ta sống thực sự bởi Ngài. Ngài có thể nói rằng thịt máu chúng ta, sự sống chúng ta là thịt máu, là sự sống của Ngài.
Thế nhưng sự hiệp thông ấy không chỉ dừng lại ở mối tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu mà thôi. Thực vậy, vì không phải chỉ có một mình tôi ăn thịt và uống máu Ngài, mà cả cộng đoàn dân Chúa đều tham dự vào bàn tiệc của Đức Kitô: bởi vì chỉ có tấm bánh và tất cả chúng ta cùng chia sẻ nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.
Như thế, Bí tích Thánh Thể không phải chỉ kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa mà còn kết hiệp chúng ta với nhau. Tuy nhiên, không thiếu gì những kẻ rước lễ trong tình trạng chiến tranh lạnh với người khác, đôi khi với cả gia đình, với cả cộng đoàn. Có những cặp vợ chồng ly thân, thậm chí ly dị nhau mà vẫn lên rước lễ. Họ đâu có hiểu rằng làm như vậy là họ đóng đinh Chúa Giêsu, là xé nát thân thể của Ngài? Họ đâu có hiểu rằng làm như thế có nghĩa là kéo Chúa về phe mình, là cấm vận không cho Ngài đến được với đối thủ của họ? Bởi vì làm thế nào Đức Kitô có thể hiệp nhất với chúng ta khi chính chúng ta lại chia rẽ và không chấp nhận nhau.
Nhìn vào tình trạng Giáo Hội cũng vậy, ngay trong nội bộ cộng đoàn này, sự hiệp nhất đôi khi cũng chỉ có tính cách chung chung, hình thức hay lý thuyết mà thôi. Như thế bàn tiệc Thánh Thể có ý nghĩa gì? Người ta nói Thánh Thể làm ra Giáo Hội và Giáo Hội làm ra Thánh Thể, nghĩa là cử hành Thánh Thể. Nhưng một Giáo Hội thiếu hợp nhất thì có thể làm ra Thánh Thể được hay không? Và Thánh Thể có làm ra Giáo Hội được hay không khi mà các tín hữu không đồng tâm nhất trí với nhau. Khi mỗi người trong một gia đình không thể ngồi quanh một bàn ăn, hay khi tấm bánh nồi cơm bị phân tán, quẳng đi mỗi chỗ mot mẩu một hạt, thì liệu còn có thể gọi đó là một bữa cơm gia đình hay không?
Hãy nhớ rằng Thánh thể không phải chỉ kết hiệp chúng ta lại với Chúa, mà còn kết hiệp chúng ta lại với nhau, để làm thành một đoàn chiên duy nhất.
31. Thánh Thể: Nguồn cứu độ – Anmai, CSsR
Máu: biểu hiện của sự sống! Con người sẽ chết nếu không còn máu trong người. Vào các cơ sở y tế để khám chữa bệnh. Điều đầu tiên các y bác sĩ cho bệnh nhân làm đó là xét nghiệm máu. Qua các chỉ số về máu, các y bác sĩ sẽ tìm biểu đồ, tìm cách điều trị một cách tốt nhất cho bệnh nhân. Như vậy, chúng ta thấy máu đóng một vai trò mang tính "sống còn" trong đời sống con người. Nhờ có máu mà con người được sống, nếu không có máu, con người sẽ phải chết.
Là người bình thường, rất cần máu. Riêng những ai mang danh mình là Kitô hữu, không chỉ cần máu bình thường như mọi người nhưng cần và cần lắm máu cứu độ mà chính Chúa Kitô đã đổ ra để cứu những con người tội lỗi.
Dừng lại một chút để đọc lại, suy gẫm lại những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy máu là chủ đề xuyên suốt từ đầu đến cuối. Chính nhờ máu đã mang lại sự sống, đã cứu độ con người. Cách riêng trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã nói rõ cho các môn đệ rằng máu Chúa sẽ đổ ra để nuôi sống con người. Ở Cựu Ước, Thánh Thể như là hình bóng đã được tiên báo cho Máu của Chúa Giêsu ở Tân Ước phải đổ ra để cứu chuộc con người.
Những hình bóng chính yếu về Máu của Chúa Kitô trong Cựu ước là Chiên vượt qua (Xh 24,8), và máu xá tội mà thầy thượng tế đưa vào gian cực thánh trong ngày lễ xá tội (x Lv 16, 14), Tất cả những hình bóng này không bị mất đi tầm quan trọng khi Chúa Giêsu đổ máu thật sự trên thập giá vì khi thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cùng gợi lại ba hình bóng trên, qua những từ ngữ được Ngài sử dụng như "tưởng nhớ" (Xh 12,14); "Máu giao ước mới" và "được tha tội". Điều này được các hình bóng giúp mô tả, giải thích và làm nổi bật tính ưu việt tuyệt đối của bí tích Thánh Thể so với những hình bóng tiên trưng.
Trong Cưu ước, "Máu" đóng một vai trò quan trọng vì nó được coi là nguyên lý sự sống; "Sinh khí thân xác tụ trong huyết (Lv 17,11)" "Huyết, tức là sự sống" (Đnl 12, 23). Do đó ngày xưa Môsê đã lấy mà đóng ấn giao ước Đức Giavê muốn ký với dân (Xh 24, 3-8). Người ta đã sát tế những con bò mộng tơ, lấy máu rưới lên bàn thờ một phần, một phần rảy trên dân, chứng tỏ rằng Giao ước đã được thiết lập cách long trọng. Đây là hình bóng của Giao ước mơi mà sau này chính Đức Kitô đã lâp Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại bằng chính máu mình. Không phải như Môisen khi làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, đã phải nhờ đến việc sát tế các con vật. Chính Máu cua Đức Kitô đổ ra trên núi Sọ, Ngài sẽ không ngừng dâng lại trong hy tế thánh lễ để không ngừng tái diễn Giao ước của Ngài.
Trong nghi lễ Do thái, bữa ăn chiên vượt qua không phải chỉ có một tầm quan trọng hàng đầu, mà nó còn có một ý nghĩa nổi bật là tưởng nhớ một biến cố lịch sử, biến cố Thiên Chúa Giavê cứu độ dân Do thái. Ngài đã ra tay giải thoát dân Ngài khỏi ách Ai cập. Vì thế bữa ăn vượt qua có một giá trị rõ ràng do sự kiện lịch sử, mà nó có nhiệm vụ gợi lại cho người ta nhớ những điều vĩ đại mà Thiên Chúa đã làm cho họ, con chiên vượt qua nhắc lại con vật mà máu nó đã gìn giữ các nhà dân Israel xưa, khi mà máu của nó được bôi trên thành cửa làm dấu để sứ Thần Chúa "Vượt Qua" mà tha cho dân. Trong khi ăn bữa này, người ta cảm tạ Chúa vì những ơn lộc vô biên của cuộc giải thoát ấy. Nên bữa ăn này là hình bóng của bữa tiệc Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong bữa tiệc ly.
Để lập phép Thánh Thể và chuẩn bị cho giao ước mà Chúa Giêsu thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người bằng chính giá máu của Ngài khi Ngài bị người ta đóng đinh trên thập giá. Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn vượt qua, và lễ vượt qua "cuối cùng" này đã được chuẩn bị một cách chu đáo. Điều này các tin mừng đã thuật lại cho ta biết các môn đệ "đã chuẩn bị lễ vượt qua" như thế nào, theo các chỉ dẫn của Chúa Giesu đã dạy (Mt 26, 17-19; Mc 14, 12-16; Lc 22, 7-13). Đặc biệt Thánh Luca còn nhắc lại Lời của Chúa Giêsu "Thầy ước ao ăn lễ vượt qua này với anh em trước khi Thầy chịu khổ nạn..." (Lc 22, 15). Qua đó Đức Kitô muốn cho ta hiểu Ngài chính là con chiên vượt qua thật, con chiên lấy máu mình để cứu độ nhân loại. Mặc dù, trong trình thuật về bữa tiệc ly, ta không thấy ám chỉ gì về con chiên, nhưng đối với các môn đệ thì biểu tượng ấy khá rõ vì việc truyền phép rượu đi liền sau khi ăn thịt chiên. Với việc truyền phép làm hai nhịp như thế, phép Thánh Thể đã bao gồm con chiên vượt qua vào trong đó, và nếu con chiên này không được nhắc đến cũng chỉ vì nó thuần túy là một hình bóng mà từ đây sẽ phải tự xóa mình đi trước thực tại: chỉ có một thực tại phải kể đến, đó là Mình và Máu Đức Kitô, "Máu sẽ đổ ra cho muôn người" cũng như xưa máu con chiên đã đổ ra để cứu các nhà dân Israel. Do đó Thánh Thể là thực tại thay thế cho hình bóng con chiên vượt qua, như lời Thánh Phaolô: "Đức Kitô, chiên vượt qua của chúng ta, đã chịu sát tế" (1 Cr 5, 7).
Sách xuất hành đã ghi lại những qui định của luật lệ về việc ăn lễ Vượt qua nhắc nhở giao ước Giavê đã ký kết với dân Do thái, cũng như việc chuẩn bị lễ như nghi thức, chọn chiên tế lễ phải vẹn toàn, không được đánh đập nó bể xương...(Xh 12, 5-47). Đây là hình bóng giao ước mới mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập bằng chính Máu Người. Truyền thống Kitô giáo vẫn thấy hình bóng "con chiên tinh tuyền không bị gãy xương" (Xh 12.47) là chính Chúa Giêsu, chiên tinh tuyền của Đức Chúa Cha. Vì loài người tội lỗi không thể dâng lên Thiên Chúa của lễ vô tỳ tích, nên Chúa Cha đã lập ra hy tế bằng chính Con một của Người nhập thể. Do đó, chỉ có Đức Kitô có thể dâng lên Chúa Cha một hy tế Thánh thiện, vẹn toàn, là con chiên tinh tuyền. Con chiên ấy đã gánh tội trần gian và tự hiến để hủy diệt tội lỗi cho nhân loại, và con chiên này cũng không bị người ta đập gãy xương (Ga 19, 46).
Trong các lời tiên tri của Isaia nói về người tôi tớ Đức Chúa (Is 42,1-9; 49, 1-6; 50, 4-11; 50, 113-53) là người công chính, bị đè bẹp, bị nghiền nát dưới sự đau khổ vì tội lỗi của anh em mình, và được Thiên Chúa tôn vinh, là hình bóng báo hiệu Chúa Giêsu "người tôi tớ thánh thiện" (Cv 4, 27-30; 3, 26) đã chịu nhiều đau khổ, bị bắt bớ, chịu nhục hình, cuối cùng chịu sát tế trên thập giá để thiết lập giao ước cho nhân loại khỏi tội, và Người đã được tôn vinh làm Chúa với quyền năng bởi sự phục sinh từ cõi chết (Rm 1,4)
Chính Thịt và Máu của Đức Giêsu đã làm nên Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể chính là Bí Tích mang Ơn Cứu độ cho toàn thể nhân loại chúng ta. Ơn cứu độ đó đã được Thiên Chúa Cha hứa ban ngay sau khi nguyên tổ phạm tội. Bí tích Thánh Thể là bí tích của ơn cứu độ, ơn cứu độ phổ quát. Mỗi bí tích Thánh Thể (Thánh Lễ) được cử hành, dù ở bất cứ nơi đâu, dù long trọng với sự hiện diện đông đảo của nhiều người hay chỉ âm thầm lặng lẽ cua cá nhân vị linh mục, bí tích Thánh Thể vẫn được cử hành, theo một nghĩa nào đó, trên bàn thờ của thế giới. Bí tích Thánh Thể là một mối dây nối kết trời và đất. Nó bao gồm và thấm nhập toàn thể thụ tạo. Con Thiên Chúa đã làm người để hoàn lại toàn thể thụ tạo cho Đấng đã kéo nó ra từ hư vô, trong một hành động chúc tụng tuyệt vời. Chính vì thế mà Ngài, Linh mục thượng phẩm đời đời, khi bước vào cung thánh vĩnh cửu nhờ máu đổ ra trên thập giá, Ngài đã hoàn lại cho Đấng Tạo Thành và là Cha toàn thể thụ tạo được cứu chuộc. Ngài thực hiện điều đó nhờ tác vụ linh mục của Giáo Hội, để tôn vinh Chúa Ba Ngôi chí thánh. Chính thực đó mới là mầu nhiệm đức tin được thực hiện trong bí tích Thánh Thể: thế gian thoát thai từ tay Thiên Chúa Tạo Thành, trở về với Ngài sau khi đã được Chúa Kitô chuộc lại.
Trong Thánh Lễ, mỗi khi chúng ta rước lễ, Hy Tế Thánh Thể tự nó hướng các tín hữu tới việc hiệp nhất thâm sâu với chúa Kitô. Qua việc rước lễ, chúng ta nhận lấy chính Ngài, Đấng đã tự hiến cho chúng ta, chúng ta nhận lấy thân mình Ngài, thân mình mà Ngài đã nộp vì chúng ta trên Thập Gia, máu mà Ngài đã đổ ra là để trở thành máu của Giao Ước mới, có mục đích rất rõ ràng là để cho nhiều người được tha tội (Mt 26, 28). Việc hiệp nhất thâm sâu với Đức Kitô qua việc rước lễ ban cho chúng ta sự sống, sự sống đời đời (Ga 6,57). Thánh Thể đích thực còn là một bữa tiệc, tiệc hiệp thông, hiệp thông giữa người rước lễ với chính Đức Kitô và qua Đức Kitô, với Thiên Chúa Ba Ngôi và với anh chị em mình. Trong bữa tiệc hiệp thông đó, Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Đây không phải là của ăn tượng trưng nhưng "Thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi là của uống thật" (Ga 6,55).
Nhớ đến lời dẫn nhập vào Thánh Lễ của một Cha giáo: "Anh chị em thân mến! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh Lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một như Đức Kitô. Nếu sau khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta không thay đổi cuộc đời chúng ta thì Thánh Lễ chúng ta tham dự thành ra vô ích. Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đang có mặt ở đây với Ta...". Lời ấy, nếu nghe qua qua thì thấy chẳng có gì và nghe nhiều đôi khi người nghe sẽ nói: "biết rồi! khổ lắm nói mãi".
Vâng! "Biết rồi, khổ lắm nói mãi" nhưng hình như nghe cho qua lần qua lượt chứ không để những lời ấy thấm vào cuộc đời ta. Nếu như ta ý thức thật, Chúa đã đổ máu mình ra để cứu độ ta mà ta không cảm, không nhận và không biến đổi đời ta qua máu cứu độ của Ngài thì quả thật cuộc đời ta chán thật!
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể mở lòng chúng ta để chúng ta mau mắn đến và gặp Ngài nơi Bí Tích Thánh Thể.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là của ăn đích thực, là nguon sống đích thực đến và ở lại trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta có sức để tiếp tục đi theo Ngài trên con đường lữ thứ trần gian đầy gian nan và thử thách này.
32. Thánh Thể.
Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh của lễ Vượt Qua của người Do Thái, một đại lễ lớn nhất của dân tộc. Đại lễ này tưởng niệm lại hành động can thiệp đầy quyền năng của Thiên Chúa, trong việc dẫn dắt dân Người thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Bữa ăn Vượt Qua là một nghi lễ long trọng. Bữa ăn tưởng niệm lại một việc trong quá khứ, và đang khi cử hành việc tưởng niệm đó thì quyền năng của Thiên Chúa lại được tái hiện.
Chúa Giêsu nói: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể thì quyền năng và tình yêu của Chúa Giêsu lại được tái hiện. Nhưng không chỉ như thế, chính Chúa Giêsu lại hiện diện thật sự ở giữa chúng ta.
Trong khi đó, nhiều người Công giáo lại không ý thức đủ. Họ đi tham dự thánh lễ mà lại đến trễ, về sớm. Vài người lại nói chuyện với nhau hay chỉ nhìn ngắm kẻ khác. Nhiều người vào trong nhà thờ mà không tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện trong Nhà Tạm. Nhiều người không rước lễ và hầu như không còn để ý đến việc đó nữa. Nhiều người ăn vận trang phục bất xứng, thứ trang phục mà họ không dám mặc khi đen thăm một người bạn. Trong khi xếp hàng lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, một số người thay vì tập trung vào việc chuẩn bị đón Chúa ngự vào tâm hồn mình thì lại đưa mắt nhìn quanh khắp cả nhà thờ.
Tại sao lại xảy ra tình trạng đáng buồn như vậy? Thật là tốt đẹp khi Giáo hội khuyến khích các tín hữu thường xuyên rước lễ và tạo điều kiện dễ dàng cho việc này. Nhưng cũng vì thế mà xảy ra tình trạng người giáo dân ơ hờ, trễ nải đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Cũng có một số tín hữu chịu ảnh hưởng của Tin lành cho rằng Bánh Thánh chỉ là biểu tượng của Chúa Giêsu mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không nói: “Đây là biểu tượng của Mình Thầy”. Chúa nói cách rõ ràng: “Đây là Mình Thầy”.
Ước gì đại lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô hôm nay giúp mọi tín hữu Công giáo ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Ước gì ngày lễ hôm nay canh tân tâm tình biết ơn của chúng ta đối với quà tặng vô giá, mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là chính Thịt Máu Chúa. Càng ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta càng có thêm sức mạnh để tien bước trên hành trình đức tin của mình.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì quà tặng vĩ đại Chúa đã ban cho con là Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa giúp con luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích này và hết lòng tôn sùng mến yêu.
33. Bàn Tiệc Thánh và bữa ăn gia đình
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 14: 12 -16.22.26: Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội, trung tâm của đời sống đức tin, trung tâm của giáo xứ và đời sống của mỗi người như Công đồng Vatican II đã nói: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo”...
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội, trung tâm của đời sống đức tin, trung tâm của giáo xứ và đời sống của mỗi người như Công đồng Vatican II đã nói: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo”, “Bí tích Thánh Thể tích chứa tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội: Đó chính là Đức Kitô”.
1. Bí Tích Thánh Thể: Mầu Nhiệm Tình Yêu
Vào năm 1263, một linh mục từ Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ, khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài nổi tiếng là “Tantum Ergo” và “O Salutaris” mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương cung thánh đường Orvieto, phía bắc thành phố Roma.
Và đây, một bài báo đã đăng tin ngay trên trang nhất về vụ cháy rừng khủng khiếp vừa xảy ra, một câu chuyện đã gây rất nhiều xúc động cho người đọc.
Sau khi ngọn lửa đã được dập tắt, những người kiểm lâm rất vất vả khi đi vào rừng để ước lượng mức độ thiệt hại của vụ cháy rừng. Một người kiểm lâm trẻ tuổi nhất bất chợt phát hiện thấy một con chim đã chết đứng bất động như một bức tượng gỗ trên một cành cây cao đang cháy dở trước mặt anh. Một chút sợ hãi xen lẫn chút nghịch ngợm tò mò, người kiểm lâm ấy bèn tìm lấy một cành cây nhỏ, thử chọc vào xác con chim đã chết. Lúc anh đang thử thọc nhẹ vào con chim đã chết cháy như vậy, bất thình lình, anh hoảng hốt khi thấy có một chú chim con từ dưới cánh con chim đã chết cháy bay vụt ra…
Những người đi trong đoàn kiểm lâm ai nấy đều sửng sốt. Người kiểm lâm cao tuổi nhất trong nhóm có mái tóc bạc phơ nói rằng, suốt mấy chục năm làm nghề gác rừng, ông chưa từng thấy có chuyện lạ như vậy. Hóa ra, trong lúc ngọn lửa quái ác thiêu đốt cánh rừng, và vì yêu con, chim mẹ đã dang rộng đôi cánh để che chở cho con mình. Lúc đám cháy chưa lan tới, chim mẹ đã có thể bay đi thật nhanh để tìm một nơi an toàn cho riêng mình, nhưng chim mẹ đã không bay đi, vì biết con mình còn rất yếu ớt, bé nhỏ và không thể bay theo kịp mình. Chim mẹ không muốn bỏ mặc con mình ở lại với mối nguy hiểm đang chờ đợi nó. Khi ngọn lửa hung hãn đã bùng lên dữ dội và khi sức nóng của ngọn lửa sắp thiêu cháy mình, chim mẹ vẫn không hề nao núng, dao động. Chim mẹ sẵn sàng đón nhận cái chết để lấy đôi cánh chở che cho con mình được sống. Có lẽ chim mẹ biết chắc một điều rằng, với tình yêu và đôi cánh chở che của mình, con mình sẽ sống.
Ôi! Tình yêu có sức mạnh thật lớn lao và kỳ diệu, nên một vĩ nhân nào đó đã nói: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Nói cách khác, cái chết cũng không thể nào tiêu diệt nổi tình yêu và sự hy sinh chính là thước đo của tình yêu. Một hình ảnh thật sống động gợi lên tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta.
2. Bí Tích Thánh Thể: Mầu Nhiệm Hiệp Thông
Thánh Thể là bàn tiệc của Chúa, bữa tối của Chúa, tấm bánh bẻ ra, lễ bẻ bánh. Thánh Thể được cử hành dưới hình thức một bữa ăn (Mt 26,26). Thánh Thể là bí tích lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, là một mầu nhiệm hiệp thông.
Theo não trạng thời đó, mọi bữa ăn chung là một cử chỉ xây dựng tình huynh đệ, tạo sự hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Thánh Phaolô lấy cảm hứng từ biểu tượng đó (1Cr 10,16-17) khi bàn về lễ hy tế. Nước Thiên Chúa là một bữa tiệc tập họp chung quanh Đức Giêsu. Triều đại ngự đến nơi bản thân Đức Giêsu khi Thiên Chúa tôn vinh Người trong cái chết. Khi dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa, có thế nói con người ngồi vào bàn tiệc khi họ hiệp thông với lễ Vượt Qua của Đức Giêsu. Sự hiện diện của Đức Giêsu tạo sự hiệp thông, là bữa tiệc của Giáo Hội, trong đó Đức Giêsu vừa là phòng tiệc vừa là lương thực.
Thánh Thể là biểu tượng hiện thực của Đức Kitô vượt qua, là nơi tập họp và là bữa tiệc của cuộc lễ. Vì thế, Thánh Thể là sự hiệp thông.
Các hy tế xưa kia thường kết thúc bằng một bữa ăn. Nhờ hy tế, Trời và Đất nối kết với nhau. Nhờ bữa ăn hiệp thông, phạm vi linh thánh được nới rộng đến những người thông hiệp trong cùng một sự thánh hiến.
Nơi Đức Kitô, sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và thế giới trở thành hiện thực. Người là Chiên Thiên Chúa, được thánh hiến từ đời đời (Ga 10,36) và thánh hiến cách viên mãn trong cái chết và vinh quang (17,19) và trong Thần Khí của sự phục sinh. Khi ăn chiên Vượt Qua, con người đi vào giao ước Vượt Qua, cùng với Người trở nên cùng một của lễ được Thánh Thần thánh hóa (Rm 15,16), gặp gỡ Đức Kitô trong cái chết và sự phục sinh của Người.
Trong Đức Kitô, hy tế và bữa ăn làm thành một phụng vụ bất khả phân. Người vừa chịu hiến tế vừa là lương thực, là Chiên Vượt Qua của chúng ta (l Cr 5,7), là hy tế và bữa ăn của chúng ta. Thánh Thể là bí tích của cuộc Vượt Qua của Đức Kitô và của sự hiệp thông của chúng ta vào cuộc Vượt qua này. Giáo Hội hiệp thông với hy tế khi cùng cử hành hy tế với Đức Kitô vì Thánh Thể là sự hiện diện của hy tế Vượt Qua trong tính hiện thực của hy tế này. Người Kitô hữu cử hành hy tế bằng việc hiệp thông với hy tế và chỉ có thể hưởng nhờ ơn ích của hy tế bằng cách tham dự vào.[1]
3. Bí Tích Thánh Thể: Bàn Tiệc Thánh và bữa ăn gia đình
3.1.Bàn Tiệc Thánh và bữa ăn gia đình
Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Thật là ý nghĩa khi Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong một bữa ăn, bởi vì trong bữa ăn người ta không chỉ ăn cơm, ăn bánh, ăn rau ăn thịt, nhưng người ta còn chia sẻ tâm tình với nhau. Trong bữa ăn chúng ta có một thời gian chung, một thời gian để gặp gỡ nhau. Đây là một thời khắc thiêng liêng người ta dành cho nhau, ở bên nhau, sống với nhau, gạt bỏ mọi lo toan, gạt bỏ mọi tính toán. Từ xa xưa trong bữa ăn gia đình Việt Nam, chúng ta thấy cả ông bà, cha mẹ, con cháu đều quây quần bên một cái mâm tròn, đặt giữa một chiếc chiếu vuông hay trên một chiếc phản vuông, không phân biệt già trẻ lớn bé, các con các cháu đều ngồi quây quần bên cha mẹ, ông bà. Cả nhà đều có chung một nồi cơm, một chén nước mắm, một tô canh, một dĩa xào. Mọi người nhường nhịn nhau, có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít. Ăn chung một nồi cơm, chấm chung một chén nước mắm, múc chung một tô canh, gắp chung một dĩa xào. Ăn chung với nhau, cùng nhau chia sẻ đắng cay ngọt bùi, cùng nhau để thương yêu nhau, gạt bỏ mọi ích kỷ, xa cách, tự cao tự đại.
Mỗi khi bất ngờ có một hai người khách tới, cũng được mời ngồi vào; rồi thêm đũa, thêm bát, mỗi người ăn bớt đi một chút là đâu vào đấy cả. Không có kiểu chia khẩu phần riêng rẽ (ration) như người Tây Phương. Dụng cụ để và cơm, gắp rau là đôi đũa cũng rất có ý nghĩa triết lý. Trẻ con phải học tập để “điều hoà” hai chiếc đũa mới trưởng thành được, cách thức ăn chung như thế mới nói lên được chữ Hoà trong việc ăn uống. Ăn uống hoà với nhau, chia sẻ ngọt bùi, cay đắng cùng nhau để mà thương yêu nhau, gạt bỏ mọi hận thù ghen ghét.[2]
Người Việt Nam ăn cơm là chủ yếu: Khát vọng vốn có tự ngàn xưa vẫn là no cơm ấm áo. Bởi giá trị đặc biệt của nó nên hạt gạo được ví là hạt ngọc Trời ban cho: nhờ Trời mới có cơm ăn áo mặc. Vì thế khi ăn cơm mà để hạt cơm văng vãi xuống đất thì “tội chết” nhất là không được giẫm lên hạt cơm mà đi.
Cơm là phúc lộc Trời ban: “Trời đánh còn tránh bữa ăn”. Vì thế trong bữa ăn, dù có bực mình, cha mẹ vẫn nhịn nhục không đánh mắng con cái. Cả nhà ăn uống sum họp vui vẻ xong đã, sau đó muốn mắng thế nào thì mắng.
Của ăn trời ban là ban chung cho mọi người nên không dành riêng cho ai, mọi người đều được hưởng lộc Trời ban. Vì thế mà có tục lệ mời ăn cơm: trước khi ăn con cháu phải mời cha mẹ, gặp người khách đi qua cũng phải mời: “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Khách có thể không báo trước, gia chủ có thể không chuẩn bị; nhưng vẫn có thể vào ngồi ăn uống vui vẻ. Giữa hàng xóm láng giềng, thiếu chút mắm muối, chút gia vị, người ta sang xin bên hàng xóm. Có bát canh ngon, có hoa quả đầu mùa, có cơm gạo mới liền đem biếu ông bà cha mẹ để tỏ lòng thảo hiếu:
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cẩn nó cũng đem cho. [3]
3.2.Bánh và rượu trong Bàn Tiệc Thánh đi vào cuộc sống đời thường
Bánh và rượu mang nhiều ý nghĩa hỗn hợp, cả trong cuộc sống lẫn trong bí tích Thánh Thể.
Một mặt, bánh có lẽ là biểu tượng đầu tiên của chúng ta về lương thực, sức khoẻ, dinh dưỡng và đời sống cộng đoàn. Xin cho chúng con lương thực hằng ngày! Chúng ta hãy cùng nhau bẻ bánh! Bánh là hình tượng cho cuộc sống và sống chung với nhau.
Ít có cái gì có thể nói về cuộc sống một cách tuyệt vời cho bằng hương vị chiếc bánh mới. Mùi thơm từ chiếc bánh mới chính là hương vị cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta cũng có một câu chuyện khác về chiếc bánh. Bánh được làm từ đâu? Từ lúa mì, từ những hạt riêng lẻ, phải bị nghiền nát để trở nên bột mì, một thứ mang đặc tính chung, sau đó phải chịu đựng sức nóng của lửa để nướng thành thứ cho chúng ta hương vị cuộc sống. Giống như thánh Augustinô đã đề cập đến trong một bài giảng:
“Đúng là chiếc bánh này không phải làm từ chỉ một hạt lúa mì, có phải không các bạn? Trước khi hợp lại để làm chiếc bánh, các hạt lúa mì đứng riêng lẻ. Trước khi hoà trộn vào nhau bằng nước, chúng được nghiền nát. Bởi vì nếu trước đó, chúng không được nghiền nát, sau đó chúng không được làm ẩm thì chúng không hình thành cái mà chúng ta gọi là bánh... Và sau đó, nếu không có lửa thì chúng cũng không thành bánh được”. Bánh phải được nướng trong lò với một sức nóng dữ dội. Lúc đó bánh nói lên được cả niềm vui và cả đau đớn.
Rượu cũng mang trong mình hai ý nghĩa như vậy: một mặt, nó là thức uống dành cho các bữa tiệc, có lẽ nó là biểu tượng đặc trưng nhất cho những gì liên quan đến lễ tiệc. Rượu không thể đóng vai trò như một thức uống thiết yếu, một thực phẩm căn bản. Nó không phải là chất đạm cần thiết cho sức khoẻ, nhưng là món ăn phụ, nói lên những gì ở bên ngoài các công việc vất vả kiếm sống và duy trì cuộc sống. Rượu nói lên tình bằng hữu, cộng đoàn, lễ tiệc, niềm vui, tiêu khiển, chiến thắng. Chúng ta tổ chức mọi lễ tiệc không chỉ với trọn tình yêu mà còn với rượu.
Tuy nhiên, tương tự như bánh, rượu cũng còn một ý nghĩa nữa: rượu được làm từ đâu? Từ những quả nho riêng lẻ bị vắt ép và nước ép đỏ như máu sẽ lên men để trở nên thức uống nồng ấm và có tính lễ tiệc. Không ngạc nhiên khi Đức Giêsu đã chọn rượu làm biểu tượng cho máu của Người.
Thật là hữu ích khi chúng ta sống trong tâm trạng có nhiều ý nghĩa này khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Bánh và rượu được dâng lên để cầu xin Thiên Chúa thánh hoá trở nên máu và thịt của Ngôi Hai Thiên Chúa, và một cách chính xác bánh và rượu được dâng lên trong nhiều ý nghĩa của nó.
Một mặt, bánh và rượu đại diện cho mọi thứ trong đời sống và thế gian, đó là: khoẻ mạnh, trẻ trung, xinh đẹp, đầy sức sống, đầy màu sắc. Chúng đại diện cho sự tốt đẹp của thế gian này; niềm vui của thành công, lễ tiệc, hội hè, và tất cả những gì mang trong nó nguồn ơn của Thiên Chúa khi Người tạo dựng nên địa cầu và tuyên bố mọi sự tốt đẹp. Thánh Thể còn cho ta mùi vị của chiếc bánh mới.
Tuy nhiên đó chỉ mới một nửa ý nghĩa. Thánh Thể cũng được dâng lên trong sự hiến dâng tất cả những gì bị nghiền ép, tan vỡ, đốt cháy vì bạo lực. Rượu, một cách thích đáng, cũng chính là máu. Tại bàn tiệc Thánh Thể chúng ta dâng lên cả sức khoẻ, thành công, thất bại và lỗi lầm của thế gian và cầu xin Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong hiệp nhất đó. Cha Pierre Teilhard de Chardin cũng nhắc đến điều này một lần: Trong một cách có ý nghĩa, vật chất được thánh hoá mỗi ngày nói lên sự phát triển của thế gian trong ngày đó - bánh một cách thích hợp tượng trưng cho những gì được tạo nên bởi thành tựu trong sản xuất, máu rượu là những gì được tạo nên bởi mất mát trong một quá trình đầy nỗ lực, vắt kiệt sức lực.
Những gì chúng ta thấy nơi bàn tiệc Thánh Thể: tốt đẹp, niềm vui cuộc sống cũng như thất bại trong cuộc sống, những nỗi đau là cùng ở trong một tình trạng căng thẳng như nhau, cái mà chúng ta cần thiết phải dâng lên hằng ngày trong cuộc sống thường nhật của chúng ta. Chúng ta làm điều đó cách nào đây?
Bằng cách thưởng thức cuộc sống và tất cả những thú vui chính đáng, không tội lỗi, không chê bai chúng nhân danh Thiên Chúa, chân lý và người nghèo, ngay cả khi chúng ta đến đứng bên Thập Giá muôn đời của Đức Kitô, là nơi những người bị gạt ra ngoài, người nghèo, người ốm đau, người khó ưa, người cô đơn, người đói, người bị chèn ép, người mù tìm thấy nới chốn của họ.
Bánh và rượu có thể mang đến cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa. Điều đó có nghĩa chúng ta phải tôn kính trước vẻ đẹp thiên nhiên, nét duyên dáng của một vận động viên, năng lượng huyền bí trong âm nhạc, sức mạnh trong bản năng tính dục, hài hước trong vở hài kịch hay, cảm giác sôi nổi của khoẻ mạnh, hương sắc và điều thú vị khắp nơi trong cuộc sống, ngay cả khi chúng ta nhận biết và tương trợ với tất cả những cái bị loại ra, bị gạt bỏ bởi các năng lượng kì diệu này, những cái mà cuối cùng rồi cũng quay về với khởi nguồn trong Thiên Chúa.
Trong tin mừng Thánh Gioan, nước biến thành rượu, rượu trở thành máu, máu và nước đều chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu. Đó cũng là điều đã diễn ra nơi bàn tiệc Thánh Thể và trong cuộc sống chúng ta. Nhiệm vụ chúng ta là giữ bánh và rượu trong tay, nơi bàn tiệc Thánh Thể để chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa.[4]
3.3.Những nét văn hóa của bữa ăn gia đình truyền thống Việt Nam, nếu biết trân trọng, sẽ chuẩn bị chúng ta tham dự Bàn Tiệc Thánh một cách rất có ý nghĩa
Muốn sống, muốn khỏe mạnh thì phải ăn uống cho đầy đủ, thiếu ăn là suy dinh dưỡng. Mà đặc tính của ăn là phải thường xuyên, đều đặn. Vì thế của ăn Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng người Kitô hữu, là của ăn đi đường trên con đường dương thế. Bữa ăn nào cũng có nét văn hóa của nó - văn hóa ẩm thực Việt Nam coi hạt cơm là phúc lộc trời ban, ăn cơm là sum họp gia đình, là kính trên nhường dưới, là biểu lộ tấm lòng thành dâng kính của lễ tinh hoa. Đó là những nét đẹp đẽ của văn hóa trong bữa ăn sẽ giúp chung ta chuẩn bị bữa tiệc Thánh Thể một cách ý thức, trân trọng và đậm đà bản sắc dân tộc[5].
---------------
[1] F.x. Durwell, THÁNH THỂ, Bí TÍCH VƯỢT QUA trg.151-152 trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc và các linh mục khác,
[2] Lý minh Tuấn, Triết Lý Chữ Hòa trg.58-59
[3] Lm. Luy Phạm Văn Nhượng, BỮA TIỆC THÁNH THỂ trg. 395 trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể
của ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc và các linh mục khác.
[4] Ronald Rolheiser, OMI, Cô đơn khi dời nhà trg.13-16
[5] Lm. Luy Phạm Văn Nhượng, BỮA TIỆC THÁNH THỂ trg.404 trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc và các linh mục khác.
34. Bữa tiệc.
Để cổ động cho việc cầu nguyện chung trong gia đình, linh mục Pê-tanh đã nói: “Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với nhau”. Việc cầu nguyện chung trong gia đình sẽ củng cố mối dây hiệp nhất mọi thành phần với nhau mỗi ngày một thêm bền chặt. Dù không muốn nói ngược lại linh mục Pê-tanh và không muốn làm giảm giá trị của việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhưng cha Gioan To-mát, dòng Tên đã nhấn mạnh một khía cạnh khác, cũng quan trọng không kém, đó là việc dùng cơm chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với nhau.
Bữa ăn chung trong gia đình có một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của nó ma ngày nay nhiều người đã bỏ quên hoặc không quan tâm cho đủ. Không phải bất cứ người xa lạ nào cũng có thể ngồi vào bàn ăn dùng bữa chung trong gia đình. Một người nào được mời dùng bữa với gia đình là dấu chỉ được chap nhận vào tình thân với gia đình đó, người được mời đến dùng bữa với gia đình là người được gia đình đó quý mến. Bữa ăn tạo dựng sự hiệp thông và yêu thương thân thiết ngày càng bền chặt hơn.
Bữa ăn chung trong gia đình làm cho mọi thành phần vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em được hiệp nhất với nhau, được dịp chia sẻ những niềm vui, những quan tâm lo lắng của nhau. Nếu quan sát thêm chúng ta sẽ thấy vai trò của mỗi người được biểu lộ cách rõ ràng trong bữa ăn chung. “Một gia đình dùng bữa chung với nhau sẽ sống hiệp nhất với nhau”, lý tưởng là như thế, nhưng không phải tất cả mọi người, mọi gia đình ngày nay đều có thể thực hiện được lý tưởng cao đẹp này. Nhiều gia đình đã bỏ mất dịp tốt này, mọi người vội vàng lo cho mình có chút gì vào bụng rồi mau chóng đi lo công việc riêng, mọi người không còn xếp đặt công việc để có thể tham dự bữa cơm chung trong gia đình nữa, nhưng mỗi người xếp đặt đời sống theo một sở thích riêng hay một nhu cầu riêng. Cha mẹ lo làm việc xếp đặt đời sống chạy theo công việc nên không còn quan tâm đến việc ăn cơm chung với con cái; phần con cái bận việc với bạn bè hay công việc riêng của mình nên cũng chẳng màng chi đến bữa cơm chung. Mỗi người trong gia đình đều có lý do riêng để không ăn cơm chung với nhau, nhiều gia đình ngày nay tan vỡ có lẽ vì hai lý do: không cầu nguyện chung với nhau và không ăn cơm chung với nhau. Chúng ta hãy nhìn lại gia đình mình và kiểm điểm theo hai nguyên tắc căn bản trên: cầu nguyện chung và dùng cơm chung.
Chúa Giêsu cũng dùng một bữa ăn, bữa ăn tối cuối cùng với cac môn đệ để thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chúa đã làm cho bữa ăn cuối cùng này không phải là bữa ăn chứng tỏ tình bạn như trước đây, cũng không phải là bữa ăn để Ngài tự tỏ mình ra như một Môsê mới bằng cách ban phat Manna mới cho họ qua việc hóa bánh ra nhiều, nhưng là bữa ăn liên kết tình bạn và tình yêu.
Chính vì thế thánh Gioan đã viết: “Ngài đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng”. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Ngài ở đây là việc lập Thánh Thể. Thực vậy, Chúa Giêsu đã ghi dấu đặc biệt của Ngài nơi bữa tiệc này, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa chúng ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau.
Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Chúa Giêsu vừa báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ giã từ thế gian để về cùng Cha. Ngài sẽ phải xa cách họ luôn sao? Không, trong tình yêu thương, Ngài đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Phương thế tuyệt diệu đó là Bí tích Thánh Thể, nhờ đó Ngài hiện diện thực sự và trải dài sự hiện diện đó đến tận cùng thời gian qua mọi người để ban cho họ những điều tốt lành.
Đây là một mầu nhiệm đức tin, bởi vì lý trí chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đưc tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thật sự trong Bí tích Thánh Thể, nên khi rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì Tôi sống trong người ấy, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai ngày thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng rước lễ để chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, và sự kết hiệp đó đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như vậy, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau.
Tóm lại, khi dâng thánh lễ là chúng ta cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa cho chúng ta một khi đã được hiệp thông với Chúa, thì cũng biết hiệp thông với nhau bằng cuộc sống yêu thương phục vụ để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
35. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
Một hình ảnh dễ thấy nhất đó là cho đến ngày hôm nay, phần lớn càc nhà thờ ở Việt Nam vẫn còn nhiều người đến tham dự thánh lễ. Đó là dấu hiệu đáng mừng. Còn ở phương Tây và nhất là các nước văn minh tiến bộ thì không còn được như thế. Đó là dấu hiệu đáng buồn. Nhưng dù là dấu hiệu mừng hay dấu hiệu buồn thì bên cạnh đó vẫn có một mối bận tâm nào đó đặt ra: Không biết phần đông người ta tới nhà thà thờ dự le vì mục đích gì? Lý do gì? Nói cách khác, người ta quan niệm về thánh lễ ra sao. Những người không đi lễ, ít lui tới nhà thờ, họ quan niệm về thánh lễ ra sao. Còn anh chị em, chúng ta quan niệm về thánh lễ thế nào? Vì sợ toi? Vì đó luật nên phải giữ?
Vì thế Chúa Nhật lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, thiết tưởng đây phải là dịp để mọi người trả lời cho câu hỏi đó. Để đi tìm câu trả lời này, ta hãy bắt đầu bàn đến chính kinh nghiệm đời thường của chúng ta:
Từ một kinh nghiệm về sự hiện diện:
Trong những quan hệ thường ngày, quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ anh em, quan hệ bạn bè. Sự hiện hiện là cần thiết.
Kinh nghiệm cuộc đời nói với ta: trong một lúc náo đó, mình rơi vào nỗi cô đơn, tất cả những lời nói chung quanh đều vô nghĩa. Thế nhưng sự hiện diện của một người thân, một người bạn là cần thiết và quý giá nhất. Người đó có mặt ở đấy với ta, bên cạnh ta để trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ, tâm sự,... với ta.Rất cần. Kinh nhgiệm trong tình yêu cũng thế. Hai người yêu nhau. Sự hiện diện bên nhau không cần nói gì với nhau. Chỉ cần anh có mặt, bên cạnh em là đủ rồi.
Đến kinh nghiệm của đức tin:
Đức Giêsu hứa với các môn đệ: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" ( Mt 28,20). Lời hứa đó, không phải là lời hứa suông cũng không phải là m ơ hồ. Lời hứa đó được cụ thể bằng chính sự hien hiện của Ngài trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Ta hãy nghe lại lời Đức Giêsu đã nói: "... này là Mình Thầy...này là Máu Thầy...".(Mc 14,22-24).Này là mình Thầy. Nghĩa là gì? Nghĩa là Thầy không phải hiện diện với các con nh ư một Đấng vô hình nữa. Mà đây này: Mình của Thầy, Thân Xác của Thầy đây này. Thầy đang có mặt giữa anh em, với anh em.
