Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
13/09 Niềm tin vững mạnh
- Viết bởi Lc 7, 1-10
Niềm tin vững mạnh.
Thứ Hai tuần 24 thường niên. – Thánh Gioan Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
“Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.
* Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tụy, lo chấn chỉnh phong hóa cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý công giáo và huấn luyện đời sống Kitô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.
Lời Chúa: Lc 7, 1-10
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum.
Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: “Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta”.
Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”.
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: “Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”. Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cứ nói một lời
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.
Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.
Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,
vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế.
Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,
ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông
để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).
Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,
Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).
Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.
Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài
mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,
căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).
Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,
nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).
Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.
Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.
Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).
Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.
Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.
Là một sĩ quan trong quân đội Rôma
ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.
“Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi; bảo người kia: “Đến!” là nó đến;
và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm.” (c. 8).
Lệnh được ban ra là phải thi hành.
Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.
Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.
Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.
Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).
Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,
chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.
Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).
Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.
Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.
Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,
nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,
chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,
chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.
Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững
và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.
“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”
Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.
Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.
Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Suy Niệm 2: Đức tin mãnh liệt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật đáng ngưỡng mộ đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo. Đức tin tinh tuyền và nguyên sơ nhận Chúa là Chúa tể muôn loài. Các vị thần thánh khác chỉ có thể hầu cận phụng lệnh Người. Chúa toàn năng, chỉ cần “phán một lời” mọi thần thánh phải tuân hành và mọi sự đều hoàn thành. Đức tin sống động và cụ thể. Ngoại đạo nhưng ông giúp xây hội đường cho người Do Thái. Đức tin biểu lộ trong đức bác ái hoàn hảo. Ông yêu quí người nô lệ. Thật đặc biệt. Vào thời đó người ta coi nô lệ như súc vật, chỉ có việc phục dịch, như món hàng để mua bán, miễn có tiền là có quyền trên nô lệ, như dụng cụ, hư hỏng là vứt bỏ, thậm chí có quyền hành hạ và giết chết mà không có tội trước pháp luật. Thế mà ông yêu quí người nô lệ. Yêu quí đến nỗi phải đi cầu xin Chúa chữa cho nó. Đức tin cư xử tế nhị. Không phiền Chúa bước vào nhà ông, người ngoại. Vì sẽ bị ô uế. Đức tin của ông quả thật đáng cho ta noi gương bắt chước.
Thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy noi gương đức tin của ông. Tin Chúa có quyền tuyệt đối trên vua chúa trần gian. Tin Chúa nên hãy cầu nguyện cho mọi người. Và chính Chúa sẽ cho vua chúa trần gian được biết xây dựng hòa bình và người dân được an cư lạc nghiệp. Cầu nguyện cho vua chúa được noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết thương dân. Biết lo cho dân. Biết xây dựng đoàn kết. Phần chúng ta, nếu chúng ta có đức tin, siêng năng cầu nguyện thì tâm hồn ta sẽ có đức bác ái “tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (năm lẻ).
Ngài than phiền giáo dân Cô-rin-tô vì họ thiếu đức tin. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không nhìn thấy Chúa. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không cảm nhận mình được hiệp thông với Mình Máu Chúa, chỉ nghĩ rằng đi ăn tiệc vật chất. Vì thiếu đức tin nên họ cũng thiếu đức bác ái. Đi dự tiệc Thánh Thể nhưng chỉ biết phần ai nấy dùng và vì thế nhiều anh em bị đói bụng ra về. Ước gì giáo dân Cô-rin-tô biết noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết quan tâm đến người yếu kém. Biết tế nhị đừng sỉ nhục người nghèo. Biết chia sẻ bữa tiệc thánh. Nhất là biết cử hành Thánh Thể với đức tin. Tin Chúa hiện diện trong Thánh Thể thì họ sẽ biết kính trọng người khác. Sống bí tích Thánh Thể thì họ sẽ biết chia sẻ như Chúa. Và sẽ biết yêu thương hợp nhất. Vì Chúa chết để qui tụ muôn người (năm chẵn).
Vậy mỗi khi đọc lời kinh của viên đại đội trưởng ngoại đạo: “Lạy Chúa con chẳng đáng…” ta hãy bắt chước ông có một đức tin sâu xa, tin Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chính đức tin chân chính sẽ mở tâm hồn ra trong đức bác ái, để ta biết yêu thương mọi người, từ quan quyền tới người nghèo khổ, và nhất là biết chia sẻ với mọi người.
Suy Niệm 3: Sức Mạnh Của Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
"Xin Ngài chỉ nói một lời". Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: "Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị". Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.
Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.
Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sức Mạnh Của Niềm Tin
Năm 2002, trước khi Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình. Trước khi lên bàn mổ lần thứ hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ. Ðức cố hồng y xem những tháng ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.
Trong câu chuyện phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của viên sĩ quan người La Mã. Người sĩ quan này không đòi hỏi Chúa Giêsu phải đến tận nhà ông mà chỉ xin Chúa phán một lời thì cũng đủ sức chữa lành người đầy tớ của ông. Lời của viên sĩ quan này biểu lộ một niềm tin sâu sắc đến độ đã được Giáo Hội mượn làm lời tuyên xưng của chúng ta trước khi đến rước Chúa vào lòng.
Quả thật, chúng ta cần được Chúa chữa trị tâm hồn. Sức khỏe phần xác là điều cần thiết cho cuộc sống nhưng sức khỏe của linh hồn mới là điều quan trọng hơn. Có tất cả mọi sự, có sức khỏe thể xác nhưng linh hồn bại hoại thì được ích gì.
Nguyện xin Chúa cứu chữa tâm hồn chúng ta để giữa bệnh tật khổ đau và mất mát trong cuộc sống chúng ta vẫn một lòng tin tưởng nơi tình yêu quan phòng của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Một đức tin lạ lùng
Một viên đại đội trưởng kia có một người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. (Lc. 7, 2-3)
Đây không chỉ là một đức tin tuyệt vời mà Đức Kitô gặp thấy ở vị đại úy xin Người cứu chữa kẻ nô lệ của ông, đây còn là một đức tin lạ lùng làm kinh ngạc chúng ta khiến chúng ta phải thán phục chừng nào.
Vì thế Đức Giêsu đã quả quyết Người chưa gặp thấy lòng tin nào mạnh như thế, ngay cả trong dân Is-ra-el. Một đại úy của đế quốc Rô-ma có một kẻ nô lệ đau nặng, ông nghe đồn về một Đức Giêsu đầy quyền năng và lòng nhân hậu. Ông không dám đến gặp Người, hẳn ông ý thức rõ về địa vị của ông trong đế quốc đang thống trị dân Do-thái, không đáng đón nhận một ân huệ cho những kẻ thuộc quyền ông, dù Người cởi mở và hiếu khách. Nghĩ thế, nên ông đã nhờ những kỳ mục Do-thái làm trung gian dễ gần gũi Đức Kitô hơn. Các ông này có địa vị khá cao nên đến xin Đức Giêsu nhận lời xin của vị đại úy là người yêu quý dân Do-thái, chính ông đã xây hội đường Ca-pha-na-um bằng chính tiền của ông.
Chúa không từ chối lời cầu. Lập tức, Người lên đường. Người không kỳ thị dân tộc. Người làm ơn cho hết mọi dân tộc. Người sẽ đến đó để giúp đỡ và lắng nghe. Lúc đó lại xảy ra một biến cố đáng ngạc nhiên: viên đại úy nhờ các bạn hữu của ông đến thưa với Chúa: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Đó là lý do tôi nghĩ mình không xứng đáng đến gặp Ngài, nhưng xin Ngài cứ phán một lời thì đầy tớ tôi được khỏi”.
Câu nói vắn gọn lạ lùng đó, chúng ta đã lập lại mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, có làm cho chúng ta tin mạnh mẽ sâu thẳm như vị đại úy đó không? Ông không ở gần Đức Giêsu, nhưng ngay lập tức ông đã tin mạnh mẽ lạ lùng. Đức Giêsu đã ngây ngất thán phục trước đức tin của ông và đón nhận ông như môn đệ của Người.
Còn chúng ta, có thực, đức tin có liên kết chúng ta với Đức Kitô không? có thực, đức tin có giúp chúng ta tận hiến cho Người không?
GF
Suy Niệm 6: Đức tin của người dân ngoại
Xem lại CN 9 TN C - thứ Hai tuần 4 MV và tuần 4 MC - thứ Bảy tuần 12 TN
Tại các trung tâm hành hương, chúng ta vẫn thấy đây đó các bảng ghi ơn của những người ngoài Công Giáo như sau: “Con là kẻ ngoại đạo, con xin tạ ơn Chúa ... ”; “Tạ ơn Chúa... đã cứu giúp con, mặc dù con là người lương dân”. Điều này được thấy rất rõ ở trung tâm hành hương cha F.x. Trương Bửu Diệp tại Giáo phận Cần Thơ hay đền cha thánh Phêrô Lê Tùy thuộc Giáo phận Hà Nội.
Thật vậy, vẫn còn đó những người lương dân, đôi khi lại có niềm tin mạnh hơn cả những người Công Giáo. Đây là điều chúng ta nên hồi tâm và suy nghĩ lại về đời sống đức tin của mình với Thiên Chúa!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng khen ngợi đức tin của một viên sĩ quan ngoại giáo ở Rôma.
Khi nghe tin quyền năng và tốt lành của Đức Giêsu, ông đã truyền lệnh cho mấy trưởng tế đến để cầu cứu Đức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ của mình đang đau nặng. Khi được tin, Đức Giêsu muốn đích thân đến để cứu giúp đầy tớ của ông. Tuy nhiên, ông không dám mời Ngài về nhà mình, vì lý do nhận thấy mình không xứng đáng để được Đức Giêsu đến nhà. Ông chỉ dám xin Ngài phán một lời thôi thì đầy tớ ông sẽ được bình phục. Thấy được đức tin của ông mạnh và sự khiêm nhường thẳm sâu của ông, nên Đức Giêsu đã ra tay cứu giúp cho người đầy tớ thân tín của ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Sẵn sàng giúp đỡ những người đang cần đến chúng ta, mặc cho họ là ai, cùng niềm tin với mình hay không...! Mặt khác, sự xuất hiện và hành động của viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc ta bài học về tình yêu không biên giới, đã thương xót thì không phân biệt chủ - tôi, giai cấp... Đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa trong sự khiêm nhường, tín thác.
Sự khiêm nhường, tin tưởng tuyệt đối của viên sĩ quan khi xưa, nay đã trở thành mẫu mực cho mọi người chúng ta, đến nỗi trong phụng vụ thánh lễ đã lấy lại lời này như một tâm tình của con cái Giáo Hội khi chuẩn bị đón nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Mong sao lời tuyên tín này mang lại cho chúng ta sự khiêm tốn, tin tưởng, bình an, hạnh phúc đích thực chứ không chỉ là một công thức phải đọc như một thói quen mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin, sự khiêm tốn và lòng bao dung cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tôi không đáng rước Ngài
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, một sĩ quan ngoại giáo liền cậy nhờ những người làm lớn trong dân Do thái đế xin Chúa chữa đầy tớ yêu quí của ông đang hấp hối. Và các ông đã đến trình cho Chúa biết lai lịch của viên sĩ quan này. Tuy ông là người ngoại đạo, nhưng ông rất có thiện cảm với đạo giáo. Rồi các ông nài xin Chúa đến cứu chữa đầy tớ của ông. Chúa nhận lời.
Người còn đi dọc đường thì viên sĩ quan nhờ bạn hữu đến thưa không dám rước Người về nhà, chỉ xin Người phán một lời cho người bệnh được khỏi, như ông sai bảo binh lính và đầy tớ làm gì là họ làm theo. Chúa thấy viên sĩ quan này có đức tin mạnh mẽ và lòng khiêm nhường như thế thì khen ngợi, và đã làm phép lạ cho đầy tớ ông được khỏi bệnh.
2. Trong Tin Mừng, ít khi chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu khen, nhất là khi lời khen dành riêng cho một ai đó. Hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi niềm tin của một sĩ quan Rôma, lời khen thiết thực đến mức có sức chữa lành một người tôi tớ của vị sĩ quan này. Điều lạ ở đây là người được Chúa Giêsu ca ngợi về niềm tin, không phải là một chức sắc tôn giáo Do thái, cũng không phải là một đạo hữu Do thái mà là một kẻ ngoại đạo cầm quyền đô hộ dân Người.
Với những gì thánh Luca tường thuật, chúng ta dễ nhận ra rằng, Chúa Giêsu không quá phân biệt người có đạo hay kẻ ngoại, mà Chúa nhìn thấy tâm hồn của mỗi người... Điều mà Chúa khen tặng và sẵn sàng chữa lành hôm nay, chính là lòng tin, sự khiêm nhường cùng một số các đức tính khác mà chúng ta sẽ triển khai dưới đây.
3. Niềm tin của vị sĩ quan.
Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi cùng có lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; tôi bảo nguòi khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”(Lc 7,8).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do thái tin bệnh tật là do tà thần và sự sữ).
Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giêsu mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp (Hiền Lâm).
4. Lòng thương người của vị sĩ quan.
Ông thương bằng cách sẵn sàng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó. Theo luật pháp Rôma, một “nô lệ” được định nghĩa một “đồ dùng”, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, “kể cả” những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa. Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ là quá phi thường.
5. Sự khiêm nhường của vị sĩ quan.
Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giêsu truyền đạo.
Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nũa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh” (Lc 7,7).
6. Truyện: Hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Một hôm, Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà trọ có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng thì xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, không hiểu nổi, Dương Chu mới hỏi thằng bé trong nhà trọ. Thằng bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai nhìn ra cái đẹp của nàng cả. Trái lại người thiếp xấu, tự biết mình là xấu, mà quên xấu, không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến, dặn:
- Các con nhớ ghi lấy: giỏi mà bỏ được cái thói tự cao mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
Suy Niệm 8: Đức tin của một sĩ quan ngoại đạo
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu chữa bệnh cho đầy tớ một sĩ quan ngoại đạo:
- Ông này có lòng thương người: đầy tớ của ông bệnh mà ông lo lắng như cho con ruột; ông là người rôma nhưng xây cất hội đường cho người do thái.
- Ông cũng khiêm tốn: dù là giới cai trị, ông không ngại hạ mình đến xin Chúa Giêsu là người dân bị trị giúp đỡ mình; ông lại còn nói ông không xứng đáng cho Chúa Giêsu vào nhà ông.
- Đức tin của ông rất mạnh vì ông tin Chúa Giêsu chẳng cần đến nhà ông, chỉ ở xa phán một lời là đầy tớ ông sẽ khỏi.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu sẵn sàng ban ơn cho mọi người dù có đạo hay ngoại đạo, miễn là người đó có lòng tin. Thực tế ngày nay có nhiều người lương tin Chúa và Đức Mẹ, đã xin ơn và được ban cho.
Phần tôi, lắm khi tôi vừa xin vừa hồ nghi không biết sẽ được Chúa ban ơn hay không. Từ nay khi xin ơn Chúa, tôi phải xin với hết lòng tin tưởng.
2. Người sĩ quan này cũng làm gương cho ta về lòng nhân ái: yêu thương đầy tớ, yêu thương người bị trị. Xin cho con biết yêu thương những kẻ dưới quyền, những người kém thế hơn con.
3. Lời ông nói với Chúa Giêsu lại là một tấm gương khác về cách cầu nguyện khiêm tốn. Khi tôi cầu nguyện cùng Chúa, tôi phải bắt chước ông mà nói rằng “Con chẳng đáng”.
4. Chuyện này cũng phải khiến ta ý thức về sức mạnh của Lời Chúa. Khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền có những gì Ngài muốn. Chúa Giêsu chỉ ở xa phán một lời thì người đầy tớ kia hết bệnh.
Xin cho Lời Chúa mà con nghe mỗi ngày trở thành thần dược chữa trị mọi bệnh tật linh hồn con.
5. “Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi…” (Lc 7,6)
“Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Lời này khơi lên trong lòng tôi niềm mơ ước được rước Chúa. Dù biết mình không trong sạch, nhưng khi Ngài ngự vào linh hồn, tôi lại cảm thấy vững vàng trong đời sống. Sự hiện diện thực sự của Ngài trong Thánh Thể khiến tôi vững tin hơn để chống lại những cám dỗ thường ngày.
Không như người sĩ quan xưa, tôi biết mình có tội nhưng vẫn cầu xin Chúa thường ngự đến cùng tôi. Vì chỉ có Ngài mới là nguồn động viên an ủi nâng đỡ tôi trong từng phút giây.
Lạy Chúa, Ngài biết rõ mọi tật xấu, nhưng Ngài cũng thấu suốt mọi cố gắng từng ngày của con. Xin Ngài rộng lòng thương rửa sạch và ban bình an cho tâm hồn con. (Hosanna)
12/09 Đấng Kitô chịu đau khổ
- Viết bởi Mc 8, 27-35
Đấng Kitô chịu đau khổ.
CHÚA NHẬT TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Lời Chúa: Mc 8, 27-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê.
Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?"
Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35
1. Anh em bảo Thầy là ai?
(Trích trong ‘Manna’)
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ
sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),
sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi
sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,
đã cầu nguyện và tham dự các bí tích...
"Còn anh, anh bảo Thầy là ai?"
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.
Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,
kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu.
Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng
để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.
Chúng ta chỉ mon men đến gần,
nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.
Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ.
Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài
để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa".
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: "Thầy là Đức Kitô",
và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa".
Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi
mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,
Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.
Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,
tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,
tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,
tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
"Người ta bảo Thầy là ai?"
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.
Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,
nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu".
Gợi Ý Chia Sẻ
"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng
trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng
trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng chiến thắng
thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
2. Tưởng lầm
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ?
Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
3. Thí mạng cùi
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
ĐGM. Louis Désiré Maigret là Vị Đai Diện Tông Tòa (Vicar Apostolic) tại Hawaii, nhận thấy nhu cầu cần một vị chủ chăn thường trú tại Trại Cư Trú dành cho người phong, nhưng Ngài ngại ngùng không dám ”nhân danh Đức Vâng Lời” để chỉ định, và bắt buộc một Linh Mục nào, chấp nhận “án tử hình”. Ngài muốn các vị chủ chăn tình nguyện cho việc tông đồ cao cả này.
Sau khi cầu nguyện tại Nhà Thờ Thánh Antôn, tại Đảo Maui, thì có bốn Linh Mục sẵn sàng tình nguyện thay phiên nhau lần lượt đi giúp Trại Phong Hủi. Cha Damien tình nguyện đi xung phong, ngày10 tháng 5/1873. Ngài còn tình nguyện ở lại luôn tại Trại để chăm sóc 816 bệnh nhân cà hồn và xác, không phân biệt tín ngưỡng. Năm đó, Cha Damien, mới 33 tuổi, và ngài được tiếng là “khoẻ như voi.”
Vào năm 1875, tự tay Ngài đã xây cất được sáu nhà Nguyện nhỏ, chăm nom y tế cho các bệnh nhân. Ngài đi từng nhà băng bó, phát thuốc và dạy cách giữ vệ sinh.. Tự tay đóng được 2000 quan tài, và tự mình chôn cất bệnh nhân trong “Vườn Kẻ Chết.” Ngài từ chối tước hiệu do chính quyền Hawaii ban tặng và tiền lương 10.000USD, vì cho rằng “can thiệp” vào việc Tông Đồ của ngài. Nhưng ngài vui lòng nhận những vật liệu do chính quyền cung cấp để xây một nhà riêng dành cho nam thanh niên và một cư xá cho nữ.
Vào năm 1876, Cha Damien, đã nhận thấy những vết khô trên da thịt, cảm thấy sốt nóng nơi chân, và mất hẳn cảm giác, khi đổ nước sôi trên chân trái, Ngài đã sống nhiều năm, tự chứng kiến cái chết đến với các bệnh nhân. Ngài không sợ chết đến, cũng không ngần ngại chấp nhận cái chết.
Ngày Chúa Nhật đầu tháng 6, năm 1885, Cha Damien dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Philomena do chính ngài đã xây cất. Sau khi đọc bài Phúc Âm, ngài quay về các bệnh nhân, và không nói những lời chào thưa như mọi khi: “Anh Chị Em thân mến,”nhưng ngài tuyên bố một câu làm rung động khắp Nhà Thờ và chấn động cả thế giới: ”Chúng Ta, những Bệnh Nhân Phong Hủi” (WE LEPERS)
Và ngày 15 tháng tư, năm 1889, lúc 8 giờ sáng, ngài tắt hơi thở cuối cùng, thọ 49 tuổi, nét mặt vẫn tươi vui ”như em bé đi ngủ” (*). Ngày 11 tháng 10, 2009, Đức Giáo Hoàng Bêneditô XVI, tại Đại Thánh Đường Thánh Phêrô, Roma, đã Phong Thánh cho Cha DAMIEN và bốn Vị Thánh khác.
Như vậy, Thánh Damien đã toàn tâm toàn ý theo chân Chúa, hoàn toàn tuân thù và vâng phục Lời Chúa: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8, 35)
Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiết lộ về thân phận Chúa Giêsu, cùng điều kiện theo Người. Tuy chỉ vỏn vẹn 9 câu, nhưng có đến 3 thái độ của Chúa đối với Tông đồ Phêrô, các môn đệ và dân chúng. Chúa đã tỏ ra vui mừng, tức giận và ôn tồn khoan dung.
1- Chúa khen
Chúa Giêsu lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô mau mắn trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29) Chúa liền vui mừng khen ngợi: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17) Liền theo lời khen, Chúa giải thích vì sao Tông đồ Phêrô lại nói rất đúng về Người. Đó chính là nhờ Đức Chúa Cha mặc khải riêng cho Phêrô điều huyền nhiệm đó.
2- Chúa la
Nhân vì điều mặc khải ấy, Chúa Giêsu thân mật loan báo cuộc khổ nạn sắp đến của Người, để các Tông đồ cùng hiệp thông chia sẻ. Nào dè, Tông đồ Phêrô quá sức nhiệt tình thương mến Thầy, liền kín đáo kéo Thầy ra can ngăn, phiền trách Người: “Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.” (Mt 16, 22) Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ đang dõi mắt trông theo, liền công khai la mắng Phêrô: Vade retro Satana! Satan xéo ngay đi!
Lời can ngăn chí tình thầy trò mà bị mắng nhiếc quá nặng lời. Bởi vì Chúa đồng hóa lời can ngăn đó, như lời cám dỗ của Satan trước đây trong hoang mạc, hòng phá hỏng công trình cứu thế. Do vậy, Chúa mới giận dữ, xung thiên nộ khí. Vô tình, ý ngay lành của Tông đồ Phêrô lại trùng khớp với ý đồ của Satan. Với cái nhìn thiển cận, với cái tâm hạn hẹp, loài người làm sao hiểu thấu nổi Thánh Ý cao cả.
3- Chúa dạy
Chúa vẫn biết tấm lòng thành của Tông đồ Phêrô, vẫn luôn yêu mến Thầy. Chẳng qua, Phêrô vẫn chưa hiểu thấu đáo sứ vụ của Người. Hơn nữa, theo tính xác thịt tự nhiên, thì ai mà chẳng ham sống, sợ chết. Nhất là cái chết ấy còn liên lụy đến bản thân mình, đến các môn đệ.
Chính vì thế, Chúa Giêsu mới ôn tồn giảng dạy cho các môn đệ và muôn dân về điều kiện theo Chúa. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34 – 35) Các Thánh Tông đồ sau này đều liều mạng sống vì Chúa để làm chứng nhân Tình Yêu.
Gần đây, Thánh Damien cũng thế, sẵn sàng đánh đổi cuộc đời vì Chúa và Tin Mừng. Ngài đã thí mạng cùi phục vụ tha nhân, không chút ngần ngại e dè. Mạng sống con người tuy cao quý, vì do Chúa tạo dựng, nhưng nếu phục vụ cho mục đích cao cả vì Chúa, thì trở nên phương tiện tốt lành để đổi lấy đời sau vinh phúc. Bằng không, chỉ lo phụng dưỡng tôn thờ cái bụng như Thánh Phaolô đã nói, thì cái thân xác rồi cũng dần hao mòn, chết đi và mục nát theo dòng thời gian, nào khác bị phung cùi hủy hoại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ đam mê, từ bỏ tội lỗi, để sống theo Thánh Ý, theo Tin Mừng, để con khỏi bị Chúa khước từ, xua đuổi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn mãi đồng hành với con trên nẻo Đường Hy Vọng, để con cùng Mẹ, với Mẹ và nhờ Mẹ, vác thập giá theo chân Chúa trọn đời. Amen.
(*) Lm Đường Thi http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2010/01/03/nam-linh-muc-guong-hy-sinh/
4. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh , thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: "Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người" (Augustino, Enarr in Ps 90).
Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?
Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8,) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.
Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8,) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
5. Nhận biết Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
1) Nhận biết Đức Kitô
Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: "Chúa Giêsu là ai?" Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi: "Các con bảo Thầy là ai? " Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.
Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.
• Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;
• Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc song;
• Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;
• Người làm cho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;
• Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;
• Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện, Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loại cả xác lẫn hồn.
Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa "làm", chúng ta đi đến kết luận: "Người là Đấng Mêssia" (tiếng Hy lạp là: Đức Kitô)". Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, "Người ta bảo Thầy là ai?" Phần lớn trả lời "người làm việc " không hơn không kém các tiên tri trước Người. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai? " Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời: "Thầy là Đức Kitô! " Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một "sinh vật phải chết", cái chết của Chúa "gắn" liền với Thập giá; Người "giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc" của sự chết.
Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa: "Thầy là Đức Kitô". Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại" mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết: "Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ", Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.
Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.
Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như "chìa khóa" Chúa dùng để mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác "chìa khóa" nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô "chìa khóa" Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để "cởi trói" những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ "ràng buộc" họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.
2) Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh
Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.
Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn: Cả cuộc đời Người là một lời "xin vâng" không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời "từ chối" luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu: để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngai vàng của Người là cây Thập giá.
Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một: "Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo", vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.
Quả thật, Thánh giá là "hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại" (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.
Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu "hy sinh". Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen.
6. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?
Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8,) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.
Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8,) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
7. Số phận của Đức Yêsu -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Căn tính của Đức Yêsu
Sau bao nhiêu lời giảng dạy và phép lạ đã thực hiện nơi người Do Thái, Đức Yêsu muốn biết dân chúng nghĩ sao về Ngài. Ngài hỏi các tông đồ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các tông đồ trả lời: “người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, người khác bảo là Elia, và người khác nữa thì nói thầy là một tiên tri nào đó”.
Đức Yêsu muốn biết lập trường quan điểm của các tông đồ: “còn các anh em, anh em nói thầy là ai?” Phêrô đã mau mắn đại diện các tông đồ trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Theo Đức Yêsu, Phêrô biết điều này không phải do tự sức con người của Phêrô, nhưng do được Thiên Chúa mặc khải.
Lời tuyên xưng của Phêrô có nghĩa gì? Từ ngữ “Kitô”, được dịch theo âm bởi chữ Hylạp “Khristos” (tiếng Anh và Pháp dịch là Christ), và rồi chữ “Khristos” tiếng Hylạp là dịch theo nghĩa chữ Massiah tiếng Dothái, có nghĩa được xức dầu. Từ ngữ “Con Thiên Chúa” cũng được dùng trong Cựu Ước; có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn những người công chính, các vị vua và ngay cả các thiên thần. Ngày nay các kitô-hữu đều nhận mình là con Thiên Chúa.
Từ ngữ “Con Thiên Chúa”, hiểu như người được Thiên Chúa sinh ra và đồng bản tính với Thiên Chúa, thì chỉ có Đức Yêsu. Tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa, là tuyên xưng “Đức Yêsu là Thiên Chúa”. Điều này người ta chỉ nhận biết sau khi Đức Yêsu phục sinh, và các tông đồ là những người đầu tiên nhận biết điều này.
Trước khi biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, thì chữ “con Thiên Chúa” theo người Do Thái chỉ có nghĩa là người đặc biệt, người luôn làm theo ý Thiên Chúa, người được Thiên Chúa yêu thương. Thế nhưng cho dù các Tin Mừng đề cập đến Đức Yêsu trước khi Ngài phục sinh, nhưng tất cả các Tin Mừng lại được viết sau biến cố Đức Yêsu phục sinh, sau khi các tông đồ đã nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, nên các nhà chú giải có khuynh hướng giải thích lời tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa của Phêrô như lời tuyên xưng thần tính của Đức Yêsu.
Đức Yêsu đã cấm các tông đồ loan báo điều các ông được mặc khải “Ngài là Đức Kitô”. Sở dĩ vậy vì dân chúng thời đó lại hiểu “Đức Kitô” theo một nghĩa khác. Trong lịch sử dân Do Thái, khi dân bị khốn khổ bị hà hiếp bị áp bức bởi dân tộc khác như thời ở bên Ai Cập, thời các thẩm phán, thời lưu đày, thì Thiên Chúa đã sai các vị “kitô” tới để giải phóng dân, chẳng hạn Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng dân khỏi Ai cập, sai các thẩm phán như Samson, Đêborah, và thời lưu đày đã sai Kyrô (Ys.45, 1) v.v.. Chính vì vậy Đức Yêsu không muốn các tông đồ nói điều này ra, vì như vậy, dân chúng sẽ tưởng Ngài là một vị “Kitô” chính trị, đến để giải phóng dân Do Thái khỏi bị người Roma đô hộ.
Đức Yêsu là ai? Phêrô đã đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng được xức dầu, được Thiên Chúa sai đến với con người, Thầy là Con Thiên Chúa. Thế còn đối với tôi, Đức Yêsu là ai?
Số phận của Đức Yêsu và số phận của tôi
Đức Yêsu đã bị bắt, bị đánh đập hành hạ, bị giết...!
Đức Yêsu, là Đấng Kitô, là Đấng thánh của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế mà Ngài bị khốn khổ như vậy sao? Ngài phải bị như vậy sao? Tại sao Ngài chấp nhận điều đó?
Ở vào địa vị của tôi, tôi sẽ làm gì? Tôi có hành xử như Ngài không?
Điều kiện để theo Đức Yêsu
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi.” Tôi tớ không lớn hơn chủ. Tôi tớ được bằng thầy là khá lắm rồi. Tôi thật sự có muốn làm môn đệ của Đức Yêsu không? Nếu tôi muốn làm môn đệ của Đức Yêsu, tôi có sẵn sàng chấp nhận số phận của Đức Yêsu là số phận của tôi không? Tôi có sẵn sàng chấp nhận thập giá mình không? Thập giá mình, là những giới hạn của con người tôi, những điều tôi không muốn về tôi nhưng tôi vẫn vậy, tôi có sẵn sàng chấp nhận, và sẵn sàng cậy dựa vào Thiên Chúa để Ngài làm tất cả cho tôi, để Ngài là tất cả cho tôi không?
Cách thế của Đức Yêsu là tự hủy, là chấp nhận con người, chịu đựng cả sự lạm dụng tự do của con người nữa. Ngài chỉ muốn dùng tình yêu để đánh động lòng người để họ nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, để họ trở về với Thiên Chúa, để họ nên giống Thiên Chúa, để họ là con Thiên Chúa thật sự.
Chúng ta là con Thiên Chúa, khi chúng ta suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương, con Thiên Chúa cũng phải sống yêu thương; Thiên Chúa nhân hậu và tha thứ, con Thiên Chúa cũng phải biết nhân hậu và tha thứ; Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc, con Thiên Chúa cũng muốn con người, và cụ thể là những người sống quanh mình được hạnh phúc.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận con người của tôi, thập giá hằng ngày của tôi để bước theo Ngài không?
8. Tin và theo
Tin trước tiên là tin ở một con người. Không chỉ là biết con người đó là ai, biết một cách chung chung, khách quan theo lý lịch hay qua một sự điều tra có tính cách khoa học, mà chính là biết được người đó là gì đối với chính bản thân và cuộc đời của mình. Như thế, tin đích thực không chỉ là thái độ của trí óc mà còn là thái độ của con tim.
Trong lòng tin của người Kitô hữu, con người đó chính là Chúa Giêsu. Vì thế, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hỏi các tông đồ phải bình luận những điều Ngài giảng dạy đúng hay sai, cũng như nói lại những gì các ông đã thu hoạch được trong giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta thấy Ngài yêu cầu các ông nói lên chính Ngài là ai. Các ông đã lặp lại ý kiến của các người khác về Ngài, nhưng Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ, Ngài còn đòi các ông phải tự mình trả lời câu hỏi Ngài là ai.
Tin đối với người Kitô hữu, chính là tự đặt mình vào trong mối quan hệ với Đức Kitô và hành động theo những đòi hỏi của mối quan hệ này. Lòng tin của người Kitô hữu bao hàm một sự gắn bó với Đức Kitô như con đường của sự thật, của sự sống, bao hàm việc đi theo Ngài, dù phải ngang qua đau khổ và thập giá. Con đường Chúa Giêsu đã đi vốn là con đường thập giá. Như thế, chưa có thể gọi được là tin đích thực nếu như chưa có một sự biến đổi trong cuộc sống, chưa có những hành động kèm theo điều chúng ta tuyên xưng.
Phêrô đã bị quở trách một cách nặng nề, bởi vì, mặc dầu ông đã tuyên xưng đúng Thầy của mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, nhưng chẳng những đã không đi theo Thầy, mà còn muốn ngăn cản Thầy đi con đường của Thầy. Chỉ có thái độ sống hay hành động mới chứng thực cho sự chân thật của lòng tin.
Miệng nói mà chân tay không làm theo thì đúng là kẻ giả hình. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài gọi họ là những mả tô vôi. Nói một đàng, làm một nẻo, thì đúng là kẻ gian dối. Có những người rao giảng sự ưu tiên cho người nghèo, nhưng trong thái độ thì lại trọng người giàu, đi với người giàu, làm theo người giàu, và coi nhẹ người nghèo. Có kẻ lập luận thì xem ra tiến bộ lắm, nhưng hành động thì lại đầy tính cách bảo thủ, cha chú, độc đoán.
Những trường hợp như thế là một kinh nghiệm thường ngày của chúng ta và phải là một lời cảnh cáo đối với mọi người. Một Phêrô cản ngăn Thầy mình đi Giêrusalem ngay sau khi tuyên xưng lòng tin nơi Thầy như đang còn tiềm ẩn trong thẳm sâu cõi lòng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
9. Nói và làm
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
10. Về phần con, con bảo Thầy là ai? -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, "Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29)
Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: "Về phần con, Thầy là ai đối với con?"
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ."
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác."
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: "Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người... Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!"
Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: "dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta." (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một "Đức Kitô vinh thắng" chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một "Đức Kitô nhẫn nhục" hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. "Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình."
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.
Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:
"Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý". (Thư gửi bà Von Vizine)
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
11. Người ta bảo Thầy là ai? -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu". Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách "cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu" mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình...
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.
12. Con người ngày nay nói Đức Giêsu là ai? -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Những nhà đạo đức hôm nay dường như không bằng lòng với cách suy nghĩ và hành động của đa số các bạn trẻ về tôn giáo. Bởi vì cách biểu hiện hành vi thờ phượng của họ có vẻ phàm tục nhiều hơn là thánh thiêng.
Nếu hỏi họ lý do nào bạn tới Nhà Thờ và Chùa Chiền, ta sẽ nhận được nhiều câu trả lời đại loại như: “đi nhà thờ, chùa để gặp gỡ nhiều người, đi lễ để có dịp mặc áo mới, tích cực một chút là đến nhà thờ thấy tâm bình an hơn". Ngược lại có người lại bảo theo đạo là tại tâm. Đi lễ đi chùa không quan trọng mà quan yếu là sống tốt là được . . .Họ cho rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng. Và theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật...
Có một lần nói chuyện với một người bạn, tôi hỏi: “Theo bạn, tôn giáo nào tốt nhất?”.
Tôi nghĩ bạn ấy sẽ nói: “Thiên Chúa giáo” là tốt nhất. Nhưng anh bạn ấy trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.
Quả thực, một tôn giáo tốt là phải biến các môn sinh thành những con người biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.
Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và cũng là hỏi từng người chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chứ không ép buộc. Nhưng đã tin theo Ngài thì phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Đây là đòi hỏi của Tin mừng nhưng lại vượt sức của con người, nếu không có ơn Chúa thì con người sẽ khó có thể vượt qua những đòi hỏi gắt gao này. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: “ai bước đi theo Thầy sẽ không phải chết đời đời”. Đây là điều để các ngài dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ngài đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển noi quê trời.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Xin cho những người tin vào Chúa biết sống biểu lộ niềm tin của mình qua đời sống công bình, bác ái và yêu thương. Amen.
13. Tình bạn là mãi mãi -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thành ngữ Việt Nam có câu: "Giàu vì bạn, sang vì vợ". Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. Con người ai cũng cần một người bạn tri kỷ để có thể chia sẻ vui buồn có nhau, và nhất là để giúp nhau vượt qua khó khăn. Một người bạn chân thành không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh 10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4 ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.
Tình bạn chân thật thì luôn có nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì, như ai đó đã nói:
“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình.”
Các môn đệ năm xưa đi theo Chúa. Chắc chắn các ngài đã được Chúa yêu thương đùm bọc. Chúa Giêsu còn coi các môn đệ là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ. Các môn đệ đã được cùng chia sẻ niềm vui hạnh phúc với Chúa trong những lúc thành công trên đường truyền giáo.
Hôm nay, Chúa đòi các ông thể hiện tình bạn với Chúa không phải lúc Chúa được tung hô khi hóa bánh ra nhiều, hay khi cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chúa đòi các môn đệ thể hiện tình bạn trên chặng đường thập giá để tới Núi Sọ. Chúa bảo rằng: “Ai muốn theo Thầy, thì phải vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy”. Khi dám theo Chúa trên con đường thập giá thì Chúa sẽ ban phần thưởng sự sống đời đời cho họ. “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống”.
Nhưng xem ra tình bạn chân thành với Chúa chẳng mấy ai! Khi Chúa đi vào vườn cây Dầu đã chịu cảnh cô đơn một mình. Các bạn bè Chúa vẫn ngủ mê. Khi Chúa bị bắt trói thì các môn đệ mạnh ai nấy chạy. Khi Chúa bị dẫn vào dinh Cai-pha thì Phê-rô trối Chúa 3 lần. Khi Chúa vác thập giá lên Núi Sọ chỉ còn một mình Gioan bước theo xa xa.
Xem ra tình bạn với Chúa chỉ có khi nhận được ân huệ của Ngài. Tình người thật hay thay trắng đổi đen. Thế nên, cuộc đời vẫn còn đó những người tôn thờ Chúa khi giầu sang, khi làm ăn thịnh vượng nhưng rồi họ bỏ Chúa khi làm ăn thất bại nợ nần. Cuộc đời vẫn còn đó những người theo Chúa chỉ để mong được sống sung sướng, và rời xa Chúa khi mộng ước của họ không thành.
Xem ra Chúa Giêsu vẫn cô đơn trong dòng đời hôm nay. Ngài rất cần một người bạn tri kỷ như Gioan để đứng bên Chúa khi khó khăn. Ngài vẫn cần sự đồng cảm như Madalena để đi theo Chúa trên đường thập giá.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách sống, cách nghĩ của mình với Chúa. Hãy đến với Chúa không phải vì bổng lộc mà vì tin tưởng vào quyền năng của Chúa để phó thác cho Chúa. Hãy ở lại bên Chúa dầu cuộc sống còn nhiều những khó khăn. Hãy vác thập giá theo Chúa dầu thiệt thòi đời nay nhưng Chúa sẽ ban thưởng cho ta bằng nhiều cách khác nhau, nhất là hạnh phúc thiên đường. Amen.
14. Đức Kitô.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
15. Tuyên xưng Thiên Chúa tình thương trong đời sống
Môn đệ theo Chúa Giêsu được tuyển chọn đặc biệt, được yêu thương cách riêng. Các ông đã đi theo Chúa Giêsu nên đã từng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến nhiều phép lạ... Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu cho các ông làm bài kiểm tra, để tỏ ra lòng tin, mến mức độ nào đối với Chúa Giêsu.
Thoạt tiên, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò xem người khác nói về Ngài như thế nào? Ngài hỏi họ "người ta bảo Con Người là ai?". Nhiều ý kiến khác nhau: "Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó" (Mc 8, 28). Như thế, dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi Con Người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng điều quan trọng không chỉ biết đúng mà còn phải biết đủ về Chúa Giêsu nữa: "Ngài chính là Con Thiên Chúa thật làm người thật".
Dân chúng đã nhận định về Chúa Giêsu như thế. Bây giờ đến lượt các tông đồ, Chúa Giêsu muốn các ông trả lời cách xác tín về Ngài và về sứ vụ của Ngài nên Ngài hỏi: "Các con nói Thầy là ai?". Đứng trước câu hỏi này, các ông không ngỡ ngàng lắm vì họ đã sống với Ngài lâu rồi, thấy nhiều phép lạ rồi, nghe giảng nhiều rồi. Đây là dịp để các ông bày tỏ niềm tin vào Ngài thôi. Vì thế, Phêrô thay mặt anh em trả lời với Chúa Giêsu: "Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống" (Mc 8, 29). Câu trả lời này của Phêrô làm cho Chúa Giêsu rất hài lòng. Phải, Thầy là Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo, mà muôn dân đợi trông. Thật thế, chính những người bệnh tật được Ngài chữa lành, người chết được ngài cho sống lại, kẻ tôi lỗi được ngài tha thứ và ban bình an, niềm hạnh phúc thật sự, hết mọi người được nghe loan báo...Tất cả những dữ kiện đó há chẳng phải của Đấng Thiên Sai, chẳng phải được ban trong thời Thiên Chúa cứu độ mà các tiên tri loan báo (x. Lc 4, 18 - 24). Không những Ngài trao ban cho họ sự sống thể lý, vật chất mà Ngài còn trao ban cho họ chính sự sống của Ngài, sự sống thần linh, sự sống đời đời, sự sống mà chỉ có Thiên chúa là chủ tể sự sống mới có và trao ban được mà thôi. Quả thật người Do Thái thời Chúa Giêsu quá hạnh phúc vì chứng kiến và thừa hưởng tình thương, ân sủng và ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách tỏ tường. Chính vì thế mà Phêrô tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống"
Đến lượt chúng ta, ngày nay Chúa Giêsu đang cần chúng ta trả lời, trả lời Ngài là ai trong đời sống hằng ngày sống giữa anh chị em chúng ta? Hẳn thật đây là câu hỏi giúp chúng ta kiểm điểm niềm tin và thái độ sống của mình. Có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Và chúng ta đáp trả lại như thế nào?. Hơn nữa, cách sống của chúng ta có làm người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không? Chúng ta đã thật sự sống vai trò của người môn đệ, của người thụ ơn Thiên Chúa. Chúng ta có dám rao giảng và can đảm làm chứng có Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này, trong bản thân mỗi người chúng ta chưa? Chúng ta có thật sự sống trao ban tình thương mà chúng ta đã nhận lãnh hết từ ơn này đến ơn khác của Thiên Chúa chưa? Thật thế, sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, chúng ta hãy thể hiện cho người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không, là người được Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hãy can dảm và sẵn sàng yêu thương như Chúa yêu bởi vì chúng ta nhìn nhận rằng: tất cả những gì tôi có đều nhờ bởi ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin mạnh mẽ vào Ngài và can đảm sống chứng nhân về tình yêu thương của Ngài giữa đời trong cuộc sống chúng con đang hiện diện với mọi người. Amen.
16. Đau khổ.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
17. Con Người là ai? - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong bài Tin mừng này, thánh Marcô trình bày cho ta thấy có ba mức độ nhận biết về Đức Giêsu.
1. Mức độ của dân chúng: Họ nhận thấy Đức Giêsu là một tiên tri như Gioan tẩy giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri hay Ngôn sứ là người được Thiên Chúa trao cho một nhiệm vụ, tuyên bố một việc gì sẽ xảy ra, một điều gì về Thiên Chúa, hay một sự gì Chúa sẽ làm cho dân, cho loài người. Để nhận biết đó là vị tiên tri của Thiên Chúa, Chúa thường cho ông có quyền làm một ít việc lạ lùng như chữa bệnh, khiến mưa nắng … Vì thế, người ta đến với tiên tri để nghe lời Chúa thì ít, để xin chữa bệnh, xin ơn cứu con, cứu mình khỏi tai họa thì nhiều. Cũng thế, chúng ta nghe lời Chúa thì ít, mà xin ơn này ơn kia thì nhiều.
Dân chúng coi Đức Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Người để cầu khấn hơn là tin lời Người. Họ xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại, như vậy, họ đến với Đức Giêsu vì ích lợi cho họ, không vì theo Chúa. Họ ích kỷ, vị kỷ, không có lòng vị tha, xả kỷ. Họ giống như kẻ theo đạo kiếm gạo mà ăn, cầu lợi, cầu phúc. Không được lợi, được phúc là chán, rồi bỏ đạo.
Những kẻ như thế, không thể nhận ra Người là Đấng Kitô.
2. Mức độ thứ hai của các môn đệ nhận biết về Đức Giêsu: Khi Đức Giêsu hỏi: “Các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Trước cộng đồng hội đường Nagiareth, Đức Giêsu đã xác nhận lời ngôn sứ Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc. 4, 18. xem Is. 11 và 61, 1-2 và 1V. 19, 16). Đức Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.
Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Người siêu việt, sự việc Người đã lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv. 11 và 12).
Phêrô và các môn đệ đã nhiễm lây quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế, nên khi thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ hai môn đệ Gioan và Giacôbê đến xin cho con mình: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Người ra và can ngăn Người đừng dại dột thế. Đức Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 22-23).
3. Mức độ thứ ba nhận biết về Đức Kitô: Chính Đức Giêsu đã dạy các môn đệ nhận biết về Đức Kitô ở mức độ này: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại. Người nói rõ điều đó và không úp mở”.
Đó là sứ mệnh cốt yếu của Đức Kitô: Hy sinh khiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga. 3, 16-18. 15, 13).
Chỉ có con đường hy sinh như thế mới chứng tỏ tình yêu vô cùng quảng đại và vị tha, mới cho ta thấy được Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Còn những con đường cầu lợi, cầu danh, cầu vinh trần gian chỉ là giả dối, ích kỷ, hẹp hòi. Cho nên, không lạ gì, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta phải tin vào con đường tình yêu hy sinh xả thân đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.
Đó là thứ “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Không một thánh nhân nào mà không để cho Thánh Thần nung nấu. Không một vĩ nhân nào mà không trải qua gian nan.
Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm thấm thía thánh giá của Đức Kitô trên đỉnh đồi Canvê, nhờ thế các ông đã vác thập giá của mình cho đến hơi thở cuối cùng trên đỉnh đồi Vatican.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã trả lời cho con biết: Người là Đức Kitô đã hy sinh chịu đau khổ, chịu chết vì con. Xin cho con biết trả lời cho Chúa: Con là Kitô hữu đang vác thập giá mình mà theo Chúa, chứ không phải là thứ môn đệ chỉ xin ngồi bên tả, bên hữu, chỉ đòi vinh quang cầu lợi, cầu phúc, cầu cứu mạng sống mình mà chẳng biết hy sinh chút nào! Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận biết Người là ngôn sứ để con lắng nghe lời Chúa, chứ không phải để cầu lợi, cầu phúc. Người là vua để cai trị lòng con, chứ không để xin địa vị danh vọng. Người là Đức Kitô chịu chết trên thánh giá, để con được vác thập giá theo Chúa, chứ không để cứu mạng con ở đời này.
18. Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa nào? -- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Đã đến lúc Chúa Giêsu cần làm một cuộc thăm dò dư luận (kiểu mini bỏ túi) để biết quan điểm của dân chúng và đặc biệt là của các môn đệ thân tín về căn tính đích thực của Ngài. Dân chúng xem ra còn hoài nghi nên có nhiều ý kiến trái ngược.
Một số người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả. Dựa vào đâu mà họ quả quyết như thế? Họ dựa vào sự kiện Chúa Giêsu cũng làm phép rửa và cũng kêu gọi người ta sám hối như Gioan. Câu trả lời của họ đúng hay sai? Chỉ đúng 1/4.
Một số khác lại nghĩ rằng Chúa Giêsu là Êlia. Tại sao lại là Êlia? Chúa Giêsu có điểm nào giống Êlia? Vì Chúa Giêsu cũng là người hay làm phép lạ như Êlia đã từng làm. Lời khẳng định của họ đúng hay sai? Đúng nhưng cũng chỉ mới đúng 1/4.
Một số khác nữa lại khẳng định Chúa Giêsu là một ngôn sứ đại loại như bất kỳ một ngôn sứ nào khác. Vì sao? Vì họ thấy Chúa Giêsu cũng nói lời của Thiên Chúa, nói nhân danh Giavê Thiên Chúa mà thôi. Khẳng định này cũng chỉ đúng có 1/4.
Đến đây thì Chúa Giêsu muốn nghe một ý kiến khác, ý kiến của chính các môn đệ là những mgười đã từng sống gần gũi thân mật với Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ tuyên xưng cách mạnh mẽ và dứt khoát rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu chờ đợi từ lâu, và cũng là câu trả lời làm hài lòng Ngài nhất.
Tuy nhiên xét cho cùng thì câu trả lời này cũng chỉ đúng 1/2, tức là mới chỉ đúng một nửa. Đúng về mặt danh xưng, tức là tước hiệu của Đức Giêsu: Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đấng Kitô nghĩa là Đấng thiên sai đến để hoàn tất lịch sử mà mọi người trông đợi. Nếu chỉ dựa vào khía cạnh này mà cho điểm, có lẽ Phêrô sẽ được điểm tuyệt đối, điểm 10/10.
Còn hiểu về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu thì Phêrô bị lãnh điểm zêrô. Vì ông đã hiểu sai hoàn toàn về cách thức cứu thế, về phương thế cứu độ mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Trong tâm thức của Phêrô và của đại đa số dân chúng thì họ vẫn mong đợi một Đấng Cứu Thế uy nghi ngự giá mây trời mà đến như sứ ngôn Đaniel đã loan báo. Họ vẫn trông chờ một Đấng Thiên Sai Vua theo kiểu trần thế, đấng đến làm cách mạng lật đổ ách thống trị của Rôma và tái lập một Israael hùng cường. Nói khác đi, họ vẫn còn quan niệm một Đấng Mêsia đến để thống trị hơn là để phục vụ.
Đâu là lý chứng khẳng định Phêrô đã sai về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu? Lý chứng đó là Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách khi ông căn ngăn Chúa về con đường cứu thế mà Ngài sẽ đi. Chúa Giêsu quở trách ông là Satan. Ngài cũng điểm chỉ cho Phêrô thấy rằng tư tưởng của ông là tư tưởng của người trần mắt thịt chứ không phải là của Thiên Chúa.
Thế thì con đường cứu thế mà Chúa Giêsu sẽ đi là con đường nào? Đó là con đường đau khổ, con đường thập giá: "Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại". Đó là con đường của người tôi trung mà ngôn sứ Isaia đã loan báo như chúng ta vừa nghe trong bài đọc I. Đó là con đường phục vụ, con đường hiến dâng: "Ta đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người". Con đường đó cũng là con đường mà tất cả những ai muốn theo Ngài sẽ phải đi: "Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo"...
Hôm nay Đức Kitô đối với tôi là ai? Phải chăng Ngài chỉ là một thần tượng như bao thần tượng khác, hay khá hơn Ngài chỉ là một siêu nhân? Nếu tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất đã đi con đường thập giá tử nạn, con đường hi sinh phục vụ, thì tôi cũng phải đi con đường ấy. Vậy tôi đã chọn lựa con đường mà Chúa Giêsu đã đi hay chưa? Và nếu tôi đã dứt khoát lựa chọn rồi, thế thì tôi đã can đảm bước theo Ngài chưa hay còn chần chừ e sợ?
19. Chúa Nhật 24 Thường Niên.
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành đặt biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẵng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bổng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàn thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vát Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
"Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Oâng cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Oâng theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mĩm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
20. Đau khổ --Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Đây là một điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn theo Chúa. Và ai muốn theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là vác thập giá. Vác thập giá nghĩa là thế nào?
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt". Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hít-le đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia.
Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẻ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: "Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp". Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn ngườichết. Bản án còn vang lên: "Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi". Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh.
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: " Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo". Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: "Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
21. Đức Kitô là ai? Tôi là ai?
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Nhóm 12, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến lúc Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thư nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20/07/1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?”, và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong qua khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối mọi người, tôi là ai? Trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo hoàng Gio-an XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ với bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.
22. Nói không với chính mình - AM Trần Bình An
“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi:
- Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)?
- Tôi thưa: Có.
- Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?
- Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.
- Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.
- Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi.
Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:
- Tôi không được phép nói.
Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng:
- Ông có tôn trọng chính quyền không?
- Có - luật đạo chúng tôi dạy điều ấy.
Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.
Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng "chính quyền" không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi 'có tôn trọng luật pháp không', thì tôi thưa khác".
- Ông thưa khác thế nào?
- Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.
- Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên:
- Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng:
- Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không?
Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng:
- Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.
Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng:
- Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?
Tôi cũng dằn từng tiếng:
- Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.
- Thế nào là không hợp với lương tâm?
Tôi ví dụ:
- Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.
Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…" (trích Hồi Ký của Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Phần Ba)
Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi: “"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” Theo nhà chú giải Kinh Thánh, William Barclay, thì nguyên cụm chữ “từ bỏ mình” có thể được hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong nguyên văn là “hãy nói không với chính mình.” Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Đức cố Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã can đảm, khẳng khái nói không với chính ngài, để bảo vệ Tin Mừng được nguyên vẹn và thánh thiện tinh tuyền.
Nói không với bản thân
Kẻ nội thù trong mỗi người mới chính là kẻ thù dữ dội, khắc nghiệt nhất, hung hăng, ngoan cố nhất. Người ta có thể dễ dàng đánh thắng kẻ thù bên ngoài, nhưng lại dễ dàng chịu thua kẻ nội thù, đặc công ẩn náu ngay trong tâm can, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình.
Bản năng sinh tồn chính là một kẻ nội thù, dễ dàng nghiễm nhiên trở thành ông chủ thân xác, chi phối hoàn toàn mọi hoạt động tinh thần, tình cảm lẫn hành vi ứng xử, giao tiếp thường nhật. Nếu không bị hạn chế quyền lực, thì kẻ nội thù này luôn tăng trưởng ngày thêm mạnh mẽ, hung bạo. Được voi đòi tiên. Chẳng bao giờ ngừng đòi hỏi được phục vụ. Bản năng bất chấp đạo lý, luật lệ. Vị kỷ, vị lợi, vô cảm với tha nhân đau khổ, đói khát, bệnh hoạn, cùng cực. Ăn no rồi đòi ăn ngon, có áo mặc rồi đòi mặc đẹp. Có nhà rồi đòi biệt thự xa hoa. Dứt khoát nói không với thân xác hưởng thụ, cũng như nói không với những dục vọng thấp hèn.
Đức Giêsu khuyên đừng quá nặng lòng với nhu cầu căn bản, mà hãy phó thác vào Chúa Quan Phòng, để sống công chính, tìm đến Nước Chúa: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 31-33)
Nói không với cám dỗ
Hai cám dỗ thông thường và phổ biến nhất trong cuộc đời mỗi người là tiền và tình, đã khiến bao người khốn đốn, lao đao quỵ ngã. Đức Giêsu đã ân cần cảnh báo và khuyên nhủ mọi người hãy dứt khoát nói không với đam mê tiền của: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó, sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12, 20-21)
Người cũng thật gay gắt nói không với tình: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. “ (Mt 5, 29-30)
Nói không với đời
Với đời, ai cũng muốn tìm kiếm danh phận, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Nhưng Đức Giêsu khuyên ai muốn theo Người, thì hãy nói không với những phù vân nhất thời chóng qua, như bóng câu qua cửa sổ, như bóng mây qua thềm. Với Người, quyền hành lãnh đạo không phải để lạm dụng, vụ lợi cho mình, cho gia đình, thân nhân mình, mà để phục vụ mọi người: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".(Mc 9, 35)
Nói không với đời là không bon chen, đua đòi, chạy theo những giá trị nhất thời của thế gian, mà dám lội ngược dòng, quyết vâng theo Bát Phúc của Đức Giêsu: “Nghèo khó, hiền lành, đau khổ, thiện tâm, bác ái, trong sạch, nhân hòa và chịu bách hại.”
“Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta hãy…(Mt 10, 38) Đường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở.” (Đường Hy Vọng, số 63)
Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội, chúng con được trở thành con chiên của Chúa, được phúc nhận biết Chúa, được nghe Chúa dạy bảo và mời gọi qua Tin Mừng, nhưng chúng con còn quá nặng nề xác thịt, còn mãi vương vấn, đắm đuối theo thế gian. Xin ban cho chúng con yêu mến Chúa tha thiết nồng nàn hơn, để có thể từ bỏ mình, vác thập giá, mà quyết tâm theo Chúa đến cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con can đảm, dám nói không với chính mình, để noi theo gương Mẹ, thân thưa hai chữ “Xin Vâng”, đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.
23. Vác thập giá theo Chúa
(Suy niệm của Thiên Quang, SSS)
Ông bà chúng ta vẫn thường nói “Hạnh phúc thì ít ỏi, đau khổ thì triền miên, đã vậy khi hạnh phúc tới đâu có ai biết mà đón nhận, chỉ đến khi qua rồi thì mới biết đó là hạnh phúc!"
Đối với các kitô hữu thì được nhắc nhở “Ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy”, hay một cách rõ nét hơn khi muốn đạt tới đỉnh vinh quang thì Chúa đã nhấn mạnh “Ai muốn theo Ta, thì phải vác thập giá mình mà theo”…
Điều nhấn mạnh này thật là rõ nét khi ta nhìn lại trường hợp của Thánh Phêrô, sau khi ngài được Chúa Giêsu trao quyền lãnh đạo Giáo Hội, ngài thắc mắc về trường hợp của thánh Gioan, Chúa liền trả lời “Sự việc đó có can gì đến anh, phần anh, anh hãy theo Thầy”
Quả thật, đúng là như vậy, một vòng tròn của cuộc đời mỗi người dù được diễn ra như thế nào thì cũng phải đi qua cái ải đã sắp sẵn “sinh , bệnh, lão, tử..”, mới nhìn sơ qua là ta đã thấy bóng dáng của thập giá rồi! đâu có gì là thảnh thơi, là vinh quang đâu? Vì thế mới có chuyện “người giầu cũng khóc!”