Các môn đệ trong buổi ban đầu của Giáo hội đã có kinh nghiệm đó. Thánh Luca thuật lại kinh nghiệm của hai môn đệ trên dường về Emmaus: "Họ đã nhận ra Người thế nào khi người bẻ bánh" ( Lc 24,35). Như thế các môn đệ đã nhận ra Chúa qua cử chỉ bẻ bánh. Cử chỉ bẻ bánh là gì nếu không phải là một cử hành mầu nhiệm Thánh Thể? Nếu không phải là Thánh lễ?
Và kinh nghhệm của chúng ta:
Kinh nghiệm của chúng ta là kinh nhiệm của cầu nguyện và gặp gỡ. Nếu ai có kinh nghiệm chầu Thánh Thể, cầu nguyện trước Thánh Thể thì họ sẽ có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu. Dấu hiệu của sự hiện diện đó là tâm hồn họ được bình an. Họ cảm nhận được sự nâng đỡ, được chia sẻ và được cảm thông. Đó cũng là kinh nghiệm của các nhà thần bí, của các tu sĩ sống đơi chiêm niệm.
Vì thế, nếu anh chị em và các bạn đồng ý với tôi về những suy nghĩ này, thì xin anh chị em và các bạn đừng bao giờ nói rằng: sao tôi chẳng thấy Chúa trong phép Thánh Thể, cũng chẳng gặp được Chúa trong đời thường? Mà phải hỏi ngược lại: Sao Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thánh Thể chẳng thấy tôi? Vì tôi có đến với Ngài đâu mà Ngài thấy tôi!
Tất cả những chia sẻ này, chỉ muốn nói một điều này thôi: để có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa ta cần có những phút giây có mặt bên Thánh Thể Chúa, nhất là trong Thánh lễ. Chính giây phút đó ta sẽ khám phá ra Chúa Giêsu đang có mặt ở đấy.
36. Dấu chỉ của tình yêu.
Hôm nay, mừng kính Mình và Máu thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau dừng lại để chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể.
Trước hết, bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa.
Thực vậy, khi yêu thương ai, chúng ta muốn được ở gần người đó để hàn huyên tâm sự, như ca dao đã bảo:
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến, vì Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn đồi, lội qua dăm bảy con suối để đến với chúng ta. Trái lại, Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ vô biên đến hữu hạn, con đường từ trời xuống đất, con đường từ một Thiên Chúa toàn năng đến một kẻ nghèo hèn, để trở thành một Emmnuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Ở cùng chúng ta hơn ba chục năm mà thôi chưa đủ, Ngài lại còn muốn ở cùng chúng ta mãi mại, cho đến tận cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Tuy nhiên, Ngài không phải chỉ ở bên cạnh chúng ta, đi bên lề cuộc sống chúng ta như một kẻ xa lạ. Trái lại, Ngài còn muốn thấm nhập và trở nên một với chúng ta.
Bởi đó, mỗi khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp và gắn bó mật thiết với Chúa. Sự kết hiệp và gắn bó này còn mật thiết hơn cả tình bè bạn, tình cha mẹ, tình vơ chồng, bởi vì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Giọt nước hòa tan trong rượu thế nào, chúng ta cũng sẽ được hòa tan trong Chúa như vậy. Thanh sắt nung trong lửa, sẽ nóng và đỏ như lửa thế nào, chúng ta cũng sẽ được trở nên giống Chúa như vậy.
Ngoài ra, khi yêu thương ai, ngoài việc muốn được ở gần người đó, chúng ta còn cố gắng làm cho người đó được hạnh phúc: nào là thư từ, nào là quà cáp, nào là thăm hỏi…
Nếu hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến bởi vì Ngài đã xuống thế để làm gì nếu không phải là để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và án phạt đời đời.
Rồi suốt cả cuộc đơi, Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu hành động yêu thương. Ngài đã cúi xuống xoa dịu những đớn đau, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ. Hơn thế nữa, Ngài còn chết trên thập già để cứu độ chúng ta như lời Ngài đả phan:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bằng đó mà thôi cũng chưa đủ, Ngài còn theít lập bí tích Thánh thể để trở nên của ăn nuôi sống linh hồn và đảm bảo cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Một người Cha trước khi chết thường trối lại cho con cháu bản chúc thư. Những người yêu nhau trước khi đi xa, thường trao tặng cho nhau những kỷ vật. Cũng vậy, là một người cha, Đưc Kitô trước khi chịu chết, đã trối lại cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta một bản chúc thư, đó là giới luật yêu thương. Là một người tình, Đức Kitô trước khi ra đi, đã trao tặng cho chúng ta một kỷ vật, đó la thịt máu Ngài.
Và như thế, bí tích Thánh thể chính là dẩu chỉ tình yêu bao la mà Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.
Tiếp đến, bí tích Thánh thể còn là dấu chỉ của tình người.
Thực vậy, nhìn vào một bữa ăn, một bàn tiệc, chung ta tìm thấy ngay được dấu chỉ của sự yêu thương và hiệp nhất.
Tiên vàn, những người ngồi cùng bàn đều có một mẫu số chung nào đó. Có thể là chia sẻ một niềm vui như đi tự tiệc cưới. Có thể là chia sẻ một nỗi buồn như đi ăn đám giỗ. Có thể là chia sẻ một băn khoan lo lắng như bữa tiệc trước khi tính toán và bắt đầu một công việc quan trọng.
Ngoài ra, khi quây quần chung quanh một bàn ăn, chúng ta còn chia sẻ với nhau một nguồn sống, là những thức ăn do lao công vất vả của nhiều người làm nên. Chính những thức ăn này sẽ được tiêu hóa và trở nên thịt máu, trở nên một phần cơ thể chúng ta. Bởi đó, chúng ta thường phải tránh đi những bất hòa, xích mích trong bữa ăn: trời đánh còn tránh bữa ăn.
Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích Thánh thể dưới hình thức một bữa ăn, một bàn tiệc. Chính vì thế, ý nghĩa của sự yêu thương và hiệp nhất cần phải được nổi bật, bởi vì chúng ta cùng ăn một của ăn thiêng liêng muôi sống linh hồn, như thánh Phaolô đã viết:
- Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô.
Hơn thế nữa, nơi bàn tiệc Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì tất cả đều là con cái Chúa, không còn phân biệt già hay trẻ, sang hay hèn…Các tín hữu sơ khai đã ý thức được chân lý căn bản này, họ đã biến nghi thức bẻ bánh, hay bàn tiệc Thánh thể trở nen nơi qui tụ cho tình thương. Họ mang rượu bánh đến góp chung để dâng lễ, để nuôi sống linh mục và tu sĩ, cũng như để giúp đỡ những người nghèo.
Tình bác ái huynh đệ này không phải chỉ đóng khung trong khi tham dự nghi thức be bánh, mà còn được nối tiếp trong cuộc sống, vì trong cuộc sống, họ đã góp chung tiền bạc, tài sản để cho các tông đồ phân phối theo nhu cầu.
Từ những xác quyết trên, chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận thứ nhất, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa, nên chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là rước lễ mỗi khi có thể, để đáp trả những yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta.
Kết luận thứ hai, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình người, nên chúng ta hãy cố gắng sống bác ái. Không phải chúng ta chỉ hòa giải và yêu thương trong thánh lễ, trong nhà thờ, mà còn phải hòa giải và yêu thương trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống ngập tran tình bác ái chính là một thánh lễ nối dài, và những hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
37. Tình Chúa.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là: “Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương”. Điểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy “Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả có nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân Pháp, chỉ còn có 10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt Nam chúng ta, số người bỏ lễ Chúa Nhật cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích: Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình Thánh Chúa “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt săng của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
- Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
- Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hay đặt hết tâm tình vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: “Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa Thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức… Tôi không đi dự Thánh Lễ với hai bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bánh bẻ ra cho anh chị em tôi”.
38. Lễ Mình Máu Chúa
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
1. Ý Nghĩa của lễ vượt qua:
Lễ vượt qua là ngày kỷ niệm một biến cố trọng đại như ngày dân Do Thái thoát khỏi đất Ai Cập, ngày giải phóng dân Do Thái khỏi cảnh nô lệ của người Ai Cập. Cũng giống như ngày di cư của người Việt Nam thoát khỏi cảnh đô hộ của Cộng Sản năm 1954 hay 1975.
Lễ vượt qua của Chúa là gì? Để kỷ niệm ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu ở ngoài thành Giêrusalem, Ngài sai 2 môn đệ là Phêrô và Gioan vào thành để dọn bữa. Nhà được hân hạnh đón mừng lễ là nhà ông thân sinh của Marcô (Act.15:27), một căn phòng rộng rãi chứa được 120 người khách (Act.1:12). Đang khi ăn Ngài làm một việc cả thể: "Ngài Lập Phép Thánh Thể". Nghĩa là đang ăn, Ngài biết đến giờ phải rời bỏ các môn đệ và những người thân tín, Ngài không nỡ rời bỏ họ cô đơn, không biết cách nào ở lại với họ, Ngài đứng dậy khỏi bàn ăn, lấy khăn thắt lưng rồi đổ nước vào chậu, đi rửa chân cho các môn đệ. Rồi trở lại bàn ăn, cầm lấy bánh và rượu mà truyền: "Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy sẽ đổ ra vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn, mà uống. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy".
2. Thánh Thể mầu nhiệm của tình yêu:
Thánh Tôma gọi Thánh Thể là mầu nhiệm của tình yêu vì: Chúa là tình yêu, vì yêu thương nhân loại còn ở thế gian mà Chúa bị sự thúc đẩy quá mức của tình yêu Chúa, Chúa thiết lập Thánh Thể nhiệm mầu. (Chúng ta tưởng tượng hình ảnh con chim đềnh đềnh, vì yêu thương các con nên đã lấy máu mình cho con uống, Chúa cũng thế, vì muốn hiện diện nơi loài người, đến lúc phải lìa bỏ, Ngài đã muốn ngự trong tấm bánh để ở lại với họ). Thánh Thoma đã nói: "Tình yêu đã hóa ra tình yêu".
3. Có chuyện kể rằng:
Ngày 8 tháng 7 năm 1990, vừa qua là ngày kết thúc cuộc đấu bóng đá tại nước Italia. Người ta kẻ thắng người thua đã chảy bao nước mắt.
Cha Antoine De Melo, một linh mục từ nước Ấn độ đã kể chuyện như sau:
Chúa Đức Giêsu nghe thấy người ta than phiền về cuộc đấu bóng gay go giữa 2 đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội tuyển Công Giáo làm bàn 1-0, thì Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong 1 cuộc phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ hòa 1-1. Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa, ông lớn tiếng la lên:
- Này ông bạn, ông ủng hộ phe nào vậy?
Chúa Đức Giêsu trả lời:
- Tôi à? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi tới đây chỉ để 'thưởng thức "Trận đấu mà thôi!"
Ông khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Đức Giêsu, liền ghé qua ông bên cạnh nói nhỏ:
- Hắn ta là tên ba phải đấy!
Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Ngài về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
- Thưa Ngài, người ta thật buồn cười! Họ tưởng rằng Thiên Chúa đứng về phía họ mà đả phe nghịch kia chứ.
Đức Giêsu gật đầu bảo:
- Thiên Chúa thì không ủng hộ tôn giáo nào cả, mà chỉ ủng hộ con người. Con người cao trọng hơn Tôn Giáo. Chúng con lại chẳng biết là chính những người có Tôn Giáo đó, chúng treo Thiên Chúa lên trên cây thập giá là gì!
Câu chuyện cho ta tư tưởng: Một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua các thời đại, là thái độ bất khoan dung với tôn giáo. Con người chỉ biết nhân danh Thượng Đế, nhân danh Thần Linh và nhân danh quyền lực của mình, để hạ bệ người khác. Thực có Tôn Giáo nào dậy như vậy không?
Câu chuyện cho ta thấy, Chúa yêu thương loài người hơn hết mọi chuyện. Ngài chỉ ủng hộ con người và thiết lập Bí Tích Thánh Thể cũng chỉ vì loài người. Xin cho chúng con biết một lòng sùng kính Bí Tích mến yêu này, để luôn nghiệm thấy hiệu quả của ơn cứu chuộc chúng con.
39. Trao ban đến tận cùng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Tình thương là động cơ chính thúc đẩy người ta ban tặng cho nhau.
Vì tình yêu thương có nhiều cấp độ hơn kém khác nhau nên việc trao ban cũng có nhiều mức độ nhiều ít khác nhau.
1. Trao ban những thứ dư thừa
Khi gặp một người ăn xin xa lạ trên đường phố chìa tay tìm sự giúp đỡ, khách bộ hành dừng lại, tần ngần mở ví, tìm đồng tiền nhỏ nhất trao cho người ấy.
Khi gặp người lỡ bước không chỗ tạm trú qua đêm, người chủ của căn nhà sang trọng chỉ nhường cho người đó một xó nhỏ ngoài hành lang nhà mình.
Khi có nạn nhân những vùng bị lũ quét cuốn trôi hết gia tài sản nghiệp, người dư ăn dư mặc chỉ chia sẻ cho họ những bộ áo quần cũ kỹ, mặc không vừa ý...
Vì tình thương đối với những người hoạn nạn ấy rất nhỏ nhoi nên người ta chỉ trao tặng họ những của dư thừa.
2. Trao ban những điều cần thiết
Khi tình yêu dành cho người khac lớn hơn, người ta sẽ ban tặng cho họ những thứ cần thiết hơn. Hai người bạn tù thương mến nhau đang sống trong cảnh tù đày thiếu đói, người nầy sẵn sàng bẻ đôi miếng bánh đang ăn để chia sớt cho người kia cùng chịu cảnh tù tội đói khát với mình.
3. Trao ban cả bản thân
Cao cả hơn hết là trao ban chính bản thân mình.
Đó là khi người có đôi mắt tinh tường sẵn sàng hiến một con mắt của mình cho người bị nạn hỏng cả hai mắt; người có hai quả thận hoạt động tốt, hiến cho người bị hư thận hoàn toàn một quả; người có hai lá phổi lành lặn, hiến cho người bị ung thư hai buồng phổi một lá; người có hai cánh tay khoẻ mạnh tình nguyện hiến nguyên cả một cánh tay của mình cho người bị tai nạn nghề nghiệp đứt lìa hai chi trên.
Chỉ khi nào người ta yêu mến nạn nhân hết lòng hết sức, yêu nạn nhân còn hơn cả bản thân mình, người ta mới hiến tặng những chi thể trong thân mình cho họ. Vì thế, những nghĩa cử cao đẹp đó rất hiếm hoi trên cõi đời ô trọc nầy.
Chỉ có Chúa Giêsu mới trao ban cả thân xác và mạng sống của Người cho chúng ta.
Người đời nghèo thiếu tình yêu nên cũng rất bủn xỉn trong việc trao ban. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên Người trao ban cho chúng ta tất cả không tiếc nuối điều gì, thậm chí còn ban cả bản thân và mạng sống của Người cho chúng ta.
Khi nhân loại ngụp lặn trong đại dương chết chóc mong ước có một "Tấm Phao" thần diệu cứu họ khỏi đắm chìm trong biển chết hãi hùng, Chúa Giêsu từ trời gieo mình xuống và trở nên "Phao Cứu Sinh" cho họ.
Khi nhân loại khao khát thứ bánh thần thiêng mang lại sự sống đời đời, Chúa Giêsu hiến ban Thân Mình Người làm bánh trường sinh mang lại sự sống vĩnh cửu cho thế nhân.
Khi loài người cần máu của Con Thiên Chúa đổ ra tẩy rửa tội lỗi ngút ngàn của họ, Chúa Giêsu sẵn sàng trút máu mình ra không tiếc nuối.
Khi con người cần sinh mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa để đổi mạng cho mình, Chúa Giêsu vui lòng dâng hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân...
Chúa Giêsu luôn đáp ứng tất cả những nhu cầu sâu xa nhất, bức thiết nhất của chúng ta cho dù Người phải thiệt mất mạng sống.
Chúa Giêsu trao ban hết tất cả những gì Người có và ban chính bản thân Người vì yêu thương chúng ta.
"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15,13).
Lạy Chúa Giêsu,
Không ai trên cõi đời nầy yêu thương chúng con bằng Chúa.
Dù chúng con có phản bội, có thờ ơ hờ hững với Chúa thì Chúa vẫn trọn đời yêu quý chúng con.
Vậy mà tiếc thay, nhiều người trong chúng con không nhận ra tình yêu cao vời ấy.
Xin đừng để chúng con trở nên người bội bạc vong ân vì không cảm nhận được tình yêu của Chúa và không biết đáp đền tình yêu trời bể Chúa dành cho chúng con.
40. Tình Chúa.
Du khách đến Huế không thể quên được Nam Giao, cũng như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính tại nơi đây, hàng năm nhà vua sẽ tế Trời thay cho toàn dân.
Tại Huế, Đien Thái Hòa, cửa Ngọ Môn và đàn Nam Giao cũng nằm ngay trên một đường Thẳng. Điện Thái Hòa là nơi vua quan lo việc triều chính. Cửa Ngọ Môn quay về hướng nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, lúc 12 giờ trưa, tức là giờ Ngo, thì hình và bóng sẽ trở nên đồng nhất.
Từ Điện Thái Hòa, vua sẽ qua cửa Ngọ Môn, tiến về phương nam đển lên đàn Nam Giao thay dân tế Trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ bước lên tế đàn hình vuông tượng trưng cho đất, rồi mới tiến lên tế đàn hình tròn, tượng trưng cho Trời. Chính tại nơi đó, vua sẽ long trọng thay mặt toàn thể con dân tế Trời.
Vua trần gian thay dân tế Trời bằng những của lễ vật chất. Vua vũ trụ, Đức Giêsu Kitô dùng chính thân xác và linh hồn của Người để tế lễ cho Thiên Chúa.
Vua trần gian thay dân tế Trời rồi trở lại với công việc triều chính. Vua Giêsu khi tế lễ cho Thiên Chúa lại dùng chính thân xác mình làm của ăn của uống nuôi toàn dân.
“Này là Mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn… Này là Máu Ta các con hãy cầm lấy mà uống”. Tiệc Thánh Thể này đã được chính Đức Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, đã được Người hứa ban cho dân ở Caphanaum, đã được Người thiết lập ở Giêrusalem trước khi bước vào cuộc khổ nạn, và đã được chính Người cử hành đầu tiên tại làng quê hẻo lánh Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện, đan kết với nhau tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thanh Chúa.
Thánh Thể chính là trung tâm đời sống người tín hữu Kitô.
Thánh Thể chính là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh thể chính là món quà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại.
Thánh Thể chính là lương thực thiêng liêng cho cuộc sống người tín hữu.
Thánh Thể chính là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá tầm trí mọn của con người. Đức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta, đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa.
Thánh Thể chính là sáng kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa đang yêu. Trước khi giã từ cõi thế. Người không còn gì quý hơn để ban tặng cho con người. Người đã trao ban cả thân xác, để thấm nhập vào xác thân con người. Yêu là cho đi, là cho hết, cho cả cuộc đời.
41. Giao ước mới.
Sau câu chuyện Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, câu chuyện về giao ước của Thiên Chúa với Abraham chính là thời điểm chủ chốt trong Cựu ước. Câu chuyện cứu độ của chúng ta bắt đầu từ đây. Thời điểm này trong Kinh Thánh đã trở thành câu chuyện về mối tương quan của Thiên Chúa với dân Người. Câu chuyện này được tóm tắt trong một công thức đã được lập đi lập lại nhiều lần trong Cựu ước “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Giao ước này không giống như mối quan hệ tồn tại giữa các bên đối tac trong thương mại – đó là một cách sắp xếp kinh doanh một cách chặt chẽ. Giao ước này giống như giao ước tồn tại giữa đôi vợ chồng nhiều hơn. Trên thực tế, đây đúng là cách thức mà một số ngôn sứ đã mô tả về giao ươc này: họ so sánh giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người với mối quan hệ trong hôn nhân. Về phần mình, Thiên Chúa luôn luôn trung thành; tình yêu của Người không hề thay đổi. Nhưng thật đáng buồn, không phải lúc nào dân của Người cũng trung thành với Người.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa. Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì quan trọng hơn, so với việc Thiên Chúa toàn năng ban bố lề luật, Thiên Chúa cần có sự vâng phục của chúng ta, chứ không cần đến tình yêu của chúng ta. Nhưng giao ước này phải là một hợp đồng được thực hiện một cách tự do, giữa hai bên hoàn toàn tự do.
Trong bài đọc 1 của ngày hôm nay, chúng ta nhận thấy cách thức Môsê phê chuẩn giao ước, trước khi dân chúng tiến vào đất hứa. Nhưng dân chúng đã không giữ giao ước. Họ rơi vào cảnh sùng bái ngẫu tượng. Mặc dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Rất nhiều lần, Người đề nghị với họ một giao ước, và thông qua các ngôn sứ, Người dạy họ biết hy vọng vào ơn cứu độ.
Và khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã gửi Chúa Con đến làm Đấng cứu độ chúng ta. Thông qua Người, Thiên Chúa thiết lập với chúng ta một giao ước mới và kéo dài đến muôn đời. Đức Giêsu đánh dấu giao ước này bằng máu của Người. Đức Giêsu chính là người đứng đầu dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Ngươi dẫn đưa chúng ta tới không phải là mảnh đất trần gian này, mà là vùng đất của cuộc sống muôn đời. Thông qua Người, chúng ta có một ràng buộc gần gũi hơn bao giờ hết đối với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thien Chúa, mà còn là những người con trai và con gái là gia đình của Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta đang có một giao ước với Thiên Chúa, Đấng luôn luôn trung thành. Chúng ta được mời gọi sống theo cách thức nhất quán với mối tương quan này. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta phải thành công, Người chỉ cần sự trung tín mà thôi.
42. Bánh Ban Sự Sống – Peter Feldmeier
(Lm. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Bởi vậy, Người là trung gian của một giao ước mới (Dt 9,15).
Khi tôi đem Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân và những cụ già tại một nhà dưỡng lão, lần đầu tiên tôi gặp ông Smith. Ông ta mắc bệnh rối loạn tâm thần. Khi tôi gõ cửa phòng ông và đang chuẩn bị bước vào, tôi tự giới thiệu và cho ông biết giáo xứ đã cử tôi đến đây. Ông ta tỏ vẻ bực bội và khó chịu nói vọng ra “Xin lỗi, mời ông bước ra”. Khi tôi vừa quay lưng để định thoái lui, ông gọi giật tôi lại và hỏi “Ông đến đây làm gì”? Tôi trả lời: “Tôi đến đem mình Thánh Chúa cho ông”. Bấy giờ ông lên tiếng “Ồ, chuyện đó lại khác, mời ông vào”. Thái độ của ông bỗng chốc trở nên cung kính và sốt sắng cách lạ thường. Chung tôi cùng cầu nguyện với nhau và đọc kinh Lạy Cha, rồi tôi trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ông đón nhận với thái độ rất kính cẩn và chậm rãi cầu nguyện cám ơn Chúa sau khi đã rước lễ. Tôi thấy rất cảm động. Sau đó tôi chào ông và nói “Xin lỗi, chào ông nhé, bây giờ thì tôi bước ra đây”.
Kinh nghiệm ngày hôm đó đã gợi hứng rất nhiều cho tôi để suy gẫm về Bí tích Thánh Thể. Hiển nhiên tôi thấy rất rõ, ông Smith đã đón nhận Thánh The một cách thật cung kính, chứ không phải như một thói quen máy móc. Ông đã biểu tỏ lòng tôn kính và sự thánh thiện khi rước lễ một cách thật ý thức. Có thể nói đó là phút giây đẹp nhất trong một ngày sống của ông. Mặc dù ông ta đang mắc bệnh về não, khiến ông khó có thể kiểm soát được đầu óc mình, nhưng việc rước Thánh Thể đã khơi dậy lòng sốt mến trong tâm hồn ông, và ông cảm nhận một cách rõ ràng sự hiện diện của Chúa Giesu nơi bánh Thánh. Ông đã biểu tỏ rõ nét sự quý trọng thánh thiêng khi đón nhận mình Thánh Chúa Giêsu.
Bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay trích từ thư gửi tín hữu Do Thái, trong đó tác giả liệt kê một loạt những biểu tương khá phức tạp để diễn bày sự thánh thiện của Thiên Chúa. Gợi nhắc lại các nghi thức phụng tự xưa cũ nơi cung thánh của đền thờ, tác giả quy chiếu về Đức Giêsu. Ngài chính là Thượng Tế của giao ước mới, một giao ước đã trở nên trọn hảo. Tác giả đã viết như sau “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn. Người vào chỉ một lần, và đã lanh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta”. Sau đó tác giả thơ Do Thái dẫn giải tiếp và cho biết cung thánh mới được nói tới chính là quê trời.
Ở đây, chúng ta không cần tưởng tượng ra trời cao hay thiên đàng như một cung thánh thiêng liêng. Nhưng tác giả muốn chúng ta nhìn vào hoàn vũ này như một đền thờ của Thiên Chúa và trời cao nơi Thiên Chúa ngự chính là Cung thánh, nơi cực thánh. Trong đền thờ này có hòm bia giao ước. Cung thánh trong đền thờ năm xưa là nơi đặt hòm bia chứng ước, và cũng là nơi chốn linh thiêng nhất. Vị Thượng Tế phải đi qua một cái lều lớn để tiến đến cái lều nhỏ tận sâu phía trong, là nội cung cực thánh. Ông chỉ vào nơi đây một ngày duy nhất trong năm, đó là ngày lễ xá tội (Yom Kippur). Thượng tế được cột bằng một dải vải dài từ chiếc áo choàng, để khi đi vào cung thánh gặp Thiên Chúa mà lỡ có phải chết, các tư tế khác sẽ dùng miếng vải đó lôi ông ra ngoài vì không ai được vào tận trong cung thánh. Người Do Thái tin rằng đây là nơi cực thánh không ai được vào trừ Thượng tế, và nếu ai liều lĩnh đi vào, người đó sẽ chết. Vị Thượng tế tiến vào cung thánh mỗi năm một lần để gặp Thiên Chúa trực tiếp thay cho dân. Nhưng đây chỉ là hình bóng về một cung thánh khác trên trời cao, nơi chúng ta sẽ được tiếp cận Thiên Chúa một cách trực tiếp. Bằng máu hiến tế đổ ra, Đức Kitô đã đi qua một chiếc lều tạm là chính thân xác Ngài, để tiến về chiếc lều nhỏ, là chính cung thánh trên trời. Vì thế, Ngài trở thành Thượng tế đích thật, là “Trung gian của giao ước mới”.
Theo tôi nghĩ, thế giới tạo thành này hiện hữu với hai cấp độ: cấp độ vật chất hữu hình và cấp độ thiêng liêng vô hình. Cả hai cấp độ này hòa quyện và đan xen với nhau. Cách thái hiện hữu này giúp cắt nghĩa lý do tại sao các phép lạ vẫn xảy ra mà không huy phá trật tự của tự nhiên, cho dù nó được thực hiện bằng những sức mạnh thần thiêng mà luật tự nhiên không thể cắt nghĩa nổi. Chúng ta hãy tưởng tượng vũ trụ này như một đền thờ, và trời cao như là cánh cửa dẫn vao nội cung cực thánh bên trong đền thờ đó. Ý tưởng này sẽ giúp chúng ta nhìn vào hoàn vũ bao la này và khám phá ra sự linh thánh của nó. Khi tôi thực hiện một quyết định gì về thế giới tạo thành quanh đây, tôi luôn phai ghi nhớ sự linh thánh ẩn chứa bên trong. Nếu chúng ta ý thức rằng tất cả mọi người đang sống trên trái đất đều được phủ che bằng một tấm màn thánh thiêng như thế, chúng ta sẽ đối xử với nhau một cách khác hẳn.
Nhưng trên hết, hình ảnh này sẽ giúp chúng ta hiểu được Đức Kitô đã liên kết trời và đất như thế nào. Đương nhiên trời không phải là đất, và trái đất chúng ta đang ở không phải là quê trời. Nhưng trong Đức Kitô, cả hai thực tại đều liên hệ chặt chẽ với nhau. Trời và đất đều là thành phần của cùng một đền thờ. Trong Đức Kitô, không có cái gì chỉ thuần phàm tục, và cũng không có cái gì tuyệt đối hoàn hảo. Không có cái gì chỉ là tạm bợ và cũng không có gì trong vũ trụ này là vĩnh cửu mãi mãi.
Tôi nghĩ rằng ông Smith đã có một trực giác để thấu hiểu điều này. Từ đáy sâu thẳm của cuộc sống làm người với những giới hạn mong manh, ông đã cảm thức về một thế giới vô hạn. Khi đón nhận Thánh Thể, ông đã thực sự tiến vào Cung Thánh, vào nơi cực thánh cùng với Đức Kitô. Ông đã đón nhận của ăn đàng chỉ một ngày trước khi ông chết. Các thiên thần sẽ đưa ông về quê trời. Ông đã về với Chúa cùng với Bánh ban sự sống đem theo, là lương thực độ đường trong cuộc lữ hành tiến về cung thánh thật, và cũng là quê hương thật của ông. Nơi thánh cung này, cùng với Đức Kitô, ông sẽ đạt tới sư vinh quang tròn đầy.
43. Kể lại câu chuyện.
Trên một ngọn đồi ở gần Cape Town, Nam Phi, ngay bên dưới ngọn núi Table nổi tiếng, có một khẩu súng mỗi ngày đều được bắn vào mỗi buổi trưa. Ngọn đồi đó được biết đến như là ngọn đồi Đánh Dấu. Việc bắn súng đã từng phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Nó báo hiệu có một con tàu trên đường đi tới hoặc rời khỏi An Độ, đã đến bến cảng, với đầy hàng hóa, và được cung cấp thực phẩm và thưc uống. Kết quả là một cuộc trao đổi đẹp đẽ. Có sự tiếp nhận và có sự cho đi.
Nhưng cảnh đó diễn ra từ trước đây rất lâu. Hiện nay, mục đích này không còn tồn tại nữa. Tuy nhiên mỗi ngày, khẩu súng đó vẫn còn được bắn một cách nghiêm túc, mặc dù bây giờ, tiếng súng bắn nhỏ hơn, như một lễ nghi không có nội dung. Việc bắn súng này đã từng mang một ý nghĩa thật đẹp. Hiện nay, ý nghĩa này không còn nữa. Hầu hết người dân địa phương đều không để ý tới tiếng súng đó. Người ta nói với các du khách “nếu giữa trưa, bạn nghe thấy môt tiếng nổ lớn, thì đừng lo lắng gì cả. Đó chỉ là tiếng súng thôi”.
Tuy nhiên, lễ nghi đó vẫn còn có một mục tiêu. Hầu hết mọi người đều biết về câu chuyện phía sau lễ nghi đó. Nếu câu chuyện này bị mất đi, thì lễ nghi đó sẽ lại càng trở nên nghèo nàn hơn.
Phép Thánh Thể cử hành một sự kiện tuyệt vời – ân sủng mà Đức Giêsu đã thay mặt chúng ta thực hiện bằng chính sự sống của Người. Mỗi lần chúng ta cử hành Phép Thánh Thể, là chúng ta kể lại câu chuyện này. Nhưng giống như bất cứ điều gì được lập đi lập lại, có một nguy cơ là điều đó có thể trở thành một thứ lễ nghi mà thôi.
Trong Phép Thánh Thể, Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh ban sự sống. Nhưng điều đó không có nghĩa là sự giao thông một chiều. Khi được đón nhận Đức Giêsu, Người chờ đợi chúng ta có mot gì đó để đáp trả lại – không phải là cho bản thân Người, mà cho nhau. Nhưng thông thường, việc đón nhận Phép Thánh Thể lại không tạo ra được hiệu quả đáng lẽ phải có – hiến thân phục vụ người khác một cách vô vị lơi.
Chúng ta vẫn tiếp tục công bố về bánh và chén, “Đây là mình Thầy, hiến thân vì anh em… Đây là máu Thầy, đổ ra vì anh em”. Tuy nhiên, dường như Phép Thánh Thể ít có hiệu quả trên con người. Chúng ta không nhìn thấy người nào chịu hiến mạng sống của mình, trong việc phục vụ người khác. Người nào ăn bánh và uống chén này mỗi ngày, thì thường đang được sống cuộc sống trung tâm của mình.
Đối với người Do thái, sự ghi nhớ không chỉ là kể lai. Đó là trình bày cho mỗi thế hệ về những sự kiện mang tính cách giải quyết trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, Phép Thánh Thể không chỉ là giới thiệu về Mình và Máu Đức Kitô, mà còn loan báo và tưởng nhớ về cái chết ban sự sống của Người.
Phép Thánh Thể là trung tâm của tất cả mọi sự. Nhưng không bao giờ có thể tách rời Phép Thánh Thể ra khỏi sự thanh tẩy bản thân. Có hai chân lý được nối kết với nhau – chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu, để có thể hiệp thông với người khác.
Thật là một điều đáng tiếc, nếu Phép Thánh Thể chỉ là một lễ nghi, một thứ lễ nghi trống rỗng. Ở đây, Đức Giêsu hiến thân cho chúng ta, để đến lượt mình, chúng ta có thể hiến thân cho anh em.
44. Đồng hành.
Đôi khi người ta cũng cần ở một mình, bởi vì linh hồn đòi hỏi sự cô tịch, để giữ được tính cách cá nhân của nó. Nhưng chúng ta không thể sống cô đơn được. Chúng ta sẽ hóa đien. Sự thật là: rõ ràng chúng ta lệ thuộc vào nhau. Trong cuộc sống của mình, chúng ta cần đến người khác – để nâng đỡ, xác nhận, khích lệ, đồng hành với chúng ta. Họ nuôi dưỡng và hỗ trợ chúng ta theo hàng trăm cách thức khác nhau. Và tất nhiên, chúng ta cũng nuôi dưỡng họ nữa.
Ngày nay, con người được giáo dục theo chủ nghĩa cá nhân, hậu quả là người ta cảm thấy đời sống cộng đồng là khó khăn. Trong thế giới hiện nay, có nhiều nỗi cô đơn. Nhiều người đang kêu gào một người bạn, một người đồng hành, theo nghĩa thuộc về nhau.
Từ ngữ “bạn đồng hành” là một từ ngữ rất hay. Nó xuất phát từ tiếng Latinh: cum, nghĩa là cùng với, và panis, nghĩa là bánh. Như vậy, hiểu theo từng chữ, “bạn đồng hành” nghĩa là một người nào đó mà chúng ta chia sẻ bánh. Không phải bất cứ ai bạn cũng mời vào uống trà với bạn. Đó phải là một người có quan hệ với bạn. Và mối quan hệ này đươc đào sâu thêm, nhờ việc chia sẻ đồ ăn và thức uống với nhau.
Khi có người nào mời chúng ta tới bàn của họ, là họ hiến tặng chúng ta một thứ gì đó còn nhiều hơn là thức ăn. Họ hiến tặng chúng ta sự tin tưởng, đón nhận và tình bạn. Chúng ta cảm thấy được tôn trọng. Câu chuyện là một phần lớn của thức ăn. Sau đó, chúng ta cảm thấy được nuôi dưỡng, không phải chỉ về mặt thể xác, nhưng còn về mặt tinh thần và tâm hồn nữa.
Phép Thanh Thể chính là bữa ăn mà chúng ta chia sẻ với nhau, để tưởng nhớ Chúa và vâng theo lời truyền dạy của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta trở thành những người đồng hành và bạn bè của Người, bằng cách mời gọi chúng ta đến chia sẻ thức ăn đã được hiến thánh của Phép Thánh Thể. Và trong khi làm như vậy, chúng ta trở thành những người đồng hành và bạn bè của nhau. Nhưng điều này có xảy ra được không?
Ngày nay, người ta có thể ngồi trong xe hơi để tham dự thánh lễ, và sau đó, ra đi, mà không hề có quan hệ với bất cứ ai. Một người như thế nói rằng mình đã thực sự và chân thành tham dự thánh lễ không? Chúng ta đã được gặp gỡ Thiên Chúa, nhưng liệu chúng ta có gặp gỡ các Kitô hữu đồng chí hướng với chúng ta, những người lân cận của chúng ta không? Có hai chân lý được kết nối với nhau – chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu, để có thể hiệp thông với người khác.
Ngươi ta có thể bị đổ vỡ, mà không một người nào biết đến, không một ai quan tâm cả. Việc xây dựng cộng đoàn không gay go như vậy. Chỉ cần sự thân thiện bình thường mà thôi. Bước đầu tiên là phải trở nên quen biết với nhau.
Nếu chúng ta có thể đi vào căn phòng, nơi Đức Giêsu cùng ăn Bữa Tiệc Ly với các tông đồ của Người, thì ngay tức khắc, chúng ta sẽ cảm thấy được mối quan hệ đó. Ở đây, có một nhóm người đang ngồi chung quanh một cái bàn, để chia sẻ bữa ăn với nhau. Đôi khi, trong các nhà thờ của chúng ta, người ta ngồi càng xa nhau càng tốt. Tại sao như vậy? Dường như người ta miễn cưỡng trong việc gặp gỡ nhau. Và nếu không gặp gỡ nhau, thì chúng ta khong thể chia sẻ được với nhau. Điều mà chúng ta đem đến cho nhau ở đây, thì chúng ta sẽ được nhận lại gấp trăm. Nhưng nếu không biết cho nhau, thì chúng ta sẽ chẳng nhận được gì cả.
Chúng ta cần đến Đức Kitô – đó là điều rõ ràng. Nhưng chúng ta cũng cần đến nhau nữa. Trong thế giới ngày nay, để trở thành một người có lòng tin, hoặc chỉ là một người có đời sống tinh thần mà thôi, thì có thể đó là một công việc cô độc. Đây là một nơi ma cộng đoàn gia nhập vào. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, niềm tin chung của mọi người củng cố cho niềm tin của mỗi cá nhân.
Những Kitô hữu tiên khởi nâng đỡ nhau. Họ tha thứ cho những sự xúc phạm đến nhau, chia sẻ tài sản cho nhau, và tăng cường tinh thần cộng đoàn. Sự chia sẻ tạo ra mối quan hệ, và mối quan hệ đưa đến sự chia sẻ. Phép Thánh Thể là trung tâm của tất cả mọi sự. Chính Phép Thánh Thể nối kết mọi người với nhau, và đem đến cho họ khả năng để hiến tặng cho nhau một cách thức phục vụ đầy yêu thương.
45. Chia sẻ.
Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn v.v… Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”. Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm đến Ngài.
Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Thánh thể còn là bí tích của sự hiep nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, thì thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau: được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: Bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phan chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập Phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chung ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
46. Bữa tiệc linh thánh.
Trong cuộc bắt đạo năm 1980, những người Công Giáo tại Guatemala vẫn tiếp tục tụ tập tại nhà thờ mỗi Chúa Nhật cho dù là không có linh mục để cử hành Thánh Lễ, cho dù toàn quốc không có một linh mục nào cả.
Diễn tả lại những lúc tụ tập lại mà không có linh mục, Fernando Bermudez viết trong cuốn “Death and Resurrection in Gautemala, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Gautemala” như sau: “Tất cả mọi người, quì trước mặt nhau, đều xưng tội lỗi mình ra, và cùng nhau hát bài xin Thiên Chúa tha thứ. Và một người làm đầu trong nhóm đứng lên đọc một đoạn Phúc Âm rồi giảng giải với hết khả năng theo sự hiểu biết của anh. Sau đó, anh mời mọi người trong nhóm chia sẻ ý nghĩ của họ về bài Phúc Âm đó.
Mỗi tháng một lần, các giáo xứ gởi đi một đại diện đến một chỗ mà các linh mục vẫn còn được hoạt động. Người đại diện đó phải đi bộ mất 18 tiếng đồng hồ để tham dự Thánh Lễ nhân danh giáo xứ của họ.
Diễn tả về Thánh Lễ này, Bermudez viết: “Bàn thờ được chẩn bị những rổ bánh. Sau Thánh Lễ, các đại diện đến nhận lại cái rổ bánh của mình, bây giờ là Mình Thánh Chúa, đem về giáo xứ của mình để chia sẻ với những anh chị em khác.”
Đó là lòng yêu mến Thánh Thể mà Thánh Lễ hôm nay, kính Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta đang kính nhớ.
Thánh Lễ đặc biệt này cử hành để kỷ niệm món quà rất quý giá mà Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ trong Bữa Tiệc ly. Thánh Luca đã tả lại như sau:
“Người cấm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con; hãy làm sự này mà nhớ đến Ta”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu mà nói: “Này là máu Ta, máu Giao ước mới, đổ ra vì các ngươi” (Lc 22:19-20).
Lời của Chúa Giêsu thật quan trọng. Ngài phán: “Đây là mình Ta, sẽ bị nộp vì các con” và “Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra vì các con.”
Những lời này, “sẽ bị nộp vì các con” và “sẽ đổ ra vì các con” nói lên tinh thần hy sinh cao cả. Những lời này nói lên hy tế Thân xác và Máu của của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Diễn tả về hy tế cực thánh trong Thánh Thể, Thánh Phaolô đã viết: “Chén chuc tụng ta (cầm lên mà) đội ơn, lại không phải là thông phần Máu Đức Kitô sao? Bánh ta bẻ, lại không phải là thông phần Thân mình Đức Kitô sao?” (1 Cor 10:16).
Thánh Phaolô nêu ra cho chúng ta một điểm quan trọng. Mỗi lần khi chúng ta cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta tham dự vào hiến tế của Chúa Kitô lên Thiên Chúa Cha.
Nói một cách khác, bữa tiệc Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi Chúa Nhật là một hy tế giống như hy tế mà Chúa Giêsu đã bắt đầu trong Bữa Tiệc ly và hoàn tất trên đồi Golgôtha. Khi chúng ta hiểu được điều đó thì Thánh Thể sẽ mang một ý nghĩa mới.
Đó là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tụ họp nơi đây để cùng nhau cử hành cach đặc biệt trong Thánh Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Trong một vài phút nữa, khi vị chủ tế cầm Mình Thánh và nói: “Mình Thánh Chúa Kitô”, xin các bạn hãy nỗ lực nhận thức cách đặc biệt cái gì bạn đang đón nhận.
47. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể khi ăn mừng lễ Vượt Qua, và Ngài cũng tử nạn và phục sinh vào dịp đại lễ này? Điều đó có ý nghĩa gì?
2. Khác với lễ vật bị đốt cháy hoàn toàn trong hy lễ toàn thiêu, con chiên bị sát tế vào dịp lễ Vượt Qua lại trở nên của ăn cho con người. Bạn có nhìn thấy tương quan giữa hy lễ thập giá và bí tích Thánh Thể không?
3. Đức Giêsu không chỉ chịu đau khổ và chết cho con người, mà còn trở nên của ăn cho họ. Bạn có thấy đó là mẫu gương để chúng ta bắt chước không?
Suy tư gợi ý:
1. Sự trùng hợp giữa ba biến cố quan trọng
Đã đến thời điểm Đức Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ hy sinh toàn thiêu để thờ phượng Thiên Chúa và đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng lễ Vượt qua hàng năm của người Do Thái. Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng hợp giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt phải liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Lễ Vượt Qua của người Do Thái
Đại lễ này bắt nguồn từ biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Ai Cập, xảy ra trước Đức Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp giải phóng của Thiên Chúa, dân Do Thái được vượt từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng đến để giải phóng con người, làm cho họ vượt từ ách nô lệ tội loi và ma quỉ qua tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng chết trong tội lỗi qua tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh phúc. Ngài thực hiện sự giải phóng đó bằng cả cuộc đời của một vị Thiên-Chua-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình trạng hay hư nát qua tình trạng bất diệt. Như vậy, cuộc vượt qua của dân Do Thái qua Biển Đỏ là biến cố đi trước làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua của những ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi qua cảnh tự do của con cái Thiên Chúa. Vì thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm mừng lễ Vượt Qua để thực hiện cuộc tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa hết sức sâu xa.
3. Hy tế toàn thiêu và hy tế chiên vượt qua
Để cứu chuộc và giải phóng nhan loại, Đức Giêsu phải trả giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm như một của lễ vật bị sát tế dâng lên Thiên Chúa. Để hiểu được sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và đền tội nhân loại, và để hiểu được việc lập bí tích Thánh Thể như một của ăn tâm linh mà Đức Giêsu để lại khi bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần hiểu ít nhiều về lễ hy sinh toàn thiêu và lễ sát tế chiên Vượt Qua của người Do Thái.
Ngày xưa - ít nhất kể từ ông Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do Thái thờ phượng Thiên Chúa bằng cách dâng lên Ngài những hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt ra sau này từ thời Môsê, thì người muốn dâng hy lễ toàn thiêu phải đặt tay trên con vật khi nó bị giết để nói lên mình là người chủ muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy máu của con vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật được chặt ra thành mảnh. Vị tư tế đặt các mảnh thịt lên bàn thờ để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho chín để sau đó đem ăn. Ý nghĩa của lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự toàn phục của mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên toàn thể tạo vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế chính mình, nhưng nếu như thế, con người sẽ phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một con vật nào đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để giết và thiêu cháy hoàn toàn. Điều này muốn nói lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên Chúa điều gì, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, vừa để đền tội và xin ơn cho mình.
Nhưng trước ngày giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy một hình thức sát tế mới được thực hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng năm. Cách hy tế mới khác với cách cũ ở chỗ: trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật bị thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng bị không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ được nướng lên để sau đó con người ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong nghi thức sát tế mới này con người cũng được dự phần vào lễ vật, và lễ vật trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Đây chính là hình bóng hay ẩn dụ cho bí tích Thánh Thể ma Đức Giêsu thiết lập vào dịp này.
4. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu với hy lễ Thánh Thể
Cuộc tử nạn của Đức Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là le vật. Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế, nhưng cả hai người ấy dường như không bao giờ lại là lễ vật. Vì lễ vật là đối tượng bị giết, chịu đau khổ và chết thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ có tội phải đền mạng. Trong hy lễ toàn thiêu này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật bị sát tế, chẳng những để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng thời xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng khiếp này chỉ có thể phát xuất từ tình yêu cao cả đối với Thiên Chúa và toàn thể con người, đồng thời từ sự toàn phục đối với Thiên Chúa Cha.
Nhưng hy lễ này, Đức Giêsu không muốn thực hiện theo kiểu hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn toàn bị thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu hiện tính “vì Thiên Chúa” một cách triệt để. Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu hy lễ chiên vượt qua, trong đó lễ vật ngoài việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn cho con người. Kiểu hy tế này mang tính hai chiều: vừa “vì Thiên Chúa” mà cũng vừa “vì con người “. Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập thể của Ngài và trong Giao Ước Mới do Ngài thiết lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị giết, Ngài chọn chết trên thập giá - là bàn thờ của hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều ngang và dọc, tượng trưng cho hai chiều kích can bản ấy.
5. Tình yêu Đức Giêsu dành cho con người
Vì thế, trước khi ra đi chịu tử hình thập giá, tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Ngài trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Tôi thật xúc động khi nghĩ đến điều này. Ngài vốn là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con người chúng ta vô hạn. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là một đoi trọng cho tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải dành trọn vẹn cho mình. Tại sao? Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người. Điều này có phần nào tương tự như người chồng đòi hỏi người vợ phải dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho mình, nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ tình yêu và sự trìu mến ấy cho con cái, vì chính người chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người vợ. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các Ngài phải dành trọn vẹn cho nhau. Điều đó chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.
Ngài đến thế gian không chỉ nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến việc biểu lộ tình yêu, sự vâng phục đối với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con người, đến việc sáng kiến ra những điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con người, chắc chắn không chỉ vì con người là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng con cái Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng chia sẻ đau khổ với con người, càng cam nghiệm được sự dày vò khó chịu của đau khổ, Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy tính cảm thông đó khiến Ngài không chỉ đau khổ và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để nuôi dưỡng chúng ta, đe ở lại với chúng ta, để có thể ban sức mạnh thần thiêng cho chúng ta, để đời sống chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.
6. Áp dụng tinh thần yêu thương của Đức Giêsu vào đời sống
Thiên Chúa cảm thông và yêu thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại không cảm thông và yêu thương nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Thiên Chúa và thương con người, lẽ nào chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa - Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung quanh đang sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên “của ăn” cho anh chị em mình nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm với nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha hãy ban tình yêu cho chúng con.
48. Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng.
Các con lại không thức với Thày được một giờ sao?
Hôm nay Giáo hội mừng lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Trước khi về trời, Chúa không lỡ bỏ rơi loài người mồ côi, Chúa để lại cho loài người mot kỷ vật cao quý là mình máu Thánh Người trong Bí tích Thánh thể để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người, để ban sức mạnh thiêng liêng và an ủi loài người: Đây là Mình Thày (Mc 14,22), Đây là Máu Thày, máu giao ươc đổ ra cho muôn người (Mc 14,24). Cái giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người không phải được ký kết bằng máu hiến tế của chiên cừu, mà Môsê đã dùng trong Cựu ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa như Chúa phán trong Phúc âm hôm nay và được Thánh Phaolô thuật lại trong Thư gửi tín hữu Do thái (Dt 9,14).
Thánh lễ mi-sa là việc làm mới lại lễ hi sinh thánh giá. Tham dự vào bàn tiệc thánh là dấu chỉ ta chấp nhận giao ước mới với Thiên Chúa. Nếu người công giáo được hỏi xem có tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể không, chắc đa số sẽ trả lời là có. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa người Công giáo và người Tin lành. Người Công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể do lời truyền phép của linh mục. Tuy nhiên đôi khi ta có thể nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa trong Bí tích Mình thánh. Có khi nào ta nghe tiếng cám dỗ bảo ta điều gì không nên tin, việc gì không nên làm, vấn đề gì cần phải được xét lại không? Có bao giờ ta tự hỏi không biết khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trong thánh lễ: Này là mình Ta... Này là máu Ta có thực sự như vậy không? Không biết bánh rượu sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép có thực sự trở thành mình máu thánh Chúa không? Sở có những câu hỏi như vậy là vì ta thấy bánh rượu sau khi được truyền phép trông bề ngoai không có gì khác với bánh rượu trước khi truyền phép? Có một linh mục kia tự nghĩ nếu quả thật bánh rượu sau khi được truyền phép không phải là mình máu thánh Chúa thì những lần ngài dâng lễ quả là vô ích. Nếu quả thật không có sự biến đổi thực sự do lời truyền phép của linh mục dâng thánh lễ, thì vị linh mục đó không thể tự lừa dối mình, nghĩa là không thể tiếp tục dâng thánh lễ. Và vị linh mục đó lý luận chẳng lẽ từ khi Chúa lập Bí tích Thánh thể và lập chức linh mục đã có cả hàng triệu linh mục trên thế giới đã đọc lại lời Chúa hàng ngày: Đây là Mình Ta… Đây là Máu Ta lại tiếp tục dâng thánh lễ được sao?
Ta cứ giả sử người công giáo tin trong đầu óc có Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh thể, và khi rước lễ là rước mình thánh Chúa. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được bằng con tim có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Mình Máu thánh không lại là chuyện khác. Để có thể cảm nghiệm được có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể, ta hãy đáp lại lời Chúa mời gọi: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28). Nếu chưa có kinh nghiệm cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa, ta hãy đến cầu nguyện và thờ lạy trước Mình thánh Chúa, để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút những gánh nặng của cuộc sống, những nỗi khổ tâm của lòng mình vao lòng từ ái của Chúa. Ta có thể cầu nguyện riêng một mình, hay với nhóm, hay chỉ cần ngồi đó thinh lặng để cho lòng mình nói với Chúa. Khi mẹ Teresa, thành Calcutta được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục phục phu người nghèo bên Ấn Độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình thánh Chúa. Chúa bảo ta qua các tông đồ: Các con lại không thức với Thày được một giờ sao (Mc 14,37)?
Để đáp lại lời Chúa mời gọi, ta hãy thức với Chúa một giờ, hãy cầu nguyện với Chúa một giờ trước Thánh thể Chúa, hoặc ban ngày hay ban tối, hoặc với ngưòi khác hay một mình xem ta cảm thấy thế nào? Nếu lần này không cảm thấy gì, thì lần sau, rồi lần sau nữa. Ta hãy thức với Chúa một giờ xem lời Chúa và Mình thánh Chúa có sức tác động và biến đổi tâm hồn và đời sống ta không, xem Chúa có thực sự la sức mạnh, là nguồn vui, là niềm an ủi, là sự cậy trông và là lẽ sống của đời ta không?
49. Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng.
Thánh Thể dấu chỉ của ơn hiệp thông
Cuộc sống mỗi ngày quanh ta kết thành vô vàn dấu chỉ. Một tấm biển báo trên đường đi: dấu chỉ của luật giao thông; Một cử chỉ cúi chào: dấu chỉ của lòng kính trọng; Một bông hoa, một cánh thiệp: dấu chỉ của lòng yêu thương, tình bạn, sự luyến nhớ…
Đời sống của Giáo Hội cung không hề khác. Để diễn tả một chân lý đức tin nào đó, Thiên Chúa, Chúa Kitô và Giáo Hội đã sử dụng rất nhiều biểu tượng và dấu chỉ. Chẳng hạn: Cột lửa, cột mây đồng hành với dân Chúa suốt bốn mươi năm trường trong sa mạc là dấu chỉ của sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người; Hòm bia thánh chứa đựng Thập điều là dấu chỉ của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân; Ngón tay, cánh tay, chim bồ câu, lưỡi lửa là dấu chỉ của ơn Thánh Thần; Ánh lửa, nến cháy sáng là biểu trưng của đức tin, của lòng mến…
Và trong muôn vàn biểu tượng ấy, có một biểu tượng trở thành dấu chỉ chất chứa nơi mình nó ơn cứu độ đời đời, mang lại ơn cứu độ cho bất cứ ai tin tưởng và lãnh nhận bằng tất cả lòng thành kính, tất cả tình yêu và tôn thờ Thiên Chúa. Tôi muốn nói đến các bí tích Chúa Kitô đã thiết lập và trao lại cho Giáo Hội.
Vậy bí tích là gì? Thánh Augustinô định nghĩa rất đơn giản: bí tích là DẤU CHỈ HỮU HIỆU.
Dấu chỉ là điều gì đó hữu hình giác quan có thể tiếp thu: mắt có thể nhìn thấy, tay có thể đụng chạm… Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ dù chỉ là một thực tại hữu hình nhưng bản thân nó lại nói cho ta biết một điều gì đó lớn lao, vượt ra ngoài trí hiểu và sự khôn ngoan của ta. Nói chính xác, dấu chỉ của bí tích là biểu tượng của lòng tin cho ta biết những thực tại thuộc về Thiên Chúa, những thực tại dẫu vô hình nhưng là những thực tại có thực mà ta không thể nhìn thấy, chỉ có thể chấp nhận trong đức tin.
Cuộc sống nói chung và cuộc sống đức tin của người Công giáo được đan kết bằng những dấu chỉ, để từ những dấu chỉ đó, diễn tả một chiều kích cao sâu xuyên qua cái hữu hình.
Nhưng không đơn thuần là dấu chỉ, mà bí tích còn là dấu chỉ hữu hiệu. Hữu hiệu vì nó sinh hiệu quả, nó có cả một thực tại ở phía sau những gì nó diễn tả. Nói như thế hơi khó hiểu. Bạn có thể hiểu nôm na thế này: ví dụ bạn tặng người yêu một bông hoa. Bông hoa ấy, tự nó không nói lên điều gì, nhưng khi bạn cầm lấy nó mà tặng cho người yêu, bông hoa ấy có một giá trị. Bông hoa ấy trở nên biểu trưng của lòng yêu thương, quý mến mà bạn dành cho người yêu của mình.
Nhưng đấy chỉ mới là dấu chỉ. Chẳng hạn sau khi nhận bông hoa, tự dưng người yêu của bạn cảm động, nghe tâm hồn ấm áp. Chỉ với một bông hoa nhỏ bé ấy thôi, nhưng cả hai dù là người tặng lẫn người nhận sao mà sung sướng, hạnh phúc và gần gũi lạ thường. Bạn ạ, đấy chính là sự hiệu nghiệm của một dấu chỉ, là hiệu quả, là thực tại phía sau những gì mà cành hoa diễn tả.
Bí tích là như thế: những dấu chỉ hữu hiệu. Hữu hiệu vì khi lãnh bí tích, ta cũng đồng thời lãnh nhận tình yêu của Chúa, lãnh nhận sức sống thần linh Thiên Chúa ban tặng cho ta, làm tâm hồn ta mạnh mẽ, đủ cứng cát mà chống lại cám dỗ, chống lại thói hư tật xấu nơi chính bản thân mình. Ngang qua những dấu chỉ của bí tích, ơn Bảo Trợ lớn lao là chính Thánh Thần được ban cho ta. Và ngang qua dấu chỉ của bí tích, ta tham dư vào sự sống hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa chúng ta. Bởi đó, một thực tại hữu hiệu thật lớn lao mà bí tích là dấu chỉ đã diễn tả.
Bí tích Thánh Thể cũng là một dấu chỉ: DẤU CHỈ CỦA SỰ HIỆP THÔNG. Hiệp thông có nghĩa là nên một. Nói cách khác: bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự nên một, như Hội Thánh luôn tuyên xưng và cầu nguyện rằng: “Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn II). Hay: “Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn III). Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Động từ “ở trong” mà Chúa nói, diễn tả mạnh mẽ ơn hiệp thông. Có ai trong chúng ta dám khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ như Chúa Giêsu? Dẫu là tình yêu mặn nồng của đôi lứa yêu nhau hay ngay cả vợ chồng đi nữa, có chắc là họ ở trong nhau như Chúa trong ta và ta trong Chúa? Chỉ có bí tích Thánh Thể làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn: Chúa với ta và ta với Chúa: một thân thể không thể tách lìa.
Trong bí tích Thánh Thể, ta không chỉ nên một với Chúa mà thôi, nhưng còn với anh chị em của mình nữa. Vì khi cùng chia sẻ một tấm bánh là chính thân mình Chúa Kitô, tất cả mọi người sẽ nên những chi thể của Người. Thánh Phaolô đã từng nói: tất cả chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế chúng ta làm nên một thân mình. Thân mình mầu nhiệm này sẽ được sống nhờ sức sống của Chúa Kitô là chính Thánh Thần của Chúa Kitô mà Người ban cho ta.
Bởi thế, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thể của Người, tất cả chúng ta thật xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha còn ta chỉ là một với nhau, cùng làm con của Cha.
Nói như thế, không có nghĩa là trong thực tế, chúng ta đã có thể hiệp thông hoàn toàn với nhau. Hiệp thông toàn vẹn là một ước mơ lớn lao của người Kitô hữu. Bởi trong Giáo Hội vẫn còn đó nhieu chia rẽ, mà nỗi đau không phải chỉ một ngày, hai ngày mà nỗi đau bởi thiếu hiệp thông, thiếu sự nên một, trở thành vết thương lở lói qua từng thế kỷ, qua mỗi thế hệ: hết cha ông đến con cháu, vậy mà vẫn chưa có thể lành lặn.
Hiệp thông vẫn là ước mơ bởi lòng ta vẫn còn đó nỗi oán hận anh em, vẫn còn đó sự ganh ghét, và không thể tha thứ cho nhau. Bởi trong gia đình ta còn đó nhiều chia rẽ, đố kỵ. Gia đình ta còn quá coi trọng đồng tiền, vì thế kẻ có tiền trở thành chủ gia, người già yếu, người thất nghiệp bị coi là phế nhân. Quá coi trọng vật chất cho nên trật tự gia đình bị đảo ngược: đứa con có tiền cho nên mặc sức đi sớm về khuya, mặc sức tự tung tự tác, dẫu là cha mẹ cũng trở nên người phục phụ cho nó thay vì nó phải đền ơn báo nghĩa.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu hiểu rõ sự giằn co giữa ranh giới của hiệp thông và chia rẻ. Vì thế nơi Thánh Thể của Người, Chúa ban tang cho ta tình yêu vàsức mạnh. Tình yêu ấy, sức mạnh ấy đã đưa Người hiến dâng mạng sống để làm bùng lên một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt có khả năng phá tan hận thù, phá tan chia rẽ cho ta đến gần với ơn hiep thông. Ay chính là sức sống của người biết tha thứ, biết đặt tình yêu lên trên mọi hố sâu của hận thù, chia rẻ và dám hiến thân cho anh chị em, cho chân lý, cho lẽ sống, để tình yêu, sự hiệp thông được nêu cao và bền vững. Bởi thế mỗi một lần tham dự thánh lễ, mỗi một lần rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể, là mỗi một lần ta học lấy và tập tành lối sống của Chúa Giêsu, đó là một lối sống biết ra khỏi con người mình, biết vượt lên trên mọi ích kỷ, mọi vụ lợi riêng tư mà đến với anh chị em bằng một tấm lòng yêu thương chân thành, một tấm lòng đã mang lấy sự sống của Chúa Giêsu, hơn thế nữa: mang lấy chính Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng ngự trong ta và ta trong Người.
50. Hồng ân của Bí Tích Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Từ ngày tổ tông loài người sa ngã phạm tội, ông bà nguyên tổ và con cháu cắt đứt mọi tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, phải xa lìa Thiên Chúa vĩnh viễn và cuối cùng phải trầm luân đời đời trong cõi chết.
Không nỡ để cho loài người phải chìm ngập trong đau khổ và sự chết do tội lỗi gây ra, Thiên Chúa tìm mọi cách cứu vớt loài người để họ được sống hạnh phúc với Người luôn mãi.
Thế là Thiên Chúa lên kế hoạch cứu độ loài người. Kế hoạch đó nhắm đến ba mục tiêu tối quan trọng sau đây:
- Xóa bỏ tội lỗi con người.
- Kết hợp nên một với con người và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế.
- Thông ban sự sống cao cấp và viên mãn của Thiên Chúa cho loài người.
Ba mục tiêu cao cả nầy được đạt tới trọn vẹn nhờ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Vậy thì Bí Tích Thánh Thể là gì mà có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời đến thế?
Có thể trả lời vắn gọn: Bí Tích Thánh Thể, còn gọi là Thánh Lễ, chính là hy tế thập giá của Chúa Giêsu đã khởi đầu cách đây hơn 2.000 năm trên đồi Can-vê và còn tiếp tục diễn tiến qua các thời đại cho đến ngày tận thế. (Giáo lý Công Giáo 1323,1366)
Trăm nghe không bằng một thấy. Muốn hiểu điều cốt yếu của Bí Tích Thánh Thể hay Thánh Lễ là gì thì cứ việc nhìn vào tượng chuộc tội, hoặc muốn thấy rõ hơn thì nhìn vào mười bốn bức tranh đường thánh giá mà các tín hữu vẫn chiêm ngắm vào mỗi ngày thứ sáu hằng tuần. Tượng chuộc tội đó, mười bốn bức họa đường thánh gia đó, minh họa cho thấy hy tế thập giá của Chúa Giêsu diễn ra thế nào. Thánh Lễ ta tham dự hôm nay chính là phần nối tiếp của hy tế thập giá đó và cũng là một với hy tế đó.
1. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình đền tội cho ta.
Luật Chúa đã truyền: “Tội lỗi tất phải đưa đến sự chết” (xem Ê-dê-ki-ên 18,20. Rm 5,12. Rm 6,23. Giacôbê 1,15) mà luật Chúa thì không thể xóa bỏ được. Chiếu theo luật nầy, loài người đã phạm tội nên loài người không thể thoát chết, trừ phi có ai chết thay cho họ. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa tình nguyện làm Đấng chết thay.
Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa, cũng là khi dâng mình trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Giêsu chịu đền tội và chịu chết thay cho người tội lỗi để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời. (xem glcg 1365, 1366)
2. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu cho ta được kết hợp nên một với Người và Người ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Làm thế nào để cho con người được nên một với Chúa Giêsu?
Chúa Giêsu có một sáng kiến tuyệt vời: Người hiện diện dưới hình tấm bánh, dưới hình rượu để cho chúng ta được ăn Người, được uống Người. Và một khi đã ăn Chúa Giêsu, chúng ta được nên cùng máu thịt, cùng một thân mình với Chúa như lời Người phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 56)
Thiên Chúa như đại dương bao la. Còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương. Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương, nên một với đại dương, được nước đại dương làm cho trong lành.
3. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu ban sự sống của Người cho ta.
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn cho mot bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Khi rước Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta được hòa tan trong Chúa, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho ta như sự sống của thân thể chuyển thông cho từng chi thể. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54)
Như thế, Thánh Lễ, hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu là một phương thế tuyệt vời Thiên Chúa dùng để cùng một lúc ban cho chúng ta đến ba hồng ân vô giá, đó là tha thứ tội lỗi cho chúng ta, cho ta được thông hiệp nên một với Chúa và nhat là thông ban sự sống vô cùng cao quý của chính Người cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế?
Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự Thánh Lễ và tận hưởng thiên ân.
51. Bữa ăn của Chúa - Martin Lê Hoàng Vũ.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một bữa ăn. Đó là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ. Bữa ăn mà chúng ta quen gọi một cách trang trọng là bữa tiệc ly. Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể sau khi đã tâm sự hết với các môn đệ. Chúa Giêsu đã dùng bữa ăn cuối cùng với các ông vào đúng ngày người Do Thái ăn mừng lễ Vượt qua.
Ăn uống lả nhu cầu thiết yếu của đơi sống. Người ta ăn để sống và có sức khỏe làm việc. Đã ngồi ăn chung với nhau là người ta phải có mối liên hệ nào đó với nhau. Còn biết ngồi ăn chung với nhau là dấu hiệu người ta còn quan tâm đến nhau. Những người cùng một gia đình, họ hàng, dòng tộc, bạn bè, đồng nghiệp thường hay ngồi ăn với nhau. Họ ngồi ăn chung với nhau để trao đổi công việc hàn huyên tâm sự, lắng nghe, chia sẻ và gỡ rối mọi khúc mắc. Sau một bữa ăn với nhau, người ta hiểu thêm về nhau và tình người được hâm nóng.
Hơn ai hết, Đức Giêsu đã thấy rõ giá trị cần thiết của một bữa ăn. Đối với Ngài, ăn chung không chỉ đơn thuần là để no cái thân xác, mà nhất thiết là tinh thần được thỏa mãn. Ngoài ra món ăn tinh thần và món ăn thiêng liêng còn cần thiết hơn món ăn vật chất nữa. Chính vì thế, mà trong cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã nhiều lần dùng bữa với người này người nọ. Chúa đã đi ăn tiệc cưới của người bà con ở Cana. Chúa đã dùng bữa nhà ông Giakêu. Chúa đã ăn bữa cơm thịnh soạn ở nhà ông Lagiarô. Ngài bị chỉ trích vì ngồi đồng bàn với người tội lỗi và những người Pharisêu. Tất cả những bữa ăn đó đều đem lại ơn ích cho ngườI có lòng mời Chúa. Trường hợp tiệc cưới Cana và bữa ăn ở nhà ông Giakê là một điển hình: Họ đã được hưởng một niềm vui trọn vẹn của bữa tiệc mừng.Chúa ra tay cứu giúp trong những bế tắc mà nhiều khi họ cũng không ngờ. Song đỉnh cao của các bữa ăn chính là bữa tiệc ly của Chúa trước khi chịu chết. Đó là một bữa ăn giá trị cứu độ con người. Một bữa ăn không thể nào quên trong trí nhớ của những người được kêu mời là môn đệ. Chúng ta hôm nay cũng đang được tham dự bữa ăn đó qua thánh lễ. Bữa ăn đó là tiền thân của Thánh lễ hôm nay. Thánh lễ là hiện thực lại bữa ăn cuối cùng của Chúa.
Bởi trong thánh lễ Chúa Giêsu ban chính Mình và Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta. Nhờ sự chết và Phục Sinh của Chúa con người được mời gọi tham dự vào sự sống vĩnh cửu qua việc tham dự thánh lễ.Trước tiên, Chúa Giêsu là lương thực của bữa ăn của đại gia đình dân Chúa. Đồng thời Ngài cũng là chủ tiệc, là người đồng bàn với chúng ta. Tham dự thánh lễ là chúng ta nối liên lạc yêu thương với Ngài. Chúng ta được gặp gỡ chính Ngài là thượng nguồn của sự sống. Chúng ta ăn và uống Mình và Máu Ngài để được sống viên mãn trong Thiên Chúa. Là người đồng bàn, Ngài lắng nghe chúng ta tâm sự qua những lời cầu nguyện của cộng đoàn trong thánh lễ.
Như vậy, thánh lễ là trung tâm cuộc sống của người tín hữu, luôn chi phối mọi hành động của chúng ta, là cơ quan đầu não điều khiển cho chúng ta biết sống trong mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Khi đi tham dự thánh lễ đức tin của chúng ta sẽ được vững vàng, sẽ không còn những giằng co tranh chấp, những ham muốn ích kỷ, chúng ta tự biết làm gì cho Chúa và cho tha nhân.
Nhân ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay, chúng ta đã có dịp đào sâu về giá trị của thánh lễ và bí tích Thánh Thể. Chúng ta phải biết thay đổi suy nghĩ chỉ xem Thánh lễ như là một thói quen, hay là một gánh nặng phải thực hiện, một việc xưa cũ nhàm chán, mà biết tím được trong thánh lễ một nguồn sức dồi dào để chúng ta cảm thấy phấn khởi hào hứng khi đến thánh đường của giáo xứ tham dự thánh lễ mỗi Chúa Nhật.
Lạy Chúa, nhiều khi chúng con đến tham dự thánh lễ ở nhà thờ mà tâm hồn lại để ở nơi khác. Chúng con tận dụng cả giờ lễ để lo nghĩ cho một công việc sắp làm hoặc đã làm mà còn đang dở dang. nhiều khi chúng con đã quên mất gái trị cứu độ của Thánh lễ. Xin cho chúng con biết quý trọng thánh lễ như một viên ngọc quý, để chúng con đươc sống bằng chính sự sống của Chúa. Vì trong thánh lễ Chúa đã ban Mình Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng con. Amen.
52. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ tắt.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Hôm nay, tất cả mọi tín hữu Công Giáo trong khắp thế giới đều cùng nhau xuống đường để cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa một cách công khai trên trên các đường phố và tại các công viên, v.v… điều mà chúng ta thường chỉ làm trong các nhà thờ hay trong các nguyện đường, sau những cánh cửa khép kín.Tự bản chất, chính sự xuống đường như thế đã là một bài thuyết giáo hung hồn rồi. Và người ta gọi sự xuống đường-cầu nguyện đó bằng một danh xưng cổ điển rất trang trọng: Rước Kiệu!
Biến cố xuống đường hay rước kiệu của các Kitô hữu chúng ta hôm nay, trong ngày đại lễ kính Mình và Máu Thánh Đức Giêsu, có một khuôn mặt, có một nội dung, hay nói cách khác, nó nói lên một điều gì đó. Đức cố Giám Mục Georg Moser, giáo phận Rottenburg-Stuttgart (CHLB Đức) đã nói một lời, mà nếu chúng ta hiểu rõ, tất cả chúng ta sẽ ý thức được những gì chúng ta muốn bày tỏ và muốn nói lên trong ngày lễ trọng đại này: Chúng ta không biểu tình, không chống đối, không khiêu khích ai cả. Tất cả những người tín hữu công Giáo chúng ta chỉ muốn mang đến cho những người anh em bên lương hay vô tín ngưỡng một sứ điệp rất đáng lắng nghe. Lời của Giám Mục Moser là: “ Trong niềm tin kính Phép Thánh Thể, chúng ta cảm nghiệm được rằng tình yêu của Thiên Chúa đố vớii loài người chúng ta không bao giờ tắt “ (Messbuch ‘77’, trang 418). Với câu nói này, Đức Giám Mục Moser đã tóm tắt được những câu viết có nội dung đầy xúc tích trong bài Sách Thánh và bài Phúc Âm. Vâng, tình yêu Thiên Chúa không bao giờ tắt! Dầu cho mọi sự trên trời dưới đất có đổi thay, dầu cho mỗi ngày con người có thay đi đổi lại gương mặt của mình như người ta thay đổi áo quần, và sau cùng, dầu cho cuộc sống có xoay vần hoán vị như mây trời như nước biển, thì có một điều muôn đời vẫn nguyên vẹn, không hề thay đổi: Đó là tình yêu Thiên Chúa đối với loài người chúng ta!
Để chúng ta có thể tin tưởng vào tình yêu của Người, chứ không hồ nghi hay ngờ vực, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là Phép Thánh Thể dưới hình thức một bữa ăn: Bánh và rượu. Bữa ăn hay bàn tiệc Thánh Thể là một việc hiện tại hóa cuộc khổ nạn và phục sinh khải hoàn của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngay chính ở đây và trong giờ phút này. Nhưng dấu chỉ đó không phai tàn và qua mau như một dấu tay trên một đồ vật nào đó. Đó là một dấu chỉ bền vững và trường tồn, bởi vì hôm nay chúng ta công khai tuyên xưng: Thiên Chúa vẫn luôn ở giữa chúng tôi - cả sau Bữa Tiệc Thánh - một cách thực sự và bản thể với Mình và Máu Thánh Người.
Tình yêu Thiên Chúa - một tình yêu không hề tắt - không chỉ là một sự thiện cảm hay một tình cảm trừu tượng suông, nhưng là một nhân vị, là một con người sống động, một con người đã tự “hiến thân”, đã tự ban tặng mình cho chúng ta và cho tất cả mọi người, và không hề đặt câu hỏi: liệu sự hy sinh và tự hiến mình như thế cho nhiều người, có được biết ơn, có được đền bù tương xứng hay không! Một tình yêu như thế thực là một tình yêu vô cùng, một tình hoàn toàn vô vị lợi và không tính toán, một tình yêu tồn tại trong mọi hoan cảnh – trong khi thăng hoa cũng như khi đổ vỡ thất bại - một tình yêu “cho đến cùng”, một tình yêu “không còn gì nữa” (x. Ga 13,1).
Về tình yêu không hề tắt đó, thánh Phaolô đã nói đến trong bài Sách Thánh, mà chúng ta vưa nghe. Trước hết chúng ta hãy suy niệm lời nói của Chúa: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!”
Suốt trong giòng cuộc sống người ta thường quên đi rất nhiều điều. Nhưng có lẽ đó lại là một cái hay, là người ta con có thể quên đi được nhiều chuyện. Ngược lại, thật là cả một điều tiêu cực và bất lợi, nếu như người ta không thể quên đi được nhiều điều trong cuộc sống. Thế nhưng, là cả một đại họa, nếu như chúng ta bỏ quên tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Đúng vậy, nếu như chúng ta quên đi tình yêu Thiên Chúa, thì thế giới và vũ trụ sẽ mất hướng đi và chuẩn độ của mình, thì tất cả mọi sự sẽ bị đảo lộn và trở thành bất an. Vâng, lúc bấy giờ không còn tình yêu, không còn gì là nhân bản nữa, nhưng chỉ có hành động, sự thành công và sức mạnh thống trị, và chỉ còn những gì là “pháp lý”, chứ không còn tình yêu nữa, như thánh Phaolô đã viết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13).
Rồi đây, sau Thánh Lễ và Rước Kiệu, tất cả chúng ta lại chia tay nhau ra đi, mỗi người về nhà mình, Nhưng điều nối kết và ràng buộc chúng ta lại với nhau, đó là tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu không bao giờ tắt. Điều nối kết và hiệp nhất chúng ta là tình yêu Thiên Chúa trong một người - Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta - được dấu ẩn dưới hình thức bánh rượu đơn sơ. Và chỉ đức tin mới thấu hiểu được những gì con mắt nhân loại không thể nhìn thấy được, trí khôn nhân loại không thể hiểu được, vâng, chỉ có đức tin mạnh mẽ mới thấu hiểu được.
Chính Đức Kitô, Đấng khiêm tốn ngự giữa chúng ta dưới những hình thức đơn sơ tầm thường, không phải là một ai vô danh nào đó, nhưng chính người là đường, là sự thật và là sự sống của nhân loại. Người là Chúa, là người anh cả và là người bạn của chúng ta. Người là một người bạn tốt giữa một thời đại hận thù, là một người bạn mà các bản Phúc Âm cũng như thánh Phaolô đã nói là đã luôn làm thoả mãn mọi mong đợi khẩn thiết của con người một cách dư tràn.
Người bạn đó, tức tình yêu Thiên Chúa nhập thể - một tình yêu không hề tắt - luôn hằng quan tâm săn sóc và ấp ủ chúng ta. Nếu chúng ta không quên điều đó, thì chúng ta có thể tạo cho mình một nếp sống mới; thì xã hội chúng ta sẽ có được một bộ mặt mới; thì chúng ta sẽ trở nên những con người mới; thì tinh thần trách nhiệm đối nhau trong gia đình cũng ngoài xã hội sẽ triển nở và chúng ta sẽ không còn vô tình và bàng quang để cho những người khác phải đau khổ quằn quại trong định mệnh eo le của họ.
Vào năm 1849, thi sỹ người Nga Dostojewski bị kết án tử hình. Khi ông đã bước lên đoạn đầu đài trước sự chứng kiến của một đám đông dân chúng tò mò, thì lúc bấy giờ trong giây phút cuối cùng mỏng manh làm biên giới phân chia cái chết và sự sống của một con người, trước khi bản án được thi hành, ân xá của nhà vua tha chết cho ông cũng vừa kịp tới. Sau đó cá bạn bè đã hỏi thi sy ông dã nghĩ gì khi phải đối diện với cái chết như thế, ông ta đã trả lời: “Một làn sóng của lòng thương xót và tình bao dung đã dâng trào lên trong tôi …”. Tiếp đến nhà thi sỹ đã kết thúc lời tâm sự bằng những tiếng nói phát xuất từ trái tim ông: “Hỡi anh em đồng loại, anh em không còn có thể làm được gì nữa để cho tôi hết có thể yêu quý anh em!”
Đó cũng chính là ý nghĩa của đại lễ Mình Máu Thánh Chúa. Tình yêu đó của Thiên Chúa là “trường dạy” đào tạo tình yêu. Giá như tất cả mọi người cùng cộng tác, thì bộ mặt của giáo xứ chúng ta, bộ mặt của trái đất sẽ được đổi mới. Hận thù, ghen tương, bạo động và sự khốn cùng cũng nhu sự đói rét của nhân loại sẽ bị chấm dứt, và bấy giờ sẽ được hiện thực những gì Phúc Âm dã tường trình: “Tất cả mọi người đều được ăn no nê” (Mt 14, 20)
53. Thánh Thể và Thánh Giá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Đất, nước, đá
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7). Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25;5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.
Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Aicập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10)
Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thay Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.
Như vậy, lịch sử sáng tạo, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa quyen đan với những cái tên tầm thường: Đất, Nước, Đá.
Người Việt Nam chúng ta cũng dùng những tiếng tầm thường ấy để nói lên Một Điều Linh Thiêng. Linh thiêng đến độ bao anh hùng liệt nữ đã hy sinh mạng sống mình cho điều linh thiêng đó: Đất Nước Việt Nam. (x. Chút mắm muối cho bữa cơm hàng ngày, trang 252).
2. Bánh và rượu
Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.
Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.
Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giàng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.
Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người.
Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát; từ chùm nho bị ép. Nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.
“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử. Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giesu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
3. Từ Thánh Giá đến Thánh Thể
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người suốt hơn 20 thế kỷ qua. Thánh Giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hylạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh Thể, bánh rượu nen Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu thì càng lại là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”. Người Do thái đã phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uong máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chưa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể.
Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể. Hiểu như thế để khi dâng Thánh Lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta tham dự tích cực linh động với tất cả trí lòng tin yêu. Khi tham dự Thanh lễ, chúng ta hãy đem theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ của Chúa Kitô. Khi rước lễ là chúng ta gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng. Chúng ta được mời gọi sống như Chúa Giêsu, biết bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và hiến trao.
Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.
Cuộc sống chúng ta vơi Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên.
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
54. Bánh Rượu Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tối hôm trước ngày chịu hhổ hình, sau bữa Tiệc Ly Vượt Qua, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay thánh thiện khả kính, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ và nói: "Hãy cầm lấy, này là mình Ta. Đoạn, cầm lấy chén rượu nho, tạ ơn, trao cho họ và họ uống cạn chén ấy. Và Người nói: "Này là máu Ta, máu giao ước, đổ ra cho nhiều người" (Mc 14: 22-24). Toàn bộ lịch sử của Thiên Chúa với con người được tóm gọn trong những lời trên. Không chỉ là quá khứ mà đã gộp lại và giải thích, nhưng nói chung cũng được dự đoán trong tương lai: Nước Thiên Chúa đến trong thế gian này. Điều Chúa Giêsu nói đây, không đơn giản chỉ là những là lời nói. Điều Chúa Giêsu nói là một sự kiện, sự kiện trung tâm trong lịch sử thế giới và của đời sống riêng mỗi người chúng ta.
Những lời này là vô tận. Chúng ta cùng nhau suy niệm một khía cạnh duy nhất. Chúa Giêsu đã chọn bánh và rượu, như một dấu chỉ cho sự hiện diện của mình. Qua một trong hai dấu chỉ này, Người hoàn toàn tự hiến chính mình cách trọn vẹn, chứ không phải chỉ một phần. Đấng Phục Sinh không bị phân chia. Người là một, qua các dấu chỉ, Người đến gần chúng ta và liên kết với chúng ta. Nhưng những dấu chỉ, theo cách riêng của mình mà biểu lộ khía cạnh đặc biệt về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô của Người và qua biểu hiện đăch biệt ấy, Người muốn nói với chúng ta, để chúng ta học hiểu thêm một chút về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô. Trong khi kiệu và thờ lạy, chúng ta hướng nhìn vào Bánh Thánh đã được truyền phép, một thứ lương thực đơn giản nhất, gồm ít bột và nước. Giống như thức ăn của người nghèo, mà Thiên Chúa thích ban cho dân Chúa lần đầu tiên trong sa mạc, và Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa nhiều để nuôi dân chúng. Lời cầu nguyện trong phụng vụ Thánh lễ, phần dâng bánh cho Chúa, Giáo hội xác định bánh là sản phẩm của hoa màu ruộng đất và lao công của con người. Có được bánh này con người phải khó nhọc một nắng hai sương, bới đất, gieo hạt và thu hoạch, cuối cùng làm thành bánh.
Tất nhiên, bánh không chỉ là sản phẩm của chúng ta, dù là một thứ chúng ta làm ra; bánh còn là sản phẩm của hoa màu ruộng đất và do đó, bánh là một hồng ân. Vì thực tế đất trổ sinh hoa trái, có công lao của con người; nhưng chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể trao ban khả năng sinh sản. Bánh là hoa trái của đất trời. Hàm chứa sức mạnh tổng hợp của đất và hồng ân từ trời cao là nắng mưa. Và nước cũng thế, để làm được bánh, chúng ta không thể tạo ra nước. Vào lúc người ta nói đến sa mạc là nơi cảnh tỉnh con người và súc vất có nguy cơ chết khát. Trong giai đoạn này, chúng ta thuật lại hồng ân vĩ đại là nước, chúng ta không chỉ múc nước cho chính mình, nhưng còn kín múc cho đồng loại, cỏ cây và súc vật nữa.
Chúng ta hãy để ý đến tấm bánh trắng nhỏ, bánh của người nghèo này, là một tổng hợp của sự sáng tạo giữa trời và đất, sự cộng tác giữa hoạt động thần linh và tinh thần của con người. Mầu nhiệm về sự sống và hiện hữu của con người hiện diện trước mặt chúng ta trong một vũ trụ bao la hùng vĩ. Như thế, chúng ta có thể hiểu tại sao Thiên Chúa chọn tấm bánh nhỏ, tròn, trắng này làm dấu chỉ.
Dấu chỉ của rượu cũng một cách thế tương tự. Nếu tấm bánh đưa chúng ta về với bánh đời sống thuần túy hàng ngày, thì rượu thể hiện sự tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa. Lễ Mình Máu Thánh Chúa hôm nay là lễ của niềm vui mà Thiên Chúa muốn chúng ta tham dự vào. Rượu cũng nói về Cuộc Khổ Nạn: vườn nho phải lớn lên để được thanh tấy ; dưới nắng mưa nho phải chín và được ép rượu: thông qua sự gian truân này mà thành rượu quí.
Trong lễ Mình Máu Chúa, chúng ta nhìn tất cả các dấu chỉ về bánh. Điều này nhắc nhở chúng ta về cuộc hành hương của Israel trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Thiên Chúa đã dưỡng nuôi dân Chúa xưa bằng manna, nay Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh bởi trời đích thực là Bánh Giêsu.