Do đó, phong ba bão táp hoành hành con người là một chuyện đương nhiên, chẳng có gì lấy làm lạ. Biết vậy, để khi ta đối diện với mọi mặt của cuộc đời ta có thái độ gì?, vì điều quan trọng không phải là tìm cách loại bỏ chúng, mà là cách ta phản ứng, đối phó với chúng?
Chính vì vậy, ta đừng có vội mừng khi ta thoát được gánh nặng quá ghê gớm này! Hay nghĩ rằng đời ta bắt đầu lên hương khi thoát được cái nạn khổ cực ấy! Không đâu, khổ nạn của thập giá mà đời ta phải vác vẫn còn đó, và chúng mãi theo ta cho tới khi chết như Đức Giêsu ngày xưa ở trên Núi Sọ
Để cuộc đời của ta đạt được sự hoàn hảo trọn vẹn, ta đừng quên là từng bước đường qua đi trong mọi hoàn cảnh đều là những bài học quý báu giúp ta vững bước trên đường tương lai, có điều là bài học đó được ta trả giá như thế nào, càng đắt thì càng đau thì càng nhớ mãi, nhớ hoài. Nên nhớ trong cuộc đời này không có gì là không có giá của nó!
Bởi vậy, cho dù trong cuộc sống có gặp phải đau thương, khốn khó, gian nan muôn trùng… ta đừng có than vắn thở dài, hay thất vọng, để đi đến chỗ đầu hàng, bỏ cuộc, khoanh tay nhìn cuộc đời lặng lẽ trôi qua!!! Trái lại, chính những lúc ấy, ta luôn nhìn lên cao cậy nhờ vào ơn trợ lực của Chúa mà cố gắng, can đảm mạnh mẽ vác thập giá đời mình cho tới núi Sọ cùng với Đức Giêsu Đấng Cứu Độ, và cắm thập giá của mình bên cạnh thánh giá của Ngài, để rồi ta hy vọng được lãnh nhận phần phúc cao cả vô biên của Đức Giêsu như tên trộm lành, như viên sỹ quan ngoại giáo… ngày xa xưa ấy.
24. Thần tượng của ta là ai? – Lm. Anmai, CSsR
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa thần tượng.
Người thích đá banh thì chọn cho mình người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong cõi đời này.
Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người ta tưởng.
Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.
Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về Thầy: "Người ta nói Thầy là ai?". Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó". Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: "Thầy là Đấng Kitô".
Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi?
Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi?
Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải ở môi miệng nhưng ở hành động: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ dừng lại ở lời tuyên tín.
Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng. Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.
Những lời yêu thương, những lời trao nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.
Và với con người bất nhất đó, chúng ta cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn...
Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân thôi.
Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình. Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.
25. Tin và vác thập giá theo Đức Kitô -- Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin Mừng Mc 8: 27-35 Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho đời người. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Chúa, vì Tin mừng thì cứu được mạng sống.
Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho đời người. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Chúa, vì Tin mừng thì cứu được mạng sống. Tin vào Đức Kitô thì dễ, nhưng bước theo Người trên đường Thương khó thì lại không dễ dàng. Cuộc đời Kitô hữu được mời gọi thông phần vào cuộc Thương khó Tử nạn của Đức Kitô để rồi được chung hưởng vinh quang Phục sinh với Người.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 8,27-35.
Bản văn Tin mừng được chọn đọc ghi lại lời tuyên xưng của Phêrô, lần loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và những chỉ dụ về điều kiện phải có để theo Người. Đây là đoạn văn chiếm một vị trí quan trọng trong Tin mừng theo Marcô, được dùng làm bản lề cho hai phần của toàn bộ tác phẩm: Phần I: 1,14-15 đến 8,26, trình bày dưới nhiều hình thức sự kiện bí mật về Đấng Mêsia ; Phần II: từ 8,27 đến 15 39, trình bày mạc khải cũng như giải thích về bí mật ấy.
1. Lời tuyên tín của Phêrô (8,27): "Thầy là Đấng Kitô": Việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ về sự hiểu biết Người của quần chúng không phải vì Người không biết họ nghĩ gì về Người, nhưng đây là đường lối, cách thức giáo dục của Chúa Giêsu để dẫn dắt các ông đến mạc khải: Người là Đấng Mêsia, Đấng Kitô. Người hỏi trực tiếp các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?". Phêrô thay mặt các bạn trả lời, một câu trả lời vượt xa sự hiểu biết của dân chúng. Điều dân chúng hiểu biết về Chúa Giêsu không phải là sai, nhưng chưa đầy đủ, họ chỉ nhận ra được tính cách siêu việt nơi con người Giêsu Nadarét, chứ chưa thể biết rõ Người là Đấng Kitô. Lời tuyên tín của Phêrô bộc lộ niềm tin căn bản của các ông, của Giáo hội sơ khai, dẫu rằng khi tuyên xưng điều này chính bản thân Phêrô cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Kitô, cũng như con đường Thương khó Chúa Giêsu thực hiện. Vì thế, ngay sau đó ông đã ngăn cản Chúa khi nghe Người loan báo về cuộc khổ nạn.
2. Lời loan báo về cuộc khổ nạn: Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Người. Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu, Thầy mình là Đấng Kitô, nhưng ông chưa hiểu rõ, hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Kitô. Ngược với niềm trông đợi của loài người và của dân Do Thái, Đấng Kitô không chỉ là một vị vua quyền thế, nhưng cũng là một con người khiêm nhu tự hạ và đau khổ. Người đến từ Thiên Chúa nhưng lại hòa mình vào trong lòng nhân loại mang lấy những khía cạnh đen tối nhất của kiếp nhân sinh: bị bỏ rơi, đau khổ, chịu nhục mạ, bất công… và kết thúc là cái chết. Lời tuyên xưng của Phêrô và của mọi Kitô hữu sau này không phải là sai, đó là công thức hoàn toàn chính xác, nhưng tự thân người tuyên xưng chưa xác tín rõ ràng tước vị Kitô cũng bao hàm đau khổ, nhục nhã và sự chết. Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn để bổ túc cái nhìn, niềm tin của các môn đệ về Người. Đó là đường lối thánh ý của Chúa Cha muốn như thế, và Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục. Do đó, khi Phêrô ngăn cản Chúa, thực chất là bị ma quỷ xúi giục để lôi kéo Người không thi hành thánh ý Chúa Cha, như chúng đã rắp tâm làm điều này khi cám dỗ Người vào lúc Người bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa Giêsu khiển trách Phêrô đã bị Satan lôi kéo cám dỗ: "Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa mà chỉ biết việc loài người".
3. Những chỉ dụ về các điều kiện theo Chúa Giêsu: Lời mời gọi từ bỏ, vác thập giá và thí mạng sống là một lời mời gọi đầy nghịch lý, thậm chí là vô lý nếu chỉ xét trên bình diện con người. Nhưng trên bình diện đức tin và trong mầu nhiệm vượt qua lại là điều hoàn toàn xác đáng. Trước hết phải từ bỏ mình, nghĩa là tự ghét mình (tc. Lc 14,26 ; Ga 12,25). Từ bỏ mình cách cụ thể là liều mất mạng sống của mình đi vì Chúa, vì Tin mừng. Điều kiện thứ hai là vác thập giá mình theo Chúa, nghĩa đen là tự mình vác dụng cụ khổ hình dành cho mình đến pháp trường, con đường đến pháp trường như thế bao gồm tất cả mọi đau khổ, nhục nhã, bất công và sự loại trừ ra khỏi cộng đồng với án tử. Như thế, Chúa Giêsu mời gọi theo Người tiến về nơi xử tử. Trong ý nghĩa ấy, đó là việc thông phần, chia sẻ, tham dự vào cuộc Thương khó của Người. Những ai dám chết theo Người như thế sẽ là người chiếm hữu được sự sống vĩnh cửu: Ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống của mình.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta chân dung Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến cứu chuộc nhân loại bằng con đường khổ giá. Vì tình yêu, Người đã dám hiến thân chết cho nhân loại được sống. Tin vào Người là Đấng Kitô thì niềm tin ấy phải được cụ thể hóa thành hành động can đảm dấn thân bước theo Người trên hành trình Thương khó. Đời sống Kitô hữu hôm nay là họa ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Kitô chịu đóng đinh cho con người, cho thế giới nhận biết Người. Càng dấn thân vác thập giá theo Người, can đảm đón nhận mọi thử thách, khổ đau với đức tin mạnh mẽ thì cuộc đời Kitô hữu càng phác họa rõ nét chân dung Đấng Kitô mình tôn thờ.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Tin là lời mời gọi khám phá Chúa Giêsu:
Dân chúng với cái nhìn đơn sơ, hạn hẹp của mình chỉ có thể nhận ra tích cách siêu việt của Chúa Giêsu qua những lời giảng dạy như đấng có uy quyền, qua việc chữa lành và xua trừ ma quỷ của Người như Gioan Tẩy giả, như Êlia hay một Tiên tri nào đó. Họ không thể đi xa hơn nhận thức này để chân nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ mà họ đang chờ mong. Các môn đệ, đại diện là Phêrô có sự hiểu biết cao hơn, xác tín Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thế nhưng sự hiểu biết của các ông cũng vẫn còn nông cạn, chưa đầy đủ. Vì thế, dân chúng theo Chúa Giêsu cũng chỉ muốn nhắm đến những lợi ích cá nhân của họ. Còn các môn đệ cũng vì chưa hiểu rõ hết tước hiệu Kitô các ông tuyên tín, nên cũng không thể hiểu nổi mạc khải về cuộc Khổ nạn, cho nên các ông sợ hãi trước lời loan báo của Chúa, để rồi ngăn cản Chúa. Tin vào Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những nhận định, hiểu biết chung chung, thuộc lòng một vài công thức định tín, nhưng đòi hỏi phải nỗ lực tìm hiểu khám phá về Người. Càng hiểu rõ về Người, niềm tin càng xác tín, càng xác tín càng mạnh mẽ theo Người.
2. Tin là lời mời gọi dấn thân vác thập giá theo Chúa Giêsu:
Đỉnh cao của niền tim là việc đáp trả lời mời gọi từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa Giêsu. Tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô trong tâm trí, hay là một lời tuyên xưng ngoài môi miệng. Đức tin đòi hỏi phải có việc làm. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Tin cũng không chỉ dừng lại ở việc noi gương Người sống tình bác ái huynh đệ. Nhưng đức tin đòi hỏi một điều quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Đó là bước đi theo Người, sống như Người đã sống, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Chúa đã đi vào hành trình Thương khó, đời Kitô hữu cũng phải chấp nhận thập giá, chấp nhận đi vào con đường ấy. Để đi đến cùng sứ mạng của mình, Chúa Giêsu đã phải từ bỏ tất cả. Người từ bỏ tất cả để đạt được đến Đấng là tất cả, tức là Thiên Chúa Cha. Đó là con đường tất yếu cho những ai muốn sống và đạt đến hạnh phúc đích thực.
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương muốn cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu Kitô đã vâng lời Chúa Cha chấp nhận con đường khổ nạn. Trong niềm tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. "Thánh Phêrô đã thay mặt cho các Tông đồ tuyên xưng vào Chúa Giêsu: 'Thầy là Đấng Kitô". Chúng ta cùng cầu nguyện cho gia sản đức tin các Tông đồ để lại trong Giáo hội luôn được gìn giữ tinh tuyền và phát triển mạnh mẽ qua đời sống loan báo Tin mừng của toàn thể Giáo hội.
2. "Người ta bảo Thầy là ai?". Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em đang thành tâm thiện chí đi tìm Chúa, những anh chị em dự tòng và tất cả những ai đang khao khát tìm kiếm sống một cuộc đời chính trực được thỏa ước nguyện và nhất là được gặp gỡ chính Chúa là nguồn mạch sự sống và chân lý.
3. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống và thể hiện niềm tin của mình bằng một cuộc sống dấn thân vì hạnh phúc tha nhân, bằng lòng can đảm đón nhận hy sinh, thử thách và đau khổ trong cuộc sống với thái độ tin yêu, hy vọng và phó thác cho Chúa.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa đã muốn Chúa Giêsu cứu độ chúng con bằng thập giá và qua Người mời gọi chúng con lãnh nhận ơn cứu độ cũng bằng con đường thập giá. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con đủ sức vác thập giá đời mình theo Chúa Giêsu Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
26. Thầy là ai? – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: "Tôi là bánh từ trời xuống." (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.
27. Tin theo Đức Kitô -(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu là ai? Đây là câu hỏi được đặt ra nơi người Do thái thời Chúa Giêsu, và ngày nay người ta vẫn tiếp tục lặp lại câu hỏi ấy. Thậm chí có người phủ nhận con người lịch sử của Đức Giêsu và coi đó chỉ là một con người huyền thoại.
Ngày xưa, người Do thái coi Đức Giêsu chỉ là một vị tiên tri có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Elia hay một tiên tri nào đó. Riêng ông Phêrô biết con người thật của Đức Giêsu, ông đã tuyên xưng Ngài là "Đấng Kitô". Tuy thế, đối với ông, Đấng Kitô có tính cách trần tục, Đấng Kitô vinh hiển, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu.
Nhưng Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô, không phải là Đấng Kitô vinh hiển theo kiểu thế gian, mang mầu sắc chính trị, mà là Đấng Kitô bị đau khổ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Tiếp đó Đức Giêsu tuyên bố lập trường của Ngài cho các môn đệ và dân chúng: nếu ai muốn theo làm môn đệ Ngài thì phải thi hành hai điều kiện, đó là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày.
Vậy chúng ta phải theo Đấng Kitô nào? Đấng Kitô vinh hiển hay Đấng Kitô bị đau khổ? Nếu muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chọn Đấng Kitô bị đau khổ và đi theo đường lối của Ngài, đó là đường khổ giá, nhưng đường đó sẽ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ và được thừa hưởng Nước Trời vinh quang.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 50,5-9a.
Đây là đoạn văn được gọi là "Bài ca thứ ba" của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ đau khổ. Đoạn văn này được viết phỏng theo kiểu những lời tâm sự của Giêrêmia.
Người Tôi Trung tự nhận là môn đệ của Giavê, có sứ mạng đem những lời Thiên Chúa truyền cho ông mà loan báo và dạy dỗ. Sứ mạng ấy khiến người ta ghen ghét, ngược đãi dưới nhiều hình thức, nhưng một nguồn sức mạnh mãnh liệt nâng đỡ ông thi hành nhiệm vụ. Ông đã thắng vượt sự buồn lo đó bằng một lòng tín thác không lay chuyển vì ông tin tưởng rằng Thiên Chúa không ngừng đến cứu giúp ông.
Người Tôi Tớ này được hiểu là Đức Kitô, một người Tôi Tớ tuyệt hảo nhất. Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã đặt niềm tín thác nơi Chúa Cha. Từ đó, Ngài đã được sức mạnh phi thường trong tâm hồn. Thật là mẫu gương sáng ngời cho chúng ta, các môn đệ của Ngài.
+ Bài đọc 2: Gc 2, 14-18.
Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói về những đòi hỏi của đức tin trong hành động. Ngài khẳng định: “Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết". Cả đức tin lẫn hành động đều cần thiết và luôn phải đi đôi với nhau, không thể tách rời .
Ngài còn đưa ra một mẫu gương sống bác ái huynh đệ để định nghĩa và dẫn giải về đức tin sống động. Điều đó muốn nói rằng: giá trị của đức tin chúng ta tùy thuộc ở mức độ bác ái đối với mọi người anh em của chúng ta.
+ Bài Tin Mừng: Mc 8,27-35.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần:
1. Đức Giêsu muốn các môn đệ phản ảnh cho Ngài biết dư luận của dân chúng về Ngài là ai? Các môn đệ cho biết: theo dư luận quần chúng thì Ngài là một tiên tri, một đại tiên tri có quyền làm được những dấu lạ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cho Nhóm 12: “Thầy là Đấng Kitô".
2. Sau đó, Đức Giêsu tiết lộ cho các ông biết về cuộc khổ nạn của Ngài: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại". Ông Phêrô, tuy công nhận Ngài là Đấng Messia, nhưng niềm tin này mới là tạm thời: nó không chấp nhận Đấng Messia phải chịu đóng đinh. Các ông không thể hiểu nổi.
Trước sự bỡ ngỡ của Nhóm 12, Đức Giêsu đã khẳng định với tính cách quyết liệt: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Theo Đức Kitô bị đóng đinh
I. ĐỨC KITÔ LÀ AI?
Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ta ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách … nói về Chúa Giêsu.
1. Bối cảnh việc tuyên xưng.
Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan sẽ chảy xuống phía nam. Người ta gọi nơi này là Cêsarêa của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Cêsarê, tức là tên của hoàng đế La mã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.
Ngoài ra, Chúa Giêsu sắp kết thúc việc rao giảng ở Galilê, nay mai sẽ lên đường đi Giêrusalem, chặng đường cuối cùng kết thúc ở đồi Calvê, trong khúc quanh này, đã đến lúc Chúa phải sửa soạn giai đoạn chót cho các Tông đồ.
Có lẽ vì vậy Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ xem ý kiến của quần chúng và của các ông về Ngài như thế nào. Ngài muốn biết ý kiến của các ông, sau đó Ngài mới tiết lộ cho các ông về con người thật của Ngài.
2. Theo dư luận quần chúng.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai"? Các ông đáp liền: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó"(Mc 8,28),
Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Elia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.
3. Theo ý kiến các môn đệ.
Chúa Giêsu lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai"? Ông Phêrô tức khắc trả lời: “Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,29).
Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ Nhóm này.
Tước vị "Christos" "Messiah trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi để đến " hoàn tất lịch sử". Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.
Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thưở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 va 12).
4. Theo sự tiết lộ của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại"(Mc 8,31).
Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào"(Ga 3,16-18)
II. TIN THEO ĐỨC KITÔ.
1. Theo Đức Kitô nào đây?
Sau đó, Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy"(Mc 8,34-35).
Chúa Giêsu bảo ai muốn theo Ngài vì Ngài là Đấng Kitô, nhưng phải theo Đấng Kitô nào? Theo Đấng Kitô vinh hiển như người Do thái thường quan niệm hay Đáng Kitô đau khổ như Người mới tiết lộ?
Trở lại bài đọc 1, ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ nào đó, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là ngươi tôi tớ ấy.
Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường Thánh giá: ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.
Truyện: Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.
Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.
Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras:
- Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?
Barras trả lời:
- Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật, đồng chí cố sống lại đi.
2. Những điều kiện để theo Chúa.
Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Hai điều kiện này xem ra ít ỏi như khó ăn lắm.
a) Phải từ bỏ chính mình.
Từ bỏ chính mình để nhận lấy Thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.
Ngoài ra, việc từ bỏ chính mình, đứng về phương diện triết học ngày nay, thì là một sự "tha hoá, vong thân", mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hoá nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời.
Lý tưởng mà thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hoá" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị "tha hoá". Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).
b) Vác thập giá mình.
Thập giá, theo Tin mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.
Như vậy, kiểu nói "vác thập giá mình" có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, "vác thập giá mình" cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.
c) Chấp nhận đau khổ trong đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật giáo chủ trương? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.
Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Truyện: Nữ thủ tướng Golda Meir
Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: "Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại ích lợi cho mình hơn.
Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).
3. Đường đưa tới vinh quang
Chúng ta thấy dòng Mến Thánh giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa: “Per crucem ad lucem": qua thập giá tới vinh quang. Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày thứ sáu tuần thánh mới tiến tới ngày Chúa nhật Phục sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo Phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.
Thập giá không còn là cái gì ghê rợn mà là vinh quang. Chúng ta thường hát: “Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát".
Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta "sợ" thập giá, người ta "ngại" hy sinh, người ta "tránh" từ bỏ… Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói: “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử": không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?
Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: “Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.
Truyện: Cưa bớt thập giá.
Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo.
Suốt ngày anh ca cẩm, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác.
Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.
Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mươi phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.
Thi sĩ Robert Browning Hamilton tóm tắt tinh thần bài Tin mừng hôm nay bằng những lời sau:
"Tôi bước đi một dặm đường với Nữ thần Lạc Thú,
Nàng vuốt ve tôi đủ điều,
nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan tí nào qua những điều nàng nói.
"Tôi lại bước đi một dặm với Nữ thần Đau Khổ,
Nàng chả nói với tôi lời nào,
Nhưng tôi lại học được biết bao điều
Khi nàng bước đi bên cạnh tôi…".
28. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin Mừng Mc 8: 27-35 Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới vùng đất của dân ngoại, tới làng nhỏ miền Cêsarea Philiphê để tránh đám đông dân chúng. Người muốn biết xem dân chúng hiểu thế nào về Người...
Suy niệm
Sống trong xã hội, chắc hẳn chúng ta sẽ ít nhiều nghe những lời từ công chúng bàn tán về kẻ này người nọ trong khu xóm, tại giáo xứ, nơi công sở… Và trước những lời đồn đại ấy, liệu chúng ta có nhận định riêng cho mình không, hay cũng dễ bị tác động từ dư luận.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới vùng đất của dân ngoại, tới làng nhỏ miền Cêsarea Philiphê để tránh đám đông dân chúng. Người muốn biết xem dân chúng hiểu thế nào về Người. Theo các môn đệ thuật lại, người dân có cái nhìn còn mơ hồ về Chúa Giêsu: “Họ nói Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là Êlia, có kẻ nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó…” Và trong tình thầy trò, Chúa Giêsu cũng muốn chất vấn các môn đệ cách chân thành về lập trường riêng, về cảm nhận nơi cõi lòng của họ: “Thế còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Simon Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô”. Qua lời tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, Phêrô cùng với anh em tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa Cha đã hứa, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và toàn dân mong đợi. Tuy nhiên, tuyên xưng đức tin mà thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu còn cần các ông thể hiện đức tin của mình bằng hành động, vì Người không muốn các môn đệ hiểu sai sứ mệnh của Người.
Y như rằng, mặc dầu tin, các môn đệ vẫn còn hiểu nhầm sứ mệnh của Chúa Giêsu như dân chúng hiểu và mong đợi Đấng Cứu Thế sẽ đem tới cho dân Do Thái sự tự do, một nền chính trị mới khỏi cách đô hộ La mã. Cho nên lời tiên tri Isaia trong bài đọc I loan báo: “Tôi đưa lưng cho kẻ đánh tôi và đưa má cho kẻ giật râu” không dễ được các môn đệ cũng như người Do Thái đón nhận. Vì vậy, Chúa Giêsu cần thanh lọc suy nghĩ của các môn đệ để họ đón nhận sứ mạng của Thầy mình trong tư cách người Tôi Tớ khiêm hạ. Nhờ đó, các môn đệ sẵn sàng chấp nhận việc Đấng Cứu Thế hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, bị bắt và chịu khổ nạn thập giá.
Phản ứng của Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra để can ngăn Thầy đừng theo con đường ấy lại nói lên rằng Phêrô muốn Chúa làm theo ý ông hơn là để các môn đệ sống theo ý Chúa. Vì thế mà Chúa đã nghiêm khắc trách mắng Phêrô: “Satan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Việc ngăn cản Chúa Giêsu đi con đường Chúa Cha đã chọn là suy nghĩ của người đời, toan tính của ma quỷ. Chúa Giêsu muốn Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình. Môn đệ là người vâng lời Thầy, bước đi theo sau Thầy, đừng “cầm đèn chạy trước ôtô”. Đó cũng là một thách đố cho người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Việc tin theo Chúa phải là một quyết định hoàn toàn tự do của mỗi người. Và một khi đã tin theo Chúa thì cũng phải chấp nhận đi kèm điều kiện vác thập giá mình mà bước theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi này với mỗi người chúng ta: “Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?” Ngài có phải là vị Thẩm phán khắt khe luôn xét nét xem tôi sai lỗi chỗ nào để phạt không? Ngài có phải là một ông tiên với chiếc bị sẵn sàng cho đủ thứ tôi cần khi tôi chạy tới cầu xin? Hay Ngài đơn giản chỉ là một người hành khất xin tôi bố thí cho Ngài chút thời giờ nhãn rỗi của tôi, để khi nào tôi rảnh thì tôi tới dâng Thánh lễ.
Chúng ta tin Chúa là Đấng Cứu chuộc chúng ta, nhưng niềm tin ấy chỉ trọn vẹn khi chúng ta dám bỏ mình, và vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi ngày. Vâng, chính những đau khổ trong đời sẽ tôi luyện con người chúng ta thành người khiêm nhường, cảm thông hơn và giúp chúng ta có điều kiện tập nên thánh nhờ việc vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa Giêsu, không có con đường dễ giải nào để được ơn cứu độ ngoài con đường của thập giá. Xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng con để chúng con cũng tập sống theo ý Chúa. Xin Chúa cũng nâng đỡ chúng con, giúp chúng con biết nhận ra rằng qua khổ đau của bước chân người môn đệ, chúng con lại được Ngài an ủi, bởi vào những đêm khuya tăm tối, chúng con sẽ dễ thấy được những ánh sao sáng trên bầu trời. Amen.
29. Con đường của Thầy -- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Con đường tiến lên phía trước
So với các tác giả Nhất Lãm khác, trình thuật về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô tại Xê-da-rê do thánh Mác-cô biên soạn khá vắn gọn. Bản văn này có thể đuợc giải thích theo nhiều điểm khác nhau. Dưới đây là ba điểm.
* Con đường đức tin
Thánh Mác-cô kể lại câu chuyện xảy ra ở bên kia sông Gio-đan không nhằm xác định về nơi chốn cho bằng về ý nghĩa thần học. Đây là một “nơi khác” ngoài môi trường Giu-đa giáo, và tại đây, lần đầu tiên, Đức Giêsu được nhìn nhận như Đấng Mêsia. Trong đất Do thái, việc mặc khải này chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối đời của Đức Giêsu: trước tòa Cai-pha (x.Mc 14,61-62).
Câu hỏi về lai lịch của Đức Giêsu không do thiên hạ hay các môn đệ nêu ra, nhưng do chính Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ như một con đường dọn sẵn: khởi đầu từ những ý kiến của dân chúng và cuối cùng là câu trả lời của các môn đệ.
Đến cuối bản văn, Đức Giêsu phác họa hình ảnh người môn đệ như một người luôn tiến bước, một người đi theo Đức Kitô.
Quả vậy người ta không thể diễn tả lòng tin của mình, không thể nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nếu như người ta cứ ở một chỗ, cứ yên vị trong sự an toàn chắc chắn với những ý tưởng có sẵn của mình.
Đức Kitô chỉ đến với những người “ đang tiến bước ”, và người Kitô hữu được mời gọi “ đi theo ” Đức Kitô đang bước đi, Đức Kitô sống động chứ không ở yên một chỗ.
* “Thầy là Đấng Mêsia”
Lòng tin vào Đức Kitô không phải là một thứ chủ nghĩa thủ cựu. Các môn đệ không được lấy điều người ta nói làm đủ, chính Đức Kitô cũng không muốn như thế; các môn đệ của Đức Kitô phải có một xác tín riêng về Thầy mình. Một tổng hợp những kiến thức về Đức Giêsu không bao giờ có thể thay được sự hiểu biết cá nhân về Người, bởi vì hiểu biết cũng là không ngừng chia sẻ thân phận của Người, tức là từ bỏ sự sống mình và đi theo Người đến tận thập giá.
Đàng khác, nhận định của dân chúng về Đức Giêsu không hoàn toàn sai, nhưng không đầy đủ. Nhận định này không diễn tả tính cách siêu việt của con người Đức Giêsu. Các quan niệm Cựu Ước không trình bày đủ về lai lịch của Đức Giêsu. Người vượt lên trên tất cả những điều đó.
Chính vì vậy, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi với các môn đệ: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu đòi hỏi một quan niệm đúng đắn, một sự chuyển hóa chứ không phải chỉ là lặp lại một hiểu biết hay một cái gì có sẵn.
Ông Phêrô đã làm điều ấy. Điều ông nói, nhân danh các môn đệ, vượt hẳn quan niệm của quần chúng, và cả chính ông cũng chưa hiểu được toàn bộ ý nghĩa. Đối với một người Do thái như ông, Đấng Mêsia hằng được trông đợi không hề có chút nào như Đức Giêsu. “Đấng tái lập vương quốc Ít-ra-en” sẽ không thể là con người bị loại bỏ này, sẽ không thể là con người lúc nào cũng lang thang trên các nẻo đường.
Dù vậy, ông Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhờ đức tin, ông chấp nhận sự sai biệt giữa ý tưởng ông đang có và thực tại đang diễn ra.
* “Xa-tan, lui lại đàng sau”
Cũng với tư cách phát ngôn viên của các môn đệ, ông Phêrô đã phản ứng trước những lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương khó. Ông kéo Đức Giêsu ra một nơi như muốn che chở cho Người. Với vẻ trịch thượng, ông trách Thầy, coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi đầu óc Thầy tư tuởng cuồng điên về cuộc khổ nạn.
Trong câu chuyện này, người ta nhận ra một trong những cám dỗ cơ bản thường thấy nơi con người: hành quyền trên Thiên Chúa. Đức Giêsu vừa mô tả con đường duy nhất dẫn đến sự sống, ông Phêrô đã trách Người … đã ngăn cản con đường Người phải đi.
Làm như thế, ông đã tự cho mình có quyền trên Đức Giêsu, ông vượt lên trước Người để chỉ cho Người thấy theo ý ông, đâu là con đường tốt nhất.
Thế nhưng, trên con đường tiến đến Nước Trời, người ta “ không đi trước ” Đức Kitô, người ta “đi theo” Người. Do đó, Đức Giêsu quay về phía các môn đệ và tái lập vị thế. Không phải Thầy đi theo các môn đệ, nhưng môn đệ phải theo Thầy. Đức Giêsu không chấp nhận một điều đình nào cả. Con đường thập giá là con đường duy nhất dẫn đến sự sống, con đường Chúa Chúa đã định. Ngăn cản Đức Kitô, không cho Người đi con đường đó tức là xúi giục Người bất phục thánh ý Chúa Cha: công việc này chỉ có thể là của Xa-tan, tên đã muốn lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường đó khi Người bắt đầu cuộc đời công khai (x. Mc 1,12-13).
Có lẽ ông Phêrô chỉ nghĩ Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo quan điểm loài người nên đã trách Người. Ông chưa hiểu hết ý nghĩa của lời tuyên xưng ông vừa thốt lên, cũng như lời ngăn cản ông đưa ra. Dù vậy, Đức Giêsu cũng muốn cho thấy Thập giá là con đường cứu độ, Người sẽ đi, đi đến cùng, và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Người, muốn đi theo Người, cũng phải buớc đi trên con đường ấy.
Đặt tên cho Người
Trở lại với lời tuyên xưng của ông Phêrô.
Khi một đứa trẻ sinh ra, cha mẹ của em sẽ đặt cho em một tên gọi. Một thời gian sau, chính em bé sẽ đặt cho cha mẹ em một tên gọi và tên gọi này sẽ thay thế mọi tên gọi khác. Tên gọi đó sẽ là “ ba ” là “ má ”.
Gọi như thế, em bé làm cho cha mẹ em thay đổi, đem lại cho cha mẹ em một chiều kích mới: là “ ba ”, là “ má ”.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cũng gần giống như thế.
Khởi đầu, ông Phêrô đem lại cho Đức Giêsu một tên gọi: “ Thầy là Đấng Kitô ”. Mặc dù ông chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói này, nhưng ít ra, cứ dựa theo truyền thống Do thái, tên gọi ông vừa đọc lên về Đức Giêsu cũng đã có một chiều kích quan trọng. Đặc biệt gọi tên cũng là làm cho hiện hữu.
Về phần mình, Đức Kitô đặt tên cho các môn đệ bằng cách mô tả điều sắp xảy ra để làm cho một người trở thành Con Thiên Chúa: trải qua cái chết và sinh ra trong một đời sống mới.
Điều này quả là có tính cốt yếu vì nó xác định rõ bản chất những tương quan Thiên Chúa muốn nối kết con người và con người phải có đối với Thiên Chúa.
Đức Giêsu có thể tự mình tuyên bố: Tôi là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Và ngược lại, Nhóm Mười Hai cũng có thể nói: Chúng tôi làm điều này điều nọ, chúng tôi tin, vì vậy chúng tôi là những môn đệ. Mỗi bên tự đặt tên cho mình và buộc người khác phải tôn trọng.
Đức Giêsu đã không xử sự như thế. Người dần dần nêu ra các câu hỏi để rồi chính các môn đệ nói lên mặc khải sâu xa nhất về Người. Tuy vậy, Người vẫn phải giải thích cho các ông nội dung của mặc khải ấy, hay là con đường Đức Kitô sẽ trải qua để đem lại ơn cứu độ cho Ít-ra-en và mọi người.
Như vậy, chính Đức Giêsu có sáng kiến, nhưng Người không áp đặt. Người đưa các môn đệ qua con đường của sự thông tri, nhìn nhận trong tình yêu. Nhờ được Thần Khí soi sáng, con người đặt cho Thiên Chúa tên gọi, một tên gọi chính xác. Thiên Chúa khiêm tốn biết bao!
Về phần chúng ta, mỗi người cũng phải đặt tên cho Đức Giêsu; mỗi người phải có ý kiến riêng của mình về Đức Giêsu Kitô. Thế nhưng, hình như chúng ta có khuynh hướng đặt cho Người một tên gọi giống như chúng ta. chúng ta vẫn muốn lặp lại “ điều thiên hạ nói về Đức Giêsu ”. Điều này có nghĩa là chúng ta muốn Người đi theo chúng ta hơn là chúng ta đi theo Người, hay ít ra, chúng ta không muốn chia sẻ cuộc sống của Người, không dám từ bỏ mình để đi trên con đường Người đã đi.
Và rồi, chúng ta có sẵn sàng để Người đặt tên cho chúng ta không? Chúng ta có dám chấp nhận đổi khác đi khi khám phá ra tên gọi đích thực của mình? Chúng ta có dám để Đức Kitô làm cho chúng ta sinh ra trong sự sống Người ban cho chúng ta, tức là trong sự sống của Người?
30. Đường yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nói nôm na rằng Chúa vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc. Vậy thì cớ sao Chúa Kitô lại khẳng định rằng ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người? (x.Mc 8,34). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Những người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này mà vô tình tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp. Dù kết án Kitô giáo nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.
Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém, là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá, như thế người cha trên mọi người, là Đấng trọn hảo chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái (x.Lc 11,9-13; 12,32). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người?
Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi và rồi được thông chia cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.
Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực mà chính là dữ kiện hay điều kiện ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hình ảnh hạt lúa mì chịu mục nát đi để nẩy mầm, thành cây, đơm bông, kết hạt, thì mới thực sự là chính nó khi thể hiện ý nghĩa hiện hữu của nó (x. Ga 12,24). Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng vẫn là khập khiễng, nghĩa là còn hạn chế. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng (x. Lc 4,18-19).
"Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết" (Gc 2, 17). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về... Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.
31. Suy niệm của Đaminh M. Cao Tấn Tĩnh, BVL
MẶT TRÁI CỦA CHÚA KITÔ CHÍNH LÀ CHÂN DUNG CỦA NGƯỜI
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B tuần này, theo Phúc Âm Marcô, không phải là bài Phúc Âm tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm tuần trước. Bởi vì, ngay sau bài Phúc Âm tuần trước Thánh Ký Marcô trình thuật về biến cố Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, về men gương mù gương xấu của nhóm Pharisiêu và về phép lạ chữa lành người mù ở Bethsaida. Bài Phúc Âm tuần này cho thấy mạc khải về chính bản thân nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, vị đã kêu gọi Nhóm 12 Tông Đồ, tỏ mình riêng cho các vị và dạy dỗ các vị hơn quần chúng. Chúng ta nên để ý ở đây là Chúa Giêsu không biến hình trên núi rồi mới tỏ cho các tông đồ biết mạc khải cốt lõi nhưng đầy kinh hoàng đối với các vị này, một biến cố biến hình, trái lại, theo Phúc Âm Thánh Marcô, chỉ xẩy ra ngay sau mạc khải này. Chúng ta đã biết là Chúa Giêsu, trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm, đã tỏ cho các tông đồ biết về mầu nhiệm Đức Kitô Vượt Qua tất cả là 3 lần, và lần đầu tiên xẩy ra trước biến cố Người biến hình trên núi cao. Thế nhưng, vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng trước con mắt các tông đồ, bởi thế, Chúa Giêsu đã phải thăm dò xem khả năng chịu đựng của các tông đồ tới đâu, bằng cách hỏi các vị xem dân chúng nghĩ về Người ra sao, nhất là tâm tưởng của chính các vị xác tín về Người như thế nào, sau bao ngày tháng các vị được ở bên Người, được nghe lời Người nói, được thấy việc Người làm v.v. Nếu các vị trả lời trật lấc, hay không đúng là bao, hoặc chẳng khác gì câu trả lời của dân chúng, chắc Chúa Giêsu đã không tỏ mình ra hay chưa dám tỏ mình ra hoàn toàn cho các vị đâu. Bằng không, thay vì có lợi cho các vị thì chỉ gây thêm bất lợi cho các vị mà thôi, làm cho một số nữa hay hầu như tất cả bỏ đi, như nhóm môn đệ sau khi nghe Bài Giảng về Bánh Hằng Sống cách đây ba tuần.
Thật vậy, lời tuyên xưng của các tông đồ, qua vị tông đồ Phêrô đại diện, “Thày là Đức Kitô!”, là Đấng Thiên Sai, đã cho thấy các tông đồ quả thật đã nhận biết Thày của các vị thực sự là Đấng nào, thực tại của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là gì, đúng như Người muốn tỏ ra, muốn chứng thực chẳng những cho dân Do Thái mà còn cho cả Dân Ngoại nhất là các Tông Đồ thấy, những lần chứng thực được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại trong toàn bộ Phúc Âm của ngài, đến nỗi, mầu nhiệm Đấng Thiên Sai này và mầu nhiệm Vượt Qua của Người không thể tách rời nhau trong Phúc Âm Thánh Gioan. Với dân Do Thái: “Bao giờ quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ biết Tôi là ai” (Jn 8:28); với Tổng Trấn Philatô: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đến thế gian đó là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37); với các tông đồ: “vì họ mà Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19).
Thế nhưng, trong tâm can của các vị tông đồ, sự thật “Thày là Đức Kitô“ đây mới chỉ là một hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống chứ chưa thành cây vĩ đại (x Mt 13:31-33). Bởi đó, hạt cải này vẫn chịu sự chi phối bởi môi trường được gieo xuống. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần tới sẽ cho chúng ta thấy rõ căn nguyên tại sao các vị tông đồ đã tỏ ra thái độ hoàn toàn mâu thuẫn nơi vị đại diện của mình là Thánh Phêrô, vị đã vừa tuyên xưng chân lý “Thày là Đức Kitô” liền bị Thày quở trách hết sức thậm tệ: “Hãy xéo đi khỏi mặt Ta, đồ Satan, Ngươi chẳng phán đoán theo kiểu cách của Thiên Chúa gì cả mà chỉ theo kiểu cách của loài người thôi”. Cũng khó mà trách các vị tông đồ được, vì các vị bấy giờ chỉ mới được tới đó, trình độ đức tin của họ mới chỉ có thế thôi. Đó là lý do có lần các vị đã phải lên tiếng “xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5).
Đúng vậy, Chúa Giêsu đã lợi dụng một trường hợp để tăng thêm đức tin cho các tông đồ môn đệ của Người, thành phần được Người tuyển chọn để sau này làm chứng cho Người. Những lần Ngài làm tăng thêm đức tin cho các vị, điển hình nhất là lần họ gặp phong ba bão táp trên biển hồ song Người đã ra tay cứu các vị (x Lk 8:22-25), hay lần các vị đánh cá thâu đêm mà chẳng bắt được gì theo kinh nghiệm nghề nghiệp đầy mình của các vị, song chỉ vì vâng lơiøi Người mà các vị đã bắt được những mẻ cá lạ lùng (x Lk 5:5-11). Tuy nhiên, đức tin của các vị dầu sao cũng mới chỉ biết mặt phải của Thày mình, ở chỗ chỉ biết được Thày của các vị đầy quyền năng, có thể chữa lành các thứ bệnh nạn tật nguyền, có quyền trên các thần ô uế, có quyền trên cả thiên nhiên vạn vật v.v., chứ chưa biết mặt trái của “Thày là Đức Kitô”, một Đức Kitô khổ nạn và tử giá rồi mới được vinh quang, một Đức Kitô đầy quyền năng nhưng không thể thoát khỏi bàn tay lông lá của loài người, không thể tự mình xuống khỏi thập giá.
Tiếc thay, chính mặt trái này của Đức Kitô mới thật là chân dung của Người, chân dung của môt Đấng Thiên Sai thực sự, tức của một người tôi tớ được tiên tri Isaia nói tới (42:1), một người tôi tớ cùng khổ cũng được vị tiên tri này diễn tả trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật tuần này, của một vai trò thừa hành, của một vai trò thừa sai, vai trò đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Việc “Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập giá” (Phil 2:8) chính “là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) Người được Cha sai, Người chính là Đấng Thiên Sai, Cha là Đấng đã sai Người, Cha Người là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3) đúng như Ngài đã mạc khải cho dân Do Thái trong suốt Lịch Sử Cứu Độ Cựu Ước của họ, một mạc khải đã được hé mở từ cuộc thần hiển ở bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi để Ngài tỏ đích danh của Ngài là “hiện hữu” cho Moisen (x Ex 3:14), “hiện hữu” ở chỗ “chân thật duy nhất”, ở chỗ trước sau như một, nghĩa là một khi Ngài đã tự động hứa những gì với cha ông tổ phụ họ là Abraham, Isaac và Giacóp thì Ngài sẽ thực hiện đúng ý như vậy nơi giòng dõi của các vị (x Acts 13:32-33), dù dân của Ngài đã muôn vàn lần bội hứa, đã không ngớt lỗi phạm lề luật thánh của Ngài, đã đáng bị Ngài tận diệt ngay từ đầu (x Ex 32:10).
Chính vì chân dung của Đức Kitô, của Đấng Thiên Sai không phải ở mặt phải với đầy những quyền năng, mà là ở mặt trái đầy tuân phục, đau khổ và tủi nhục, mà thành phần được Người tuyển chọn, thành phần muốn đáp lại lời Người mời gọi, thành phần muốn thực sự trở thành môn đệ của Người, muốn theo Người cho tới cùng, “đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4), như Mẹ Maria “đứng bên thập giá” (Jn 19:25), cần phải thực hiện những gì Người đã nói với chẳng những với các tông đồ mà còn cả với dân chúng ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “Ai muốn theo Tôi họ phải chối bỏ chính bản thân mình, vác thập giá của mình mà theo Tôi. Ai muốn giữ sự sống mình thì sẽ đánh mất sự sống, còn ai mất sự sống mình vì Tôi và vì phúc âm thì sẽ giữ được sự sống”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Giacôbê đã nhấn mạnh đến việc thực hành những gì mình tuyên xưng. Phải chăng những lời khuyên này của vị tông đồ Giacôbê đã phản ảnh cảm nghiệm của ngài từ bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, từ việc các tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô” bằng môi miệng song trên thực tế đã sống mâu thuẫn với sự thật các vị tuyên xưng, mâu thuẫn đến nỗi đã đi đến chỗ phản nộp Người nơi tông đồ Giuđa Ích-Ca, đến chỗ “tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50) khi “Đức Kitô” bị bắt trong vườn Cây Dầu, hay thậm chí đã đi tới chỗ trắng trợn chối bỏ Người ba lần nơi chính cửa miệng của người tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô”, và đến nỗi đã phủ nhận Người khi Người từ trong kẻ chết sống lại đúng như Người đã báo trước (x Lk 24:37; Jn 20:25). Chính vì con người chỉ tìm kiếm bộ mặt phải của Chúa Kitô, và sợ đụng đầu với bộ mặt trái của Người, một bộ mặt bị khạc nhổ như tiên tri Isaia trong bài đọc một tiên báo, mà họ hãy coi chừng kẻo sẽ gặp toàn là Kitô giả xuất hiện để lừa đảo nhiều người (x Mt 24:24).
32. Con Thiên Chúa – Lm. Minh Vận, CRM
Văn hào Charles Lamb sống ở Anh Quốc 200 năm trước đây. Suốt 30 năm, ông chỉ là một viên thư ký tầm thường trong một xưởng đóng tầu. Thế mà ông đã trở nên một văn hào nổi tiếng vì những bài trào phúng thanh nhã, duyên dáng và nhất là ông có một tình yêu thương hiếm có đối với gia đình và bạn bè của ông. Một buổi chiều nọ, các bạn hữu hội họp tại nhà ông để thảo luận về văn chương. Một người trong nhóm đặt câu hỏi: "Chúng ta sẽ nghĩ sao, nếu Dant, tác giả của vở hài kịch Divine Comedy, sẽ bước vào phòng họp của chúng ta chiều này?" Một người khác lại tiếp lời: "Giả thử Shakespeare tới họp với chúng ta bây giờ thì sao?" Ông Charles Lamb vội vàng trả lời: "Tôi sẽ giang hai tay vui mừng nồng hậu đón tiếp vị "Vua" của các nhà tư tưởng danh tiếng đó". Cuối cùng, một người khác đặt giả thiết: "Vậy giả như Chúa Kitô bước vào phòng họp này thì chúng ta có thái độ nào?" Văn Hào Charles Lamb nghe vậy, vội nghiêm nét mặt trả lời: "Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều cung kính quì xuống tôn thờ Ngài".
Tại sao văn hào Charles Lamb lại phát biểu tư tưởng đặc biệt này? Tại vì giữa Chúa Kitô và các vĩ nhân của lịch sử nhân loại có sự khác biệt vô cùng: Chúa Kitô là Thiên Chúa đáng tôn kính sùng mộ, còn các vĩ nhân kia, dầu sao cũng chỉ là con người phàm như bất cứ ai trên trần gian này.
I. NGÀI LÀ MỘT VĨ NHÂN SIÊU VIỆT
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Marcô tường thuật câu truyện trao đổi giữa Chúa Kitô và các môn đệ Ngài, đang trên đường tiến về miền Xêsarê Philipphê. Chúa hỏi các môn đệ cho biết, người ta đã nghĩ thế nào về Ngài.
Qua lời đối đáp của các môn đệ, cho chúng ta thấy quan niệm của người Do Thái đương thời, thì Ngài Chính là Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu nay sống lại. Có những người lại cho rằng, Ngài là tiên tri Elia đã xuất hiện; những kẻ khác lại cho rằng, cùng lắm thì Ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như bất cứ tiên tri nào khác.
Với những quan niệm của người thời nay: Có những người tôn Ngài là một vị quân tử, một nhà hiền triết, giống như các triết gia Hy Lạp Aristote hay Socrate chẳng hạn. Có những người sùng mộ hơn thì lại cho Ngài là một vĩ nhân, một nhà lập đạo, một lãnh tụ tôn giáo như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử hoặc như Thích Ca Mâu Ni, ông tổ Phật Giáo; Ngô Văn Chiêu, ông tổ Cao Đài Giáo; Huỳnh Phú Sổ, ông tổ Phật Giáo Hòa Hảo; Đỗ Hữu Thuần, ông tổ Pháp Lý Vô Vi hay ông Đạo Dừa chẳng hạn... Rồi có người lại coi Ngài là thần tượng của giới trẻ, ông tổ của giới Hippi; hoặc hơn nữa, Ngài là một siêu nhiên cao cả có quyền năng trong lời nói và trong hành động.
II. NGÀI LÀ ĐỨC KITÔ CON THIÊN CHÚA
Sau khi nghe các môn đệ thuật lại ý kiến của các người Do Thái nghĩ về Chúa, Chúa mới hỏi lại các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Thánh Phêrô đã lên tiếng đại diện cho các môn đệ tuyên xưng rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!".
Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia Thiên Chúa sai đến trần gian, để truyền bá giáo thuyết và huấn lệnh của Thiên Chúa, như phương thế cứu độ trần gian. Nhưng Ngài không phải là Đấng Thiên Sai theo quan niệm sai lầm của người Do Thái, vì họ chỉ chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền về phương diện chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ đế quốc Roma, cũng giống như quan niệm tầm thường của các môn đệ của Ngài lúc ban đầu, họ đã thường tranh luận với nhau xem ai trong nhóm họ, sẽ làm lớn trong "Nội Các" tương lai của Thầy.
Thực ra, Đức Kitô là chính Đấng Thiên Sai được mệnh danh là Người Tôi Tớ Thống Khổ của Thiên Chúa, như bài sách tiên tri Isaia chúng ta vừa nghe đã tiên báo. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc hình tôi đòi giống như người phàm, Ngài đã hủy mình đi, lãnh nhận mọi án lệnh như một tội nhân, Ngài đã tự nguyện hiến dâng bản thân làm lễ vật hy sinh, chịu chết để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, hầu cứu độ nhân loại.
Sau khi nghe Chúa nói về những thống khổ Ngài sẽ chịu, bị các trưởng tế, kỳ lão, luật sĩ chối bỏ và giết chết. Phêrô đã kéo Ngài lui ra và can ngăn Ngài, Ngài đã nặng lời quở trách ông: "Satan, hãy lui đi, con không biết việc của Thiên Chúa, mà chỉ biết việc của loài người". Những lời đó đã đánh tan quan niệm sai lầm của các môn đệ, làm cho các ông được hiểu biết đúng về Ngài, để niềm tin của các ông thêm vững mạnh, thêm xác tín hơn. Do đó, Thánh Phêrô đã đại diện các môn đệ cao lời tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!".
III. CÒN CHÚNG CON, CHÚNG CON LÀ AI
Cùng với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Đó là lời tuyên xưng đã được Chúa chấp nhận và hài lòng. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải trở nên chứng nhân và sống niềm tin chúng ta vừa tuyên xưng, bằng cách chúng ta hãy chân thành đáp lại lời Chúa có thể hỏi chúng ta: "Còn chúng con, chúng con là ai?"
Chúng ta là Kitô Hữu, là người thuộc về Chúa Kitô, là môn đệ của Chúa, là con Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô. Vậy chúng ta đã thực trở nên chứng nhân của Chúa bằng cuộc sống cho niềm tin đó, xứng với danh nghĩa diễm phúc chúng ta là Môn Đệ, là con Thiên Chúa chưa?
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nên con Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải nên giống Chúa: "Các con hãy học cùng Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu". Điều kiện để nên môn đệ của Chúa: "Ai muốn theo Cha, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Cha". Và: "Ai không từ bỏ chính mình, không vác thập giá mình, không thể làm môn đệ Cha được"
Kết Luận
Với lòng tôn kính và sùng mộ, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, là Thiên Chúa thật, chúng ta hết lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Ngài. Nhưng để chứng minh lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa xứng đáng, Chúa đòi chúng ta hãy sống xứng đáng với danh nghĩa diễm phúc là môn đệ, là con Thiên Chúa, bằng cách cố gắng mô phỏng đời sống thánh thiện của Chúa Kitô ngay trên trần gian này.
33. Thánh Giá là gì?
(Suy niệm của Br. Thiện Mỹ, CRM)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta vác Thánh Giá mình mà theo Chúa, nhưng Thánh Giá là gì?
Nhiều người xem Thánh Giá như một đơn vị kinh tế để xác định giầu nghèo. Thánh Giá bằng vàng thì quí hơn Thánh Giá bằng gỗ. Và Thánh Giá bằng vàng cũng còn tuỳ to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người giầu có Thánh Giá bằng vàng đã đành, kẻ nghèo túng cũng tìm mọi cách để sắm cho được Thánh Giá vàng để khoe với mọi người rằng mình “chẳng thua kém gì ai”. Dĩ nhiên người môn đệ đích thực của Đức Kitô không nhìn Thánh Giá như đơn vị kinh tế để khoe khoang như thế.
Người khác lại dùng Thánh Giá để xuống đường. Họ vác Thập Giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng đòi biểu tình, để đòi đóng đinh kẻ khác. Thánh Giá bị lợi dụng để tranh giành ảnh hưởng, để tiêu diệt kẻ thù, thay vì đem sự sống, đem bình an hạnh phúc đến cho mọi người, kể cả kẻ thù của mình.
Ý nghĩa đích thực của Thánh Giá cần tìm thấy ở giáo huấn của Chúa Giêsu, hoặc nhìn thấy chính Đức Giêsu chịu treo trên Thập Giá để thực hiện ơn Cứu Chuộc cho con người. Người Kitô hữu đích thực vác Thập Giá đi theo Đức Kitô vì yêu mến Ngài, chứ không phải lợi lộc trần thế. Trước khi đi sâu vào mầu nhiệm Thập Giá chúng ta tìm hiểu ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay:
Khi ấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đang trên đường đi tới các làng, xã vùng Cêsarê, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo thầy là Gioan Tẩy giả, người thì nói là Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Rõ ràng là dân chúng đã thấy Chúa Giêsu là nhân vật của Thiên sứ, nhưng họ vẫn chưa tỏ tường hẳn về Ngài. Mà “vô tri thì bất mộ”, họ chưa nhận ra được dung nhan cứu thế của Đức Kitô thì làm sao họ có thể thấu đáo được mầu nhiệm Thập Giá của Ngài. Riêng ông Phêrô thấy được Con Thiên Chúa xuất thân từ gia đình thợ mộc nghèo nàn là một ơn rất đặc biệt…. Lúc đó Chúa Giêsu thấy niềm tin của Phêrô, Ngài liền bắt đầu mở chìa khóa cửa trời và tỏ cho các môn đệ biết mầu nhiệm sinh ơn cứu độ, Ngài cho các ông biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết và sau ba ngày Ngài sống lại. Rồi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ Đấng Mêsia với sự đau khổ và sự chết mà Ngài đang khẳng định với các môn đệ. Đó là những điều khó tin khó hiểu, vì suốt đời họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêsia bách chiến bách thắng, thế mà giờ đây họ lại được nghe những điều trái ngược:
Suốt quá trình cuộc sống, người Do Thái chẳng khi nào quên được họ là tuyển dân của Chúa theo ý nghĩa hết sức đặc biệt, họ trông mong được một địa vị cao cả trong thế gian. Họ luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavit. Họ mơ ước một ngày kia có một vua khác thuộc dòng dõi Đavit sẽ khiến họ trở thành vĩ đại trong lịch sử công chính và thế lực. Thế nhưng thời gian trôi qua, mơ ước của họ thật đáng thương hại. Họ bị lưu đầy sang A-sy-ry, người Babilon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do Thái đem về nước làm tù binh. Rồi họ còn bị làm tôi cho người Ba Tư, Hy Lạp, sau đó là người La Mã. Thế là họ chẳng chinh phục được ai, cho nên có một giòng tư tưởng khác nảy sinh, họ càng ngay càng mơ ước về một tương lai khi Thiên Chúa can thiệp lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, họ mong quyền năng Thiên Chúa sẽ làm những gì mà khả năng con người đành bó tay, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần dân, một siêu nhân xuất hiện trong lịch sử để tái tao thế giới và cuối cùng báo thù cho tuyển dân của Thiên Chúa… Lúc đó các dân nước khác sẽ liên minh với nhau để chống lại nhà vô địch của Thiên Chúa. Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Hiền giả Phi-lô bảo rằng “Đấng Mêsia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tai hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêsia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái, họ cũng đang chờ đợi thành Giêrusalem mới sẽ được làm lại, dân Do Thái đã bị tản mát khắp thế giới sẽ được gom về thành phố Giêrusalem mới, lời cầu nguyện hằng ngày của người Do Thái là: “Xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tản mát của chúng tôi khắp bốn phương trời lại”. Còn cao vọng hơn thế nữa, dân Do Thái tin là xứ Palestine sẽ là trung tâm thế giới và cả thế gian sẽ qui phục nó…. Chính vì những lý do đó, nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối, ngăn cản Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại quở trách đuổi Phêrô như xưa Chúa đã đuổi Satan cám dỗ Chúa trong thời kỳ chay tịnh 40 ngày ở sa mạc (Mt.4,10). Ngày trước Chúa nói với Satan là “phải thờ phượng Chúa”, còn bây giờ Chúa nói với các môn đệ và quần chúng rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mình mà theo Ta”. Đây là điều ngược hẳn với mơ ước trần gian.
Thập Giá khi mà Chúa báo trước thì Phêrô đã can gián Ngài. Thập Giá khi mà Phêrô theo Chúa vào sân tiền đình của thượng tế Caipha, Phêrô đã chối Chúa, còn các môn đệ khác đã bỏ chạy đi nơi khác hết. Thế mà Chúa lại mời gọi mọi người vác lấy. Ngài mời gọi con người lựa chọn chứ không bắt buộc. Nếu biết Đức Kitô là ai, hẳn chúng ta cũng biết Thập Giá là gì. Nếu vui lòng vác Thập Giá, Thập Giá sẽ đưa dẫn chúng ta vào Nước Trời. Thập Giá đắng cay sẽ cho chúng ta hương vị ngọt bùi của Thiên Đàng.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta xác tín hơn về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu treo trên Thập Giá; để biết bỏ mình, biết chia sẻ với tha nhân hơn là hưởng thụ; biết phục vụ mọi người hơn là thích thống trị; biết phân phát hơn là lãnh nhận. Càng theo theo sát bước chân Chúa chúng ta càng phải chịu hao mòn, chịu mất mát và thậm chí phải chịu chết để được sống vinh hiển đời đời với Đức Kitô. Chúa đã say mê vác Thập Giá, chúng ta là môn sinh của Ngài cũng phải hân hoan bước theo Ngài lên đồi Canvê. Vì nếu cùng chết với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài. Và nếu chia sẻ đau khổ của Chúa, chúng ta cũng được chung phần vinh quang của Người.