Trong khi rước kiệu, chúng ta bước theo dấu chỉ này, và vì vậy chúng ta theo chính Chúa Giêsu, vàà cầu xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên đường đời! Chỉ cho chúng ta đường phải đi đến với Giáo hội và các mục tử! Nhìn vào nhân loại đau khổ, lang thang bấp bênh giữa bao nhiêu vấn nạn với cái đói về thể lý và tâm lý hành hạ! Xin Chúa ban cho nhân loại bánh để nuôi dưỡng xác hồn! Xin cho họ có công ăn việc làm! Xin Chúa ban chính Chúa cho họ! Xin tẩy rửa chúng con và thánh hóa chúng con trong mọi sự! Xin Chúa giúp chúng con hiểu rằng phải qua Khổ Nạn, qua lời "xin vâng" trên cây thập giá, với sự từ bỏ, thanh tẩy, chúng ta mới có thể trưởng thành và đạt được nhận thức đầy đủ. Xin qui tụ chúng con tản mác khắp nơi về cùng một mối. Xin hiệp nhất chúng con với Giáo hội của Chúa, đoàn kết chúng con với anh em bị chia rẽ! Xin ban cho chúng con ơn cứa độ của Chúa! Amen!
55. Này là Mình Ta. Này là Máu Ta
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ của Chúa, kính Mình Máu Thánh Chúa. Tiếp liền sau lễ là cuộc kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài: “Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê” (Ca nhập lễ - lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền cho mọi người biết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Người là ơn cứu độ cho toàn thế giới. Lễ này có thừ thế kỷ thứ XIII do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264, nhằm nhắc lại việc cử hành đầy ý nghĩa trong Bữa Tiệc Ly của Chúa, giúp các tín hữu sống lại bầu khí trang nghiêm ấy, với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha cách sâu xa, có lúc dừng lại trong thinh lặng trước mầu nhiệm Đức Tin để chiêm ngắm sự cao cả của Bí Tích vô cùng cao quí với tron con người và tình thương của Chúa Giêsu.
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại la Máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, dẫn chúng ta trên đường về về với Chúa!
Giáo hội quả quyết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải tôn thờ. Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Theo thánh Tôma Aquinô: Con độc nhất của Thiên Chúa muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: “Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta” Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người” (Mc 14, 22-24).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lai ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy”. (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản than Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta”. Người tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Sau lễ này, Giáo hội kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ, tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà của Chúa, đường đời ta là đường của Chúa, xin Chúa hiện diện hằng ngày trong đời sống chúng ta! Có Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống, Bánh của các thiên thần, Bánh của của kẻ hành hương cùng đi, chúng ta sẽ không cô đơn.
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là “Mặt Trời”: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ “mặt nhật”)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc hoa trên đường nhắc lại cuộc rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
56. Chuẩn bị tiệc Vượt Qua và khai mạc Giao Ươc
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ. Đây là một trong nhiều sự cố đã xảy ra kể từ khi Đức Giêsu đến Giêrusalem (x. 11,1). Tuy nhiên, bữa ăn này có một giá trị đặc biệt, vì đây là một bữa tiệc Vượt Qua, trong đó Đức Giêsu sẽ ký kết giao ước mới trước khi đi vào cuộc Thương Khó.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (14,12-16);
2) Khai mạc giao ước (14,22-26).
3.- Vài điểm chú giải
- Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua (12): Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach) được cử hành vào chiều ngày 14 Nisan (“Nisan” là tháng thứ nhất của năm) và chính ngày lễ là 15 Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy ngày, lại bắt đầu vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai đại lễ này quá gần nhau, chẳng mấy chốc lễ Bánh Không Men đã được gọi là lễ Vượt Qua, và kéo dài trong bảy ngày và bắt đầu với đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là “lễ Bánh Không Men”. Chiên và bánh không men là lương thực biểu tượng của lễ mùa xuân. Cả hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới[1].
Truyền thống kinh sư quy định việc sát tế chiên bắt đầu sau khi đã dâng hy lễ chiều ngày vọng, nghĩa là vào khoảng 14g30, tức trước khi ngày thứ nhất bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Nếu lễ Vượt Qua rơi vào ngày thứ bảy, thì bắt đầu sát tế chiên sớm hơn 1 giờ. Nhưng tác giả Mc quan tâm đến độc giả gốc ngoại giáo, ông cho bắt đầu ngày bằng ban sang (14,17: “chiều đến”, các ngài dùng bữa), “ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men”, tức là đúng ngay ngày 15 Nisan.
Nhận định tổng hợp là: Bản văn Mc xác định Bữa Tiệc cuối cùng chính là bữa tiệc Vượt Qua, tức đúng ngày 15 Nisan; các tác giả Nhất Lãm khác cũng theo thời gian biểu của Mc. Còn Ga 19,14 lại đặt cái chết của Đức Giêsu vào chiều ngày 14 Nisan và như thế làm cho bữa ăn tối cuối cùng trở thành một bữa ăn tiền-Vượt Qua. Thời gian biểu của Gioan có lẽ đúng hơn, bởi vì khó mà cho rằng các thượng tế và các kinh sư lại hành động như ta đã biết vào ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Khi biến bữa Ăn tối cuối cùng thành một bữa tiệc Vượt Qua, tác giả Mc nhắm kéo cái chết của Đức Giêsu vào gần hơn nữa với các đề tài lớn của lễ Vượt Qua là hiến tế và giải phóng.
- dọn cho Thầy ăn lễ (12): Có nhiều việc phải làm: tìm một nơi thích hợp, giết chiên, chuẩn bị bánh không men, sắm các đồ dùng vào bữa tiệc. Các dân cư Giêrusalem rất sẵn sàng giúp cho các khách hành hương có chỗ mà ăn lễ. Nhưng ở đây, tác giả Mc không muốn nói tới điểm này, ngài muốn nêu ra một chuyện lạ lùng.
- một người mang vò nước (13): Các môn đệ được cho một dấu chỉ để có thể chu toàn nhiệm vụ, nhưng đây lại là một dấu chỉ của đời thường: một người mang vò nước thì ta có thể gặp bất cứ lúc nào trong Giêrusalem. Tuy nhiên dấu chỉ này cho hiểu rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó được tiên liệu đến từng chi tiết.
- một phòng rộng rãi trên lầu (15): Khi cử hành lễ Vượt Qua, ít ra có khoảng mười người họp lại với nhau, nên sách Mishna quy định là phải có một không gian 10x10 “khuỷu tay” (tức khoảng 23m2). Khi ăn tiệc, người ta nằm dài để diễn tả là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và đã được tự do; ngay cả người nghèo nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư thế này.
- dâng lời chúc tụng (22): Với cách hành động này, ta có thể nói đây là bữa tiệc Vượt Qua hay bữa tiệc bằng hữu cũng được. Trong bữa tiệc Vượt Qua, phải có trước tiên lời chúc tụng về ngày lễ, rồi chén rượu đầu tiên, các món khai vị là rau đắng và trái cây, suy niệm về lễ Vượt Qua, rồi chén rượu thứ hai. Phần chính của bữa ăn bắt đầu với lời chúc tụng trên bánh không men. “Cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra” là những từ ngữ chuyên môn của lời kinh người Do Thái đọc trước khi ăn. Rất có thể người Do Thái nghĩ rằng miếng bánh được trao cho họ, do ông chủ bẻ ra từ tấm bánh lớn, đưa lại phúc lành cho mình.
- đây là mình Thầy… Đay là máu Thầy (22.24): Vì từ ngữ “mình” (sôma) là một từ nói quanh để chỉ bản thân con người, câu này có thể diễn lại là: “Đây là chính Thầy”. Những ai ăn tiệc thì được hiệp thông cách mới mẻ với Đức Giêsu. Dựa vào c. 24 nói về chén rượu, ta hiểu là đây là sự hiệp thông với Đấng đang đi tới cái chết. Từ ngữ sôma, vì ở trong thế song đối với “máu đổ ra”, có nghĩa là thân thể dâng làm hy lễ.
- Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn (23): Trong tiệc Vượt Qua, giữa lời chúc tụng trên bánh và lời chúc tụng trên rượu, có việc ăn thịt chiên. Theo sách nghi thức, đây là chén rượu thứ ba. Ta lưu ý là tác giả Mc đã chuyển đi từ “dâng lời chúc tụng (eulogein)” sang “dâng lời tạ ơn (eucharistein)”, trong khi trong bữa tiệc Do Thái, cả hai lần đều là “lời chúc tụng”. Có thể công thức này đã được chọn vì người ta đã nghĩ tới kết thúc bữa ăn. Nhưng rất có thể tác giả muốn gợi tới bữa tiệc Thánh Thể (eucharistia).
- tất cả đều uống (23): Chi tiết này đến quá sớm, vì sau đó Đức Giêsu còn giải thích ý nghĩa của rượu. Trong một ngữ cảnh rộng hơn, từ “tất cả” đây nhìn tới trước tình cảnh “tất cả” sẽ vấp ngã (14,27.50). Việc tham dự vào bữa tiệc không giữ cho người ta khỏi vấp ngã vào giờ quyết định.
- máu giao ước, đổ ra vì muôn người (24): “Máu giao ước” nhắc đến Xh 24,8. Trong đoạn văn này, sau khi dân đã cam kết giữ luật và sau hy lễ, Môsê rảy máu các tế vật lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này”. Ngay sau đó ông dùng một bữa tiệc huynh đệ với các vị kỳ mục của dân (Xh 24,11). Nhờ cái chết của Đức Giêsu, một giao ước mới được thiết lập, thay thế giao ước thứ nhất. Máu Đức Giêsu đi vào thế đối lập tiên trưng với máu giao ước cũ. Theo Dcr 9,11, các tù nhân được phóng thích “nhờ máu của giao ươc này”. Việc khai trương giao ước đưa lại sự cứu chuộc và cứu độ. “Máu đổ ra” đồng nghĩa với “bị giết”, bởi vì theo một quan niệm của Kinh Thánh, máu được coi là mang sự sống và sức sống. Từ đó ta hiểu rằng chén được dâng đảm bảo có sự hiệp thông với Chúa, Đấng hiến mình trong cái chết. “Đổ ra”, ekchêô, được dùng thường xuyên để nói về máu con vật được đổ ra (Lv 4,7.18.25.30.34…) và việc rưới rượu (Is 57,6).
Câu “đổ ra vì muôn người” (dịch sát là “đổ ra vì nhiều người”) nhắc đến Is 53,12 và đưa lại cho hành vi một chiều kích hy tế. Hai đoạn văn Cựu Ước này được dùng để diễn tả cái chết của Đức Giêsu như là một hy lễ vì những người khác. Cụm từ hyper pollôn, “vì nhiều người”, dựa trên kiểu nói Sê-mít đặc biệt của Is 53,12 (rab), có nghĩa là “tất cả” / đoàn người đông đảo”, chứ không chỉ là “một số người”; đây là toàn thể thế giới ngoại giáo (x. Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng cho các dân” [x. Is 42,6; 49,7t]). Như vậy, “nhiều” đây không đối lập với “tất cả”, nhưng có nghĩa là “tất cả là nhiều”[2].
- chẳng bao giờ Thầy còn uống … trong Nước Thiên Chúa (25): Câu kết thúc này đặt Bữa Tiệc Ly trong khung cảnh là bữa tiệc thiên sai (x. 6,35-44; 8,1-10). Thay vì coi bữa tiệc cuối cùng này (và Tiệc Thánh Thể) là một biến cố cô lập, cần phải liên kết nó với các bữa ăn Đức Giêsu đã chia sẻ trước đây với những người thu thuế và tội lỗi (x. 2,16) và với bữa tiệc cánh chung tương lai.
- Hát thánh vịnh xong (26): Đây là khối Tv 113–118, thường được gọi là Tập Hallel nhỏ. Tập Hallel này này có một vị trí đặc biệt trong ba đại lễ Vượt Qua, Ngũ Tuần và Lều.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (12-16)
Bữa tiệc có một tầm quan trọng lớn lao trong Tin Mừng. Tác giả Mc thường xuyên cho thấy Đức Giêsu ngồi vào bàn ăn với các môn đệ, với nhưng người tội lỗi và với dân chúng. Biến cố cuối cùng trước Thương Khó cũng vẫn là một bữa tiệc: Đức Giêsu cùng với Nhóm Mười Hai cử hành tiệc Vượt Qua. Trong sự hiệp thông đức tin và đạo giáo Israel, các ngài cử hành lễ trọng nhất của dân tộc mình. Bằng bữa tiệc Vượt Qua, dân Israel nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với các tổ phụ và được canh tân trong niềm tin đầy tri ân, vui tươi và vững vàng đặt nơi Thiên Chúa.
Các môn đệ được phái đi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ trên bối cảnh là bữa tiệc và nội dung của đại lễ Vượt Qua như thế.
Các môn đệ đã đi vào thành và gặp một người mang vò nước đón mình. Các ông đã chuyển giao sứ điệp: “Thầy nhắn: «Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?»”. Đây là lần duy nhất danh xưng “Thầy” (didaskalos) được Đức Giêsu dùng để nói về mình, vừa với nghĩa là “vị thầy truyền đạt kiến thức”, vừa theo nghĩa là “bậc đáng kính”; điều này còn được khẳng định bởi cụm từ “các môn đệ của tôi” chỉ được dùng duy nhất ở đây. Tuy nhiên, chi tiết “người mang vò nước” lại chứng tỏ rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó đã được tiên liệu trong từng chi tiết: Người biết và Người vâng phục (x. 11,1t). Như thế, bên cạnh sự cao cả của Người, là sự hạ mình khiêm nhường của Người. Ông chủ nhà sẽ dành cho các môn đệ một phòng lớn trên lầu trên (thường đây là phòng rộng nhất của căn nhà). Các môn đệ thấy mọi sự đúng y như Đức Giêsu đã nói trước.
* Khai mạc giao ước (22-26)
Tại bữa tiệc, trong bánh và rượu, Đức Giêsu ban cho các môn đệ thân mình và máu của Người. Đây là bữa tiệc từ biệt. Đức Giêsu sẽ bị giao nộp và bị giết, Người sẽ không đi đi lại lại trong xứ cùng với các ông, cũng không ăn tiệc với các ông như lâu nay nữa. Tuy nhiên, Người sẽ ở giữa các ông trong bánh và rượu; trong tương lai, đây sẽ là cách thức hiện diện của Người. Đức Giêsu từ biệt, tuy vậy, Người vẫn ở lại đó.
Máu mà Đức Giêsu hiến dâng trong chén rượu là máu của giao ước, được đổ ra vì muôn người. Tiếp nối vào cuộc giải phóng khỏi đất Ai Cập, được nhắc lại trong tiệc Vượt Qua, là việc ký giao ước tại núi Sinai. Đây không phải là một giao ước giữa các partner ngang nhau. Trước tiên giao ước này có đặc điểm là Thiên Chúa tự ràng buộc và tự cam kết là Thiên Chúa nhân ái của dân (x. Xh 20,1); và giao ước này hàm chứa cam kết của dân là tuân giữ các điều răn (x. Xh 20,3-17). Giao ước được đóng ấn, khi Môse rảy máu tế vật lên bàn thờ và dân chúng (Xh 24,6-8). Với máu của Đức Giêsu, giao ước mới và vĩnh viễn được đóng ấn. Trong máu Người, trong hành vi hiến tặng mạng sống của Người, tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian được tỏ bày (x. Ga 3,16); nhờ máu Người đổ ra, “một đoàn lũ đông đảo” được giải thoát khỏi tội lỗi. Đức Giêsu không chỉ ở lại với các môn đệ, mà còn đặt nền tảng và đóng ấn cho sự hiệp thông của họ với Thiên Chua.
Đức Giêsu tạng ban cho họ mình và máu Người. Mình và máu là toàn thể bản thân một người. Việc Người tặng ban mình và máu phải mãi mãi nhắc nhớ đến việc Người hiến tặng mạng sống, cái chết của Người trên thập giá. Đàng khác, bánh là lương thực hằng ngày nuôi sống con người, còn rượu chính là tiệc mừng trong niềm vui. Để sống được, loài người chúng ta cần lương thực. Khi ban tặng chính mình trong bánh và rượu, Đức Giêsu cho ta thấy rằng nhờ sự hiện diện của Người giữa chúng ta và nhờ sự hiệp thông của chúng ta với Người, chúng ta có sự sống ở mức viên mãn và trong niềm vui.
Trong những lời kết thúc (c. 25), Đức Giêsu lại nhấn mạnh rằng sự hiệp thông mà Người đã sống cho đến lúc này với các môn đệ đã đến lúc kết thúc: Người sẽ không uống thứ rượu trong tiệc mừng với họ như lâu nay Người vẫn làm nữa. Đồng thời, Đức Giêsu nói đến sự hoàn tất của sự hiệp thông này trong Nuớc Thiên Chúa, khi Thiên Chúa sẽ thiết lập và tỏ bày vĩnh viễn quyền chúa tể của Ngài ra.
+ Kết luận
Khi tường thuật truyện Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, tác giả Mc đã cho thấy Đức Giêsu đã trung thành đi theo ý muốn của Thiên Chúa trong từng chi tiết. Do đó, bài tường thuật không chỉ để ghi nhận các sự kiện, nhưng mang tính tín lý. Tác giả đã liên kết Thương Khó với tiệc cuối cùng; với bữa tiệc này, cuộc Thương Khó đã bắt đầu vào lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu được ghi dấu ấn là cuộc Thương Khó của Người. Rất có thể từ ngữ pascha khiến tác giả Mc nghĩ đến ý nghĩa của từ Hy Lạp paschô (“đau khổ”); dĩ nhiên về từ nguyên thì không đúng, nhưng về thực tại thì có lý.
Đức Giêsu cũng bày tỏ sự trung thành với các môn đệ cho đến cùng, qua việc hiến tặng mình và máu Người trong bánh và rượu. Sự trung thành của Đức Giêsu, được tỏ hiện trong tất cả mọi hình thức hiện diện của Người, là điểm vững chắc duy nhất trong tương quan hỗ tương giữa Người với các môn đệ. Đức Giêsu luôn ở cùng chúng ta và cho chúng ta được hiệp thông của Người như cho một quà tặng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đến cuối thời gian hoạt động, Đức Giêsu lại chia sẻ bữa tiệc Vượt Qua này với các môn đệ: bữa tiệc này nhắc lại lịch sử của quan hệ của Thiên Chúa với Israel và đưa tới chỗ hoàn tất. Đức Giêsu lại ăn tiệc với các môn đệ, như cách hiệp thông riêng tư với các ông. Tại đây mọi sự được quay hướng về các hình thái khác của sự hiện diện của Người giữa các môn đệ, về sự hiệp thông không cùng của họ với Người. Tuy nhiên, các môn đệ không thể tự ru ngủ mình trong sự an toàn; chính họ đã thấy định mệnh của Đức Giêsu là một chướng kỳ; chính họ đã không đủ sức liên kết với Người.
2. Trên thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu ra; bằng cái chết của Người, Người đã thiết lập giao ước mới, tạo điều kiện cho có sự hiệp thông vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở với họ và sẽ là Đấng Chịu đóng đinh đã hiến tặng mạng sống cho họ. Cho đến nay, Người đã ở giữa họ theo cách thấy được rõ ràng bằng mắt thường, kể từ nay, Người sẽ ở giữa họ trong bánh và rượu, trong tư cách Đấng Chịu đóng đinh, trong tư cách dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa và sự song. Tất cả những điều này sẽ tới mức viên mãn khi Nước Thiên Chúa được tỏ hiện.
3. Hôm nay chúng ta đã quen coi truyền thống về bữa tiệc ly như là một thành phần thuộc cuộc Thương Khó. Điều này chính tác giả Mc đã nhắm: bữa tiệc này được quy hướng về thập giá và Phục Sinh. Bữa tiệc này kết thúc các bữa tiệc Đức Giêsu dùng với các người tội lỗi (2,15tt) và với dân chúng (6,35tt; 8,1tt) và đưa các môn đệ vào cuộc Thương Khó. Người Kitô hữu khi tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể thì cũng đã được đặt trên cùng một nẻo đường.
4. Việc lãnh nhận Mình và Máu của Chúa mang lại cho chúng ta sự thông dự vào sự sống của Người, cái chết cũng như sự phục sinh ngo hầu chúng ta cũng có thể sẵn lòng sống phục vụ và yêu thương tha nhân như Người đã làm. Khi chúng ta đón nhận Bánh Sự Sống và Chén Cứu Độ, chúng ta được nhắc nhớ rằng chết không phải là hết. Với mỗi cái chết là mot lời hứa và mở ra sự sống mới (Siciliano).
57. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13) cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a), và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..
Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiet một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đe với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).
Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.
THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ (14,22-26)
Có lẽ ai cũng muốn biết tường tận những việc xảy ra trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nhưng thay vì tả lại dài dòng và đầy đủ chi tiết, Maccô cũng như Matthêu (26,26-29) và Luca (22,19-20) – đã kể lại vắn tắt và rất giản lược. Tựa như thế đó chỉ là một văn bản phụng vụ đã có sẵn. Ông chỉ dùng rất ít từ cô đọng để nêu lên ý nghĩa của các cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu trong bữa tiệc Thánh đó.
Chúa Giêsu đã làm một cử điệu mang tính nghi thức rất quen thuộc đối với người Do Thái khi họ cử hành bữa tiệc mừng lễ (c.22). Như người cha trong gia đình chủ tọa bữa ăn, Ngài cầm lấy bánh và chúc tụng Thiên Chúa về những ơn phúc Ngươi đã ban cho. Lời kinh “tán tụng” của người Do Thái không phải là một lời cầu chiếu lệ, trái lại rất trang trọng bởi vì qua đó dân Israel dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ Ngài đã giải thoát họ. Trong kinh Haggada mừng lễ Vượt Qua (nghi thức ăn mừng đại lễ Vượt Qua), người ta cũng đọc thấy “Ta mắc nợ này: là phải cảm tạ, ngợi khen (…) chúc tụng Đấng đã ban cho cha ông chúng ta và cả cho chúng ta hằng hà dấu chỉ. Ngài đã kéo ta ra khỏi ách nô lệ đến nơi tự do, từ cõi u sầu đến miền hoan lạc, từ chốn tan tác vào nơi vui vẻ, từ tối tăm ra ánh sáng và từ chỗ bị áp bức tới nơi giải phóng. Và trước nhan Ngài ta hãy hát lên bài ca mới Alleluia”. Sau khi đã hát xong lời nguyện, Chúa Giêsu bẻ bánh. Ngài phát cho các vị đồng bàn mỗi người một miếng và vừa phân phát, Ngài vừa nói: “Hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Trong tiếng Arain, ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng, tiếng “Mình” không phai chỉ nói riêng đến phần thân xác, mà là đến toàn bộ “con người” như thế Chúa Giêsu không chỉ ban phát thân xác của Ngài làm của ăn cho chúng ta – như kiểu giải thích duy vật của Tây phương. Ngài loan báo rằng toàn bộ thân mình của Ngài sẽ được giải thoát khỏi sự chết và ta sẽ được thông phần vào việc giải thoát ấy.
Ý nghĩa của món quà tặng này còn được Ngài làm rõ hơn ngay sau đó, qua cử chỉ và lời nói của Ngài khi cầm lấy chén. Ngài trịnh trọng tuyên bố: “Đây là Máu Thầy, máu để lập giao ước, đổ ra cho nhiều người” (c.23-24). Mọi lời nói ở đây đều cô đọng lạ thường. Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu nho lên, rồi chúc tụng “tạ ơn” Thiên Chúa một lan nữa. Chính từ ngữ Hy Lạp này đã phát sinh ra từ “cucharistic” (hành động tạ ơn) trong tiếng Pháp, rồi từ đó người ta dùng để chỉ về toàn bộ các nghi thức liên quan đến việc này. Khi đọc bản tường thuật trên đây, ta nên lưu ý đến sự kiện khó hiểu này, các tông đồ đã uống trước khi Chúa Giêsu loan báo ý nghĩa và làm phép. Những tiếng “Máu của Thầy” trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là “cuộc đời Thầy” (Lv 17,14). Khi uống rượu đã được thanh hiến, các môn đệ không phải là đã uống Máu Người. Họ đâu có phải là những kẻ ăn thịt người. Họ thông phần với con người Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống mình trên thập giá (1Cr 11,17-34). Những lời Chúa Giêsu nói tiếp theo sau đó đã giải thích rất minh bạch ý nghĩa cái chết của Ngài. Máu Ngài đổ ra sẽ là “máu của giao ước”. Thuở xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã kết ước với dân Israel, dân được tuyển chọn. Sau khi đọc lề luật của Thiên Chúa cho dân Israel nghe xong, Môsê đã ghi dấu giao ước đầu tiên này bằng máu của những bò tơ (Xh 24,3-8). Lúc này, qua cái chết của mình, Chúa Giêsu sẽ thiết lập điều mà Phaolô (1Cr 11,25) và Luca (22,20) gọi rất chính xác là giao ước “mới” giữa Thiên Chúa và toàn thể loài người. Thực vậy, Chúa Giêsu hiến mình chịu chết đã đem lại một ý nghĩa “cứu độ” và phổ quát. Máu Ngài “đổ ra cho nhiều người”. “Nhiều người” là một lối nói trong tiếng Do Thái để chỉ về toàn thể loài người và lối nói này đã ám chỉ chắc chắn đến người tôi tớ đau khổ sắp lãnh nhận cái chết để hòa giải các dân thiên hạ với Thiên Chúa như các tiên tri đã loan báo trước đó (Is 53,12).
Như thế, Chúa Giêsu đã nâng sự chết Ngài sắp phải chịu lên một tầm mức cứu độ phổ quát. Ngài hiến thân xác và mạng sống của mình để cứu chuộc thế giới. Rồi khi kết thúc bữa ăn, Thầy đã mở ra một viễn cảnh hạnh phúc (c.25). Ở đây, Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chiến thắng sự chết. Ngài hứa hẹn Nước Chúa sẽ đến qua hình ảnh một bữa tiệc, ở đó rồi ra mọi người sẽ được ăn no uống đủ. Ở đó, “rượu mới” sẽ tuôn tràn cho mọi người, một khi sự chết đã bị tiêu diệt (chướng ngại vật tối hậu!) thì hết thảy mọi dân nước trên địa cầu này sẽ thông phần với Thiên Chúa hằng sống (Is 25,6-9).
Các cộng đoàn Kitô hữu đều có sử dụng đến các cau trích dẫn từ bản tường thuật trên. Maccô đã cho ta thấy rằng Chúa Giêsu đã thiết lập phép Thánh Thể. Đối với các Kitô hữu, bữa tiệc này đã được lập lại để “tưởng nhớ” sự chết và sự sống lại của Đấng Cứu Độ. Khi cùng nhau “bẻ bánh” và “uống rượu chúc tụng”, người Kitô hữu ý thức được họ phải loan truyền cho anh em biết đến các biến cố cứu độ này. Họ biết rằng bí tích này phải thực thi sống động mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết va đã sống lại. Cũng như các anh em Do Thái cử hành lễ Vượt Qua thế nào, thì các môn đệ Chúa Giêsu cũng lập lại những lời nói, nghi lễ này thế ấy, đó là “từ thời nay tớ thời khác, khi con người ra khỏi đất Ai Cập, họ đã mắc nợ. Ta hãy chúc tụng Thiên Chúa chí thánh, Đấng không chỉ giải thoát cha ông chúng ta mà cả chúng ta nữa. Trong Ngài, chúng ta được cứu thoát!.
Bữa tiệc ly Chúa Giêsu dùng với nhóm Mười Hai kết thúc như mọi bữa tiec khác của người Do Thái (c.25). Người ta hát phần thứ hai bài ca “Hallel”, trích từ Thánh Vịnh 115-118. Khi kết thúc bài ca tán tụng này, người ta hát “Alleluia”: “Hãy ca tụng Thiên Chúa”. Rồi Chúa Giêsu cùng các môn đệ lên núi Cây Dầu. Đó là cách thầy trò dễ dàng tìm được nơi nương náu an toàn, tránh được các đe dọa đang rình rập họ ở trong thành.
58. Chú giải của Noel Quesson.
Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Đức Giêsu đã bị “hành quyết” vào một ngày thứ sáu, rất có thể năm ba mươi hay ba muơi ba, vào lúc những con chiên được giết để mừng lễ Vượt qua trong khuôn viên đền Thánh (Ga 19,14).
Nhưng người ta không biết rõ Chúa Giêsu đã theo lịch nào để dùng bữa ăn cuối cùng của Người. Điều chắc chắn là Người đã mặc cho bữa ăn này một đặc tính “vượt qua”.
Lễ Vượt Qua là một lễ lớn của người Do Thái: Người ta ăn mừng cuộc “giải phóng”. Trong một bữa ăn cổ truyền được tổ chức tại nhà, trong gia đình, người cha phải giáo huấn con cái mình nhớ lại việc tổ tiên của họ đã được giải thoát khỏi ách nô lệ như thế nào. Vì thế, dân Do Thái luôn ý thức mình là một dân tộc “nguyên là nô lệ” nhưng bấy giờ được “tự do! Chúa đã can thiệp, ủng hộ sự nổi lên của họ chống lại kẻ áp bức, giúp họ ra khỏi đất Ai Cập, để vào miền đất hứa.
Mỗi năm tại Nagiarét, Đức Giêsu cùng với Thánh Giuse và Đức Maria, đã cử hành bữa tiệc mừng lễ này. Người đã thuộc lòng mọi diễn tiến theo nghi thức trong bữa ăn: Bánh miến, rượu nho, thịt chiên, rau đắng, kinh nguyện, thánh vịnh. Nhưng tối hôm đó, Người sẽ cho bữa ăn cổ truyền này một nội dung mới! Hôm nay chính người là đấng giải phóng!
Đó là lễ vượt qua! Công cuộc giải phóng! Một bữa tiệc mừng, một bữa ăn giải thoát dân khỏi ách nô lệ.
Chúng ta quá coi thường điều đó! Các Thánh lễ của chúng ta có nguy cơ bị nhạt nhẽo và nhàm chán lặp đi lặp lại biết bao Thánh lễ xem ra có phần bi thảm! Điều quan trọng là trước hết chúng ta phải lo lắng “cử hành những buổi lễ” và “tôn trọng các nghi thức”! Chúng ta có hay quên rằng mình luôn luôn cần phải được “giải phóng” và “cứu rỗi không”. Thưa quý ông bà, vâng quý ông bà vẫn còn là những “nô lệ”. Quý vị hãy xét kỹ lại cuộc đời của mình và hãy tỏ ra sáng suốt. Hãy ý thức tất cả những gì đang xiềng xích quý vị, lúc bấy giờ quý vị sẽ xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con dọn bữa ăn lễ vượt qua cho Thầy, bữa ăn giải phóng ở đâu?”. Vâng xin Chúa giải phóng chúng con thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
Người liền sai hai môn đệ đi mà dặn họ: “Các anh đi vào thành, rồi sẽ gặp một người mang vò nước, cứ đi theo người đó.”
Bầu khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề. Đức Giêsu là một người bị săn đuổi. Những lãnh tụ Do Thái đã quyết định giết hại người. Vì thế Đức Giêsu làm như ra tín hiệu cách kín đáo. Ngừơi có bạn hữu, nhưng phải liên hệ cách vụng trộm. Người đã chuẩn bị tất cả – tôi hình dung ra hai môn đệ đang đi theo người mang vò nước – cái chết của đức Giêsu, việc Người rời khỏi thế giới này, phải chăng đối với chính người trước tiên, là một việc vượt qua, một cuộc giải thoát. Đó là “Lễ vượt qua của Chúa”: người sẽ được giải thoát.
Người đó vào nhà nào, các anh đi theo và thưa với chủ: “Thầy hỏi ông dành cho Thầy phòng nào để ăn lễ vượt qua với các môn đệ?”. Ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, sẵn sàng đầy đủ tiện nghi. Các anh dọn tiệc cho chúng ta ở đó.
Đức Giêsu đã tiên liệu tất cả. Người cảm thấy tầm quan trọng. Chính Người là chủ mời. Dó là “bữa ăn của Người”. Lát nữa, chính Người sẽ là chủ toạ. Những môn đệ là “khách được mời”.
Người dùng quyền sắp đặt và chuẩn bị. Chúng ta ngạc nhiên vì sự quan trọng của chi tiết này. Đúng vậy, ngày nay, bất cứ một buổi lễ nào cũng phải được chuẩn bị. Chúng ta hằng nghĩ đến những buổi lễ tại làng thôn hay trong khu xóm, những bữa ăn mừng rước lễ lần đầu, lễ đính hôn hay kết hôn. Chúng ta rất muon buổi lễ được thành công, và như thế chúng ta phải rất cực nhọc.
Còn những Thánh lễ của chúng ta thì sao? Chúng ta có chuẩn bị tử tế không? Biết bao Thánh lễ đã được cử hành cách vội vã, đọc cho qua lần, cử hành cho mau xong. Như Đức Giêsu chúng ta cần quyết định biến các Thánh lễ của chúng ta thành buổi lễ thực sự, cần dành thời giờ để “chuẩn bị", và trước hết phải đến đúng giờ và nếu cần, hãy lập lại những bài Thánh ca trước khi cử hành Thánh Thể, như phần cốt yếu của buổi lễ. Đức Giêsu, tối hôm ấy đã chuẩn bị tất cả để cho buổi lễ được tốt đẹp và trang trọng.
Hai môn đệ ra đi - Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như người đã nói, và các ông dọn tiệc vượt qua.
Thánh Máccô nhấn mạnh về điểm này. Ngài muốn đề cao uỷ quyền và vẻ nghiêm trọng của Đức Giêsu. Người đã tiên liệu tất cả, Người đã quyết định tất cả. Người là "Chúa”, không ai chối cãi được. Đức Giêsu biết rằng đó là buổi hội họp cuối cùng của Người với các bạn hữu, "giờ" đã nghiêm trọng rồi: Thánh Gioan sẽ nói là "giờ" của Người". Việc gì đã xảy ra? Chúng ta được đưa vào một hồi kịch quan trọng, biến cố sắp xảy ra... sẽ thay đổi lịch sử của hành tinh, của nhân loại. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu là sự giải phóng thế gian tội lỗi.
Khi tôi đi dự lễ Chúa Nhật, tư tưởng của tôi như thế nào? Tôi chuẩn bị tâm hon ra sao? Đó có phải là một “biến cố" trong tuần sống của tôi không? Tất cả có hội tụ và hướng về đó không? Hay đó chỉ là một thời gian nhỏ bị "đánh cắp" cách lén lút trong những công việc quan trọng khác của tôi? Mot thứ "dấu ngoặc"?
Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy tấm bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ
Chúng ta có 4 trình thuật về cảnh này. Thánh Maccô, Thánh Luca, Thánh Matthêu và Thánh Phaolô (I Cr 11, 23-25). Bốn trình thuật này đều như nhau về điểm cốt yếu, nhưng trình bày cho chúng ta những công thức khác nhau trước những "lời" Chúa phán. Đức Giêsu đã không quá câu nệ là nghi lễ, và cả Giáo Hội tiên khởi cũng thế. Điều quan trọng là phải lưu ý sự kiện hiển nhiên này để giải thoát chúng ta khỏi một quan niệm, “duy vật" về các bí tích, cứ như là Người dính liền với những từ ngữ, theo kiểu phù thủy - Thực ra người ta không biết rõ "từng chư" Đức Giêsu đã nói tối hôm đó như thế nào - Bốn trình thuật không phải là những phóng sự, mà là những bản văn phụng vụ khác nhau. Đã được dùng trong những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Người ta có thể đoan chắc rằng những cộng đoàn đó, vì gần với biến cố vừa qua, đã tôn trọng ý định và cả những công thức của Đức Giêsu.
Trước tiên chúng ta cần tưởng tượng những "cử chỉ" của Đức Giêsu. Người "cầm lấy" bánh? Tôi thấy tay Người đưa ra với lấy chiếc bánh trên bàn. Tôi nhìn tay của Người, cầm chiếc bánh không men, "một thứ bánh của người nghèo mạt", vì tại Ai Cập, tổ tiên chúng ta đã không có thì giờ để cho lèn men. Người "đọc lời chúc tụng" đó là lời tạ ơn. Về chén rượu Thánh Máccô dùng chữ "Eueharitèsas" có nghĩa là "đang khi tạ ơn", do đó có từ Thánh Thể. Tôi lắng nghe Đức Giêsu cầu nguyện, nói lời "tạ ơn" Chúa Cha, trong thái độ vui mừng. Tôi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu, khi Người nói chuyện với Chúa Cha. Chúng ta có thể quên được Thánh lễ là một lễ Tạ ơn sao?
Người "bẻ bánh", cử chỉ này không phải là mới lạ. Người cha trong gia đình cũng làm cử chỉ này để phân phát phần cho mỗi người, nhưng cử chỉ tượng trưng này rất đẹp: Mọi người đều ăn cùng một tấm bánh. Điều này nhấn mạnh việc "đồng bàn mà sẽ thành một ý lực trong những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thánh lễ là một thách thức muốn bứng tận gốc rễ những khuynh hướng vị kỷ của chúng ta. Nếu ta vẫn giữ những bức tường ngăn cách mà Đức Giêsu đã phá đổ, thì chúng ta đã nhạo báng Mình thánh Chúa vậy (Pr 2,14). Tôi nhìn Đức Giêsu bẻ bánh. Họ đã nhận ra Người qua cách bẻ bánh" Người "trao" bánh này. Khi tôi rước lễ, tôi có ý thức được rằng chính Đức Giêsu đưa miếng bánh cho tôi không? Đó là cử chỉ thánh thiêng và đầy ý nghĩa huyền bí. Lạy Chúa, đây là tay chúng con đưa ra để đón Chúa!
Và Người nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy".
Sau nhiều thế kỷ, tranh cãi, mà trong thời gian đó từ trên đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhiều cộng đoàn họp lại thành Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội năm 1974, đã đồng ý về bản văn chung sau đây: "Bữa ăn bánh miến và rượu nho này là một bí tích, dấu chỉ hữu hiệu và quả quyết sự hiện diện của chính Đức Kitô, Người đã hy sinh mạng sống mình cho tất cả loài người và đã tự hiến thân mình làm bánh hằng sống. Vì lẽ đó, bữa tiệc Thánh Thể là Bí tích Mình và Máu Thánh của Đức Kitô. Bí tích của sự hiện diện thực sự của Người. Chính Thánh Thần trong Thánh Thể cho Đưc Kitô thực sự và hiến thân trong bánh và rượu. Khi đọc lời truyền phép. Dĩ nhiên chúng ta luôn đứng trước một mầu nhiệm. Thánh Thomas Aquino, nhà thần học vĩ đại về Bí tích Thánh Thể ở thời Trung cổ đã viết: "Sự hiện diện thực sự" này không có nghĩa là giới hạn Đức Kitô ở trong bánh và rượu mà thôi hay gây ra một sự biến đổi vật lý hóa học nào của những chất này. Tất cả những vẻ bên ngoài vẫn không thay đổi (Tổng luận thần học cuốn III 76/3-5. 77/5-8).
Con người thời nay cần phải lặp lại những chân lý cổ truyền này. Thánh lễ về "Lễ Mừng kính Thiên Chúa" đã được Thánh Thomas Aquino soạn ở Orvieto vào năm 1264. Cùng với toàn thể Giáo Hội tiên khơi, Thánh Thomas “đã tin” nhưng không theo một cách đơn giản. Thánh Phaolô phải chăng là người đầu tiên đã nói rằng, cần phải có đức tin mới "nhận thấy được Mình và Máu Thánh Chúa sao?" (1 Cr 11,23-29).
Vâng, lạy Chúa, chúng con xin tin!
Người lại cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ và tất cả đều uống. Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước đổ ra vì muôn người”.
Đó là bản dịch chính xác đoạn văn Hy Lạp của Thánh Maccô. Đức Giêsu biết người sắp chết, và chết cách nào. Người thế chỗ cho con chiên vượt qua (mà người ta không nói đến tí nào trong bữa ăn vượt qua này, trong khi món này là chính trong nghi lễ Israel). Ở đây Đức Giêsu làm cho ta nhớ đến người tôi tớ của Đức Giavê (đã hy sinh mạng sống của mình cho muôn dân) (Is 53,11). Đó là một "Giao ước". Thiên Chúa trở nên một thực tại duy nhất với nhân loại, một người trong "đồng minh". Và điều này đã được định nghĩa với những gì là mật thiết và sống động nhất trong chúng ta; "Máu”.
Thầy bảo thật anh em: "Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa". Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ đi lên núi Ôliu.
59. Chú giải của Fiches Dominicales.
NÀY LÀ MÌNH TA – NÀY LÀ MÁU TA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bữa tiệc Vượt Qua" của Người
Các câu từ 12 đến 16, làm thành phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay, tập trung vào việc chuẩn bị lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, lễ Vượt Qua "của Người”. Những miêu tả rất chi tiết không phải để thoả mãn óc hiếu kỳ của ta, nhưng để dẫn ta vào ý nghĩa sâu xa của những biến cố sắp diễn ra.
-Cũng như Matthêu và Luca, Máccô biến bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ thành một bữa tiệc Vượt Qua, bữa tiệc Vượt Qua "của Người”. "Ngày thứ nhất trong tuần lễ bánh không men, lúc người ta sát tế chiên vượt qua, các môn đệ Đức Giêsu hỏi người: Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua của Thầy ở đâu?”.
Chắc chắn lối ghi chép tuần tự theo dòng thời gian của Gioan đúng hơn (xem chương trình "Corpus Christi" phát hình trên kênh "Arte" suốt Tuần Thánh 1997), nhưng dù sao, tác giả Tin Mừng muốn độc giả chú ý đến ý nghĩa của bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu: bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, tưởng niệm biến cố lập quốc của dân Israel, phát triển thành một lễ Vượt Qua mới, cái chết, sự sống lại của Đức Giêsu, từ đó phát sinh một dân tộc mới. Trong bài tường thuật về bửa tiệc của Đức Giêsu với các môn đệ, không thấy có chỗ nào nhắc đến con chiên Vượt Qua, vì theo đức tin Kitô hữu, như thánh Phaolô đã viết: "Đức Kitô là chiên Vượt Qua đã bị sát tế" (1 Cor 5, 7).
Nếu bài Tin Mừng mở đầu bàng cuộc vận động của các môn đệ, đoạn kế tiếp lại nhấn mạnh đến sáng kiến của Đức Giêsu. Cũng như ngày người long trọng vào thành Giêrusalem như Đấng Cứu Thế, Người đã sai hai môn đệ dắt về một con lừa non (Mc 11,1-6), Đức Giêsu cử hai môn đệ đi chuẩn bị lễ Vượt Qua:
+ Không những Người đã thấy trước "căn phòng”.
+ Mà Người còn đưa ra một dấu hiệu để nhận ra ông chủ nhà: "một người đàn ông mang vòi nước”, cử chỉ rất khác lạ ở miền Trung Đông nơi phụ nữ phải làm công việc múc nước.
+ Thậm chí ca đến một mật hiệu: "Thầy chúng tôi hỏi ông: Căn phòng Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?”.