34. Qua Thập giá đến vinh quang.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm trở của một đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu hiện thân nơi ba đệ tử của ông: Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng. Ba người học trò này là biểu tượng của ba nết xấu mà vị thiền sư phải vượt qua để đạt đến chính quả. Đó là lòng kiêu căng, sự đam mê nhục dục và tính lười biếng.
Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ cuộc hành trình theo Đức Giêsu của các môn đệ. Trong cuộc hành trình này, điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện duy nhất Chúa Giêsu nêu ra như một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Lời mời gọi ấy quả rất nhức nhối và mang tính quyết liệt gửi trao đến tất cả chúng ta.
Per Crucem (Qua Thập giá).
“Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. Đây là điều tâm niệm mà các nữ tu Mến Thánh giá vẫn lập đi lập lại mỗi ngày. Nhưng không phải chỉ các nữ tu, mà tất cả mọi Kitô hữu đều phải chọn và sống linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin của mình. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cũng khẳng quyết với xác tín sâu xa: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là sự điên rồ” (1 Cor 1, 22). Thánh Marcô kể lại, khi Đức Giêsu khải thị cho các học trò về viễn ảnh Thập giá, các tông đồ, đặc biệt Phêrô đã cản ngăn Ngài. Điều này dễ hiểu. Họ không thể chấp nhận một tương lai u ám như thế. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ làm thủ lãnh một vương quốc đầy oai hùng, tại sao lại có thể bị giết chết và bị treo thân giống như một tên cướp? Phêrô can ngăn là điều rất hợp lý theo suy luận tự nhiên. Vì vậy, Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
Trở lại với bối cảnh xã hội ngày xưa, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều Chúa muốn nói. Trong xã hội Do thái thời bấy giờ, dân chúng sống dưới chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Đế quốc dùng án tử hình thập giá đối với các tội phạm ghê tởm nhất. Đây là hình phạt man rợ và kinh hoàng mà đế quốc chỉ áp dụng cho cư dân ở các nước thuộc địa, còn công dân Rôma được miễn. Tên tử tội sẽ bị treo lên cao, tay chân bị đóng chặt, ngực dãn ra và rất khó thở. Phạm nhân vừa đau đớn, vừa phải chịu đói chịu khát, phơi nắng phơi sương cho đến chết. Người nào khỏe nhất cũng chỉ cầm cự được hai ngày. Sau khi chết, xác của họ không được chôn trong lòng đất, để mặt đất khỏi bị nhiễm uế do tội lỗi ghê tởm của họ. Chim trời sẽ đến rúc rỉa thân xác ấy cho đến khi không còn lại gì. Đối với người Do thái, đây là một sự xúc phạm, đồng thời hình phạt ấy cũng nói lên tính dã man và sự miệt thị của đế quốc đối với các nước nhược tiểu.
Cũng tương tự như thế, Hy Lạp ngày xưa có rất nhiều triết gia nổi tiếng như Socrates, Aristote, Diogène.. Người dân say mê triết học để tìm sự khôn ngoan cho cuộc sống mình. Họ chủ trương phải sống cho thật ý nghĩa và giá trị. Cái chết thập giá của những phạm nhân đối với họ quả là một sự điên rồ, vì nó kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cuộc sống của họ coi như bị vất bỏ hoàn toàn.
Đây là não trạng của dân Do Thái và dân Hy Lạp thời Chúa Giêsu khi họ nhìn vào hình phạt khổ giá. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết xem ra vô lý tột độ như thế. Ngài chết như một tên tử tội đốn mạt nhất bị xã hội ruồng bỏ và coi khinh. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội, đón nhận một cái chết man rợ nhất, nhục nhã nhất và cũng bi thương nhất.
Vì thế, chẳng lạ gì Phêrô đứng ra can ngăn Chúa ngay tức khắc theo phản xạ tự nhiên. Phêrô không hiểu, đúng hơn ông chưa hiểu thế nào là mầu nhiệm Thập giá. Lời gọi mời của Chúa Giêsu “Ai muốn theo tôi, phải bỏ mình vác Thập giá mình mà theo”, vừa mang tính thách đố quyết liệt, vừa gợi mở một cuộc hành trình theo Chúa trong niềm tin tuyệt đối, tức là “cuộc hành trình đi vào một vùng tối tăm đầy ánh sáng” (tư tưởng của Thánh Grêgoriô thành Nyssê).
Ad Lucem (Đến vinh quang)
Nhưng, cái chết trên Thập giá của Đức Giêsu không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc cuộc sống 33 năm dương thế của Ngài một cách vô nghĩa. Ngài là một con người rất con người, đã đi qua cái chết, nhưng Ngài vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, Đấng hằng sống và không bao giờ chết. Đức Giêsu đã chọn Thập giá để khai mở cho con người chân trời ơn cứu độ qua sự phục sinh vinh thắng. Không có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết của một tên tử tội bị xã hội loại trừ. Không có cái chết nào bị thương và tức tưởi cho bằng cái chết của một đấng hay thi ân, lại bị con người phản bội và đối xử tàn khốc. Không có cái chết nào ai oán cho bằng cái chết của Đấng Công chính lại bị xét xử bất công và quá phũ phàng. Đức Giêsu đã chết trong cô đơn và bị ruồng bỏ hoàn toàn. Các học trò thân tín nhất cũng tháo chạy. Ngay cả Chúa Cha dường như cũng hắt hủi, đến độ Ngài phải não lòng thốt lên: “Cha ơi, sao Cha lại bỏ con?”
Nhưng Thập giá và mầu nhiệm tự hủy chính là con đường dẫn đến sự sống. Nghịch lý của Thập giá mà Chúa Giêsu gọi mời hôm nay được diễn bày nơi chính cái chết bi thương của Ngài: Qua sự chết đến sự sống, qua bóng tối của tử thần chúng ta mới có thể đi vào miền ánh sáng phục sinh vinh quang. Per crucem ad lucem.
Nghịch lý của Thập giá luôn là một mầu nhiệm khó hiểu. Chỉ khi Đức Giêsu từ cõi chết chỗi dậy, các học trò của Ngài mới dần hiểu ra và sẵn sàng lao vào con đường xem ra rất tối tăm ấy. Ánh vinh quang Phục sinh đã làm sáng lên chân trời đức tin mà trước kia vẫn còn mù tối nơi tâm hồn các tông đồ. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã tiếp cận trực tiếp với Đấng sống lại và con mắt đức tin của họ đã mở toang. Ngay cả Tôma Dydimô vẫn bị mang tiếng oan uổng là cứng tin, cũng đã hoàn toàn quy thuận khi Đức Giêsu hiện đến. Ông không cần xỏ tay vào lỗ đinh, cũng chẳng cần sờ chạm đến vết đinh nơi thân thể Chúa. Chính cặp mắt Đức Giêsu đã xoáy sâu vào tận tâm hồn ông, đem đến cho ông một luồng sáng mới, thắp lên ngọn lửa đức tin nơi ông. Bấy giờ các tông đồ mới hiểu ra cách tường tận những điều Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo tôi”.
In hoc signo (Cứ dấu này)
Vào năm 326, Vua Constantinô, hoàng đế Rôma đã có một thị kiến nhìn thấy hình Thập giá trên bầu trời với hàng chữ “In hoc signo vinceris” (cứ dấu này ngươi sẽ chiến thắng). Ông đã chiến thắng và đã tin. Vua Constantinô đã trở thành một tín hữu, bắt đầu giai đoạn hoàng kim của Kitô giáo ở Âu châu. Cũng vậy, Thánh giá chính là dấu hiệu để người ta có thể nhận ra những ai thuộc về Đức Giêsu. Người ta thấy hình tượng Thánh giá ở khắp nơi, trên nóc các nhà thờ, giữa gian cung thánh, trên bàn thờ mỗi gia đình, trên các phần mộ của người công giáo tại các nghĩa trang.., bởi vì cứ dấu này (in hoc signo), người ta nhận ra ai là môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thật.
Tuy nhiên, khi nói về Thập giá, chúng ta thường nghĩ ngay đến những đau khổ. Không phải đơn thuần chỉ như thế. Thánh giá của Chúa Giêsu trước hết và trên hết là dấu chỉ của tình yêu. “In hoc signo”, cứ dấu này người ta sẽ khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được biểu tỏ tuyệt vời như thế nào. Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa tròn đầy nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Qua Thập giá, chúng ta học được bài học rất căn bản về tình yêu Thiên Chúa ngỏ trao. Tình yêu ấy đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Thánh Têrêsa Hài đồng đã học được bài học căn bản này. Khi nằm trên giường bệnh, Chị thánh luôn mỉm cười, để qua những đau khổ nhỏ bé, chị dần tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu cao cả cùng với Chúa Giêsu. Một lần mẹ Agnès hỏi chị: “Sao sáng nay em vui vẻ thế?”. Têrêsa trả lời “Em rất vui vì hôm nay em được lãnh nhận 2 sự khó nho nhỏ để yêu Chúa Giêsu. Không có gì vui sướng cho bằng đón nhận những sự khó cỏn con như vậy”. Ngài nói tiếp: “Những khổ đau ấy chẳng dữ dằn gì đâu. Em chịu được tới mức nào, bạn tình Giêsu gởi đến cho em tới mức đó, em chẳng bao giờ lo lắng về điều ấy cả”. Cuộc đời của Chị thánh là cuộc đời chứa chan niềm vui và an bình, tựa như những cánh hồng lan tỏa mùi hương êm dịu, nhưng ẩn sâu bên dưới đầy những gai nhọn của Thập giá. Thập giá Chúa Giêsu chính là dấu chứng (signum) bày tỏ tình yêu và quyền lực vô song của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh nữ đã tóm kết cuộc đời mình qua một định thức đơn giản: “Ơn gọi của tôi chính là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi là sống sung mãn tình yêu nơi Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu”
Kết luận: Những con chim ẩn mình chờ chết
Đây là tên bộ phim được trình chiếu rộng rãi trên đài truyền hình thành phố vào những năm thập niên 90. Ở đây, chúng ta không đề cập đến nội dung hư cấu của bộ phim hay đích nhắm mà soạn giả muốn nói đến. Tôi chỉ vay mượn giai thoại về loài chim gai (thornbird), được bộ phim chọn làm tựa đề, để quy chiếu và tóm kết sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Có một loài chim hót rất hay và chỉ hót duy nhất một lần trong đời. Trước khi chết, theo bản năng, nó bay vút lên cao, lượn mình vi vu giữa bầu trời mênh mông rồi lao nhanh xuống đất, cắm đầu vào một bụi gai và giẫy chết ở đó. Gai nhọn đâm nát khiến máu chảy tung tóe, thân xác nó tả tơi và dập nát. Trong đau đớn, nó sẽ cất lên tiếng hót, một giọng hót vừa ai oán vừa hùng vĩ, vừa cao vút nhẹ nhàng, vừa trầm buồn đến não nuột. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, nó hót vang. Giọng hót ấy thật tuyệt vời và thánh thót. Đó chính là tiếng hót của “những con chim ẩn mình chờ chết” (les oiseaux se cachent pour mourir). Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng sẽ cứu được mạng sống ấy”. Con đường theo Đức Kitô trên hành trình Thập giá cũng chính là con đường dẫn đến cái chết. Nhưng đây không phải là cái chết vô nghĩa, mà xuyên qua cái chết ấy chúng ta sẽ hát lên một bản hùng ca tuyệt vời, một bài ca chiến thắng khải hoàn vang dội. Đó chính là bài ca mà Đức Giêsu, thầy của chúng ta đã cất lên qua sự Phục sinh vinh thắng của Ngài. Có hát lên bài ca này, chúng ta mới cảm thấu được tình yêu Thiên Chúa, và tiếp tục dấn bước theo lời gọi mời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay.
35. Người Tôi Tớ đau khổ -(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,33)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Ðức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh cho chúng ta và cho mọi người.
II. Gợi ý sám hối
Vì sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu toàn bổn phận.
Vì chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng, thậm chí còn kêu trách Chúa.
Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 50,5-9a)
Trong phần II sách Isaia, còn gọi là Ðệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4 49,1-6 50,4-9 và 52,13-53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ ba.
Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
Người Tôi Tớ này là ai? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Ðấng Messia. Ðức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này: Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.
2. Ðáp ca (Tv 114)
Tâm tình của người tín hữu trung kiên: dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.
3. Tin Mừng (Mc 8,27-35)
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần:
a/ Ðức Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh: có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12: "Thầy là Ðức Kitô".
b/ Sau đó Ðức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.
- Các câu 33-35 "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo"
. "Ai muốn theo tôi" nghĩa là ai muốn làm môn đệ Ðức Giêsu ("đi theo" ai là làm môn đệ cho người đó)
. "Từ bỏ chính mình": xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Ðức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Ðức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hóa" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị "tha hóa". Nay cố gắng trở nên giống Ðức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. "Vác thập giá mình": Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Ðón nhận những khổ cực của mình, cũng như Ðức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, "vác thập giá mình" nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 35 giải thích câu 34: "Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi...". Như thế "vác thập giá" có nghĩa là "liều mất mạng sống", hay nói nôm na là "liều mạng" vì Chúa.
4. Bài đọc II (Gc 2,14-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với nhau: "Ðức tin mà không có hành động thì là đức tin chết".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Giêsu là ai?
Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Ðức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Ðức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển "The last temptation" (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Ðó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Ðức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển "Quo vadis": quyển truyện này lấy khung cảnh thời Hoàng Ðế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Ðó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của Hoàng Ðế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Ðức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Ðức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi "Quo vadis", tiếng Latinh nghĩa là "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Ðức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh." Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Ðức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Ðó là câu trả lời: Thầy là Ðức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!
Ðức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Ðức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá... Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời".
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi "Giêsu là ai?" Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô "Thầy là Ðức Kitô" thì chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.
* 2. Từ bỏ chính mình
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Ðỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
- Ðược, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Ðiều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
*
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Ðó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34). Ðây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Ðấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".
*
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Hai loại đức tin
Có hai loại đức tin: Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ, thầy cô... Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng; Loại thứ hai là tin vì mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin cá nhân.
Người có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức tin: cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan truyền đức tin cho người khác.
Người có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.
Người hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại: vừa do thừa hưởng từ những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.
Bởi thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Ðức Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta nghĩ Thầy là ai?" Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu nhận được từ người khác. Nhưng Ðức Giêsu còn hỏi tiếp "Phần chúng con, chúng con nghĩ Thầy là ai?" Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.
Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Ðức tin và việc làm
Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.
Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.
Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.
Cho nên Thánh Giacôbê nói: "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết".
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
Hoa trái của đức tin là tình yêu
Hoa trái của tình yêu là phục vụ
Và hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)
5. Nhận ra Ðức Giêsu
Nhận ra Ðức Giêsu là Kitô
Trước khi Ðức Giêsu đặt câu hỏi: "Anh em bảo Thầy là ai?", Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18; 8,17.21). Ðức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Ðức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này: "Anh em bảo Thầy là ai?" Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Ðức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: "Thầy là Ðức Kitô." Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Ðức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng: một Ðức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Ðức Kitô đó không phải là Ðức Kitô Giêsu.
Ðức Kitô: Con Người chịu đau khổ
Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Ðức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Ðây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Ðức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Ðức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Ðức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Ðó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Ðức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng "để cho Ngài phải thấy sự hư nát" (Tv 16,10 bản LXX). Ðức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.
Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Ðức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Ðức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Ðức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Ðức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông: "Satan, hãy lui lại sau Ta". Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Ðức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông: "Hãy đi sau Ta". Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Ðức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. "Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người." Ðức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. "Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người." (1C 1,25)
Thân phận của người môn đệ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. "Nếu ai muốn đi sau Ta". Ði sau Ðức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Ðức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Ðức Giêsu. Còn bây giờ, điều Ðức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.
Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Ðức Giêsu. Như thế Ðức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Ðức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn - Phục Sinh của Ðức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. "Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn." (Ga 21,18). Ðức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Ðức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ðức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Ðức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).
Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Ðức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Ðiều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản... để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời; đó cũng là đường mà mọi người phải đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Xin cho các vị chủ chăn và mọi con chiên trong Hội thánh không lùi bước trước khó khăn gian khổ / nhưng luôn trung thành bước đi theo Ðức Giêsu trên đường thập giá.
2. Xin cho các nhà cầm quyền và dân chúng trong các nước chậm tiến, kém phát triển / biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách / để xây dựng đất nước theo công lý và hòa bình.
3. Xin cho mọi người đang gặp khổ nạn / biết liên kết với cuộc khổ nạn của Ðức Giêsu Kitô / để tìm thấy ý nghĩa và niềm hy vọng cho cuộc sống.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta là môn đệ Chúa / biết trung thành đi theo Chúa / và sẵn sàng liều mạng sống vì Chúa và vì Tin mừng của Người.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thánh Kinh nói "Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung". Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau. Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo".
36. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
1. Đức tin của người Tôi trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ “đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là “Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
2. Đức tin vào Chúa Kitô của người môn đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)
Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô”, Chúa Giêsu cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu “bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
3. Đức tin không có hành động là đức tin chết (bài đọc Tân Ước – Giacôbê 2:14-18)
Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
4. Sống đức tin
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
37. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Trong một tuần lễ sinh hoạt học hỏi và huấn luyện của các anh chị Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể từ các Xứ Đoàn gửi về. Ngày cuối chúng tôi được tham dự một buổi viễn du ngoài xã hội: đi thăm một viện dưỡng lão người già tại thung lũng Valley d'Amoure. Trong viện có chừng 60 bệnh nhân đủ mọi hạng người: già khớ đến, mù, đui, điếc, què và những bệnh nhân ngồi xe lăn. Chúng tôi đến thăm viện từ sáng sớm, nhiều người còn đang ngủ, nên nhận xét được rất nhiều: Có bà già co quắp chân tay, nằm èo ẹt trên giường còn xông mùi nước tiểu nồng nặc. Có cụ già gù và điếc ngồi trên xe lăn, hướng mắt nhìn ra cửa chính. Cụ là người già nhất và cô đơn nhất, ngày ngày cụ ra ngồi chỗ cửa chính để ngóng con trai vào thăm nom. Trong gian nhà chơi trống rỗng vài ba ông bà già ngồi chụm quanh bàn chơi cờ tây, lâu lâu mới được nụ cười thích thú. Trong một căn phòng kê đủ 3 chỗ ngủ, một thiếu nữ trạc độ 20 tuổi, cụt hai chân, đang quấn trong chăn, miệng ngồm ngoàm nhai bữa điểm tâm sáng. Phòng bên cạnh là một bà già đứng tuổi đang dương đôi mắt mờ mờ nhìn sát màn ảnh Tivi mầu. Bà mở cho máy kêu oang oang phát ra cửa. Đi phòng nào cũng ngửi thấy mùi hôi ban sáng, khiến tôi bị nôn mữa, phải chạy ra ngoài để lấy không khí. Chúng tôi giúp đỡ họ làm sạch vệ sinh ban sáng rồi tụ họp họ lại nhà hội để làm văn nghệ mua vui cho họ. Một buổi sáng hôm đó, chúng tôi đã làm cho biết bao guôm mặt rạng rỡ nụ cười. Ngay chính chúng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và sung sướng.
Câu chuyện trên đây thật thích hơp với bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn phải khổ nhiều". Chúa còn phải đau khổ nhiều khi nhìn đến nỗi khổ của dân chúng, đặc biệt là những kẻ khốn cùng. Trên thế giới này biết bao người tàn tật, bệnh hoạn về thể xác, già cả, khổ đau về tinh thần.... Cần được giúp đỡ, cần phải phục vụ . Làm cho họ chính là làm cho mình sung sướng vì họ là hình ảnh của Chúa hiện diện nơi đám dân nghèo. Chúa còn nói: "Những gì ngươi làm cho một anh em nghèo khổ là làm cho chính Ta" (Mt. 25:40).
Lạy Chúa, xin cho con thấu hiểu điều này là: Biết phục vụ người khác mới tìm được hạnh phúc thật.
38. Chúa Giêsu là ai đối với tôi?
Giả như có một ngày, chúng ta nhận được một cú điện thoại bảo chúng ta tới một địa điểm nào đó và gặp một người như mô tả qua điện thoại để nhận một món quà lớn. Luùc ñoù chúng ta sẽ suy nghĩ và đắn đo nhiều. Bởi lẽ, chỉ qua điện thoại làm sao sự tin tưởng của chúng ta trọn vẹn được.
Ðúng vậy, ông bà chúng ta có nói vô tri bất mộ nghĩa là không biết thì không thể tin được. Ðoạn tin mừng hôm nay cho thấy sau một thời gian Chúa Giêsu công khai ra đi rao giảng, hôm nay Người muốn xem dư luận biết mình là ai. "Người hỏi các môn đệ: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27b 28).
Ðó là cái nhìn của những người ngoài. Giờ đây Chúa Giêsu trắc nghiệm cái nhìn của các môn đệ thân tín của mình "Người lại hỏi các ông: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Phê-rô trả lời: Thầy là Ðấng Kitô." (Mc 8, 29)
Chúa Giêsu chính là Ðấng Kitô của Thiên Chúa Giavê - một Ðấng Kitô tôi tớ. Chính tiên tri Isaia đã loan báo về Người trong bài đọc 1: ÐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ". (Is 50, 6)
Chúa Giêsu đến trần gian hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa Cha. Ý định hoàn tất tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Do đó, Chúa Giêsu một mực vâng theo thánh ý nhiệm mầu của Cha. Ðể từ đó con người được đón nhận trọn vẹn ơn cứu chuộc.
Thánh Phêrô cũng như các Tông đồ mặc dù tuyên xưng Chúa Giêsu đúng như Người là nhưng các ông chưa cảm nghiệm thật sự về Người. Chỉ sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông mới cảm nhận sâu sắc về Người. Cho nên, các ông dám liều mình vì Chúa và vì Tin mừng.
Có nhiều mức độ để biết về một ai đó. Trong đó cái biết trong tim là mức độ cao nhất. Cái biết đó sẽ làm thay đổi cách sống của con người ta. Cái biết đó sẽ làm cho người ta bạo dạn hơn. Cái biết đó sẽ là cho người ta tin tưởng và dấn thân trọn vẹn hơn. Có thể từ lâu chúng ta chưa thật sự biết Chúa Giêsu đến mức độ này nên cuộc sống của mình vẫn chưa được biến đổi nhiều. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta mỗi ngày được biết Người bằng chính con tim của mình. Nhờ đó, đời sống đức tin của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn.
39. Từ bỏ chính mình – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
- Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
***
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).
40. Thầy là Đấng Kitô
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
“Thầy là Đấng Kitô”, là lời tuyên xưng của thánh Phêrô khi Chúa Giêsu hỏi: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?”. Chúng ta có biết lời tuyên xưng của Phêrô quan trọng như thế nào không?
Chúng ta đã nghe lời tuyên xưng này quá nhiều lần đến nỗi dường như nó là lời nói của một ai đó. Nhưng thật ra, đó chính là lời mà chúng ta phải tuyên xưng hằng ngày. Một khi tuyên xưng như thế, chúng ta cảm thấy thế nào? Ngài là ai đối với chúng ta?
Hôm nay, Người cũng hỏi chúng ta: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?”
“Thầy là Đấng Kitô”.
Vậy, Đấng Kitô là ai?
Từ Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu. Xức dầu nghĩa là gì?
Đây là một nghi thức trong Cựu Ước để phong vương cho các vua Israen. Tiên tri Samuen đã xức dầu tấn phong cho vua Saun, và người được xức dầu là người được Chúa chọn được tràn đầy Thần khí Chúa để thi hành một sứ vụ Chúa trao. Đavít cũng được tiên tri Samuen xức dầu để thay thế vua Saun đã không tuân lệnh Chúa và bị Chúa bỏ rơi.
Thời gian sau các vua, nghi thức này cũng được áp dụng cho các vị thượng tế. Những người được Chúa xức dầu, vua hay thượng tế, đều là những người được tuyển chọn để thi hành những gì Chúa truyền để hướng dẫn dân Chúa đi đúng đường lối Chúa.
Sau thời lưu đày, nhất là dưới ách nô lệ của Rôma, dân Do Thái khao khát được tự do. Đã hiểu từ Kitô như một Đấng giải phóng dân tộc, một vị vua trong dòng tộc Đavít, sẽ biến nước Israen thành một cường quốc và bá chủ hoàn cầu.
Chúa Giêsu đến trong một hoàn cảnh khá phức tạp, khi dân Do Thái đang mong chờ một vị cứu tinh trần thế. Khi Ngài hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người trong hoang địa, dân chúng tưởng như đã gặp được vị cứu tinh họ mong muốn và muốn tôn Ngài làm vua.
Theo thánh Gioan, dư luận của đa số dân Do Thái đã xem Ngài là Đấng Kitô (xem Ga 3,41), là Con Vua Đavít.
Chúa Giêsu tỏ ra rất dè dặt khi dân chúng hồ hỡi loan hô Ngài khi trông thấy những phép lạ Ngài làm. Nhiều lần Ngài đã ra lệnh không cho ai biết về phép lạ, vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu sai về Ngài, xem Ngài như một vị cứu tinh trần thế.
Ngài tìm hết mọi cách để thanh tẩy quan niệm sai lầm ấy. Ngài chỉ bày tỏ cho một vài người xét ra là cần thiết, như người đàn bà Samari. Bà ấy nói với Ngài: “Thưa Ngài, tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.
Chỉ một lần duy nhất, Ngài để họ tung hô Ngài là Con Vua Đavít khi dân chúng rước Ngài vào Giêrusalem.
Hôm nay, chúng ta nghe nhắc lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, nhưng sau đó, Ngài cho các môn đệ thấy rằng Đức Kitô không là một vị anh hùng dân tộc, một vị vua oai hùng mà là một người sẽ bị hành hạ, bị giết chết. Thánh Maccô lại thêm một câu chú thích: “Ngài nói rõ điều đó không úp mở”.
Phêrô trực tính, không thể chấp nhận những lời Thầy nói, ông phản đối riêng với Thầy. Ông đã từng chứng kiến những phép lạ Thầy làm, ông đã từng nghe những lời ca tụng của dân chúng, và chính ông đã nghe từ miệng Thầy những lời khẳng định rõ ràng:
“Ta là ánh sáng thế gian”.
Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”.
Ta là đường, là sự thật và là sự sống”…
Vậy làm sao Thầy có thể thất bại như thế được! Làm sao người ta có thể giết Thầy?
Chúa Giêsu phản ứng một cách hết sức bất ngờ và mạnh mẽ: “Satan! Hãy lui ra! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”.
Con đường của Ngài là đau khổ và chết. Cái chết của Ngài không phải là một tai nạn, cũng không là một thất bại mà là một sứ mệnh, sứ mệnh của Đấng Thiên Sai, đến để “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”.
Chúng ta giống như Phêrô, muốn chiếm chỗ nhất, muốn thành công trong xã hội. Tinh thần đắc thắng đã trở thành động lực cho những hoạt động của chúng ta. Mục tiêu của chúng ta nhiều khi chỉ làm sáng danh ta hơn là làm sáng danh Chúa. Như thế, tất cả chỉ là cơn gió thoảng qua. Có cái gì đó không trọn vẹn, không trong sáng trong hướng đi của chúng ta: “tư tưởng của anh không đúng với tư tưởng của Thiên Chúa…”
Chúng ta cần trở về với tinh thần khiêm nhu và hy sinh của Chúa Giêsu. Kết quả của mọi hoạt động là do Chúa, chúng ta chỉ là dụng cụ thô hèn. Chúng ta luôn ước muốn làm điều lớn lao nhưng quên rằng chúng ta mong manh, nhỏ bé. Ngài dạy chúng ta “bỏ mình”. Đó là con đường giải thoát giúp chúng ta nhẹ nhàng bước đi “theo Ngài”.
Ngài bước đi nhẹ nhàng, không vướng mắc, không nặng nề. Ngài đã bước vào trần gian như một con người nghèo nàn nhất, không nơi nương thân. Lớn lên trong sự nghèo khó, tự do. Đăng trình rao giảng Tin Mừng, tay không, “không có nơi tựa đầu”. Chết trần trụi trên thập giá, đỉnh cao của đời Ngài.
Ngài đã yêu trọn vẹn, và chết trong yêu thương.
Ngài mời gọi chúng ta tự giải phóng mình khỏi mọi ràng buộc để đi về phía trước, trong thanh thản, trong hiến dâng. Yêu cho đến chết.
Bỏ mình không dễ, nhưng ai dám bước vào con đường này mới thấy mình tự do, mới thấy đời đáng sống và cái chết sẽ không còn là đe dọa mà là thành đạt.
Vậy, lời tuyên xưng của Phêrô quan trọng như thế nào?
Đó là cuộc sống của chúng ta, là nền tảng hạnh phúc, là phần gia nghiệp của chúng ta. Ngoài Chúa, chúng ta gặt hái được gì ở trần gian này?
Chúng ta đang ước mơ gì trong cuộc sống? Tiền bạc, của cải, danh vọng?
Nhiều người đã toại nguyện ở trần gian. Tiền bạc dồi dào xài ba đời không hết. Danh vọng có, nhưng cái chết vẫn là một hiểm họa không tránh khỏi. Bệnh tật và tuổi già cũng là những tai họa làm héo hắt cuộc sống. Những người giàu nhất thế giới vẫn bị hành hạ và chết vì bệnh ung thư.
Chỉ có Chúa Giêsu mới làm cho cuộc đời chúng ta sáng lên một niềm hy vọng không tàn phai trước những khốn khổ và cái chết.
Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta sinh lực cần thiết để chọn con đường khổ giá để đạt tới vinh quang tối hậu. Ngài chấp nhận đau khổ và cái chết vì Ngài biết “ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Cuộc chiến của chúng ta hôm nay cũng như cuộc chiến của Ngài. Chúng ta phải nhận lấy thân phận cát bụi với tất cả gánh nặng của nó, nhưng chúng ta không mãi là cát bụi vì chúng ta dám tin vào Ngài, chúng ta sẽ sống lại với Ngài. Nếu cuộc sống chúng ta đi vào bế tắt là trở về với cát bụi, với hư vô thì cuộc đời có đáng sống không? Ý nghĩa gì khi lao lực suốt cả cuộc đời để rồi đi về hư vô? Những khó nhọc của chúng ta suốt một đời chỉ gặt hái được hư không và thêm vào đó là sự khốn nạn đời đời thì quả là vô nghĩa.
Con người hôm nay yêu thích sự vô nghĩa đó vì họ không có ai để bám, không có gì để tin. Họ không có niềm hy vọng nào khác.
Chúng ta tin vào Chúa và chính Chúa sẽ là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Hãy tạ ơn không ngừng vì niềm tin Chúa ban.
Hôm nay, nơi bàn thờ, Ngài đến với chúng ta qua hình ảnh một tấm bánh, nhưng trong sự nhỏ hèn tột đỉnh đó, Ngài là niềm hy vọng vô bờ cho chúng ta, là lẽ sống duy nhất. Không có gì đáng cho chúng ta ước mơ. Chỉ có Ngài thôi.
41. Những viên ngọc giả - Lm Gioan B. M.
Truyện kể rằng vua Chosroes nước Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống của mình. Sau khi bình phục, vua triệu tập các cận thần và hỏi họ: "Trẫm muốn biết những gì các khanh đang chờ đợi nơi trẫm. Các khanh có nghĩ rằng trẫm là một quân vương tốt không? Đừng sợ, cứ nói lên hết sự thật, trẫm sẽ thưởng cho mỗi người một viên ngọc quí". Thế là các quan thay nhau lên tiếng ca ngợi vua. Người nào cũng tìm những lời tốt đẹp nhất khen lao tâng bốc vua. Khi đến lượt Elim, vốn là một người khôn ngoan và chính trực, ông tâu: "Thưa bệ hạ, thiết tưởng thần nên giữ thinh lặng thì hơn, vì sự thật không thể mua bằng tiền bạc". Vua tuyên bố: "Được. Trẫm sẽ không thưởng cho ngươi vật gì cả. Nào, hãy nói những gì khanh đang suy nghĩ trong lòng". Elim thưa: "Tâu bệ hạ, vì bệ hạ muốn biết những điều hạ thần đang nghĩ trong lòng. Hạ thần nghĩ rằng bệ hạ cũng chỉ là người như mọi người khác, cũng có những lầm lỗi và tật xấu. Nhưng những lầm lỗi và tật xấu ấy lại đè nặng trên dân chúng vì siêu cao thuế nặng... Thần nghĩ rằng bệ hạ đã tiêu xài quá nhiều để tổ chức tiệc tùng, để xây cất dinh thự, và nhất là để theo đuổi chiến tranh".
Nghe những lời ấy, nét mặt vua bỗng trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Rồi vua sai tặng cho các cận thần mỗi người một viên ngọc như đã hứa. Riêng Elim thì được bổ nhiệm lên chức tể tướng. Ngày hôm sau, các quan nịnh bợ trở lại triều đình tâu vua: "Tâu bệ hạ, kẻ nào bán ngọc qúi cho bệ hạ đáng phải treo cổ. Những viên ngọc ấy toàn là ngọc giả". Bấy giờ vua lên tiếng: "Trẫm biết đó toàn là ngọc gỉả, cũng như những lời tâng bốc giả dối của các ngươi".
Tin mừng theo Thánh Marcô cũng tường thuật Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông lần lượt thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Gỉa, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác thì nói đó là một tiên tri" (27-28). Nhưng Chúa Giêsu chưa hài lòng về những câu trả lời đó, Ngài đã thấu rõ lòng các ông thế nào rồi chẳng cần phải nói ra, nhưng để các ông khám phá Ngài là ai trong cuộc sống các ông, nên Ngài hỏi tiếp: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô" (29). Vì được trời cao mạc khải nên Phêrô đã trả lời đúng. Tuy nhiên trong thâm tâm của Phêrô và các môn đệ cũng như người Do thái thời đó đều mong ước một Đấng Kitô đến để giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị của Rôma, làm cho nước Israel nên cường thịnh. Một Đức Kitô họ nặn ra theo ý họ hơn là một Đức Kitô do Thiên Chúa Cha sai đến. Vì thế khi Chúa hé mở cho các môn đệ thấy Ngài lên Giêrusalem và phải chịu đau khổ nhiều, phải chết đi rồi sống lại, Phêrô đã kéo Ngài ra ngoài can ngăn.
Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ xưa, Ngài cũng muốn hỏi từng người chúng ta hôm nay. Chúng ta không thể chỉ trả lời theo như điều chúng ta học biết trong sách vở hay nghe người khác nói. Nếu như thế, chúng ta theo Chúa chỉ mới hời hợt mà thôi. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhận thức Ngài là ai, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vậy để trả lời đúng, chúng ta phải sống như Ngài đã sống. Chúng ta phải Kitô hoá đời sống mình, nghĩa là phải cố gắng tập nhìn bằng mắt Chúa, nghe bằng tai Chúa, nói năng bằng miệng Chúa, hành động bằng tay Chúa, suy tưởng và phán đoán bằng tâm trí Chúa. Nói cách khác, phải xin Chúa cho tinh thần Ngài thấm nhập vào mọi hành vi cử chỉ của chúng ta. Thế nhưng để nên giống Chúa Kitô chúng ta phải siêng năng chiêm ngắm cuộc đời Chúa Kitô Đấng đã tận hiến mình trọn vẹn cho Cha, hoàn toàn vâng phục Cha đến nỗi sẵn sàng chết và chết trên thập gía để làm trọn ý Cha.
Lạy Cha, chúng con nài xin Cha, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, xin ban tràn đầy Thánh Thần cho mỗi người chúng con, để soi sang và hướng dẫn lòng trí chúng con luôn theo sát gương Chúa Kitô Con Cha, để chúng con bắt chước Người mọi giây phút trong cuộc sống, hầu chúng con thực đáng gọi là Kitô hữu, là người bạn thân của Chúa Kitô Con Cha. Nếu không, chúng con cũng chỉ là những kẻ nịnh bợ gỉa dối. Rốt cuộc, có lẽ Chúa cũng chỉ thưởng cho chúng con những viên ngọc giả.
42. Thầy là Đấng Kitô – Lm. Đặng Quang Tiến
Đoạn 8:27-35 được đặt ở vị trí bước ngoặt trong tin mừng theo Marcô. Trong phần đầu của tin mừng nầy (1:14-8:26), Marcô đã trình bày Chúa Giêsu, Đấng đầy quyền năng trong giảng dạy và hành động. Điều nầy dẫn đến kết luận giữa dân chúng là Người được công nhận như là Đấng Kitô; và cũng chỉ từ lúc nầy Người mới cho biết sự thương khó của Người. Như thế, đoạn 8:27-35 có thể được xem như là kết luận của phần thứ nhất của tin mừng nầy, và cũng là dẫn nhập của phần thứ hai (8:27-16:80), nói đến hành trình lên Giêrusalem (8:27-10:52), những hoạt động ở đó (11:1; 13:37); và cuộc thương khó, cái chết và phục sinh tại Giêrusalem (14:1; 16:8).
Đoạn 8:27-35 được chia thành ba: 1- Câu hỏi của Chúa Giêsu về căn tính của Người (8:27-30); 2- Tiên báo lần thứ nhất về định mệnh của Chúa Giêsu (8:31-33); 3- Điều kiện và mục đích của việc theo Người (8:34-35; đúng hơn, phần nầy kéo dài đến câu 9:1). Sau đoạn tra hỏi và khẳng định về căn tính của Chúa Giêsu (8:27-30), đoạn 8:31-33 liên kết xét theo chủ đề rất chặt chẽ với đoạn 8:34-9:1và được trình bày cách đối xứng với đoạn ấy: định mệnh của Chúa Giêsu trong lời tiên báo của Người (8:31-32a) trở nên định mệnh tất yếu cho những ai muốn theo Người (8:34-37); trong khi, hành vi phản đối của Phêrô trước lời tiên báo ấy (8:32b-33) dẫn đến giáo huấn của Người cho những ai muốn chối bỏ Người (8:38-9:1).
Ngay khởi đầu tin mừng, Marcô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (1:1). Tước hiệu “Đấng Kitô” nầy chỉ xuất hiện trong phần thứ hai của tin mừng (8:29; 9:41; 12:35; 13:21; 14:61; 15:32); trong khi, ở phần thứ nhất cũng có những cách gọi khác liên quan đến căn tính của Người như “Con Yêu Dấu” (1:11), “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1:24), “Con Thiên Chúa” (3:11), “Con của Thiên Chúa tối cao” (5:7). Hơn nữa, cách nói “Ngài/Ông là”, ở ngôi thứ hai, trong câu hỏi hoặc câu khẳng định, chỉ được dùng để bàn đến căn tính của Người (1:11; 3:11; 8:29; 14:61; 15:2). “Đấng Kitô” (tiếng hy lạp, christos), hay “Đấng Messia” (tiếng do thái, mashiah) nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Xức dầu là hành vi quyết định trong việc tôn vương (x. 1Sam 10:1; 1V 1:39). Do đó, Đấng Kitô là vua (15:32). Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định địa vị và quyền năng của Người khi được hỏi về căn tính “Đấng Kitô” của Người (x. 14:61-62). Với dân chúng, Người được cho là một trong các ngôn sứ (8:28). Nhưng thật ra, Người là vị vua duy nhất (x. 12:1-12).
Sự phản đối của chính Phêrô (8:32), những thắc mắc và chế diễu của những người lãnh đạo của người do thái (14:61) và của Philatô (15:2.9.12.18) chứng tỏ tâm thức của họ lúc ấy không thể chấp nhận đấng được gọi là vua của họ có thể chịu số phận khổ đau theo như lời tiên báo của Chúa Giêsu (8:31). Điều đáng chú ý là Phêrô và Chúa Giêsu đã trách mắng lẫn nhau (8:32.33)! Động từ “trách mắng” (epitimaò), ngoài ý nghĩa “ra lệnh” (3:12; 8:30), được dùng trong lời Chúa Giêsu trách mắng các thần ô uế (1:25; 9:25), sóng gió đe dọa (4:39). Khi trách mắng, Người tự đặt mình như là đối thủ của những quyền lực xấu ấy. Lý do Phêrô trách mắng Chúa Giêsu là vì Người đã nói đến điều mà ông không từng nghĩ đến; trong khi Người trách mắng lại ông, cũng vì ông đã không nghĩ tưởng như Người (8:33). Hai bên đã trở thành đối thủ không mong muốn của nhau. Tuy nhiên, lời trách mắng của Chúa Giêsu sắc bén một cách riêng. Một đàng, Người ra lệnh Phêrô đi lui đàng sau Người; nghĩa là trở về lại vị trí của người môn đệ là đi theo sau Người (x. 1:17.20; 8:34), chứ không phải đứng trước để chỉ đường cho Thầy mình. Đàng khác, Người gọi ông là “Satan” nghĩa là “đối thủ” của Thiên Chúa (x. Dân số 22:22, 32; Zac 3:1–2; Gióp 1:6–9, 12; 2:1–7; 1 Niên sử 21:1), vì ông cản trở hành trình của Người. Như thế, Chúa Giêsu đã được công nhận là Đấng Kitô, nhưng theo cách nghĩ tưởng trần thế.
Làm môn đệ của Chúa Giêsu thì phải đi theo sau Người. Đi trước Người sẽ trở thành đối thủ và cản trở công việc của Người. Làm môn đệ của Người cần học và chấp nhận Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh và phải chuẩn bị đối diện số phận như Người (x. 1Cr 1,23).
43. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.” Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình.”
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.
44. Satan, hãy lui lại đàng sau Ta
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 8: 27-35 Cũng như Phêrô, chúng ta muốn chận Chúa lại, không cho Chúa tiếp tục cuộc hành trình “kỳ quặc” về Giêrusalem. Chúng ta muốn “dạy” Chúa lối đường nên đi.
Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi: Anh em bảo Thầy là ai?
Ngài đã từng làm nhiều phép lạ:
- Hóa bánh ra nhiều (Mc 6,30-44;8,1-10)
- Đi trên mặt biển (Mc 6,45-52)
- Chữa người câm điếc (Mc 7,31-37)
- Chữa người mù (Mc 8,22-26)
- Trừ quỷ cho một bé gái (Mc 7,24-30)
Chúa Giêsu đã dần dần chuẩn bị mọi người cho câu hỏi của ngài: Anh em bảo Thầy là ai?
Thế mà dân chúng, người thì cho là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì cho là Elia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó (Mc 8,28). Cũng may, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã trả lời: Thầy là Đấng Kitô (Mc 8,29). Phêrô đã trả lời đúng, nhưng hình ảnh về một Đức Kitô của Phêrô cũng không khác với quan niệm của đám đông: một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, bách chiến bách thắng, nên khi Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn, đã làm cho Phêrô choáng váng. Không biết ông nói gì với Chúa, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình thương yêu chân thành. Phêrô muốn dẫn đường cho Chúa, nhưng Chúa lại muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông là một môn đệ, môn đệ tất nhiên phải đi sau sư phụ.
Cũng như Phêrô, nhiều khi chúng ta muốn chỉ cho Chúa phương cách cứu thế, chứ làm theo kiểu của Chúa thì e rằng chẳng còn ai tin và Ngài sẽ thất bại ê chề.
Cũng như Phêrô, chúng ta muốn chận Chúa lại, không cho Chúa tiếp tục cuộc hành trình “kỳ quặc” về Giêrusalem. Chúng ta muốn “dạy” Chúa lối đường nên đi. Chúng ta muốn Chúa rút bớt điều kiện cho mọi người cảm thấy nhẹ nhàng; cung cấp bánh ăn, của cải vật chất dư đầy cho người ta theo đông; làm nhiều phép lạ cho dân chúng phấn khởi, thích thú. Nhưng Chúa Giêsu quát lên: “Hỡi Satan, hãy lui lại đàng sau Ta.” (Mc 8,33)
Có hai lần trong đời mình, Chúa Giêsu đã dùng chữ “Satan”. Một lần với tên Cám Dỗ trong hoang địa và lần này với Phêrô. Satan đối nghịch với Thiên Chúa. Satan làm đảo lộn trật tự thế giới. Satan phá hoại chương trình của Thiên Chúa nơi con người. Thế nên lời quở mắng “Satan” là lời khiển trách nặng nề nhất.
Nhưng nếu để ý chúng ta sẽ thấy: trong lần quở mắng tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu bảo nó “hãy cút đi”, Ngài không còn muốn thấy mặt nó nữa; nhưng khi khiển trách Phêrô, Chúa Giêsu lại nói “hãy lui lại đàng sau Ta”. Như thế Chúa Giêsu vẫn cho người môn đệ cơ hội hoán đổi hướng nhìn và cách đi. Thay vì đi trước và chỉ lối cho Chúa, Phêrô phải tiến bước sau Ngài.
Satan không thể bước theo Chúa vì bản chất kiêu ngạo của nó. Nhưng chúng ta, dù bao lần lầm lỡ, dù nhiều khi sống theo ý mình, hay từng chạy theo tiếng gọi của ma quỉ, chúng ta vẫn được ban cho cơ hội làm lại cuộc hành trình của người môn đệ Đức Giêsu, dẫu biết rằng không môn đệ chân chính nào lại không phải mang thập giá: “Ai muốn theoTa, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình và theo Ta” (Mt 16,24).
Quả thật, đây là bài học khó nhất trong các bài học mà Chúa Giêsu muốn hướng dẫn cho các môn đệ. Quả thế, các ông tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, nhưng là Đấng Kitô phải chịu trải qua cuộc khổ nạn rồi mới tới vinh quang. Đó là con đường Chúa Giêsu phải đi, là con đường Chúa Cha muốn Chúa đi, nên Người không muốn tránh né.
Quả thật, một bài học không dễ chấp nhận. Chính vì vậy, không phải vô tình, trước khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Marcô đã đưa sự kiện Chúa chữa người mù thành Giêricô. Có lẽ Marcô muốn nói rằng cho tới lúc này, các môn đệ vẫn mù và muốn cho các môn đệ và cả chúng ta hãy nhìn vào người mù thành Giêricô này.
Quả thế, đứng trước con đường Chúa đi là con đường thập giá, có lẽ mỗi người chúng ta cũng mù một cách nào đó. Chúng ta xin Chúa Giêsu mở mắt chúng ta như đã mở mắt cho người mù thành Giêricô. Chúa hỏi người mù: anh muốn tôi làm gì cho anh. Anh mù đáp: Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.(Mc 10,51). Khi anh nhìn thấy thì anh đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10,53). Điều đó nói lên rằng, người mù đã trở nên môn đệ của Chúa vì anh đang theo Chúa trên con đường Chúa đi, tức là con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến núi Sọ, con đường khổ giá.
Và cũng như người mù, thánh Phêrô, sau lời khiển trách của Thầy, đã trở lại vị trí của mình: ông không đòi Chúa theo ý mình, song là vâng theo ý Chúa; ông không dẫn đường cho Chúa nhưng là bước theo dấu chân Chúa. Cao điểm của sự “đi theo” này là việc Phêrô chịu đóng đinh trên thập giá vì Đức Kitô vào năm 69 AD.
45. Vác Thánh Giá theo Chúa
MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu
1. Từ bỏ ước muốn của mình
Có đôi vợ chồng sinh được cháu trai. Đây là con cầu con khẩn, vì hai vợ chồng sống với nhau từ lâu mà không có con. Họ rất sốt sắng thờ phượng Chúa, luôn cầu xin Chúa cho đứa con nối giòng. Chúa nhậm lời cho bà vợ mang thai. Họ ước mong sinh được đứa con trai khôi ngô tuấn tú.
Đến ngày sinh, rủi thay người vợ sinh ra đứa con trai có tật tay phải. Người cha ôm con mà khóc nức nở … Thân nhân bạn hữu đến thăm, thấy thế không biếtnói sao cho hợp tình hợp lý, phải chia vui hay chia buồn. Nhưng cha mẹ đứa bé khuyết tật đã làm cho họ bỡ ngỡ thán phục. Họ nói, “Vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc điều chúng tôi hằng mong ước. Hiện chúng tôi đã có đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ là thương yêu nuôi dưỡng nó, vì đã khuyết tật hay gì nữa, nó vẫn là con của chúng tôi.”
2. Từ bỏ chính mình
William Oscar Wilde kể huyền thoại “Họa mi và bông hồng đỏ.” Một hôm giữa mùa hè, con hoạ mi nghe lời chàng trai bên cửa sổ, “Nếu em không kiếm được mộ tbông hồng đỏ để anh cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ phải xa anh mãi mãi.”
Họa mi hiểu rõ lời của chàng trai, nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ giữa nắng cháy mùa hạ này? Nhưng nếu không tìm được thì người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không thể chịu nổ icảnh bi thương đó, nên đến nài nỉ cây bông hồng, “Chị hồng ơi, chị làm ơn giúp cho em một bông hồng đỏ.”
- Họa mi em, giữa nắng cháy mùa hạ này, làm sao chị có hoa hồng đỏ cho em?
- Chị có phép mầu nào chị cố gắng nở cho em mộ tbông thôi.
- Nhưng họa mi ơi, muốn có phép mầu, phải có máu đỏ và sinh mạng.
- Em sẵn long bằng mọi giá chị ạ.
- Vậy em hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ.
Họa mi đã đ ổđến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.
3. Ngọc không dũa không sáng
Khổng Tử nói, Ngọc không dũa không sáng, người không chịu thử thách không thể hoàn thiện.” Trong cuốn sách “Tôi tin” có câu chuyện sau đây đã xảy đến cho ông James du Pont lúc ông mới lên 7 tuổi. Một đêm đang khi ngủ say, bỗng James thức giấc. Cậu thấy mẹ đang ngồi khóc. Đây là lần đầu cậu thấy mẹ khóc. Và cha cậu ngồi bên an ủi. Cậu thuật lại
- Lúc đó cha mẹ tôi đau buồn quá nên quên tôi đang có mặt bên cạnh. Và khi mọi việc được giải quyết êm đẹp, biến cố đã xảy ra đêm đó vẫn lưu lại trong tâm trí tôi. Và tôi nhớ mãi lời cha tôi nói để an ủi mẹ tôi, “Cuộc đời không phải chỉ toàn là hoa hồng.”
4. Hành động củ thể
Một ẩn sĩ trẻ được linh sư dẫn đến ngồi ở cổng làng, chào hỏi mọi người qua lại và mọi người cũng đáp trả niềm nở.
Ngày nọ có một người không để ý đến sự có mặt của thầy trò, mặc cho hai tu sĩ ngã đầu chào, người đó vẫn thinh lặng đi qua. Thấy thế, vị tu sĩ trẻ bực tức, nên linh sư giải thích:
- Con đừng thắc mắc làm chi. Có thể ông ta điếc hoặc quá bận việc.
Nhưng vị ẩn sĩ trẻ không bằng lòng vói lời giải thích đó. Thầy cả quyết người đó thiếu giáo dục, thiếu lễ độ.
Rồi một hôm người đàn ông đó cũng đi ngang qua trước mựt hai ẩn sĩ và cũng vẫn không đáp lại lời chào hỏi. Bỗng ông ta trợt chân té ngã, hai ẩn sĩ vội chạy đến đỡ dậy thì thấy hai túi áo rộng lớn của ông chứa đầy những viên đá cụi. Và hai thầy trò đã đưa ông về tận nhà thì được người vợ cho biết:
- Từ nhiều năm nay, ngày nào chồng tôi cũng đến bờ sông nhặt những viên đá cụi về xây đền thờ thần của chúng tôi, vì không muốn cho ai biết, nên chồng tôi cố giấu những viên đã đó trong người.
***
Câu chuyện trên có thể minh hoạ cho lời thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”.
Và thánh nhân nói tiếp: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2,15-16).
Phải chăng thánh Giacôbê muốn nói với chúng ta: “Một đức tin không có hành động cụ thể của bác ái là một đức tin chết” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
5. Bỏ mọi sự theo Thầy
Trong tác phẩm: "Người nghèo của Chúa", có câu chuyện về thánh Phanxicô Adxidi:
Tôi và bạn tôi đến một thành phố nhỏ. Bạn của tôi chính là bạn thân với thánh Phanxicô Axidi từ thuở nhỏ. Tình cờ gặp lại thánh nhân, anh ta mừng rỡ chạy đến ôm ngài và hỏi:
- Anh Phanxicô! Ai đã khiến anh ra nông nỗi này?
- Chúa đã làm giúp tôi.
Bạn tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Bao nhiêu đồ dùng sang trọng của anh, bao nhiêu áo quần đẹp đẽ của anh, cả cái lông chim đỏ gắn trên mũ của anh thở nào, sao mất hết cả rồi? Và mấy chiếc nhẫn vàng trên tay anh nữa?
- Satan đã cho tôi, Tôi trả lại cho nó.
Bạn tôi nhìn từ đầu đến chân vị thánh. Anh không thể tưởng tượng được người bạn hào hoa phong nhã ngày nào của anh, bây giờ mũ cũng không còn, giày dép cũng không. Cảm xúc đến rơi lệ, anh hỏi:
- Nầy anh Phanxicô, anh từ đâu đến?
- Từ một thế giới khác.
Chính thánh Phanxicô Axidi đã thực hiện Lời Chúa Giêsu trong Tin mừng Luca 14, 25-33 "bỏ hết mọi sự theo Thầy" làm môn đệ của Chúa.
***
Giai thoại trên đây gợi lên cho chúng ta suy nghĩ về hạnh phúc đích thật của con người. Xem ra con người dõi theo cái bóng hạnh phúc hơn là chính hạnh phúc. Có người không hạnh phúc nằm trong giàu sang; có người lấy danh vọng làm hạnh phúc; có người tìm kiếm hạnh phúc trong lạc thú. Nhưng kinh nghiệm cho thấy; tất cả chỉ là ảo ảnh. Tiền bạc, quyền bính, danh vọng, lạc thú, cuối cùng rồi chỉ làm cho con người thất vọng chán nản ê-chề.
Là Đấng đã đặt trong trái tim con người hạnh phúc, nên chỉ có Thiên Chúa mới chỉ cho con người biết đâu là hạnh phúc đích thực. Chính Chúa Giêsu là hiện thân của niềm hạnh phúc đích thực đó. Và Người chính là con người duy nhất trên trần gian đã đạt được nguồn hạnh phúc đích thực đó. Người dạy cho chúng ta biết: hạnh phúc đích thực không tìm được trong tiền tài, danh vọng, lạc thú, chức quyền, Sống hạnh phúc là sống như Chúa Giêsu, là sống một cuộc sống hy sinh bỏ mình, vác thập giá hàng ngày: là sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và tha nhân". (theo "Phút cầu nguyện cuối ngày" tập II)
6.Theo chúa là từ bỏ
Bức tranh “tiệc ly” của Chúa Giê su là một trong những tác phẩm danh tiếng của họa sĩ Leo Narđô de Vinci. Nhân vật chính là Đức Giê su và các tông đồ bao quanh.
Khi đem bức tranhnầy ra triển lãm, nhà danh họa đứng nép trong gốc phòng quan sát các người đến xem. Ông hết sức ngạc nhiên thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt Đức Giêsu, mà là một cánh hoa nhỏ ông vẽ trong một gốc của bức tranh. Ông cảm thấy hối hận vì đã vẽ thêm cánh hoa đó, khiến mọingười không chú ý đến trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đức Giêsu. Ông liền dùng cọ bôi bỏ cánh hoa ấy. Ngay ngày hôm sau, mọi người đến xem tranh đều chăm chú dán mắt vào điểm trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đấng Cứu Thế.
***
Theo Chúa là đặt Người vào trọng tâm của cuộc sống, là nhìn thấy Người trong mọi sự.
Chúa Giêsu không chỉ là một bậc thầy vạch đường cho người khác đi, nhưng chính Người là con đường duy nhất. Mọi người phải đi theo Người đến cõi phúc bất diệt. Như thế có nghĩa là phải từ bỏ tất cả để đi theo Người. Với các môn đệ đầu tiên, Người chỉ bảo “hãy theo Ta” là họ bỏ mọi sự theo Người. Bỏ tất cả đi theo Chúa, đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Theo Chúa là tin rằng Người đang sống và sống thiết thực trong cuộc sống chúng ta. Do đó, kẻ theo Người phải luôn tỉnh thức nhận ra Người trong tất cả mọi sự và trong từng giây phút của cuộc sống. Và đi theo Chúa cũng có nghĩa là phải sống thế nào để mọi người nhìn vào đều nhận được gương mặt Cứu thế của Người. Một cuộc sống như thế chắc hẳn đòi hỏi nhiều hy sinh từ bỏ, như nhà danh hoạ Vinci phải xóa bỏ cánh hoa đẹp trong bức tranh để cho mọi người chú ý đến gương mặt Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ phải sẵn sàng tháo gỡ và vứt bỏ những gì còn vướng mắc, và phải vứt bỏ dứt khoát, để chỉ để cho Chúa và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Người qua chính cuộc sống của mình.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
46. Đấng Kitô
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Sau khi Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã ra hình phạt cho hai ông bà (A-Dong và Evà); đó là tội Nguyên Tổ, nhưng Thiên Chúa cũng hứa sẽ sai một Đấng Cứu Độ đến để chuộc tội và ban ơn Cứu rỗi cho nhân loại (Sáng Thế 3: 15). Đấng được Thiên Chúa hứa sẽ sai đến người Do Thái gọi là "Messiah" (có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu), dịch sang tiếng Hy Lạp "Christos", chuyển âm sang tiếng Anh và tiếng Pháp là "Christ' và sang tiếng Việt Nam là "Kitô". Chính Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Đấng Kitô (Matcô 14: 61-62).
Sở dĩ người Do Thái gọi "Đấng Chúa Hứa" là "Đấng Được Xức Dầu" là vì theo truyền thống Do Thái, các vua được xức dầu phong vương (1Samuel 10:1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (Xuất Hành: 29:7). Người Do Thái quan niệm Đấng Kitô là vị "Vua" trong tương lai. Ngài sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Daniel 9: 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang.