Cũng như trong đoạn trước, Đức Giêsu "hành xử như một tiên tri, có khả năng biết những sự việc ẩn giấu”. (M.E.Boismard, trong "Đức Giêsu, một người Nagiarét, Cerf, 1 996, trang 150).
2. Bữa tiệc Vượt Qua mới cho một dân tộc mới.
Bỏ qua các câu 17-21 loan báo việc Giuđa phân bội, bản văn dùng trong lễ hôm nay kể ngay đến việc lập phép Thánh Thể. J. Hervieux nói trước: ‘truyện kể vắn tắt, sắp xếp gọn gàng’. Hiển nhiên đó là một băn văn phụng vụ đã thành hình. Trong những từ ngữ ít ỏi, rất cô đọng, bản văn chỉ nhắm làm sáng lên ý nghĩa của các động tác va các lời nói của Đức Giêsu trong Bữa Dạ Tiệc (Cena tiếng Latinh có nghĩa là ‘bữa ăn tối’) (Tin Mừng Máccô, Centurion, 1991, trang 208).
- Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lặp lại hai cử chỉ theo nghi thức nơi người Do Thái để mở đầu và kết thúc bữa tiệc: "chúc phúc" trên bánh mì; "chúc phúc" trên rượu.
+ Đầu bữa ăn, vị chủ toạ cầm bánh dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúc tụng Chúa, Vua vũ trụ, Chúa đã tạo ra bánh từ ruộng đất! Rồi ông bẻ bánh, chia cho mỗi người đồng bàn một miếng; khi ăn bánh, mọi người đều nhận biết đó là một quà tặng của Thiên Chúa.
+ Cuối bữa ăn, người ta mang tới cho vị chủ toạ một ly rượu có pha nước. Ông cầm ly rượu trong tay, nâng lên, rồi, trong một lời đối thoại theo nghi thức, ông mời gọi các khách tham dự cũng tạ ơn Chúa: "Nào ta hãy tạ ơn Chúa, Người đã nuôi dưỡng ta no thoả! Mọi người đáp lời: "Chúc tụng Đấng đã dùng sự phú túc nuôi dưỡng ta và dùng lòng nhân hậu làm cho ta được sống!”. Rồi ông xướng kinh "chúc tụng". Tạ ơn vì sự sáng tạo, vì giao ước và vì quà tặng Đất hứa, đồng thời cầu nguyen cho hiện tại và tương lai của Giêrusalem. Sau đó ông chuyển ly rượu cho mọi người tham dự.
+ Khi làm lại những cử chỉ nghi thức của dân Người: chiều hôm ấy Đức Giêsu đã ban cho những cử chỉ ấy một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ, đặt chúng trong tương quan với mầu nhiệm phục sinh của Người.
+ "Này là Mình Ta” Người nói khi trao bánh đã bẻ ra cho các môn đệ. Như thế, Người xác định, theo nhân chứng học Do Thái, không có tách biệt giữa xác và 'hồn, nhưng toàn bộ con người của Người: Này là chính Ta (tự hiến). Phải hiểu như thế.
M. Autané bình luận: “Đối với một người Do Thái như Đức Giêsu, chẳng có phân biệt giữa "nhục thể” (sarx) và "xác thân" (sôma) như đối với người Hy Lạp. Xác thân hay nhục thể cũng là trọn vẹn con người. Khi nói: "Này là Mình Ta" Đức Giêsu chỉ có ý nói "Đây là tất cả bản thân, sự sống của tôi”. Như người chủ gia đình, trong bữa ăn Vượt qua, cắt nghĩa rằng banh không men là "bánh nhục nhằn" (Tl 16,3), Đức Giêsu giải thích bánh của bữa tiệc vượt qua mới bằng cách đồng hoá bánh với chính bản thân Người. Người trao cho các môn đệ không chỉ có bánh để ăn, nhưng là chính bản thân Người" ("Hồ sơ Kinh Thánh" số 14).
+ Cũng vậy, sau khi đã chuyền ly rượu đầy, Người tuyên bố: “này là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra cho mọi người" (nghĩa là "cho toàn thể nhân loại"), để công bố ý nghĩa của cái chết của Người.
M. Autané nói tiếp: "Máu ‘giao ước’ gợi nhớ đến Xuất Hành 24,3-8, khi Môsê ký giao ước với Thiên Chúa bằng việc rảy máu con vật tế hiến lên bàn thờ rồi trên dân chúng. Giao ước mới ra đời nhờ chính mạng sống của Đức Giêsu, sự sống được tượng trưng bằng máu đổ ra để cứu chuộc số đông nhân loại. Đức Giêsu, khi sắp bị địch thù tuyên án tử, đã để lại cho cộng đoàn của Người Thánh Thể như một lễ vượt qua mới. Như thế, trong bữa an này, các môn đệ vừa cảm nghiệm được sự giải phóng - không phải giải phóng khỏi tay người Ai Cập, nhưng khỏi những lực lượng sự chết- và nếm trước bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, khi thời gian chấm dứt.
Ta chẳng bao giờ biết được lời lẽ chính xác của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ta biết chắc rằng các môn đệ đã lưu giữ, dạy dỗ, và lưu truyền những gì các ngài cho là chính yếu: sự trao tặng của Đức Giêsu, sự trao tặng chính mạng sống của Người vì tình yêu. Và điều họ phải ghi nhớ đó là sự hiện diện mới của Đức Giêsu: Đấng Phục sinh đã đảo lộn đời họ và Người còn tiếp tục biến đổi thế giới qua Giáo Hội " (Sđd, trang 19).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Vĩnh viễn ta chỉ bập bẹ về bí tích Thánh Thể
(Đức Cha L.Daloz, trong "Vậy Người là ai?". DDB. trang 90-91).
Chỉ bằng một cử chỉ đơn sơ và duy nhất, Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ kho tàng Mình và Máu Người. Bằng những lời lẽ vắn tắt và long trọng Người tuyên đọc di chúc của Người. Đó sẽ là trung tâm của các cộng đoàn Kitô hữu, và sẽ thẩm định các cộng đoàn dọc dài suốt lịch sử, cho tới ngày các môn đệ Người sẽ uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ những cử chỉ và những lời lẽ của phép Thánh Thể, dấu chỉ của thân thể và máu giao ước. Người nộp mình vào tay chúng ta. Vào thời điểm Người sắp bước vào cuộc khổ nạn và hoàn tất thời hiện diện hữu hình. Người có ý tiếp tục bằng sự hiện diện vô hình và tầm vóc phổ quát của hiến tế đời người. "Chén mà ta sắp uống, các ngươi sẽ uống”, Đức Giêsu đã loan báo như thế (11,39). Người lên tiếng, cầm lấy chén và trao cho ta. Nhờ bánh và rượu này, ta thục sự dấn bước theo Người lên con đường khổ nạn và phục sinh của Người. Ta không chỉ dừng lại ở việc gợi lại lịch sử và thử bắt chước Người. Chúng ta bị lôi kéo vào cuộc phiêu lưu của Người và thành những kẻ tham dự vào số phận của Người. Lời lẽ bất ngờ chưa từng thấy: "Hãy cầm lấy, này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy”. Thật ra, người này là ai mà dám nói những lời như thế? Người đã khai mở lỗ hổng nào nơi nhân tính chúng ta để cho giao ước có thể đi vào, thấm nhập vào đến tận thâm tâm của mỗi người? Ta có thể làm gì khác hơn là linh cảm được điều đó trước khi uống chất rượu mới của Nước Trời? Vĩnh viễn ta chỉ biết bập bẹ nói về phép Thánh Thể.
2. Những bài tường thuật nền tảng về việc cử hành Thánh Thể
(M.Scouarnec, trong “Hồ sơ Thánh Kinh" số 41, "Phép Thánh Thể", trang 24).
Giáo Hội coi những bài tường thuật bữa ăn tối là nền tảng của việc cử hành Thánh Thể. Luca (cũng như Phaolô) tường thuật lệnh truyền của Chúa: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Lệnh truyền mới tương quan với giao ước mới. Dẫu việc soạn thảo bản văn có những khác biệt, vẫn thấy xuất hiện những nét chính yếu:
(1) Bài ca tiếp liên trọng tâm của phép Thánh Thể:
Đức Giêsu cầm lấy bánh, rồi cầm lý rượu.
Người tạ ơn, hoặc dâng lời chúc tụng.
Người bẻ bánh.
Người trao cho các môn đệ.
Bốn động từ, 4 hành động diễn ra trong nghi thức của phép Thánh Thể: chuẩn bị và trình bày những quà tặng, kinh nguyện tạ ơn long trọng, cử chỉ bẻ bánh và rước lễ.
(2) Trong cử chỉ cuối cùng, cử chỉ trao ban, Đức Giêsu đã nói những lời này: "Này là mình Thầy”. Như vậy, đó là chìa khoá để hiểu toàn bộ hành động. Đức Giêsu ban tặng mình và máu Người. Mạng sống của Người, chính bản thân Người. Cái chết của Ngươi, hy tế của Người là một quà tặng cụ thể chính bản thân Người: một hành vi tạ ơn dâng trước cho Chúa Cha và một quà tặng bản thân Người cho anh em.
(3) Một khung cảnh Vượt qua. Dù có những mâu thuẫn giữa Gioan và các Tin Mừng Nhất Lãm về ngày giờ chính xác của bữa Tiệc Ly, ta vẫn thấy ý định của các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm là ghi lại bài tường thuật về việc lập phép Thánh Thể trong khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái và của Giao ước, và cho biến cố một nội dung Vượt qua: Đức Kitô vượt qua từ sự chết đến sự sống, thực hiện công cuộc giải phóng mới khỏi tội lỗi nhờ Đức Kitô - Tôi Tớ, cho mọi người chứ không riêng cho dân Israel.
(4) Cử hành ngày Chúa nhật: ngày dân Chúa làm nên một thân thể hữu hình (Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf, 1 996, trang 93-94).
Còn về phép Thánh Thể, các cộng đoàn đã tiến bộ trong nhận thức tầm quan trọng của bí tích ấy đối với đời sống Giáo Hội. Nhưng vẫn phải luôn luôn đổi mới ý nghĩa việc cử hành ngày Chúa nhật như thời gian dân đã được Rửa tội kết thành thân thể hữu hình, khi đáp lại lời mời gọi mà Đức Kitô ngỏ với các môn đệ với mục đích cho họ tham dự vào việc tặng bản thân của Người cho sự sống của thế giới.
Tất cả chúng ta đã có kinh nghiệm về những buổi cử hành đầy tinh thần đón tiếp nồng ấm khiến cho ta như cảm được ơn cứu độ Thiên Chúa ban tặng, đến phục hồi sức lực cho ta giúp ta tiếp tục rong đuỗi đường dài. Đó không phải và một lý tưởng không đạt tới được đối với các cộng đoàn của ta, nhất là nếu tất cả những ý thức và những truyền thống thiêng liêng chấp nhận điều tiết những đòi hỏi sau đây mà đôi khi người ta chống báng vì sai lầm: sự tôn trọng truyền thống phụng vụ, lời kêu gọi mọi người tích cực tham dự, sự đóng góp của những diễn tả khac nhau về thẩm mỹ vả nghệ thuật.
Một thực hành Thánh Thể như thế không thể tách rời khỏi ý thức về những tác vụ được loan truyền vì sự sống và vì sự xây dựng Thân Thể Giáo Hội.
60. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
LẬP PHÉP THÁNH THỂ
1) Một trong những hậu quả của sự khốn khổ của các kẻ nghèo, dù ở bất cứ nơi nào, là họ cảm thấy không có tương lai. Mỗi một ngày kế tiếp nhau không có dự tính. Chỉ có một cuộc song vất vưởng và phân chia trong sự tìm kiếm một chút của nuôi thân hay một hạnh phúc nhỏ bé nhất thời. Dân Thiên Chúa trong cảnh nô lệ Ai Cập đã là như vậy (Bài đọc 1: Xh 24, 3-8). Và đây Môisen, nhân danh Chúa, đề ra cho họ một tương lai, một lịch sử. Thiên Chúa giao kết với dân này. Mọi sự sắp đổi thay. Đây là một biến cố quan trọng cần phải nhớ và người ta làm một đài kỷ niệm: 12 viên đá chồng lên nhau đặt ra một nghi lễ: dâng mot hy tế bình an. Đọc một đoạn sách luật và làm một cử chỉ hội khó hiểu đối với chúng ta. Nhưng rất ý nghĩa đối với người Hy bá: rảy máu của một con vật dâng làm hy lễ. Máu: dấu chỉ sự sống, máu đổ ra và chia sẻ: dấu chỉ của cùng một sự sống nhận từ Thiên Chúa và được chia sẻ trong một định mệnh chung.
2) (Bài đọc 2: Dt 9, 11-15). Nhưng giao ước tình yêu này với một dân tộc chẳng phải là tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Sau bao ngày kiên nhẫn. Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để mở ra cho nhân loại thấy được tình yêu mà Ngài đã ấp ủ trong tim. Chúa Giêsu đã trở thành tư tế của hạnh phúc sẽ tới. Vì thế Người cũng để lại cho ta một nghi thức mới về giao ước mới này. Lần này không còn là một biểu tượng, một sự nhắc nhở, nhưng là một hành vi, một biến cố. Chính là Chúa Kitô tự hiến làm hy lễ. Bây giờ tất cả mọi người có thể tìm một ý nghĩa mới cho đời sống họ, một lịch sử phải thể hiện, một ơn cứu độ phải làm cho tới.
3) (Bài Tin Mừng). Khi hội họp lại mỗi Chúa nhật. Chúng ta cử hành việc ơn cứu rỗi nói trên. Các nhà thờ của chúng ta, như bấy nhiêu viên đá chồng chất, có cả hàng ngàn trên thế giới, cho chúng ta thấy rằng lịch sử nhân loại của chúng ta đã được thánh hiến cho một tương lai chung quyết. Tất cả mọi công việc, mọi cuộc khám phá đều trở thành thực tại của Vương Quốc, như bánh và rượu mà chúng ta dâng đây trở thành Mình và Máu Chúa. Điều này không thể thực hiện mà không có thảm kịch, lầm lẫn, dò dẫm. Chúa Giêsu đã chia sẻ bữa ăn sau cùng của Người với các môn đồ trong ý thức về cái chết Người và trong bầu khí buồn thảm của sự phản bội và bỏ rơi. Lễ tạ ơn của chúng ta cũng được nối dài trong thảm kịch của thế giới: tội lỗi của nó, các cuộc nhảy chồm lên của nó đều chạm tới chúng ta. Nhưng niềm hy vọng của chúng ta lớn lao, vì chúng ta xác tín về vương Quốc sẽ tới.
61. Chú giải của William Barclay.
MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ
CHUẨN BỊ CHO NGÀY LỄ (Mc 14,12-16)
Dường như có một từ hơi lạ đã được dùng ý liên quan tới Chúa Giêsu. Nhưng khi đọc bài tường thuật tuần lễ cuối cùng của đời Ngài, chúng ta không thể không ngạc nhiên về tài năng sắp xếp công việc của Ngài. Nhiều lần, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hề để nước đến chan mới chạy. Trước đó, Ngài thu xếp có sẵn một lừa cho Ngài đi vào thành Giêrusalem. Ở đây chúng ta thấy Ngài thu xếp mọi sự từ trước. Các môn đệ Chúa muốn biết họ sẽ ăn Lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai họ vào thành Gierusalem với lời dặn dò hãy tìm một người đang mang vò nước. Đây là một dấu hiệu đã có sắp xếp trước. Mang vò đi lấy nước là việc của đàn bà. Đó là việc chưa hề thấy một người đàn ông nào làm. Một người đàn ông vác vò nước trên vai sẽ là một hình ảnh nổi bật giữa đám đông, chẳng khác gì một người đàn ông đi mưa mà che dù đàn bà. Chúa Giêsu không hề để sự việc đến phút chót mới lo. Từ lâu, Ngài đã thu xếp chỗ họp mặt cuối cung cho chính Ngài với các môn đệ và mọi việc đều xảy ra đúng như ý muốn.
Các căn nhà lớn của dân Do Thái có những phòng cao, các căn nhà ấy trong như có một chiếc hộp nhỏ xếp chồng trên một chiếc hộp lớn vậy. Chiếc hộp nhỏ hơn đó là phòng cao, có cầu thang bên ngoài để đi lên, nên người ta không cần phải đi qua phòng lớn bên trong nhà. Phòng cao có nhiều công dụng. Nó có thể dùng làm phòng kho, hoặc dùng làm nơi suy gẫm, làm chỗ nghỉ khi nhà có khách. Nhưng đặc biệt nhất đó là nơi để một Rapbi dạy dỗ các môn đệ thân tín. Chúa Giêsu đã làm theo thói quen các Rapbi Do Thái vẫn thường làm.
Chúng ta phải nhớ đến một điểm về cách ghi nhận ngày của dan Do Thái. Theo người Do Thái, thì một ngày mới bắt đầu từ 6 giờ chiều, trước 6 giờ chiều là ngày 13 tháng Nisan, là ngày sửa soạn cho Lễ Vượt Qua. Nhưng ngày 14 tháng Nisan là ngày Lễ Vượt Qua thì bắt đầu từ 6 giờ chiều. Theo cách tính của chúng ta thì ngày thứ sáu của người Do Thái bắt đầu từ 6 giờ chiều ngày thứ năm.
Người Do Thái chuẩn bị những gì để ăn Lễ Vượt Qua:
Nghi lễ đầu tiên là nghi thức tìm men. Trước ngày Lễ Vượt Qua, tất ca các men được loại bỏ ra khỏi nhà. Trong ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên tại xứ Ai cập (Xh 12), người ta đã ăn lễ ấy với bánh không men. Bánh không men không giống bánh mì chút nào, nó là một thứ bánh bột luộc. Sở dĩ tại Ai cập họ đã phải ăn như vậy vì làm thế sẽ nhanh hơn một ổ bánh có men, và ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên là ngày thoát ra khỏi xứ Ai cập, dân Israel phải ăn hối hả và mọi người đều phải sẵn sàng để ra đi lên đường. Hơn nưa, men còn là biểu tượng của sự thối nát. Men là bột đã ủ cho dậy lên và người Do Thái đồng nhất sự lên men với quá trình thối rữa, hư hoại. Vào ngày trước Lễ Vượt Qua, người chủ nhà thắp một ngọn nến, rồi theo nghi lễ, đi tìm men khắp trong nhà. Trước khi đi tìm, người ấy khấn nguyện rằng: “Đáng chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, là Vua toàn cõi vũ trụ, Đấng đã lấy các điều răn của Ngài để thánh hoá chúng tôi, và truyền lệnh cho chúng tôi phải cất hết men đi”. Sau khi đã tìm khắp nhà, chủ nhà nói: “Tất cả men tôi có, mà tôi đã tìm thấy hoặc không tìm thấy đều kể như không còn nữa, kể như bụi dưới đất vậy”.
Tiếp theo, vào xế trưa trước buổi chiều Lễ Vượt Qua là dâng sinh tế về Con Chiên Vượt Qua. Mọi người đều đến Đền Thờ. Người dâng lễ phải giết con chiên của mình để dùng nó dâng làm của lễ hy sinh. Dưới mắt người Do Thái, máu là vật thiêng liêng dâng cho Thiên Chúa, bởi vì người Do Thái xem máu ngang hàng với sinh mạng. Việc tin thế là điều tự nhiên, vì nếu một con người hay một con vật bị thương, có máu chảy ra, thì sự sống cũng theo đó mà ra. Cho nên trong Đền Thờ, kẻ đến thờ phượng tự giết con chiên mình đem đến. Giữa những người đến thờ phượng và bàn thờ, có hai hàng dài các thầy tư tế, mỗi người cầm một cái chén vàng hoặc bạc. Khi máu từ cổ họng con chiên chảy ra, máu được hứng vào các chén ấy, chuyền tay nhau cho đến thầy tư tế đứng ở cuối hàng đổ máu ấy lên bàn thờ. Con vật được mổ ra, bộ lòng và mỡ được lấy ra, vì là phần cần thiết cho việc tế lễ, còn xác được trả về cho người dâng lễ. Nếu phần tường thuật của Josephus hoàn toàn đúng, thì có hơn ¼ triệu con chiên đã bị giết, chúng ta khó tưởng tượng nổi quang cảnh tại Đền Thờ cũng như tình trạng bàn thờ đầy máu. Con chiên được đem về nhà và quay. Không thể đem nấu thịt ấy. Không thể để nó chạm vào một vật gì dù là cạnh của chiếc nồi. Nó phải được đâm xuyên qua bằng một khúc cây lựu và quay trên ngọn lửa. Khúc cây được đâm xuyên thẳng từ miệng đến đuôi, con chiên được quay nguyên con, còn cả đầu, giò, đuôi dính vào thân.
Chiếc bàn ăn thấp có dạng như một hình vuông để trống một cạnh. Tất cả khách nằm trên những chiếc ghế dài, chống bằng khuỷu tay trái, dùng tay mặt lấy thức ăn.
Có một số vật cần thiết mà các môn đệ của Chúa phải chuẩn bị sẵn sàng.
1/ Một con chiên để nhắc họ nhớ lại việc gia đình họ được bảo vệ nhờ máu bôi lên trên khung cửa khi thiên sứ của sự chết đi qua khắp xứ Ai cập.
2/ Bánh không men để nhắc họ nhớ thứ bánh mà họ phải ăn vội vã lúc thoát ách nô lệ.
3/ Chén nước muối để nhắc họ nhớ lại nước mắt họ từng đổ ra tại Ai cập và nước của Biển Đỏ mà họ đã vượt qua an toàn lạ lùng.
4/ Một mớ các loại rau đắng, để nhắc họ nhớ về sự cay đắng khi làm nô lệ tại Ai cập.
5/ Một loại bánh dẻo gọi là charosheth là một hỗn hợp các thứ trái táo, chà là, lựu và hạt dẻ, để nhắc họ nhớ về đất sét mà họ dùng làm gạch tại Ai cập. Lẫn lộn trong đó là những sợi quế để nhắc nhở họ về rơm họ đã trộn vào đất sét làm gạch.
6/ Bốn cốc rượu nho. Các cốc đựng loại rượu nho được pha bằng ba phần rượu với hai phần nước lã. Bốn cốc rượu được uống vào bốn giai đoạn khác nhau trong bữa ăn, để nhắc họ về bốn lời hứa trong sách Xuất Hành 6,6-7: “Ta sẽ rút các ngươi khỏi gánh nặng mà người Ai cập đã chất lên vai các ngươi. Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi vòng tôi mọi. Ta sẽ giơ thẳng tay ra, dùng hình phạt nặng mà chuộc các ngươi. Ta sẽ nhận các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ làm Chúa của các ngươi”.
Đó là những gì phải chuẩn bị cho ngày Lễ Vượt Qua. Tất cả các chi tiet đều nhắc nhở về ngày trọng đại, khi Chúa ban ơn giải phóng dân Ngài khỏi cảnh nô lệ tại Ai cập. Chính nhằm ngày lễ đó, Đấng giải thoát thế gian khỏi tội lỗi đã ngồi để dự bữa ăn cuối cùng với các môn đệ Ngài.
BIỂU TƯỢNG CỦA SỰ CỨU RỖI (Mc 14,22-26)
Trước hết, chúng ta cần biết rõ các giai đoạn khác nhau trong ngày Lễ Vượt Qua, để có thể hình dung những gì Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài đang làm ở đây. Mọi việc được diễn tiến theo thứ tự sau đây:
1/ Chén Kiddush. Kiddush có nghĩa là thánh hoá hay phân rẽ. Đây là một hành động mang tính chất tách rời bữa ăn này khỏi tất cả các bữa ăn bình thường khác. Người chủ gia đình nâng chén lên, cầu nguyện, rồi mọi người cùng uống chén đó.
2/ Rửa tay lần thứ nhất. Chỉ có người dâng lễ phải làm việc này mà thôi. Người ấy phải rửa tay ba lần theo cách thức quy định chúng ta nghiên cứu ở chương 7.
3/ Một miếng ngò tây hay rau diếp được đem nhúng vào một chén nước muối rồi ăn. Đây là một món khai vị để ăn cho ngon miệng, nhưng cây rau ngò tiêu biểu cho chùm kinh giới đã được nhúng trong máu rồi bôi lên khung cửa, còn muối tiêu biểu cho nước mắt đã đổ ra tại Ai Cập và nước của Biển Đỏ mà dân Israel đã được đưa ra khỏi đó an toàn.
4/ Bẻ bánh. Khi bẻ bánh có hai câu chúc phúc được đọc lên “Đáng cảm tạ Ngài là Đức Chúa. Thiên Chúa chúng tôi là Vua toàn cõi vũ trụ, nguyện Ngài được tôn vinh trên trái đất” hoặc “Đáng cảm tạ Ngài là Cha chúng tôi ở trên trời, Đấng hàng ngày ban bánh đủ dùng cho chúng tôi”. Trên bàn bánh không men được xếp thành ba vòng. Vòng bánh chính giữa được cầm lên và bẻ ra. Vào lúc đó, người ta chỉ ăn một chút bánh mà thôi. Việc này nhắc nhở cho người Do Thái nhớ lại thứ bánh đau khổ họ từng ăn tại Ai Cập, nhắc họ nhớ những kẻ làm nô lệ chẳng bao giờ được an trọn vẹn cả ổ bánh, nhưng chỉ được ăn những mảnh vụn. Lúc bẻ bánh, người chủ gia đình nói “Đây là bánh đau khổ mà tổ tiên ta từng ăn tại Ai Cập, ai đang đói, hãy đến mà ăn. Ai đang túng thiếu hãy đến cùng dự Lễ Vươt Qua với chúng tôi” (Trong cách hành lễ hiện đại tại các nơi xa lạ, lời con người nổi tiếng sau đây đã được thêm vào “Năm nay, chúng ta dự lễ ở đây, năm sau chúng ta sẽ dự lễ trong xứ Israel. Năm nay chúng ta dự lễ với tư cách kẻ nô lệ, năm tới chúng ta sẽ dự lễ với tư cách người tự do”).
5/ Tiếp theo là phần kể lại câu chuyện giải phóng. Người trẻ tuổi nhất hiện diện sẽ hỏi có gì khiến ngày này khác với các ngày khác và tại sao lại giữ lễ này. Và người chủ nhà bắt đầu kể lại cả câu chuyện về lịch sử dân Israel từ ngàn xưa cho đến khi có cuộc giải phóng vĩ đại mà ngày Lễ Vượt Qua không bao giờ trở thành một nghi lễ suông. Nó luôn luôn là một kỷ niệm về quyền năng và lòng nhân từ của Chúa.
6/ Các Thánh vịnh 113, 114 được hát lên. Các Thánh vịnh từ 113-118 vốn được biết đến dưới tên gọi Hallel nghĩa là ca ngợi Thiên Chúa. Tất cả Thánh vịnh ấy đều là những lời ngợi khen. Chúng là một phần của tài liệu xưa nhất mà một cậu bé Do Thái phải học thuộc lòng.
7/ Uống chén thứ hai. Chén này được gọi là haggadah, nghĩa là chén giải nghĩa hay công bố.
8/ Bây giờ thì mọi người đang có mặt đều rửa tay để chuẩn bị dùng bữa.
9/ Một bài cầu nguyện tạ ơn được đọc lên “Hỡi Đức Chúa Thiên Chúa chúng tôi, đáng cảm tạ Ngài vì đã ban hoa quả từ đất. Hỡi Thiên Chúa, đáng chúc tụng Ngài, Đấng đã thánh hoa chúng tôi bằng các điều răn của Ngài, và truyền cho chúng tôi ăn bánh không men”. Sau đó những mẩu bánh nhỏ được phân phát ra.
10/ Một ít rau đắng kẹp giữa hai miếng bánh không men, nhúng vào chén charosheth và ăn. Việc này được gọi là nhúng vào nước. Nó nhắc lại cảnh làm nô lệ và những viên gạch mà họ đã bị bắt buộc phải sản xuất.
11/ Tiếp theo là bữa ăn chính. Cả con chiên được đem ra ăn. Nếu còn dư thừa chút gì thì phải thiêu đi, chứ không được dùng cho một bữa ăn bình thường nào khác.
12/ Lại rửa tay.
13/ Ăn bánh không men còn lại.
14/ Đọc bài cầu nguyện cảm tạ, gồm một lời khấn xin Êlia kịp đến để báo tin về Đấng Mêsia. Rồi mọi người uống chén rượu thứ ba được gọi là chén cảm tạ. Lời chúc phúc lúc nâng chén là “Hỡi Đức Chúa là Thiên Chúa, là Vua toàn cõi vũ trụ, Đấng đã tạo nên trái nho, đáng cảm tạ Ngài”.
15/ Hát bài thứ hai các bài Hallel (Thánh vịnh 115,118).
16/ Hai bài cầu nguyện ngắn như sau được đọc lên “Hỡi Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, mọi công việc Ngài đều ca ngợi Ngài. Tất cả các thánh, các người công chính, những kẻ làm đẹp lòng và toàn thể dân Ngài, cả nhà Israel, bằng bài ca vui mừng, hãy ca ngợi và chúc tụng, tán dương và tôn vinh, tôn cao và cung kính, thánh hoá và ghi tạc danh Ngài vào Nước Ngài. Hỡi Chúa là Vua chúng tôi, thật là tốt đẹp khi ca ngợi, lấy làm thoả vui mà hát ngợi khen danh Ngài, vì từ đời đời cho đến đời đời Ngài là Thiên Chúa.
“Hơi thở của mọi sinh vật sẽ ca tụng danh Ngài là Chúa. hỡi Chúa chúng tôi, mọi vật sẽ mãi mãi tôn vinh và đề cao Ngài. Hỡi Thượng Đế, Vua chúng tôi, vì từ đời đời đến đời đời Ngài là Thượng Đế, ngoài Ngài ra chẳng có Vua, chẳng có Đấng cứu chuộc hay Đấng Cứu Thế nào khác”.
Như thế là Lễ Vượt Qua kết thúc. Nếu buổi lễ mà Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài đã ngồi lại để dự là Lễ Vượt Qua, thì chắc Chúa Giêsu đã dùng mục 13 và 14 để nói về chính Ngài và mục 16 chắc là bài thánh ca mà mọi người cùng hát lên trước khi ra đi đến núi Ôliu.
Bây giờ, chúng ta hãy vào xem Chúa Giêsu đã làm gì và Ngài đã làm cách nào gây ấn tượng trên những người theo Ngài. Hơn một lần chúng ta thấy các ngôn sứ Israel dùng các hành động biểu tượng và những diễn xuất kịch nghệ để truyền đạt sứ điep khi họ cảm thấy lời nói không chưa đủ. Đó là việc Ahigia đã làm khi ông xé áo choàng của ông ra làm 12 mảnh và trao 10 mảnh cho Giêrôbôam, là dấu hiệu về 10 chi phái trong dân Israel sẽ tôn ông ta lên làm vua (1V 11,29-32). Đó là việc Giêrêmia cũng từng làm khi ông làm xiềng và ách rồi mang chúng như một dấu hiệu về tình trạng nô lệ sắp xảy đến (Gr 28,10-11). Đó là phương cách mà tiên tri Êdêkiên vẫn thường làm (Ed 4,1-8; 5,1-4). Ngươi ta rất dễ quên lời nói, nhưng một hành động như diễn kịch có thể in sâu vào tâm trí họ. Đó là việc Chúa Giêsu đã làm khi Ngài kết hợp hành động như diễn kịch đó với ngày lễ cổ của dân tộc Ngài, để nó càng in sâu hơn vào tâm trí các môn đệ Ngài. Ngài phán “Hãy xem như bánh này đã bị bẻ ra làm sao, thì thân thể ta cũng sẽ vì các người mà bị vỡ nát ra như vậy. Chén đựng chất rượu màu đỏ này bị đổ ra làm sao thì máu ta cũng sẽ vì cac ngươi mà đổ ra như vậy”.
Ngài ngụ ý gì khi bảo rằng chén này tiêu biểu cho Giao Ước mới? Từ Giao Ước là một chữ rất thông thường trong tôn giáo Do Thái. Nền tảng của Do Thái giáo là Thiên Chúa đã lập một Giao Ước với dân Israel. Từ này có nghĩa là một sự dàn xếp, trả giá, một hợp đồng hai chiều. Việc thừa nhận Giao Ước cũ được nói rõ trong Xuất hành 24,3-8. Theo đoạn sách đó chúng ta thấy Giao Ước hoàn toàn tuỳ thuộc việc dân Israel tuân giữ luật. Nếu luật bị vi phạm thì Giao Ước cũng bị vi phạm, và mối liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Israel sẽ tan rã. Đây là một mối giao hảo hoàn toàn tuỳ thuộc luật và việc tuân giữ luật ấy. Thiên Chúa là vị thẩm phán. Vì không hề có ai giữ trọn luật nên phần khiếm khuyết luôn luôn ở về phía dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu phán “Ta phê chuẩn và ban hành một Giao Ước mới, một mối liên hệ, một hợp đồng mới giữa Thiên Chúa với loài người. Nhưng Giao Ước này không lệ thuộc vào luật mà tuỳ thuộc tình yêu. Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn bảo rằng “Việc Ta đang làm đây để chứng minh cho các ngươi thấy Thiên Chúa yêu thương các ngươi như thế nào”. Loài người không chỉ đơn giản ở dưới luật của Thiên Chúa. Vì điều Chúa Giêsu đã thực hiện, họ mãi mãi ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là yếu tính của những gì Tiệc Thánh nói lên với chúng ta.
Có thể ghi nhận thêm một điểm nữa. Trong câu cuối cùng, một lần nữa chúng ta lại thấy hai điều thường thấy: Chúa Giêsu biết Ngài sắp phải chịu chết và Ngài đã biết Nước Ngài sắp đến. Ngài chắc chắn về thập giá, và cũng chắc chắn không kém về vinh quang. Lý do khiến Ngài biết chắc cả hai như vậy vì Ngài biết cách chắc chắn về tình yêu của Thiên Chúa cũng như biết chắc về tội lỗi của loài người. Và Ngài biết cuối cùng thì tình yêu sẽ chinh phục tội nhan.
62. Giao Ước Máu
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Trong Bữa Tiệc Ly, chính Chúa Giêsu đã xác lập Giao Ước Máu: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22:20). Giao ước mới chứ không cũ, và được ký kết bằng máu chứ không bằng thứ gì khác, mà máu này là chính Máu của Con Thiên Chúa, chứ không là máu chiên, máu bò, máu dê,... Giao ước mới là Giao Ước Máu – Máu Thánh của chính Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa.
Giao ước (hiệp ước, thỏa ước, khế ước, minh ước) khác với hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận của đôi bên và có thời hạn. Còn giao ước vô thời hạn, vĩnh viễn, và là thành phần của cuộc sống. Hợp đồng và giao ước đều có những trách nhiệm mà đôi bên phải thực hiện.
Theo nghĩa Kinh Thánh, giao ước được thiết lập và đóng ấn bằng một lễ nghi công khai và long trọng. Theo phong tục của dân ở Đất Thánh xưa, người ta đóng ấn giao ước bằng nghi thức sát tế một con vật, rồi phân thây con vật ấy thành hai phần và đặt dưới đất. Sau đó, đại diện hai bên lần lượt đi ngang qua giữa hai phần con vật đó, ngụ ý quyết tâm thi hành giao ước và sẵn sàng chịu cùng một số phận như con vật bị giết nếu vi phạm giao ước (x. St 15:7-20; Gr 31:31; Gr 34:18-22).
Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với loài người (x. St 8:20-21; St 9:8-17; St 12:1-3) . Có hai giao ước được nhắc tới trong Kinh Thánh là Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới – Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân Israel, được đóng ấn bằng máu con vật sát tế. Tân Ước là giao ước được thiết lập trực tiếp giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, và được đóng ấn bằng chính Bửu Huyết của Đức Kitô, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa.
Không gì có thể so sánh với giá máu, gọi là vô giá. Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Quý lắm! Như chúng ta biết, máu là một tổ chức di động, được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào và huyết tương. Theo thể tích, hồng cầu chiếm khoảng 45%, bạch cầu chiếm khoảng 0,7%, và huyết tương chiếm khoảng 54,3%. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể – như khí carbonic và acid lactic. Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào (cả tế bào bảo vệ cơ thể và tế bào bệnh lý) và các chất khác nhau (các amino acid, lipid, hormone) trong các cơ phận quan trọng. Các rối loạn về thành phần cấu tạo máu hoặc sự tuần hoàn bình thường của máu đều có thể dẫn đến rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác. Máu chiếm 7% trọng lượng cơ thể. Người trưởng thành trung bình có khoảng 5 lít máu. Tỷ trọng máu ở vào khoảng 1060 kg/m3.
Rõ ràng máu thực sự giữ vai trò rất quan trọng trong sự sống của con người – và động vật. Cái gì liên quan máu đều đáng giá, vì liên quan sự sống còn! Thực vật có loại “máu lạnh” và không có màu đỏ, chúng ta gọi là “nhựa”.
Cuộc sống có nhiều thứ liên quan máu, có thể tốt, có thể xấu, nhưng luôn “nghiêm trọng”. Máu xấu có trong những người xấu xa, chẳng hạn một cô bé vô tội 16 tuổi ở Guatemala bị đám người xấu đánh đập dã man, rồi họ thiêu sống em
(https://www.youtube.com/watch?v=FkrVxd1QQ3E).
Và hàng ngày, ở đâu đó trên thế giới này – kể cả Việt Nam, còn biết bao vụ án liên quan “máu xấu” vẫn không ngừng xảy ra. Chính họ đang muốn “triệt tiêu” Thiên Chúa, làm hư Giá Máu của Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu đã nói thẳng với Sao-lê – tức là Sa-un, sau trở thành Phaolô: “Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi!” (Cv 26:14). Người có “máu xấu” cố ý làm ngơ chứ chắc chắn không phải không biết. Còn máu, còn sống; mất máu, đông máu hoặc “khô máu”, chết chắc! Đó là quy luật tự nhiên – tức là Luật Chúa. Sao-lê đã tỉnh ngộ vì cú ngã ngựa chí mạng, và rồi nhìn vào thực tế của cuộc đời nhiễu nhương này, ông đã phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Người ta đã và đang muốn loại bỏ Thiên Chúa, bằng chứng là xưa nay luôn xuất hiện các tà thuyết. Nhiều điều nhãn tiền mà người ta vẫn không hề biết sợ, vì quá cố chấp. Thật khủng khiếp!
Ngày xưa, ông Mô-sê xuống núi thuật lại cho dân mọi lời và mọi điều luật của Đức Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24:3). Rất ngoan ngoãn. Một lời hứa rất đẹp. Ước gì họ luôn ngoan ngoãn như vậy, và chúng ta cũng luôn ngoan ngoãn như thế. Nhưng nào có được như vậy!
Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8).
Giao ước cũ cũng có “dính líu” tới máu. Máu biểu hiện sự sống. Vì thế, máu rất quan trọng, vì sự sống là thứ bất khả xâm phạm. Màu máu cũng có gì đó rất khác lạ, sắc đỏ khác với mọi màu đỏ khác. Với những con người bình thường, lời thề cũng thường liên quan máu. Ngày xưa, người ta thường “uống máu ăn thề” – họ cùng cắt máu ngón tay, cho chảy chung vào một cái chén rồi chia nhau uống, thề sống chết có nhau. Các Thánh Vịnh cũng lặp đi lặp lại từ “giao ước” ít nhất 18 lần – trong 13 Thánh Vịnh.
Phàm nhân chẳng là gì, nhưng Thiên Chúa đã tha tội chết, cho quyền sống, và còn ký kết giao ước vĩnh viễn. Cảm được lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã tự nhủ: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:12-13).
Thiên Chúa là Chúa của người sống, Ngài yêu thương họ tới cùng và Ngài muốn mọi người được sống dồi dào. Tác giả Thánh Vịnh tự hứa với Thiên Chúa: “Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:15-16). Và quyết tâm hành động: “Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người” (Tv 116:17-18).
Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Như đã nói, cái gì liên quan máu đều là vấn đề nghiêm trọng. Máu động vật đã vậy, máu người còn nghiêm trọng hơn. Và còn hơn thế nữa, Máu Chúa Giêsu vô cùng quý giá, tột đỉnh quý giá, không gì có thể so sánh, vì không chỉ là Máu Thánh mà còn là Máu Cực Thánh.
Thánh Phaolô so sánh và giải thích: “Nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9:13-14). Máu động vật và máu người có thể làm chúng ta bị dơ bẩn, nhưng Máu Thánh Chúa Giêsu lại khác, không làm chúng ta dơ bẩn mà còn tẩy sạch chúng ta khỏi mọi thứ ô uế.
Thật kỳ diệu với mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Thánh Phaolô cho biết: “Người [Chúa Giêsu] là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9:15).
Ca tiếp liên “Lauda Sion” (Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen) có những lời cầu nguyện thâm thúy này: “Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thật là bánh của những người con, không nên ném cho loài khuyển. Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế I-xa-ác, chiên của lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng man-na. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thật, xin Người thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh. Chúa là Ðấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận với những công dân thánh của nước trời. Amen”.
Ngày xưa, ca tiếp liên này được sử dụng trong Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti), không hiểu sao ngày nay không được sử dụng nữa. Thật đáng tiếc!
Thánh Mát-thêu cho biết: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Đức Giêsu để biết ý Thầy muốn họ dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi và dặn họ đi vào thành, gặp một người mang vò nước thì đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ hỏi chủ nhà về căn phòng dành cho Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, người ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ sẽ dọn tiệc ở đó. Hai môn đệ ra, vào thành và thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Thật kỳ lạ, chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ biết trước như vậy, vì Ngài thấu suốt mọi sự!
Khi đang ăn cùng các môn đệ, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:24-25). Nghe Thầy nói và nhìn phong cách Thầy lúc đó, chắc hẳn họ vô cùng ngạc nhiên – dù Kinh Thánh không ghi lại chi tiết. Không lạ sao được, vì bánh mà bảo là “thịt”, rượu mà bảo là “máu”. Vâng, trí tuệ phàm nhân không thể hiểu thấu: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Đây Nhiệm Tích).
Trong Thông điệp “Ecclesia de Eucharistia” (Giáo Hội Sống Nhờ Thánh Thể, số 62), Thánh Gioan-Phaolô II đã gọi Thánh Tiến Sĩ Tôma Aquinô là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” (summus theologus simulque Christi Eucharistici fervidus cantor). Trong bộ “Tổng Luận Thần Học” (Summa Theologica, III, Q. 76, Art. 8), Thánh Tôma Aquinô cho biết:
• Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích này khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.
• Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, có vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.
• Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống dồi dào (Ga 10:10), muốn vậy thì chúng ta phải lãnh nhận Thánh Thể. Thánh Eymard, đấng sáng lập Dòng Thánh Thể (SSS – Societas Sanctissimi Sacramenti), đã nói: “Chúng ta chỉ chuốc lấy thất bại nếu chúng ta xa rời Thánh Thể”. Một câu nhắc nhở vô cùng quan trọng, chúng ta cần ghi nhớ luôn.