Nhưng Đấng Kitô đã đến trần gian trong khó nghèo. Ngài đã sinh bởi lòng Đức Trinh Nữ Maria (Luca 2: 10-11), và Ngài được đặt tên là Giêsu như lời Sứ Thần nói với Đức Maria (Luca 1: 31) và Thánh Giuse (Matthêu 1:21). Như vậy, Đấng mà "muôn dân mong đợi" đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giêsu, cùng với danh hiệu Kitô ghép lại thành Giêsu Kitô.
Qua Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 8: 27-35) chúng ta thấy người Do Thái thời Chúa Giêsu chưa nhận ra Ngài chính là "Đấng Kitô" Thiên Chúa sai đến, nên người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êli, người thì bảo là một trong các Tiên Tri..." Chính vua Herôđê cũng cho Ngài là "Gioan Tẩy Giả ta đã giết, nay đã sống lại (Matcô 6:16). Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi các Tông đồ, thì Phêrô đã đại diện anh em xác quyết "Thày là Đấng Kitô!". Xác quyết như vậy tỏ ra Phêrô và các Tông đồ đã nhận biết được Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô "mà muôn dân mong đợi". Tuy nhiên, Phêrô và các Tông đồ chưa hiểu được là "Đấng Kitô sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại..." (Matcô 8:31) Chính tiên tri Isaia cũng đã tiên báo trước về những đau khổ Đấng Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại như trong Bài Đọc I hôm nay (Isaia 50: 5-9). Vì chưa hiểu được quan niệm "Đấng Kitô Đau Khổ", nên khi nghe Chúa Giêsu nói như vậy, Phêrô "đã can ngăn Chúa Giêsu" và Chúa Giêsu đã quở mắng ông: "vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người!" Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dạy cho các Môn đệ bài học thực tế: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày mà theo Ta..."
Bài học "Đấng Kitô Đau Khổ" là bài học Chúa dạy các môn đệ, nhưng cũng là bài học Chúa dạy chúng ta nữa là các tín hữu muốn bước theo Thày Chí Thánh: "Đấng Kitô phải chịu nhiều đau khổ và chết đi rồi mới sống lại trong vinh quang." Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống và thực hành đức tin của chúng ta như Thánh Giacôbê đã nhắn nhủ chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 2: 14-18). Xin cho chúng ta biết can đảm chịu mọi đau khổ trong cuộc sống theo Thánh Ý Chúa, vì "chỉ khi chúng ta biết chịu đau khổ với Chúa Kitô, chúng ta mới được chung hưởng vinh quang với Ngài" (Rôma 8: 17). Mỗi khi phải chịu những đau khổ nặng nề xảy ra cho chúng ta hoặc gia đình chúng ta, chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để thêm can đảm và sức mạnh hầu tiếp tục "vác thánh giá theo chân Chúa!" Đồng thời cũng biết nhận ra những đau khổ của bao người chung quanh chúng ta "không đủ cơm ăn áo mặc" để biết "chia sẻ cơm áo cho những người thiếu thốn" ấy.
Xin Mẹ Maria đã luôn sống trong cuộc đời đau khổ, nhất là giờ phút dưới chân Thánh Giá, an ủi, nâng đỡ chúng ta. Xin các Thánh, nhất là các Thánh tử Đạo Việt Nam, tất cả đều đã "can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa" cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn sẵn sàng "can đảm chịu mọi đau khổ hàng ngày cho nên." Trong "Năm Linh Mục" chúng ta cũng nhớ cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục, các chủ chăn cũng luôn biết suy ngắm những sự đau khổ của Chúa Giêsu để can đảm âm thầm chịu mọi đau khổ hằng ngày trong cuộc đời tận hiến phục vụ Chúa và nhân loại.
47. Mầu nhiệm cứu độ
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước Theo’)
“Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là “tuyên xưng niềm tin” (c 29) và “Mầu nhiệm Tử nạn” (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.
Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của thánh Giacôbê ở đoạn(Gc 2, 14-18): “Đức tin và Hành Động”. Qủa thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân “tin vào Người” (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.
Hành động của Thiên Chúa thì không phải hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì “…tin trong lòng thì được công chính, còn tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Như vậy, muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là “Tin” và “thực thi” niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về “Đức Tin và Hành động” như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?… cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. (Gc 2,14.17).
Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để minh chứng “Lời” của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời” (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.
Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như lời Isaia đã nói: “Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ” (Is 50,6). Một Đấng cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng nề: “Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”. (Mc 8, 33b).
Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu thực tế.
Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.
48. Suy niệm của Maurice Brouard.
KHÓ NHỌC THAY KHI LÀM CHO
NHỮNG KẺ CHÂN THÀNH VỠ MỘNG!
Khởi hành.
Một cô bé mười hai tuổi bơi lội rất giỏi, thầy giáo của cô nhận thấy cô có triển vọng rất lớn cho thế vận hội Montréal. Khi trở về nhà cô đã vội nói với mẹ dự tính của mình. Bà vạch ra cho cô một bức tranh rất thực tế, thậm chí rất u ám về những đòi hỏi vô cùng khắc nghiệt của việc chuẩn bị cho một cuộc thi đấu như thế. Ngoài việc học mà cô không thể lơ là được, cô phải tập dượt gắt gao sáu ngày mỗi tuần trong bốn năm, những giao tiếp xã hội hầu như không còn nữa, lại không chắc chắn thành công, thêm với những mệt nhọc… Mẹ cô để cô tự do quyết định, sau khi cố gắng vạch cho cô thấy những ảo tưởng của cô.
Dẹp đi những ảo tưởng của những người chân thành: đó là điều mà thánh Marcô muốn làm trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, và trước hết ngài muốn nhắn nhủ các Kitô hữu thành Roma. Thánh Marcô cảm hứng từ lối ứng xử của Chúa Giêsu với các môn đệ.
1. Chúa Giêsu tìm cách dẹp ảo tưởng của những kẻ muốn theo Ngài.
Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông. Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”
Vậy là Chúa Giêsu tìm cách dẹp đi ảo tưởng của những kẻ chân thành, nhưng Ngài không thành công. Chỉ đến ngày lễ Thánh Thần hiện xuống các tông đồ của Ngài mới sáng mắt ra.
2. Thánh Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu thành Roma.
Biết rằng các Kitô hữu thành Roma xao xuyến trước những cuộc bách hại nổi lên chống họ và “một số sẵn sàng chối rằng họ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô để khỏi chết”, thánh Marcô phản ứng cách mạnh mẽ. Ai muốn trở nên môn đệ Chúa Kitô thì phải giống như Ngài. Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu ngỡ ngàng vì thấy mình phải đương đầu với những cuộc bách hại.
3. Một Kitô hữu không ảo tưởng: Đức Cha Romero.
Tháng ba năm 1980, chúng ta có một chứng tá lẫy lừng từ Châu Mỹ La Tinh. Bất chấp những nguy hiểm đến tính mạng, Đức tổng Giám mục San Salvador, Đức Cha Romero, đã dám nhân danh Tin Mừng tố cáo những bất công trong xứ sở của ngài. Sau đó ngài đã bị ám sát trong nhà thờ lúc đang cử hành Thánh lễ. Đó là một Kitô hữu không ảo tưởng.
Câu hỏi.
Chúng ta nghĩ gì về Chúa Giêsu? Chúng ta chẳng sống trong ảo tưởng khi cho rằng có được sự sống đời đời là điều dễ dàng ư?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Khi cử hành Bí tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh. Thầy chí ái của chúng ta đã hiến dâng mạng sống cho Cha Ngài vì yêu mến Cha và vì ơn cứu độ của tất cả mọi người. Ta hãy cử hành Thánh lễ trong tinh thần phục vụ đó, và sẵn sàng chấp nhận hy sinh theo gương Ngài.
49. Đời sống đời đời thì chắc chắn – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một bé gái bảy tuổi đã lái một máy bay xuyên qua đất nước, đi theo có cha của bé và một người huấn luyện viên bay. Cuộc bay kết thúc bằng một tai nạn. Nhiều người trẻ đã quyết định trèo lên một ngọn núi cao nhất khi họ đi du lịch mặc dù họ không có kinh nghiệm. Một tảng đá bất chợt bị sút ra, một người đã bị trượt xuống và kéo tất cả cùng chết. Động cơ thúc đẩy người ta liều lĩnh đó là gì? Để lướt thắng sợ hãi, để vượt lên phía trước những nguy hiểm qua những cuộc phiêu lưu nguy hiểm? Đối với một đứa bé gái, Jessica Dubroff và cha của cô bé, họ đã làm như thế để nhận một phần thưởng. Đối với những người leo núi, điều đó là niềm tự hào của sự chinh phục. Đôi khi những người tìm kiếm cảm giác thì đổ cho định mệnh. Họ nói rằng cần có sự liều lĩnh bất cứ khi nào anh lái một chiếc xe hơi và như vậy chúng ta sẽ không phải lo lắng về sự may rủi, để sống một đời sống thật tràn đầy.
Chúa Giêsu không phải là một người tin vào định mệnh, nhưng Ngài biết cuộc sống của Ngài sẽ chấm dứt thế nào. Đó là kế hoạch của Cha Ngài muốn cho Ngài sẽ chết trên thánh giá, không phải để Ngài nhận một phần thưởng như ước ao nồng nhiệt của bố Jessica, nhưng là Người có thể mang lại cho chúng ta món quà sự sống đời đời. Người biết rằng sứ vụ của Người giống như các tiên tri có trước Người, sẽ phải chịu sự giận dữ của kẻ thù và những kẻ thù đó mạnh mẽ đủ để kết án tử Người, Người sẵn lòng trèo lên núi Calvario để giang cánh tay của mình trên thánh giá, để âu yếm tất cả chúng ta trong tình yêu thần linh của Người. Cái chết của Người không phải là một tai họa nhưng là hoàn thành sứ vụ của Ngài trên mặt đất này. Đó là một cuộc chinh phục vĩ đại trên tội lỗi và cái chết đời đời.
Không có sự liều lĩnh nơi Chúa Giêsu, liều lĩnh có nghĩa là một cơ hội của sự tổn hại hay sự chết. Chúa Giêsu đã chết là một điều chắc chắn. Khi thánh Phêrô với chủ ý tốt nhất đã cố gắng ngăn cản Người đừng theo con đường thánh giá, Chúa Giêsu đã đáp lời một cách mạnh mẽ: Người đã nói với Phêrô rằng ông không được xét đoán theo loài người nhưng là theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, cái chết của Con Người thì thật cần thiết cho sự cứu độ của chúng ta.
Chúng ta có thể cảm thấy rằng có một sự liều lĩnh khi theo Chúa Giêsu, nhưng không phải vậy. Đó là một sự chắc chắn. Nếu chúng ta theo Người cách trung thành, chúng ta sẽ nghe Người dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.
Thánh giá trong cuộc sống của chúng ta không thể trở thành một bi kịch. Điều đó sẽ không chinh phục được sự chú ý của cả nước như chuyến bay của Jessica Dubroff đã làm, nó có liên hệ đến việc thách đố, nó cũng không liên quan tới nỗi say mê của những người leo núi. Nhưng quan trọng hơn thánh giá không mang đến một bi kịch. Nó không có nghĩa là một tai họa. Thay vào đó, mang thánh giá đối với chúng ta là theo ý muốn của Thiên Chúa mà Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh giá có nghĩa là sống trong sự hợp nhất với Chúa Giêsu, điều đó có nghĩa là chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu và cái chết của Người, Đấng sẽ ban cho chúng ta những đặc ân của Cha, là hạnh phúc đời đời của Người và Thánh Thần trên thiên đàng. Chúng ta sẽ không sợ thánh giá. Thánh giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đó là con đường thật sự để sống một đời sống viên mãn.
50. Nói không với chính mình
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi:
- Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)?
- Tôi thưa: Có.
- Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?
- Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.
- Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.
- Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi.
Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:
- Tôi không được phép nói.
Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng:
- Ông có tôn trọng chính quyền không?
- Có - luật đạo chúng tôi dạy điều ấy.
Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.
Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng "chính quyền" không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi 'có tôn trọng luật pháp không', thì tôi thưa khác".
- Ông thưa khác thế nào?
- Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.
- Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên:
- Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng:
- Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không?
Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng:
- Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.
Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng:
- Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?
Tôi cũng dằn từng tiếng:
- Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.
- Thế nào là không hợp với lương tâm?
Tôi ví dụ:
- Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.
Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…" (trích Hồi Ký của Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Phần Ba)
Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi: “"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” Theo nhà chú giải Kinh Thánh, William Barclay, thì nguyên cụm chữ “từ bỏ mình” có thể được hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong nguyên văn là “hãy nói không với chính mình.” Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Đức cố Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã can đảm, khẳng khái nói không với chính ngài, để bảo vệ Tin Mừng được nguyên vẹn và thánh thiện tinh tuyền.
Nói không với bản thân
Kẻ nội thù trong mỗi người mới chính là kẻ thù dữ dội, khắc nghiệt nhất, hung hăng, ngoan cố nhất. Người ta có thể dễ dàng đánh thắng kẻ thù bên ngoài, nhưng lại dễ dàng chịu thua kẻ nội thù, đặc công ẩn náu ngay trong tâm can, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình.
Bản năng sinh tồn chính là một kẻ nội thù, dễ dàng nghiễm nhiên trở thành ông chủ thân xác, chi phối hoàn toàn mọi hoạt động tinh thần, tình cảm lẫn hành vi ứng xử, giao tiếp thường nhật. Nếu không bị hạn chế quyền lực, thì kẻ nội thù này luôn tăng trưởng ngày thêm mạnh mẽ, hung bạo. Được voi đòi tiên. Chẳng bao giờ ngừng đòi hỏi được phục vụ. Bản năng bất chấp đạo lý, luật lệ. Vị kỷ, vị lợi, vô cảm với tha nhân đau khổ, đói khát, bệnh hoạn, cùng cực. Ăn no rồi đòi ăn ngon, có áo mặc rồi đòi mặc đẹp. Có nhà rồi đòi biệt thự xa hoa. Dứt khoát nói không với thân xác hưởng thụ, cũng như nói không với những dục vọng thấp hèn.
Đức Giêsu khuyên đừng quá nặng lòng với nhu cầu căn bản, mà hãy phó thác vào Chúa Quan Phòng, để sống công chính, tìm đến Nước Chúa: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 31-33)
Nói không với cám dỗ
Hai cám dỗ thông thường và phổ biến nhất trong cuộc đời mỗi người là tiền và tình, đã khiến bao người khốn đốn, lao đao quỵ ngã. Đức Giêsu đã ân cần cảnh báo và khuyên nhủ mọi người hãy dứt khoát nói không với đam mê tiền của: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó, sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12, 20-21)
Người cũng thật gay gắt nói không với tình: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. “ (Mt 5, 29-30)
Nói không với đời
Với đời, ai cũng muốn tìm kiếm danh phận, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Nhưng Đức Giêsu khuyên ai muốn theo Người, thì hãy nói không với những phù vân nhất thời chóng qua, như bóng câu qua cửa sổ, như bóng mây qua thềm. Với Người, quyền hành lãnh đạo không phải để lạm dụng, vụ lợi cho mình, cho gia đình, thân nhân mình, mà để phục vụ mọi người: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".(Mc 9, 35)
Nói không với đời là không bon chen, đua đòi, chạy theo những giá trị nhất thời của thế gian, mà dám lội ngược dòng, quyết vâng theo Bát Phúc của Đức Giêsu: “Nghèo khó, hiền lành, đau khổ, thiện tâm, bác ái, trong sạch, nhân hòa và chịu bách hại.”
“Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta hãy… (Mt 10, 38) Đường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở.” (Đường Hy Vọng, số 63)
Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội, chúng con được trở thành con chiên của Chúa, được phúc nhận biết Chúa, được nghe Chúa dạy bảo và mời gọi qua Tin Mừng, nhưng chúng con còn quá nặng nề xác thịt, còn mãi vương vấn, đắm đuối theo thế gian. Xin ban cho chúng con yêu mến Chúa tha thiết nồng nàn hơn, để có thể từ bỏ mình, vác thập giá, mà quyết tâm theo Chúa đến cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con can đảm, dám nói không với chính mình, để noi theo gương Mẹ, thân thưa hai chữ “Xin Vâng”, đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.
51. Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi?
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!
Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.
Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác... tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?
Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.
52. Chúa Nhật 24 Thường Niên B
"Còn anh em, anh em gọi Thầy là ai"? (Mc 8, 29)
Thánh Phêrô đại diện trả lời: "Thầy là Đức Kitô", câu trả lời mạnh mẽ và chính xác nhưng kết quả là một lời sửa dạy: tư tưởng của con người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa và một bài học từ bỏ mình. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Ngài cũng là hỏi chính bản thân mọi người theo Ngài và Ngài cần có câu trả lời. Không chỉ bản thân mình nhận ra và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai mà còn phải trả lời cho người khác biết Ngài là ai.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô, đương nhiên gọi Chúa là Chúa, là Thầy và là Đức Kitô; Đấng đã cứu chuộc, luôn ban ơn và yêu thương con người. Dù có gọi Chúa là ai đi nữa điều quan trọng là xác tín mạnh mẽ và sống điều mình tuyên xưng. Giữa biết và sống thường có một khoảng cách, có khi biết rất nông cạn và không rõ nên cần có ơn Chúa, nổ lực của bản thân học hỏi và gắn bó mật thiết với Chúa. Vì vậy làm sao cho hai điều này hoà hợp trở nên một thì mới có trở thành một người kitô hữu đích thực. Sống đời kitô hữu là một đòi hỏi, đó là "từ bỏ mình" để sống theo ý Chúa. Thái độ của thánh Phêrô là thái độ của nhiều người kitô hữu, tuyên xưng niềm tin của mình một cách rõ ràng và mạnh dạn nhưng khi biết được ý Chúa thì ngại ngùng, ngăn chặn và từ chối thánh ý của Thiên Chúa. Trong đời sống của người kitô hữu cũng vậy, gần Chúa hằng ngày như đọc kinh, xem lễ, làm việc bác ái....nhưng rồi có lúc lại là vật cản cho chương trình của Chúa muốn thực hiện cho bản thân mình và cho người khác. Tuyên xưng niềm tin thì dễ nhưng để sống niềm tin này đó là "thánh giá" hằng ngày.
Từ bỏ mình và vác thánh giá mình hằng ngày theo Chúa là sống ý Chúa, không phải để chịu đau khổ nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Điều còn lại là làm sao cho những người xung quanh nhận ra hạnh phúc đích thực này. Có thể nói đạo Công Giáo đã quen thuộc với thế giới và xã hội ngày hôm nay. Hạnh phúc đích thực của đời người là có Chúa nhưng còn rất nhiều người đứng bên ngoài nhìn vào, không muốn vào hay ngần ngại đón nhận hạnh phúc này. Có phải Chúa quá xa lạ hay cách sống của người kitô hữu xa lạ với ý của Chúa?
Lạy Chúa, xin cho mỗi người con của Chúa sống xứng đáng với Chúa khi mang danh Hữu Kitô. Can đảm từ bỏ mình, kiên trung vác thánh giá đời mình để được hạnh phúc đích thực của Chúa và cho những người khác cũng được hưởng hạnh phúc này.
53. Đối với chúng ta, Chúa Giêsu là ai?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Với đoạn phúc âm theo thánh Maccô này, chúng ta gặp một đường cao điểm, thật vậy, cho tới đây, thánh Marcô cho thấy Chúa Giêsu dần dần tỏ mình ra bằng lời giảng dạy và các phép lạ Người làm, nhưng Chúa để cho người ta ngạc nhiên, thắc mắc. Người ta như thể được dự một cảnh chờ đợi, hồi hộp và tự hỏi: Ông này là ai? Cả những môn đệ cũng thắc mắc, tuy nhiên thấy Chúa không phải là một thầy rabbi khác. Thầy sắp dẫn họ đến chỗ tuyên xưng đức tin bằng một câu do Phêrô thay mặt các môn đệ nói lên. Chúa hỏi: còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai? –kẻ sau này sẽ là thánh Phêrô, trả lời: Ngài là Đức Kitô, tức là Đấng cứu thế. Khi họ nhận ra Đấng cứu thế trong Đức Giêsu, các môn đệ vượt được chặng đầu có tính cách quyết định trong tiến trình đức tin của các ông.
Tuy nhiên, một câu hỏi khác rất nghiêm trọng được nêu lên: Chúa là vị Cứu-thế nào? Dân Do thái mong đợi một Đấng Cứu-thế có quyền uy trần tục. Thế mà Đức Giêsu là Đấng Cứu-thế dùng sự thống khổ và cái chết để cứu chuộc. Các môn đệ sẽ làm thế nào để có thể chấp nhận cái thực tại họ không thể nào quan niệm được. Lời đáp cho câu hỏi này nổi bật lên trong phần ký sự còn lại, và người ta sẽ thấy, chỉ mãi sau này Chúa sống lại rồi, các môn đệ mới thấu hiểu bản tính đích thật cứu thế của Chúa. Từ sự kiện đó chúng ta có thể rút ra vài suy niệm:
1) Chúa đưa ra một câu đáp rất cứng cỏi, cho Phêrô là kẻ không muốn chấp nhận lời Chúa tiên báo cuộc Thương khó của Người: ‘Xéo ra phía sau Ta, hỡi Satan; vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’. Chúa phản ứng giống như trước đây Người phản ứng chống lại trước cám dỗ, với một phản xạ nóng nảy; quyền hành, cương quyết. Những ý tưởng theo thói thường của Phêrô mang theo một cám dỗ giống như cám dỗ đã đến với Chúa trong hoang địa, nó dự tính làm cho Chúa đi trật con đường sứ mạng của Người, nhưng ở đây nó cũng đụng phải bản tính thánh-thiện của Chúa trước sau vẫn thế.
Đàng khác, những lời tuyên bố của Chúa đẩy các môn đệ vào một thử thách ghê gớm. Chắc chắn là các ông đã phải cần có một sự trợ giúp nội tâm mãnh liệt để không bỏ Chúa vì Người làm đảo lộn ý niệm của họ về Đấng Cứu thế.
Hai câu hỏi: Ta phải nghĩ gì về những kẻ lợi dụng phúc âm làm mạch nuôi dưỡng một ý thức hệ của thế gian, một chuyền thuyết cứu nhân độ thế của trần tục? Phải chăng ngày nay đang có những môn đệ diễn lại, bên cạnh Đức Kitô của Giáo hội, thái độ của Phêrô?
2) Khi loan báo cuộc khổ nạn và sống lại của Người, Chúa đề nghị một thử thách đích thật cho đức tin. Niềm tin vào Chúa thật sự bắt đầu từ khoảnh khắc người ta nhận ra Con Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc chết trên thập giá và sống lại.
Đó là niềm tin của các môn đệ, một niềm tin bỡ ngỡ như ta thấy trong ký sự của thánh Marcô -nhưng được củng cố sau ngày Chúa Giêsu sống lại và Chúa Thánh-Thần hiện xuống. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay. Trên bình diện tri thức, chúng ta không gặp khó khăn để có được niềm tin ấy. Chỉ gặp khó khăn khi Chúa mời chúng ta chia sẻ khổ nạn và Thập giá với Người. Chừng nào chúng ta phát hiện Đức Kitô chịu đóng đinh là ai, lúc đó chúng ta mới cảm thấy sự thử thách về đức tin, nhưng hạnh phúc thay, thử thách của chúng ta, đã chói loà bởi hào quang của sự sống lại vinh hiển. Điều mà các môn đệ lúc đó chưa có được, ngày nay chúng ta đã nắm vững rồi, đó là niềm hy vọng được dự vào sự sống lại của Chúa chúng ta.
54. Tin và sống đức tin
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Sau khi đã thăm dò dư luận, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ: "Còn các con bảo Thầy là ai? Chúng ta đã có câu trả lời của Thánh Phêrô: "Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống". Tôi nghĩ rằng nếu Chúa Giêsu có mặt một hôm nay, Người sẽ đặt thêm một câu hỏi nữa: "Đối với các bạn, người Kitô hữu là ai?"
Lời Chúa của Chúa Nhật này cho chúng ta câu trả lời chính xác về câu hỏi đó.
1. Trước hết người Kitô hữu Tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ
Đó là niềm xác tín nền tảng đức tin của chúng ta. Đức Kitô không chỉ là một con người bình thường, không chỉ là một tiên tri như mọi tiên tri mà Dân chúng đã quan niệm, nhưng Người là "Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống", đúng như lời tuyên tín của Thánh Phêrô, nghĩa là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Làm người kitô hữu trước hết là người TIN vào Đức Kitô đúng như Người "LÀ", không được thêm, không được bớt mặc khải của Thiên Chúa. Và như thánh Phaolô nói: Ai tin thì được cứu độ.
Nhưng tin ở đây không chỉ là tuân giữ một số điều luật của Giáo hội, không có nghĩa là hiểu biết một số chân lý, lý thuyết và giáo lý về Chúa. Trái lại, tin có nghĩa là sống gần gủi, gặp gỡ, gắn bó mật thiết với Đức Kitô mỗi ngày, trong mỗi biến cố cuộc sống, như với một người bạn thân (Jesus is my best friend). Tôi sống là sống "với, vì và cho" Đức Kitô và Đức Kitô sống trong tôi. Đó là một đức tin trưởng thành và mang tính cá vị. Đó là một đức tin mà Chúa chờ đợi mỗi người kitô hữu.
2. Điều kiện để làm người Kitô hữu
"Ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ chính mình, và vác thập giá mỗi ngày mà theo ta". Đây là lời khẳng đình từ môi miệng Chúa. Lời này tóm tắt tất cả mọi điều kiện để làm người Kitô hữu. Chúng ta cần dừng lại để phân tích câu nói này: "Ai muốn theo Ta": Đấy là một lời mời gọi Chúa ngõ với hết mọi người, từ già đến trẻ, từ giáo dân đến giáo hoàng. Điều kiện trước hết của việc "theo" đó là: "hãy bỏ mình". Tại sao phải bỏ mình?
Bỏ mình ở đây không có nghĩa là bỏ hết những khả năng, tài cán, và nghị lực... của chúng ta. Nhưng là bỏ chính cái TÔI vị kỷ của ta. "Bỏ mình" là không còn quá chú trọng đến mình, không còn tập trung mọi sự về mình, không biến mình là trung tâm của vũ trụ và chú ý của người khác. Nhưng chỉ hướng "mình" về với Chúa, Chúa là trung tâm đời mình, không còn ai khác. Trong chiều hướng đó, Cái Tôi xuất hiện như "hòn đá vấp chân", cản trở chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy, thắng được "THẰNG TÔI" là thắng được kẻ thù lớn nhất. Chính vì thế, Chúa mời gọi là hãy bỏ mình, cũng như Đức Phật mời gọi môn sinh: muốn được giải thoát thì hãy diệt dục.
3. Đức Tin thể hiện bằng việc làm
Thánh Giacôbê ở bài đọc II nói rất hay về tương quan giữ TIN và SỐNG đức tin: "Đức tin không việc làm là Đức tin chết tận gốc rễ". Rõ ràng là Tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng thôi chưa đủ: như Đọc kinh, đi lễ, rước lễ, chịu các bí tích.., nhưng phải thể hiện đức tin đó bằng việc làm. Chúng ta phải thể hiện như thế nào? Thánh Giacôbê cho chúng ta một hướng dẫn rất thích hợp: "Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo rằng: "chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm" mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gi?". Việc làm đó chính là lòng bác ái, cảm thông, chia sẽ với tha nhân, và nhất là với người đau khổ. Đó là con đường từ nhà thờ về nhà mình, từ nhà mình tới công sở, con đường đó không có "đèn xanh đèn đỏ" để dừng lại, nhưng là liên tục và nối dài.
Như thế, làm người kitô hữu là người tin vào Đức Kitô và có Chúa Kitô trong đời, và cùng với Người hướng tới tha nhân. Đó là một cuộc sống phong phú và hạnh phúc khi được làm người kitô hữu!
Lạy Chúa, xin giúp con luôn ý thức được sự cao quí của người kitô hữu, xin Chúa giúp con Tin Chúa cách vững vàng, và cùng với Chúa vác thập giá mình mỗi ngày, cùng với Chúa con đến với tha nhân bằng một con tim rộng mở, chia sẻ và cảm thông.
55. Thách đố của niềm tin. ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.
Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.
Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?
- Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!
- Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó không, cứu tôi với’.
Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?
Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.
Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi” (Pl 3,8).
Các môn đệ là những người “ở với Chúa Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong… thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết…”.
Thưa anh chị em,
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.
Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17).
“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người”.
Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.
Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh Nữ nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/2000).
56. Trả lời cho câu hỏi lớn
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Đây là câu hỏi đơn giản, nhưng là câu hỏi lớn cho mỗi kitô hữu. Câu hỏi ấy như là cửa ngõ dẫn vào đời sống đức tin. Đây là câu hỏi đang chờ đợi câu trả lời mang tính quyết định cho số phận đời đời. Chúa Giêsu đòi buộc đích thân các tông đồ phải xác định dứt khoát. Có lẽ trước đây có nhiều nhận định khiến Chúa Giêsu không hài lòng. Người làng Nagiaret chỉ xem Ngài là bác thợ mộc. Gioan Tẩy Giả giới thiệu Ngài như một Đấng Mêssia uy quyền đáng sợ. Ngài muốn mỗi người có cách trả lời như Phêrô: "Thầy là Đấng kitô?" Câu trả lời đúng đắn sẽ là định hướng chắc chắn níu kéo ta dấn bước theo Ngài.
Biết để đi theo Thầy
Sự hiểu biết đúng đắn đòi hỏi một sự dấn thân chia sẻ sứ mạng với Thầy. Chúa Giêsu tỏ ra rất vội vả muốn các tông đồ hiểu được sứ mạng của mình: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng Kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại". Chúa Giêsu mong muốn các ông chớ lầm tưởng về sứ mạng của Ngài sẽ đem đến vinh quang theo trần thế. Ngài không muốn con người khuất phục bằng chiến thắng vinh quang nhưng bằng tình yêu tận hiến.
Đi theo Thầy là bước theo lối mòn Chúa Giêsu đã qua. Lối mòn ấy được diễn tả là hy sinh, thập giá, khổ đau, cái chết. Mỗi người bước đi theo Chúa đã nhiều năm, chắc đã cảm nghiệm được bao sướng khổ của chặng đường. Ta biết rõ Ngài là Đấng kitô nhưng có khi ta cho Ngài là một quan toà quá nghiêm khắc khi phải đối diện. Có khi ta cho Ngài là một chướng ngại vật làm chậm bước tiến trên đường công danh sự nghiệp. Chúa Giêsu là Thiên Chúa còn dám từ bỏ vinh quang trời cao để sống với con người. Thế sao con người không dám từ bỏ trần đời để sống với Ngài trong tình mến?
Biết để ở lại với Thầy
Việc ở lại là hành động muốn gắn bó với Chúa lâu dài. Dẫu trời lúc nắng lúc mưa, dẫu đường đời vui buồn sướng khổ nhưng người môn đệ vẫn quyết tâm sống gắn bó với Thầy. Ta biết Chúa nhiều, được ban ơn nhiều, được tha thứ nhiều, ta không thể nào là thứ tông đồ hạng hai cứ đứng xa xa nhìn Chúa vác thập giá một mình. Ở lại với Thầy là biết trông cậy khi gặp khổ đau, biết quay về khi lầm đường lạc lối, biết làm hoà kịp lúc khi gặp oán trách buồn đau.
Trần gian có quá nhiều lời mời mộc để ở lại nó: ở lại trong tội lỗi, ở lại trong những đam mê chóng qua, ở lại trong hận thù. Người môn đệ cần nhớ về một lời mời gọi khác đáng tin tưởng hơn "Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian".
Biết để được sống lại với Thầy
Sống lại với Thầy là cùng đích cho đời sống kitô hữu. Điều kiện để sống lại Chúa Giêsu đã nói rõ: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. "Liều" được nói đến không phải nhắm mắt đưa chân cầu xin may rủi nhưng là sự quyết tâm dấn bước theo Ngà: dám sống niềm tin mạnh mẽ giữa hoàn cảnh còn nhiều cấm cách; dám sống thật giữa cuộc đời còn nhiều dối gian; dám sống theo lương tâm ngay lành giữa lúc con người chỉ biết đến "lương lẹo" và "lương tháng".
Lời mời gọi đi theo Chúa phải vác thập giá, muốn cứu mạng sống phải liều mất nó, khó nghe nhưng rất chân thành. Muốn có hạnh phúc con người phải kinh qua đau khổ. Hạnh phúc càng lớn thì con người càng lắm gian nan. Chấp nhận thập giá khổ đau không phải Chúa muốn con người đi vào tàn lụi nhưng đó là điều kiện để con người khám phá ra hạnh phúc vững bền. Cái chết cho Tin Mừng không là sự tận diệt nhưng là điều kiện để con người được tái sinh và đi vào đời sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi vẫn cứ đặt ra và chờ đợi câu trả lời nơi từng người tín hữu. Mức độ dấn thân để chia sẻ thân phận với Thầy Giêsu sẽ là câu trả lời chính xác nhất. Bởi lẽ, câu trả lời không nằm nơi sự hiểu biết nhưng nơi cuộc sống của mỗi cá nhân.
57. Bạn nghĩ gì về Đức Kitô – Gm. Arthur Tonne.
Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong một văn phòng công ty hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.
Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như: “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm: “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to: “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao?”. Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào phòng này?”. Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói: “Dĩ nhiên, tất cả chúng ta sẽ quỳ xuống”. Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu hỏi các Tông đồ “Người ta nói Ta là ai?”.
Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng một câu hỏi ấy: “Con nghĩ Ta là ai?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của mọi thời đại ấy.
Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người. Có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, Người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách phải nhận Người đã làm được vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo là một người theo nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa như một nhà kiến tạo hòa bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.
Những người cải taọ xã hội nhìn Đức Kitô như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đạo cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi họ nói về Chúa Kitô –Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.
Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Chúa Kitô như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Trong số những người đó, bạn đồng ý với những nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn, Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?
Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, có Con Thiên Chúa hằng sống.
Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng như là người thật, đó là trọng tâm của Kinh Thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ đề của ngày lễ hôm nay, trong Thánh Lễ này. Đó là lý do chúng ta quỳ gối tôn thờ Đấng Chúa-Người trên bàn thờ này, như Lamb và các bạn của ông.
Xin Chúa chúc lành bạn.
58. Vấn nạn đau khổ - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại”
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở: “Đời là bể khổ.”
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên “dân tộc và quốc gia.” Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là “Tôi tớ Đau khổ của Giavê”.
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc, trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng có thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, “Cũng như vì một người, mà sự tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua hết mọi người” (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì “là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương,” Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: “Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.”
“Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.” Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc, nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng việc than thưa với Ngài: “Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.” Chắc chắn nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết: “Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi. Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là “làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5;8b).
59. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson.
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế”.
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.
60. Kitô-hữu là ai?
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
- Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.
Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
61. Chọn lựa một con đường
Trong quyển sách "Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể ra được 10 "khuyết điểm" của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 "khuyết điểm" ấy. Một trong 10 "khuyết điểm" mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài "không biết làm kinh tế". Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách "tô son" lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: "Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo" (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì "thua" là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!
Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là "nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật" (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi" (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: "Sự thật là cái gì?". Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!
Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: "Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.
Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ...Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, "con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi" (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: "ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp" (Tv 49, 12).
Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường "liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng". Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất". Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!
Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.
Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường "thập giá" và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. "Vác thập giá" theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.
Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
62. Đau khổ và vinh quang
(Suy niệm của Lm. Louis Thanh Minh)
Bài ca thứ 3 của người tôi tớ Giavê trong bài đọc I trích từ sách Tiên tri Isaia của phần Ngôn Lễ Chúa Nhật hôm nay là hình ảnh tiên báo về Đức Kitô, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi mà thánh Marcô đã giới thiệu trong bài Phúc Âm hôm nay: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi nhưng sau 3 ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)
Hình ảnh Đấng Cứu Thế, theo chương trình của Thiên Chúa thật nhỏ bé, khiêm cung, hiền từ, vô danh tiểu tốt, khác hẳn với quan niệm và sự trông đợi của người Do Thái đương thời về một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt xuất hiện trong uy quyền, vinh quang, là vị Cứu Tinh của dân tộc Israel thoát xiềng xích đô hộ của đế quốc La Mã. Vì thế, họ vấp phạm vì Người và họ đã không nhận ra Người mà cứ mỏi cổ hết năm này đến năm nọ, hết thế kỷ này đến thế kỷ khác đợi trông Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế ấy đã nhập thể trong cung lòng một thôn nữ nghèo nàn, sinh hạ trong hang lừa máng cỏ, 30 năm lam lũ trong xưởng mộc Nazareth, 3 năm tụ họp 12 dân chài mộc mạc đi lang thang khắp mọi nẻo đường xứ Palestina rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nay đây mai đó vô gia cư, chẳng có văn phòng, trụ sở, bản doanh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có hòn đá gối đầu", rồi cuối cùng chết một cách nhục nhã thảm thương trần trụi trên cây khổ giá giữa hai tên trộm cướp, đến lúc tống táng cũng phải mượn mồ của người khác!
Đối với con mắt người phàm quả là một sự thất bại ê chề, nhưng đối với Thiên Chúa đó là đường đưa đến vinh quang vô tận. Vì chính thánh giá khổ nạn mới là con đường Đấng Cứu Thế phải trải qua để tiến vào vinh quang như Người đã xác quyết với hai môn đệ trên đường Emmaus sau ngày Phục Sinh (Lc 24,26).
Nếu không có chiều thứ sáu đau thương tử nạn, thì đâu có bình minh Chúa Nhật Phục Sinh huy hoàng! Nếu không có đồi Calvariô ảm đạm, thì sẽ không có đồi Olivêtê thăng thiên vinh hiển! Chúng ta hẳn cũng thường nghe câu ngạn ngữ nầy: “Chiến đấu không gian khổ, chiến thắng không vinh quang". Một cuộc thi đua nào mà kết quả không khó khăn lắm để đạt được sẽ không có giá trị bao nhiêu.
Đức Phật Thích Ca đã cho rằng: “Đời là bể khổ" và “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của đại dương". Kitô giáo trong Kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina) kêu rằng thế giới này là một thung lũng nước mắt, và giáo thuyết Công giáo cho rằng thế gian này chỉ là tạm gửi “sinh ký tử quy", là một cuộc lữ hành, là nơi chiến đấu lập công đền tội, chứ không phải là nơi an hưởng, Thiên đàng mai hậu mới thật là quê hương muôn đời, nơi hưởng phúc thanh nhàn, “Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ" nơi đó sẽ không còn khổ đau, thử thách hay lâm cảnh đoạn trường.
Chúa Kitô đã khai mở một con đường độc đạo, đường hẹp, đường thánh giá, đường hy sinh đau khổ, Ngài đã đi tiên phong chúng ta không có sự chọn lựa nào khác hơn nếu muốn làm môn đệ Ngài và bước vào vinh quang thiên quốc: “Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình vác thánh giá mọi ngày mà theo Ta". Cuộc đời của các thánh, mỗi vị có một nét đặc thù nhưng tất cả đều có một mẫu số chung là “đau khổ". Con đường nên thánh không phải lót toàn bằng hoa hồng, hoặc không phải “ngồi bóng mát ăn bát vàng", vì trên thiên đàng, theo thị kiến của thánh Gioan tông đồ, gồm toàn “những người từ đau khổ lớn lao mà đến" (Kh 7,14). Bà thánh Litwine nằm trên giường bệnh 38 năm!
Vậy trên bước đường lữ thứ trần gian chắc chắn có những lúc Chúa sẽ gửi đến cho ta những cây thánh giá để giúp Chúa vác như ông Simon, chúng ta hãy vui vẻ ghé vai vác lấy một cách can đảm vì đó là dấu chỉ ta đi đúng đường và đền ơn Chúa và cộng tác với Ngài để cứu rỗi chính mình cũng như muôn người.
63. Đức Kitô.
Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.
64. Đau khổ.
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay không?
Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.
Các môn đệ cũng không hơn gì những người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:
- Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel?
Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.
Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.
Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ, thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?
Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho các ông biết:
- Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:
- Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để Thày khỏi phải như thế.
Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.
Trước một người mù từ khi mới sinh, các ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:
- Nó bị mù là do tội của nó hay là do tội của cha mẹ nó?
Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:
- Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy những việc của Thiên Chúa.
Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một lần nữa cho các ông:
- Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Lần này thì các ông không dám lên tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:
- Các ông đã tỏ ra buồn bã.
Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.
Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:
- Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.
Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?
65. Đau khổ.
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
66. Đức tin.
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng. Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập quán và lề thói cổ xưa.
Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người có được đức tin của họ theo hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.
Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói rằng: “Cha mẹ tôi là những tín hữu” chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.
Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.
Trước tiên Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?” Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.
Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ. Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.
Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững vàng trên đá tảng.
Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học biết một cách khó khăn.
Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.
67. Việc làm.
Bà O’Reilly đã nhận được tin một người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà hay tin: “Hãy nói với bà ấy rằng tôi sẽ nhớ đến bà ấy trong lúc cầu nguyện và tôi hy vọng rằng bà ấy sẽ sớm bình phục”.
Và bà O’Reilly cũng tốt bụng như lời bà. Tối hôm đó, khi bà đọc kinh tối như thường lệ, bà đã cầu nguyện chân thành và sốt sắng cho người láng giềng. Bà nói với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn cầu xin Chúa cho người láng giềng của con. Bà ấy bị bệnh rất nặng. Bà ấy cần được giúp đỡ, cần được an ủi”.
Khi cầu nguyện xong, bà cảm thấy khá hơn. Và tuy vậy, có một điều làm bà băn khoăn, áy náy. Bà ngồi xuống và nghĩ về điều đó. Rồi bà rơi vào một tình trạng thiu thiu ngủ trong đó bà nghe Thiên Chúa nói với bà: “Ta biết con rất quan tâm đến người láng giềng của con”.
“Vâng, thưa Chúa, con thật sự quan tâm” bà đáp lại với không ít niềm tự hào.
“Và Ta cũng biết rằng người láng giềng con cũng rất cần sự giúp đỡ” Thiên Chúa nói.
“Con cũng nghe nói như thế”. Bà O’reilly nói.
“Con biết đấy, điều bà ấy cần là một người dành cho bà ấy chút ít thời gian”. Chúa nói.
“Thưa Chúa, Chúa hoàn toàn đúng. Con cũng nghĩ như thế”. Bà O’Reilly đáp.
“Bây giờ, con xin Ta giúp đỡ bà ấy, con không chờ Ta từ trời xuống để thăm bà ấy đó sao?”
“Không, thưa Chúa, con không mong Chúa làm thế. Cả người láng giềng của con cũng không mong điều đó. Thật vậy, điều đó làm bà ấy xúc động và chết mất”.
“Vậy, bà ấy không cần ai đến thăm sao?”
“Thưa Chúa, cần ạ”
“Ta có thể sai ai đến?”
Sau một hồi lâu thinh lặng. Bà O’Reilly nói: “Thưa Chúa, xin Chúa hãy sai con!”
Khi bà tỉnh giấc, bà biết chính xác điều bà phải làm.
Thánh Giacôbê nói: “Nếu như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hàng ngày” mà chúng ta chỉ nói: “Anh, chị đi bình an”. Như thế là không đủ.
Với một người đang cần giúp đỡ mà chỉ nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho anh”. Như thế là không đủ. Chúng ta không nên nghĩ rằng đã làm được một chút gì mỗi khi chúng ta chuyển giao vấn đề cho chúa. Điều ấy nghe có vẻ như đùn đẩy mọi việc cho Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, thực ra chúng ta đang nói cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, này con đây. Xin Chúa hãy sai con”.
Lời cầu nguyện của chúng ta phải dẫn chúng ta đến hành động tích cực nào đó, dù chỉ là một hành động nhỏ. Nhưng cho dù là một hành động nhỏ như một cuộc viếng thăm cũng chứng tỏ đó là một cử chỉ có giá trị, bởi vì nó đưa chính chúng ta đến gần bên người đau khổ. Và làm điều đó là đặt chính mình vào nỗi đau khổ của họ. Chúng ta sẽ không tránh được một phần nỗi đau khổ ấy xâm nhập chúng ta.
Cầu nguyện cho người khác, hoặc mong ước họ được tốt lành, là một điều tốt. Nó mang lại cho họ sự an ủi vì họ biết rằng mình không cô độc. Nhưng chưa đủ. Đó là một đức tin chết. Nếu đức tin của chúng ta sống động, chúng ta cũng sẽ diễn tả sự quan tâm của chúng ta bằng hành động.
Phêrô hoàn toàn đúng khi nhận thức được căn tính của Đức Giêsu. Đức tin của ông trở nên hoàn hảo trong Lời Chúa. Nhưng đến lúc hành động, ông đã thiếu sót một cách đáng thương. Khi Đức Giêsu yêu cầu ông canh thức với Người lúc hấp hối ở trong vườn. Ông đã ngủ quên. Và cũng trong đêm đó, ông đã chối Đức Giêsu.
Có một đức tin chủ yếu chỉ trong lời nói. Và có một đức tin tuôn trào qua các công việc. Chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa không chỉ để tuyên xưng đức tin, nhưng còn để sống đức tin ấy.
68. Chân thực.
G.K.Chesterton có một câu chuyện về người đàn ông nhân đức được nhiều người ưa thích. Lý do chính của tính quần chúng này là ông không thiếu những lời hài hước ý nhị. Không có một người lo lắng, ưu phiền nào mà không hỏi ông làm thế nào để luôn luôn hạnh phúc. Họ cho rằng ông sinh ra là một con người lạc quan.Nhưng rồi một ngày kia, người ta thấy ông chết trong một trường hợp bí ẩn. Người ta nghi ngờ có một trò bỉ ổi. Tuy nhiên trường hợp này làm lạc hướng điều tra của cảnh sát. Tình cờ, chính thám tử không chuyên của Chesterton là Fr. Browne đã giải quyết vụ việc. Phán quyết của thám tử là người đàn ông ấy đã tự tử.
Trước tiên người ta không chấp nhận phán quyết của Fr. Browne. Người ta không thể tưởng tượng một người hạnh phúc như thế lại có thể phạm tội tự sát. Nhưng như thế càng nổi rõ một khía cạnh nghiêm trọng của con người vui tính ấy. Người làm cho người khác cười thực ra là một người ưu phiền sâu xa. Nhưng ông không bao giờ có thể nói với bất kỳ ai ông thật sự cảm thấy thế nào.
Ông ấy có hai đời sống. Một đời sống rộng mở cho mọi người nhìn thấy và hiểu biết. Còn đời sống kia thì bí ẩn, chỉ một mình ông ấy biết. Trong đời sống công cộng, ông ấy là một người đàn ông mỉm cười với mọi người. Nhưng trong đời sống riêng tư, người ấy bị tổn thương và tuyệt vọng.
Ông cảm thấy phải sống theo sự mong đợi của những người khác để đổi lấy sự quan tâm và kính trọng. Ông không bao giờ có thể là chính mình. Sau cùng, ông đã nhận thức rằng cả đời ông được đặt trên nền tảng của một sự dối trá. Nỗ lực căng thẳng để duy trì một hình ảnh về mình đối với quần chúng đã trở thành quá to lớn đến nỗi ông không thể đối phó được nữa. Vì thế ông đã phạm tội tự sát.
Mọi người thích được nghĩ tốt về mình. Vì thế, người ta cố gắng tạo thành một hình ảnh thích hợp về mình trong con mắt của người khác. Họ sẽ làm bất cứ điều gì để duy trì hình ảnh đó.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ít quan tâm đến điều người khác nghĩ về Người dù hình ảnh mà người khác có về Người rất thuận lợi. Người ta đã nhìn Người như một ngôn sứ lớn. Phêrô đã đi xa hơn. Ông nói Người là Đấng Kitô (tức là Đấng Mêsia).
Không thể phóng đại ý nghĩa mà người Do thái hiểu về Đấng Mêsia. Nhiều người nghĩ rằng đó là một lãnh tụ quân sự vĩ đại – một vua Đavid khác, Người có thể phục hồi sức mạnh quân sự trước đây. Rõ ràng đó là điều mà Phêrô đã nghĩ đến.
Nhưng đó không phải là ý tưởng về Đấng Mêsia của Đức Giêsu. Người nói với các tông đồ rằng Đấng Mêsia phải chịu đau khổ như Isaia đã tiên báo (xem bài đọc 1) Người không muốn họ có những hy vọng sai lầm để rồi sau này sẽ thất vọng, và cảm thấy rằng Người đã lừa dối họ.
Nhưng Phêrô không ủng hộ ý tưởng Đức Giêsu phải chịu đau khổ. Ông quyết tâm cứu Người khỏi một số phận như thế. Chúng ta có thể có thiện cảm với ông. Chúng ta muốn cứu người chúng ta yêu mến khỏi phải chịu khổ. Nhưng chúng ta càng yêu thương họ, chúng ta càng không có quyền đứng chắn con đường số phận của người ấy.
Đức Giêsu đã quở trách Phêrô. Người không có ý định sống theo sự mong ước của quần chúng. Người không bị ảnh hưởng bởi những gì mà người ta suy nghĩ, hoặc mong muốn, hoặc chờ đợi nơi Người. Người muốn chân thật với chính mình và với điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi Người.
Dù đường lối của chúng ta là gì thì điều thật sự quan trọng là chúng ta phải là chính mình, cái bản ngã duy nhất của chúng ta và tốt nhất mà khả năng chúng ta có thể đạt được – một thành phần của dân mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành. Điều duy nhất quan trọng là phải chân thật với chính mình. Bất cứ đường lối nào khác đều sẽ là sai lầm không làm cho người ta đạt đến sự trưởng thành, hạnh phúc viên mãn và thánh thiện.
69. Vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành đặc biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẳng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bỗng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàng thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vác Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
"Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Ông cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Ông theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mỉm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
70. Đức Giêsu.
Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quovadis”: quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quovadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy”.
71. Từ bỏ.
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
- Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống”. Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
72. ''Thầy là ai?, Ðức Giêsu là ai?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người đời suy nghĩ, dù tin hay phủ nhận vẫn phải khắc khoải về Con Người này: Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Cộng sản, chính trị…
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đây phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nazareth đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nazareth và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nazareth là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.
1. Gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.
Ignace Lepp là một chứng nhân của hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.
Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ Các Mác đến Giêsu Kitô”. Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham gia phong trào cộng sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo.
a. Thao thức tìm kiếm
Ignace sinh trong một gia đình giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp. Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.
Một hôm tình cờ Ignace đọc được cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu thế kỷ 20.
Gorky không những đã tả hết những nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư bóc lột của giới chủ nhân, sống xa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động. Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.
Sau khi đọc thêm một vài cuốn nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v., Ignacce cương quyết từ bỏ giai cấp của mình để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào cộng sản thế giới: tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết duy vật biện chứng đều là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.
Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.
Việc cậu lên diễn đàn phát biểu trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết. Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và ít tiền túi.
Cậu sang ở một thành phố khác và trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu châu để tuyên tuyền cho chủ nghĩa cộng sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương. Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy và đọc nhiều sách về lý thuyết cộng sản.
Trong lúc hoạt động cho phong trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật đưa sang Nga.
b. Đỉnh cao danh vọng.
Vui mừng được đến nước cầm đầu phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một cách ê chề.
Cái thiên đường vô sản ở Nga mà phong trào cộng sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng xem có phù hợp với đường lối của đảng không (mà đường lối thì thay đổi rất bất thường) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.
Vì được xem là một lý thuyết gia lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy cao lương mỹ vị, rượu volka và caviar không bao giờ thiếu. Các "mệnh phụ phu nhân" cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.
c. Thất vọng
Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.
Ignace hoàn toàn thất vọng với chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.
May thay trong thời gian đó nhiều người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra khi một "Hội nghị về Hòa bình thế giới" được tổ chức ở Luân đôn, Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.
d. Chán nản
Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử, và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.
e. Lý tưởng huyền diệu
Một hôm đi chơi về khuya, Ignace tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có nhan đề “Quo Vadis?” (Thầy Đi Đâu?). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Ki-tô hữu đầu tiên bị bách hại dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết, Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.
Để tìm hiểu thêm những lý do gì mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ: chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội cộng sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu thương vô điều kiện.
Tất cả những sách vở chàng đọc được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người: Giêsu ở thành Nazareth, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất. Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang Sô Viết đối xử với công dân của họ.
Sau khi đọc kỹ sách Phúc âm và nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật.
Với một tính tình hiếu động, chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa tội theo đạo Công Giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.
Ignace Lepp thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo Thầy là ai?" là thao thức cho những ai khao khát chân lý.
2. Ba bức chân dung về Đức Giêsu
Ðức Giêsu đặt một câu hỏi quan trọng cho các môn đệ: "Người ta bảo Thầy là ai?". Dân chúng chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào đó. Họ cũng dành cho Ngài những danh hiệu cao quý nhất: là Êlia, bậc tôn sư lỗi lạc trong hàng ngũ ngôn sứ; là Giêrêmia, vị ngôn sứ giúp quốc gia trong cơn khốn khó. Cả hai vị này bất quá chỉ là người dọn đường cho Đấng Kitô. Vì thế đối với người đương thời, Đức Giêsu cao lắm chỉ được coi là người dọn đường, chứ không phải là chính Đấng Cứu Thế. Chỉ có Phêrô, đại diện cho các môn đệ, mới có thể nhận diện đúng chân tướng của Chúa: Ngài là chính Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
"Thầy là ai?”, Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.
Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?
Phần tôi, rất thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.
- Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật (Lc 2,11).
- Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
- “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đấng ban sự sống cho muôn loài (CV 17,25), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ (Pl 2,10) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.
Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ - chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.
Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.
Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, tựa như thánh Phêrô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Amen.
73. Từ bỏ và vác thập giá- Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “ xứng đáng làm môn đệ Thầy”.
Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “.
Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.
Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ và vác thập giá”.
1. Từ bỏ
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối… Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi.
Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.
Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
74. Một con người hai tư tưởng
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Tin mừng hôm nay cho ta thấy ông thánh Phêrô tuy một nhưng hai tính cách: một Phêrô Kitô hữu và một Phêrô satan. Một Phêrô nói Thầy là Đấng Mêsia mà dân Israel đã cưu mang từng bao đời. Một Kitô hữu Phêrô rất đẹp nhưng bên cạnh đó có một con quỷ sa tan đội lốt Phêrô để can dặn Chúa Giêsu chớ có dại dột mà lên Giêrusalem, Chúa Giêsu quay lại mắng một lời rất nặng mà ít thấy trong Tin mừng. Vâng, Phêrô cũng là hình ảnh của mỗi một người chúng ta đây và tất cả những ai mang danh Kitô hữu có một tính các rất tốt mà cũng vừa mang tính cách rất sa tan.
Thử hỏi hôm nay có người Công giáo nào dám vỗ ngực và bảo rằng tôi đã hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu và không có một sa tan nào trong tôi cả. Nhưng mỗi một con người đều pha lẫn ánh sáng và bóng tối vừa pha lẫn tính chất Kitô hữu và lại có tính cách của quỷ sa tan ở đấy. Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Giacôbê nói: “Có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15).
Vậy thì, vấn đề ta phải suy nghĩ với nhau đó là cái gì mà làm cho ta là Kitô hữu mà lại mang tính chất satan đó? Có thể là nhiều lý do nhưng mình có thể dựa vào Tin mừng hôm nay đó là chúng ta quen tính toán suy nghĩ và chọn lựa đường lối của loài người mà mình quên mất những suy nghĩ vào đường lối của Thiên Chúa. Không có ai và không có cộng đoàn nào mà không đi tìm cho mình sự sống thật và con đường nào dẫn đến sự sống thật? Nhiều khi mình đi tìm sự sống nhưng là một sự sống giả và là con đường tính toán với thế gian. Chẳng hạn, khi hoàng đế Nêron muốn làm thơ về thành Turoa cho nên ông đốt cả thành Rôma, ông đổ tội cho người Công giáo thế là một cuộc bách hại tàn sát rất dã mang đổ lên trên đầu Hội thánh Công giáo. Phêrô tìm cách thoát ra khỏi thành Rôma. Bởi vì Ngài sợ rằng nếu bây giờ mà vị lãnh đạo Giáo hội bị đế quốc Rôma giết chết thì còn ai lãnh đạo và cả đoàn chiên của Chúa mất đầu, sẽ tan tác hết cho nên Ngài phải thoát ra khỏi thành để duy trì sự sống cho Hội thánh. Nhưng không ngờ rằng trên đường đi ra khỏi thành lại gặp Chúa Giêsu đi ngược lại và khi Phêrô lên tiếng hỏi Thầy đi đâu, Chúa Giêsu trả lời Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng dinh thêm một lần nữa. Phêrô hiểu và quay trở lại Rôma. Ngài hiểu ngay việc Ngài thoát ra khỏi thành Rôma là sự khôn ngoan nhưng nó lại là sự khôn ngoan của loài người chứ không phải sự khôn ngoan của Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người bằng cái chết trên thập giá và sống lại vinh quang. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua theo kiều thế gian hay satan. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Đó là yêu thương, tha thứ nhất là từ bỏ xu hướng của satan ham muốn xác thịt… để chỉ sống thanh cao phần tinh thần.
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh nhìn ra chúng ta làmôn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, là Kitô hữu luôn mang một tính cách của Chúa là: chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công; thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính, yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng, biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người, và sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người. Vì vậy, kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: “Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa”.
Xin cho Lời Chúa hôm nay luôn thanh tẩy tư tưởng satan trong trí lòng chúng ta để chỉ còn tư tưởng và đường lối của Chúa trong cung cách sống đạo của chúng ta hôm nay. Amen.
75. Đức tin sống – PM. Cao Huy Hoàng
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
1. Tuyên xưng Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29), hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
2. Từ bỏ mình:
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. (Mc 8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
3. Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
4. Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định: “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
76. Cay đắng hoặc tốt hơn – Lm Mark Link, S.J.
Chủ đề: "Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách cũng không trở nên toàn thiện được" (KHỔNG TỬ)
Trong quyển sách nhan đề: Này tôi tin (This I believe) có một loạt bài khảo luận của một số tác giả nổi tiếng. Họ mô tả lại những thời kỳ trong cuộc đời của họ đã tác động trên họ một cách sâu xa. Chẳng hạn, James du Pont thuộc công ty Du Pont kể lại sự kiện xảy đến cho ông khi ông vừa mới 7 tuổi đầu như sau: Một đêm, đang say ngủ, chợt James thức giấc, cậu bé nhìn thấy mẹ đang khóc lớn tiếng. Đây là lần đầu tiên cậu thấy mẹ khóc, James mô tả biến cố này như sau;
"Giọng bố tôi trầm xuống lộ vẻ bối rối trong khi ông cố gắng an ủi mẹ tôi – lúc đó cả hai người đều sầu buồn nên quên mất tôi đang hiện diện ở bên cạnh. Tôi nghe lỏm được những gì các ngài đang nói". Ông nói thêm: "Khi vấn đề của các ngài đã được giải quyết và bị chìm vào quên lãng lâu rồi, thì 'biến cố' quan trọng tôi khám phá được vào đêm khuya ấy và mãi mãi còn lưu lại trong tâm trí tôi. Khám phá ấy được ghi nhận bằng những lời an ủi của bố tôi; 'Đời sống đâu phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng đâu! Nhiều lúc nó rất là khó khăn và cay đắng'.
***
Chắc chắn chúng ta đều có thể mường tượng được cảnh chú bé 7 tuổi đang nằm trên giường lắng nghe mẹ chú khóc. Chúng ta cũng có thể nhớ lại đã có lần ta nghe mẹ mình khóc, và điều ấy đã gây ấn tượng mạnh trên chúng ta như thế nào, và điều ấy đã khiến chúng ta, có lẽ lần đầu tiên trong đời, ý thức được cuộc đời không chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, đôi khi nó rất khó khăn và khổ đau. Từ đó chúng ta hiểu được những lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm ngày hôm nay.
"Ai muốn đến với Ta, thì hãy quên mình, vác thập giá mình rồi theo Ta". Nói cách khác, khổ đau sầu muộn có thể ví như những cơn bão táp, lụt lội xảy đến. Chúng ta là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại tiếp tục biểu lộ một điều kỳ diệu khi Ngài nói:
"Ai muốn cứu lấy mạng mình thì sẽ bị mất nó, nhưng ai liều mất cuộc sống vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được nó". Nói cách khác, đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến trên chúng ta mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh được khổ đau phiền muộn nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Xin hãy nghe một minh chứng qua trường hợp Eugene Oneill: Mãi đến tuổi 25, ông vẫn còn là một người thất bại, cuộc sống thì hầu như không mục đích, không qui củ, không định hướng. Thế rồi một hôm, ông lâm trọng bệnh và được đem vào bệnh viện. Nhờ thời gian nằm viện, ông đã có dịp may làm được điều trước đó ông chưa bao giờ làm được; ông mới có dịp may suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Nhờ đó ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông.
Cuối cùng Eugene O'Neill bình phục, ông chọn nghề viết kịch và bắt đầu trở thành người canh tân nền kịch nghệ Hoa Kỳ. Tất cả điều này xảy ra chính là do ông đã biết biến đổi phiền muộn khổ đau thành phương cách xây dựng tích cực, đã biến chúng thành sức sống cho ông.
Trường hợp Golda Meir cũng thế. Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: "Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một may mắn tiềm tàng, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn, cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại lợi ích cho mình hơn." Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thánh giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn, cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel.
Cuối cùng, chúng ta hãy xét đến trường hợp của Oscar Wilde. Ở đỉnh cao nghề nghiệp viết lách, ông đã xác tín sứ mạng luân lý của mình. Sau khi ở tù ra, ông không còn chấp nhận viết những vở hài kịch phù phiếm nữa, không dành trí tưởng tượng cho ba chuyện lăng nhăng lít nhít nữa. Ông đã sáng tác những câu thơ tuyệt vời như: "Đau khổ chính là mảnh đất thánh", hay: "Đức Kitô đâu có thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã vỡ nát".
Oscar Wilde đã dùng kinh nghiệm nhục nhã của mình như một dịp để tăng triển tốt đẹp hơn. Giống như tinh thần bài Phúc Âm hôm nay ông đã biết biến đổi kinh nghiệm ấy thành nguồn ban sức sống chứ không để nó thành nguồn chết chóc huỷ diệt.
Những câu chuyện về Eugene O'Neill, Golda Meir và Oscar Wilde cho ta thấy rõ ràng điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những khổ đau phiền muộn xảy đến cho chúng ta, mà chính là cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu ta từ chối không chấp nhận khổ đau phiền muộn, không chịu cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Đức Giêsu can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống giống như trường hợp Eugene O'Neill, Golda và Oscar Wilde.
Để tóm tắt, chúng ta hãy nhớ lại:
- Như cậu bé bảy tuổi trong câu chuyện mở đầu, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng.
Nhưng chúng ta cũng khám phá ra một điều khác nữa. Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa Giêsu và Phúc Âm vì phiền muộn và khổ đau có thể biến thành nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau phiền muộn để biến đổi chúng ta thành người tốt hơn và biết thông hiểu kẻ khác hơn. Khổ đau và phiền muộn có thể mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng dám mơ ước.
Thi sĩ Robert Browming Hamiltom tóm tắt tinh thần bài Phúc Âm hôm nay bằng những lời như sau:
"Tôi bước đi một dặm đường với Nữ Thần Lạc Thú, Nàng ve vuốt tôi đủ điều, nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan hơn tí nào qua những điều nàng nói.
"Tôi lại bước đi một dặm với Nữ Thần đau khổ,
Nàng chả nói với tôi một lời,
Nhưng tôi lại học được biết bao điều khi nàng bước đi bên cạnh tôi…"
(Trích trong Along the Road - Dọc đường)
77. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng.
QUA ĐAU KHỔ THÁNH GIÁ
TỚI VINH QUANG PHỤC SINH
Theo quan niệm Do thái thời bấy giờ, thì Đấng cứu thế phải là nhà lãnh đạo trổi vượt, một nhà cải cách xã hội tài ba, một tướng lãnh lừng danh, bách chiến bách thắng để có thể lật đổ ách thống trị của ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời vua Hêrôđê và đưa dân tộc họ lên hàng số một, làm bá chủ hoàn cầu. Ngay cả các tông đồ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Người giảng dạy và chứng kiến phép lạ Người làm, cũng còn nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu Thế.
Tới lúc mà Đức Giêsu muốn biết xem người ta nói gì về Người khi hỏi các tông đồ: Người ta bảo Thầy là ai (Mc 8,27)? Sau khi họ thuật lại về việc người ta gán cho Thầy các ông là nhân vật nọ nhân vật kia như ông Gioan Tẩy Giả, ông Êlia hay một ngôn sứ nào đó trong Thánh kinh, thì Chúa muốn biết xem các tông đồ nghĩ Người là ai? Đối với Đức Giêsu, người ta bảo Người là ai không quan trọng cho bằng việc các tông đồ bảo Thầy của họ là ai. Phêrô đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng Kitô (Mc 8,29).
Mặc dù nhận ra Thầy mình là Đấng Kitô, thánh Phêrô vẫn chưa hiểu đủ về bản tính của Đấng Kitô cũng như vai trò và sứ mệnh của Người. Nói cách khác tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Đức Kitô lúc đó còn giới hạn và mơ hồ. Do đó các tông đồ không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình có thể chịu đau khổ. Đối với các tông đồ thì việc Thầy họ chịu đau khổ không thể nào chấp nhận được. Vì thế ông Phêrô lên tiếng can ngăn Thầy mình khỏi phải chịu đau khổ. Ông muốn Đấng Kitô đi theo đường lối của loài người, nghĩa là tránh cảnh khổ nạn. Sở dĩ có sự can ngăn như thế là vì các tông đồ chưa hiểu lời Thánh kinh. Các ông chưa biết rằng người đầy tớ của Giavê chịu đau khổ mà ngôn sứ Isaia nói đến hôm nay ám chỉ về Đấng Cứu thế, là Thầy của họ. Và trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng áp dụng lời tiên tri về người đầy tớ của Giavê về cho Người.
Để loại bỏ những quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế, Đức Giêsu lập tức tiên báo về cuộc khổ hình và tử nạn mà Người sẽ phải chịu. Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của Người. Và sau này Chúa còn tiên báo hai lần nừa về của khổ nạn của Người. Như vậy Đức Giêsu cho ta thấy điều nghịch lí của đạo Kitô giáo. Khi ta chịu đau khổ thiệt thòi vì yêu mến Chúa, ta sẽ tìm được sự sống mới trong Chúa. Do đó mà thánh Augustinô mới đặt bút viết: Đâu có yêu, đó không còn đau khổ. Giả như có khổ đi nữa, người ta lại chấp nhận đau khổ vì yêu.
Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa Cứu thế đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Người tín hữu không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp những đau khổ về phần xác như bệnh tật hoặc phần tinh thần như những lo âu, sợ hãi, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần đến bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi phải mang bệnh tật về phần xác hay tinh thần và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ý nghĩa và ơn ích thiêng liêng. Chịu đau khổ như vậy vì lòng mến Chúa, thì được kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa để cầu cho phần rỗi linh hồn. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.
Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28).
Lời cầu nguyện xin cho được chịu đau khổ vì yêu mến:
Lạy Chúa Giêsu là Thiên Chúa!
Chúa đã chấp nhận đau khổ vì yêu mến loài người.
Con xin dâng lên Chúa những đau khổ của con
về phần xác, phần hồn và tinh thần:
những nỗi lo âu, sợ hãi, cơ đơn và buồn chán
những hiểu lầm và nghi kị,
những thiệt thòi và tủi hổ của đời con.
Xin Chúa đến ở bên con và đồng hành với con
để biến đổi đời sống con. Amen.
78. Chúa Giêsu là ai?
Chúa Giêsu là ai? Khi đặt câu hỏi này, chúng ta thấy có vẻ ngớ ngẩn, ngu ngơ và khờ khạo. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều người vẫn chưa biết và còn mơ hồ về Chúa Giêsu trong thế giới rộng lớn này. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe Chúa Giêsu hỏi các môn đệ câu hỏi này: "Người ta bảo Thầy là ai?" Còn chúng ta thì sao? Chúng ta nói Chúa Giêsu là ai?. Và Ngài có ảnh hưởng gì trong cuộc đời của chúng ta?
Trong đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu, có người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là ông Elia, kẻ khác cho là một ngôn sứ nào đó. Hóa ra, họ cũng chưa nhận ra Chúa Giêsu là ai? Họ vẫn còn mù mờ trong tâm tối, cho dù Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ tỏ tường trước mắt họ. Ấy thế mà họ vẫn không nhận ra Ngài là ai. Vậy, chúng ta có thể trả lời câu hỏi này như thế nào trong đời sống đức tin và ngay trong trái tim mỗi người chúng ta! Khi chúng ta mang danh là người Kitô hữu. Vậy "Anh em bảo Thầy là ai" (Mc 8,29).
Thế giới ngày nay gần 7 tỷ người, trong khi đó người Kitô hữu chỉ có 1,2 tỷ, một con số khá khiêm tốn. Với con số này, chúng ta nghĩ gì khi tuyên xưng Đức Kitô là Vua vũ trụ, là Đấng Cứu độ và là Sự sống cho nhân loại? Trong khi đó có người chống đối và phủ nhận danh thánh Ngài. Sống trong một đất nước phát triển, tôi nhận thấy, con người ngày nay đang xa lìa Thiên Chúa và Giáo hội. Các bạn trẻ mất định hướng sống. Họ đang dò dẫm bước đi trong thế giới ảo của sự giả trá, gian dối bởi thế lực của thế gian. Trong một trường đại học Công giáo tại Mỹ, tôi hỏi một cha giáo dạy các em, thì ngài cho tôi biết, cứ theo tỷ 10 em sinh viên người Công giáo, thì chỉ có khoảng 2-3 em còn đi lễ ngày chủ nhật. Khi đề cập về vấn đề nhận biết Chúa Giêsu là ai? Tôi thiết nghĩ, tất cả mọi người chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng, đời sống đức tin của chúng ta đang bị chao đảo, mất định hướng và dễ buông xuôi, sống phóng túng và lơ là với việc giữ đạo. Chúng ta chắc gì hơn đám đông đi theo Chúa Giêsu, và họ vẫn không biết Ngài.
Một người sống cho lý tưởng, thì người đó phải có định hướng cho đời mình. Họ sống chết cho lý tưởng đó, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn giữ vững lập trường và quan niệm sống. Chị Kim Davis thuộc tiểu bang Kentucky, Mỹ có thể là một nhân chứng sống đức tin cho nhiều người hôm nay. Chị đã bị vào tù vì không ký giấy chứng nhận hôn nhân cho cặp đôi đồng tính. Chị nói: "Tiếng nói lương tâm không cho phép tôi làm điều đó trái ngược với lời tuyên xưng đức tin và giữ lòng trung thành với Thiên Chúa". Chị bị đưa vào tù, và sau vài ngày chị được ra tù. Chị vui sướng, nói: " Tôi muốn mang đến Thiên Chúa sự vinh quang của Ngài".
Như lời thánh Phaolô nói trong bài đọc hai: "Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là đức tin." Điều này sẽ đi ngược lại với quan niệm của nhiều người ngày hôm nay, họ cho rằng, "sống đạo tại tâm." Đây là cách lý giải của nhiều người, họ không cần đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và đón nhận ân sủng từ Giáo hội. Vậy đức tin và đời sống đạo là như thế nào?. Tôi không thể nói yêu một người nào đó, mà tôi không bao giờ muốn gặp mặt. Đó là một thứ tình yêu ảo tưởng, viễn vong. Tôi không thể tham dự tiệc cưới mà lại ở nhà.
Cũng vậy, nếu chúng ta nói, chúng ta đi theo Chúa Giêsu để được sự sống đời, để được hạnh phúc, an vui vĩnh cữu, mà không biết Ngài là ai thì đức tin của chúng ta trở nên mơ hồ và ảo tưởng, nên có một số người đi theo đạo, nhưng họ thấy được gì thế là họ bỏ, và một số khác do lạc mất đức tin, bởi gặp những khó khăn và thử thách trong cuộc sống, nên họ cũng bỏ Chúa.
Tóm lại, câu trả lời của thánh Phêrô rất có ý nghĩa quan trọng và là động lực cho chúng ta về đời sống đức tin: "Ngài là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chính Chúa Giêsu đã đi vào cõi chết để mang lại sự sống vĩnh cữu. Cái chết của Ngài nói lên tình yêu thương cho nhân loại. Đi ngang qua cái chết, Chúa tỏ ánh vinh quang và quyền năng của Ngài cho chúng ta, sự sống đã chiến thắng. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta với những ai tin vào Chúa Giêsu. Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta. Amen.
79. Điều kiện để theo Đức Giêsu Kitô
(Suy niệm của Giuse Trần Văn Yên, OP)
Kính thưa cộng đoàn, qua đoạn Tin Mừng thánh Mac-cô tường thuật hôm nay, thiết nghĩ đây là một trong những lời xem ra khó nghe, khó chấp nhận nhất theo cảm nhận của con người. Nhưng đó lại là sự thật, là con đường đưa ta đến hạnh phúc. Với hai chữ “Từ bỏ” được xem như chỉ dành cho những ai không bình thường và khờ khạo theo cái nhìn của con người trong xã hội hôm nay. Vâng, họ là những con người không bình thường và khờ khạo vì Đức Kitô, Người là Đấng khôn ngoan tuyệt hảo.
Chúng ta thấy Đức Kitô đã đưa ra điều kiện tiên quyết cho những ai muốn đi theo Người rằng: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34). Với điều kiện mà Đức Kitô đưa ra, phải chăng, Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người phải chịu đau khổ hay sao? Chúng ta thấy trong cuộc s ống đời thường, khi muốn thuyết phục ai đi theo mình, họ thường hứa hẹn đủ điều: nào là chức cao quyền trọng, nào là phú quý giàu sang, nào là hạnh phúc… Còn Chúa, sao Chúa lại hứa hẹn cho những ai muốn đi theo Người phải từ bỏ, hy sinh; phải chịu sỉ nhục, đau khổ và cả mạng sống nữa.
Chắc chắn rằng, Chúa không muốn cho chúng ta những thứ hạnh phúc phù du, những thứ quyền thế giả tạo, dễ dàng và chóng qua. Nhưng Chúa muốn ban tặng cho chúng ta thứ hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu. “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì”? (Mc 8, 35-36).
Vâng, muốn được hạnh phúc đích thực, chúng ta cần phải chịu cắt tỉa, đau xót; phải chịu thử thách, gian nan và cùng với Đức Kitô vác Thập giá tiến về Núi Sọ. Điều kiện mà Đức Kitô đưa ra không phải để hành hạ con người, nhưng muốn con người đi vào quy luật tốt lành của Chúa để được sự sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Cộng đoàn thân mến, để hiểu, để yêu Đức Kitô thì cần phải chịu đau khổ với Người, bằng sự hi sinh từ bỏ con người mình. Môn đệ của Chúa Giêsu không có con đường nào khác ngoài con đường mà thầy Giêsu đã đi, đó là con đường từ bỏ, hi sinh; con đường Thập giá. Bởi Người đã nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31).
Ngày xưa, dân Do Thái cứ tưởng Đức Kitô con Thiên Chúa đến phải như là một “Vị Tướng” đánh Đông dẹp Tây, để dân tộc mình được đứng đầu các dân tộc khác. Nhưng không ngờ Đức Kitô lại bị hành hạ, bị sỉ nhục và bị giết chết như một tên phản quốc, như một kẻ tội lỗi. Ngày nay chúng ta cũng hay lầm tưởng theo Đức Kitô để được trọng vọng, để được danh tiếng. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mc 10, 43). Chúng ta cứ tưởng theo Chúa để được may mắn, được thành công ở đời , để được ăn trắng mặc trơn. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34).
Một khi chúng ta mang lấy Thập giá với lòng đón nhận và yêu mến Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết. Bởi chưng “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã đi qua con đường Thập giá để bước vào phục sinh vinh hiển. Xin cho chúng con sức mạnh của Chúa để chúng con đón nhận những thử thách, đau khổ ở đời này như là phương tiện để lập công phúc cho cuộc sống mai sau. Xin cho chúng con có ơn Chúa để chúng con biết từ bỏ tính ích kỷ, giận hờn, ghen ghét và những gì không phù hợp với người con Chúa. Xin giúp chúng con khi gặp những thử thách, gian nan biết gượng dậy để tiếp tục tiến bước theo Chúa lên Núi Sọ.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, ước gì Thánh giá Chúa là mẫu gương, là ánh sáng soi đường con đi, nhờ đó Thánh gía không còn là đau khổ, là tai họa nữa nhưng là dấu chỉ Chúa yêu con. Amen.
80. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ (8,27-30)
Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là chúng ta cũng rõ: Xêdarê Philipphe nằm tuốt ở mạn bắc, cận dòng sông Giođan và chân núi Hecmon. Đây là một vùng xa xôi giữa miền đất dân ngoại.
Lợi dụng cuộc đi bộ đường dài với các bạn hữu, Chúa Giêsu đã thăm dò ý kiến của họ về Ngài (c. 27b). Các từ ngữ được dùng ở đây đều nhằm mục đích đó. Chính nhờ đồng hành với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài đặt ra câu hỏi mà chúng ta có thể hiểu được khuông mặt đích thực của Ngài hơn. Câu đầu tiên Ngài hỏi các môn đệ là: “Người ta bảo Thầy là ai?” (c. 27c). đây đúng là một sự thăm dò ý kiến. Trước hết cần phải biết quảng đại quần chúng nghĩ gì về thân thế của Thầy. Đây là một câu hỏi trắc nghiệm thú vị có thể tiết lộ cho thầy được nhiều điều. Trước đây Maccô đã vén lên bức màn cho thấy những ý nghĩ đang lưu hành trong quần chúng Do Thái từ tầng lớp thấp nhất đến tầng lớp cao nhất (x. 6,14- 16). Từ quần chúng vô danh đến ngay chính bản thân Hêrôđê Antipa cũng đưa ra những ý kiến tương tự các ý kiến hiện đang được chính miệng các môn đệ nói ra. Đối với một số người, Chúa Giêsu được đồng hoá với Gioan Tẩy Giả hoặc Êlia; đối với một số khác, Chúa Giêsu được đồng hoá với một trong các tiên tri thời xưa (c. 28). Cái nhìn của quảng đại quần chúng này quả thật thú vị bởi vì nó liệt Thầy vào hàng một vị Mêsia. Tuy nhiên đây cũng chỉ là cái nhìn của người mù ở Betsaiđa lúc mới được Chúa chữa sơ, nghĩa là anh ta vẫn còn thấy lờ mờ (x. 9,23b-24a). Nhận biết Chúa Giêu là vị đại tiên tri như thế cũng rất có giá trị bởi vì đó là bước đầu tiên của của đức tin. Tuy nhiên điều này vẫn còn xa vời chân lý. Vì thế mà Chúa Giêsu đã yêu cầu nhóm môn đệ nói lên rõ ràng hơn về thân thế của Ngài (c. 29).
Và ngay lúc này đây đặt ra cho các môn đệ câu hỏi về thân thế của Thầy họ quả thực là khẩn thiết. Từ nhiều tháng nay, có lẽ khoảng một hai năm rồi, nhóm môn đệ này đã theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy cũng như đã chứng kiến các hành vi và cử chỉ của Ngài. Họ đã sát cánh bên Ngài trải qua một cuộc hải hành không chỉ thuộc bình diện địa lý mà còn thuộc bình diện thiêng liêng nữa. Bẫy giờ đã đến lúc thuận tiện để vị Sư Phụ trắc nghiệm các đệ tử sau một thời gian đào tạo đức tin lâu dài cho họ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hỏi liệu đám bạn hữu Chúa Giêsu có còn bị nhốt kín trong sự “mù loà” mà Ngài từng trách cứ không? (8,17- 18). Liệu họ đã có một nhận thức rõ rệt hơn về thân thế đích thực của Thầy mình chưa?
Câu trả lời của Phêrô vang dội như một tia chớp sáng ngời trong bầu trời tăm tối (c. 29). Cuối cùng thì đây là một lời tuyên xưng đức tin rành mạch. Qua miệng người huynh trưởng, đám môn đệ chứng tỏ được rằng cuối cùng thì họ đã nhận ra được thân thế chính xác của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Mêsia” nghĩa là Đặc Sứ của Thiên Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa chính thức “thánh hiến” để dứt khoát thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian này.
Maccô để cho phần đầu của Phúc Âm đạt tới tột đỉnh ở đây. Từ đầu tác phẩm, ông không ngừng chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng đã dùng lời nói và hành động của mình để đặt ra câu hỏi này: “Người này là ai vậy?”. Lũ ma quỷ thì đưa ra được câu trả lời rất hay (1,24; 3,,11 v.v…) còn đám người đương đại thì vẫn u mờ tăm tối. Trong tư tưởng của dân Do Thái thời đó, Đấng Mêsia mang khuôn mặt một nhà giải phóng chính trị hơn là một nhà giải phóng tôn giáo. Vì đó trước hết phải phục hồi các quyền lợi của Thiên Chúa bằng cách đẩy bọn Rôma chiếm đóng ra khỏi bờ cõi vương quốc của Đavit, phải mang lại cho dân lợi lộc kinh tế dồi dào, phải tiêu diệt mọi đớn đau bệnh hoạn. Đây phải là vị anh hùng “trần gian” khét tiếng (x.Mt 4,1-11). Như người ta đã thấy, chính Chúa Giêsu đã từng phải điều chỉnh những niềm kỳ vọng lệch lạc về thân thế Ngài sau mỗi khi Ngài đã thực hiện các phép lạ cũng như gặt hái thành công qua việc chiến thắng sự Dữ và sự Chết. Ngài phải không ngừng đưa các thính giả ra khỏi hình ảnh lầm lạc về một Đấng Mêsia thuần tuý trần gian đến để phục hồi cho Israel “thiên đàng đã mất”.
Maccô đã nhấn mạnh thái độ dè dặt của Chúa Giêsu trước những sự đợi chờ quá trần tục này: Ông đã lặp đi lặp lại không ngớt ‘bí mật về Đấng Mêsia”. Và không gì phải ngạc nhiên khi thấy ở đây một lần nữa ông lại đề cập đến “bí mật” này (c. 30). Đây chính là sự câm nín mà Chúa Giêsu từng truyền bảo lũ quỷ (1,25.43- 44), đám bệnh nhân được chữa lành (5,43: 7,36), và ngay cả các môn đệ nữa. Lý do thật đơn giản. Phải theo dõi tiếp trình thuật, quan sát đám môn đệ thời đó, cũng như các độc giả mà họ đại diện, ta mới có thể có được một ý niệm đúng đắn về Chúa Giêsu là loại Mêsia nào. Chỉ nhờ cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu mới có thể ban cho những kẻ theo Ngài mãi tới lúc đó, phương cách nắm bắt được chân lý toàn vẹn về mầu nhiệm của thân thế và sứ mệnh Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cùng với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, ngưỡng cửa tưởng như không thể vượt đó đã bị vượt qua. Đức Giêsu Nadaret không thể bị giản lược và hình ảnh chung chung người ta có về Ngài: một người như mọi người (x. 6,3), Ngài cũng không thể bị giản lược vào hình ảnh một lương y nổi tiếng có tài năng khiến mọi người kinh ngạc (x. 37- 11); đồng thời cũng không thể đồng hoá Ngài với khuôn mặt một vị tiên tri (x. 6,4- 6). Ngài không phải chỉ là một tiên tri mà Ngài chính là “Đấng Kitô” (từ Hy Lạp này được dùng để dịch tước hiệu “Mashia” trong tiếng Hy Bá có nghĩa là Đấng Mêsia).
Đóng vai kiểu mẫu đức tin tông đồ ở đây, đức tin của Phêrô sẽ là đức tin của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu “Kitô” sẽ được công bố là Đấng đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: Do Thái cũng như dân ngoại. Ngài giải phóng họ triệt để khỏi mọi tôi ác nặng nề để từ đây họ có thể hợp thành một “nhân loại mới” (Ep 2,13- 22).
LẦN ĐẦU TIÊN LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN (8,31-33)
Điều mà bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ không phải là một lời giảng dạy bổ sung mà là một giáo huấn đích thực thiết lập nên một bước khởi đầu mới mẻ. Trường hợp ở đây quả thực tiện lợi. Các môn đệ, đứng đầu là Phêrô, vừa mới nhìn nhận Thầy mình là Đấng Mêsia (8,29). Lẽ ra khám phá mới có được này phải cho phéphọ nghĩ ngơi chút ít.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã quyết định cách khác. Ngài bắt đầu nói ngay cho họ biết là Ngài là Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (c. 31a). Lời Chúa Giêsu dùng đã được Ngài chọn lựa một cách khôn ngoan. Kể cũng lạ, Ngài không sử dụng tước hiệu “Kitô” mà họ vừa gán cho Ngài, bởi vì tước hiệu này vẫn còn quá mơ hồ trong tâm trí họ, nhằm đến các mục đích chính trị hơn là thiêng liêng. Ngài chủ ý sử dụng tên gọi nổi tiếng “Con Người” mà ngay từ nhận cho mình (x. 2,10 v.v…). Từ ngữ này nhắc nhở đến một nhân cách dấn thân sâu xa và mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như vào ý định Chúa muốn cứu độ trần gian (Đnl 7,13- 14). Tuy nhiên nét mới mẻ ở đây là “Con người” được chỉ định mang lại chiến thắng của Vương Quốc Thiên Chúa trên sự Dữ lại phải chịu khổ nạn và chết đi. Chúng ta cần ghi nhận rằng số phận của “ Con Người” ấy sẽ không phải là một sự kiện mà người ta không biết được cứu cánh của nó. Thành ngữ vắn gọn “sẽ phải” muốn ám chỉ kín đáo sự đau khổ và sự chết của Đấng Mêsia nằm trong ý định khôn dò của Thiên Chúa là muốn cứu độ nhân loại (x. Lc 24,25- 27).
Như thế, Chúa Giêsu đặt các môn đệ trước một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của họ. Ngài nói cho họ về cái chết không thể nào tránh khỏi của Ngài, đồng thời xác định cho họ đôi điều về cái chết này. Đây là cái chết do những kẻ tội lỗi gây ra, nó mặc lấy hình thức bị các vị cầm quyền tôn giáo của dân Chúa chọn khai trừ của cộng đoàn Do Thái (c. 31b). Đặc biệt là Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu một cái chết hung bạo, nghĩa là sẽ bị người ta giết (c. 31c). Theo quan niệm đương thời về Đấng Mêsia thì tất cả điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trong tâm trí người Do Thái thời đó, Đấng Mêsia sẽ không thể nào bị đau khổ, chứ đừng nói là sẽ bị giết chết. Ngài phải là một “mẫu” người đặc biệt gần như là thần thoại, được thiên Chúa miễn trừ cho số phận hay chết vốn là thuộc tính chung cho cả loài người. Người ta chờ đợi Ngài sẽ đến qua cuộc trở lại của Êlia, vị tiên tri có khuôn mặt thần thoại là được Chúa lôi về trời mà không phải trải qua cái chết (2V 2,1-18; Mc 6,15; 8,28). Chúa Giêsu đã đưa ra lời phủ nhận tính cách thần thoại của một kiểu mẫu Mêsia lý tưởng, thần bí thoát khỏi mọi quy luật nghiệt ngã của bản tính loài người. Chắc hẳn ngài cũng có phụ hoạ thêm vào lời loan báo về các chết của Ngài một động cơ giúp các môn đệ hy vọng: đó là Ngài sẽ Phục Sinh (c. 31c). Tuy nhiên ngay lúc này, thì lời hứa ấy chỉ được các môn đệ nghe một các rất hời hợt. Dù sao thì lần đầu tiên này về một cái chết dữ dằn đang chờ đón Ngài cũng làm các môn đệ thất điên bát đảo. Maccô đã nêu bật tính chất rõ ràng không úp mở trong các lời nói của Chúa Giêsu (c. 32a).
Phần đầu của Phúc Âm đã đóng lại (1,1-8,30). Trong phần này cái chết của Chúa Giêsu xem ra chỉ thoáng hiện nơi một cuộc tạo phản có thể xẩy ra do phía các địch thủ Ngài (3,6). Còn giờ đây thì Chúa Giêsu mặc khải rõ số phận đang chờ đón Ngài. Chuyện này hẳn làm cho các môn đệ choáng váng. Người ta thấy điều đó qua sự bác bỏ thẳng thừng của người đứng đầu trong họ (c. 32b). Thủ lãnh nhóm Mười Hai, người mà mới thay mặt họ tuyên xưng đức tin vào Đấng Mêsia giờ đây đang dùng hết sức mình phản kháng lại. Ông còn dám la rầy Thầy mình: bởi vì làm sao có thể đi theo một người tự ý gieo mình vào cái chết? Có lý do để ông mất niềm tin đó chứ!
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không muốn để cho các môn đệ rơi vào ảo tưởng về sống phận mà họ mường tượng về Ngài. Quang cảnh được ghi nhận ở đây sống động đến độ làm ta ngỡ ngàng giống hệt bức tranh tả chân (c. 33a). người ta như trông thấy rõ diễn biến. Theo thói quen của các đạo sư Do Thái thời ấy, Chúa Giêsu bước đi trước các môn đệ Ngài, họ đi theo sau cách Ngài chừng vài bước. Vì thế Ngài đã phải quay quắt lại để khiển trách Phêrô và ban ông. Lời Ngài quở trách thực sự rất gay gắt (c.33b) có thể nói được rằng đây là một thứ mệnh lệnh. Lập tức vị tông đồ phải trở về vị trí của mình tức là lùi lại phía sau Thầy mình. Ông không có quyền thay thế cho Chúa Giêsu là người duy nhất biết được con đường mình phải đi. Và Chúa Giêsu đã không ngần ngại gán cho người thủ lãnh nhóm bạn hữu Ngài tên gọi “Satan”. Trong tiếng Hy Bá, Satan có nghĩa rõ ràng là “kẻ đối nghịch” nghĩa là kẻ xúi giục con người bất tuân ý Thiên Chúa. Ở đây qua bản thân Phêrô, Chúa Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ là kẻ đã nổi lên chống lại Ngài ngay khi Ngài vừa bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình (x. 1,12- 13).
Sự tình có vẻ quá bi đát. Thực ra qua việc bác bỏ mãnh liệt ý định của Chúa Giêsu, Phêrô chỉ muốn diễn tả niềm hy vọng hoàn toàn mang tính trần tục được dân Do Thái thời đó cưu mang trong lòng: đó là Đấng Mêsia phải là một kẻ chiến thắng, khổ đau và chết chóc không thể làm gì được Ngài. Và để đưa các môn đệ vào lại chính lộ, Chúa Giêsu buộc phải tiêu huỷ giấc mộng ngu dốt của họ về Ngài: tư tưởng của họ thuộc về con người chứ không thuộc về ta (c. 33c).
Có một hố sâu phân cách giữa ý định của Thiên Chúa và những tầm nhìn của loài người. Sẽ còn phải lâu lắm mới vượt qua nổi “điều kỳ chướng” về cái chết của Đấng Mêsia. Trong khi Maccô thảo ra đoạn văn này, Giáo Hội sơ khai vẫn còn luôn luôn đụng phải viên đá vấp phạm của sứ điệp Kitô giáo: “Phần chúng tôi, chúng tôi công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là điều kỳ chướng đối với dân Do Thái, là sự điên rồ với dân ngoại” (1Cr 1,23).
Người ta có thể hiểu được tại sao Maccô sẽ dành trọn vẹn phần thứ hai của Phúc Âm (8,31 - 16,20) chinh phục độc giả của ông về cái nhìn then chốt trong đức tin Kitô giáo: đó là Thiên Chúa đã muốn cho Đấng Mêsia của Ngài mặc lấy trọn vẹn thân phận loài người, kể cả việc phải chịu đau khổ và chết, trước khi ban cho Đấng Mêsia ấy, qua cứu cuộc Phục Sinh, quyền xét xử và cứu độ toàn cầu vào thời gian chung cục.
THEO CHÚA GIÊSU BẰNG CÁCH HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG CHO NGÀI (8,34-9,1)
Chúa Giêsu đang kêu gọi đám đông theo làm môn đệ Ngài (c. 34a). Có lẽ nào Maccô quên rằng Chúa Giêsu hiện đang ở trong vùng đân dân ngoại và chung quanh Ngài chỉ có các môn đệ mà thôi? (x. 8,27). Điều này không chắc. Nếu ở đây Maccô nối kết “đám đông” vào vòng đai thân hữu của Chúa Giêsu là chính vì ông nghĩ đến “giáo huấn mới mẻ” của Chúa về việc Ngài cần phải chết có liên quan đến quần chúng độc giả của ông. Tác giả Phúc Âm đã lợi dụng Lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (8,31) để đựa vào đây một bài giáo lý hợp thời nói về cách thức các Kitô hữu được kêu gọi bước theo Thầy mình (c.34b). Lời mời gọi này quả thật khá khó nghe. Và ở chỗ này Phúc Âm đã sử dụng những từ ngữ đáng gây kinh ngạc! Thập giá là thứ nhục hình quân Rôma sẽ bắt Chúa Giêsu chịu. Vào lúc này đây, Maccô không thể nào biết được Chúa sẽ bị chết kiểu đó. Vì thế, khi soạn lại lời khuyên này và quãng ba mươi lăm đến bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hẳn thành ngữ “vác thập giá để theo Ngài” mang một ý nghĩa cực kỳ sâu đậm. Giáo Hội Rôma hiện đang trải qua cơn bách hại. Việc tử đạo, hay nói chính xác hơn, con đường thập giá, đang chờ đón tất cả mọi Kitô hữu đang bị dẫn tới cùng giống y hệt số phận Đấng Mêsia. Bất cứ ai muốn thức sự theo chân Chúa Kitô thi chắc chắn đều bị đòi hỏi phải từ bỏ mình hoàn toàn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra bao hàm một nghịch lý kỳ lạ! (c. 35). Từ chối không dâng hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô- tức là cho Phúc Âm- thì đồng nghĩa với đánh mất đi chính mình. Đối với mỗi người, “ơn cứu độ” không hệ tại ở việc cứu vớt cuộc sống hiện tại của mình.
81. Chú giải và suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn của Ngài theo Tin Mừng Mác-cô.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không hành động là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui”. Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức”. Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!”.
2. Dung mạo của Đức Kitô
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy số phận của Đức Kitô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
1. Đức tin không hành động là đức tin chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh em đau khổ của chúng ta.
2. So sánh giáo huấn của thánh Giacôbê và của thánh Phaolô:
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Giacôbê có lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Galát và Rôma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô” (Gl 2:16)?. Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Kitô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèn la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những tư tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh này xuất hiện ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các Kitô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật…Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giêsu tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giêsu đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giêsu đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và bầu khí thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giêsu cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giêsu và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giêsu, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn mặt đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài:
Trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giêsu: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giêsu là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giêsu muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại Mát-thêu, thánh Phêrô còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tại Lu-ca, thánh Phêrô nói: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phêrô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giêsu: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài.
Ngay lập tức Đức Giêsu cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giêsu sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giêsu nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giêsu không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.
4. Phản ứng của thánh Phêrô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phêrô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phêrô. Trong tâm trí, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giêsu:
Đức Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phêrô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Đức Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời này vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.
82. Giải thích và suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
VÀ LỜI LOAN BÁO THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU
1.- Ngữ cảnh
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được nhiều khác biệt giữa phần này với phần trước. Có những thay đổi về từ vựng và cách hành văn như: không còn nhắc đến “bánh” nữa; không còn minh nhiên nhắc đến sự tối tăm (không hiểu) của các môn đệ nữa (dù đề tài này vẫn được đề cập đến dưới một dạng khác); Đức Giêsu nói thẳng ra với các môn đệ … Có những thay đổi trong cách trình bày dung mạo của Đức Kitô: tác giả bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu với định mệnh của Người bằng câu “Con Người phải chịu đau khổ” (8,31). Đây là định mệnh nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Số phận ấy trở thành nền tảng để Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8,34).
Về nội dung, ta thấy trước đó, Đức Giêsu đã liên tục đặt cho các môn đệ một số câu hỏi (x. 8,17-21). Các câu hỏi này cho hiểu rằng các môn đệ phải hiểu chuyện gì đó, nhưng các ông lại không hiểu. Lý do: lòng các ông còn ngu muội (8,17: dịch sát: “trái tim các ông còn chai cứng”).
Có thể nói rằng: sau khi đã chứng kiến Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) và chữa người mù (8,22-26), và đặt mình vào vị trí của những người ấy, các môn đệ hẳn phải biết là những người ấy tượng trưng cho tình trạng mù lòa điếc lác của chính các ông trước mầu nhiệm Đức Giêsu, và chỉ mình Người có thể giúp các ông đánh tan sự tăm tối ngu muội khiến các ông không hiểu biết Người. Và khi đã được mở tai, mở miệng, mở mắt, hẳn các môn đệ có thể tuyên xưng niềm tin vào Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của đời môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,27-30);
2) Lời loan báo Thương Khó lần đầu (8,31-33);
3) Giáo huấn về đời các môn đệ (8,34-35).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Xêdarê Philipphê (27): Đức Giêsu tiến về miền Iturê, nơi có thành Xêdarê Philipphê trấn ngữ. Thành này là nơi cư trú của Hêrôđê Philipphê, được gọi là “Xêdarê” để tôn vinh hoàng đế Rôma. Nó nằm tại nguồn sông Giođan trên sườn núi Khemôn. Trong khi “đi đường” tiến gần đến trung tâm quyền lực chính trị này, Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận liên can đến chân tính của Người.
- Họ bảo Thầy…, có kẻ thì bảo…, kẻ khác… (28): Những ý kiến mà các môn đệ nêu ra thì tương tự với ba ý kiến trước đây liên hệ đến Gioan Tẩy Giả (x. 6,15). Sự tương đồng giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả đã khiến một số người tin rằng Đức Giêsu là vị Tẩy Giả đã sống lại. Có những người lại nghĩ rằng Người là ngôn sứ Êlia, nay đã trở lại để hoạt động lần thứ hai. Lại có những người chỉ coi Đức Giêsu là như một ngôn sứ. Những phỏng đoán trên xuất hiện theo cùng một thứ tự vào thời gian Gioan bị chém đầu. Đấy là quan điểm của những người quan sát Đức Giêsu và những hoạt động của Người từ xa.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là nhận định của những người ở gần bên Đức Giêsu, những người đã gắn bó với Đức Giêsu như là môn đệ của Người, và những người sẽ nhận tác phẩm Mc: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
- Anh em bảo Thầy là ai? (29): Đức Giêsu đã được gọi bằng nhiều danh hiệu: “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24), “Con Thiên Chúa” (3,11), “Thầy” (4,38), “Con Thiên Chúa tối cao” (5,7), “Ngài (Chúa)” (7,28). Nhưng Người không hề tỏ ra muốn làm cho những kẻ đi theo Người xác định Người là Đấng Mêsia. Người chỉ cho thấy rằng Người hiểu mình có sứ mạng như “Con Người”, có quyền hành động trên trái đất nhân danh Thiên Chúa (x. 2,10).
Vào thuở đầu, các môn đệ gọi Đức Giêsu là “Thầy” (4,38). Với thời gian đi theo Người, các ông đã chứng kiến các tà thần bị trục xuất (1,21-27; 5,1-20), những bệnh nhân được chữa lành (1,29-31; 1,40-45…), những người chết được sống lại (5,21-24.35-43) và đông đảo những người nghèo đói được ăn no (6,30-44; 8,1-10). Lời nói và việc làm được Đức Giêsu liên kết với nhau. Người vừa là Đấng công bố vừa là Đấng hoàn tất Tin Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng các môn đệ thời Đức Giêsu cũng như thời Mc đã ý thức về những điều đó đến mức nào? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai, và như thế, họ nghĩ làm môn đệ Đức Giêsu nghĩa là gì? Lần đầu tiên họ đã nêu lên câu hỏi về chân tính Đức Giêsu khi chứng kiến trận bão bị dẹp yên (4,35-41; x. 1,27). Bây giờ dường như các môn đệ đã có một câu trả lời mà Phêrô vừa nói ra như là người phát ngôn: “Thầy là Đấng Kitô”.
- Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”: Tên “Phêrô” đã biến mất sau 5,37, nhưng từ đây tên này sẽ được nhắc đến thường xuyên. Phêrô đã nhận thức được những gì khi tuyên xưng như thế? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là, ít ra, ông coi Đức Giêsu hẳn là Đấng hoàn tất những niềm hy vọng từ lâu đời là tái thiết Dân Thiên Chúa. Bản văn Lc thêm “của Thiên Chúa”, và bản văn Mt: “Con Thiên Chúa hằng sống”.
- Đức Giêsu liền cấm ngặt (30): Hẳn là câu trả lời của Phêrô đúng, thế mà Đức Giêsu đã cấm không những ông mà tất cả những môn đệ nữa là “không được nói với ai về Người”. “Cấm ngặt”, epitimaô, đã được dùng trong các câu truyện trừ quỷ” (1,25; 3,12). Với từ ngữ này, chúng ta hiểu không phải Đức Giêsu muốn che giấu chân tính đích thực của Người, mà là muốn tránh cho người ta khỏi hiểu sai hoàn toàn Người là ai và Người đang làm gì. Các tông đồ không được phổ biến một lối nhìn sai lạc như thế.
Xuyên qua Cựu Ước, danh hiệu Mêsia (Kitô) gợi lên nơi tâm trí đám dân đen cũng như giới lãnh đạo hình ảnh một vị vua ngự trên đỉnh kim tự tháp xã hội kinh tế để mà điều khiển kim tự tháp này. Để cho triều đại được tồn tại mãi mãi, ngài dùng quân đội, thu thuế, và nâng đỡ một đền thờ có giới tư tế phục dịch. Giống như vua Đavít, Đấng Mêsia phải là vị thủ lãnh được xức dầu mang uy quyền thần thánh mà điều hành xã hội sao cho có công bình về mọi mặt. Nhưng các cơ cấu của xã hội này là cơ cấu hàng dọc, chúng đưa đến sự áp chế và bóc lột, nên chúng phi nhân.
Luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu thiết lập trong tư cách là con người mới là trật tự luân lý mới, theo chiều ngang, hoàn toàn bình đẳng, trong đó định mệnh con người được thể hiện vừa theo cách cá nhân vừa theo cách tập thể. Vậy, cần giữ lại lời tuyên xưng của Phêrô, nhưng cần phải lấp đầy lời tuyên xưng ấy bằng một nội dung mới. Vì thế, Đức Giêsu bắt đầu dạy các ông về số phận của Con Người.
- Con Người phải chịu đau khổ nhiều (31): Trong nửa đầu của quyển TM Mc, Đức Giêsu đã nối kết Con Người với tư cách chúa tể và với uy quyền (2,10.28). Nhưng bây giờ, phản ứng lại lời tuyên xưng của Phêrô, Người đưa vào một viễn tượng gắn liền với chân tính của Con Người: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều”. Người diễn tả hai đối cực trong một khái niệm. Một đàng, Người được ngự trên ngai cùng với Đấng Tạo Hoá, và như thế, cùng có quyền chủ tể với Đấng Tạo Hoá. Đàng khác, Người phải chịu đau khổ và chịu chết, bởi vì Người chia sẻ mọi phương diện của thân phận con người. Tuy nhiên, sự sống, chứ không phải sự chết, mới có tiếng nói cuối cùng. Cho dù Người có bị giết, Người sẽ lại trỗi dậy. Không gì có thể cản trở việc thể hiện nhân tính mới để loài người hoàn toàn sống theo luật Thiên Chúa. “Phải; cần thiết”, dei, diễn tả một điều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như Phêrô (và các anh em) đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mêsia một cách nghịch lý: là vị đại diện của Thiên Chúa, Người có quyền tối cao. Nhưng tương lai gần lại đưa Người đến đau khổ và cái chết, chứ không phải là sự huy hoàng và vinh quang của một vị vua.
- bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ: Điều đáng lưu ý là những đau khổ và cái chết của Người lại bị gây ra bởi giới ưu tuyển đang nắm giữ quyền bính và đặc quyền trên đỉnh cao kim tự tháp Do Thái: đó là các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ loại trừ Người và giao nộp Người cho nhà cầm quyền Rôma xử tử. Họ làm như thế, bởi vì luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đang thiết lập có nghĩa là đã đến lúc chấm dứt cái trật tự mà họ cho là phát xuất từ Thiên Chúa và họ đang ra sức bảo vệ bằng mọi phương thế có thể được.
- Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người (32): Phêrô (và các anh em) không thể chấp nhận được rằng trong khái niệm Đấng Mêsia họ vẫn hiểu, lại có sự đau khổ và sự chết. Ông liền kéo Đức Giêsu ra một bên và trách Người (epitimaô).
- Satan! Lui lại đằng sau Thầy (33): Đức Giêsu đã mắng ngược lại: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ý kiến của Phêrô không diễn tả nếp sống môn đệ mà ông được mời gọi theo. Tư cách Mêsia mà ông tuyên xưng và cách hiểu đời môn đệ tương ứng với Đấng Mêsia ấy không thể hài hoà với cách Đức Giêsu hiểu thánh ý Thiên Chúa. Ý kiến của Phêrô chỉ dựa trên những quan điểm của loài người, nên đã tương đương với những nỗ lực của Satan nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi đường sứ mạng (so với Mt 4,10). Trong Mc 8,31-33, tác giả đề cập đến những hậu quả của tư cách Mêsia đối với chính Đức Giêsu. Trong 8,34-38; 9,1, ngài sẽ đề cập đến hậu quả đối với các môn đệ của Đức Giêsu.
Lời tuyên xưng duy nhất về Đấng Mêsia mà Đức Giêsu chấp nhận được, là lời tuyên xưng đưa các môn đệ đến chỗ hiểu về tư cách môn đệ phù hợp với đường lối của Thiên Chúa về mầu nhiệm Đức Kitô.
- Đức Giêsu gọi đám đông cùng vói các môn đệ (34): Đức Giêsu tiếp tục giải thích chân lý trên đây thật rõ ràng cho các môn đệ, nhưng, bởi vì điều này hết sức quan trọng, Người gọi cả đám đông lại mà nghe.
- Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình …: Nẻo đường tuân thủ thánh ý Thiên Chúa bắt đầu với cái chết, như chính Đức Giêsu đã cho thấy. Aparneomai, “chối mình”, nghĩa là không màng tới quyền lợi hoặc sở thích của mình. Vì Phêrô không chịu “chối mình” (aparneomai), sau này ông đã chối (arneomai) Thầy (14,68).
- ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được (35): Lời này cho thấy Đức Giêsu tự đồng hoá với Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu, Con Người, sẽ hướng dẫn người ta đi vào một cuộc tái lập trật tự cho thế giới chúng ta, trong đó giá trị của con người không nằm ở “sở hữu” (cái “có”), nhưng ở “hiện hữu” (cái “là”). Người môn đệ Đức Giêsu sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu ở bên kia kinh nghiệm về cái chết được diễn tả bằng công thức “vác thập giá bước theo Đức Giêsu”. Đây là sự sống vĩnh cửu bởi vì đạt được xuyên qua cuộc tái tạo bằng hơi thở ban sự sống của Thiên Chúa và bằng việc tháp nhập vào trong đời sống không bao giờ chấm dứt của Con Người (nhân loại mới).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (27-30)
Tác giả TM II đã nêu bật tầm quan trọng của câu hỏi của Đức Giêsu khi đặt câu hỏi ấy ở trung tâm của tác phẩm của ngài. Những gì ngài tường thuật trước đó (trong phân đoạn 1,1–8,26) nhắm đưa tới câu hỏi này và cung cấp các nền tảng để trả lời. Các môn đệ đã đồng hành với Đức Giêsu trong mọi chuyến đi và đã chứng kiến tất cả hoạt động của Người, phải có thể trả lời câu hỏi Người đặt ra.
Đức Giêsu không nhấn mạnh tổng quát về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ nhưng, với một độ tăng dần, Người nêu ra cho họ hai câu hỏi: ý kiến của dân chúng và của chính các ông về bản thân Người. Các môn đệ, qua Phêrô, đã tỏ ra hiểu hơn về bản thân Người: họ thấy Người là Đấng Mêsia, Đấng Xức dầu của Đức Chúa, Vị Sứ giả tối hậu và vĩnh viễn của Thiên Chúa, sẽ thực hiện ơn cứu độ trọn vẹn cho loài người bằng quyền lực và nhân danh Thiên Chúa. Câu đáp của Phêrô sẽ được triển khai bởi mạc khải của Thiên Chúa đến sau đó: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (9,7). Chính vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà các môn đệ phải nghe lời Người và để cho Người hướng dẫn.
* Lời loan báo Thương Khó lần đầu (31-33)
Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Đức Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra những gì đang chờ đợi Người ở cuối “con đường”. Người sẽ còn ngỏ lời với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là một lộ trình điên rồ, phi lý. Nhưng Đức Giêsu cũng đã đẩy ông đi với một sự quyết liệt không kém. Lộ trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa.
* Giáo huấn về đời các môn đệ (34-35)
Kế đó, vì biết rằng giáo huấn Người sắp ban có giá trị cho mọi người, Đức Giêsu đã nói với toàn dân và các môn đệ: Ai muốn làm môn đệ Người, thì phải mô phỏng đời mình theo lối sống của Người. “Vác thập giá mình mà theo” là công thức nói lên một công việc sẽ kéo dài, công việc đưa lại nhiều tủi nhục đau đớn, như chuyến đi vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, tiến bước giữa hai hàng người say sưa chế nhạo, căm hờn chửi bới,... Đấy chính là chấp nhận thua thiệt vì trung thành sống theo Tin Mừng, cũng chính là trung thành bước theo Đức Kitô.
+ Kết luận
Cuộc sống của người Kitô hữu tham dự vào nghịch lý của bản thân Đức Kitô. Đức Kitô đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai nhờ đi qua Khổ Nạn và cái chết, theo đúng chương trình của Thiên Chúa. Bất cứ ai tự hào mang danh “Kitô hữu”, đều phải sống nghịch lý Kitô giáo: muốn cứu mạng sống mình, là mất mạng; chấp nhận mất mạng vì Đức Kitô, là cứu được mạng. Các môn đệ phải thích ứng với nẻo đường của Đức Giêsu, mặc dù trái tim chai đá sẽ toan tính đủ cách để tránh xa con đường này, để đẩy nó đi.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không chỉ muốn có những môn đệ chấp nhận phần nào giáo huấn của Người với một chút thiện cảm hoặc một chút quan tâm. Họ phải biết rõ Người là ai và tương quan của Người với Thiên Chúa là thế nào, để dám bỏ hết mọi sự mà ký thác trọn vẹn cuộc đời vào tay Người. Phản ứng của Phêrô sau khi Đức Giêsu loàn báo Thương Khó (8,32b) cũng như chuyện các ông tranh cãi về sự cao cả và danh dự (9,33-34), và lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dêbêđê (10,37) cho hiểu rằng các môn đệ xác tín rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng lại gán cho Người những quan niệm, những ước muốn và hy vọng của riêng họ, tức họ chưa hoàn toàn biết rõ Người trong cái nhìn của Thiên Chúa. Muốn biết rõ Người, phải “bước theo” Người (x. 1,17).
2. Phản ứng theo bản năng con người chúng ta rất có thể khiến ta ở trong thế chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những lời Đức Giêsu trách mắng Phêrô cho hiểu là chúng ta không được để cho ý muốn của bản năng phàm trần hướng dẫn, nhưng phải bước theo Đức Giêsu và đón nhận những lời dạy dỗ của Người, bởi vì chỉ Người mới hiểu rõ mục tiêu và biết con đường đưa tới đó. Ai muốn cung cấp cho Người những chỉ dẫn về những gì Người phải làm hoặc phải bỏ, thì đã tuyên xưng Đức Kitô với những lời vô nghĩa.
3. Như vậy, người nào nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô thì cũng bị bó buộc bước theo Người vô điều kiện, tức là cho dù việc tiến bước này hàm chứa việc vác thập giá của mình và bước đi như Người, bên cạnh Người, được Người nâng đỡ, để tiến về với Chúa Cha. Như thế là phải chấp nhận rằng để đưa lại một ý nghĩa mới mẻ đích thực và mang tính Kitô giáo cho đời sống và niềm tin của chúng ta, chúng ta phải đón nhận cả đau khổ.
4. Thật ra con đường thập giá, với những hy sinh, những đau khổ, không phải là thời gian Thiên Chúa thử thách chúng ta nhằm thỏa mãn “ý chí hùng cường” của Người, khiến chúng ta phải sự hãi và khuất phục Người như những tên nô lệ khiếp nhược. Đấy chính là lộ trình giúp chúng ta loại bỏ dần dần “con người cũ”, để nhận lấy “con người mới”. Kho tàng phong phú là sự sống muôn đời trong hạnh phúc với Thiên Chúa khiến chúng ta thấy rằng chấp nhận đi vào lộ trình này cũng bõ công!
83. Chú giải của Noel Quesson.
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị ngôn sứ thuộc Nagiarét:
“Đây là gì?” (Mc 1,27).
“Chúng tôi chưa bao giờ thấy như vậy" (Mc 2,12).
“Ông ấy mất trí rồi " (Mc 21).
“Thực sự ông này là ai " (Mc 4,41).
“Tất cả mọi người đều kinh ngạc" (Mc 5,20).
“Bởi đâu ông ta được như thế” (Mc 6,2).
“Đó là ma" (Mc 6,49).
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả" (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không. Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì? Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay, chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay, đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố, trong công viên, trong những ngày nghỉ "Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về ông ấy".
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị ‘người ta hạch hỏi về nội dung đức tin của mình không?’ Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao? Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô”
Nói lên quan điểm của người khác chưa đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời "Tuyên xưng đức tin" nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.
Tước vị "Christos" "Meshiah" trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến "hoàn tất lịch sử". Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng ra phải dịch là: ‘Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả’. "Bí mật về Đấng Mêsia" là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45; 3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô sẽ nói rằng: "Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng” (Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại
Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: "Một cách quả quyết, Đức Giêsu đã nói Lời". Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát biểu những lời đó "một cách quả quyết" không chút sợ hãi, đầy can đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự "hiện diện" của Ngôi Lời Thiên Chúa. "Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1) "Người nói Lời cách quả quyết". Con Người phải bị giết và sống lại; chữ "phải" này làm chúng ta chìm đắm trong "ý định đời đời và không hiểu được" của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh "Tin kính" đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!”
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc kinh "Tin kính" thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó "cho chúng ta", cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: "Anh em nói Thầy là ai?" Người hỏi: "Anh em nói anh em là người thế nào?". Anh em cho cuộc sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
84. Tư tưởng
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Tư tưởng dẫn đến hành động. Hành động tốt hướng dẫn bởi tư tưởng tốt. Hành động xấu chỉ đạo bởi tư tưởng xấu. Thực thể này không thể chối cãi. Tư tưởng gắn liền với sự sống con người. Bao lâu còn sống, bấy lâu tư tưởng còn ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân và tha nhân. Dù khác tôn giáo hay vô thần, tư tưởng vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta dựa vào xu hướng xã hội, khuynh hướng chính trị, đưa ra các tư tưởng, quan niệm sống khác nhau. Vậy đâu là quan niệm sống đáng tin cậy.
Dựa vào niềm tin
Niềm tin Kitô giáo được coi là chính đáng, đáng tin hơn cả vì niềm tin Kitô giáo đặt căn bản trên tình yêu Chúa. Một tình yêu cao quí; một tình yêu hiến thân chết trên thập giá cứu chuộc người Chúa yêu mà không có điều kiện kèm theo. Một tình yêu đề cao.
Sự sống con người.
Đề cao công lí.