Lạy Thiên Chúa, xin sắp đặt cuộc đời của chúng con theo đúng ý Ngài và xin ở với chúng con luôn để chúng con được sự sống viên mãn của Con Một Ngài. Xin giúp chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, rồi tạ ơn, bẻ ra, và trao tặng tha nhân với cả tấm lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
63. Thần lương
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ăn uống là cái sự sung sướng đầu tiên trong tứ khoái của con người. Ăn uống không chỉ là khoái khẩu mà còn là nuôi sống thân xác. Ăn uống cũng là nét văn hóa: Văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa ẩm thực vào miệng, nhai, nuốt và tiêu hóa theo sinh lý tự nhien, mà còn phải học cách ăn để biết cách ăn, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.
Thân xác cần lương thực để sống, tâm hồn cũng cần loại lương thực đặc trưng để sống. Người Công giáo hạnh phúc có được một loại siêu ẩm thực, gọi là thần lương, đó là Thánh Thể của chính Đức-Kitô-Thiên-Chúa-Nhập-Thể-Làm-Người. Ai ăn Mình Thánh Chúa và uống Máu Thánh Chúa thì không còn đói khát và được sống đời đời.
THIẾT LẬP GIAO ƯỚC
Ngày xưa, ông Môsê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24:3). Ông Môsê đã chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Đó là Giáo ước và là Thập giới (Mười điều răn). Dâng lễ toàn thiêu, ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa’ rồi ông Môsê lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8). Một Giáo-Ước-Máu được thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta hoàn toàn bất xứng, thế nhưng Thiên Chúa không coi chúng ta là tôi tớ và lại thiết lập Giáo ước với chúng ta. Vì thế, chúng ta lại càng phải biết dâng lời tạ ơn. Giáo hội đã dùng Tv 116 để tạ ơn, vì Thánh vịnh này là Lời Kinh Tạ Ơn. Thiên Chúa chí thánh và cao sang vô cùng, chúng ta không có gì đền đáp cho cân xứng: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho? (Tv 116:12), tự vấn rồi chỉ còn biết tin cậy vào Ngài: “Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu Thánh Danh Đức Chúa” (Tv 116:12-13).
Chúng ta phải khiêm nhường nhìn nhận: “Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16) và tự hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Ngài” (Tv 116:18).
Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Ngài đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Ngài đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Ngài vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Rồi thánh nhân giải thích và kết luận: “Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì Máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Ngài thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đa hứa” (Dt 9:13-15). Thánh Phaolô nói rõ ràng quá!
THỰC HIỆN GIAO ƯỚC
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh mot phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta” (Mc 14:13-15). Hai môn đệ ra đi vào thành, các ông thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông, và nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14:24). Đây là phép lạ lớn nhất, và đây là mầu nhiệm đức tin, vì không có đức tin thì không thể nào tin nổi. Bánh và rượu được thánh hóa để trở thành Thánh Thể của Đức Giêsu Kitô, làm thần lương nuôi sống chúng ta hằng ngày. Đó cũng là Giao ước được thực hiện, đúng như Chúa Giêsu đã hứa trước khi Ngài về cùng Chúa Cha: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Ngài lập Bí tích Thánh Thể và cũng lập chức Linh mục kỳ diệu, phàm nhân mà được chúa trao quyền.
Sau đó, Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:25). Ngài về Thiên quốc trước để dọn chỗ cho chúng ta, những người tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ.
Để tỏ lòng kính mến Thánh Thể và đáp lại Tình Ngài, chúng ta nên rước lễ that hằng ngày, rước lễ xong thì hãy đắm mình trong Ngài để hòa tan với Ngài và chuyện trò với Ngài, rước lễ thiêng liêng thường xuyên trong ngày, chầu Thánh Thể chung hoặc riêng. Chúa Giêsu ở Nhà Tạm hằng ngày chờ đợi chúng ta tâm sự với Ngài, không phải chúng ta an ủi Ngài mà chúng ta được Ngài an ủi. Thánh Thể và Thánh Tâm phải được chúng ta ưu tiên, và đó cũng là tôn kính Lòng Chúa Thương Xót vậy.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn chúng con để chúng con xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể Đức Kitô, là chúng con lãnh nhận phúc trường sinh, chứ không bị án phạt đời đời vì bất xứng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
64. Giao Ước Máu
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Trong Bữa Tiệc Ly, chính Chúa Giêsu đã xác lập Giao Ước Máu: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22:20). Giao ước mới chứ không cũ, và được ký kết bằng máu chứ không bằng thứ gì khác, mà máu này là chính Máu của Con Thiên Chúa, chứ không là máu chiên, máu bò, máu dê,... Giao ước mới là Giao Ước Máu – Máu Thánh của chính Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa.
Giao ước (hiệp ước, thỏa ước, khế ước, minh ước) khác với hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận của đôi bên và có thời hạn. Còn giao ước vô thời hạn, vĩnh viễn, và là thành phần của cuộc sống. Hợp đồng và giao ước đều co những trách nhiệm mà đôi bên phải thực hiện.
Theo nghĩa Kinh Thánh, giao ước được thiết lập và đóng ấn bằng một lễ nghi công khai và long trọng. Theo phong tục của dân ở Đất Thánh xưa, người ta đóng ấn giao ước bằng nghi thức sát tế một con vật, rồi phân thây con vật ấy thành hai phần và đặt dưới đất. Sau đó, đại diện hai bên lần lượt đi ngang qua giữa hai phần con vật đó, ngụ ý quyết tâm thi hành giao ước và sẵn sàng chịu cùng một số phận như con vật bị giết nếu vi phạm giao ước (x. St 15:7-20; Gr 31:31; Gr 34:18-22).
Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với loài người (x. St 8:20-21; St 9:8-17; St 12:1-3). Có hai giao ước được nhắc tới trong Kinh Thánh là Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới – Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân Israel, được đóng ấn bằng máu con vật sát tế. Tân Ước là giao ước được thiết lập trưc tiếp giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, và được đóng ấn bằng chính Bửu Huyết của Đức Kitô, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa.
Không gì có thể so sánh với giá máu, gọi là vô giá. Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Một giot máu đào hơn ao nước lã”. Quý lắm! Như chúng ta biết, máu là một tổ chức di động, được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào và huyết tương. Theo thể tích, hồng cầu chiếm khoảng 45%, bạch cầu chiếm khoảng 0,7%, và huyết tương chiếm khoảng 54,3%. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể – như khí carbonic và acid lactic. Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào (cả tế bào bảo vệ cơ thể và tế bào bệnh lý) và các chất khác nhau (các amino acid, lipid, hormone) trong các cơ phận quan trọng. Các rối loạn về thành phần cấu tạo máu hoặc sự tuần hoàn bình thường của máu đều có thể dẫn đến rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác. Máu chiếm 7% trọng lượng cơ thể. Người trưởng thành trung bình có khoảng 5 lít máu. Tỷ trọng máu ở vào khoảng 1060 kg/m3.
Rõ ràng máu thực sự giữ vai trò rất quan trọng trong sự sống của con người – và động vật. Cái gì liên quan máu đều đáng giá, vì liên quan sự sống còn! Thực vật có loại “máu lạnh” và không có màu đỏ, chúng ta gọi là “nhựa”.
Cuộc sống có nhiều thứ liên quan máu, có thể tốt, có thể xấu, nhưng luôn “nghiêm trọng”. Máu xấu có trong những người xấu xa, chẳng hạn một cô bé vô tội 16 tuổi ở Guatemala bị đám người xấu đánh đập dã man, rồi họ thiêu sống em
(https://www.youtube.com/watch?v=FkrVxd1QQ3E). Và hàng ngày, ở đâu đó trên thế giới này – kể cả Việt Nam, còn biết bao vụ án liên quan “máu xấu” vẫn không ngừng xảy ra. Chính họ đang muốn “triệt tiêu” Thiên Chúa, làm hư Giá Máu của Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu đã nói thẳng với Sao-lê – tức là Sa-un, sau trở thành Phaolô: “Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi!” (Cv 26:14). Người có “máu xấu” cố ý làm ngơ chứ chắc chắn không phải không biết. Còn máu, còn sống; mất máu, đông máu hoặc “khô máu”, chết chắc! Đó là quy luật tự nhiên – tức là Luật Chúa. Sao-lê đã tỉnh ngộ vì cú ngã ngựa chí mạng, và rồi nhìn vào thực tế của cuộc đời nhiễu nhương này, ông đã phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Người ta đã và đang muốn loại bỏ Thiên Chúa, bằng chứng là xưa nay luôn xuất hiện các tà thuyết. Nhiều điều nhãn tiền mà người ta vẫn không hề biết sợ, vì quá cố chấp. Thật khủng khiếp!
Ngày xưa, ông Mô-sê xuống núi thuật lại cho dân mọi lời và mọi điều luật của Đức Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24:3). Rất ngoan ngoãn. Một lời hứa rất đẹp. Ước gì họ luôn ngoan ngoãn như vậy, và chúng ta cũng luôn ngoan ngoãn như thế. Nhưng nào có được như vậy!
Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8).
Giao ước cũ cũng có “dính líu” tới máu. Máu biểu hiện sự sống. Vì thế, máu rất quan trọng, vì sự sống là thứ bất khả xâm phạm. Màu máu cũng có gì đó rất khác lạ, sắc đỏ khác với mọi màu đỏ khác. Với những con người bình thường, lời thề cũng thường liên quan máu. Ngày xưa, người ta thường “uống máu ăn thề” – họ cung cắt máu ngón tay, cho chảy chung vào một cái chén rồi chia nhau uống, thề sống chết có nhau. Các Thánh Vịnh cũng lặp đi lặp lại từ “giao ước” ít nhất 18 lần – trong 13 Thánh Vịnh.
Phàm nhân chẳng là gì, nhưng Thiên Chúa đa tha tội chết, cho quyền sống, và còn ký kết giao ước vĩnh viễn. Cảm được lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã tự nhủ: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:12-13).
Thiên Chúa là Chúa của người sống, Ngài yêu thương họ tới cùng và Ngài muốn mọi người được sống dồi dào. Tác giả Thánh Vịnh tự hứa với Thiên Chúa: “Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:15-16). Và quyết tâm hanh động: “Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người” (Tv 116:17-18).
Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu cac con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Như đã nói, cái gì liên quan máu đều là vấn đề nghiêm trọng. Máu động vật đã vay, máu người còn nghiêm trọng hơn. Và còn hơn thế nữa, Máu Chúa Giêsu vô cùng quý giá, tột đỉnh quý giá, không gì có thể so sánh, vì không chỉ là Máu Thánh mà còn là Máu Cực Thánh.
Thánh Phaolô so sánh và giải thích: “Nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thanh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9:13-14). Máu động vật và máu người có thể làm chúng ta bị dơ bẩn, nhưng Máu Thánh Chúa Giêsu lại khác, không làm chúng ta dơ bẩn mà còn tẩy sạch chúng ta khỏi mọi thứ ô uế.
Thật kỳ diệu với mối liên kết giưa Cựu Ước và Tân Ước, giữa sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Thánh Phaolô cho biết: “Người [Chúa Giêsu] là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9:15).
Ca tiếp liên “Lauda Sion” (Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen) có những lời cầu nguyện thâm thúy này: “Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thật là bánh của những người con, không nên ném cho loài khuyển. Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế I-xa-ác, chiên của lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng man-na. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thật, xin Người thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh. Chúa là Đấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận với những công dân thánh của nước trời. Amen”.
Ngày xưa, ca tiếp liên này được sử dụng trong Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti), không hiểu sao ngày nay không được sử dụng nữa. Thật đáng tiếc!
Thánh Mát-thêu cho biết: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Đức Giêsu để biết ý Thầy muốn họ dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi và dặn họ đi vào thành, gặp một người mang vò nước thì đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ hỏi chủ nhà về căn phòng dành cho Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, người ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ sẽ dọn tiệc ở đó. Hai môn đệ ra, vào thành và thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Thật kỳ lạ, chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ biết trước như vậy, vì Ngài thấu suốt mọi sự!
Khi đang ăn cùng các môn đệ, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:24-25). Nghe Thầy nói và nhìn phong cách Thầy lúc đó, chắc hẳn họ vô cùng ngạc nhiên – dù Kinh Thánh không ghi lại chi tiết. Không lạ sao được, vì bánh mà bảo là “thịt”, rượu mà bảo la “máu”. Vâng, trí tuệ phàm nhân không thể hiểu thấu: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Đây Nhiệm Tích).
Trong Thông điệp “Ecclesia de Eucharistia” (Giáo Hội Sống Nhờ Thánh Thể, số 62), Thánh Gioan-Phaolô II đã gọi Thánh Tiến Sĩ Tôma Aquinô là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” (summus theologus simulque Christi Eucharistici fervidus cantor). Trong bộ “Tổng Luận Thần Hoc” (Summa Theologica, III, Q. 76, Art. 8), Thánh Tôma Aquinô cho biết:
• Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích nay khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.
• Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, co vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.
• Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống dồi dào (Ga 10:10), muốn vậy thì chúng ta phải lãnh nhận Thánh Thể. Thánh Eymard, đấng sáng lập Dòng Thánh Thể (SSS – Societas Sanctissimi Sacramenti), đã nói: “Chúng ta chỉ chuốc lấy thất bại nếu chúng ta xa rời Thánh Thể”. Một câu nhắc nhở vô cùng quan trọng, chúng ta cần ghi nhớ luôn.
Lạy Thiên Chúa, xin sắp đặt cuộc đời của chúng con theo đúng ý Ngài và xin ở với chúng con luôn để chúng con được sự sống viên mãn của Con Một Ngài. Xin giúp chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, rồi tạ ơn, bẻ ra, và trao tặng tha nhân với cả tấm lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
65. Của ăn bổ dưỡng chia sẻ
(Suy niệm của Lm. Phanxicô M. Hưng Long, CRM)
Một du khách đi qua miền Tây Hoa Kỳ, dừng lại ở trạm Du Lịch (Tourist Information) và hỏi một nhân viên làm việc như sau: "Tôi muốn biết thêm về vùng này, ông có thể cho tôi biết, đây có phải là chỗ lành mạnh (healthy place) không? Với một vẻ hãnh diện, nhân viên làm việc trả lời: "Chắc chắn là lành mạnh rồi! Bởi vì khi bắt đầu đến đây thì tôi không biết nói. Không có sức để đi. Người ta phải bồng tôi đi từ chỗ này qua chỗ khác. Người ta phải nuôi tôi, cho tôi ăn. Đầu tôi dường như không có một cọng tóc. Nhưng bây giờ ông hãy nhìn tôi xem. Tôi có một mái tóc rậm rạp. Tôi chạy bộ mỗi ngày năm miles. Tôi tự mình chăm sóc cho mình, và ăn nói thì không thành vấn đề." Du khách tỏ ra rất cảm phục nói: Hay! thật là lạ lùng, nhưng xin ông cho tôi biết, ông đã sống ở đây bao lâu. Với đôi mắt sáng lên, nhân viên trả lời: "Cả cuộc đời của tôi. Tôi sinh ra ở đây".
Thật ra, vấn đề sức khỏe không chỉ là một mối quan tâm lớn của người du khách trong câu chuyện mà là của nhiều dân Hoa Kỳ hiện nay, từ Đông qua Tây, từ Bắc xuống Nam, các thống kê cho thấy phần đông dân chúng đã để ý tới sức khỏe và đang thu hoạch được nhiều kết quả tốt đẹp. Hơn 16 thế kỷ về trước, Thánh Augustinô đã viết: "You are what you eat. Bạn là cái bạn ăn". Vì vậy câu châm ngôn này đang được người ta chú trọng hơn bao giờ hết. Trong các tờ báo lớn, phần nói về đồ ăn "Food Section" cũng mở rộng thêm. Các kệ sách cũng thêm đất cho các loại sách viết về diet kiêng ăn uống. Và một vài cuốn cũng được xếp vào hạng Best Seller bán chạy nhất. Điều đó cho thấy rõ rằng càng ngày người ta càng để ý nhiều đến thức ăn bổ dưỡng. Và nhiều ngươi đang được hưởng hiệu quả tốt do một thân thể được bồi bổ đem lại. Cộng Đồng Khoa Học (The Scientifi c Community) cũng đồng lòng nhắc bảo là con đường dẫn tới sức khỏe lành mạnh hơn đó là tập thể dục và ăn uống (exercise and diet) và rất nhiều người đang để ý tới. Ai cũng muốn trau dồi một thân thể đẹp khỏe mạnh, để có một cuộc sống có chất lượng.
Con người ngày nay đang muốn nâng cao cuộc sống thể lý, nhưng có muốn nâng cao cuộc sống tinh thần không? Con người ngày nay muốn sống lâu hơn, nhưng có muốn sống khá hơn không? Chắc hẳn là có vì ai cũng muốn một hồn lành trong xác mạnh.
Để bổ dưỡng phần hồn, Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly đã muốn chúng ta được nuôi dưỡng, được bổ sức bằng một của ăn không gì có thể sánh bằng đó là Mình và Máu Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố là Ngài hiện diện cách sống động trong bánh và rượu mà Ngài chia sẻ với các môn đệ.
Theo phong tục Đong Phương, sự hiếu khách được người ta coi rất trọng. Người ta ăn và uống từ một bát lớn. Ăn chung một bát uống chung một chén bày tỏ sự gắn bó với nhau. Bẻ bánh và chia sẻ với nhau bày tỏ tình bạn hữu và sự dấn than cho nhau. Vì vậy trong bữa Tiệc Ly khi Chúa Giêsu bẻ bánh với các bạn hữu của Ngài, các Ngài cảm thấy vinh dự được chia sẻ cuộc sống của Ngài cách đặc biệt, và Ngài cũng chia sẻ cuộc sống của họ. Vì vậy qua sự chia se bánh và rượu sự gắn bó và thân thiết với nhau được nuôi dưỡng triển nở.
Trong xã hội ngày nay người ta thường ăn uống vội vã và các phần tử trong gia đình không còn nhiều cơ hội để ăn cùng giờ, cùng chỗ, cùng mâm nữa. Vì vậy sự thân tình cũng bị mất hoặc giảm đi phần nào.
Chớ gì chúng ta hãy cố gắng tạo cơ hội trong gia đình ăn uống chung với nhau hằng ngày. Chúng ta hãy biết quí trọng những bữa ăn đó như là thời gian thánh như là biến cố thánh. Đó là lúc chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Chúa. Đó là cơ hội để chúng ta để ý đến nhau, gắn bó với nhau, chia sẻ với nhau những câu chuyện vui, những kỷ niệm đẹp, những sinh hoạt trong cuộc sống, cố gắng tránh cãi nhau, to tiếng lên tông với nhau để nhờ đó không những thân xác chúng ta được dưỡng nuôi mà sự liên kết trong tình thân thiện với nhau được gia tăng thêm.
Khi chúng ta được mời đi ăn thì người ta không chỉ cho chúng ta của ăn, mà muốn chia sẻ với chúng ta sự tiếp đón thân tình nữa. Chính những câu chuyện chia sẻ cũng như những của ăn, nuôi dưỡng không những thể xác mà cả tinh thần và trái tim của chúng ta nữa.
Cũng vậy khi chúng ta được mời gọi tham dự vào bữa tiệc Thánh, Chúa muốn làm cho chúng ta trở thành người đồng hành và bạn thân của Chúa. Đồng hành tiếng Anh là companion bắt nguồn từ hai chữ Latinh: cum có nghĩa là với và panis là bánh. Vì vậy companion là người mà chúng ta chia sẻ bánh với. Do đó khi chia sẻ đồ ăn và thức uống chúng ta cũng phải trở nên người đồng hành và bạn thân của nhau.
Tiệc Thánh Thể là một tặng ân vô giá của Thiên Chúa. Chớ gì khi chia sẻ tặng ân quí giá nhất này với nhau, xin Mình và Máu Chúa Kitô liên kết chúng ta mật thiết hơn trong một Thân Thể là Chúa Kitô và xin của ăn Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống gia đình của chúng ta và giúp chúng ta có khả năng phục vụ nhau trong yêu thương.
66. Hãy nhận lấy mà sống
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Theo một thống kê gần đây của viện Gallup thì đã có nhiều người Công giáo vẫn còn hoặc hoài nghi hoặc lẫn lộn về Chúa thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu sau lúc truyền phép và ngay cả khi lên rước lễ.
Sự hoài nghi cũng chẳng là điều gì phải ngạc nhiên nhiều cho lắm. Thực thế, cách đây hơn 900 năm, một linh mục trẻ tên là Berengarius đã phủ nhận bánh ruợu đã trở thành Mình Máu Thánh Chúa sau khi truyền phép nói rằng sự thay đổi chỉ xảy ra trong tâm trí của con người mà thôi.
Nếu có những người cố tình phủ nhận thì cũng có rất nhiều người cổ động việc sùng kính mầu nhiệm rất cao cả này. Thánh Anthony thành Pađua mà Giáo Hội kính nhớ vào ngày 13/6 mỗi năm là một trong những vị thánh có lòng tin mãnh liệt vào Thánh Thể Chúa.
Chuyện kể rằng có một ông phú hộ kia thách thức bằng cách để một con lừa bị bỏ đói lâu ngày trước một bó rơm và xin Thánh nhân để Thánh Thể Chúa cạnh bên. Con lừa vội chạy ngay lại bó rơm ngửi ngửi rồi kinh ngạc làm sao, sụp bốn chân đầu cúi xuống trước hào quang Thánh Thể Chúa. Chuyện nghe có vẻ buồn cười và khó tin, nhưng như thánh Louis de Monfort nói "khi nghe chuyện về các thánh, hãy tin" vì không có gì là không thể với Thiên Chúa.
Lòng tôn sùng Thánh Thể Chúa đuợc thể hiện một cách cụ thể sống động qua không ai khác hơn là Mẹ Maria. Năm 1800, Mẹ đã hiện ra cùng Thánh Peter Julian Eymard -vị Thánh với biệt danh là Tông Đồ Thánh Thể vì lòng đặc biệt yêu kính Thánh Thể và truyền cho Thánh nhân thành lập một hội dòng chỉ để tôn sùng Thánh Thể Chúa. Đến tháng 5 năm 1856, đuợc sự hổ trợ của Đưc Cố Giáo Hoàng Piô thứ 9, Thánh nhân đã thành lập Dòng Thánh Thể để cổ động việc tồn sùng Thánh Thể Chúa trên toàn thế giới.
Nếu những người phàm trần như Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Thánh Thể và Thánh Peter Julian Eyward là Tông Đồ Thánh Thể thì mỗi chúng ta cũng đuợc kêu mời trở thành chứng nhân Thánh Thể Chúa.
Khi Mẹ thốt lên hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ đã trở thành nhà tạm đầu tiên của Thiên Chúa. Cũng thế, mỗi khi "ăn bánh và uống chén này", chúng ta phải trở thành nhà tạm Thánh Thể Chúa, nghĩa là chúng ta phải cùng chết với Đức Kitô để có thể đuợc sống lại vinh hiển với Người. Chữ 'Amen' phải thưa khi rước lễ có ý nghĩa là chúng ta tin tấm bánh kia chính là Mình Thánh và giọt rượu kia chính là Máu Thánh Chúa. Vì thế, ngoài việc bày tỏ thái độ tuyệt đối tôn kính nghiêm trang khi lên ruớc lễ, chúng ta phải luôn tự nhắc nhở rằng khi Thiên Chúa đã trở thành hy lễ thì mỗi chúng ta cũng phải trở nên của lễ hiến tế cho Người. Và cho tha nhân.
Nói một cách khác, trong Cựu Ước chiên bò là của lễ hy tế nhưng trong Tân Ước chính chúng ta là hy lễ tiến dâng. Thánh Lễ không phải chỉ là Nghi Thức tưởng nhớ Con Chúa chịu chết trên đồi Núi Sọ hơn hai ngàn năm trước mà chính là dâng hiến hồn xác chúng ta, như lời một bài ca "Hồn con đây với xác con đây, đền vì bao tội lỗi xưa nay."
67. Sống thân tình với Chúa - Như Hạ, OP
Thật là khó khi muốn tìm được một người bạn đích thực trong cuộc sống hôm nay. Thế nhưng trong mầu nhiệm Thánh Thể, Đức Giêsu sẽ mạc khải tình bạn lớn lao nhất và thâm sâu nhất nơi Mình và Máu Thánh Chúa.
TÌNH CHO KHÔNG BIẾU KHÔNG
Quả thực, Đức Giêsu đã muốn tái nhập thể nơi Thánh Thể để trở thành người bạn thân thiết với mỗi người tín hữu. Tình bạn này thâm sâu đến nỗi khiến Đức Giêsu muốn trở nên một với họ. Người muốn trở thành đôi bạn chân tình trong cuộc đời dương thế. Người còn muốn phóng cái nhìn người bạn về một tương lai xa đến tận cung lòng Thiên Chúa. Nói khác, Người muốn trở thành nhịp cầu nối đất với trời. Chính vì thế, Người quả quyết: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời." (Ga 6:51) Một lần hạ xuống để nâng toàn thể nhân loại từ lãnh địa tử thần lên nơi hằng sống, từ nơi tối tăm lên nơi đầy ánh sáng thường hằng. Cuộc hành trình từ trời xuống rồi từ hạ giới tới cõi sống muôn đời, Đức Giêsu luôn đã vẽ ra một con đường thần tiên vô cùng hap dẫn.
Xuống trần gian, Người không đi lang thang vô định. Cuộc hành trình của Người có dừng lại một nơi. Nơi đó chính là tâm hồn người tín hữu đã đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Quả thực, "ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." (Ga 6:56) Đúng là "mình với ta tuy hai mà một"! Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu xa chân lý đó khi nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi." Từ nay mọi việc đều do Đức Kitô thực hiện trong nhiệm thể. Nhiệm thể chẳng tự mình làm gì, vì chính Đức Kitô luôn hành động trong nhiệm thể là Giáo hội. Nói khác, nhờ sự sống là Mình và Máu Thánh Chúa, Giáo hoi làm cho Đức Kitô luôn nhập thể và nhập thế.
Chính Thánh Linh đã thực hiện cuộc trao đổi lạ lùng đó. Nếu không có sức mạnh Thánh Linh, Đức Giêsu đã không thể nhập thể và sống lại được. Cũng chính Thánh Linh đã dẫn Người vào sa mạc để chiến thắng ác thần. Thánh Linh là nguồn hứng cho Tin Mừng giải thoát. Thánh Linh đã khiến moị người đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chính kẻ thù cũng phải thốt lên: "Chưa thấy ai nói năng giong như ông ấy."
Khi mặc lấy xác phàm dễ chết, Đức Giêsu đã không nhuốm mùi tử khí. Trái lại, Người đã dùng "gậy ông đập lưng ông," dùng chính xác phàm mỏng dòn để đem lại cảnh trường sinh bất lão cho toàn thể nhân loai. Ngày xưa, nhân loại đã mỏi mắt tìm thần dược để cứu con người khỏi cảnh hư nát. Nhưng con người đã thất bại hoàn toàn. Đức Giêsu đã xác quyết thần dược đó "chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống." (Ga 6:51) Tại sao thịt lại có thể làm cho thịt sống muôn đời? Không thể tưởng tượng nổi! Chính người Do thái cũng thắc mắc: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" (Ga 6:52) Nhìn bằng con mắt phàm làm sao thấy Chúa Cha như nguyên nhân sinh ra sự sống nơi Chúa Con, và Chúa Thánh Linh động lực thúc đẩy mọi hành động nơi Chúa Con? Phải có bao nhiêu ân sủng lớn lao mới có thể tin theo lời Đức Giêsu quả quyết: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." (Ga 6:57) Như thế rõ ràng nguyên nhân sau cùng sinh ra sự sống không phải là huyết nhục, nhưng từ nguồn sống là chính Chúa Cha.
Không những là nguyên nhân ban sự sống, Chúa Cha còn chính là nguyên ủy phát xuất sứ mệnh của Chúa Con. Chính nhờ sứ mệnh cứu nhân độ thế, Chúa Con đã nghiễm nhiên trở thành nguồn sống cho nhân loại nhờ cái chết trên thập giá. Ai tin như thế, không những "sẽ được sống muôn đời," (Ga 6:54, 58) mà còn đón nhận cùng một sứ mệnh như Đức Giêsu. Từ Thánh Thể, hằng ngày Đức Giêsu vẫn hiện diện và không ngừng sai chúng ta đi lam chứng cho thế giới biết về một nguồn sống, nguồn bình an và niềm vui lớn lao đang hiện diện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao Giáo hội vững mạnh suốt hai mươi thế kỷ qua.
Không những thế, Giáo hội còn rao giảng Tin Mừng khắp tứ phương thiên hạ vì luôn múc từ nguồn sống vô biên là Thịt Máu Đức Giêsu. Nhiệm thể Người không bao giờ mệt mỏi vì đói khát. Trái lại, Người luôn luôn hiện diện trong Giáo hội như lương thực cung cấp sự sống cho các sứ giả Tin Mừng, vì như Đức Giêsu quả quyết: "Vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." (Ga 6:55) Xác quyết đó đủ bảo đảm cho niềm tin vào sự hiện diện đích thực của Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin đã có ngay từ thời kỳ Giáo hội sơ khai. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: "Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?" (1 Cr 10:16) Nếu Thánh Thể chỉ là tượng trưng cho Đức Giêsu, chắc chắn không thể có việc dự phần sống động và sâu xa như vậy!
GIÁO HỘI: DẤU CHỈ HIỆP NHẤT NHÂN LOẠI
Dự phần vào Mình Máu Thánh Chúa, chắc chắn sẽ cảm nghiệm và ý thức được tất cả hồng ân hiệp nhất với Đức Giêsu. Đó chính là lý do tại sao Giáo hội có thể và phải hiệp nhất. "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17) Như thế Thánh Thể là nguyên lý hiệp nhất Giáo hội. Lý do vì mỗi khi chịu lễ, người tín hữu đón nhận tất cả sức mạnh hiệp nhất la Thánh Linh. Chính Đức Giêsu đổ tràn Thánh Linh để uốn nắn chúng ta trong tình yêu và tạo thành niềm vui vô cùng lớn lao trong cuộc đời chúng ta. Nhờ hiến tế hòa giải, Thánh Linh làm cho chúng ta biết tôn trọng nhau như nhưng phần tử của một thân thể duy nhất. Từ đó, chúng ta mới có thể làm chứng cho thế giới biết Thiên Chúa muốn kết thân với nhân loại. Mặc dầu cùng chia sẻ một thân phận với cộng đồng nhân loại, Giáo hội vẫn không ngừng đón nhận được Thánh Linh như sức mạnh canh tân là từ Bí Tích Thánh Thể. Hiến tế thập giá không ngừng tái diễn trên bàn thờ nhờ sức mạnh Thánh Linh. Từ đó, Giáo hội có thể khám phá ra thánh ý Thiên Chúa trong mỗi thách đố.
Thách đố lớn nhất có lẽ là sự rạn nứt giữa anh em Chính thống và Công giáo. Mới đây bức tường ngăn cách hình như càng dầy và cao hơn. Thế nhưng, theo thần học gia kiêm triết gia Gueorgi Bacalov, giáo sư Đại học Sofia, trong cuộc viếng thăm Bulgaria vừa qua, ĐGH Gioan Phaolô II đã đi xa hơn "lòng mong đợi." (Zenit 30/05/02) Sự hiện diện của Đức Thánh Cha đã khiến cho triết gia suy nghĩ: "Phản ứng lạnh lùng ban đầu cũng thay đổi. Không phải vô tình mà vị tu viện trưởng của Tu viện thánh Gioan ở Rila nói những bức tường ngăn cách giữa Công giáo và Chính thống giáo do con người dựng nên, và con người có thể giật sập những bức tường đó xuống." (Bacalov: Zenit 30/05/02) Khi bức tường sập xuống, chắc chắn ánh sáng sẽ chan hòa khắp vũ trụ. Dung nhan Đức Kitô sẽ chiếu tỏa mãnh liệt hơn nữa.
Dầu vậy, ngay từ bây giờ, dù ở những nơi hẻo lánh nhất, ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa mãnh liệt từ Thánh Thể. Thực vậy, "nhiều nơi trên thế giới Kitô hữ đang là hay đang trở thành một 'đoàn chiên' (Lc 12:32). Họ phải đối diện với thách đố, thường sống trong những hoàn cảnh cô lập và khó khăn, mới làm chứng manh liệt cho những yếu tố căn tính trổi vượt của mình. Bổn phận tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật là một trong những yếu tố này. Thánh Lễ Chúa Nhật qui tụ các Kitô hữu hằng tuần thành một gia đình Thiên Chúa chung quang Lơi và Bánh Hằng Sống, cũng là một liều thuốc rất tự nhiên giúp họ có thể đối đầu với nghịch cảnh trong những lúc bị phân tán như thế." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 30/05/02)
68. Thánh Thể Bảo Chứng Của Tình Yêu
(Suy niệm của Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP - Tổng hợp theo: Jude Sicilianô)
Kính thưa quý vị,
Một vị khách lạ đến thăm một gia đình nhà quê nghèo khổ. Ngôi nhà lụp xụp và chỉ có một em bé ở nhà, cha mẹ đi làm ruộng hết. Vị khách bước vào nhà, hỏi em bé: “Con có muốn đến ở với ta không? Nhà ta rộng rãi lắm, lâu đài, dinh thự, sân to, vườn rộng, em tha hồ chạy nhảy, chơi đùa?”. “Thưa ông, con không muốn. Con ở nhà với cha mẹ thích hơn. Lâu đài dinh thự đâu có to”. “Thế con bảo cái gì to?”. “Thưa, vua ạ”. “Vậy ta là vua đây, ta bí mật đi thăm dân chúng”. Em bé bất ngờ reo lên: “Thì ra nhà con to nhất nước rồi. Vui quá”. Đó là ý nghĩ của ngày lễ hôm nay, Hội thánh kính Mình Máu Chúa Kitô mà tín hữu rước lấy hằng ngày. Vua cả trên hết các vua. Chúa trọng trên hết các Chúa chắc chắn sẽ biến đổi tín hữu to lớn nhất vũ trụ. To hơn cái lều của cha mẹ em bé, có vua ngồi trong.
Ngày 28 tháng 09 năm 1884, bà thánh Marie Eugenie, sáng lập dòng Đức Mẹ lên trời huấn giáo cho các chị em về sự hiện diện của Thiên Chúa. Theo bà có ba cách Chúa hiện diện: thứ nhất bằng quyền năng. Quyền năng Ngài thẩm thấu hết mọi tạo vật giống như nước đại dương thẩm thấu miếng bọt biển tới từng thớ sợi. Ngay cả quỷ sứ và tội nhân cũng không tránh thoát. Thứ hai, bằng ơn thánh và tình yêu qua bí tích rửa tội và các bí tích khác. Thứ ba, bằng Thánh Thể. Thiên Chúa hiện diện trong hình bánh hình rượu chân thật và sống động y như thuở xưa trước dân Do Thái khi Ngài sinh ra, dâng mình, lớn lên, rao giảng, khổ nạn và chết trên thập tự. Bà cho đây là sự hiện diện ngọt ngào và an ủi nhất. Chúng ta không có lý do để ghen tỵ với người Do Thái xưa ở đất Palestine.
Một chị em hỏi: nhưng chúng con có thấy Chúa nói gì đâu? Ngài hoàn toàn im lặng khi chúng con quỳ cầu nguyện trước Thánh Thể. Bà thánh trả lời: thì các mục đồng, các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Nhi ở Bêlem có thấy Chúa mở miệng đâu? Đơn giản vì Ngài chưa biết nói. Bây giờ trong Thánh Thể cũng vậy, Ngài giấu kín nhân tính và thần tính. Nhưng Ngài biết hết, trông thấy hết, cảm nghiệm mọi sự. Chị em không tin ư? Thế thì chị em tin thế nào được các màu nhiệm khác?
Thánh Thomas Aquinas cũng có lòng tin sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể, cho nên đã sáng tác ra những lời kinh rất sot sáng và giầu tưởng tượng như chúng ta vừa trích một hai câu ở trên. Thánh nhân thường chiêm ngắm Thánh Thể với những biết ơn cảm tạ: “Ôi yến tiệc mình và máu thánh Chúa Kitô … Ôi Giêsu, Ngài thương yêu con dường ấy …”. Bí tích Thánh Thể là trường siêu đẳng đào tạo các thánh, các anh hùng, các vĩ nhân, các nhà rao giảng thời danh.
Để ngắm bắt ý nghĩa của ngày lễ, chúng ta hãy rảo qua các bài đọc. Bài đọc một trích sách Đệ Nhị Luật: “Khi ấy, ông Môisê nói với dân Israel rằng: anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt 40 năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực. Như vậy Ngài thử thách lòng dạ anh em … Rồi đã cho anh em ăn manna … Ngõ hầu cho anh em biết rằng người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”. Đáng ngạc nhiên là tác giả Đệ Nhị Luật gợi nhớ các kinh nghiệm đáng lý phải ghê sợ và cố quên đi. Vì 40 năm trong sa mạc là 40 năm đói khát, kiệt sức, thất vọng, bại trận, rắn rết, tiêu hao chết chóc đến độ nhiều lần dân chúng nổi loạn kêu ca Thượng Đế và chống lại ông Môisê. Dân Do Thái ngỡ ngàng tại sao Chúa hứa giải phóng, tự do lại phải đi con đường nhọc nhằn này? Nhiều người muốn trở lại Ai Cập, an phận làm nô lệ còn hơn.
Nhưng tác giả Đệ Nhị Luật chỉ coi đó là “thử thách”. Xem họ có vang lời Thiên Chúa không? Đây cũng là bài học lớn cho tín hữu ngày nay. Con đường đi tới tự do của ơn thánh không phải là dễ. Muốn từ bỏ Satan, thế gian, tội lỗi nhất định phải trả giá. Giải phóng mình khỏi ích kỷ, tham lam, dâm dục, phù phiếm không phải là một lúc một ngày và dễ dàng như ăn một chiếc bánh ngọt. Nó đòi hỏi cố gắng và kiên trì, hy sinh và khước từ càm dỗ. Hô hào khơi khơi thì dễ lắm, nhưng thực hành quả là cam go. Nhieu linh hồn đã thất bại.
Một hình thức thử thách sa mạc khác có lẽ phổ thông hơn mà đa phần chúng ta phải trải qua. Đó là những khó khăn, thất bại hàng ngày: con cái hư hỏng, gia đình bất hoà, đau yếu liên miên, nợ nần, thất nghiệp, rượu chè, nghiện ngập. Giáo hội gặp nhiều khó khăn khi phải lội ngược dòng với cái ác của xã hội tân thời: ngừa thai, phá thai, tế bào gốc, chết êm dịu. Toàn là rắn rết, bọ cạp, đất cháy, cỏ khô.
Nhưng xin nhớ Đệ Nhị Luật không chỉ liệt kê những hãi hùng, mà còn nhấn mạnh sự hiện diện của Thiên Chúa, qua manna, nước mát từ tảng đá chảy ra. Đức Chúa luôn ở bên dân Do Thái, giúp đỡ tuyển dân vượt qua khó khăn để trơ về đất hứa, tới bến tự do chảy sữa và mật ong. Họ không được phép thất vọng và cũng không được phép tham lam.
Ngày nào thu lượm manna đủ cho ngày ấy. Ngày nào họ cũng phải cậy dựa vào Thiên Chúa để có lương thực. Đây là bài học quý giá cho tín hữu, nhất là các tu sĩ, linh mục, trong tình hình hiện nay. Hình như người ta muốn tước quyền Thiên Chúa, chẳng cậy dựa vào ai. Kinh tế thị trường toàn cầu, sản xuất, tiêu dùng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên địa cầu. Nhưng chúng ta không được phép thất vọng dù tội lỗi đến đâu. Thiên Chúa vẫn luôn sẵn sàng cứu giúp. Người có lý do để thất vọng nhiều nhất, là Đức Giêsu Kitô, trước thế lực to lớn của thờ, một mình cô thân cô thế với nhóm hèn nhát, vô học, đương đầu với cái chết cầm chắc do xã hội và tôn giáo lúc ấy áp đặt, nhưng chẳng ai đầy lòng trông phó thác bằng Chúa Giêsu. Noi gương ấy, các thánh tử đạo sau này can trường không kém.
Vậy thì không ai được phép thất vọng. Chúng ta còn phải sống bằng lời Thiên Chúa nữa. Lời Thiên Chúa không có từ “tuyệt vọng” vì Ngài cứu giúp và ước ao mọi người được sống hạnh phúc. Câu mở đầu bài Tin Mừng hôm nay viết: “Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Câu Phúc Aâm này ở trung tâm bài diễn từ về Bánh Hằng Sống. Trước đó Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn (6, 1-14). Ngài nhân nhiều bánh để chứng tỏ sự thật hiển nhiên. Vào thời Chúa Giêsu, văn hoá coi “thịt máu” là toàn bộ ngôi vị một người. Vậy thì ăn bánh bơi trời chính là “thịt tôi đây cho thế gian được sống” nghĩa là lãnh nhận lấy toàn bộ ngôi vị của Ngài. Những “tri thức ” khiếm khuyết đức tin nói câu văn chỉ có nghĩa bóng mà thôi. Truyền thống phổ thông cũng tin như vậy. Hậu quả là không được tiến bộ về đàng thiêng liêng, họ rước lễ, vào trước Mình Thánh, coi như vào nơi không người, vô tình và nguội lạnh.
Không phải như vậy. Chúa nói tiếp: “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Manna biểu tượng bánh Chúa Giêsu ban. Hình bóng manna mà còn thực đến độ nuôi sống con người, thì bánh Chúa Giêsu ban là thịt máu Ngài lại chỉ là “hình bóng” thì quả thật là vô lý. Làm thế nào “hình bóng” có khả năng ban cho người ta tham dự vào sự sống muôn đời. Liệu “hình bóng” có thể dẫn đưa người ta vào sự sống Thiên Chúa và Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn?
Nhưng nhiều người không hieu, bỏ đi nói: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe nổi”. Nhiều môn đệ cũng bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo lưu lời nói của Ngài, và thay vì nói với đám đông: quý vị hiểu sai ý nghĩa của tôi, Ngài quay ra hỏi các tông đồ: “Chúng con có muốn bỏ đi không?”. Chắc chắn các tông đồ cũng ngỡ ngàng, nhưng Phêrô đứng ra nói thay cho các bạn: “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai, thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Chúng ta biết rằng sau này trong bữa tiệc ly, các môn đệ không còn bỡ ngỡ, mà tin thật vào lời Chúa khi Ngài phán: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, này là thịt máu thầy. Từ đấy Hội Thánh nối tiếp đức tin của các tông đồ. Thánh Phaolô, trong bài đọc hai viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?”. Dĩ nhiên là thánh nhân tin thật Chúa Giêsu ngự trong bánh rượu sau khi truyền phép mà nơi khác chính thánh nhân dạy lời lẽ: Này là Mình Thầy, ngày là Máu Thầy. Cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn sử dụng công thức đó. Nhiều trăm năm sau, thanh Gioan Kim Khẩu viết: “Khi bạn ngắm nhìn hào quang đặt trên bàn thờ, bạn có thể nói: Nhờ Thân Thể này, tôi không còn là bụi tro nữa, bởi tôi không còn là tù nhân nữa, nhưng là người tự do… Thân Thể này được ban cho chúng ta để lưu giữ và ăn uống, làm dấu chứng tình yêu tha thiết của Ngài”. Chứng cứ rõ ràng nhưng vẫn không tránh khỏi vật lộn với lòng trí không tin. Rất sớm, các Giáo Hội đông phương đã dùng từ “thay đổi hữu thể” (metaousias) để diễn tả mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa. Thế kỷ 13, công đồng Tridentinô ấn định từ “biến đổi bản thể” (transubtanto) tức thay đổi từ bản thể bánh rượu sang bản thể Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI xác định lại ý nghĩa khi nói rằng: “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong hình bánh rượu ở ý nghĩa trọn vẹn nhất của từ ngữ đó”.
Vậy đức tin vào bí tích Thánh Thể của Giáo hội y nguyên từ thời tông đồ đến nay. Và chúng ta không nên hiểu theo nghĩa biểu tượng mà thôi. Đó là một sự hiện diện đích thực cả về nghĩa tinh thần lẫn vật chất: “Ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ không còn đói khát nữa, nhưng sẽ được sống muôn đời”. Thế giới có nhiều hình thức đói khát lắm. Đói tình yêu, đói hoà bình, đói công lý, đói đoàn kết, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời. Và chẳng thứ bánh nước nào thoả mãn trọn vẹn con người cả. Duy chỉ có bánh từ trời mới đủ khả năng ấy. Bánh có thể nuoi sống tâm trí, trái tim, ước muốn thiên hạ đến độ sung mãn. Trong một số Giáo hội đông phương tiên khởi có truyền thống mời lên bàn tiệc thánh. Sau khi nghe lời Chúa, tín hữu được mời gọi lên bàn thờ để “lãnh nhận Đưc Giêsu Kitô vào đời sống mình”. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được kêu mời như vậy. Đức Kitô ngự trong mỗi linh hồn không những như vị khách sang trọng, giầu có, nhưng còn như nhà đào tạo chúng ta nên to lớn nhat vũ trụ, tức nên giống Ngài, như em bé bất ngờ kêu lên: Nhà con to nhất nước.
Chúa Nhật tới, chúng ta mừng lễ trái tim Chúa Giêsu. Hai lễ này nối kết với nhau một cách tự nhiên để ban cho Hội Thánh niềm vui và hạnh phúc sau mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu trao ban thân mình trọn vẹn trong bí tích Thánh Thể, thì lẽ đương nhiên Ngài cũng ban trọn vẹn trái tim Ngài nữa. Vậy lễ mừng hôm nay là bảo chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngài chẳng giữ chi cho mình, kể cả cuộc sống vĩnh cửu trong Nước của Cha Ngài. Ôi màu nhiệm lạ lùng của Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Amen.
69. Lời mời gọi chân tình
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Ăn uống hay là hiệp thông
Có những sự việc diễn ra quá bình thường đến nỗi người ta chẳng còn để ý đến. Chẳng hạn như: ngủ nghỉ, đi lại, nói năng, thở hít... Chỉ khi nào bị tước mất hay không có, người ta mới ý thức được giá trị vô giá của chúng. Khi bị mất ngủ, người ta hiểu được tầm quan trọng của giấc ngủ. Về việc ăn uống cũng thế.
Theo Kinh Thánh, con người ở thời đầu đã dùng sữa của đoàn vật để nuôi thân, như cách thức ông A-ben đã làm. Thế nhưng, sau lụt đại hồng thuỷ, họ bắt đầu giết các con vật để ăn. Điều này được Thiên Chúa cho phép với điều kiện phải làm cho máu chảy hết ra khỏi thịt trước khi ăn. Bởi vì máu chính là sự sống và không ai có quyen trên sự sống. Máu hay sự sống thuộc về Thiên Chúa. Chỉ Người mới có quyền.
Từ ý nghĩa này, con người có bỗn phận phải tôn trọng thụ tạo trong khi ăn uống. Tại một số bộ lạc ở Châu Phi, người thợ săn xin con thú mình sắp giết để nuôi thân tha lỗi cho. Trong một cuốn sách, nhà văn Soljénitsgne đã diễn tả cách tuyệt vời về thái độ này khi nhớ lại bữa ăn duy nhất trong ngày của các tù nhân: "Anh còn nhớ thứ cháo lúa mạch lỏng bỏng, hay thứ xúp chẳng một chút chất béo đó không? Anh có thể gọi đó là ăn không? Hoàn toàn không, anh đang hiệp thông, anh dùng món cháo đó như một thứ bí tích... Anh nhấm nháp chầm chậm đến tận cuối cái thìa gỗ; anh nuốt món cháo đó, nuốt trọn và nghĩ đến hành động ăn... Và hương vị của nó lan ra khắp cơ thể".
Làm sao con người ngày nay có thể hiệp thông theo cách thức như thế. Từ sau khi ra khỏi Vườn Địa Đàng, con người không còn những của ăn đích thực, họ luôn cảm thấy đói khát, và nếu có cảm thấy no nê, cũng chỉ là giả tạo. Toàn bộ cuộc sống và con người của họ đều khao khát lại được dưỡng nuôi nhờ những của ăn đích thực. Do đó Đức Giêsu nhấn mạnh: Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.
Ngoài ra, Đức Giêsu cũng dạy con người hãy cầu xin Chúa Cha ban cho bánh ăn mỗi ngày, trong khi chờ tới ngày Thiên Chúa sẽ tái tạo con người như vẻ đẹp nguyên thuỷ: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Như vậy, Đức Giêsu cũng cho thấy rằng, các tạo vật, thay vì giết hại lẫn nhau để tự nuôi thân, phải được nuôi dưỡng do chính vị sáng tạo nên mình.
Điều này chẳng có gì lạ. Để có thể nuôi mình nhờ hoa màu ruộng đất, trước hết đứa trẻ cần được nuôi dưỡng 9 tháng nhờ thân thể và máu của người mẹ. Cũng vậy, đối với nhân loại, để vươn tới những lương thực do Thiên Chúa dọn sẵn cho họ từ khởi đầu, trước hết, họ phải chấp nhận được nuôi nhờ thịt và máu Thiên Chúa của mình. Thánh Thể -được chiêm ngưỡng và lãnh nhận- chính là cuống nhau tái tạo nhân loại, làm cho con người cũ thành con người mới. Nhờ Thánh The, con người được trả lại đời sống vĩnh cửu.
Tấm bánh hay là một con người
Đức Giêsu vừa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều tại một nơi khô cằn, tức là tại nơi sự chết đang rình rập. Đức Giêsu đã khơi dậy sự sống, và như vậy Người đã nhắc lại hoạt động xưa kia của Thiên Chúa đã làm cho dân Do-thái thoát khỏi cái đói trong sa mạc. Quả là một sự kiện lạ lùng. Vậy mà những người chứng kiến lại dựa trên phép lạ này để hành động theo cách của mình. Họ định tôn Người làm vua, nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Người đưa ra cho họ một cách hiểu mới về sự việc vừa xảy ra. Người tuyên bố: Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống.
Thực là một mặc khải mới mẻ, lạ lùng. Lương thực để nuôi sống nhân loại, làm cho nhân loại được sống thực sự và sống vĩnh viễn không còn là những thứ bánh thông thường, nhưng chính là thân thể, là máu của một ngôi vị sống động. Tất cả những thứ banh của trần gian, kể cả man-na thời sa mạc, chẳng có giá trị gì so với bánh do Đức Giêsu ban. Con người đó chính là con người Đức Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể -Ngôi Lời đã làm người-, một con người thực sự với những đieu kiện của thân phận làm người.
Tuy vậy, con người này không phải là một hữu thể như bất cứ ai khác, trái lại, đó là Con Người với tất cả ý nghĩa cao cả của nó. Đây là Con Người luôn hiệp thông với trời cao, là Con Người đã đi xuống, sẽ đi xuống tận cùng để được nâng lên (3,14). Đây là Con Người từ trời xuống.
Và hơn thế nữa, Con Người từ trời xuống còn có mục đích rõ ràng và cụ thể là hiến mạng sống mình, nói cách khác là sẽ chịu chết. Điều này có nghĩa là chỉ trong Đức Kitô chịu hiến tế, nhân loại mới có thể hiểu được toàn bộ ý nghĩa vinh quang của Tấm Bánh. Tấm Bánh đó chính là Đức Giêsu, Đấng trở thành lương thực nuôi dưỡng tâm hồn con ngươi và dẫn đưa họ về sự sống vĩnh cửu.
Do đó, ăn thịt và uống máu không phải là hành vi thể lý, nhưng là thái độ chấp nhận cách vô điều kiện về con người đã tự nộp mình, đã đón nhận cái chết để đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đó là đón nhận trong lòng tin mầu nhiệm sự chết được Đức Giêsu nói đến như một hổng ân, bởi vì Đức Giêsu sẽ tự hiến mình chịu chết và sẽ phục sinh.
Như vậy, việc ăn và uống chính là chấp nhận mối tương quan nối kết với Chúa Cha qua Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu là trung tâm của mối tương giao này. Chính Người là trung gian, hay nói đúng hơn, chính nơi Người, mối tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại được thể hiện chặt chẽ, và đó là sự sống.
Đức Giêsu có thể công bố điều lạ lùng này vì Người là Con Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận Mình và Máu Người, nhân loại trở thành con Thiên Chúa. Nhờ Người Con duy nhất, nhân loại được ở gần Thiên Chúa, được quy hướng về Thiên Chúa, và được sống, được sống đích thực.
Với diễn từ về Bánh Trường Sinh, Đức Giêsu trình bày rõ ràng về giao ước mà Thiên Chúa đã hứa. Giao ước này sẽ được thực hiện rõ ràng và trọn vẹn trong cái chết của Đức Giêsu.
Sự thách thức hay là lời mời gọi
Nghe những lời nói của Đức Giêsu, người Do-thái coi đó là một sự thách thức. Họ đã không chấp nhận mầu nhiệm nhập thể. Trước mắt họ, Đức Giêsu chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người, chẳng phải là Đấng từ trời xuống. Họ không hiểu về thái độ dâng hiến của Đức Giêsu nên cũng chẳng nhận cái chết của Đức Giêsu sẽ là nguồn mạch đem lại sự sống. Đó là cớ vấp ngã do Thập giá.
Thành ra, những lời tuyên bố đầy thiết tha của Đức Giêsu, thay vì loan báo sự sống, lại trở thành những lời thách thức. Thế nhưng, ngay khi họ muốn tiêu diệt Đức Giêsu, ngay khi họ giết Người, họ lại đụng phải một thực tại không ngờ từ trời xuống: Người này là Con Thiên Chúa!
Đối với chúng ta, lãnh nhận Mình và Máu Đức Giêsu là chấp nhận để cuộc đời mình tan biến trong Đức Giêsu, trong cái chết của Người. Khi lãnh nhan Mình và Máu Đức Giêsu, chúng ta được tan biến trong Người chứ không phải Người tan biến trong chúng ta. Chính chúng ta được đưa vào trong tiến trình sự sống của Đấng đang được ta đón nhận, và nhờ đó, chúng ta đạt tới tầm nhìn về một sự sống mới. Đây không còn là vấn đề giết lấy mà ăn, nhưng là chia sẻ, là trao đỗi. Điều cốt yếu không phải là thực tại thể lý, nhưng là cử chỉ trao tặng, đón nhận, là tiến trình tạ ơn.
Đó là thực tại đích thực, thực tại duy nhất có thể làm cho con người được sống sâu xa. Thực tại này mở ra một lãnh vực mới không còn dấu vết của thời gian, của sự chết. Thực tại ấy là ân huệ Thánh Thần. Và chúng ta hiểu đây là lời mời gọi chân tình.
70. Kỷ vật tình yêu
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúng ta có thể quả quyết: Mỗi thánh lễ đều là lễ “Mình Máu Thánh Chúa”. Nhưng ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa được Giáo Hội ấn định hằng năm vào ngày Chúa Nhật liền sau Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi, phải có lý do. Đúng, đây là cơ hội đặc biệt để chúng ta tìm hiểu và suy niệm cách sâu xa hơn về mầu nhiệm này: một mầu nhiệm đức tin và cũng là mầu nhiệm tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn hai năm. Trong thời gian đó, họ đã sống với nhau thật hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày vào buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và chiều tối khi trở về ngôi nhà thân thương, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một thêm thắm thiết, hạnh phúc. Nhưng rồi hạnh phúc của đôi vợ chồng đã bị đe dọa. Một hôm, người chồng bị trúng mưa trên đường đi làm về. Sau đó anh bị cảm nặng liệt giường và được người vợ chăm sóc chu đáo. Anh được mang đến bệnh viện khám và điều trị. Bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm cuống phổi. Du được tận tình chữa trị và được chăm sóc chu đáo, nhưng bệnh tình ngày một thêm trầm trọng. Cuối cùng bác sĩ xác định anh bị ung thư màng phổi ác tính vào thời kỳ thứ ba. Khi sắp chết, anh gọi vợ lại gần trăn trối. Anh theu thào nói: “Em yêu quý, có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị tâm hồn và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không được tiếp tục sống bên em nữa. Anh cám ơn em đã đem lại cho anh những ngay chung sống hạnh phúc. Trước khi đi xa, để chứng tỏ tình yêu vĩnh cửu của anh, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà hai vợ chồng mình đã trao cho nhau, khi cầm tay kết ước trước bàn thờ Chúa cách đây hơn hai nam. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn chiếc nhẫn này, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu mong cho em được an vui hạnh phúc”.
Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, như hai người đã làm cho nhau trong ngày cưới. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang ở gần nhà. Sau đó, hằng ngày người ta thấy một phụ nữ trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó hoa, đi vào nghĩa trang. Chị đứng trước một ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh và cầu nguyện cho người chồng quá cố. Trên tay chị ta đeo hai chiếc nhẫn cưới: một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố để lại cho chị.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta hình dung một việc làm chứng tỏ tình yêu vô hạn của Thiên Chúa, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể, để lưu lại cho chúng ta một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thực vậy, trước giờ biệt ly, trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ thân yêu, Chúa đã muốn để lại cho con người một kỷ vật, một vật kỷ niệm. Ngài không để lại vàng bạc, vì Ngài biết rằng tiền bạc không nói lên được tình yêu, tiền bạc hay phản lai tình yêu. Ngài không để lại một bức thư từ biệt, vì thư bất tận ngôn, hay một lời nói, vì lời nói như hơi gió, có đó và hay mất đó. Ngài không để lại bất cứ một cái gì, bởi vì đối với Chúa, tất cả mọi thứ ở trần gian này đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương quá nồng nàn của Ngài đối với nhân loại. Ngài muốn để lại một cái mà thường tình người ta yêu thương hơn cả, kỷ vật Ngài muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Ngài, chính mình Ngài.
Nhưng cái bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa phải thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vo cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu: Chúa lấy bánh và rượu để biến đổi thành Mình và Máu Chúa, rồi phân phát cho các tông đồ như của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Đây là một sự việc hàm chứa rất nhiều ý nghĩa yêu thương nhưng cũng mang đầy tính chất đức tin.
Quả thực, đây là mầu nhiệm đức tin. Bởi vì trí khôn chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thât sự trong bí tích Thánh Thể. Rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, đây là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì tôi sống trong người ấy, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này, và mai ngày sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Thánh Thể chúng ta long trọng mừng kính hôm nay.
Chúng ta hãy ghi nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, chúng ta hãy siêng năng rước lễ. Mỗi khi tham dự thánh lễ là chúng ta đi dự tiệc, có ai đi dự tiec mà lại không ăn uống chăng? Thế mà có khá đông người tham dự thánh lễ mà không ăn và uống Mình Máu Chúa. Phải chăng thánh lễ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban? Hay phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên chúng ta thất vọng và không muốn rước lễ nữa? Những mối bận tâm như thế không đủ để chúng ta khước từ nguồn ơn cứu độ là chính Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
Thứ hai, tất cả chúng ta đều tin rằng khi chúng ta rước lễ là chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô. Nhưng sự kết hiệp đó phải đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như thế, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau. Đàng khác, thánh lễ là diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, cho nên bằng chính những hy sinh lớn nhỏ vì yêu thương phục vụ tha nhân, chúng ta làm trọn cử chỉ Thánh Thể thực hiện trong thánh lễ, bởi vì đời ta là một thánh lễ nối dài. Xin Chúa cho chúng ta luôn sống được như thế.
71. Hiện Diện - Hiệp Nhất - Chia Sẻ
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn V.v...Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài: "Này là Mình Thầy", "Này là chén Máu Thầy". Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm đến Ngài.
Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: "Này là Mình Thầy", "Nầy là chén Máu Thầy', tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người.
Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian.
Thánh Thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta vơi Chúa Kitô, thì Thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau: được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cư hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bac ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
72.Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông Và Chia Sẻ
(Suy niệm của Phanxicô Xaviê Trần Đưc Tuân, OP)
Mình Máu Thánh Chúa Kitô, là hồng ân mà chính Chúa Giêsu Kitô ban tặng cho chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương chúng ta cho đến cùng.
Nói đến Hiệp thông Thánh Thể là nói đến sự hiệp thông giữa Thân Mình với các chi thể khác nhau, cũng như sự thông phần và liên kết chặt chẽ trong cùng một Nhiệm Thể duy nhất của Đức Kitô là Giáo Hội. Một tấm bánh được bẻ ra cho nhiều người, để tất cả được thông dự và làm nên một Tấm Bánh. Tấm bánh đó chính là Đức Kitô.
Quả vậy, hiệp thông Thánh Thể đòi hỏi chúng ta trở nên những con người hiệp thông, nghĩa là, biết từ bỏ những cái gì là riêng tư, ích kỷ, tham lam trong đời sống hàng ngày, ngõ hầu xây dựng tình huynh đệ ở mọi nơi chúng con sống, từ trong gia đình, xóm làng cho đến cộng đồng giáo xứ.
Hôm nay cũng là ngày tạ ơn và vui mừng, bởi vì Đức Giêsu Kitô đã muốn ở lại để nuôi dưỡng và ban sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta không bao giờ cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Thánh Thể là của ăn đàng cho cuộc hành trình của chúng con về đích điểm cuộc sống chân thực là Nước Trời. Xưa Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, ngày nay Chúa cũng đồng hành và ban sức mạnh cho mỗi người chúng ta, mỗi khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con hiểu và xác tín về việc Chúa chia sẻ chính thân mình, và khơi nguồn sự sống để xây dựng cho chúng con Mầu nhiệm Hiệp thông, liên kết chúng con nên một như “Chúa và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Thế nhưng chúng con vẫn chưa sống chia sẻ, rộng mở, khoan dung với những người khác, chúng con chưa quan tâm xây dựng tình hiệp thông huynh đệ với nhau. Chúng con chưa mở cửa lòng, sẵn sàng chia sẻ vật chất, tinh thần với những anh chị em túng thiếu đang cùng sống chung với chúng con, dù hằng ngày chúng con vẫn thông dự vào cùng một Tấm Bánh, một Thân Mình. Xin giúp sức cho chúng con biết sống tinh thần hiệp thông trong từng ngày sống của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin thật Chúa đang hiện diện giữa chúng con. Chúng con thờ lạy Chúa. Chúng con yêu mến Chúa. Chúa đang có mặt nơi đây và Chúa đang nhìn mỗi người chúng con. Chúa thấy hết những khiếm khuyết, yếu hèn, Chúa thấu suốt tâm hồn của chúng con. Nhưng như xưa, Chúa đã tha thư tất cả cho Phêrô, dù ông đã ba lần chối Chúa, thì cái nhìn của Chúa lúc này đối với chúng con cũng vẫn là cái nhìn yêu thương, tha thứ và đỡ nâng.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Trong giờ chầu này, chúng con muốn cầu nguyện cho mỗi người chúng con biết sống tình hiệp thông ngày một hơn, từ trong gia đình, giáo xứ… khi chúng con yêu mến Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chúng con muốn thực hiện sự hiệp thông này trong từng bậc sống, ơn gọi, và hoàn cảnh cụ thể của chúng con, để diễn tả lòng Tin Cậy Mến vào Chúa qua tha nhân, và trong lòng Giáo Hội. Đó quả thực là cách thế duy nhất để chúng con tham dự và sống Mầu nhiệm Hiệp Thông mà chính Chúa đã thiết lập qua Bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa, Chúa đã tự hiến trở nên của ăn nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Thánh Thể là nguồn mạch bình an, để chúng con vững bước trên đường về quê trời. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
73. Tình yêu nào cho em
(Suy niệm của Đỗ Lực, OP)
Nhân dịp Italy kỷ niệm 30 năm công nhận quyền phá thai, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã đón tiếp Phong Trào Italy phò sự sống. ĐTC khẳng định: “Thực tế chúng ta phải nhìn nhận ngày nay bảo vệ sự sống con người thật là khó khăn, vì đã dần dần phát sinh một não trạng coi thường sự sống con người va giao phó sự sống đó cho cá nhân toàn quyền định đoạt.” Thế nhưng việc phá thai “không những không giải quyết các vấn đề đang làm cho nhiều phụ nữ và gia đình đau buồn, nhưng còn khơi sâu một vết thương khác trong xã hội chúng ta. Cần phải làm chứng một cách cụ thể rằng việc tôn trọng sự sống là hình thức công bình và phải được áp dụng trước tiên. Đối với những người có đức tin, điều này trở thành một mệnh lệnh không thể trì hoãn […] Chỉ Thiên Chúa mới là Chủ sự sống. Người hiểu biết, yêu thương, đòi hỏi và hướng dẫn từng người […] và mỗi người đều từ trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa mà ra. ”[i]
Giữa lúc xã hội coi thường mạng sống con ngươi, chúng ta lại được chính Chúa Giêsu Thánh Thể mạc khải giá trị cao cả của sự sống. Sư sống cao cả đến nỗi Chúa đã phải hy sinh chính mạng sống và còn để lại Mình Máu Chúa hiện diện sống động giữa chúng ta. Lễ Mình Mau Thánh Chúa là cơ hội lớn nhất cho chúng ta tìm hiểu giá trị sự sống và vai trò Giáo hội trong việc bảo vệ sự sống ấy.
BÍ TÍCH TRUYỀN SINH
Sau khi nuôi sống hàng ngàn dân, Chúa Giêsu muốn mọi người thấy phép lạ đó như một lời mời gọi con người vượt qua của ăn vật chất mà tìm kiếm lương thực thiêng liêng nơi Thiên Chúa. Chúa Giêsu ban tặng “thịt tôi cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Sự sống quả là một tặng phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa!
“Những gì Chúa Giêsu nói (trong đêm lập Bí Tích Thánh Thể) không phải là lời nói suông, nhưng là một biến cố, một biến cố nằm giữa trung tâm lịch sử thế giới và cuộc sống mỗi người chúng ta.”[ii] Chúa hiện diện thực sự và thường trực để bảo vệ giá trị cao cả của sự sống con người. Dù đã hạ mình làm thân bèo bọt mỏng mảnh của kiếp người, Chúa còn hạ mình thấp hơn nữa trong tấm bánh và giọt rượu để hóa thân làm người lần nữa trong các tín hữu. Để thực hiện được biến cố vĩ đại này, Chúa đã phải huy động tất cả sức mạnh Thần Khí để thực sự biến đổi bánh rượu, mà không tiêu hủy chúng.
Bởi đó, Thánh Thể là trung tâm phụng vụ của cộng đoàn Kito hữu. Thánh Thể nói cho biết Thiên Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Thánh Thể cũng mạc khải về bản chất con người và trách nhiệm chúng ta trong cuộc sống chung với tha nhân.
Thánh Thể cũng là trung tâm của niềm tin. Thánh Thể đề cao việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Đức Giêsu đến cứu sống chúng ta. Thánh Thể tán dương việc Thiên Chúa để cho thân thể Chúa Giêsu bị bẻ ra và máu Người đổ ra cho chúng ta. Thánh Thể nhắc lại việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Thần Khí đã làm cho Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết để chúng ta có thể chia sẻ quyền năng và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu như lời Chúa đã hứa.
Thánh Thể mạc khải chúng ta được kêu gọi hành động hơn là chỉ rước Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh Thể làm sáng tỏ sự thật chúng ta là – phải là – Mình Máu Chúa Kitô hy sinh cho nhau. Thánh Thể cho thấy rõ chúng ta được kêu gọi để trở thành tấm banh bẻ ra và chén máu đổ ra cho tha nhân, hy sinh cuộc đời để theo đuổi công lý, hòa bình, hòa giải, hòa hợp, tự do, sự sống và tình yêu. Khi công bố cái chết của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta phải quyết chí hy sinh cả cuộc đời, tài năng và nỗ lực tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa. Chúng ta được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chân giá trị của Bí Tích Thánh Thể khi tuân hành mệnh lệnh Chúa Giêsu bảo chúng ta “làm việc này để nhớ đến” Người. Không phải chỉ cử hành Thánh Thể vào ngày thứ nhất trong tuần, nhưng còn cung cấp, nuôi dưỡng và tha thứ cho nhau để trở thành Thánh Thể cho nhau mỗi ngày trong tuần nữa.
Trong bài đọc hai, thánh Phaolô loan báo cho cộng đoàn Côrintô biết Thánh Thể là nguồn suối và là trung tâm của đời sống. Họ là một trong thân thể Chúa Kitô. Nếu biết đề cao chân lý này, họ nắm vững chìa khóa để nối các khác biệt lại với nhau.Thanh Phaolô làm việc cực nhọc để quy tụ một cộng đoàn đã bị xâu xé vì các lực lượng xa lạ với Thiên Chúa.
Trước công đồng Vatican II, lòng tôn sùng Thánh Thể chủ yếu tập trung vào “sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Phần lớn lòng đạo đức hệ tại những lần thăm viếng, chầu, rước kiệu Thánh Thể và làm “giờ thánh,” nơi Chúa Giêsu “đang chờ đợi, kêu gọi và đón chào những ai đến viếng thăm Ngài.”[iii]
Từ công đồng Vatican II, có một sự hiểu biết sâu xa hơn về lòng tôn sùng Bí Tích Thánh Thể gắn liền với Thánh Thể trong Thánh Lễ. Giáo dân hiểu sâu xa hơn về Thánh Lễ với Hội Thánh như nhiệm thể Chúa Kitô. Thánh Thể tạo tác nen Hội Thánh, chứ Hội Thánh không tạo tác nên Thánh Thể. Quả thế, trong đêm bị trao nộp, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người” (Mc 14:22-24) quy tụ trong Nước Thiên Chúa. Máu người vô tội đã đổ ra cho tội nhân được tái sinh làm con Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội. Thánh Thể đem lại cho chúng ta sự sống mới và tăng cường sức mạnh cho Nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội.
SỰ SỐNG: MỘT GIÁ TRỊ CAO CẢ
Mỗi Thánh Lễ là một cuộc thánh hiến trọn vẹn của Chúa Kitô cho sự sống nhân loại, vì Chúa hiện diện đích thực, thường tại và hành động để thăng hoa cuộc sống và đổ tràn niềm vui từ cuộc sống vĩnh cửu cho muôn dân. ĐHY Alfonso López-Trujillo nói: “Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của Sự Sống. ‘Ta là Bánh Hằng Sống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.’(x. Ga 6:47-58)[iv] Máu Giao Ước của Người có sức mạnh cứu độ muôn người. Chúa đã phải chết để giành lại sự sống cho con người.
Sự sống thực sự là một giá trị vô cùng cao cả. Thực vậy, “trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa đã được mạc khải là Cha và là Đấng ban sự sống. Cũng trong Đức Kitô, con người đón nhận mọi sự như tặng phẩm từ tay Thiên Chúa một cách khiêm tốn và tự do. Họ thực sự chiếm hữu vạn vật khi nhận biết và cảm nghiệm rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, phat xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[v] Thiên Chúa là nền tảng và lý do hiện hữu của vạn vật. “Không có Tạo Hóa, tạo vật sẽ biến tan.”[vi]
Nơi Thánh Thể, chúng ta gặp thấy Đấng tạo thành vạn vật (x. Ga 1:3). Đỉnh cao trong công cuộc tạo dựng chính là sự sống con người. Bởi thế, Người đã không ngần ngại hy sinh mạng sống để dành lại tất cả cho con người. Đến ngày tận thế, “Chúa Kitô sẽ trình lên Chúa Cha Vương quốc sự thật va sự sống, thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.”[vii] Nhưng làm sao có thể có một Vương quốc lý tưởng như thế, nếu Chúa không tiếp tục hiện diện và hoạt động nơi trần gian? Đó là lý do tại sao Người lập Bí Tích Thánh Thể. Không có Thánh Thể, Giáo Hội không thể có sức sống để hoàn thành sứ mệnh cứu độ nhân loại.
Giáo hội hiện diện trên mặt đất như một nhắc nhở con người nhớ tới trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Lý do vì “giống Thiên Chúa tận yếu tính và sự sống, con người có liên hệ với Thiên Chúa một cách sâu xa nhất. Con người là một nhân vị được Thiên Chúa tạo dựng để sống trong tương quan với Người. Chỉ khi sống trong tương quan và hướng về Thiên Chúa, con người mới tìm thấy sự sống đích thực.”[viii] Chính trên nền tảng đó, con người mới hiểu tại sao mình có trách nhiệm với sự sống của mình và người khác. Thật vậy, “tương quan với Thiên Chúa đòi phải coi sự sống con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm.”[ix] Khi mất ý thức và xác tín đó, con người khinh thường và hủy diệt sự sống tha nhân và xúc phạm đến Thiên Chúa.
Ngày nay, tội ác tràn ngập trong xã hội đến mức đã ăn sâu vào truyền thống và các cơ chế. Thực tế đó là những tội xã hội. “Tội xã hội là mọi tội chống lại công lý đòi phải có trong tương quan giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đoàn, và giữa cộng đoàn với cá nhân nữa. Mọi hành động chống lại quyền con người, bắt đầu là quyền sống, gồm cả sự sống trong bào thai, chống lại sự toàn vẹn thân xác của cá nhân, hay chống lại sự tự do của tha nhân, đều được gọi la tội xã hội.”[x] Tham gia vào các tội xã hội đó có nhiều cách khác nhau và mức độ vi phạm cũng không giống nhau. Trong phạm vi gia đình, tội phá thai dẫn đầu. Ngoài xã hội, tồi tệ và quái đản nhất là tội diệt chủng va đàn áp tự do tôn giáo.
Thực ra, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, con người đều được kêu gọi và có bổn phận phục vụ, chứ không phải hủy diệt sự sống.[xi] ĐGH Gioan Phaolô II từng nói: “Quyền sống là quyền trẻ em phát triển trong lòng mẹ từ lúc mới thụ thai; quyền sống trong một gia đình hiệp nhất và môi trường đạo đức để có thể tăng trưởng nhân cách.”[xii] Nhưng hình như cả gia đình và xã hội cấu kết với nhau để phá hủy sự sống từ trong phôi thai. Phá thai “là một tội ác khủng khiếp và đặc biệt làm xáo trộn trầm trọng trật tự luân lý. Đó không phải là một quyền, nhưng là một hiện tượng đau buồn góp phần nghiêm trọng vào việc gieo rắc não trang chống lại sự sống, và cho thấy một mối đe dọa nguy hiểm chống lại một cuộc sống chung của xã hội trong công bình và dân chủ.”[xiii]
Làm sao có thể chữa trị não trạng chống lại sự sống đó, nếu không nhờ tới Thánh Thể? Quả thực,“Bí Tích Thánh Thể dạy các gia đình và thúc đẩy họ bảo vệ sự sống.”[xiv] Nếu biết quy tụ bên Thánh Thể, gia đình sẽ hăng say bảo vệ cũng như tôn trọng sự sống vì khám phá ra Thánh Thể là nguồn mạch và thành trì bảo vệ sự sống. Đó là lý do tại sao ĐHY Alfonso López-Trujillo khẳng quyết: “Hy tế Thánh Thể là chính hành động của Đức Kitô tiêu diệt sự chết và phục hồi sự sống cho chúng ta. Mỗi khi họp nhau để tham dự Hy lễ này, chúng ta mừng sự sống chiến thắng sự chết, và như thế cũng chiến thắng phong trào phá thai. Phong trào phò sự sống không phải hoạt động cho chiến thắng mà hoạt động từ chiến thắng. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói ở Denver năm 1993, “Đừng sợ. Kết quả của cuộc chiến phò sự sống đã được định đoạt.” Công việc của chúng ta là áp dụng chiến thắng đã được thiết lập vào mọi phương diện của xã hội chúng ta. Cử hành Bí Tích Thánh The là nguồn mạch và tột đỉnh của công việc ấy.”[xv]
Thực tế, phong trào phò sự sống gặp rất nhiều khó khăn, có lẽ vì chúng ta còn thiếu đức tin vào Bí Tích Thánh Thể, nguồn mạch sự sống?
LÒNG MẸ HAY PHÁP TRƯỜNG?
Không có điều gì chống lại con người cho bằng hủy diệt sự sống con người ngay từ trong lòng mẹ. Lòng mẹ trở thành pháp trường. Nhìn vào tình hình phá thai trên thế giới hôm nay, chúng ta phải bàng hoàng kinh sợ.
Trên toàn thế giơi hàng năm có tới 42 triệu trẻ em bị giết trong bụng mẹ. Trung bình một ngày khoảng 115.000 vụ phá thai. Hầu hết các vụ phá thai xảy ra ở các nước nghèo (83%). Nơi các nước phát triển chỉ đạt tỷ lệ 17%. Thế nhưng riêng tai Hoa Kỳ, mỗi năm cũng có khoảng 1.370.000 vụ phá thai (1996). Từ năm 1973 đến 2002, Hoa Kỳ có 42 triệu vụ phá thai hợp pháp.
Tại Việt Nam càng ngày càng có nhiều phụ nữ tìm cách phá thai, vì phá thai được nhà nước coi như sách lược hàng đầu để kiểm soát sinh sản. Bởi thế, Giáo Hội càng phải cam go chiến đấu với não trạng chống sự sống đang thịnh hành tại Việt Nam.
Tỷ lệ phá thai tại Việt Nam cao nhất thế giới. Công khai có 83 vụ phá thai trong 1000 người mang thai. Nếu tính cả việc phá thai lén lút, con số lên tới khoảng 2 triệu trong một năm vụ phá thai, tỷ lệ 111 phần ngàn. Năm 1996 có 1.520.000 vụ phá thai.[xvi] Con số phá thai công khai có khuynh hướng tang cao trong vòng hai thập niên qua. Tỉ lệ phá thai cao nhất từ năm 1976 và 1987, khi số phá thai công khai tăng gấp 10 lần, từ 70.281 đến 811.176 vụ (Goodkind, 1996). Theo thống kê mới nhất, có 1/3 những phụ nữ mang thai đã pha thai.[xvii]
Còn phụ nữ Việt Nam tại Hải ngoại thì sao? Chưa có một thống kê chính xác và khoa học về vấn đề này. Nhưng “hiện nay tại Orange County, thủ phủ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, có ít nhất 2 chương trình phá thai miễn phí được quảng cáo trên báo chí Việt ngữ. Và tính trung bình chỉ 1 trung tâm thôi con số những phụ nữ Việt Nam đến để phá thai có khoảng chừng 500 vụ mỗi tháng.”[xviii] Theo một bác sỹ sản phụ khoa hành nghề lâu năm tại Bệnh Viện Fountain Valley, nơi có nhiều sản phụ Việt Nam nhất Orange County, California, “người Việt Nam phá thai nhiều hơn đẻ.”[xix] Trước sự thật ấy, ai còn dám hãnh diện về văn hóa dân tộc nữa không?
Ai là người chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc sát nhân từ trong lòng mẹ, nếu không phải là chính người mẹ? Còn đâu hình ảnh “lòng mẹ bao la như biển Thái bình”? Truyền thống đạo đức gia đình tới đâu?
Nhìn vào số phá thai trên thế giới, có lẽ nhiều người càng bi quan hơn khi thấy 35,4% phụ nữ là Tin Lành, 31,3% là Công Giáo. Nói chung phụ nữ phá thai theo Kitô giáo chiếm gần 70%. Trong khi đó, các phụ nữ không có đạo chiếm 23,7% mà thôi.[xx] Những sự kiện đo cho thấy giáo dân còn ít dấn thân theo Chúa Kitô tới mức nào.
Tới đây, cần tìm hiểu tại sao phụ nữ phá thai. Chỉ có 1% phá thai vì bị hãm hiếp hay loạn luân, 6% vì vấn đề sức khỏe của mẹ hay con, và 93% vì những lý do xã hội (nghĩa là có con ngoài ý muốn hay không thuận tiện).[xxi] Nói chung phụ nữ đưa ra ít nhất 3 lý do phá thai: 3/4 nói có con làm cản trở công việc, học hành hay những trách nhiệm khác. Khoảng 2/3 nói không thể nuôi con. Và 1/2 nói không muốn làm mẹ neo đơn hay đang có vấn đề với chồng hoặc bạn tình.[xxii] Nói tóm, phụ nữ phá thai chỉ vì không muốn hy sinh. Tính ích kỷ đã chiếm trọn con người và ảnh hưởng tới quyết định của họ.
Phải chăng đặt vấn đề như thế đã lỗi thời? Đây là câu trả lời của ĐGH Bênêđictô XVI: “Trên phương diện luân lý, đánh giá của Giáo Hội về vấn đề ly dị và phá thai là phân minh và thấu đáo: đó là tội nặng, vi phạm phẩm giá con người, kéo theo sự bất công sâu sắc trong quan hệ con người và xã hội, xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đảm bảo cho kết ước vợ chồng và Đấng tác thành sự sống.”[xxiii] Nếu ý thức được việc phá thai nặng nề và nguy hại như thế, chắc chắn sẽ không còn ai dám phá thai nữa. Khốn nỗi dù biết là tội nặng, nhiều Kitô hữu vẫn phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm. Chắc chắn chẳng phụ nữ nào vui sướng phải đi đến quyết định phá thai. Thật vay, theo ĐGH, “ly dị và phá thai là những chọn lựa (…) trong những tình thế khó khăn và nguy kịch. Đó là nguồn mạch sinh ra đau đớn sâu thẳm nơi những người phải đưa ra quyết định đó. Nó tác động đến những nạn nhân vô tội: đứa trẻ bị giết trong lòng mẹ khi chúng chưa chào đời, trẻ em bị ảnh hưởng bởi ly dị.”[xxiv]
Trước tình hình phá thai trên thế giới, Giáo Hội có thể làm được gì để chữa những vết thương trong tâm hồn phụ nữ và cứu những tre em vô tội? ĐGH cam đoan:“Giáo Hội có bổn phận gần gũi, yêu thương và khéo léo đối với những người như vậy.”[xxv] Giáo Hội đây là ai, nếu không phải là các Kitô hữu? Bởi vậy, tình trạng phá thai cũng nhắc Kitô hữu ý thức trách nhiệm dấn thân vào phong trào phò sự sống của Giáo Hội.
Hiện nay, có thể tìm thấy một mẫu dấn thân như thế nơi anh Tống Phước Phúc, một nhà thầu Công giáo sống ở Nha Trang. Ngày 13.07.2004, anh thuyết phục một cô gái từ bỏ ý định phá thai chỉ vì cô muốn giữ thể diện gia đình. Thế là anh đã cứu được một mạng người. Trong mấy năm trời, tổng cộng anh đã cứu sống 60 trẻ em thoát cảnh phá thai. Mặc dù găp nhiều khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, anh vẫn luôn phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Hàng ngày anh đi lễ tại nhà thờ chánh tòa Nha Trang lúc 5:00 sáng.[xxvi] Thánh Thể trở thành sức mạnh cho anh vượt qua tất cả trở ngại. Sở dĩ trở thành anh hùng cứu sống nhiều sinh mạng trẻ thơ, vì anh đã tìm được nguồn mạch tình yêu nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.
Khi chú giải Kinh thánh về Bí tích Thánh thể, tác giả Hurault viết: “Lịch sử không thể dừng lại. Không phải chỉ có tiến bộ kỹ thuật đẩy ta về phía trước, mà thật ra là những đòi hỏi công lý – phát sinh từ cái chết của một người vô tội (và Thiên Chúa là Đấng Vô Tội) – không ngừng bắt ta phải xét lại trật tự hiện hành. Cái chết của Chúa Kitô không cho phép chúng ta được yên ổn, không được nghỉ ngơi.”[xxvii] Trong Thánh Lễ hàng ngày, Chúa Giêsu vẫn hy sinh để đẩy mạnh công cuộc tạo dựng nền văn hóa sự sống cho nhân loại.
Tóm lại, Thánh Thể đã đem lại sức sống cho nhân loại. Càng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, tâm hồn càng tràn đầy nhựa sống và niềm hy vọng. Hơn khi nào, gia đình cần phải đến với Thánh Thể để học hỏi cách sống hạnh phúc và bảo vệ sự sống cho mình và tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con luôn kết hiệp mật thiết với Chúa để chúng con có đủ sức mạnh chống lại nền văn hóa sự chết và làm cho nhân loại phục sinh trong tình yêu Chúa. Amen.
đỗ lực 25.05.2008
----------------------------------------------------------------------
[i] http://www.zenit.org/article-22571?l=english
[iii] Trích từ một lời nguyện.
[iv] http://www.conggiaovietnam.net/tacgia/PhamXuanKhoi/bitichthanhthevaviec....htm
[v] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 46.
[vi] Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966), 1054.
[vii] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 57.
[viii] ibid., 109.
[ix] Giáo Lý Công Giáo, 2258.
[x] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 118.
[xi] x. Vatican II, Gaudium et Spes, 50-51: AAS 58 (1966), 1070-1072.
[xii] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 155.
[xiii] ibid., 233.
[xiv] http://www.conggiaovietnam.net/tacgia/PhamXuanKhoi/bitichthanhthevaviec....htm
[xv] ibid.
[xvi] http://www.guttmacher.org/pubs/journals/25s3099.html
[xvii] http://www.who.int/reproductive-health/publications/ HRP_ITT_99_2/HRP_ITT_99_2_1.en.html
[xviii] http://www.honnho.org/HNTuTuongHocHoi/35namnhinlai(Duyet).htm
[xix] ibid.