Chống lại nghèo đói, bất công.
Cỗ võ tinh thần bác ái, vị tha.
Chính những điều căn bản trên hướng dẫn tư tưởng con người, là nền móng xây dựng một xã hội yêu thương, công bằng, thứ tha và tôn trọng mạng sống con người đời này và đời sau. Xu hướng xã hội, chính trị cũng kêu gọi hy sinh, hiến thân cho tự do, cho công lí do giới lãnh đạo đặt ra. Lí thuyết tình yêu họ cổ võ giới hạn cho cuộc sống trần thế. Tình yêu Chúa dậy hữu ích nơi trần thế và còn kéo dài bất tận, đến hạnh phúc trường cửu đời sau.
Lời Chúa là đèn soi
Tình yêu trong sáng là quà tặng Chúa đặt vào lòng người, vì thế Lời Chúa là đèn soi giúp Kitô hữu thực thi công bằng, bác ái, yêu thương. Ngoài Lời Ngài ra không còn lời nào tốt đẹp, cao trọng, chính đáng hơn.
Không nhận biết Đức Kitô không thể có một tình yêu chân thật, trong sáng. Ngoài Đức Kitô ra, lí thuyết tình yêu do con người suy đoán ra thường bất toàn, giới hạn và đôi khi phản lại tình người.
Giả mù
Một số lợi dụng tình yêu với tham vọng, mong đạt mục đích riêng. Thực thi đức ái trong hoàn cảnh này khó tránh khỏi lươn lẹo.
Dựa vào suy đoán để giải nghĩa tình yêu sẽ rơi vào tình trạng khi thì suy không thấu, lúc thì đoán sai. Tình yêu vì thế muôn mặt. Kẻ tin theo rơi vào tình trạng nhìn không thấy, nghe không hiểu, suy không tới. Đoán mù mờ; xem vu vơ; suy không thấu sao gọi là công lí.
Phán đoán theo suy luận loài người khó tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Đức Kitô không ngần ngại nói cho môn đệ Phêrô rõ.
Satan, lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là của Thiên Chúa mà là của loài người. V.33
Suy tưởng của loài người ít nhiều ngầm chứa sai lầm, dù là suy tưởng với lòng ngay, chân thành. Phêrô không muốn Thầy phải đau khổ, bị các kì mục, thượng tế cùng kinh sư hành hạ trước khi giết chết. Phêrô lên tiếng can ngăn. Đức Kitô vạch ra cho Phêrô thấy con người rất dễ lầm lẫn, bị ma quỉ lợi dụng khi chúng dùng tư tưởng, hình ảnh xem ra có vẻ tốt lành để dẫn vào mê hồn trận.
Lòng chai, dạ đá
Phêrô không phải là người duy nhất sai lầm. Trước đó đã có nhiều người trong đám đông sai lầm khi nhận định về Đức Kitô. Có kẻ tin Đức Kitô là Gioan Tẩy Giả tái sinh; kẻ thì bảo là tiên tri Êlia; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.
Nghe sai, nhìn lầm, hiểu trật không do ngũ quan, thiếu khả năng lắng nghe, nhận biết, mà do tấm lòng, lòng chai, dạ đá. Không lắng nghe với lòng chân thành, hiếu học, tìm hiểu Lời Chúa. Mục đích nghe rình rập, tìm cách bắt bẻ, bắt lỗi. Phúc Âm gọi những tấm lòng thiếu chân thành là lòng dạ chai đá. Một khi đã ra chai đá thì việc đón nhận lời công chính là một trở ngại lớn. Để đón nhận lời công chính cần có một lương tâm ngay thẳng. Một tâm hồn giầu tình thương, giầu bác ái. Chai đá tâm hồn là tình trạng dễ dãi với mình, khó khăn với người.
Sai lầm trong nhận định gây nên bởi hạn hẹp của trí tuệ, ảnh hưởng bởi giới hạn của con người. Đây chính là trường hợp của Phêrô. Chữa bệnh này cần chân thành, và lòng khiêm nhường.
Thành quả
Dùng ngôn ngữ của thánh Giacôbê tông đồ để nhận biết cụ thể tình yêu nào là tình yêu chân chính. Theo thánh nhân tình yêu chân chính thể hiện qua hy sinh không vụ lợi, không tìm vinh danh cho mình, không mong đền ơn, đáp trả. Tất cả chỉ là phục vụ không màng lợi danh, ngay cả phần thưởng, khuyến khích cũng chỉ là tạm bợ. Theo thánh Giacôbê thì tình yêu chết nếu tình yêu đó không có hành động tốt lành kèm theo.
Tình yêu phải diễn ra qua hành động, nhất là trong các hành động bác ái đi đôi với cầu nguyện. Thánh Phaolô cũng xác định một niềm tin
Nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển đời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không… Nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt mà không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi 1cor 13,2-3
Tình yêu chân chính cần thể hiện qua bác ái, yêu thương, không vụ lợi. Không tìm lợi ích riêng cá nhân nhưng mưu cầu hạnh phúc chung cho toàn thể nhân loại.
85. Công luận
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Các môn đệ đi theo Đức Kitô một thời gian dài. Các ông đã nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô. Những người này bao gồm kẻ tin theo Người và dân ngoại. Trên đường viếng thăm dân ngoại Ngài chữa lành một người tật nguyền vừa câm vừa điếc. Đức Kitô lên tiếng dò hỏi các môn đệ các ông nghe thấy người ta công luận gì về Ngài.
Chúng ta thường quan tâm nhiều về người khác nghĩ về mình, về thành quả tổ chức công việc và về sự xuất hiện, tư cách cá nhân nơi công chúng. Những nhận xét, bình phẩm, khen chê này quan trọng vì chúng ảnh hưởng đến con người, việc làm và lối xử thế. Chúng tạo cho chúng ta niềm tự tin, tự hào, hãnh diện và can đảm hơn khi xuất hiện trước công chúng. Trái lại, Đức Kitô hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nhận xét, phán đoán, phê bình bên ngoài nơi đại chúng. Ngài luôn tránh các cơ hội người ta muốn tôn vinh Ngài làm vua. Những lần như thế Ngài luôn tìm cách tránh đám đông, đi lên nơi thanh vắng, một mình để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Đức Kitô không màng về tán tụng đại đa số dành cho. Điều Ngài quan tâm chính không phải là những ca tụng, hoan hô nơi đai chúng. Điều Ngài quan tâm chính là sứ mạng Ngài được Chúa Cha sai xuống trần để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta thấy rõ trong câu hỏi Ngài hỏi các môn đệ. Ngài không hỏi người ta định giá Con Người ra sao, hay họ nghĩ gì về lối sống, cách giảng dậy hay mức độ ảnh hưởng của phép lạ. Tất cả đều không phải. Ngài quan tâm đến họ coi Ngài lài ai. Điều Ngài quan tâm không phải là cách hành xử, lối sống, cách giảng dậy mà chính là đối với họ Ngài là ai. Đây mới chính là mấu chốt của điều Ngài tìm hiểu. Điều này quan trọng bởi vì người nhận biết Đức Kitô là ai không phải là do khôn ngoan cá nhân, hiểu biết của loài người mà là mặc khải của Thánh Thần Chúa. Chỉ những ai Thánh Thần Chúa mặc khải mới biết được Ngài là ai. Thiếu điều mặc khải này người ta đểu biết thiếu sót về Ngài. Chính vì thế mà khi Phêrô đại diện các tông đồ khác đáp:
Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Đức Kitô đã vui mừng ca tụng ông.
Các tông đồ cho Đức Kitô biết ý kiến đám đông. Hầu như mọi người đều coi Ngài là một đại tiên tri. Đây không phải là điều Ngài muốn tìm hiểu. Ngài không muốn tìm hiểu sự khôn ngoan của loài người. Ngài đi tìm kiếm dấu vết, dấu chỉ của Thánh Thần Chúa hoạt động trong tâm hồn con người. Người ta không nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế đang sống giữa họ. Điều người ta thất bại, không nhận ra vì thiếu sự cộng tác hay mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa.
Các tông đồ có thể vui mừng vì thấy nơi đâu người ta cũng ca tụng, đón chào Thầy. Đức Kitô thì không tìm thấy niềm vui nơi những ca tụng, tán dương. Điều Ngài quan tâm chính là sứ mạng cứu độ muôn dân lúc nào cũng đóng vai trò chủ động trong việc Ngài làm, lời Ngài rao giảng. Đây mới chính là điều Ngài quan tâm. Ngài đi tìm dấu vết Thánh Thần để biết khi nào, ngày nào Giờ Con Người sẽ làm vinh danh Chúa Cha. Đó là điều Ngài quan tâm. Chính vì thế mà nhiều lần, mỗi khi có dịp thanh vắng, không có đông, chỉ riêng mấy thầy trò, Đức Kitô tâm sự cùng các tông đồ về cuộc tử nạn Ngài sẽ thực hiện ban ơn cứu độ cho toàn dân.
86. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
LỜI TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ VÀ
LẦN LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ngày nay có nhiều kẻ nhắc đến Chúa Giêsu, ca tụng con người và sự nghiệp giải phóng của người; nhưng cũng lắm kẻ không biết đúng Người là ai, nên hoặc sinh nghi ngờ đố ky, hoặc phớt lờ không muốn nghe nói đến. Còn đối với ta. Chúa Giêsu là ai? Một bóng ma ám ảnh hàng thế kỷ? Một quan toà phải đối chất vào phút chót? Một kỷ niệm đáng nhớ? Một bảo đảm cho thành công? Một chướng ngại trong sơ yếu lý lịch? Câu trả lời đúng, chính là xác tín Người là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống của ta và làm cho cuộc sống cùng thái độ sống hằng ngày của ta phù hợp với Tin Mừng và Giáo Hội của Người.
2. Vì tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, cũng không chỉ là noi gương Người để sống bác ái huynh đệ. Tin là tuyên xưng sự cứu rỗi của nhân loại là hoàn toàn ở nơi Chúa Giêsu, rằng chỉ mình Người mới có thể mặc khải trọn vẹn và đã mang đến đầy đủ cho ta ơn cứu rỗi bằng cuộc sống và cái chết-phục sinh của Người.
3. Để đi đến cùng đích đời mình và hoàn thành sứ mệnh, Chúa Kitô phải từ bỏ hết ý muốn riêng tư (8,33), thành quả công việc, sự ủng hộ và dư luận tốt của quần chúng (cc 28-29) cùng ngay cả mạng sống bản thân (c.31). Người phải từ bỏ tất cả để được Đấng là Tất Cả. Đấy là con đường tất yếu cho những ai muốn sự sống thật, hạnh phúc thật. Và Chúa Giêsu cũng dạy cho các kẻ muốn đi theo con đường này (cc 34-35). Bởi vì mọi cái ngoài Thiên Chúa chỉ mang lại những hạnh phúc thoáng qua. Thiên Chúa muốn chúng như là những phương tiện, những bậc thang để dẫn đến Ngài. Từ bỏ những phương tiện hấp dẫn này (nghĩa là coi chúng chỉ như phương tiện) luôn luôn gây đau đớn cho ta. Vác thập giá theo Chúa Kitô là như thế. Nhưng có vậy mới đạt đích như Người.
87. Chú giải của William Barclay.
KHÁM PHÁ QUAN TRỌNG (8,27-30)
Xêdarê Philipphê hoàn toàn nằm ngoài ranh giới xứ Galilê, không thuộc lãnh thổ của Hêrôđê, nhưng là đất thuộc về Philipphê. Đây là một thành phố có một lịch sử ly kỳ. Từ thời xưa, nó được gọi là Balinas, vì nó từng là một trung tâm quan trọng cho việc thờ thần Baan. Ngày nay, nó hãy còn được gọi là banias, vốn là hình thức của chữ Panias. Sở dĩ nó có tên Panias bởi trên một sườn đồi tại đấy có một hang đá mà người ta bảo chỗ sinh ra của Pan, là Thượng Đế, là thần tạo dựng cõi thiên nhiên của dân Hy lạp. Hơn nữa, từ một hốc đá bên sườn đồi ấy lại xuất phát một dòng suối mà người ta cho rằng đó là nguồn phát sinh sông Giođan. Cao hơn trên sườn đồi, sừng sững một Đền Thờ sáng chói bằng đá trắng. Philipphê đã xây dựng Đền Thờ thần tính của Xêda, hoàng đế Roma, người đang trị vì thế giới thời ấy, người đuợc xem như một vị thần. Điều lạ lùng chính tại đây chứ không phải ở một nơi nào khác, Phêrô lại thấy một người thợ mộc không nhà, dân xứ Galilê, là con Thiên Chúa. Bầu không khí tôn giáo cổ xưa vốn bao trùm xứ Palestine, những kỷ niệm về Baan được nhìn thấy khắp nơi. Các thần của thế giới cổ Hy Lạp cũng ngự trị tại đó, người ta vẫn còn nghe tiếng sáo của thần Pan và còn thoáng thấy các nữ thần sống trong các khu rừng. Sông Giođan chắc gợi cho người ta nhớ lại từng giai đoạn trong lịch sử dân Israel và việc chinh phục xứ ấy. Và dưới ánh sáng của mặt trời từ Phương Đông, Đền Thờ bằng đá t rắng đang phản chiếu như nhắc nhở mọi người rằng Xêda là một vị thần. Ở đây, hơn bất cứ nơi nào khác, trong bối cảnh có đủ thứ tôn giáo và suốt dòng lịch sử, Phêrô lại khám phá vị giáo sư lưu động từ Nadarét, và đang tiến về hướng thập giá, là Con Thiên Chúa. Qua các sách Phúc Âm, thật không thể tìm được một câu chuyện nào khác bày tỏ sức mạnh cao cả nhân cách của Chúa Giêsu như trong trường hợp này.
Biến cố này xảy đến ngay ở giữa sách Phúc Âm Maccô và như đã có ý sắp xếp vậy, vì chuyện đã xảy ra đúng vào khoảnh khắc tuyệt đỉnh của Phúc Âm. Ít ra theo một phương diện, khoảnh khắc này là một băn khoăn của Chúa Giêsu, cho dù các môn đệ Ngài có nghĩ gì. Chúa Giêsu biết chắc chắn ở phía trước, sừng sững một thập giá chẳng thể tránh né, mọi sự không còn kéo dài bao lâu nữa. Thế lực chống đối đang tập trung lực lượng để tấn công. Vấn đề Chúa Giêsu phải đối đầu là: đời sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng gì chưa? Ngài có thực hiện được gì? Hay nói cách khác, đã có người nào khám phá được Ngài thật sự là ai chưa? Nếu Ngài đã sống, đã giảng dạy, đã đi đây đó giữa loài người nhưng chẳng một ai thoáng thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, thì tất cả công lao của Ngài đã bỏ ra chẳng đi đến đâu cả. Phương pháp duy nhất Ngài có thể để lại một thông điệp cho loài người, đó là viết nó vào lòng một số người, vì thế, trong thời gian này, Chúa Giêsu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm. Ngài hỏi các môn đệ thiên hạ đang nói gì về Ngài, để Ngài nghe từ chính họ tiếng đồn và dư luận quần chúng. Tiếp theo là một khoảnh im lặng nghẹt thở. Ngài đặt một câu hỏi thật nhiều ý nghĩa: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”. Thình lình Phêrô nhận ra được điều ông vẫn biết từ nơi sâu thẳm của lòng mình. Đây là Đấng Mêsia, là Đức Kitô, Đấng được xức dầu, là Con Thiên Chúa. Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu biết Ngài không thất bại.
Nhưng giờ đây, chúng ta đến một vấn đề đã được nêu lên và đã giải đáp nửa phần trước đây, cần được giải đáp cách chi tiết, nếu không cả câu chuyện Phúc Âm sẽ không được thấu hiểu đầy đủ. Ngay sau khi Phêrô khám phá điều đó, Chúa Giêsu bảo ông không được nói điều này với ai. Tại sao? Trước nhất và trên hết, Chúa Giêsu phải dạy Phêrô và những người khác về sứ vụ Mêsia thực sự có nghĩa gì. Vậy, muốn hiểu rõ nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đang nắm trong tay, muốn hiểu được ý nghĩa đích thực sự cần yếu đó, chúng ta cần xem lại các ý niệm liên hệ đến Đấng Mêsia vào thời Chúa Giêsu thật sự là gì.
Các ý niệm về Đấng Mêsia của dân Do Thái.
Suốt quá trình tồn tại, người Do Thái chẳng khi nào quên họ là tuyển dân của Chúa theo một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Vì lý do ấy, họ trông mong được một địa vị đặc biệt trên thế giới. Vào thời xa xưa, họ trông đợi chiếm được một địa vị đó bằng điều mà chúng ta có thể gọi là các phương tiện tự nhiên. Họ luôn luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavít, và họ mơ ước một ngày kia họ sẽ có một vua khác thuộc dòng dõi Đavít, một vua sẽ làm cho họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực (Is 9,7; Gr 22,4; 23,5; 30,9). Nhưng thời gian trôi qua, sự vĩ đại mà họ mơ ước đó rõ ràng một cách đáng thương hại là sẽ chẳng bao giờ có thể thực hiện được bằng các phương tiện tự nhiên. Mười chi phái bị đày sang ASyri và đã vĩnh viễn thất lạc, người Babylon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do Thái đem về nước làm tù binh. Rồi đến người Ba Tư trở thành chủ nhân ông của họ, tiếp theo là người Hy Lạp, sau đó là người Roma. Thế là đã chẳng chinh phục, cai trị được ai, mà qua nhiều thế kỷ, dân Do Thái cũng chẳng biết đến tự do là gì nữa. Cho nên có một dòng tư tưởng khác nẩy sinh. Ý niệm về một nhà vua vĩ đại thuộc dòng Đavít vẫn chưa bao giờ tan biến hẳn, luôn luôn ở trong tư tưởng của họ dưới một hình thức nào đó, càng ngày họ càng mơ ước về một ngày khi Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, sẽ thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên chẳng bao giờ thành tựu được. Họ trông mong quyền năng của Chúa sẽ làm cho họ những gì mà khả năng của con người phải bó tay.
Trong giai đoạn giữa Cựu và Tân Ước, đã có hàng loạt các sách về những giấc mơ, những dự báo về các thời đại mới đó và sự can thiệp của Thiên Chúa. Các sách ấy được xếp vào một loại được gọi là các sách Khải Huyền. Từ này có nghĩa là vén màn. Các sách này là phương tiện nhằm vén lên những bức màn đang che giấu tương lai. Chúng ta phải quay sang các sách ấy để tìm hiểu xem dân Do Thái thời Chúa Giêsu đã tin gì về Đấng Mêsia, về công tác của Ngài và về thời đại mới. Chúng ta phải đặt giấc mơ của Chúa Giêsu trong bối cảnh các giấc mơ của họ.
Trong các sách ấy, đã xuất hiện một số ý niệm căn bản. Ở đây chúng ta theo cách xếp loại các ý niệm ấy của Schurer, tác giả của “Lịch Sử Dân Do Thái Thời Chúa Giêsu”.
1/ Trước thời Đấng Mêsia đến, sẽ có một giai đoạn đại nạn. Đó là cơn quặn thắt Mêsia. Đó sẽ là cơn chuyển bụng của kỷ nguyên mới. Tất cả những gì khủng khiếp có thể quan niệm được sẽ bùng nổ trên đất, mọi tiêu chuẩn về vinh dự, về luân lý đạo đức đều bị đánh đổ, thế gian này sẽ trở thành một cảnh hỗn mang cả về phương diện thể chất luôn cả tinh thần.
“Và vinh hiển sẽ biến thành nhục
Và sức mạnh sẽ bị hạ bệ, bị khinh bỏ
Và sự chân thật bị tận diệt
Và đẹp đẽ trở thành xấu xí
Và tham lam sẽ dấy lên trong lòng
những kẻ chẳng hề nghĩ mình ra gì.
Và đam mê sẽ bắt lấy kẻ vốn an phận
Và nhiều người sẽ bị xách động để nổi giận,
gây tàn hại người khác.
Và thiên hạ sẽ dấy binh để gây đổ máu
Và cuối cùng, họ sẽ chết chung với nhau” (II Barúc 27)
Sẽ có: “nhiều cơn động đất, nhiều dân tộc náo loạn, nhiều quốc gia mưu đồ, nhiều lãnh tụ bối rối, nhiều vua chúa lo âu” (Xh 9,3).
“Sẽ có nhiều tiếng nói khủng khiếp từ trời vang xuống đất. Những tia chớp vừa to lớn, vừa sáng chói lóe lên giữa loài người và địa cầu, là mẹ của vũ trụ sẽ chuyển động, trong các ngày đó, bởi tay Đấng Vĩnh Cửu. Cả dưới biển, thú vật trên đất, vô số loài vật hay linh hồn người ta cùng biển cả sẽ run rẩy, kinh hoàng trước Đấng Vĩnh Cửu. Và những đỉnh núi, các đồi lớn sẽ bị xé ra và mọi người sẽ nhìn thấy các vực sâu, các thung lũng, trên các núi cao sẽ đầy dẫy xác người, những khối đá sẽ tuôn tràn máu và mọi thác sẽ đổ máu xuống làm tràn ngập các đồng bằng… Và Chúa sẽ phán xét mọi người bằng chiến tranh, bằng gươm, sẽ có diêm sinh từ trời xuống, phải, sẽ có đá, có mưa, có băng giá liên tục và trầm trọng. Sự chết sẽ giăng trên loài thú bốn chân… Phải, chính đất sẽ uống máu người chết, thú rừng sẽ ăn thịt họ” (Các sấm ký của Sybille 3,363).
Kinh Mishnah kể ra các dấu hiệu cho biết lúc Đấng Mêsia gần đến.
“Sự khoe khoang tăng thêm, tham vọng nảy sinh, cây nho ra trái và rượu nho được ưa chuộng. Các chính quyền biến thành tà giáo. Không còn có sự dạy dỗ nữa, các hội đường bị dành cho việc dâm đãng. Galilê bị tàn phá. Gabian bị hoang vu. Dân chúng của một khu vực đi từ thành phố này sang thành phố khác nhưng chẳng được ai thương xót. Sự khôn ngoan của người học thức bị thù ghét, kẻ tin kính bị khinh dể, chân lý vắng bóng. Con nít mắng chửi người già cả, người già phải chịu cho con trẻ xét xử. Con trai khinh cha, con gái chống đối mẹ, dâu nghịch cùng mẹ chồng. Kẻ thù của người ta là người nhà mình”.
Thời kỳ trước khi Đấng Mêsia đến là thời kỳ mà thế gian bị xé ra từng mảnh và mọi dây ràng buộc đều bị nới lỏng. Trật tự vật thể và tinh thần đều sụp đổ.
2/ Giữa cảnh hỗn mang đó. Êlia đến với tư cách sứ giả tiền trạm, báo trước việc Đấng Mêsia giáng lâm. Ông có nhiệm vụ hàn gắn các vết thương và lập lại trật tự cho cảnh hỗn mang để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Đặc biệt là ông phải dàn xếp những bất hòa, tranh chấp. Thật ra, luật truyền khẩu của Do Thái giáo có quy định rằng tất cả tiền bạc, tài sản đạng bị tranh chấp về chủ quyền hoặc bất cứ vật gì người ta không biết sở hữu chủ thì phải chờ đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Khi Êlia đến, thì Đấng Mêsia không còn bao xa nữa.
3/ Rồi Đấng Mêsia sẽ đến. Từ Messiah và từ Christ vốn đồng nghĩa, chỉ về Đấng được xức dầu (Messiah là chữ Do Thái, còn Christ là chữ Hy Lạp). Trước khi lên làm vua, nhà vua phải được xức dầu, Đấng Mêsia là nhà vua được Thiên Chúa xức dầu. Điều quan trọng cần nhớ là Christ không phải là tên mà là tước vị. Lắm lúc người ta nghĩ rằng Đấng Mêsia là nhà vua thuộc dòng dõi vua Đavít, nhưng thường hơn, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần nhân, một siêu nhân, xuất hiện trong lịch sử để tái tạo thế giới và cuối cùng sẽ báo thù cho dân của Chúa.
4/ Các dân, các nước sẽ liên minh với nhau để chống nhà vô địch của Thiên Chúa.
“Các vua của các dân tộc sẽ xông vào đất này để tự thanh toán lấy nhau. Khi đã đến xứ này, họ sẽ tìm cách cướp phá Đền Thờ của Thiên Chúa quyền năng và những nhà quyền quý. Các nhà vua đáng nguyền rủa ấy cùng với đoàn dân vô đạo sẽ bao vậy thành phố và đặt ngai mình tại đó. Và rồi, bằng một tiếng phán lớn. Thiên Chúa sẽ nói với người vô kỷ luật đầu óc trống rỗng đó, và phán xét sẽ giáng trên chúng từ Thiên Chúa toàn năng, khiến tất cả đều chết dưới tay Đấng Vĩnh Cửu” (các sấm ký của Sybille 3, 363-372).
“Chuyện sẽ xảy ra là khi các dân nước nghe tiếng Ngài (Đấng Mêsia) mọi người sẽ rời bỏ xứ mình, ngưng chiến tranh chống lại nhau, vô số người không đếm xuể sẽ tụ họp, muốn chống lại Ngài” (Xh 13,33-35).
5/ Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt, Philo bảo rằng Đấng Mêsia sẽ “ra trận đánh giặc và tiêu diệt các nước lớn và dân đông”.
Ngài sẽ trừng phạt chúng nó vì tội bất kính
Quở trách chúng vì sự bất chính
Trách mắng tận mắt chúng vì sự phản bội của chúng
Và khi quở trách chúng, Ngài sẽ tiêu diệt chúng (Xh 12,32-33)
“Và việc đã xảy ra trong những ngày đó, sẽ chẳng có một ai được cứu, hoặc là nhờ vàng hay bạc, sẽ chẳng một ai thoát thân được, và sẽ không có sắt cho chiến tranh, cũng chẳng có ai mặc áo giáp. Đồng sẽ thành vô dụng, thiếc sẽ không còn được ưa chuộng, sẽ không còn ai thích chì, mọi vật sẽ bị tiêu diệt khỏi mặt đất” (Hênóc 52,7-9).
Đấng Mêsia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tàn hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt.
6/ Tiếp theo đó, thành Giêrusalem sẽ được làm mới lại. Đôi khi người ta nghĩ thành phố hiện có sẽ được thanh tẩy nhưng thông thường hơn thì nghĩ rằng thành Giêrusalem mới sẽ từ trời xuống. Ngôi nhà cũ sẽ được cuốn lại và đem đi chỗ khác, ngôi nhà mới được thế vào “tất cả cột trụ đều mới và đồ vật trang trí đều mới và đồ vật trang trí đều lớn hơn trong nhà cũ” (Hênóc 90,28-29).
7/ Dân Do Thái đã bị tản lạc khắp thế gian sẽ được gom về thành Giêrusalem mới. Nhằm hướng về ngày đó, bài cầu nguyện của người Do Thái mỗi ngày có lời khấn xin “Xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tản lạc của chúng tôi khắp bốn phương trời lại”. Có một bức tranh cao quý về việc hồi hương đó: “Hãy thổi kèn trong Sion, để kêu gọi các thánh hãy làm cho người ta nghe trong Giêrusalem tiếng của kẻ mang Tin Mừng vì Thiên Chúa đã thương với dân Israel và thăm viếng họ. Hỡi Giêrusalem, hãy lên đỉnh núi cao mà nhìn xem con cái người, từ Đông sang Tây. Đức Chúa đang thu gom chúng lại, từ phương Bắc, chúng đến trong niềm vui của Chúa mình, từ các đảo xa, Chúa đã thu gom chúng lại, các núi cao hạ thấp xuống thành đồng bằng cho chúng, các đồi chạy trốn cho chúng đi vào, khi chúng đi qua, cây cối sẽ che chúng. Chúa khiến đủ thứ cây cối có hương thơm mọc lên vì chúng, để dân Israel có thể đi qua khi vinh quang của Chúa mời gọi chúng. Hỡi Giêrusalem, hãy mặc áo vinh quang, hãy chuẩn bị sẵn áo dài thánh thiện của ngươi; vì Chúa đã nói sự tốt đẹp cho Israel mãi mãi. Nguyện Đức Chúa thực hiện điều Ngài đã phán liên hệ với Israel và Giêrusalem. Nguyện Đức Chúa và lấy danh vinh quang Ngài thúc đẩy Israel. Nguyện lòng thương xót của Đức Chúa ngự trên Israel đời đời”.
Thật dễ thấy thế gian này sẽ được làm mới lại theo cách nào dưới mắt người Do Thái. Lòng yêu nước của họ bao giờ cũng là yếu tố nổi bật.
8/ Xứ Palestine sẽ là trung tâm thế giới, và cả thế gian sẽ quy phục nó. Tất cả mọi dân tộc sẽ bị đè bẹp, thỉnh thoảng người ta nghĩ đến điều này như một sự quy phục hòa bình “Và mọi cù lao, mọi thành phố sẽ nói: Chúa thương yêu dân ấy biết bao. Vì mọi sự đều hợp lại làm ích lợi và giúp đỡ họ… hãy đến, sấp mình xuống đất và cầu khẩn vua đời đời, là Chúa toàn năng và vĩnh cửu, hãy diễu hành đến Đền Thờ Ngài. Vì Ngài là Đấng Toàn Năng duy nhất” (các sấm ký của Sybille 3,690tt)/
Thương hơn nữa, số phận của các dân ngoại là bị tiêu diệt, do đó dân Israel sẽ được nhắc đến và vui mừng. “Và Ngài sẽ hiện ra để trừng phạt các dân ngoại, tiêu diệt các thần tượng của chúng, rồi ngươi, hỡi Israel, hãy vui mừng, ngươi sẽ cỡi lên cỏ, lên đôi cánh của chim phượng hoàng (nghĩa là Roma, con chim phượng hoàng-sẽ bị tiêu diệt), chúng sẽ bị tiêu diệt và Chúa sẽ tôn cao ngươi. Và từ trên cao ngươi sẽ nhìn xuống, thấy các kẻ thù mình trong địa ngục, ngươi sẽ nhận ra chúng và vui mừng” (Quyết Đoán của Môsê 10,8-10).
Thật là một bức tranh ảm đạm. Dân Israel sẽ vui mừng khi thấy các kẻ thù mình bị đập tan và ở trong hỏa ngục. Cả đến những người chết của dân Israel cũng sẽ được sống lại và dự phần vào thế giới mới.
9/ Cuối cùng một thời đại mới hòa bình và tốt đẹp sẽ đến và tồn tại mãi mãi.
Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêsia vốn ở trong tâm trí người Do Thái lúc Chúa Giêsu đến thế gian này. Các ý niệm ấy vốn là tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù. Thật ra chúng cũng được cho kết thúc bằng sự trị vì trọn vẹn của Thiên Chúa, nhưng muốn đạt đến đó, phải trải qua trận tắm máu và một sự nghiệp chinh phạt. Hãy nghĩ về Chúa Giêsu bị đặt trong một bối cảnh như vậy, cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên nếu Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa của Đấng Mêsia và chẳng có gì lạ nếu cuối cùng, chúng đã đóng đinh Ngài vào thập giá vì tội giảng tà giáo. Trong một bức tranh như thế, làm sao có chỗ cho một thập giá, cũng chẳng hề có một chỗ trống nào dầu thật nhỏ hẹp cho tình thương chịu khổ được.
KẺ CÁM DỖ LỢI DỤNG TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI BẠN THÂN (8,31-33)
Chúng ta phải đặt câu chuyện này trong bối cảnh vừa thấy về quan niệm thông thường liên hệ đến Đấng Mêsia. Khi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ của Đấng Mêsia với đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ Ngài những điều khó tin, khó hiểu. Suốt đời họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêsia bách chiến bách thắng, thế mà bây giờ họ lại được nghe một ý niệm họ phải choáng váng. Chính vì thế, nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối. Với ông toàn thể vấn đề không thể nào xảy ra như vậy được.
Tại sao Chúa Giêsu quở trách Phêrô quá nghiêm khắc như vậy? Vì lời ông nói ra cũng chính là cám dỗ đang tấn công Chúa Giêsu lúc đó, Chúa Giêsu không hề muốn chết, Ngài biết rằng Ngài có quyền năng để sử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Lúc này cuộc chiến đấu với cám dỗ trong hoang địa đang tái diễn. Chính ma quỷ lại cám dỗ Ngài một lần nữa là hãy sấp mình xuống thờ lạy nó, hãy chấp nhận đường lối của nó thay vì đường lối của Thiên Chúa.
Việc kẻ cám dỗ nói với chúng ta bằng giọng nói của một người bạn thân thiết là điều hết sức kỳ lạ, lắm khi còn là khủng khiếp nữa. Có lẽ chúng ta đã quyết định tiến hành công việc phải lẽ mà không thể nào tránh được rắc rối, mất mát, bị chê bai và phải hy sinh. Thế rồi, đúng lúc đó, có thể có một người bạn thân thiết, đến với ý định tốt, để cố gắng can ngăn chúng ta. Tôi biết một người đã quyết tâm tiến hành một công việc hầu như chắc chắn sẽ đưa người ấy lâm cảnh rắc rối. Một người bạn đến và cố thuyết phục, can ngăn ông ta, người bạn nói “Hãy nhớ anh còn vợ và gia đình, anh không nên làm thế!”. Có thể một người vì rất yêu mến chúng ta đến nỗi người ấy muốn chúng ta tránh chuyện rắc rối để tìm kiếm một nếp sống an toàn.
Kẻ cám dỗ không thể tìm được cách tấn công nào khủng khiếp hơn là tấn công bằng tiếng nói của những người yêu thương chúng ta và những người chỉ nghĩ đến việc mưu tìm điều tốt đẹp cho chúng ta. Đó chính là chuyện đã xảy ra cho Chúa Giêsu ngày hôm ấy và cũng chính vì thế mà Ngài đã đáp lại thật nghiêm khắc. Cả đến tiếng van nài của tình thương cũng không thể lấn át tiếng nói cấp thiết của Thiên Chúa.
CON ĐƯỜNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA (8,34)
Phần này của Phúc Âm Maccô rất gần với trung tâm niềm tin Kitô giáo nên chúng ta phải học từng câu một. Nếu mỗi ngày, một người chỉ cần một trong những câu này ghi khắc vào tâm trí và làm chủ đời sống mình, thiết tưởng chừng đó cũng đã đầy đủ lắm rồi, để có thể tiếp tục tiến tới.
Thoạt nhìn có hai điều nổi bật ở đây:
1/ Sự thành thật của Chúa Giêsu gần như đáng gây ngạc nhiên. Chưa hề có ai nói rằng mình đã bị xúi giục đi theo Chúa Giêsu. Ngài không hề mua chuộc người ta bằng cách đề nghị môt con đường dễ dãi. Ngài không đề nghị với con người sự bình an, Ngài chỉ đề nghị với họ sự vinh quang. Nói với một người phải sẵn sàng vác thập giá nghĩa là nói với người ấy phải sẵn sàng chịu người ta nhìn mình như một tội phạm và phải lãnh án tử hình. Lòng thành thật của các đại lãnh tụ luôn luôn là một trong những đặc điểm của họ. Trong thế chiến thứ hai, lúc Sir Winston Churchill lên nhận chức, tất cả những gì ông đề nghị với mọi người là “máu, nhọc nhằn, mồ hôi và nước mắt”. Nhà ái quốc lừng danh người Ý Garibaldi đã hiệu triệu các tân binh bằng những lời lẽ sau đây: “Tôi không trao cho anh em lương bổng, nhà cửa, lương thực. Tôi chỉ cho đói, khát, hành quân, chiến trận và chết. Ai là người yêu xứ sở bằng con tim của mình, chớ không chỉ bằng môi miệng, hãy theo tôi”. “Hỡi các chiến hữu, mọi nỗ lực của chúng ta chống lại những lực lượng hùng mạnh hơn đã không thành công. Tôi có gì để cho anh em ngoài đói, khát, nhọc nhằn và chết chóc; nhưng tôi kêu gọi tất cả những ai yêu tổ quốc, hãy theo tôi”. Chúa Giêsu không bao giờ nghĩ chuyện lừa gạt, bảo người ta theo Ngài bằng cách hứa hẹn cho họ một con đường dễ đi. Ngài đã tìm cách thách thức họ, khơi dậy chí khí đang ngủ trong tâm hồn họ, bằng cách đề nghị với họ một con đường ngày càng lên cao hơn, càng gian khổ hơn. Ngài không hứa hẹn sẽ khiến đời sống họ được dễ dàng hơn, nhưng sẽ khiến họ trở thành vĩ đại hơn.
2/ Sự nêu gương của Chúa Giêsu, Ngài không hề kêu gọi con người thực hiện hay đối diện bất cứ chuyện gì mà chính Ngài không sẵn sàng đương đầu và thực hiện trước. Chắc chắn đó là đặc tính của một lãnh tụ được một số người nối gót. Lúc Alịchsơn Đại đế truy kích Đariút, nhà vua đã thực hiện một trong những cuộc trường chinh kỳ diệu trong lịch sử. Suốt 11 ngày, nhà vua đã thúc giục đạo quân của mình đi được 663 km. Binh sĩ hầu như sắp bỏ cuộc vì khát nước. Plutarch kể lại câu chuyện sau đây: “Lúc họ đang khốn đốn, có mấy người Makêđônia cỡi lừa đi tìm nước từ các con sông gần đó trở về, thấy nhà vua hầu như đang nghẹt thở vì khát, họ dâng một chiếc mũ sắt đựng nước lên cho vua. Vua hỏi họ đem nước cho ai? Họ bảo là cho các con của họ và thêm rằng chỉ cần cứu được mạng của vua. Bấy giờ nhà vua nhận chiếc mũ sắt đựng nước của họ, nhìn quanh thì thấy mọi người đứng quanh đều ngóng cổ cổ lên, tỏ ra rất thèm được uống nước. Nhà vua liền trả lại chiếc mũ sắt, chẳng nếm lấy một giọt và cám ơn họ. Vua nói “Nếu chỉ một mình ta uống nước thì số người còn lại đều ngã lòng”. Binh sĩ thấy ngay tính tự chế và rộng lượng của nhà vua nên nhất quyết yêu cầu nhà vua hãy mạnh dạn truyền lệnh lên ngựa, bắt đầu ra roi. Một khi họ đã có vị vua như vậy, họ bất chấp đói khát mệt mỏi và tự xem mình chẳng kém gì những nhân vật bất tử. Thật dễ nối gót một lãnh tụ chẳng bao giờ đòi hỏi thuộc hạ những gì mà chính mình không chịu được. Vì tướng Roma lừng danh là Quintus Fabius Cuncator, một hôm đang thảo luận với bộ tham mưu về chiến thuật đánh chiếm một vị trí khó thanh toán. Có người đề nghị một phương cách hành động. Vị cố vấn này nói “Làm thế thì chỉ cần hy sinh một số ít người thôi”. Fabius nhìn thẳng vào vị cố vấn ấy và hỏi “thế ông có sẵn lòng làm một trong số ít người đó không?” Chúa Giêsu không phải là một lãnh tụ chỉ ngồi xa đùa giỡn với sinh mạng con người như những con tốt phí vậy. Nếu Ngài đòi hỏi người ta phải đương đầu với điều gì, chính Ngài cũng sẵn sàng đối đầu với nó. Chúa Giêsu có quyền kêu gọi chúng ta hãy vác thập giá, bởi vì chính Ngài đã từng vác.
3/ Chúa Giêsu dạy ai muốn làm môn đệ Ngài “phải liều mình”. Ta sẽ hiểu câu này rõ hơn theo nghĩa đen thật đơn giản trong nguyên văn. Câu này có nghĩa là “Hãy nói không với chính mình”. Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Người ấy phải đáp không với tính tự nhiên ưa thích dễ dãi, an vui cho chính mình. Người ấy phải trả lời không với hành động đặt nền tảng trên ý riêng và nhằm tìm lợi lộc, thoải mái cho riêng mình. Người ấy phải trả lời vâng với tiếng nói và lệnh truyền của Chúa Giêsu mà không chút phân vân. Người ấy phải đồng hành với Phaolô để nói rằng: không phải tôi sống nữa, nhưng Chúa Kitô đang sống trong tôi. Người ấy sẽ không sống để theo đuổi ý riêng nữa, nhưng để theo ý của Chúa, và trong khi phục vụ Ngài, người ấy thực sự cảm thấy mình được tự do hoàn toàn.
ĐƯỢC LẠI ĐỜI SỐNG BẰNG CÁCH LIỀU BỎ MẠNG SỐNG (8,35)
Có nhiều điều hễ muốn giữ thì mất, nhưng nếu đem ra sử dụng thì lại giữ được. Bất cứ tài năng nào của con người cũng như vậy. Nếu sử dụng nó, nó sẽ phát triển trở thành tinh vi, vĩ đại hơn. Nếu chúng ta không chịu dùng đến nó, cuối cùng nó sẽ bị mai một đi. Trên hết mọi sự, cuộc đời của con người vốn giống như vây.
Lịch sử đầy dẫy những tấm gương về những con người liều bỏ mạng sống mà được sự sống đời đời. Bên phương Đông, cuối thế kỷ 4 SCN có một tu sĩ tên là Telemachus. Ông đã quyết định từ bỏ thế gian để sống riêng biệt trong cầu nguyện, suy gẫm, chay tịnh, và mong nhờ đó cứu rỗi linh hồn. Trong nếp sống tách biệt đó, ông chẳng tìm kiếm gì khác hơn là được tiếp xúc với Chúa, nhưng ông vẫn cảm thấy có một cái gì đó còn trục trặc, sai lầm. Một ngày nọ, lúc ông từ chỗ đang quỳ đứng lên, thình lình một tia sáng lóe lên trong tâm trí ông: cuộc sống của ông không đặt trên tình yêu vô ngã đối với Chúa mà là tình yêu ích kỷ. Ông được cho thấy nếu muốn phục vụ Chúa, ông phải phục vụ con người, sa mạc không phải là chỗ để Kitô hữu sống, nhưng là các đô thị đầy dẫy tội lỗi dang có rất nhiều nhu cầu. Vậy ông nhất định giã từ sa mạc và đến ở một thành phố lớn nhất thế giới là thành phố Rôma ở phương Tây. Ông vừa xin ơn vừa vượt biển vừa băng trên đất liền để đến Roma. Vào thời đó Roma đã được Kitô giáo hóa. Ông đến Roma nhằm lúc tướng Roma là Sitilicho vừa thắng được dân Gót một trận lớn. Roma đã dành nhiều vinh quang cho Sitilicho. Khác với thời bách hại, bấy giờ thiên hạ đổ xô vào các nhà thờ Kitô giáo chứ không phải đến các đền thờ ngoại đạo nữa. Người ta tổ chức những cuộc diễu hành, lễ mừng và Sitilicho cỡi ngựa đi qua các đường phố Roma với tư cách kẻ chiến thắng, bên cạnh có hoàng đế trẻ tuổi Honorius. Nhưng trong thành phố Roma theo Kitô giáo vẫn còn sót lại một điều: đấu trường và những cuộc giác đấu. Bấy giờ, các Kitô hữu không còn bị ném cho sư tử xé xác nữa nhưng hãy còn các tù binh chiến tranh bị đưa ra để đánh giết nhau, cho dân chúng Roma ăn mừng các ngày lễ của họ. Mọi người reo hò khi thấy máu chảy trong các cuộc giác đấu. Hôm ấy, Telemachus tìm đường đến đấu trường. 80.000 người đang có mặt tại đó. Cuộc đua chiến xa vừa chấm dứt, thiên hạ đang nhốn nháo vì các lực sĩ giác đấu sắp tranh tài. Họ vào đấu trường và tung hô “Xêda vạn tuế, chúng tôi là những kẻ chết, xin chào hoàng đế”. Cuộc đấu bắt đầu Telemachus cảm thấy kinh hoàng. Những người mà Chúa Kitô đã chịu chết thay cho đó lại đang giết nhau để mua vui cho đám đông tự nhận là Kitô hữu. Ông nhảy qua hàng rào, ông đứng giữa hai lực sĩ giác đấu đang đánh nhau, họ dừng lại một chút. Đám đông gào lên “Hãy để các trò vui tiếp tục”. Họ đẩy ông lão qua một bên, ông vẫn còn mặc bộ áo tu sĩ ẩn tu. Ông lại xông vào giữa họ. Đám đông bắt đầu lượm đá ném ông. Họ kêu các lực sĩ giác đấu hãy giết ông để dẹp cho trống chỗ. Người chỉ huy các trò vui ra lệnh, một lực sĩ giác đấu vung gươm lên, chém xuống. Telemachus ngã lăn ra chết. Thình lình cả đám đông yên lặng như tờ. Họ bị xúc động mạnh vì một thánh nhân vừa bị giết. Chuyện quá đột ngột và đám đông bỗng hiểu giết người có mang một ý nghĩa. Hôm đó, các trò vui giác đấu bị ngưng và từ đó không còn tiếp tục nữa. Bằng cái chết của mình, Telemachus kết thúc các trò chơi ấy. Gibbon đã nói về ông “cái chết của ông hữu ích cho nhân loại hơn đời sống của ông”. Liều bỏ mạng sống, ông đã làm được nhiều việc hơn là lúc ông tự đầy ải nó bằng cách biệt riêng để tĩnh tâm trong sa mạc.
Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống để sử dụng chứ không phải đem giấu đi hay giữ lại. Nếu chúng ta sống cách cẩn thận luôn dành ưu tiên suy nghĩ về lợi lộc, thoải mái, an toàn, sung túc của riêng mình, nếu mục đích duy nhất của chúng ta là kéo dài cuộc đời trốn tránh gian khổ càng nhiều càng hay, nếu chúng ta chịu nỗ lực khi nào có lợi cho riêng mình, chúng ta luôn luôn đánh mất đời sống. Nhưng nếu chúng ta dùng đời sống mình vì tha nhân, nếu đầu tư thì giờ, sức khỏe, tài sản vào một việc gì đó cho Chúa Giêsu và cho những người Ngài đã chịu chết thay cho, chúng ta luôn luôn thắng cuộc trong đời sống. Việc gì sẽ xảy đến cho thế giới này nếu các bác sĩ, các nhà khoa học, những phát minh đều không chịu liều mạng làm các thí nghiệm mà thường thường là trên chính thân thể họ. Chuyện gì sẽ xảy đến cho thế giới này, nếu mọi người chỉ muốn sống an nhàn vô sự ở nhà, chẳng ai chịu đi tiên phong thực hiện những cuộc thám hiểm? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu không có bà mẹ nào chịu mang nặng đẻ đau? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu mọi người tiêu dùng tất cả những gì họ có cho riêng họ? Yếu tính của đời sống là đánh liều và sử dụng đời sống mình chứ không phải là bảo vệ, giấu kín nó. Chúng ta sẽ ngày càng hao mòn kiệt quệ, tàn tạ thật sự, khi tận hiến cuộc sống mình. Ngày nào cũng làm cho đời sống mình bùng cháy lên, thì vẫn còn hơn là để nó han rỉ, vì đó chính là con đường hạnh phúc, đường đến với Chúa.
88. Yêu và ghét – Trầm Thiên Thu
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Không ai lại ghét chính mình, vì thế mà đôi khi người ta yêu mình thái quá. Đó là tự ái - tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy “ghét mình” mà “yêu tha nhân”. Vẫn theo chiều hướng “ngược đời”. Vậy Ngài có quá đáng hoặc xúi dại chúng ta không?
Có thể là “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai cả! Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chung ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ “chứng”, khó thuần hoá, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói “chứng” của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý. Vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!
Bài đọc I hôm nay là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở “trần ai khoai củ”. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông!
Ngôn sứ Isaia kể một mạch: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50,4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, uý tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô.
Ngôn sứ Isaia kể tiếp: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là “cái đinh” gì ráo trọi! Tại sao? Thánh nhân cho biết động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50,7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50,8b).
Sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi là chính mình!
Nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116,1-2). Và dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116,3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước. Nếu gặp gian truân sầu khổ mà chúng ta thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116,4), Ngài sẽ thương cứu ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Bởi vì Ngài mệnh danh là Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Tác giả Thánh vịnh đã là nhân chứng sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116,8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết.
Thánh Giacôbê chất vấn: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2,14), và phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,16). Thế thì đời sống tâm linh cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và rất hay. Quả thật là thế: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2,18). Cứng họng. Không ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.
Có lần Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7,9-10). Chỉ có nước câm miệng chứ ai nói lại được gì? Đó là yêu thương, là sống đức tin, là sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), là thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23,28).
Một dịp Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8,27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”!
Thế nhưng Đức Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Rồi Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở.
Có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng”, thế nên ông liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và trách ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị Giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì chỉnh ngay, không thiên tư hoặc vị nể. Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn Giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng!
Nói xong thì thôi, không để bụng, Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Ngài không ép. Hoàn toàn cho tự do. Tuỳ ý. Thích thì chiều!
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, lúc nào cũng chỉ muốn “nổi dậy” bằng đủ cách, chỉ đòi được Ngài yêu mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghét mà chúng con lại lườm nguýt hoặc xỉa xói những người lân cận. Chúng con thật hồ đồ, thật đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con quyết “bỏ mình” như Chúa Con đã nêu gương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
89. Chứng minh
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chứng minh là hình thức suy luận để xác định tính chân lý của một vấn đề bằng cách đưa ra các dẫn chứng cụ thể. Trong văn chương có loại luận văn chứng minh, chẳng hạn muốn chứng minh câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, người ta cần dẫn chứng bằng các trường hợp điển hình trong cuộc sống đời thường – cách “mài sắt” để có được “cây kim”.
Tương tự, đức tin cũng cần có cách thể hiện cụ thể, nếu không thì chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đức tin thực sự quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Albert Camus (1913-1960, triết gia và ký giả người Pháp) có cách lý luận thú vị về niềm tin: “Tôi thà sống cả đời TIN có Thần Linh rồi chết mà phát hiện không có, còn hơn sống cả đời KHÔNG TIN rồi chết mới phát hiện CÓ Thần Linh”.
Cuộc sống thế gian có nhiều thứ trái ngược hoặc đối lập (phải – trái, trên – dưới, cao – thấp, tốt – xấu,…), một trong các cặp đôi đối lập “đặc biệt” là Yêu – Ghét. Đó là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Chắc chắn rằng không ai lại ghét chính mình, có lẽ vì thế mà đôi khi người ta lại yêu mình thái quá. Đó là tự ái – tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy phải “ghét mình” và “yêu tha nhân” (quên mình mới có thể quan tâm người khác). Chúa Giêsu luôn có kiểu “ngược đời” như vậy, nhưng xét cho cùng thì rất có lý. Liệu Ngài có quá đáng hoặc xúi giục chúng ta làm điều dại dột?
Cứ cho là cũng có thể “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai mà chỉ nói thật. Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chúng ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ sinh tật, khó thuần hóa, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói bướng bỉnh của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý, bởi vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!
Trình thuật Is 50:4-8 là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở trần ai khoai củ, te tua tơi tả. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông một cách oan ức nhưng vẫn kiên quyết tới cùng!
Nói về Người Tôi Trung, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, úy tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Tiếp tục ngôn sứ Isaia tường thuật: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là cái gì ráo trọi! Tại sao vậy? Ông cho biết rõ ràng về động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50:7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng dù gặp đủ thứ gian nan khốn khó. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50:8b). Rất mạnh mẽ và kiên cường, bởi vì sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi vẫn cứ là chính mình!
Thật vậy, nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói chắc chắn: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116:1-2). Và mặc dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116:3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước, không hề chùn chân hoặc thối chí. Nếu có gặp gian truân sầu khổ thì vẫn một mực thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116:4). Chắc chắn Ngài sẽ thương mà giải thoát ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Vả lại, Ngài chính là Thiên Chúa tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Thánh Vịnh gia đã minh chứng cụ thể và sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116:8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết, toàn năng và bất biến.
Một kiểu đặt vấn đề rất thú vị của Thánh Giacôbê: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2:14), và ngài phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:16). Tất nhiên đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và tuyệt vời. Quả thật là vậy, và vấn đề rất rạch ròi: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18). Chỉ có nước cứng họng, chẳng ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.
Một lần nọ, Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7:9-10). Nghe rồi thì chỉ có nước câm miệng chứ ai có thể phản biện được gì? Đó là cách sống yêu thương, sống đức tin, sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), và là cách thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Tất nhiên, Ngài không nói với các nữ giới mà nói với mọi người – bất kể ai.
Và rồi vào một dịp khác, khi Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8:28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”, và cũng thật kỳ lạ!
Vậy mà Thầy Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Sau đó, Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Mác-cô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở. Sự thật không thể khác được, mặc dù đó là điều rất buồn!
Ôi chao, có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng” nên ông liền kéo riêng Thầy ra và bắt đầu trách. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và thẳng thắn trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì phang ngay, không thiên tư hoặc vị nể chi hết. Tuyệt! Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng, nhưng phải nghiêm khắc chấn chỉnh như thế mới có thể nên người được!
Chúa Giêsu nói xong thì thôi, không hề để bụng. Rồi Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai MUỐN THEO tôi, PHẢI TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Thuận ngôn thì nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi là Chúa! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn CỨU mạng sống mình thì sẽ MẤT; còn ai liều MẤT mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ CỨU được mạng sống ấy” (Mc 8:35). Hoán vị từ ngữ rất độc đáo. Thế nhưng Ngài không ép, hoàn toàn cho phép tự do chọn lựa. Tùy ý mỗi người. Thích thì chiều. Vấn đề quan trọng không là thưa “có” hoặc nói “không”, mà là phải chứng minh được điều đó bằng động thái cụ thể, rạch ròi!
Liên quan việc chứng minh, Hc 46:13-14 cho biết về ông Samuel: Ông là người được Chúa yêu thương, là ngôn sứ, là người thiết lập nền quân chủ, là người xức dầu tấn phong các vị lãnh đạo dân, có quyền xét xử cộng đồng theo Luật Chúa. Trước khi qua đời, ông đã chứng minh trước mặt Chúa và Đấng được xức dầu: “Của cải, thậm chí cả giày dép, tôi đã không lấy của một ai!”. Và chẳng có ai cáo tội ông. Một tấm gương sáng về tính liêm khiết.
Lạy Chúa Tể càn khôn, chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, thế mà lúc nào cũng tìm dịp “nổi dậy” bằng lắm chiêu nhiều cách, chỉ đòi được Ngài thương mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghen ghét mà lúc nào cũng liếc xéo hoặc mỉa mai tha nhân. Chúng con thật hồ đồ và đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con chứng minh bằng cách từ bỏ chính mình theo đúng ý Con Một Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
90. Đức Kitô là ai?
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông.
Ta thấy khi Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Chúa Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra những gì đang chờ đợi Người ở cuối “con đường”. Người sẽ còn ngỏ lời với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là mộtlộ trình điên rồ, phi lý.
Nhưng Chúa Giêsu cũng đã đẩy ông đi với mộtsự quyết liệt không kém. Lộ trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa. Do đó, trước đây Người đã đổi tên ông là Simôn thành “Phêrô”, một cái tên thuộc sứ mạng, nay Người phải gọi ông là “Satan”, một cái tên phản - sứ mạng, và sau này, có lúc Người lại gọi ông bằng cái tên cũ là “Simôn” (14, 37), một cái tên chứng tỏ sự quay lưng lại với sứ mạng.
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.
Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Chúa dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.
Câu Chúa Giêsu hỏi vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
Đức Ki-tô đòi hỏi các môn đệ theo Ngài phải từ bỏ chính mình. “Bỏ chính mình” có phải tự tử không? Hẳn là không! Các nhà hiền triết, các tôn giáo đều kêu gọi từ bỏ cái tôi kiêu căng, ích kỷ, tham sân si, và thậm chí bỏ cả tiền tài lẫn danh vọng nữa. Thế nhưng sự từ bỏ mà Chúa Giêsu kêu gọi không chỉ để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi chúng ta từ bỏ mọi sự là để có thể đi theo Ngài, đi theo con đường thập giá mà Ngài đã đi, để trở nên giống Ngài: sống hiền lành, khiêm nhường, khó nghèo, chịu sỉ nhục, ngược đãi, và chết để cứu chuộc nhân loại là những người Ngài yêu mến. Sự bỏ mình đó không huỷ hoại mà dẫn ta đến một cuộc sống dồi dào hơn: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Ta nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.
11/09 Nhà xây trên đá = khôn ngoan
- Viết bởi Lc 6, 43-49
Nhà xây trên đá = khôn ngoan.
Thứ Bảy tuần 23 thường niên.
“Tại sao các con gọi Thầy 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
Lời Chúa: Lc 6, 43-49
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.
Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nghe mà không thực hành
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.
Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.
Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật:
“Xem quả thì biết cây” (c. 44).
Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.
Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.
Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.
Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.
Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,
qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.
Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.
Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.
Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.
Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.
Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy
bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!”
Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).
Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:
Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,
lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).
Nghe thôi thì chưa đủ.
Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,
chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.
Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.
Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,
nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó?
Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.
Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.
Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.
Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.
Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.
Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.
Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,
nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.
Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,
vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.
Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu
Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
Vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,
Nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
Đừng hời hợt khi nghe lời Chúa,
Đừng để nỗi đam mê làm lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mãnh đất đời mình,
Để hạt giống lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
Được xây trên nền tảng vững chắc,
Đó là lời Chúa
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Suy Niệm 2: Nghe và thực hành Lời Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thời gian là lời phán xét chính xác. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu cây nào tốt khi chúng ra quả. Cứ xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả.Người thật hay người giả. Đừng tin ngay vào lời nói, cứ chờ xem họ làm thế nào. Thời gian sẽ chứng nghiệm công trình xây dựng. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa Giêsu cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Người môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt. Người môn đệ tốt là người không chỉ nói ngoài miệng nhưng tin thật trong lòng. Người môn đệ trung tín là người thực hành niềm tin đã lãnh nhận được. Khó khăn thử thách là tự nhiên trong đời sống. Cũng như bão lụt là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nhà xây vững chắc sẽ bền vững qua thời gian. Người nghe và thực hành Lời Chúa đứng vững trong mọi gian nan thử thách. Người ấy đã chọn Chúa thì trung tín suốt đời.