[xx] http://www.abortionno.org/Resources/fastfacts.html
[xxi] ibid.
[xxii] http://erlc.com/article/abortion-statistics
[xxiii] La Croix 05/04/08. Trích lại từ VietCatholic News (Thứ Bảy 05/04/2008 10:20)
[xxiv] Ibid.
[xxv] Ibid.
[xxvi] http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=55068
[xxvii] Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ, Kinh Thanh Tân Ước: Lời Chúa Cho Mọi Người 2005: 745
05/06 Ðồng xu bà góa nghèo
- Viết bởi Mc 12, 38-44
Ðồng xu bà góa nghèo.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 9 thường niên. – Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".
* Thánh nhân sinh tại Anh quốc quãng năm 673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô.
Người là tông đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được Đức Giáo Hoàng tấn phong giám mục (năm 722), người rảo khắp nước Đức, thành lập các giáo phận và các đan viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở Đốc-cum (Hà Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.
Lời Chúa: Mc 12, 38-44
Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn".
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền.
Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tất cả những gì bà có
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược.
Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa.
Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ,
từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.
Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do-thái giáo.
Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê,
thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng.
Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân.
Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã.
Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực, dễ bị vấp vào thói háo danh.
Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ.
Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc,
họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao.
Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác.
Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập
lại trở nên phương tiện để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa.
Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức khi giả vờ đọc kinh dài.
Với uy tín và sự giả hình khéo léo, họ nuốt chửng nhà của các bà góa.
Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy
là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng.
Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền.
Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại
và khẳng định rằng bà góa này đã bỏ nhiều hơn mọi người khác,
mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ.
Nhưng cái rất nhỏ này lại là tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân.
Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy,
cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa.
Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật.
Ngài không mãn nguyện với của dư thừa, nhưng Ngài đòi tất cả.
Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất.
Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.
Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức
khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo,
ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình.
Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa,
với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh.
Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm.
Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền,
nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Thẩm phán chí công
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Và Chúa phán xét: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”. Chúa không nhìn bề ngoài. Nhưng nhìn trong tâm hồn. Chúa phê phán những người sống bề ngoài nhưng không có nội tâm. “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng…Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
Chúa vẫn luôn quan sát đời sống chúng ta. Và sẽ thưởng phạt đúng với công việc. Tổng lãnh Thiên thần Ra-pha-en đã cho Tô-bít biết điều đó. “Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dở bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông”. Sở dĩ Tô-bít và Xa-ra được Chúa thương như vậy. vì họ sống chân thật, nghèo khổ mà vẫn bố thí. Khó khăn mà vẫn cầu nguyện. Như Ra-pha-en cho biết: “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thì đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc” (năm lẻ).
Nhưng quan trọng hơn Chúa là Thẩm Phán chí công ở đời sau. Đời sau mới quyết định số phận vĩnh cửu. Hạnh phúc đích thực. Vì thế thánh Phao-lô chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát, kể cả hi sinh mạng sống, để được Chúa thưởng ở đời sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi… Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy”. Và thánh nhân khuyên nhủ người con Ti-mô-thê-ô cũng hãy kiên trì phục vụ Chúa như ngài. Để cũng được thưởng như ngài: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (năm chẵn).
Hãy luôn sống trước Nhan Chúa, dưới ánh mắt của Chúa. Chúa thấu suốt tâm hồn. Sẽ thưởng phạt chính xác. Đời này không có công lý. Ta chấp nhận thiệt thòi vì Chúa. Rồi Chúa sẽ trả lại cho ta.
Suy Niệm 3: Tín thác vào Chúa
Một văn sĩ Mỹ kể lại giai thoại như sau:
Hôm đó là Chúa Nhật, ông đi tham dự buổi nói chuyện của một nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo nói năng rất hùng hồn, những nỗi thống khổ của người dân bản xứ mà nhà truyền giáo kể lại đã khiến cử tọa cảm động sâu xa. Văn sĩ kể về mình thế này: Khi nhà truyền giáo kêu gọi sự giúp đỡ, tôi định bỏ vào giỏ một đôla; nhưng giọng nói của ông cảm động đến độ tôi định tăng lên năm đôla, và ngay cả ký một chi phiếu. Thế rồi, nhà truyền giáo tiếp tục phóng đại nỗi thống khổ của người bản xứ; ông cứ nói mãi, nói mãi, đến nỗi mọi người không còn muốn nghe nữa. Tự nhiên tôi có ý định rút lại việc ký ngân phiếu, rồi từ từ giảm xuống năm rồi còn một đôla, và cuối cùng khi nhà truyền giáo chấm dứt bài thuyết trình và cái giỏ tiền được chuyền đến tay tôi, thì tôi chỉ bỏ vào đó có mười xu.
Giai thoại trên đây có thể gợi cho chúng ta thái độ cầu nguyện của các luật sĩ và biệt phái mà Chúa Giêsu đã không ngừng lên án. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Thái độ cầu nguyện này phát xuất từ một quan niệm có tính cách bùa chú về Thiên Chúa. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác biệt. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức bùa chú. Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người.
Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán. Xin cho từng tâm tư và suy nghĩ của chúng ta là một lời tri ân cảm tạ Chúa vì xác tín rằng bàn tay quan phòng của Chúa đang làm những điều kỳ diệu cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Những đồng xu nhỏ của bà góa nghèo
Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.” (Mc. 12, 41-43)
Chính sau khi đã nặng lời chỉ trích các ông kinh sư luật sĩ vì họ kiêu ngạo và bất công, mà Chúa Giêsu tán dương lòng quảng đại của một bà góa nghèo. Rõ ràng là ý Chúa muốn dùng câu chuyện nhỏ này để tạo nên một nét tương phản hùng hồn với tính phô trương giả hình của các kinh sư, luật sĩ. Tuy nhiên sẽ là lầm lạc khi đưa ra kết luận rằng, trong tâm trí của Đức Kitô, những người nghèo nhất thiết là những người quảng đại, còn những người giầu có thì không thiếu những kẻ bủn xỉn; ta có thể đưa ra biết bao nhiêu gương tốt xấu về phía này cũng như về phía kia. Người ta không phân chia thế giới thành hai loại người: những người nghèo tốt và những kẻ giầu xấu; xác định lập trường quá đơn giản như vậy quả là một sự trái lẽ và nếu ta lại gán cho Chúa cũng có lập trường như vậy thì quá bất công.
Những kẻ bênh vực cho cảnh bần hàn đã hoài công xử dụng những lý chứng trên đây. Giả như có ai cho họ nhiều đồ, thì họ vẫn cứ thích nhận, hơn là nhận món quà ít oi bé nhỏ của những người túng thiếu, mặc dầu họ đã rào trước đón sau khi nói với bạn rằng của cho không quan trọng cho bằng tấm lòng người cho. Dầu sao, ai mà không cảm động khi thấy một người nghèo đã chắt chiu bòn hết tiền nhà để nâng đỡ một người khốn khổ hơn mình..
Đàng sau cái dư thừa
Vượt qua bức tường của cái dư thừa, khó hơn là vượt qua bức tường âm thanh. Khi cho cái bạn thừa rồi, cái bạn không cần đến, bạn vẫn được xếp vào hàng người lương thiện; Chắc hẳn, người ta không thể trách móc bạn điều gì, nhưng bạn đừng hy vọng người ta khen bạn. Bạn chỉ bước vào lãnh vực của tình yêu, chỉ chiếm được con tim khi bạn đi xa hơn, khi cho cái thiết thân của bạn, khi cho chính bản thân mình, khi bạn dấn thân. Vì thế bạn có nhiều hay chẳng có gì, điều ấy chẳng mấy quan trọng; điều quan trọng là bạn có một trái tim biết yêu.
Điều Chúa Giêsu lặp đi lặp lại cho chúng ta bằng vô vàn thí dụ, chính là Nước Trời là của những ai hiến mạng sống mình cho tha nhân, chứ không phải là của những ai quăng đi những miếng bánh thừa.
Khi đạt tới việc chia sẻ cái cần thiết, con người không còn phân chia thành kẻ giầu, người nghèo nữa; họ bình đẳng với nhau. Thực ra những trái tim của con người, tim nào cũng đập, chỉ có môi trường là thay đổi thôi. Khi trần trụi, đó chính là lúc con người tỏ ra ích kỷ hay quảng đại đấy.
Suy Niệm 5: ĐÂU LÀ GIÀU TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA? (Mc 12, 38-44)
Sống giả hình trong sự hào nhoáng bề ngoài là thứ mà con người luôn sử dụng và không ngừng trang điểm cho nó. Bởi xuất phát từ lối suy nghĩ rằng: nhờ những chuyện hình thức bên ngoài, nó sẽ che lấp sự xấu xa bên trong. Tuy nhiên, đây chỉ là điều vô lý và hão huyền khi đối diện với những chân lý Tin Mừng.
Hôm nay thánh Máccô trình thuật việc được Đức Giêsu vạch trần sự giả tạo của những Kinh Sư khi kể cho họ nghe câu chuyện lên đền thờ cầu nguyện.
Những người Kinh Sư luôn coi họ là người đạo đức, thánh thiện hơn mọi người khác. Sự tốt lành của họ được biểu hiện qua việc: nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Không những thế, họ còn mong muốn người ta thưởng cho mình những tiếng tốt và kính trọng khi đi ra đường bằng việc chào hỏi nơi công cộng...
Như thế, đối tượng bị họ khinh bỉ chính là người nghèo và tội lỗi... Thế nhưng, Đức Giêsu đã chỉnh sửa quan niệm sai lầm đó bằng việc khen ngợi một bà góa nghèo bỏ có hai xu vào đền thờ. Trong khi đó chê bác việc người giàu bỏ nhiều tiền nhưng lại là tiền dư thừa của họ chứ không phải như bà góa bỏ trọn vẹn những gì bà có.
Trong xã hội hôm nay, người giàu thường được tôn trọng. Chân lý thuộc về kẻ có quyền, có tiền. Người nghèo luôn nắm phần thua thiệt! Tuy nhiên, trước mặt Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Người giàu trước mặt Thiên Chúa là sự khiêm nhường thẳm sâu. Kẻ nghèo chính là người kiêu ngạo.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết sống đạo thực tâm. Luôn có một cái tâm sáng, để những việc làm của mình được trong sạch. Cần có một kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời sống trong tình yêu đó nơi những mối tương quan thì tốt hơn là những hình thức phô trương bên ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết yêu mến Chúa bằng tình yêu chân thành. Xin cho chúng con biết sống đạo với tâm hồn đơn sơ, tin tưởng, phó thác và yêu mến thay cho những sự giả tạo, man trá bề ngoài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Thiên Chúa đánh giá
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa khoan nhân đánh giá chính tấm lòng mỗi người. Giá trị của việc làm không tùy thuộc số lượng nhiều hay ít, nhưng tùy thuộc tấm lòng thành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, loài người ai cũng muốn được tiếng khen. Tiếng khen như một lời động viên, tiếp sức cho con cố gắng. Điều đó tự nó là tốt. Tuy thế, nếu làm việc chỉ vì tiếng khen, thì việc đó trước mắt Chúa là vô giá trị.
Chúa khen người đàn bà góa nghèo khó đã dâng cúng vào đền thờ nhiều hơn hết mọi người vì Chúa nhìn thấy tấm lòng thành của bà. Bà được khen không phải vì bà bỏ nhiều tiền, cũng không phải vì bà nghèo. Bà được khen vì bà gói được trọn tấm lòng của bà trong món quà nhỏ bé đó mà dâng cho Chúa. Chúa khen tấm lòng của bà. Những người trước đó không được Chúa khen vì tấm lòng của họ dâng Chúa được ít lắm. Họ chưa sống hết lòng vì Chúa và cho Chúa.
Lạy Chúa, con biết rằng lạm dụng việc lành phúc đức để cầu danh chính là xử bất công với Chúa. Xét lại bản thân con có thể đôi lần làm việc chỉ vì mua danh cho mình. Rất nhiều khi con làm việc vừa vì tin mến Chúa mà cũng lại vừa vì tiếng khen. Con vẫn còn để cho lòng ham danh theo tính tự nhiên ảnh hưởng đến những việc lành phúc đức của con. Do vậy, của lễ con dâng chưa trọn vẹn là cho Chúa mà còn là cho con.
Xin Chúa thanh luyện ý hướng con. Xin cho con biết làm cả những việc tốt âm thầm, vì đó là những dịp giúp con sống trọn vẹn cho Chúa.
Xin nâng đỡ con, để con đừng nản lòng bất mãn khi một việc tốt con làm mà lại bị hiểu lầm chê bai. Amen.
Ghi nhớ : “Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”.
Suy Niệm 7: Tôn thờ Thiên Chúa với con tim chân thành
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bà góa ở Sarépta chỉ còn một chút bột, một chút dầu để mẹ con cùng ăn một bữa ăn cuối cùng cho đỡ đói, rồi cùng nhau chấp nhận chết đói. Thế nhưng, bà đã quảng đại sẵn sàng nhường và chia phần ăn của mẹ con bà cho ngôn sứ Êlia, người của Thiên Chúa. Cử chỉ yêu thương, rộng lượng của bà đã gặp được lòng thương xót, quảng đại của Thiên Chúa. Suốt mùa hạn hán ở xứ sở, quê nhà, hũ bột của bà không bao giờ cạn và dầu trong bình nhà bà không bao giờ vơi (x. 1V 17,10-16).
Suy niệm
Ðức Giêsu đưa ra hai hình ảnh đối nghịch: Các kinh sư, biệt phái với sự mưu mô xảo quyệt được che đậy bằng một lớp vỏ bọc đạo đức bên ngoài. Bà góa nghèo với sự chân thành.
Trong xã hội Do Thái, người góa sống như những chiếc bóng giữa lòng xã hội: Yên lặng và nghèo đói. Người góa thì hay bị bóc lột, bị các kinh sư nuốt hết gia tài như Chúa Giêsu đã từng nói trong Tin Mừng Maccô (x. Mc 12,40)
Bà goá trong đoạn Tin Mừng Marcô hôm nay cũng giống như bà góa Sarépta. Bà nghèo của, nhưng giàu lòng, bà ít tiền, nhưng quảng đại. “Chỉ có hai xu” nhưng chất chứa một sự cố gắng và lòng quảng đại. Do vậy, tuy lễ vật của bà nhỏ bé nhưng được Chúa ngợi khen đó là của lễ trên hết vì bà đã bỏ hai đồng xu nhỏ là cả gia tài để bà sống và nó có giá trị hơn vàng bạc, ngọc ngà, châu báu của những người giàu có dư tiền, lắm của.
Chiêm ngưỡng thái độ và tấm lòng quảng đại của hai bà góa, tôi cùng bạn soi chiếu vào cuộc đời của mình. Các bà góa đã chân thành, đã hết mình trong tương giao với Thiên Chúa và tha nhân. Bà góa ở Sarépta đã hết lòng chia sẻ với ngôn sứ Êlia cho chúng ta thấy một hình ảnh mẫu mực về mối tương quan nhân văn với tha nhân, chúng ta có chân thành và cư xử hết mình với tha nhân hay chỉ “bánh ít đi, bánh quy lại”, hoặc chỉ giữ vẻ thân thiện bề ngoài, nhưng trong lòng chất chứa một sự tính toán thiệt hơn…, và trong mọi mối quan hệ, chúng ta chỉ đánh giá qua bề ngoài, dựa vào tiền của để xác định tiêu chuẩn ngôi thứ trong xã hội như chúng ta đã từng nghe: “Tiền là Tiên, là Phật… Tiền là hết ý” mà quên đi tính chân thành, chia sẻ mộc mạc với nhau.
Bà góa bỏ hai xu vào đền thờ gợi cho tôi và bạn suy xét lại một tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa: Tôn thờ Ngài với một con tim chân thành. Mỗi khi dâng lễ vật qua thánh lễ, chúng ta có đến vì lòng thành hay chỉ vì câu nệ giữ luật. Chúng ta luôn tâm niệm rằng mọi lễ vật tuy nhỏ bé, bất xứng như việc đóng góp vào nhà Chúa, xây dựng cộng đoàn, chia sẻ với người nghèo… nhưng chúng ta làm với tất cả sự chân thành, phó thác thì tấm lòng vàng đó của chúng ta sẽ gặp được lòng yêu thương vô biên của Thiên Chúa, dù thân phận thế nào, ngay cả trong thân phận bất xứng với cả tấm lòng thành, chúng ta sẽ thành của lễ vô giá.
Thật thế, mọi lễ vật dâng lên cho Thiên Chúa cũng đều xuất phát từ con tim đơn sơ, chân thành.
Ý lực sống:
“Sự chân thành như là viên kim cương được hình thành trong trái tim” (Ngạn ngữ cổ).
Suy Niệm 8: Đồng xu của bà góa nghèo
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin mừng hôm có hai hình ảnh đối chọi nhau:
- Hình ảnh của các luật sĩ: rất cao trọng, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.
- Hình ảnh một bà goá nghèo: nghèo tiền nhưng rất giàu lòng. Bà đã dâng số tiền nhỏ mọn với thái độ âm thầm và quảng đại. Như thế, giá trị của việc dâng cúng hay bất cứ việc gì khác không tuỳ thuộc số lượng, hay kết quả bên ngoài, nhưng hệ tại ở lòng thành và cách sống của mỗi người.
2. Hôm ấy Chúa Giêsu cùng với các môn đệ vào đền thờ Giêrusalem, và ngồi nghỉ chân ở khu vực dành cho phụ nữ. Tại đây Chúa gặp một tấm lòng tốt của một góa phụ dâng cúng hai đồng Lenta vào hòm tiền đền thờ. Đồng Lenta là đồng tiền nhỏ nhất của những người nghèo thời ấy thường có. Bà ta bỏ vào hòm tiền với cả tấm lòng, vì bà đã hy sinh cả phần cuối cùng để sinh sống.
Chúa Giêsu ca tụng lòng tốt của bà, vì bà đã cho trong yêu thương. Càng cho nhiều thì là dấu càng thương yêu nhiều. Cho tất cả là dấu tình yêu thương không bờ bến. Người đàn bà goá không phải chỉ cho phần dư thừa đã dành dụm được, mà cho chính nguồn sống ít ỏi của bà. Như vậy, người đàn bà này vừa cho một cách quảng đại vừa một cách vui vẻ tận đáy lòng nữa.
3. Một tác giả nào đó đã nói: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng”. Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.
Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mồng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cần lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng tiền của, mà ở quả tim được gói ghém trong món quà. Chúa Giêsu hôm nay đã nhìn thấy quả tim mà bà goá đã gói ghém trong món quà ấy.
4. Người Kitô hữu được tham dự chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn liên kết với tình yêu Thiên Chúa.
Hôm nay Đức Giêsu dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, như số tiền dư thừa mà những người giàu có bỏ ra; có khi ít mà là nhiều, như một phần tư xu của bà goá nghèo. Nhiều không phải ở của bỏ ra mà là ở tấm lòng và hy sinh.
5. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho ta biết: lòng yêu thương có giá trị cao là do tấm lòng, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Giá trị của đồ vật trao tặng không quí bằng tấm lòng, tức là giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất, mà chính là tấm lòng của con người. Hiểu như thế chúng ta mới thấy dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để trao ban: một nụ cười nhân ái, một lời nói cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một chút quà nhỏ chia sẻ… đều có giá trị to lớn trước Thiên Chúa và trong tình yêu thương đối với nhau.
6. Truyện: Vật khinh nhưng hình trọng
Tổng thống Wilson Hoa Kỳ người đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ nhất, và là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ bé của mình.
Một lần kia, ông và phu nhân cùng nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ dừng lại tại một thành phố tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Thế nhưng không hiểu thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào, để đến gần chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thuỷ quốc gia.
Một cậu đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn cản, nhưng bà Wilson, phu nhân của tổng thống đã đưa tay đón lấy lá cờ và nhiệt tình cám ơn em. Cậu bé kia cảm thấy buồn vì không có gì dâng tặng tổng thống. Em cố moi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ, em sung sướng vô cùng, vì chính tổng thống đã chìa tay đón nhận món quà của em.
Năm năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Khi bà Wilson xếp lại các đồ quen thuộc của chồng, mở chiếc ví, bà nhận ra ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quí đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó trong mình.
04/06 Con vua Ðavít?
- Viết bởi Mc 12, 35-37
Con vua Ðavít?
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 9 thường niên.
"Sao họ có thể bảo Ðức Kitô là Con vua Ðavít?"
Lời Chúa: Mc 12, 35-37
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con". Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bên hữu Cha đây
Suy niệm:
Sau khi đã bị chất vấn về nhiều vấn đề bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo,
bây giờ đến lượt Đức Giêsu đặt vấn đề với họ, cụ thể là các kinh sư.
Khung cảnh vẫn là Đền thờ với đám đông thính giả.
Có vẻ đây là một đám đông có cảm tình với Đức Giêsu (c. 37).
Câu chuyện khởi đi từ câu đầu tiên của thánh vịnh 110.
Thánh vịnh này là thánh vịnh được các kitô hữu sơ khai yêu thích,
và được trích dẫn nhiều lần trong các sách Tân Ước,
bởi lẽ họ nhận ra khuôn mặt của Đức Giêsu vinh quang trong đó.
Đối với các kinh sư, cũng như đối với Đức Giêsu,
thánh vịnh này được vua Đavít viết ra, dưới ơn linh hứng của Thánh Thần.
Ông viết về Đấng Mêsia được ĐỨC CHÚA cho toàn thắng.
“ĐỨC CHÚA phán cùng Chúa của tôi rằng : bên hữu Ta đây, con lên ngự trị,
để rồi bao địch thù Ta đặt làm bệ dưới chân con” (c.36).
Trong thánh vịnh này, Đavít đã gọi Đấng Mêsia một cách long trọng,
bằng tước hiệu “Chúa của tôi”.
Thế mà theo quan niệm của các kinh sư, Đấng Mêsia (còn gọi là Đấng Kitô)
là con vua Đavít, là người thuộc dòng dõi vua Đavít.
Câu hỏi Đức Giêsu đặt cho các kinh sư như sau :
Nếu Đavít gọi Đấng Mêsia là Chúa của tôi
thì làm sao Đấng Mêsia lại là Con của Đavít ?
Mới nghe câu hỏi của Đức Giêsu,
ta có cảm tưởng Ngài không nhìn nhận mình là Con vua Đavít.
Thật ra Ngài không bảo rằng Đấng Mêsia không thể là Con Đavít được.
Nhưng Ngài chỉ đặt một câu hỏi lơ lửng để mời họ suy nghĩ.
“Bởi đâu (pothen) mà Đấng Mêsia lại là con vua Đavít ?” (c. 37).
Bởi đâu Đấng Mêsia vừa là Con, vừa là Chúa của Đavít ?
Đối với kitô hữu chúng ta, mầu nhiệm này đã được hiển lộ.
Đức Giêsu là Con vua Đavít, thuộc dòng dõi Đavít theo xác thịt (Rm 1,3),
nhưng Ngài được siêu tôn làm Chúa nhờ trải qua cái chết thập giá,
nhờ sự hạ mình vâng phục, và nhờ được phục sinh.
“Chính vì thế Ngài được ban cho một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu,”
khiến mọi loài phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa (Ph 2, 9-11).
Hôm nay chúng ta vẫn phải làm việc vất vả
để thế giới nhìn nhận quyền làm Chúa của Đức Giêsu Kitô.
Vì kẻ thù cuối cùng vẫn chưa bị khuất phục trọn vẹn (1 Cr 15, 25).
Chúng ta mong mọi sự quy phục Đức Kitô, để tất cả thuộc về Thiên Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
Và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
Nỗi khổ đau và hạnh phúc,
Sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
Nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
Chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
Để xây dựng trái đất này,
Và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
Xin cho những vất vảcủa cuộc sống ở đời
Không làm chúng con quên trời cao;
Và những vẻ đẹp của trần gian
Không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
Mọi người thấy nước trời đang tỏ hiện.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Lời Chúa ứng nghiệm
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi trích dẫn Thánh vịnh 110, Chúa Giê-su cho biết Người có hai bản tính. Bản tính nhân loại, Người là con cháu thuộc dòng tộc Đa-vít. Bản tính Thiên Chúa, Người là Con Thiên Chúa. Và vương quyền Người trổi vượt Đa-vít. Không những Đa-vít phải gọi Người là Chúa Thượng. Mà Thiên Chúa Cha còn đặt cả vũ trụ dưới chân Người.
Đồng thời Chúa cũng cho biết Kinh Thánh đã được Thiên Chúa linh hứng. Đa-vít nói theo linh hứng của Thánh Thần. Nên tuy ông chưa hiểu. Mà sự thật đó ứng nghiệm. Các kinh sư là những người am tường Kinh Thánh đã không hiểu thấu Kinh Thánh. Trước những giải thích của Chúa Giê-su, không ai chối cãi được. Còn dân chúng thì vui mừng hoan hỷ. Vì Kinh Thánh mở ra những chân lý cao siêu.
Tuy nhiên Chúa Giê-su sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết. Rồi mới được vinh quang. Người sẽ phải “thua kém các thiên thần một chút”. Rồi mới hiển trị trên thiên quốc.
Bất cứ ai thực hành Lời Chúa cũng đều trải qua đau khổ. Đó là điều gia đình Tô-bít cảm nghiệm. Ông phải chịu đau khổ nhục nhã một thời gian. Nhưng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa yêu thương giải cứu. Nên khi được sáng mắt ông và “vợ ông, và mọi người quen biết đều tôn vinh Thiên Chúa. Bấy giờ, ông Tô-bít nói: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, con xin chúc tụng Ngài vì Ngài đã sửa phạt con, nhưng cũng chính Ngài đã cứu thoát con; và này đây, con đang nhìn thấy Tô-bi-a, con trai của con” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô cho biết ai phục vụ Chúa cũng phải đi vào con đường đau khổ. Chính Ngài đã gặp rất nhiều đau khổ: “Tại An-ti-ô-ki-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. Vả lại, nhưng ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt bớ”. Và ngài khuyên nhủ Ti-mô-thê hãy hoàn toàn tin vào Kinh Thánh. Vì Lời Chúa sẽ đem đến ơn cứu độ. Và có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh giúp người môn đệ hành xử: “Anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (năm chẵn).
Tôi có yêu mến Lời Chúa. Tin tưởng Lời Chúa. Và có thực hành Lời Chúa?
Suy Niệm 3: Ðấng Kitô là Chúa
Cuộc đối đầu trực diện giữa Chúa Giêsu và các đối thủ qua đi với việc họ không còn chất vấn Ngài nữa. Lúc này, tác giả Marcô lại nhớ thêm một cảnh, trong đó chính Chúa Giêsu là người chất vấn. Marcô không xác định rõ kẻ bị hỏi, chỉ ở cuối đoạn ông mới cho biết đông đảo dân chúng lắng nghe Ngài cách thích thú.
Trong lần chất vấn này, Chúa Giêsu đề cập đến tước hiệu mà các luật sĩ gán cho Ngài: con vua Ðavít. Một truyền thống Do thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (2V 7,14-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là "con vua Ðavít" (x. 10,48; 11,10). Nhưng chắc chắn Chúa Giêsu không tự xưng mình bằng tước hiệu này, vì nó quá hàm hồ, Ngài muốn tránh xa quan niệm về Ðấng Kitô theo kiểu chính trị. Ngài trưng dẫn Thánh vịnh 110, theo đó Ðấng Kitô vừa là con vua Ðavít, vừa được Ðavít gọi bằng "Chúa tôi". Chính Kinh Thánh đã gán cho Ðấng Kitô một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu "Chúa". Sau biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm "Chúa". Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).
Ðức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Ðó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh tới thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: "Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa". Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa.
Ước gì đó là niềm xác tín mà chúng ta mang trong lòng, diễn tả ra cuộc sống và sẵn sàng bảo vệ đến cùng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thánh Mác-cô hớn hở
Khi giảng trong đền thờ. Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Sao các kinh sư lại nói Đấng Kitô là con vua Đa-vít? Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói:
Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,
Để rồi bao địch thù,
Cha sẽ đặt dưới chân Con.
Chính vua Đa-vít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì do đâu Đức Kitô lại là con vua ấy được?” Đám người đông đảo nghe Đức Giêsu cách thích thú. (Mc. 12, 35-37)
Thánh Maccô có vẻ rất vui sướng dùng câu hỏi của Chúa Giêsu để kết thúc chương sách đầy những cuộc tranh cãi gay cấn này. Câu hỏi của Chúa không những là lời khẳng định thần tính của Người mà cũng là một kiệt tác “đốn ngã” trong môn võ hagada, môn karaté chính cống. Hai câu của Sách thánh bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng xét cho cùng lại chẳng có gì là mâu thúẫn cả. Hai câu đều đúng, nhưng nói tới những chủ đề khác nhau: con vua Davít theo dòng tộc, nên phải là đấng Mêsia được trông đợi, nhưng đồng thời cũng là Chúa thượng của chính Đavít, người được Thánh Thần soi sáng đã nói:
“Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con”.
Có nghĩa là trong Truyền thống Do thái, Chúa Giêsu đã là Con Thiên Chúa theo quyền năng. Tiếc rằng chúng ta ít quen với những cuộc tranh biện thuộc loại này, tranh biện của các bậc kinh sư. Trong những cuộc tranh biện này, Chúa Giêsu tỏ ra trổi vượt. Tuy nó làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng cũng giúp chúng ta thấy rằng Chúa quên mình để chiều theo những đòi hỏi của người đương thời. Qua cuộc tranh biện này và theo kiểu văn chương đông phương, chúng ta có ở đây lời tuyên bố sáng sủa và rành mạch về thần tính của Chúa Giêsu.
Tập trung vào Đức Kitô
Suốt một tiếng đồng hồ, sau khi đã giải thích rằng Chúa Giêsu là nhân vật mang trọn thân phận con người như ta có thể hình dung ra, một linh mục đã kết thúc bài nói truyện của mình rằng: “Dẫu sao ta cũng đừng quên rằng Chúa Giêsu cũng là Con Thiên Chúa”.
Thế kỷ ta sống đã khắc ghi vào tâm trí chúng ta cách nhìn này, không phải là không có lý bởi vì chúng ta đã đến muộn, nhưng phản ứng không phải là chối bỏ. Nói rằng Chúa Giêsu là siêu sao, là hippi, là nhà xã hội, cũng tốt thôi, nhưng nói Đúc Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể thì tôi càng thích hơn.
Điều làm nên cái tôi sâu xa của Đức Kitô, làm cho Người trở nên con người duy nhất và rất cần thiết cho mọi người sinh ra trên trần gian này, chính bởi Người là Thiên Chúa ở với chúng tôi. Sứ mệnh của Người không phải là phàm tục hóa vũ trụ, nhưng là lôi kéo vũ trụ đi vào dòng chảy tràn sự sống Thiên Chúa. Thiết tưởng chẳng cần ai phải suy tôn Người là bậc vĩ nhân, anh hùng, là những con người chúng ta sẽ luôn luôn có; Người đã đến trần gian này chỉ để đưa chúng ta nhập vào gia đình của Người mà thôi. Bởi ta chỉ muốn cho Người nên giống ta, nên như người của chúng ta, mà ta thường quên trở nên Người. Thế mà xem ra chính đó lại là lý do đưa Người đến với ta vậy.
Suy Niệm 5: HIỂU ĐÚNG VỀ ĐẤNG KITÔ (Mc 2, 35-37)
Trong các bài Tin Mừng trước, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn bị chất vấn bởi các người Pharisêu, Kinh Sư, phe Hêrôđê, nhóm Sa Đốc... Nhưng hôm nay, thánh sử Máccô lại cho thấy một tình thế ngược lại. Chính Đức Giêsu là người đứng lên chất vấn họ.
Khởi đi từ chỗ Ngài đặt vấn nạn về thân thế, nguồn gốc của mình: các Kinh Sư bảo Đấng Kitô là con vua Đavít, thế thì tại sao vua Đavít lại gọi Đấng ấy là Chúa Thượng tôi? (x. Tv 110,1). Không ai trả lời được, vì thế đám đông dân chúng lấy làm thích thú!
Qua câu hỏi đó của Đức Giêsu, Ngài không phủ nhận thân thế, vai trò của mình. Ngài cũng không từ trối tước hiệu con Vua Đavít. Nhưng dần dần, Ngài muốn cho mọi người hiểu về một Đấng Kitô chịu đau khổ, là tôi tớ của Giavê chứ không phải là một Đấng Kitô với mũ mão cân đai và đứng lên để làm chính trị như họ vẫn lầm tưởng!
Chính sự hiểu nhầm và mong ước phiến diện về Đấng Kitô, nên họ không thể chấp nhận Đấng ấy nằm ngoài khuôn mẫu của sự uy nghi, lộng lẫy, đánh đông dẹp bắc, quyền lực phi thường... Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài sống nghèo khó, không nhà không cửa, dạy con người ta hướng thiện, bác ái, bao dung, tha thứ thì họ đã không thể chấp nhận, và lẽ đương nhiên, họ tìm cách loại bỏ vì coi đó như là cái gai trong mắt và hòn đá cản lối đi.
Trong cuộc sống hôm nay nơi con cái của Giáo Hội, vẫn không thiếu những con người đủ mọi tầng lớp, luôn thích một Giáo Hội quyền lực, giàu có, oai phong; thích một Giáo Hội được củng cố bằng quyền lực... Không những thế, mà nhiều người đã áp dụng quan điểm đó ngay trong suy tư, nơi hành vi và lối sống của mình.
Những lúc như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa, mà là đường lối của những Pharisêu giả hình, của Luật Sĩ vụ luật, những Sa Đốc không niềm tin và phe Hêrôđê ham quyền...
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con hiểu được Lời Chúa dạy để biết sống điều Chúa muốn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Ánh sáng đức tin
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là con vua Đa-vít vì thuộc về dòng tộc Đa-vít, nhưng đồng thời Người cũng là Chúa của Đa-vít. Phải có lòng tin mới thấy được Chúa Giêsu vừa là người thật, vừa là Thiên Chúa thật.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thấy mỗi một người đều có chiều sâu kín ẩn mà mắt thường không thể nào nhận ra được. Giữa chúng con với nhau, hằng ngày chúng con nhìn thấy nhau và sát cánh bên nhau, nhưng chúng con cũng chẳng hiểu hết về nhau. Người Do Thái ngày xưa chỉ nhìn thấy Chúa là một người làng Na-da-rét bình thường, họ không nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai thuộc hoàng tộc Đa-vít, và lại càng không nhận ra Chúa là Chúa Đa-vít. Phần con, nếu không được Chúa mạc khải trong lời Tin Mừng, con cũng chẳng thấy được điều ấy.
Nhưng lạy Chúa, dù vậy, cho tới hôm nay con cũng không thấy được hết chiều sâu huyền nhiệm của Chúa. Chúa vẫn luôn vượt trên những điều con có thể thấy được hoặc hiểu được hay nói được về Chúa. Xin Chúa chiếu soi ánh sáng đức tin và dẫn dắt con ngày càng tiến sâu hơn vào mầu nhiệm của Chúa.
Xin Chúa mở lòng trí con để qua dòng đời biến chuyển, con thấy được Chúa là Thiên Chúa đang điều khiển thế giới. Xin mở lòng trí con để qua hình bánh rượu trong bí tích Thánh Thể, con thấy được Chúa phục sinh quyền năng đang ở với con. Xin mở lòng trí con để qua từng trang Phúc âm, con thấy được chính Chúa là Ngôi Lời đang công bố Tin Mừng yêu thương cho con. Và xin mở lòng trí con, để qua từng con người bé nhỏ thấp hèn, con thấy được chính Chúa nơi họ, nhờ đó con kính trọng họ, thông cảm và lắng nghe họ. Amen.
Ghi nhớ : “ Đám dân chúng thích thú nghe Người nói”.
Suy Niệm 6: Con vua Ðavít
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đêm nọ, một thanh niên đến với nhóm học hỏi Lời Chúa.
- Hãy cho tôi biết tôi phải làm gì để được ơn cứu độ.
- Bạn chậm quá rồi, - Một người nói.
- Ồ, đừng nói thế. Tôi tha thiết mong được cứu độ. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi đâu để được như thế.
- Tôi không thể giúp bạn. Bạn đến trễ quá! Việc cứu độ của bạn đã được thực hiện cách nay hơn 2000 năm rồi, nơi Đức Kitô. Tất cả những gì bạn phải làm bây giờ là tiếp nhận ơn đó. Bạn chẳng thể làm gì xứng đáng với ơn cứu độ. Đó là món quà tặng không cho ai mở lòng tiếp nhận.
Suy niệm
Một truyền thống Do Thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (x. 2Sm7,12; Tv 89,30-37; Gr 23,5; 33,15-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là “Con vua Ðavít” (x. Mc 10,48; 11,10).
Chúa Giêsu là “Con vua Ðavít” là Ðấng Thiên Sai có hai nguồn gốc: Ngài là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nguồn gốc thần linh nhưng đồng thời đã nhập thể làm người trong dòng tộc vua Ðavít. Theo nguồn gốc con người, lý lịch trần thế Chúa Giêsu là con vua Ðavít, thuộc dòng tộc vua Ðavít; nhưng Ngài là Thiên Chúa như lời thánh Gioan: “Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Ngài đến từ Thiên Chúa và mạc khải Thiên Chúa Cha như lời thánh Gioan tông đồ đã nói trong phần nhập đề của sách Phúc Âm thứ tư: “Không ai đã nhìn thấy được Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho ta biết mà thôi. Chúng ta hãy nâng tâm hồn lên để chúc tụng Chúa, chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến cứu rỗi chúng ta là Chúa Giêsu Kitô”. Cho nên, Đức Kitô là Thiên Chúa có trước vua Ðavít và đáng được vua Ðavít gọi là Chúa của mình. Đức Giêsu trưng dẫn Thánh vịnh:
“Bên hữu Cha đây, con lên ngự trị,
để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110,1).
Chính Kinh Thánh đã tôn vinh Ðấng Kitô với một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu “Chúa”. Sau biến cố Phục sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: Họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm “Chúa”. Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).
Ý lực sống:
Tôn vinh Đức Kitô:
“Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh,
vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh.
Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện,
tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. (Tv 110,3).
Suy Niệm 7: Đấng Kitô là Chúa
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu không chối mình là con vua Đavít, vì theo bản tính nhân loại, Người xuất hiện từ dòng dõi Đavít. Nhưng ở đây, Đức Giêsu cho thấy, Người vượt xa hơn tước hiệu ấy, vì Người còn là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, nên vua Đavít lại phải gọi Người là Chúa. Điều đó cho thấy Đức Giêsu từ địa vị Thiên Chúa, Chúa các chúa, Người đã tự hạ, để chia sẻ kiếp người nhỏ bé thấp hèn, để cảm thông thực sự với những khốn khó và yếu đuối của chúng ta.
2. Sau những câu hỏi mà các đối thủ đưa ra để cài bẫy, thì giờ đây, Đức Giêsu kết thúc cuộc tranh luận bằng cách tự đặt câu hỏi ngược lại về nguồn gốc của mình, cho các người luật sĩ và biệt phái.
Hôm nay Đức Giêsu đặt vấn đề với các luật sĩ về thần tính của Người: “Chính vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?” Khi nói thế, Đức Giêsu muốn gợi mở cho họ biết rằng Người chỉ là con vua Đavít về phần xác, còn về phần thiêng liêng thì người là Con Thiên Chúa và là Chúa Thượng của vua Đavít.
Đức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Đó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh đến thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: “Từ khởi thuỷ đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại, để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: “Thiên Chúa đã làm con người để con người được trở thành con Chúa”. Thật là vinh dự cho con người.
3. Với tước hiệu là con vua Đavít như dân chúng đã xưng hô Người trong ngày lễ Lá khi Người vào đền thờ, hay người mù thành Giêricô cũng đã kêu lên: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót con”. Đức Giêsu không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó chưa diễn tả đủ về Người. Vì thế, để kiện toàn những lời đã hứa với Đavít, Đức Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavít, Người là Chúa của Đavít. Đavít chỉ là một chủ chiên của dân Chúa, còn Đức Giêsu mới chính là chủ chiên thật, hiền lành, thí mạng sống cho cả Đavít. Rồi đây người ta sẽ thấy Đấng là con Đavít sẽ trở lại ngày phán xét.
4. Nhìn ngắm Chúa Giêsu là Chúa của Đavít:
Chúa Giêsu là con vua Đavít, chúng ta có thể nhận thấy và kiểm chứng được, vì Chúa Giêsu đã trở nên người như mọi người chúng ta qua mầu nhiệm Nhập thể; nhưng Chúa Giêsu là Chúa của Đavít, chúng ta không thể nhìn thấy bằng con mắt xác thịt được mà chỉ nhìn thấy qua con mắt đức tin thôi.
Trước những dấu chỉ diễn tả các thực tại thuộc bình diện đức tin, chúng ta phải mở rộng con mắt đức tin để đón nhận. Điều này cũng đòi hỏi chúng ta phải vận dụng đức tin, cậy, mến để tham dự các việc phụng vụ nhất là phụng vụ bí tích.
5. Trong cuộc sống hôm nay nơi con cái của Giáo hội, vẫn không thiếu những con người đủ mọi tầng lớp, luôn thích một Giáo hội quyền lực, giàu có, oai phong; thích một Giáo hội được củng cố bằng quyền lực… Không những thế, mà nhiều người đã áp dụng quan điểm đó ngay trong suy tư, nơi hành vi và lối sống của mình.
Những lúc như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa, mà đường lối của những người luật sĩ giả hình, biệt phái vụ lợi và nhóm Sađốc không niềm tin và phe Hêrôđê ham quyền.
6. Truyện: Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa
Ngày quân đội Liên Xô vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn, đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị linh mục. Viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói: “Ông biết không? Cái đó là sự dối trá của các linh mục bầy ra, để làm mê hoặc đám dân nghèo, và giúp những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng ông không bao giờ tin ông Giêsu là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và từ tốn trả lời: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
Viên sĩ quan quát lớn: “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!” Nói thế rồi anh ta rút súng ra, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông chết”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa”.
Nghe thế, viên sĩ quan vất súng xuống nền nhà, chạy đến ôm chầm lấy vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng có người dám chết vì đức tin, cho tới hôm nay. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng vẫn có người dám chết cho Đức Kitô”.
- 03/06 Giới răn trọng nhất
- 02/06 Người chết sống lại
- 01/06 Bổn phận tín hữu và công dân
- 31/05 Nhận ra dấu chỉ của Chúa.
- SỐNG TƯ CÁCH LÀM CON THIÊN CHÚA
- 30/05 Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
- 29/05 Do quyền phép nào?
- 28/05 Nhà cầu nguyện của mọi dân tộc
- 27/05 Chữa người mù Bartimê
- 26/05 Tiên báo Thương Khó