Nhưng chọn lựa không chỉ một lần mà trải dài suốt cuộc đời. Có bao nhiêu năm tháng là có bấy nhiêu chọn lựa. Để trung tín với Chúa và với chính mình, với niềm tin, với lời tuyên xưng, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng. Chúa mời ta dự tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Nhưng thế gian cũng có những bàn tiệc hấp dẫn. Ma quỉ cũng biết bày ra những bàn tiệc lạc thú thịnh soạn, cũng biết nâng những chén rượu danh vọng hấp dẫn mời mọc. Lại còn thêm thói đời, người đời thân thiết lôi kéo. Nhất là khi chung quanh ta ai cũng làm giống nhau. Ta sống khác được sao? Ta phải cảnh giác để giữ lòng trung tín như thánh Phao-lô khuyên dạy: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỉ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỉ được” (năm chẵn).
Một cách giữ lòng trung tín với Chúa là nhớ lại thuở ban đầu. Thánh Phao-lô luôn nhắc nhở về thời chìm đắm trong tội lỗi để thấy ơn Chúa thương xót hoán cải ngài, tuyển chọn ngài và ban cho ngài được làm môn đệ Chúa. Vì thế ngài luôn nhớ ơn Chúa, luôn tận tâm phục vụ Chúa, sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Chúa. Hãy chọn lựa Chúa. Vì chỉ có Người thương yêu ta. Hãy tạ ơn Chúa. Vì chính Người hạ cố đến cứu độ ta. Hãy thờ lạy Chúa. Vì chỉ có Người là vua thật thống trị vũ trụ. Hãy noi gương thánh Phao-lô mà xưng tụng: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Căn Nhà Ðức Tin
Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Ðức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có bền vững và đẹp đẽ hay không là tùy ở con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm nếm được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngay từ đời này. Và nhận được gấp trăm ngay từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của Tin Mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thách Ðố Của Người Tín Hữu
Một nhóm truyền đạo của một giáo phái đến ngay trước cửa một nhà thờ để chiêu dụ các tín đồ, họ giảng thao thao bất tuyệt về giáo lý của họ. Vị mục sư cai quản nhà thờ rất kiên nhẫn, ông đứng nghe giảng một hồi lâu rồi đưa tay ra hiệu và nói với các nhà truyền đạo:
- Thưa quí ông, tôi xin được đưa ra một đề nghị: tôi hiện đang có một ly thuốc độc, nếu các ông uống ly thuốc độc này mà vẫn còn sống thì không những tôi mà tất cả mọi người giáo dân đang có mặt ở đây cũng sẽ bỏ đạo của chúng tôi để gia nhập vào giáo phái của các ông; nhưng nếu các ông không uống ly thuốc độc này thì tôi chỉ có thể kết luận là các ông chỉ là những nhà truyền đạo giả hiệu của Tin mừng bởi vì các ông không tin tưởng ở Chúa là Ðấng, như các ông vừa mới loan báo, sẽ không bao giờ để các ông phải chết.
Nghe thế, các nhà truyền đạo không biết phải làm như thế nào. Họ liền kéo nhau đến một góc và bàn bạc với nhau: Chúng ta phải làm sao đây?
Cuối cùng, sau một lúc họ đã quyết định, họ trở lại trước mặt vị mục sư và nói: chúng tôi vừa nghĩ ra một kế hoạch, xin mời ông cứ uống thuốc độc, chúng tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông sống lại.
Giữa những điều chúng ta tuyên xưng và những gì chúng ta sống; giữa những gì chúng ta rao giảng và những gì chúng ta làm chứng luôn có khoảng cách. Ðạt được thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa tin và sống, giữa nhà thờ và cuộc sống không phải là chuyện dễ. Mỗi ngày chúng ta vấp phạm đến bao nhiêu lần, mỗi ngày chúng ta chối bỏ đức tin của chúng ta biết bao nhiêu lần.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều ấy, mượn hình ảnh của cây và trái, của ngôi nhà và nền móng Ngài kêu gọi chúng ta sống điều chúng ta tin, thực hành điều chúng ta rao giảng. Thánh Giacôbê tông đồ đã diễn đạt một cách tuyệt hảo lời dạy của Chúa Giêsu khi ngài nói: "Ðức tin không có thực hành là đức tin chết". Tin mà không sống điều mình tin thì cũng chẳng khác nào không có đức tin.
Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân". Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
Chúng ta đang sống trong thời đại của bùng nổ thông tin. Con người thời đại đang choáng ngộp vì lượng thông tin, họ mệt mỏi vì những lời nói suông. Thời đại của thông tin cũng là thời của khủng hoảng về lời nói, đây chính là thách đố của người tín hữu Kitô. Nếu cuộc sống của họ không là một thể hiện của niềm tin của họ, nếu cuộc sống đời thường của họ hoàn toàn cách biệt và xa lạ với những gì tuyên xưng trong nhà thờ thì cộng đồng của họ dù có được tập trung trong một nhà thờ dù nguy nga đồ sộ đến đâu cũng vẫn là một đám ma buồn tẻ hơn là một cộng đồng có sức sống.
Sống đạo và truyền đạo là một ơn và là một nghĩa vụ của người tín hữu Kitô. Chúng ta cảm tạ Chúa đã trao phó cho chúng ta một nhiệm vụ cao cả như thế.
Nguyện xin Ngài ban ơn giúp sức cho cuộc sống mỗi ngày của chúng ta trở thành lời tuyên xưng và rao giảng sống động cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Nói hay làm dở
Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Thầy, Lạy Chúa! mà anh không làm điều Thầy dạy?
“Ai đến với Thầy, và nghe những điều Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em người ấy ví được như ai. Người ấy được ví như một người khi xây nhà, đã cuốc đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây cững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành.” (Lc. 6, 46-49)
Những bài thuyết trình càng hay, càng đáng thở dài, hứa nhiều làm ít: Lạy Chúa, lạy Chúa, kêu dễ dàng và bao nhiêu cũng được, nhưng vào việc lại chậm trễ ươn hèn chẳng làm điều cam kết chi cả. Đức Kitô phải khó chịu khi nói ra điều này và không nhịn được nên kêu gọi người ta phải chú ý đến nó.
Nói hay làm dở, ai trong chúng ta cũng không nhiều thì ít, rất đơn giản, có đầy trong thực tế hằng ngày. Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rõ điều đó khi so sánh nói mà không làm giống như xây nhà trên cát không có nền chắc chắn. Mưa sa lũ lụt và bão làm nhà sụp đổ. Nói và làm, thì như người xây nhà trên đá, nước dâng lên, sóng vỗ, nhà vẫn không lay chuyển. Cũng như trồng cây trên đất tốt, sẽ gặt được mùa bội thu hoa trái tốt đẹp.
Chỉ đến nghe Đức Kitô giảng thì không đủ. Phải sống lời Chúa. Cầu nguyện nhiều không đủ, phải cải tạo cách nghĩ và cách làm. Chỉ chấp nhận những đòi hỏi vác thập giá Đức Kitô xuông chưa đủ. Phải biết kết hiệp với Người khi gặp gian nan, thử thách, gặp đau khổ, nghịch cảnh. Phải biết đón nhận những đau khổ trong mầu nhiệm sự chết để hy vọng tràn trề được sống lại vui mừng.
Chỉ nhận biết cần thiết phải hy sinh vì lý do đức tin đòi chấp nhận sự vô lý, thì không đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh liên lỉ, dầu phải chiến đấu cam go để giải thoát những tấn công của những khuynh hứng xấu xa tàn bạo.
Chỉ kêu gào công lý và bác ái không đủ, phải chính mình đương đầu với những bất công, bất nhân, dù biết rằng mình không luôn luôn chiến thắng. Như thế, chúng ta có thể nuôi hy vọng trở nên người không nói hay, nhưng làm hay.
Suy Niệm 6: Người khôn xây nhà trên đá
Người xưa thường coi việc: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà” là ba việc hệ trọng trong đời người. Thật vậy, nếu không kinh nghiệm về việc xem trâu, người nông dân dễ bị mua phải con trâu lười hay không biết làm việc. Cũng vậy, nếu không tìm hiểu cho kỹ, không chừng khi lấy vợ, chúng ta lấy phải cô vợ “cảnh” thì thật là tai họa cả đời. Tương tự như hai việc trên, công việc làm nhà cũng rất quan trọng. Nếu không biết tính toán, suy xét và nhất là nơi chốn, chúng ta dễ bị hậu quả nặng nề là căn nhà siêu vẹo do sức nặng và độ lún chênh lệch nên dễ làm cho căn nhà bị đổ nát, hoặc không đón được hướng gió tốt, sẽ dễ dàng gây nên sự ngột ngạt ...
Hôm nay, Đức Giêsu nói đến việc xây dựng cuộc đời của mỗi người ngang qua hình ảnh xây dựng căn nhà.
Không ai dám cả gan để xây nhà trên nền cát! Cũng vậy, không có người nào dại dột đến độ phó dâng cuộc đời của mình cho kẻ chẳng hơn mình là bao? Hay đi tin một người mà do chính mình tưởng tượng rồi bịa ra để tôn thờ!
Khi Đức Giêsu nói đến độ bền chắc của đá, hay xây nhà trên nền móng bằng đá, Ngài muốn nói đến sự bền vững nơi những ai biết đặt đời mình trong bàn tay của Chúa, biết xây dựng cuộc sống trên nền tảng Tin Mừng.
Thật vậy, những người đón nhận, lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa thì được ví như người khôn ngoan xây nhà trên nền đá vững chắc. Ngược lại, những người nghe rồi bỏ bê không thực hành thì được ví như người ngu xây nhà trên cát và hệ quả là bị nước cuốn trôi và tòa nhà sẽ sụp đổ tan tành.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn biết khát khao lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Sẵn sàng để Lời Chúa chi phối và là kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Được như thế, chúng ta mới thực sự trở thành người khôn ngoan vì đã xây căn nhà cuộc đời của mình trên nền tảng vững chắc là chính Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những viên đá sống động nhờ biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn ý thức mình cũng cần phải chung tay cộng góp để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính những gương sáng của mình trong đời sống. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Nền đá vững chắc: lắng nghe và thực hành Lời Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đời sống đạo của mỗi Kitô hữu tựa như ngôi nhà thiêng liêng. Ngôi nhà đó phải được xây dựng trên nền đá vững chắc là lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, từ ngày con được lãnh nhận bí tích Rửa tội là con được đặt chân vào con đường làm môn đệ Chúa. Đó là ngày con bắt đầu hành trình tiến lên đỉnh trọn lành. Đó là ngày Chúa mời gọi con xây dựng ngôi nhà thiêng liêng đời con. Từ đó, hằng ngày Chúa dạy con từ bỏ bản thân để biến mình trở nên giống Chúa hơn. Từng khoảnh khắc con biết sống theo đường lối Chúa, đó là nền đá vững chắc để xây nhà thiêng liêng cho con. Mang danh là Kitô hữu mà con không biết sống Tin Mừng hằng ngày thì ngôi nhà của con không có nền móng. Một chút thử thách, một cơn cám dỗ, một sự đau khổ, cũng đủ làm con nghiêng ngả và sụp đổ. Ngược lại, biết lắng nghe Lời Chúa và can đảm thực hành trong cuộc sống, đó là những bậc thang chắc chắn giúp con ngày càng tiến lên gần Chúa hơn.
Lạy Chúa, con tin Chúa đang hẹn gặp con hằng ngày trong mỗi khoảnh khắc cuộc đời con. Điểm hẹn là tiếng lương tâm, điểm hẹn là Mười Giới Răn, là Thánh Kinh và là giáo huấn của Hội Thánh. Xin cho con biết đến gặp gỡ Chúa để biến đổi cuộc đời con: gặp Chúa đích thực qua việc biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Xin cho con đừng nhẫn tâm bỏ qua tiếng lương tâm, đừng để con giả điếc làm ngơ khi nghe Lời Chúa, đừng để con bịt tai coi thường giáo huấn của Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con được thiết tha hơn trong hành trình theo Chúa, và tích cực hơn trong việc xây dựng ngôi nhà thiêng liêng đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các con gọi Thầy “Lạy Chúa, lạy Chúa”, mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
Suy Niệm 8: Chúa là đá tảng, là chiến luỹ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày 15 và 16/10/2010, đợt mưa lớn gây lũ lịch sử chưa từng thấy trong 50 năm qua đã nhấn chìm nhiều tỉnh ở Bắc Trung Bộ Việt Nam: Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An trong biển nước… Cơn lũ đã làm hàng trăm người chết, bị thương và mất tích vì bị cuốn trôi, cô lập nhiều vùng dân cư, nhiều nhà cửa bị trôi, sập, đường sá hư hỏng nặng nề, phá hủy tài sản, mùa màng và gia súc gia cầm của hàng chục ngàn người…
Phong ba bão tố, lũ lụt xảy ra bất cứ ở nơi đâu trên trái đất và bất cứ lúc nào, luôn để lại những hậu quả tai hại nếu chúng ta không chuẩn bị thật kỹ để trụ vững vàng… Ngay cả các nước tiên tiến như Australia và Brasil lũ lụt cũng gây thiệt hại nặng nề với trên 500 người chết và 13.500 người lâm vào cảnh vô gia cư vào thời điểm tháng 1/2011…
Suy niệm
Chúa Giêsu nói đến hình ảnh của đời sống sẽ luôn vững vàng nếu được chuẩn bị như nhà xây trên đá là người nghe và thực hành Lời của Đức Kitô. Ai nghe và thực hành Lời là người khôn xây nhà trên đá; luôn vững vàng trước mọi hoàn cảnh dù gặp nghịch cảnh hay bị thử thách qua hình ảnh Chúa Giêsu nhấn mạnh: Mưa sa có đổ xuống, nước ngập, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà, nhà vẫn không sập… Còn ai nghe mà không thực hành Lời Chúa thì giống như xây nhà trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn.
Với hình ảnh xây nhà trên đá luôn vững và trên cát sẽ sụp đổ, Kinh Thánh nhấn mạnh sự tương phản giữa hành động của hai người một cách trái ngược nhau: Nếu ai khôn thì đời người đó thật vững vàng như bàn thạch, còn ai dại thì chịu cảnh sụp đổ, tiêu tan trước phong ba bão tố.
Chúa Giêsu nhấn mạnh qua động từ chủ động “làm” hay “thi hành” Lời của Ngài, là lời mời gọi thể hiện sự sống động của đức tin được nuôi dưỡng bằng Lời trong đời sống hằng ngày ở mọi khía cạnh cuộc sống: gia đình, lao động, dấn thân xã hội, Giáo hội đều gắn chặt trên đá tảng với đức tin sâu sắc.
Trong cuộc sống hàng ngày, Chúa không hề hứa với chúng ta là sẽ tránh né được nghịch cảnh, phong ba bão tố trong cuộc đời, nhưng Ngài khẳng định rằng cuộc sống của người nghe, dựa và thực hiện vào Lời Ngài sẽ như ngôi nhà xây trên đá: Không bị mưa sa, bão táp làm tan hoang, trái lại sẽ vững vàng.
Ý lực sống:
“Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn
Vì Chúa là đá tảng, là chiến luỹ của con” (Tv 31,3b).
Suy Niệm 9: Người môn đệ đích thực
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tất cả lời giảng dạy và dụ ngôn hôm nay nhấn mạnh đến tiêu chuẩn của một người môn đệ đích thực: không phải cần một niềm tin trên lý thuyết, trên môi miệng... nhưng điều cần thiết nhất là phải thi hành ý Thiên Chúa, sống theo lời Đức Giêsu dạy. Chúng ta không thể nói rằng mình tin yêu Chúa, mà cuộc sống của chúng ta lại không theo giáo huấn của Người. Mỗi tín hữu cần xác tín rằng chỉ có Đức Giêsu và ánh sáng Lời Người là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu. Ngoài Đức Giêsu, không ai có thể cho chúng ta sự sống đích thực.
2. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn cây và trái: “Không có cây nào tốt mà sinh quả sâu...”. Chúa muốn dạy rằng: muốn có trái thì phải chăm sóc cây. Đó là một qui luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Cây tốt thì sinh trái tốt. Cây xấu không thể sinh trái tốt được. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”(Lc 6,45).
Tất cả những điều Đức Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng có ích lợi gì, và những người như thế cũng chẳng đáng làm môn đệ của Chúa. Họ chẳng khác gì một ngôi nhà được xây trên cát. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành, thì người đó mới xứng đáng là môn đệ Ngài. Họ như ngôi nhà dược xây trên đá vững chắc.
3. Điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuyên xưng hay kêu cầu danh Chúa ngoài môi miệng, mà là việc thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa nghĩa là đem những lời Chúa dạy trong Tin Mừng ra thực hành trong đời sống. Và ai thực hành Lời Chúa thì có một nền tảng vững chắc trong đức tin và lòng yêu mến.
Tình yêu mà chỉ dừng lại nơi đầu môi chót lưỡi thì là thứ tình yêu giả dối. Đức Giêsu đã nói: ”Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Như thế, việc tuân giữ Lời Chúa là thể hiện lòng yêu mến đích thực. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại không giữ Lời Ngài, vì như thế là nói dối. Thật vậy, giữa tin có Chúa và yêu mến Chúa phải là một khi tuân hành ý Chúa.
4. Người ta vẫn thường nói “con đường dài nhất là từ tai đến tay” nghĩa là dễ nghe, dễ hiểu nhưng để đem ra thực hành thì khó biết là ngần nào. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khiển trách các môn đệ chỉ nghe Lời Chúa và thưa: “Lạy Chúa! Lạy Chúa” nhưng không thi hành Lời Ngài dạy. Biết bao điều Chúa đã dạy, đã nêu gương và nhắc nhở mỗi ngày thế mà uổng phí công lao: ”Ta trông mong nó thực hành điều chính trực nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5,7). Hãy để Lời Chúa sinh nhiều hoa trái tốt lành thánh thiện nhờ khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong mọi người (5 phút Lời Chúa).
5. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đang sống theo chủ trương tách biệt niềm tin và cuộc sống? Phải chăng chúng ta không đo lường niềm tin theo một vài biểu dương bên ngoài? Bao lâu cái cốt lõi của đạo là niềm tin, tình yêu thương, chưa ăn sâu vào từng sinh hoạt cuộc sống chúng ta, thì quả thực chúng ta chỉ là những kẻ nói: “Lạy Chúa! Lạy Chúa”, mà không hề thực thi Lời Chúa. Sống như thế chỉ là làm ô danh sự đạo và phạm đến giới răn cấm kêu tên Chúa vô cớ (R.Veritas).
Trong một xã hội mà qui luật sống là dối trá, thì Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống trung thực hơn bao giờ hết. Chúng ta phải sống thế nào để mọi người cảm nhận rằng Chúa Giêsu đang thực sự hiện diện và tác động trong cuộc sống chúng ta, và lời của Ngài có sức cải tạo con người và xã hội.
6. Truyện: Triệt để thi hành luật pháp.
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đúng 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xẩy ra cho ông, là ngươi đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xứ lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh mẹ. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
Suy Niệm 10: Cách ứng xử trong cuộc sống
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
A. Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về cách ứng xử. Đoạn này gồm 3 lời dạy:
1) Qua Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43,44): Chúa muốn nói đến những hành động của ta. Bên ngoài phải phù hợp với bên trong. Đối với những người biệt phái và luật sỹ thì một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với luật.
Còn đối với Chúa Giêsu thì một hành động được coi là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt. Một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu coi cõi lòng con người như một kho tàng, nơi xuất phát ra những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Kho tàng tốt thì sẽ phát sinh ra những lời nói và việc làm tốt. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt.
Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu. Hay nói một cách chính xác hơn là chính Chúa Giêsu.
3) Phải thi hành (cc 46-49): Tất cả những lời Chúa Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng có ích lợi gì, và những người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ của Chúa. Họ chẳng khác gì một ngôi nhà được xây trên cát. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành, thì người đó mới xứng đáng là môn đệ Ngài. Họ như ngôi nhà được xây trên đá vững chắc.
B. Như vậy, qua dụ ngôn Cây và Trái: Chúa muốn dạy rằng: Muốn có trái thì phải chăm sóc cây. Đó là một quy luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Cây xấu không thể sinh trái tốt được. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6,45)
Đây là câu chuyện có thật ở Nhật Bản. Chuyện kể rằng, khi sửa nhà, một anh thanh niên đã nhìn thấy một con thằn lằn bị kẹt bên trong khe hở nhỏ giữa hai bức tường bằng gỗ. Một sự tình cờ nào đó đã khiến chân chú thằn lằn tội nghiệp bị cây đinh ghim vào tường. Nhưng lạ lùng hơn nữa là căn nhà đã được xây dựng hơn mười năm, điều đó đồng nghĩa với việc chú đã sống trong tình trạng này suốt thời gian qua.
Quá ngạc nhiên với những gì đang diễn ra trước mắt, chàng trai bèn ngưng làm việc, tò mò theo dõi xem chú thằn lằn đã sống ra sao trong tình trạng bị “cầm tù” như vậy. Không lâu sau đó, anh nhìn thấy một con thằn lằn khác xuất hiện, miệng ngậm đồ ăn đến bên con thằn lằn bị ghim vào tường.
Một cảnh tượng thật cảm động. Con thằn lằn bị ghim đinh đã được một con thằn lằn khác nuôi ăn trong suốt 10 năm qua. Không ngờ loài vật tưởng chừng không suy nghĩ, không cảm xúc lại có thể có những việc làm như vậy. Có lẽ, chỉ có tình yêu mới tạo nên nghị lực sống và tinh thần phục vụ kỳ diệu đến thế. Lev Tolstoy nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống.”
Phải thi hành: Lý thuyết có hay cách mấy đi nữa nhưng nếu không đem đến thi hành thì cũng chẳng ích lợi gì. Chúa Giêsu ví những nghười nghe mà đem ra thực hành thì giống như người xây nhà của mình trên đá. Đá đây chính là Lời Chúa và Ý Chúa.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xảy ra cho ông, là người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh bà. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thận mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
Suy Niệm 11: Dụ ngôn về cách đối xử
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về cách đối xử. Đoạn này gồm 3 lời dạy:
1) Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
3) Phải thi hành (cc 46-49): Tất cả những lời Chúa Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng ích lợi gì, và người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ Ngài. Họ chỉ như một cái nhà được xây trên cát mà thôi. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành thì mới xứng đáng là môn đệ Ngài, họ như cái nhà được xây trên đá vững chắc.
B.... nẩy mầm.
1. Về dụ ngôn cây và trái: muốn có trái thì phải chăm sóc cây, đó là một qui luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Thế nhưng tôi thường chỉ lo đến những thể hiện bề ngoài chứ không lo bồi dưỡng chính tâm hồn mình.
2. Về kho tàng trong lòng: tôi cũng thường “kiểm kê tài sản” xem mình đang có bao nhiêu tiền, bao nhiêu món đồ v.v. Hôm nay tôi hãy kiểm kê kho tàng trong lòng xem hiện giờ có được những gì.
3. Về dụ ngôn xây nhà: tôi đang xây ngôi nhà cuộc đời mình trên nền cát hay nền đá? Nền cát là những thứ mà người đời thường theo đuổi (danh, lợi thú), nền đá là Lời Chúa và Ý Chúa.
4. Một người nhà giàu nọ cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho ông một ngôi nhà sang trọng với những vật liệu đắt giá nhất và do những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng để mua những vật liệu rẻ nhất, ông mướn những người thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành.
Khi ông chủ về, người quản lý giao ngôi nhà cho chủ. Ông chủ tỏ vẻ hài lòng và cho biết ông bảo làm ngôi nhà ấy để tặng cho người quản lý. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa những chỗ hư của ngôi nhà, người quản lý vô cùng hối tiếc: giả như trước đây tôi biết đây là ngôi nhà ông chủ tặng cho tôi thì tôi đã không xây cất một cách xoàng xĩnh như thế ("Mỗi ngày một tin vui").
10/09 Nhận biết chính mình
- Viết bởi Lc 6, 39-42
Nhận biết chính mình.
Thứ Sáu tuần 23 thường niên.
“Người mù có thể dẫn người mù được chăng?”
Lời Chúa: Lc 6, 39-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đạo đức giả
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.
Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.
Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),
Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.
Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.
Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,
đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.
Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.
Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.
Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,
dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.
Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).
Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,
biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.
Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.
Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.
“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy-lạp.
Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.
Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.
Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.
Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.
Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.
Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).
Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.
Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,
tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,
Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,
nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.
Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,
vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.
Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,
bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.
Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,
nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.
Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,
đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.
Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,
nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.
Cầu nguyện
Như thánh Phaolô trên đường về Ðamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Suy Niệm 2: Khôn ngoan trong Chúa Giêsu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ở đời ai cũng muốn làm thầy người khác. Vì tự hào mình khôn ngoan giỏi giang. Biết hết mọi sự. Nhưng lại không biết chính mình. Vì thế thường mâu thuẫn. Nói mà không làm. Chúa Giê-su gọi đó là “mù lại dắt mù”.
Chúa dạy ta phải khôn ngoan. Khôn ngoan phải đi trong ánh sáng. Ánh sáng là phải biết mình. Biết lỗi lầm của mình. Biết khuyết điểm của mình. Biết giới hạn của mình. Thấy cái xà trong mắt mình. Phải lấy ra thì mắt mới thấy rõ. Thấy đường rồi mới có thể hướng dẫn người khác. Biết mình rất khó. Nhận mình sai sót lỗi lầm còn khó hơn. Và sửa chữa lỗi lầm lại càng khó lắm.
Chỉ có Chúa là sự khôn ngoan. Là sự sáng. Ở trong Chúa ta sẽ có ánh sáng. Sẽ được khôn ngoan. Soi vào Chúa ta sẽ được biết mình. Nhìn lên Chúa ta sẽ biết đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chỉ có Chúa là Thầy. Vì Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Thánh Phao-lô là người hiểu rõ điều đó. Nên dù bổn phận phải hướng dẫn người khác, thánh nhân luôn tự biết mình là người tội lỗi, yếu hèn. Phải khuyên dạy Ti-mô-thê-ô là người con tinh thần, nhưng thánh nhân khiêm nhường tự nhận: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót”. Và thánh nhân biết ngài có làm Tông Đồ chính vì “theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su” (năm lẻ).
Chính vì thế, trong khi rao giảng cho người khác, thánh nhân tỏ ra lòng khiêm nhường sâu xa. Nhận đó là bổn phận: “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”. Vì thế ngài hạ mình “trở thành nô lệ của mọi người”, “trở nên tất cả cho mọi người”. Vẫn chưa đủ, ngài không ngừng xét mình, răn mình, sửa mình để có thể giúp đỡ người khác: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (năm chẵn).
Ngài trở nên người khôn ngoan. Vì ngài sống trong Chúa Giê-su. Ngài trở thành người sáng suốt. Vì đã tự lấy cái xà trong mắt mình trước. Ngài trở thành người hướng dẫn. Vì đã tự biết mình.
Suy Niệm 3: Hãy Tự Biết Mình
Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.
Tin Mừng hôm nay không chỉ là một bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. "Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã", nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người cũng đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân. "Hỡi người, hãy tự biết mình", đó là khẩu hiệu mà nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate thường đề ra như bài học vỡ lòng cho các môn sinh, có lẽ cũng được Chúa Giêsu nhắc lại theo một công thức khác: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". "Hãy sám hối" trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn của mình, để từ đó sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ánh Sáng Thế Gian
Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.
Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi". Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.
Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.
Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Cái rác, cái xà
“Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em!” (Lc. 6, 42)
Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.
Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.
Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?
Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.
Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!
Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.
Suy Niệm 6: Mù không thể dắt mù
Xem lại CN 8 TN C
Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!
Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình...
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.
Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.
Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác... để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Biết xét mình trước
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Người đạo đức chân thật biết xét mình trước khi đoán xét khuyết điểm, lỗi lầm của anh em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho con đôi mắt. Nhờ đôi mắt, con nhìn thấy các công trình kỳ diệu trong thiên nhiên Chúa đã dựng nên. Nhờ đôi mắt, con giao tiếp với mọi người, cùng mọi người xây dựng bổ túc cho nhau, để xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Và đôi mắt sẽ luôn giúp con nhận ra các điều Chân, Thiện, Mỹ, giúp con suy nghĩ đúng và hành động khôn ngoan. Con hết lòng tạ ơn Chúa vì đôi mắt tuyệt vời Chúa ban cho con. Xin hướng dẫn con luôn biết dùng đôi mắt cho đẹp lòng Chúa.
Lạy Chúa, con còn được Chúa ban cho một đôi mắt khác là đôi mắt tâm hồn, là trí phán đoán để nhận ra phải trái, thực hư. Trong con, hai đôi mắt ấy có tương quan mật thiết với nhau. Nhìn đúng, con sẽ phán đoán đúng và hành động khôn ngoan. Nhìn lầm, con sẽ suy nghĩ lệch lạc và hành xử ngu đần. Nghiệm lại trong đời sống, con thường cho mình là đúng, là hay, và đã nhiều lần cố chấp với những sai sót, lỗi lầm của mình. Còn với tha nhân thì ngược lại: con dễ xét nét, bắt bẻ đủ điều và chẳng vui khi họ trổi vượt, thành công hơn con. Con dễ bất công với mọi người, thích nhìn “cái rác trong mắt của anh em” hơn là thấy “cái đà to tướng trong mắt con”. Và vì thế, con đi xa đường lối Chúa, đánh mất lòng đạo đức chân thật của mình.
Lạy Chúa, xin giúp con khiêm nhường để cả hai đôi mắt của con được sáng mãi trong ánh sáng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng ?”
Suy Niệm 8: Cái rác và cái xà
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu kêu gọi mọi người, nhất là những người có trách nhiệm, những bậc làm cha mẹ phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em mình. Chúng ta thường chỉ nhìn thấy lỗi lầm của tha nhân, mà không nhìn ra những lỗi lầm của chính mình. Nhiều khi chính những khuyết điểm ấy lại đang làm cản trở, gây gương mù, gương xấu cho anh chị em, con cái mình. Theo gương mẫu tuyệt vời là Đức Giêsu và lời dạy của Ngài, chúng ta hãy thường xuyên tự kiểm điểm để biết mình và biết cách hướng dẫn người khác.
2. Những lời trong bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
Chúa Giêsu muốn nói rằng muốn hướng dẫn, muốn dạy dỗ người khác, thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình. Bởi thế, điều kiện để trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.
3. Tin Mừng hôm nay không chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử củaThiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: ”Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
4. Trong một ngụ ngôn hài hước của thi sĩ La Fontaine kể rằng: thần Jupiter khi dựng nên con người thì ngài đeo cho họ hai cái túi: một cái trước ngực đựng những lỗi lầm của người khác, một cái sau lưng đựng những lỗi lầm của mình. Như vậy, người ta chỉ nhìn thấy những lỗi lầm của người khác mà không nhìn thấy những lỗi lầm của mình.
Bài học dạy đời của ngụ ngôn này đúng như câu tục ngữ của chúng ta: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng” do câu “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”.
Hoặc :
Chân mình thì lấm lê mê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Và đây cũng là bài học Chúa Giêsu dạy chúng ta: ”Cái xà trong mắt mình mà lại đòi gảy cái rác nơi mắt anh em”.
5. Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi chúng ta. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ của con người.
Vậy để tâm hồn, để con mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy cái rác trong đó, hay bới lông tìm vết để xét đoán chỉ trích họ vì một vài lỗi lầm nào đó, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy cái đà của ích kỷ, của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng hơn.
Vì con người xưa có câu :”Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi Kitô hữu, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Như triết gia Chilon và cũng là của nhà hiền triết Socarate :”Hãy tự biết mình”. Chúng ta cũng nên học gương thánh Augustinô mà thưa cùng Chúa :”Noverim Te, noverim me” : Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
6. Truyện : Lắng nghe lời phê bình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần cho biết một tin khẩn như sau :
- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau :
- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại :
- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời :
- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Suy Niệm 9: Phải biết mình
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Những lời trong bài Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Dothái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.
Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng những người không ưa mình nói về mình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:
- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
- Thưa ngài, người nầy là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời:
- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lẫn của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.
2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến dũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. “Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình ?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42)
Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì thì Chúa đã làm trước.
Các việc ở đời cũng vậy.
Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. “Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” thì không được.
Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:
Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.
Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói: - Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.
Einstein thản nhiên đáp lại bố: - Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi ?
Bố ân cần nói với Einstein: - Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sách sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tướng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dính đầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tường rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.
Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.
Suy Niệm 10: Sửa lỗi mình trước đã
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Lời Chúa hôm nay nói về sự mù quáng:
- Nếu ta mù quáng thì ta sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm.
- Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
B.... nẩy mầm.
1. Thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình. Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải. Những người ưu tú nhất thời Chúa Giêsu là biệt phái và luật sĩ đã mắc phải một cách nặng nề đến vô phương cứu chữa…. Huống chi tôi. Chắc chắn tôi đang bị hai thứ bệnh mù quáng và giả hình này. Chỉ cần xét mình một chút là tôi sẽ nhận ra ngay.
2. Tôi xét đoán anh chị em tôi hầu như suốt ngày, còn thời gian dành để tự xét đoán mình chỉ chừng 10 phút, mà nhiều khi tôi cũng để nó trôi qua một cách trống rỗng.
3. Một chiếc đồng hồ chạy sai có thể do rất nhiều nguyên nhân bên trong bộ máy. Muốn xét đoán đúng, thì chẳng những xem hiện tượng bên ngoài mà còn phải hiểu rất rõ những nguyên nhân bên trong. Bởi vậy, có thể nói, kẻ “có gan cùng mình” mới dám xét đoán. Thiên Chúa thấu hiểu mọi ngọn nguồn nhưng cũng không muốn xét đoán: trong chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói “Tôi không kết án chị đâu”; trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng, Ngài nói Ngài vẫn chờ đến phút cuối cùng mới đưa ra lời xét đoán của Ngài.
4. Tôi dễ đưa ra những lời xét đoán, nhưng tôi có nghĩ tới hậu quả của việc tôi làm không? Một quan tòa kết án sai thì sẽ khiến nạn nhân chịu khổ oan trong một thời gian lâu dài. Khi xét đoán, tôi cũng là quan tòa, sao tôi không nghĩ tới nỗi oan của người khác nếu tôi sai?
5. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6,41)
Truyện kể về một viên tướng, sau khi xông pha trận địa và lập được nhiều chiến công, được nhà vua mở yến tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, viên tướng vì quá vui đã xúc phạm đến một trong các cung phi. Thế là mọi người đua nhau lên án. Lúc đó, mọi công trạng của ông hầu như biến mất. Trước mắt mọi người, ông chỉ là một tội nhân.
Nói xấu anh em thật dễ lỗi phạm biết bao. Những người ở đó quên rằng chính họ lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Và chính bản thân tôi vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.
Lạy Cha, con xin đến với Cha như những gì con là, chứ không “tô sơn điểm phấn” (Hosanna)
09/09 Bắt chước Thiên Chúa Cha
- Viết bởi Lc 6, 27-38
Bắt chước Thiên Chúa Cha.
Thứ Năm tuần 23 thường niên.
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Lời Chúa: Lc 6, 27-38
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.
Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Yêu kẻ thù
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Ðức Giêsu,
chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi,
hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ.
Chắc chắn Ðức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác,
hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân.
Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.”
Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược.
Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc,
vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu.
Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới.
Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ
để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống.
Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo.
“Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần.
Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai?
Ðó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống.
Ðó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi.
Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp.
Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi,
là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi.
Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi.
Ðức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân:
về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện.
Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động.
Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay.
Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28).
Khi làm điều tốt cho kẻ thù,
tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng,
và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng
khỏi cái tôi ích kỷ của họ.
Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế,
tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa.
Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi.
Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay
một người làm tôi vô cùng đau khổ.
Ðó chẳng phải là một hành động giả hình,
nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên.
Ðó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu,
nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng.
Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên.
Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên...
Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình,
mới vào được thế giới siêu nhiên,
thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha.
Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.
Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học,
nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ
của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ.
Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương.
Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Suy Niệm 2: Nhân từ như Chúa Cha
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Yêu người thân cận như chính mình đã là khó lắm rồi. Nay Chúa lại đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù. Ai có thể làm được? Nhưng Chúa đưa cho ta một phương thế: Hãy nhân từ như Chúa Cha.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa luôn yêu thương. Không có mảy may thù ghét nào nơi Người. Người là tình yêu. Chỉ là tình yêu mà thôi. Tình yêu luôn phát ra tình yêu. Bất kể đối tượng thế nào. Có đón nhận hay không. Có yêu thương hay không. Có tốt hay xấu. Người không bị đối tượng qui định. Chính Người qui định đối tượng. Tình yêu Người mạnh hơn tất cả. Người yêu thương tất cả. Tha thứ tất cả. Nhân từ với tất cả.
Tôi thường bị đối tượng qui định. Gặp người tốt thì tôi yêu. Gặp người xấu thì tôi ghét. Tôi làm ơn cho người làm ơn cho tôi. Tôi trả oán cho kẻ làm hại tôi. Tôi yêu vì đối tượng dễ yêu. Hôm nay Chúa muốn tôi phải là tình yêu nguyên tuyền. Không bị đối tượng qui định. Nhưng tình yêu phát xuất từ đáy tâm hồn. Luôn yêu thương tất cả. Kể cả người làm hại, vu cáo, hành hạ mình. Điều này có thể được khi tôi kín múc được nguồn tình yêu nơi Chúa Cha. Để có thể yêu dù đối tượng có thế nào.
Khi qui chiếu về Chúa, ta đạt đến yêu thương như Chúa. Tha thứ như Chúa: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”. Để Chúa điều khiển tâm hồn. Nên nói gì, làm gì cũng theo ý Chúa: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su”. (năm lẻ).
Yêu thương khiến ta luôn nghĩ đến người khác. Không làm gì cho tha nhân sai lỗi. Không gây cớ vấp phạm. Kể cả những việc vô tội, được phép làm, nhưng vẫn không làm. Vì yêu thương, sợ người khác sa ngã. Như vấn đề ăn thịt cúng: “Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (năm chẵn).
Nhân từ như Chúa Cha, chúng ta xứng đáng là con của Người. Ta sẽ kiến tạo một thế giới mới. Thế giới của những người con của Cha Nhân Từ. Thế giới của lòng nhân từ. Một thế giới tràn đầy tình yêu thương. Một thế giới đáng sống.
Suy Niệm 3: Yêu Thương Kẻ Thù
Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.
Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.
Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: "Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tiến Mãi Không Ngừng
Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:
"Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng".
Những lời tâm sự của bà Ressa Marita hướng chúng ta đến những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà tác giả Phúc Âm thánh Luca đã ghi lại nơi chương 6.
Mức độ đo lường của tình yêu thương chúng ta là không có mức độ nào cả, hay đúng hơn là chính mẫu gương trọn tốt trọn lành vô cùng của Thiên Chúa Cha. Bao lâu còn sống trên trần gian này, chúng ta còn cần tiến thêm mãi trên con đường yêu thương. Không ai dám tự phụ cho rằng mình đã thành toàn, đã đạt đến mức độ trọn lành như Thiên Chúa rồi. Những hành động yêu thương được Chúa Giêsu nhắc đến mà tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại là những hành động yêu thương thiết thực, yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
"Hãy ra đi mà không tính toán hơn thiệt, đừng xét đoán, hãy tha thứ". Ðó là những chân trời mới, bao la, rộng mở tình yêu thương nơi tâm hồn người môn đệ Chúa. Chúng ta không thể nào chỉ nói ngoài môi miệng mà còn cần phải thực hiện tình yêu thương như Chúa đã nêu gương bằng những hành động cụ thể. Nếu không, ta sẽ bị xét xử như là những kẻ giả hình, nói mà không làm, không sống thật Lời Chúa dạy.
Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: "Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình".
Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: "Thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa".
Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.
Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Yêu người tột độ
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù va làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc. 6, 27-28)
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Kitô dẫn chúng ta tới đỉnh cao của bác ái, càng đi theo Người càng dốc hết hơi, leo lên cao mãi, cao mãi liên tục.
“Hãy yêu thương kẻ thù”, Chúa dạy thế, không lý thuyết xuông nhưng rất cụ thể. Người cho thấy những công việc rõ ràng trước mắt, không để chúng ta phải tưởng tượng. “Hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em...”. Tất cả những kẻ đó không phải là ảo ảnh ma quái, nhưng là con người bằng xương bằng thịt mà lý tự nhiên mình phải xa lánh, ghét bỏ. Chính những kẻ đó phải được nâng đỡ, phải sẵn lòng mỉm cười với họ.
Đức Kitô nói thêm: “Ai vả má bên này, thì hãy giơ má bên kia. Ai đoạt áo ngoài đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin hãy cho, ai lấy gì của anh thì đừng đòi lại...”.
Có lẽ chúng ta sẽ thẳng thắn trả lời: “Lạy Chúa, Chúa đã đi quá mạnh, không thể tới được”. Nhưng, Đức Kitô vẫn tiếp tục không khoan nhượng: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân nghĩa? cả kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay để được trả lại sòng phẳng.
Không thể tới được bác ái Kitô giáo, chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ. Làm sao sống vượt mức như thế! sống yêu thương tột độ! nhiều môn đệ của Chúa đã sống vượt mức như thế và còn sống vượt mọi mức tới tột độ nữa. Họ đã theo Đức Kitô Đấng giầu lòng thương xót và tha thứ. Đức Kitô sẽ hài lòng và âu yếm nhìn Phê-rô và tất cả mọi người đã nên giống Người.
GF
Suy Niệm 6: Tha thứ sẽ được thứ tha
Xem lại CN 7 TN A và C - thứ bảy tuần 1 và thứ Hai tuần 2 C, thứ Ba tuần 11 TN.
“Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình”. Đây là lệnh truyền của Đức Giêsu và là nội dung của Luật Thiên Chúa. Khi sống theo tinh thần này của Đức Giêsu, chúng ta đã đi vào cốt lõi của tình yêu, bởi vì nếu yêu thì đâu còn ranh giới giữa bạn và thù!
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ của mình yêu thương kẻ thù. Lấy cái thiện mà thắng cái ác.
Đức Giêsu không chấp nhận sự dữ, lòng gian ác, cũng như tội lỗi. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài loại bỏ họ, vì sứ mạng của Ngài đến để cứu người tội lỗi ra khỏi sự gian ác, biến người tội lỗi thành người công chính. Điều này đã được chứng minh qua hình ảnh nhân từ của Đức Giêsu với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, hay như Giakêu, người thu thuế, như Phêrô kẻ chối Chúa, như người trộm lành bị đóng đinh cùng... Đỉnh cao của sự tha thứ chính là lời cầu xin Chúa Cha tha tội cho kẻ giết mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta một định luật căn bản rằng: muốn được yêu thế nào thì hãy yêu người khác như vậy. Ai lại không muốn được kẻ khác yêu thương? Ai lại muốn kẻ khác ghét mình bao giờ?
Nếu yêu được cả kẻ thù thì hẳn sẽ không còn chuyện mắt đền mắt, răng đền răng... Không còn ranh giới giữa bạn và thù, không còn chuyện phe tả phe hữu. Đồng thời, khi có tình yêu với ngay cả kẻ thù, chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng mong muốn ơn huệ theo kiểu có qua có lại như: “Ông mất chân giò, bà thò nậm rượu”. Mặt khác, chúng ta sẽ dễ vượt qua chuyện xét đoán, vì ý thức rằng mình cũng đâu hơn gì người khác, thế mà mình đã được Chúa yêu thương bỏ qua, đến lượt mình, hãy tha thứ để được thứ tha, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con sẵn sàng đi vào và sống tận căn của Lề Luật, đó là yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét chúng con. Xin cũng cho chúng con hiểu rằng, đây là điều kiện cần để được Thiên Chúa thứ tha. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Lòng nhân từ, điểm đặc biệt của đạo Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lòng nhân từ, nhất là yêu kẻ thù, là điểm đặc biệt của đạo Chúa Kitô. Ta hãy có lòng quảng đại như Cha trên trời để biết yêu thương chân thành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hằng ngày chung quanh con, và trên báo chí, truyền hình, con vẫn nhìn thấy và đọc thấy nhiều cuộc đánh nhau, chửi nhau, thậm chí cả chém giết nhau. Nhiều lúc không xô xát to tiếng thì cũng là giận hờn, lườm nguýt, không nhìn mặt nhau, ghét nhau và ghét cay ghét đắng.
Như thế, chúng con đã không sống đúng với phẩm giá con người. Tất cả chỉ bởi con sống thiếu tình yêu. Con chỉ yêu những người yêu con và ghét những ai ghét con, làm hại con. Vì thế, cuộc sống vẫn đầy đau khổ, hận thù chồng chất hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con phải yêu thương tất cả mọi người. Tình yêu của con phải vượt ra ngoài biên giới thân thuộc, giáo xứ, cộng đoàn thân quen. Nhưng quả tim con quá nhỏ hẹp, chưa thực hiện được điều Chúa dạy. Xin Chúa ban cho con quả tim của Chúa, một quả tim quảng đại, biết vươn mình lên cao, vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường: không xét đoán, không lên án, nhưng biết mặc lấy tâm tình bao dung, tha thứ. Xin cho con biết vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho quả tim con đủ lớn để có thể yêu người con không ưa, biết cầu nguyện và làm ơn cho họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để con có thể ôm cả những người thù ghét con. Xin cho con biết noi gương Chúa Cha là Đấng trọn lành và giàu lòng thương xót, để tình yêu lan toả trong cuộc sống con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót”.
Suy Niệm 8: Học biết tha thứ tất cả
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, bà đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng, vào một Chúa nhật nọ, sau khi bà kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc: dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác ở trại tập trung. Tiếng than khóc, cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà.
Người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ. Xin bà tha thứ cho tôi”. Coritanbun như chết điếng người, trước đây bà cầu nguyện và quyết tha thứ, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể bắt tay người đến xin bà tha thứ. Sau này vào năm 1971 khi kể lại: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa (Trích “Món quà Giáng sinh”).
Suy niệm
Để đạt tới đức ái tuyệt hảo thì Đức Kitô lại mong muốn sự thứ tha trong mọi tương quan, với những người mình không thích và với những kẻ mình ít ưa, thậm chí với cả kẻ thù: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình… ” (Lc 6,27-28). Với kẻ thù trước khi yêu thì phải có sự tha thứ.
Đức Kitô đã gợi mở cho chúng ta tinh thần vị tha tuyệt hảo và mời gọi chúng ta bước vào, “Tha thứ tới bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22), tha thứ không ngừng. Chúa Giêsu dạy con người là tha thứ mãi, vì tha thứ cũng là trao ban cho chính kẻ mình ghét cay ghét đắng bằng đức ái như chúng ta đã trao cho người thân, bạn bè… Chúa Giêsu còn nhấn mạnh tha thứ là điều kiện để được thứ tha như Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện mỗi ngày: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Tuy nhiên, sẽ không có được sự tha thứ vĩ đại như Chúa Giêsu tha thiết: “Tha thứ cho kẻ thù của mình” nếu chúng ta không có một quá trình học biết tha thứ. Sự tha thứ mà Chúa Kitô mời gọi chúng ta sẽ chỉ hiện hữu nếu chúng ta biết đào luyện cho mình một tiến trình tiệm tiến: Từ bản thân, đến những người thân lầm lỗi, những người ta không thích - không ưa… và tất cả sự tha thứ đều bắt nguồn từ đỉnh cao của đức ái.
Tha thứ cho anh em trong gia đình, bạn bè để nơi tâm hồn chúng ta luôn chan chứa tình huynh đệ bao dung, gia đình đầy ắp tiếng cười. Nhưng tha thứ cho người hãm hại mình quả là điều rất khó khăn. Đó là một bài học có lẽ khó nhất và là bài học thể hiện lòng yêu thương trọn vẹn nhất trong cuộc đời. Đó cũng là đỉnh cao của lòng vị tha Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Lời di chúc này gợi trong lòng tôi và bạn: yêu thương tha thứ như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động trả thù và luôn luôn sẵn sàng đối thoại, lập lại sự giao hảo với người ghét mình, với kẻ hại mình. Sẵn sàng chia sẻ và quảng đại làm ơn cho họ: “Thi ân xóa bỏ thù hận”, cách hành xử yêu thương này là luật vàng của lòng bác ái.
Ý lực sống:
“Cuộc sống là học biết tha thứ, tha thứ tất cả” (Paul Toupin).
Suy Niệm 9: Hãy yêu thương kẻ thù
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu dạy ta hãy yêu thương địch thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ chúng ta. Yêu người xa lạ đã là rất khó, nhưng yêu địch thù còn khó gấp bội. Chúng ta yêu người yêu chúng ta, yêu người đem lại niềm vui cho chúng ta... tình yêu ấy vẫn còn vị kỷ. Tình yêu trọn nghĩa phải là tình yêu vô vị lợi. Yêu như Chúa yêu ta khi ta còn là tội nhân. Chúa đã chịu chết để ta được cứu độ. Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu vô điều kiện, vô vị lợi, một tình yêu chân chính.
Trong Cựu ước, chúng ta chỉ thấy luật căn bản là mến yêu Thiên Chúa hết lòng và thương yêu tha nhân như chính mình. Ngoài ra, không có luật nào buộc phải thương yêu kẻ thù, bởi vì chúng ta thấy trong đó có luật báo oán: mắt đền mắt, răng đền răng. Đây là một lề luật xây trên luân lý tự nhiên, ai cũng có thể chấp nhận (x.Xh 21,23-25; Lv 24,17-21).
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo lý tuyệt vời về đức bác ái: hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân mình. Tha nhân có thể là người yêu thương chúng ta, nhưng cũng bao gồm những người không thương, lại còn ghét chúng ta, thậm chí cả những người làm hại chúng ta nữa. Đó là luật yêu thương kẻ thù. Đây là một luật có tính cách siêu việt.
Để thực hiện luật yêu thương này, Đức Giêsu đơn cử ra hai việc phải thực hành:
a) “Hãy làm lành cho kẻ ghét các con”: Ở đây muốn nói: Tình yêu thương tha nhân không phải thôi không giận hờn, không báo oán nữa, nhưng phải tỏ ra bằng hành động cụ thể qua những cử chỉ rõ ràng là những việc lành như giao tiếp, giúp đỡ, cầu nguyện...
b) “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đây là thái độ biểu lộ tình yêu tha nhân cách tích cực: lấy điều lành đền đáp lại điều dữ.
Ta có bổn phận phải yêu thương bạn hữu. Song chỉ yêu bạn thì có gì đáng thưởng. Vì cho được thưởng đời đời thì nhân đức phải bắt nguồn từ suối siêu nhiên. Vì thế:
- Làm sự dữ để trả ơn lành là ma quỷ.
- Làm sự lành để trả ơn lành là nhân loại.
- Làm sự lành để trả sự dữ là Thiên Chúa.
Vậy người Kitô hữu không được đứng ở chỗ nhân loại, mà phải tiến xa hơn đến chỗ Thiên Chúa. Như thế mới xứng đáng là con cái Chúa, Đấng làm ơn lành cho kẻ ghét Ngài.
Ngày xưa, nhiều người cũng có chủ trương như Chúa Giêsu đã dạy:
a) Học thuyết của Khổng Tử: Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Tử giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết: “Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đệ tử của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu: “Dĩ đức báo oán”.
b) Đức Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói: “Lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.
c) Ông Mahatma Gandhi nói: “Luật vàng của xứ thế là tha thứ lẫn nhau”. Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh.
d) Mục sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói: “Trong Tân ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.
Truyện: Tha thứ cho kẻ thù
Một ông bố giàu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quý giá không thể chia cắt được.
Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng: “Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa nào thực hiện một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó”.
Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố:
- Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.
Người cha tuyên bố:
- Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.
Đến lượt đứa con thứ trình:
- Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé chết đuối.
Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út. Cậu ấp úng bẩm:
- Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.
Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố:
- Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.
Suy Niệm 10: Luật yêu thương tích cực
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa hôm nay dễ hiểu nhưng khó thực hành.
Luật yêu thương không phải thời Chúa Giêsu mới có. Luật này đã được nói tới từ lâu nhưng nó mới chỉ có tính cách tiêu cực.
Hillel một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò cò trên một chân, ông bảo:
“Điều gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp, các sự khác chỉ là giải thích”.
Philô, một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm cho bất cứ ai”.
Socrates, một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”.
Các triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”.
Khi người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời sống con người không ?”. Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.
Tóm lại, tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mình đừng làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.
Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật yêu thương đã có một khuôn mặt mới. Nó có tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho kẻ khác những điều như chúng ta muốn kẻ khác làm cho chúng ta.”(Lc 6,31)
Tại Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh ?” thì người thanh niên này nhất định không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao con không khai người đánh đập con với cảnh sát ?
- Thưa mẹ, - cậu ta trả lời - nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính con!
Có lẽ phải can đảm lắm mới có được cách ứng xử như vậy. Nào có ai muốn khổ cho mình đâu….Vậy thì đừng làm cho người khác. Ai mà lại không muốn cho mình được yên hàn bình an, hãy cố mà làm cho người khác như vậy. Đó là điều Chúa muốn.
2. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”.(Lc 6,31)
Lời Chúa chẳng có gì khó hiểu.
Ông chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra vào.
Một cậu bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:
- Ông định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ ?
- Cũng tùy, từ 30 - 50 đô-la, cháu ạ.
Cậu bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:
- Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.
Người chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:
- Con chó nhỏ ấy làm sao thế ạ ?
- Bác sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.
- Đây chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.
- Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng cho cháu đó.
Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:
- Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi tháng đến khi nào đủ tiền.
- Cháu sẽ không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.
Cậu bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:
- Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với nó ông ạ!
Nhìn lại cuộc đời của Chúa ta thấy Chúa đã không chỉ nói suông nhưng những điều Ngài dạy thì Ngài đã làm trước.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
là Lời Chúa, Lời linh thiêng, Lời uy quyền, Lời hằng sống,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen.
Suy Niệm 11: Chúa Giêsu dạy cách đối xử với tha nhân
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Những lời Chúa Giêsu dạy về cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
- Đừng thù ghét lại nhưng hãy yêu thương, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ.
- Đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.
2. Những lời dạy về cách đối xử va tha nhân cách chung:
- Làm ơn và cho đi mà không cần đáp trả.
- Cư xử nhân hậu
- Đừng xét đoán và kết án.
- Hãy tha thứ.
3. Lý do của tất cả những cách cư xử trên là vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”; “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán, hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con…”
B.... nẩy mầm.
1. Những chữ “vì” trong tương giao:
- Nếu “vì tôi”, thì tương giao sẽ ích kỷ.
- “Vì người ấy” thì tương giao sẽ vụ lợi hoặc thất thường (người ấy tốt thì tôi sẽ tốt, ngược lại…)
- Khi biết “vì Chúa”, các tương giao sẽ vô cùng cao thượng và tốt đẹp.
2. “Các con muốn người ta làm gì cho các con thì các con hãy làm cho người ta như vậy”: Tôi thường đòi hoặc mong người ta làm cho tôi thế này thế nọ. Đó là cách tương giao lấy mình làm trung tâm qui chiếu. Cách tương giao này khiến người khác nặng nề và cũng thường làm tôi thất vọng. Hôm nay tôi thử cách tương giao quên mình để nghĩ đến người khác xem: chắc là mọi người đều sẽ vui, phần tôi cũng sẽ cảm thấy một niềm vui sâu xa khó tả.
3. “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán… Hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; Hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con”: những thứ mà người khác dùng để đáp lại tôi chắc chắn không tốt bằng chính Thiên Chúa đáp lại, vì Ngài rất quảng đại, Ngài “sẽ lấy đấu hảo hạng đã dằn, đã lắc mà đổ vào vạt áo các con”.
4. “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27)
Lần nọ trong một ngôi thánh đường, hàng ngàn người say sưa ngồi lắng nghe vị mục sư giảng về lòng yêu thương. Khi bài giảng đã kết thúc, vị mục sư bước ra khỏi ngôi thánh đường. Bỗng một người tiến lại và chìa tay về phía ông. Đó chính là người đã hại ông khi xưa. Ngập ngừng hồi lâu, vị mục sư ngượng ngùng đưa tay bắt.
Sự ngập ngừng của vị mục sư cũng chính là thái độ của tôi trong cuộc sống hôm nay. Tôi không dễ dàng tha thứ để đón nhận và yêu thương kẻ thù. Tôi đã quay lưng lại khi phải đối diện với họ.
Lạy Chúa, xin cho con con tim của Chúa, để con bao dung, yêu thương và tha thứ cho hết mọi người như chính Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng con. (Hosanna)
08/09 Bà sinh con trai
- Viết bởi Mt 1, 1-16. 18-23
Bà sinh con trai.
Thứ Tư tuần 23 thường niên – SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA. Lễ kính.
"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".
* Sinh nhật của Đức Maria vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gioan, vị Tiền Hô. Sinh nhật của Đức Maria loan báo Sinh Nhật của Đức Giêsu, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà Anna và ông Gioakim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.
Lời Chúa: Mt 1, 1-16. 18-23
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bà sẽ sinh con trai
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét,
thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ.
Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng!
Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác,
bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được, thì Ngài đã làm cho em.
Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao,
sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể.
Em bé ấy tên là Maria.
Hôm nay Hội Thánh mừng sinh nhật của Đức Maria.
Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng.
Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại,
vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao.
Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình.
Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ,
để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn.
Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi.
Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu.
Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do,
không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn,
dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.
Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse.
Chị Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái.
Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người,
nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn của Chị.
Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài.
Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Chị ước mơ.
Khác với bà Evà, Chị tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng.
Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới.
Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường.
Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng.
Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội.
Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét.
Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình.
Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria.
Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy.
Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha,
và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng.
Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta.
Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi, để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
SUY NIỆM 2: Sinh nhật Đức Maria
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Như Mẹ Maria, ta đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa vì Ngài luôn điều khiển mọi biến cố để thực hiện chương trình cứu độ loài người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xác tín về sự khôn ngoan tuyệt vời mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa cho Mẹ được sinh ra và chuẩn bị cho Mẹ mọi điều thiện hảo, để qua tiếng xin vâng của Mẹ, Chúa nhập thể nơi cung lòng Mẹ. Chính Thiên Chúa đã can thiệp và khởi đầu công trình cứu chuộc loài người hoàn toàn tốt đẹp. Trinh nữ Maria đã trở thành người Mẹ hoàn hảo mà vẫn trong trắng vô ngần. Phần thánh Giuse, dù với bao lo lắng, ưu tư, đã nên công chính hơn nhờ sự quyết tâm thi hành mọi lệnh truyền của sứ thần. Con xin thờ lạy sự khôn ngoan và quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Mẹ Maria đã vâng nghe Thánh Ý Thiên Chúa, đã đón nhận và sống thân mật với Chúa cả xác hồn. Nhưng Mẹ không giữ hạnh phúc cho riêng mình. Mẹ đem Chúa và hạnh phúc đến cho mọi người: Mẹ đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét để trao hồng phúc cho cả nhà; tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ giúp cho buổi tiệc trọn niềm hân hoan…
Xin cho con noi gương Mẹ, biết đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, sống thân mật với Chúa, và hơn nữa biết giới thiệu Chúa và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Xin cho con luôn kết hợp mật thiết với Thánh Thể, luôn gắn bó với Lời Hằng Sống, để rồi chia sẻ hạnh phúc với mọi người bằng đời sống bác ái yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con luôn làm theo Ý Chúa để niềm tin của con như Mẹ Maria, được trọn vẹn và hân hoan trong Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần”.
SUY NIỆM 3: Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria nhằm hướng tới ngày trọng đại: sinh ra Đấng Cứu Thế. Tiếp đến “Đấng được sinh ra làm con một người đàn bà và sống dưới Lề luật” (Gl 4,4) đã cho chúng ta được sinh lại làm con cái Chúa. Đức Maria sinh ra trong ơn thánh, không vướng mắc nguyên tội. Còn chúng ta được khỏi tội tổ tông nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta mới được sự sống mới.
Chúng ta mừng Sinh nhật Đức Mẹ với niềm hạnh phúc vì luôn có Mẹ trong cuộc sống, như “Trong tiệc cưới Cana có thân mẫu Đức Giêsu” (Ga 2,1). Với Mẹ Maria chúng ta có được bông hồng cài áo. Đây là tập tục dễ thương của người Nhật, để tôn kính hiền mẫu, đã sớm du nhập vào Việt Nam.
Mừng Sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta cũng nhớ đến ngày sinh của chúng ta, để “Sao được cho ra cái giống người” (Tú Xương), hơn nữa cho ra người con Chúa. Cũng là lúc chúng ta nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, cố gắng làm vui lòng các ngài, như gương sáng của Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
SUY NIỆM 4: Sinh nhật Đức Maria
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha mẹ của ngài là thánh Gioankim và thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioankim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria đã chào đời là để thực hiện ý Thiên Chúa, Mẹ đã mở rộng cửa trời để đón nhận mọi người và lời xin vâng làm Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúng ta cử hành lễ sinh nhật Đức Mẹ, vì từ nơi ngài đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính, là Đức Kitô, Thiên Chúa chúng ta (Ca nhập lễ, lễ sinh nhật Đức Mẹ). Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ, nhân loại được hạnh phúc vì công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã ló rạng qua việc chào đời của người nữ tử Sion mang danh Maria.
Câu chuyện
Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, khách hành hương thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (x. Ga 5,1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của thánh Gioakim và thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra.
Giáo hội Đông phương cũng như Tây phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ từ thế kỷ VI. Đến thế kỷ X, lễ được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này… Khi canh tân phụng vụ, Đức Piô X bỏ lễ vọng và tuần tám ngày và truyền lễ sinh nhật Đức Mẹ như hiện nay.
Suy niệm
“Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nảy sinh từ gốc Giêsê” (Phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Giáo hội Ðông phương).
Sự son sẻ được sinh con của Anna gợi lên chủ đề quen thuộc trong Cựu ước, theo đó con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa. Điều này được nhấn mạnh đặc biệt trong truyền thống về các tổ phụ Isaac, Giacob và Giuse… Định mệnh của Thiên Chúa chỉ bởi Thiên Chúa mà thôi. Sách Nguỵ thư của thánh Giacôbê có ghi: Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: Bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Maria trong đền thờ cho Thiên Chúa khi Maria được 3 tuổi, song thân dẫn Maria lên đền thờ tại Giêrusalem như một món quà dâng lên Chúa.
Đức Maria, người thiếu nữ Sion, một thiếu nữ Nadarét, qua lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay ai cũng biết Bà là Mẹ Đấng Cứu Thế (x. Mt 1,18-23). Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị Maria cho sứ mạng trở nên Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Thế nhân gian. Ngài cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là con người trọn vẹn và Maria được chọn để làm người mẹ ấy. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao, ngày Maria chào đời chan chứa mừng vui và hy vọng.
Chính vì Maria là cung lòng, là ngai cho Con Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên thai nhi, Maria còn trong bụng mẹ được Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc Maria trong tình yêu: Được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Maria đã lớn lên thành một thiếu nữ, đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái: Lập gia đình khi đính hôn với Giuse. Tuy nhiên tình yêu và hôn nhân với Giuse mang ý nghĩa mới: Cộng tác vào chương trình cứu độ. Maria luôn đáp trả xin vâng và tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào thánh ý Ngài. Cuộc đời của Maria như một bài ca bất tận: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 13,6).
Chúng ta mừng sinh nhật Đức Maria trong lời cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương sắp đặt cho nhân loại có một người Mẹ tuyệt vời, cùng hiệp lòng dâng lên Mẹ Maria những lời ngợi khen vì Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ muôn vàn ân phúc… “vì Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30).
Ý lực sống:
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).
SUY NIỆM 5: Sinh nhật Đức Maria
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ.
Lễ Sinh Nhật Mẹ đã được Đức Giáo Hoàng Sergiô I sống vào thế kỷ thứ VlI đưa vào trong Phụng vụ Giáo Hội. Cuộc đời của Mẹ Maria luôn luôn gắn liều với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Lúc bước vào thế gian với hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã là một khởi đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu rỗi. Vì thế, nếu chúng ta vui mừng với biến cố Nhập Thể và Sinh nhật của Chúa Giêsu trong lịch sử nhân loại, thì chúng ta cũng phải vui mừng và sung sướng đón mừng ngày Sinh nhật của Mẹ Maria, một người phụ nữ đã được chào chúc là Đấng “Đầy tràn ơn sủng”, và luôn "được Thiên Chúa ở cùng".
Mừng sinh nhật có nghĩa là chúng ta mừng ngày Mẹ được Chúa cho sinh ra trên cõi đời này. Việc Mẹ được sinh ra xét về phương diện trần thế thì chẳng có gì khác với mọi người. Mẹ cũng được cưu mang, cũng cất tiếng khóc chào đời. Mẹ cũng được nuôi nấng và lớn lên từ những giòng sữa của người đàn bà. Đó là bà Anna. Điều khác ở nơi Đức Mẹ là vì Đức Mẹ đã được Chúa tiền định cho Mẹ có một vai trò rất đặc biệt trong chương trình cứu độ của Người.
Với hai tiếng Xin Vâng, Mẹ đã trở thành dụng cụ trong trong bàn tay kỳ diệu của Thiên Chúa. Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã cho con của mình được trở thành một Con Người, một con người bằng xương bằng thịt giữa loài người. Mẹ đã dùng những dòng máu, và chia sẻ xương thịt của mình để làm nên xương thịt của Chúa Giêsu. Mẹ đã dùng những giòng sữa quí báu của mình để Chúa Giêsu được lớn lên. Bằng sự chăm lo của một người Mẹ dành cho một người con, Mẹ đã làm cho Chúa Giêsu được trở thành một Con Người, một con người như mọi người ở giữa, ở với loài người để rồi từ đó Chúa thực hiện chương trình cứu độ Chúa Cha trao cho Người.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã cho Mẹ được sinh ra làm người.
Chúng ta cám ơn Chúa đã chọn Mẹ Maria để cộng tác với Chúa trong chương trình Cứu Độ.
Chúng ta cám ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria thật nhiều đặc ân để Mẹ có thể chu toàn được sứ mệnh Chúa trao phó trong chương trình cứu nhân độ thế của Chúa.
Ngày nay Mẹ đã về trời. Mẹ được về trời với cả hồn xác nghĩa là Mẹ về trời bằng cả con người mà Mẹ đã sống trên trần gian. Mẹ về trời vừa để làm mẫu gương cho chúng ta, vừa làm Đấng phù trợ đắc lực và đầy uy quyền cho cả loài người.
2. Vậy nhân dịp mừng lễ Sinh Nhật của Đức Mẹ hôm nay, một đàng chúng ta hãy cảm tạ Chúa. Nhưng đàng khác chúng ta cũng hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được biết sống thế nào cho tốt để mai sau chúng ta được cùng với Mẹ hưởng hạnh phúc đời dời.
Thế nhưng phải sống thế nào đây? Đó là một câu hỏi mà mỗi người phải tự tìm ra cho mình một câu trả lời.
Vào thứ bảy 19/09/1989, ông John Ivan mừng lễ sinh nhật thứ 112, và người con trai duy nhất của ông lúc đó cũng đã 78 tuổi. Hai cha con sống yên lành tại một thành phố nhỏ Lancashire, miền tây Anh Quốc. Và nhân dịp mừng sinh nhật thứ 112 này, trả lời cho hãng thông tấn ASB đến phỏng vấn, ông John Ivan đã trình bày bí quyết sống lâu của ông bằng một bảng lề luật "bốn không một có". Bốn không là:
- Không hút thuốc.
- Không uống rượu.
- Không giận ghét chửi rủa kẻ khác.
- Không bài bạc gian tham.
Và một có là: Có tinh thần hòa hợp với mọi người.
Trước đó không lâu, ông John Ivan cũng đã lãnh được giải thưởng "người có quả tim vàng" vì lòng tốt đại độ của ông đối với mọi người xung quanh.
Nếu để kéo dài cuộc sống trên trần gian này dài thêm thì ông John Ivan vẫn phải thực hiện bí quyết sống "bốn không một có" như ông đã làm. Vậy thì thử hỏi nếu cuộc sống trên trần gian mà còn phải có những quy luật như vậy thì để được có sự sống đời đời chúng ta càng phải có những quy luật khắt khe như thế nào?
Chúng ta hãy nhớ lại câu truyện chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Anh ta đã đến hỏi Chúa về bí quyết để được sống đời đời: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Trước hết Chúa Giêsu nhắc lại cho anh ta những điều kiện căn bản, trong đó cũng bao gồm cả những bí quyết giống như bí quyết "bốn không một có" của ông John Ivan trên đây, đó là:
- Không gian dâm,
- Không giết người,
- Không làm chứng gian,
- Không làm hại ai
- và một có là hãy thảo kính cha mẹ.
Đó là bí quyết "bốn không một có".
Chàng thanh niên đã trả lời cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi đã giữ cẩn thận các điều ấy từ thuở nhỏ". Đối với cuộc sống ở đời được như vậy đã là quí lắm. Nhưng cuộc sống đời đời đòi hỏi một điều gì hơn nữa.
Tin Mừng Marcô ghi tiếp: "Bấy giờ Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh rồi bảo: anh còn thiếu một điều nữa là hãy đi bán tất cả gia tài và lấy tiền làm phúc cho kẻ nghèo khó, anh sẽ được một kho báu trên trời rồi đến đây theo Ta". Anh ta đáp lại thế nào? Tin Mừng ghi: "Nghe lời ấy anh buồn rầu và chán nản bỏ đi vì anh có nhiều của cải lắm". Anh ta đã chọn của cải trần gian hơn là chọn đi theo và sống kết hiệp với Chúa Giêsu. Anh ta đã đặt giá trị vật chất lên trên cả việc đi theo Chúa để làm môn đệ cho Ngài.
Có thể chúng ta ngày hôm nay, nhiều người chúng ta cũng hành động giống như thế. Chúng ta không dám chọn Chúa và đặt Ngài làm chỗ nhất trong đời sống chúng ta. Và nếu không làm nổi việc này thì chúng ta khó mà sống an vui trên trần gian này và khó mà hưởng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, như Mẹ Maria thuở xưa, mỗi người Kitô chúng con đã được Chúa mạc khải cho biết bí quyết sống hạnh phúc, sống an vui, sống đời đời. Ðó là sống theo Chúa, kết hiệp với Chúa và sống như Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con thực hành điều Chúa đã truyền dạy và cố gắng sống như Mẹ Maria đã sống thuở xưa để mai ngày chúng con được về huởng hạnh phúc cùng Mẹ trên trời. Amen.
SUY NIỆM 6: Cuốn sách một chữ
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã được cứu thoát.
Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy?
Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 7: Gia phả của Chúa Giêsu Kitô
Hôm nay, lễ sinh nhật Ðức Mẹ, quyển gia phả của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm trong ngày sinh của Ðức Mẹ có một ý nghĩa đặc biệt. Quyển gia phả này được chia thành 3 phần: Phần thứ nhất kể tên các vị tổ phụ, phần thứ hai nhắc đến các vua trước thời lưu đày bên Babylon, và phần thứ ba dành cho các vua sau thời lưu đày.
Tất cả những tên tuổi được nhắc đến trong quyển gia phả của Chúa Giêsu gợi lên cho chúng ta chương trình và sự lựa chọn vô cùng lạ lùng của Thiên Chúa.
Quả thật, gia phả của Chúa Giêsu như được thánh Máthêu dựng lại là một dòng sông lịch sử được dệt bởi rất nhiều tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại cũng là lịch sử của tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu cũng đã hành xử theo cung cách ấy của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Phêrô là kẻ đã chối Ngài, Ngài đã chọn Phaolô là kẻ đã bách hại Giáo Hội của Ngài.
Thông thường, khi viết về lịch sử của dân tộc, người ta thường che dấu những thất bại để chỉ đề cao những chiến thắng, các bậc anh hùng và những hành động lẫm liệt của họ. Lịch sử của ơn cứu độ đã không được viết như thế, Thiên Chúa đã viết thẳng bằng những đường cong, Ngài đã chọn viên đá bị loại ra làm viên đá góc tường, Ngài đã chọn những con người yếu đuối và tội lỗi để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Chính trong dòng sông đầy tội lỗi ấy mà Mẹ Ngài đã được sinh ra để chuẩn bị cho Ngài một chỗ trong lịch sử nhân loại. Chính vì là thành phần của một nhân loại tội lỗi mà Mẹ mới có thể sinh ra Chúa Giêsu như một con người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính vì sinh ra trong một gia đình tội lỗi mà Mẹ mới có thể cảm thông với những yếu đuối bất toàn của kiếp người. Chính vì gắn liền với một lịch sử đầy những phản bội hất ngã mà Mẹ mới là nơi nương tựa cho những người tội lỗi. Còn lời kinh nào xứng hợp để dâng lên Mẹ trong ngày sinh của Mẹ cho bằng lời kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 8: Sinh nhật Đức Maria
Ma-ri-a là nguồn cậy trông vì lý do tối cao của Mẹ để sống chính là Thiên Chúa. Mẹ sống vì Chúa. Mẹ khao khát làm theo thánh ý Chúa “Này tôi là tôi tớ Chúa, mong sao lời Chúa đến với tôi”. Mẹ sống vì con để chia sẻ ước muốn của con cứu độ thế giới để giải thoát mọi người khỏi áp chế của sự dữ. Mẹ cộng tác vào sứ vụ của Con. Mẹ dâng lời cầu nguyện hiến lễ cho nước Chúa ngự đến. Mẹ kết hiệp những đau đớn của Mẹ với đau đớn của Con.
Thiên Chúa là nguồn hy vọng của Ma-ri-a
Ma-ri-a hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Mạnh mẽ hy vọng, Mẹ có thể đương đầu với mọi hoàn cảnh đau khổ, dù thật bi đát. Mẹ chịu đau khổ khi Đức Giê-su bị hiểu lầm, bị oán ghét. Lòng Mẹ bị xâu xé, khi mẹ đứng dưới chân thánh giá để chứng kiến con hấp hối.
Mẹ suy niệm trong lòng lời trối cuối cùng của con khi Người phó Mẹ cho Gioan : “Thưa Bà, này là con Bà... Này là mẹ con...”
Trước xác con mẹ không một chút nghi ngờ lời Người đã nói : “Ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”. Con Mẹ đã sống lại và hằng sống ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Mẹ vui mừng về hạnh phúc và vinh quang của con Mẹ : “Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc”.
Hy vọng của chúng ta là gì ?
Hy vọng của chúng ta bị suy nhược vì nó không đặt vững chắc trên nền tảng tốt lành và toàn năng của Thiên Chúa.
Mẹ Ma-ri-a là mẫu mực của lòng trông cậy. Mẹ mời gọi chúng ta đặt tất cả nguồn trí tri của chúng ta, con tim của chúng ta, ý chí của chúng ta làm theo lời kêu gọi trở về với Chúa, nâng cao cái nhìn của chúng ta vượt trên trái đất này để đến với ánh sáng lời Chúa, đến với nguồn an ủi trong tình yêu của Chúa, đến với nguồn sức mạnh toàn năng của Chúa.
“Sống giữa trần gian đầy bất công, chia rẽ, đói khổ, người Kitô hữu cẫn phải trở nên niềm hy vọng cho trần gian. Đây thật là một thách đố lớn lao ; thách đố quét sạch mọi hận thù. Sự hiện diện của người Kitô đem lại Tin Mừng xây dựng. Thách đố này đang thiêu đốt con tim đem yêu thương mạnh mẽ vào nơi thất vọng”. (Schutz R... Violence despacifiques P. 158) J.M
SUY NIỆM 9: Sinh nhật Đức Maria
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày lễ sinh nhật Mẹ Maria hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc lại gia phả của Chúa Giêsu. Ta thấy, trong suốt chiều dài lịch sử thấy Thiên Chúa đã tuyển chọn gia tộc cho Người cách đặc biệt.
Hình ảnh bốn phụ nữ được Kinh Thánh nói đến như là một tiên báo cách kín đáo về Đức Kitô, Đấng sẽ đến để cứu độ những người tội lỗi, và đón nhận mọi dân mọi nước vào vương quốc của Người. Việc tuyển chọn những nhân vật này không phải là điều đáng tự hào vì lý lịch của họ. Nhưng tiêu chuẩn của Thiên Chúa khác với con người. Người chọn sự yếu kém để nói lên lượng từ bi của Người.
Đây là "gia phả của đức tin và ân sủng". Vì cho dẫu gia phả này được đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót Chúa, được chính Thiên Chúa can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt, khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài, không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người. Chính vì một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã sinh ra để cưu mang Chúa Giêsu Đấng cứu độ chúng ta
Mẹ Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang lầm lỗi. Mẹ đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Mẹ Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Mẹ đã làm cho có sự sống viên mãn.
Hôm nay là lễ sinh nhật Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu và là Mẹ chúng ta, chúng ta không thể không vui, và cùng nhau chúc mừng tuổi Mẹ. Ngày này phải là ngày vui chung của toàn thế giới, chứ không phải riêng cho một dân tộc hay một nhóm người nào. Bởi ngày sinh của Mẹ có liên quan trực tiếp đến biến cố Ngôi Lời Nhập Thể. Ngày Mẹ chào đời đánh dấu sự nối kết giữa Tân ước và Cựu ước, chấm dứt thời kỳ chờ đợi và những lời hứa, khai mở một thời kỳ mới, thời kỳ ân sủng và ơn cứu độ trong Đức Kitô. Mẹ thật xứng : "Đức Mẹ làm cho chúng con vui mừng".
Maria ! Mẹ Ngôi Hai Con Chúa
Chúc tụng Mẹ! Mừng Sinh nhật hôm nay
Chúa thương Mẹ ban ơn phúc dư đầy
Hình ảnh Mẹ, ngàn đời con ca tụng.
Quả thật, ngày sinh nhật của Mẹ đã khai mở lời hứa của Thiên Chúa bước đầu thành sự, đồng thời, Mẹ là Nữ Tử Sion, là hy vọng của nhân loại. Mẹ ra đời để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có cuộc sinh nhật của Mẹ, mới có sự ra đời của Đức Giêsu, có Đức Giêsu mới có Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, ngày sinh nhật của Mẹ đã được đặt vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, cứu độ. Mẹ như Sao mai dẫn lối đưa đường, Mẹ chính là hừng đông, là ánh bình minh báo trước Mặt trời công chính là Đức Kitô.
Vì thế trong ngày Đức Maria chào đời Giáo Hội đã kêu lên : "Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường nay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh".
Thánh Gioan Đamatsô đã dâng lời ca tụng : "Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới ! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!"
Vậy, hôm nay, mọi loài trên trời dưới đất hãy cùng nhau hoan hỷ và đồng ca, nhảy múa biểu lộ niềm vui bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như ở trên trần gian hãy họp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thọ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.
Khi mừng sinh nhật nhau, chúng ta thường tặng nhau những bó hoa, những món quà. Mừng ngày sinh nhật của Mẹ hôm nay: "mãi mãi nhân loại sẽ khơng ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa:
Chúng con tại thế tưng bừng,
Cùng nhau ca hát vang lừng bốn phương.
Tạ ơn Thiên Chúa tình thương,
Chọn người Trinh Nữ ngát hương ngàn đời.
Chúng ta hãy quyết hái nhiều hoa xinh đẹp để dâng kính Mẹ, tỏ lòng mến yêu Mẹ bằng những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính Mẹ, như : lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền tin, nguyện kinh cầu, một cách phi thường. Có nghĩa là miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Đức Giêsu cũng được thể thể hiện trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ. Với những lời chúc tốt lành nhất dâng về Mẹ cuộc sống hiện tại, quá khứ và tương lai làm món quà mừng Mẹ tuổi mới.
Mẹ sinh ra giữa muôn hoa hương ngát
Với màu sắc lộng lẫy đẹp đất trời
Mẹ rạng ngời trong hào quang vời vợi
Cùng Triều Thần con Chúc khen mừng Mẹ. Amen.
SUY NIỆM 10: Mẹ Maria là Evà mới
(Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta. Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”. Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng. Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô. Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân. Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống. Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.
Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã dấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng. Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và Mẹ của toàn thể chúng sinh. Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng”. Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.
Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.
Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính... phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại. Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa. Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc. Và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SUY NIỆM 11: Mẹ thật diễm phúc
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Bà Êlisabét hạnh phúc khi được Đức Trinh Nữ Maria tới thăm, Tin Mừng của thánh Luca cho thấy bà Êlisabét vừa nghe lời Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:” Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc…” (Lc 1, 41-42). Việc bà Êlisabét tung hô mẹ Maria có một ý nghĩa rất đặc biệt. Mẹ là người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian này vì Mẹ đã đắc sủng nơi Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế và làm Mẹ của toàn thể nhân loại.
Thiên Chúa đã tô điểm cho công trình sáng tạo tuyệt vời của Ngài. Evà thứ nhất đã phản bội lại tình thương cao vời, tuyệt đối của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đuổi ông bà nguyên tổ ra khỏi vườn địa đàng. Nơi vườn diệu quang này, đáng lẽ ông bà tổ tiên của nhân loại sẽ vô cùng hạnh phúc vì ông bà nguyên tổ luôn diện đối diện với Thiên Chúa, được Thiên Chúa trò chuyện mỗi buổi chiều. Nhưng rồi, cái tên Evà đã bị lu mờ vì tội sa ngã: ”ăn trái cấm do sự xúi giục của ma quỉ”. Evà đã mang sự chết vào trần gian. Tuy nhiên tình thương của Thiên Chúa vẫn vượt trội trên mọi sự, mọi việc ở trần gian này. Ngài lại tô điểm lịch sử cứu độ của Ngài bằng cách chọn lựa một người nữ có tên là Maria, Evà mới. Maria, Evà mới nói lên tất cả. Vườn địa đàng từ nay thuộc về người nữ tử Sion. Evà mới điểm tô cho vườn địa đàng mà bà Evà cũ đã làm hư đi. Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang sa cơn nguy lầm. Maria đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm cho nó bị hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Evà mới đã làm cho nó có sự sống viên mãn.
Trình thuật của thánh Matthêu 1, 1-16.18-23 nói về gia phả của Chúa Giêsu. Quyển gia phả ấy nói lên một lịch sử đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lịch sử này được đan kết bằng biết bao sự kiện, biết bao vụ việc vừa tội lỗi, vừa u tối, nhưng lịch sử ấy lại được chính Thiên Chúa ghé mắt đoái thương và can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt và khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài. Thiên Chúa đã không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người, của loài người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người một. Chính vì sống trong một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã cảm thông và hiểu được tình trạng của con người. Chính vì sống trong một thế giới u sầu vì phản bội mà Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu hoàn toàn giống như mọi người và đặc biệt ngoại trừ tội lỗi. Maria tên đẹp tuyệt vời gói ghém tất cả lịch sử loài người, Mẹ đã cảm thông với mọi yếu hèn, tội lỗi của nhân loại, của con người, nên Mẹ đã trở thành nơi nương tựa vững chắc của nhiều người.
Mừng lễ sinh nhật của Mẹ Maria, mãi mãi nhân loại sẽ không ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa: ”Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta luôn tôn kính, mến yêu Mẹ và những tràng hoa Mân Côi, những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Còn lời kinh nào đẹp bằng lời kinh kính mừng chúng ta dâng lên Mẹ: ”Kính mừng Maria đầy ân phước Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giêsu Con lòng bà gồm phước lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: ”Lạy Mẹ, Mẹ Thiên chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”.
SUY NIỆM 12: Lễ sinh nhật Đức Trinh nữ Maria
(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)
NGUỒN GỐC: Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, chúng ta thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (Gioan 5: 1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của Thánh Gioakim và Bà Thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra. Lễ kính Sinh Nhật Đức Maria có thể đã được mừng từ đầu thế kỷ thứ VI cùng với việc xây cất đền thờ gọi là Đền Sinh Nhật Đức Mẹ. Đền thờ này vào thế kỷ XII lại được đổi tên là Đền Thờ kính Bà Thánh Anna. Ngày nay, Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là “Lễ Kính” (có kinh Vinh Danh, có kinh Tiền Tụng riêng) trên toàn thể Giáo Hội.
Ý NGHĨA: Trong ngày Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, “chúng ta hãy hân hoan với tất cả tâm hồn, mừng kính việc sinh ra của Đức Trinh Nữ Maria, từ nơi Người đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Ca nhập Lễ).
Câu xướng trước Phúc Âm cũng ca tụng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, Mẹ diễm phúc, Mẹ xứng đáng mọi lời ca tụng; vì từ nơi Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” Theo Thánh Gioan Damascene, thì hôm nay chúng ta “muôn người như một, vui niềm vui của toàn thể nhân loại, ngày giao hoà của đất trời, ngày khởi đầu Ơn Cứu Độ nhân loại…”
Bài Đọc I trích trong sách tiên tri Mica (5: 1-4) nói đến thời một người nữ sẽ sinh ra… và cũng nói “hỡi Belem-Ephrata, ngươi là nơi thật nhỏ bé trong toàn cõi Giuđê, nhưng từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng Chăn Dắt Israel!” (Bài Đọc I cũng có thể lấy đoạn trích từ thơ Rôma (8: 28-30).
Bài Phúc Âm trích trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu (1: 1-16, 18-23) kể lại gia phả của Chúa Giêsu từ thời Abraham; đồng thời cũng kể lại việc Đức Maria chịu thai Chúa Giêsu (bởi quyền phép Chúa Thánh Thần), và việc Thánh Giuse vâng lời Sứ Thần truyền, rước Đức Maria về nhà như người vợ của mình.
SUY NIỆM: Ngày mừng Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria cũng là dịp để chúng ta nhớ đến ngày sinh ra của mỗi người chúng ta, để chúng ta nhìn vào cuộc đời của chính mình, tự nói với chính mình : “Tôi đã mừng sinh nhật thứ bao nhiêu? Tôi đã sinh ra đời được bao nhiêu năm? Tôi đã sống thế nào trong những năm tháng vừa qua như những người con của Chúa, của Mẹ Maria trong việc thánh hoá bản thân, trong việc phục vụ gia đình, xã hội và Giáo Hội Chúa? Tôi đã chu toàn thế nào bổn phận của người chồng, người vợ, của người Cha, người Mẹ, của những người con hiếu thảo? Tôi đã sống thế nào để xứng đáng là những người đã được Chúa yêu thương, gọi và chọn vào hàng Giáo Phẩm, vào đời sống tu trì như những Linh mục, Tu sĩ nam, nữ?
LỜI CẦU NGUYỆN: Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau khiêm tốn dâng lời cầu nguyện, xin Chúa thương thánh hóa đời sống mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết noi gương đời sống của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những Đấng đã luôn sống đẹp lòng Chúa, để chúng ta có thể sống một cuộc sống cao đẹp, biết quên mình, khiêm tốn phục vụ Chúa qua mọi người, nhất là những người đau khổ. Xin cho chúng ta luôn biết chung tay xây dựng gia đình, xã hội và thế giới, cũng như góp phần vào việc rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày trong cuộc sống.
SUY NIỆM 13: Lễ sinh nhật Đức Mẹ
(Lm. Giacobe Phạm văn Phượng, O.P.)
Hôm nay mừng sinh nhật Đức Maria. Có thể nói: ngoài sinh nhật Chúa Giêsu, không có sinh nhật nào quan trọng, cần thiết và ích lợi cho nhân loại bằng sinh nhật của Đức Mẹ. Tuy nhiên, sinh nhật của Đức Maria chỉ diễn ra âm thầm. Về ngày sinh nhật của Đức Mẹ, kinh thánh không cho biết gì, Thánh truyền cũng không ghi lại gì cả, chỉ có một câu chuyện do một vị ẩn sĩ kể lại, được Thiên Chúa cho biết ngày 8 tháng 9 là ngày sinh nhật của Đức Mẹ. Có lẽ Giáo hội đã dựa vào câu chuyện này mà mừng sinh nhật Đức Mẹ vào ngày 8 tháng 9 chăng ?
Về giáo lý và lòng tôn sùng đối với Đức Mẹ, lễ sinh nhật Đức Mẹ nhắc nhớ chúng ta hai điều. Thứ nhất, sinh nhật Đức Mẹ là rạng đông cứu rỗi. Chúng ta biết rạng đông đi trước mặt trời và báo hiệu mặt trời đến. Rạng đông là một khoảnh khắc tuyệt vời trước khi mặt trời mọc. Chúa Giêsu là mặt trời công chính, Mẹ Maria là rạng đông báo hiệu và đi trước mặt trời cao cả ấy; nghĩa là ròng rã bao nhiêu thế kỷ, nhân loại còn ở trong tối tăm, cho tới khi Đức Maria sinh ra, báo hiệu hừng dông cứu độ đã đến, báo hiệu ngày cứu chuộc sắp tới. Vì thế, trong kinh nguyện hôm nay, Giáo Hội nói lên rằng : “Lạy Nữ Vương, sinh nhật của Mẹ loan báo niềm vui cho toàn trái đất, vì mặt trời công chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, đã từ lòng mẹ sinh ra”. Do đó, chúng ta có thể nói : cũng như khúc nhạc dạo trước một bài hát, sinh nhật Đức Mẹ là dạo khúc của sinh nhật Chúa Giêsu.
Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta hôm nay, là hãy sống khiêm nhường và âm thầm như Đức Mẹ. Chúng ta thấy, người đời tin rằng: mỗi khi có một thánh nhân ra đời, thường có những chuyện lạ, và người ta hay thêu dệt những chuyện ly kỳ chung quanh đời sống của một vĩ nhân anh hùng.
Thế nhưng, ngày sinh nhật của Đức Maria, một thánh nhân trên mọi thánh nhân, lại không có chuyện lạ nào xảy ra. Đức Mẹ sinh ra hoàn toàn âm thầm và bình thường như mọi người.
Vì thế, sinh nhật Đức Mẹ cũng như cuộc đời Đức Mẹ dạy chúng ta đức khiêm nhường và thầm lặng. Thánh lễ chúng ta mừng kính Mẹ hôm nay là lời mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, thầm lặng. Ai muốn là kẻ lớn trước mặt Thiên Chúa thì phải ở ẩn khuất trước mặt mọi người. Công việc thực hiện cho Thiên Chúa càng lớn nếu người ta càng làm trong thầm lặng. Đó là gương mẫu và là bài học khôn ngoan Đức Mẹ dạy chúng ta.
SUY NIỆM 14: Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Viết về Mẹ, nói về Mẹ sẽ không bao giờ cạn vơi ý tưởng, sẽ không bao giờ ngập ngừng, miễn cưỡng. Mẹ trần thế là niềm an ủi cho cuộc đời của con người gian trần. Nhưng, người Kitô hữu luôn hãnh diện vì có một người Mẹ trên trời, Mẹ thiêng liêng mà gần gũi mỗi người, mỗi con người. Mẹ có tên gọi Maria. Cái tên sao êm dịu và dễ mến. Maria gói trọn cả ý nghĩa loài người. Mừng sinh nhật của mẹ Maria, nhân loại sẽ không ngớt lời ca ngợi Mẹ.
I.MARIA, NGƯỜI LÀ AI ?
Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha của Người là thánh Gioakim, mẹ của Người là bà thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioakim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria là người con duy nhất của thánh Gioakim và thánh Anna. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, xứ Galilêa, thuộc mạn Bắc Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn, thì kết hôn với Giuse thuộc chi họ vua Ðavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét.
Chính trong thời kỳ đính hôn, sứ thần Gabrien thừa lệnh Thiên Chúa đến với Maria khi Maria đang trong phòng cầu nguyện. Thiên Thần loan báo cho Maria hay cô sẽ thụ thai và sinh ra Ðấng Cứu Thế. Dù đã đính hôn, nhưng Maria đã quyết dâng trọn cuộc đời cho Thiên Chúa, nên Maria rất bối rối vì cô không biết đến người nam. Trước lời giải thích của sứ thần Thiên Chúa rằng" Cô sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nên sinh con, cô vẫn trọn đời đồng trinh". Tuy chưa hiểu hết,nhưng Maria đã thưa với sứ thần Gabrien: "Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền". Và chính lúc ấy, Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong cung lòng Ðức trinh nữ Maria.
Maria là Mẹ Ðấng cứu thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu.
II. SINH NHẬT CỦA ÐỨC TRINH NỮ MARIA CÓ Ý NGHĨA GÌ ?
Dù Mẹ Maria được sinh ra trong một hoàn cảnh nghèo khó, tầm thường trước mặt người đời,trước mặt thế gian. Cuộc đời của Mẹ bao trùm bởi biết bao sự lạ. Maria đã được Thiên Chúa để ý, chọn lựa ngay từ trong cung lòng bà thánh Anna để sau này kết hôn với thánh Giuse, sinh ra Ðấng cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần, vẫn trọn đời đồng trinh và không bị người đời, xã hội nghi ngờ. Chính vì thế, ngày sinh ra của Ðức trinh nữ Maria là một ngày trọng đại, ngày vui mừng của toàn nhân loại, của thế giới, của lịch sử cứu độ. Hội Thánh đã cất vang lời chúc tụng Mẹ: "Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Ðức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu".
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong năm 1987 và năm 2002 khi về thăm quê hương Ba Lan của Ngài, thì cử chỉ đẹp nhất, đáng trân trọng nhất là việc Ngài viếng mộ song thân của Ngài. Viếng mộ song thân, Ðức Thánh Cha muốn gióng lên tiếng nói thâm sâu hãy hiếu thảo với cha mẹ, hãy bảo vệ gia đình. Có cha mẹ, mới có con cái. Thế cho nên, bảo vệ gia đình, làm cho gia đình hạnh phúc là điều Ðức Thánh Cha kêu gọi. Qua cử chỉ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mọi người Kitô hữu trên thế giới hãy tỏ lòng biết ơn cha mẹ, đấng sinh thành nên mình và hãy bảo vệ gia đình, vì gia đình là nền tảng của xã hội và là Giáo Hội nhỏ. Con cái là hoa quả của tình thương yêu của cha mẹ. Cây tốt sinh trái tốt. Maria là hoa quả đầu mùa và quí giá nhất của hai thánh Gioakim và Anna.
Ngày sinh của Mẹ Maria là niềm vui, hạnh phúc của toàn thể nhân loại, mặc cho nhân loại ý nghĩa cứu độ và hồng phúc.
Lạy Ðức trinh nữ Maria đầy ơn phước, xin cầu bầu cho chúng con trước toà Chúa, để chúng con luôn một niềm trung tín và cậy trông vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con luôn biết nói lời xin vâng làm theo ý Chúa.
Xin cho chúng con cùng với Mẹ hát bài Magnificat ngợi khen Thiên Chúa.
SUY NIỆM 15: Noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay
(Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm)
Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8 tháng 9 năm 2006 vừa qua, Hội đồng Giám mục Việt Nam, sau khi họp Hội nghị thường niên tại Huế, đã công bố Thư mục vụ với đề tài : Sống đạo hôm nay. Thư mục vụ viết : “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em” (số 1). Chúng ta sẽ cùng nhau xem Đức Mẹ đã thực hành hai điểm đó thế nào và dạy chúng ta sống thế nào.
I. Gắn bó với Thiên Chúa
Đức Mẹ đã hết lòng gắn bó với Thiên Chúa, nghĩa là vâng theo ý Chúa Cha và sống với Chúa Giê-su.
1. Vâng theo ý Chúa Cha
a) Khi nghe thiên sứ truyền tin, báo cho Đức Mẹ là Đức Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà vẫn còn đồng trinh, Đức Mẹ đã bối rối. Nhưng khi được thiên sứ giải thích rằng đó là việc Thiên Chúa làm, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng phục và thưa : “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói” (Lu-ca 1,28-38). Từ đó, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc đời, kể cả khi theo Con mình đến tận chân Thánh giá.
b) Chúng ta cũng phải noi gương Đức Mẹ để biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Như vậy chúng ta sẽ đáng được Chúa Giê-su khen là có phúc và nhận chúng ta là anh em của Chúa (Lu-ca 8,21 ; 11,28). Nhờ lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta đọc trong Kinh Thánh hoặc nghe đọc trong Phụng vụ, chúng ta sẽ có thể nhận ra ý Chúa muốn chúng ta làm gì trong mỗi hoàn cảnh của cuộc đời, và hoàn toàn vâng theo ý Chúa khi vui cũng như lúc buồn. Xưa trong tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ đã nói với các gia nhân : “Ông Giê-su bảo gì, các anh cứ làm theo” (Gio-an 2,5) ; nay Đức Mẹ cũng nói với chúng ta như vậy : “Đức Giê-su bảo gì, các con cứ làm theo.”
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã vâng theo ý Chúa khi nào ?
– Chúng ta nghe và tuân giữ Lời Chúa thế nào ?
2. Sống với Chúa Giê-su
a) Từ khi thụ thai Chúa Giê-su trong lòng, Đức Mẹ đã luôn luôn gắn bó với Chúa Giê-su, sống với Chúa. Mọi suy nghĩ và việc làm của Đức Mẹ đều nhằm phục vụ người Con yêu quí, như sách Tin Mừng cho chúng ta thấy, nhất là trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Giê-su : Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giê-su, đã dâng con trong đền thờ, đã đưa con trốn sang Ai-cập, đã ba ngày tìm con bị lạc trong đền thờ. Từ khi Chúa Giê-su ra giảng đạo, chúng ta ít thấy Đức Mẹ xuất hiện, có lẽ vì Đức Mẹ tôn trọng, không muốn gây cản trở cho hoạt động của Chúa Giê-su. Nhưng trong giờ hãi hùng nhất, là giờ Chúa Giê-su chịu thương khó, khi các môn đệ đã bỏ trốn hết, chỉ còn một mình ông Gio-an, thì chúng ta thấy Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá để cùng chịu đau khổ với Con (Gio-an 19,25-27).
b) Như vậy Đức Mẹ nêu gương cho chúng ta. Nhờ bí tích thánh tẩy, chúng ta đã trở nên một thân thể mầu nhiệm với Chúa Giê-su và được sống sự sống thần linh Chúa ban. Vì thế mỗi người chúng ta cũng có thể nói như thánh Phao-lô : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Ga-lát 2,20). Chúng ta cần ý thức điều đó để nhớ rằng : Có Chúa Giê-su luôn luôn ở với ta trong mọi giây phút cuộc đời, Chúa không bao giờ bỏ ta. Vì thế ta luôn sống với Chúa và có thể cầu nguyện với Chúa mọi nơi mọi lúc. Đặc biệt trong những giờ phút gặp khó khăn, đau khổ, ta biết rằng Chúa luôn ở bên ta, để ban ơn giúp sức cho ta vượt qua thử thách.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã sống với Chúa Giê-su thế nào ?
– Chúng ta phải sống với Chúa Giê-su thế nào ?
II. Đến với anh chị em
Đức Mẹ luôn gắn bó và sống với Chúa, nhưng vẫn sinh hoạt như bao người khác khi sống trong gia đình Na-da-rét, đồng thời để ý đem Chúa đến cho người khác.
1. Sống đời sống gia đình
a) Thánh Gia Chúa Giê-su, Đức Mẹ và Thánh Giu-se là một gia đình không như những gia đình khác. Thế nhưng tại Na-da-rét Thánh gia đã sinh hoạt bình thường như những người khác. Đức Mẹ là một người nội trợ ; Thánh Giu-se là một người thợ, lao động để nuôi sống gia đình, và cũng đã truyền nghề lại cho con, nên Chúa Giê-su khi ra giảng đạo cũng được gọi là “bác thợ” (Mác-cô 6,3), “con của bác thợ” (Mát-thêu 13,55). Thánh Gia không sống xa cách với người khác, nên ai ai cũng biết (Gio-an 6,42). Đặc biệt, Thánh Gia chú trọng đến việc giữ đạo như lề luật Chúa dạy : khi sinh con được tám ngày thì làm phép cắt bì (Lu-ca 2,21) ; đến thời gian luật định thì đem con lên đền thờ để tiến dâng con cho Chúa và dâng lễ vật (2,22-24) ; khi trẻ Giê-su được mười hai tuổi thì cả gia đình đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem nhân lễ Vượt Qua (2,41-42). Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật, nhưng cũng là người thật, nên chắc hẳn Thánh Giu-se và Đức Mẹ đã có vai trò quan trọng trong việc giáo dục Chúa Giê-su về mặt nhân bản và đạo đức (x. Lu-ca 2,51).
b) Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ để sống với Chúa trong đời sống gia đình và trong những liên lạc với người khác. Ngày nay có nhiều ảnh hưởng bên ngoài có thể gây nguy hại cho sự đoàn kết trong gia đình cũng như cho việc giáo dục con cái. Noi gương Thánh Gia, mỗi gia đình công giáo phải luôn luôn đặt ý Chúa trên hết, và như vậy giữ vững được tình yêu giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh em chị em, đồng thời giáo dục con cái nên những con người tốt trong xã hội, những tín hữu tốt trong Giáo Hội.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Tại Na-da-rét Đức Mẹ đã sống đời sống gia đình thế nào ?
– Mỗi gia đình chúng ta phải sống thế nào ?
2. Đem Chúa Giê-su đến cho người khác
a) Đức Mẹ có Chúa Giê-su nhưng không ích kỷ giữ riêng cho mình, mà Đức Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Như khi thiên sứ truyền tin đã cho Đức Mẹ biết là bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng, tuy già rồi mà đã có thai con đầu lòng, thì lập tức Đức Mẹ đi đến miền núi xa xôi để thăm bà, chia vui với bà; Đức Mẹ cũng đem Chúa Giê-su khi đó còn đang ở trong lòng Đức Mẹ đến cho bà, khiến cho người con ở trong lòng bà đã nhảy lên vì vui sướng (Lu-ca 1,36-44). Rồi khi Chúa Giê-su sinh ra, Đức Mẹ cũng đưa Chúa ra cho các người chăn chiên và các nhà chiêm tinh bái lạy (Lu-ca 2,16 ; Mát-thêu 2,11). Sau khi Chúa Giê-su lên trời, chúng ta thấy Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ và một số người khác để trông đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như Chúa Giê-su đã hứa (Công vụ 1,13-14). Đây là lần cuối cùng Tân Ước nhắc đến “thân mẫu Đức Giê-su” : vào lúc Hội Thánh khởi đầu, Đức Mẹ có mặt, và chắc Đức Mẹ cũng đồng hành cách thiêng liêng với các tông đồ trong những bước đường truyền giáo, để cũng như Đức Mẹ, các ông đem Chúa Giê-su đến cho thế giới. Vì thế Hội Thánh quen kêu cầu Đức Mẹ là “Nữ Vương các thánh tông đồ”.
b) Đức Mẹ cũng là người hướng dẫn và đồng hành với chúng ta, để chúng ta ra đi đem Chúa Giê-su đến cho người khác. Ngày nay trên thế giới, và ngay bên cạnh chúng ta, vẫn còn vô số người chưa biết Chúa Giê-su. Chúng ta phải là những tông đồ làm chứng cho Chúa, đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ. Khi mỗi người chúng ta làm ăn lương thiện, biết để ý đến người khác và giúp đỡ những người thiếu thốn, những người đau khổ về thể xác cũng như về tinh thần, khi mỗi gia đình chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau và cởi mở với những người xung quanh, là chúng ta làm chứng cho Chúa và làm cho Chúa hiện diện trong xã hội. Đặc biệt trong một thế giới đầy bóc lột, hận thù, khủng bố, người tín hữu phải làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã đem Chúa đến cho người khác khi nào ?
– Ngày nay chúng ta làm chứng cho Chúa cách nào ?
Bài này có lẽ hơi dài. Chúng ta (cá nhân, gia đình, nhóm nhỏ, giáo xứ) có thể đọc mỗi lần một phần, suy nghĩ, cầu nguyện, rồi trao đổi, tìm cách áp dụng cho đời sống.
Xin Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu hơn Đức Mẹ đã sống đạo thế nào, và xin Đức Mẹ giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay trong lòng xã hội Việt Nam. Như vậy chúng ta sẽ thực hiện như Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam mong ước, là “làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mọi người” (số 11).
07/09 Chọn Nhóm Mười Hai
- Viết bởi Lc 6, 12-19
Chọn Nhóm Mười Hai.
Thứ Ba tuần 23 thường niên.
“Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ”.
Lời Chúa: Lc 6, 12-19
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thức suốt đêm cầu nguyện
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu là con người cầu nguyện:
đây là nét nổi bật của Tin Mừng Luca.
Ngài cầu nguyện suốt cuộc đời trần thế,
từ khi nhận phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Lc 3, 21)
đến khi hấp hối trên thập giá (23, 34. 46).
Đối với Ngài, cầu nguyện là chuyện Con đi gặp Cha,
là cuộc chuyện trò thân mật giữa Cha và Con.
Chính vì thế các lời cầu nguyện của Ngài (10, 21; 22, 42; 23, 34. 46).
đều bắt đầu bằng hai tiếng Abba, Cha ơi, thân thương.
Cần một không gian tĩnh lặng và riêng tư để gặp Cha (9, 18),
nên Đức Giêsu thường lên núi (6, 12; 9, 28)
hay vào chỗ hoang vắng (5, 16).
Nhưng có khi Ngài cầu nguyện tự phát trước mặt môn đệ (10, 21),
hay dẫn các môn đệ đến nơi mình sắp cầu nguyện (9, 28; 22, 39).
Gặp Cha là hơi thở đem lại sự sống và hạnh phúc cho Đức Giêsu.
Ngài múc lấy toàn bộ ý nghĩa đời mình qua các cuộc gặp gỡ đó.
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Đức Giêsu.
Ngài đã thức suốt đêm nơi một ngọn núi (c. 12).
Ngài cố ý đến ngọn núi này để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của Ngài.
Đức Giêsu có điều cần hỏi ý Cha trước khi đi tới một quyết định.
Và đây là một quyết định quan trọng.
Đã có một đám đông môn đệ theo Ngài (Lc 6, 17),
bây giờ Đức Giêsu muốn tuyển chọn một nhóm nhỏ
để họ ở gần Ngài hơn và cộng tác với Ngài sát hơn.
Đức Giêsu không muốn tự chọn cho mình những cộng sự viên.
Ngài muốn đặt việc chọn lựa này trong bầu khí cầu nguyện.
Ngài coi nhóm đặc biệt này là “những kẻ Cha đã ban cho Con,”
“những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian” (Ga 17, 6. 9).
Đức Giêsu chỉ muốn chọn những người Cha đã chọn cho mình.
Đến sáng Ngài mới rõ ý Cha, mới làm xong việc chọn lựa.
Như thế cả Đức Giêsu cũng phải vất vả tìm kiếm ý Cha.
Cuối cùng Ngài đã chọn được Mười Hai ông mà Ngài gọi là tông đồ.
Đời người được đan kết bằng những chọn lựa lớn nhỏ.
Có những trường hợp dễ phân biệt trắng đen.
Nhưng có khi tôi phân vân không rõ điều nào tốt hơn,
và đâu thực sự là điều Chúa muốn cho đời tôi.
Gặp gỡ Chúa trong lặng lẽ cô tịch, với tâm hồn tự do thanh thoát,
chúng ta có cơ may nhận được ánh sáng từ trên cao.
Nếu tôi làm theo ý Chúa, đời tôi sẽ được hạnh phúc, dù phải hy sinh.
Nếu tôi cương quyết làm theo ý mình, dù biết ngược với ý Chúa,
thì lòng tôi sẽ chẳng được bình an.
Thiên Chúa muốn vén mở cho tôi biết ý định của Ngài về tôi,
nhưng Ngài đòi tôi cất công tìm kiếm.
Hạnh phúc cho ai tìm thấy ý Chúa sau những đêm dài trăn trở!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu
là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa
mà con đã bỏ mất:
Khi chờ một người bạn,
chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói.
Khi lên cầu thang,
khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình
trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa,
những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức
để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới
và vui vẻ bước vào.
(gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)
Suy Niệm 2: Tinh thần Giêsu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su từ trời xuống. Mang theo năng lực thần thiêng. Chữa lành hết mọi bệnh tật. Xua trừ hết mọi ma quỉ. Nhưng Người chỉ ở trần gian một thời gian. Cần phải có người kế tục sự nghiệp. Người chỉ khai mào trận chiến với ma quỉ và thế lực sự dữ. Cần phải có một đạo quân tiếp tục trận chiến cho đến thành công. Vì thế Người đã tuyển chọn các tông đồ. Đây là một việc hết sức quan trọng. Vì dùng người phàm để tiến hành cuộc chiến thiêng liêng. Người phàm nhưng phải có tinh thần Nước Trời. Cần phải kết hợp với Giê-su. Cần phải mang tinh thần Giê-su. Nên Người thao thức suốt đêm. Cầu nguyện để tìm được những con người xứng đáng. Cân nhắc để xem ai có thể đem tinh thần của Người thấm nhập trần gian.
Tình thần Giê-su là phải kết hợp chặt chẽ với Chúa. Xây dựng đời mình trên nền tảng Giê-su. Trước hết phải tách lìa thế gian. Không mê theo những hứa hẹn giả dối của thế gian ẩn trong “mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ”. Sâu xa hơn nữa, phải phá tung xiềng xích trói buộc của tà thần. Bằng cách chết cho con người cũ. Khi đó ta được “cùng mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người”. Khi đó “Người truất phế các quyền lực thần thiêng” Và cho ta được “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” nơi Người. Ta được sung mãn vì trở nên chi thể kết hợp với “Người là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (năm lẻ).
Tinh thần Giê-su khiến ta chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ của nước thế gian. Ta sẽ làm chủ bản thân. Không còn tranh giành kiện cáo. Vì không màng những lợi lộc của thế gian. Sẵn sàng chịu mọi bất công thiệt thòi ở đời này. “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?”. Khi chiến thắng thế gian. Ta trở thành người xét xử thế gian. “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ sét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc đời này” (năm chẵn).
Khi mọi người theo Chúa sống theo tinh thần Giê-su. Kết hợp với Chúa. Chết cho thế gian. Ta sẽ được Nước Trời. Có một đạo quân Nước Trời. Sẽ chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ. Xin cho tinh thần Giê-su ngự trị trong ta. Lan toả đến mọi người. Đem lại chiến thắng cho Nước Trời.
Suy Niệm 3: Chọn Nhóm Mười Hai
Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Giáo Hội Mới Của Chúa
Trong đoạn Phúc Âm trên thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta một cộng đoàn quanh Chúa Giêsu. Cộng đoàn này là hình ảnh loan báo trước trong cộng đoàn Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ thành lập và trao phó cho sứ mạng sau khi Người đã phục sinh từ cõi chết. Tất cả mọi thành phần của cộng đoàn này đều quy về một trung tâm duy nhất là Chúa Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được quyền năng Người chữa lành khỏi bệnh tật cũng như được bảo vệ khỏi những quyền lực của ma qủy. Chúng ta nhìn thấy rõ ràng những thành phần của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu lúc đó. Trước hết là nhóm Mười Hai tông đồ vừa được tuyển chọn sau một đêm dài cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, rồi đến các môn đệ và cuối cùng là đám đông dân chúng từ nhiều nơi trong và ngoài lãnh thổ dân Israel. Từ Giuđêa, Giêrusalem, nằm trong lãnh thổ của dân Chúa, và từ miền duyên hải Tia và Xiđon là miền nằm ngoài lãnh thổ của Do Thái Giáo.
Ðọc lại đoạn văn, chúng ta có thể lưu ý đến hai đặc điểm chính của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu, tiêu biểu cho cộng đoàn Giáo Hội Chúa trong tương lai. Trước hết, có thể nói đây là một cộng đoàn phổ quát, vượt ra bên ngoài ranh giới của dân tộc Do Thái. Sự độc quyền nhờ ân sủng Chúa nơi một dân tộc đã chấm dứt. Mọi người, mọi dân Chúa đã mời gọi gia nhập vào cộng đoàn này.
Ðặc tính thứ hai là trật tự mới của cộng đoàn được thiết lập qui về Chúa là trung tâm và có mười hai tông đồ được Chúa Giêsu chọn riêng ra, được Người huấn luyện và trao cho sứ mạng, chăm sóc, hướng dẫn cộng đoàn mới.
Tông đồ Phêrô được nhắc đến trong đoạn văn là kẻ đứng đầu nhóm Mười Hai: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con". Các tông đồ và cộng đoàn theo Chúa đã nghe lời Ngài nhiều hơn sau những biến cố vượt qua của Chúa, khi Giáo Hội được khai sinh. Chúa Giêsu đã chuẩn bị để nhóm Mười Hai tông đồ này trở thành nền tảng cho toàn thể Giáo Hội mới của Chúa. Hơn nữa, con số mười hai tông đồ là biểu hiện thứ nhất có ý nghĩa nhắc đến mười hai chi tộc của toàn dân Do Thái trong thời Cựu Ước. Dân mới của Chúa thời Tân Ước được mở rộng đón nhận toàn thể nhân loại không ai bị loại ra khỏi chương trình cứu rỗi của Chúa.
Lạy Chúa,
Chúng con tin và cảm tạ Chúa vì đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn qui tụ dân Chúa, một cộng đoàn có tổ chức được các tông đồ hướng dẫn qua mọi thời đại. Chúa không ngừng tuyển chọn những con người mới trong dòng lịch sử để tiếp tục sứ mạng của Chúa trên trần gian này. Sự yếu đuối của con người có thể xảy ra như đã xảy ra với Giuđa Ítcariốt, kẻ phản bội Chúa, nhưng chương trình cứu rỗi của Chúa không vì thế mà bị hư mất. Xin thương qui tụ chúng con lại trong tình yêu Chúa và củng cố đức tin chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Chọn mười hai tông đồ
Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ. (Lc. 6, 12-13)
Đây là một ngày đặc biệt với Đức Kitô. Đã đến giờ Người nghĩ phải tiến lên. Người sẽ phải ra đi, ngày đó không còn xa lắm. Cần phải bảo đảm tiếp tục công việc của Người. Cần cho lời Người được loan truyền đến tận cùng thế giới. Cần cho sứ điệp cứu độ đến chúc phúc cho mọi người. Vậy cần có những sứ giả đem giao ước Tin Mừng được Thiên Chúa quyết định hoàn tất cho loài người. Một giao ước mới vượt trên mọi giao ước đã có từ trước đến lúc này.
Ai có thể bảo đảm lãnh trách nhiệm này? ai xứng đáng trong những chàng thanh niên đang đi theo Người? Người biết những giới hạn và lòng quảng đại của họ. Người lên núi cầu nguyện suốt đêm cùng Thiên Chúa để biết rõ chọn lựa chắc chắn. Tin Mừng Thánh Lu-ca kể Đức Giêsu cầu nguyện mười một lần, những lần đó luôn luôn là những lần quan trọng trong cuộc đời của Chúa: ở sông Gióc-đan trước lúc Thánh Thần ngự xuống trên Người, khi đông đảo dân chúng đến nghe Người giảng, trước khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, lúc Chúa biến hình, trước khi loan báo về cái chết của Người, lúc các môn đệ đi truyền giáo lần thứ nhất về, lúc dạy kinh lạy cha, trước khi chịu thương khó, cầu cho đức tin của Phê-rô đứng vững, lúc hấp hối trong vườn cây dầu, trong lúc treo trên thánh giá, lúc phó linh hồn trong tay Chúa Cha.
Khi chọn muời hai tông đồ, Người hướng về Đấng đã sai Người mà cầu nguyện xin ơn soi sáng và sức mạnh. Rồi xuống với các môn đệ và chọn mười hai người, ai sẽ chối Người và ai sẽ phản bội Người. Một đội quân biệt động! vô học thức, vô giáo dục, vô trường lớp, chẳng ai biết tiếng tăm họ. Họ thuộc loại phó thường dân, quá tầm thường, phần đông là dân chài. Chính trên đó Đức Giêsu xây Giáo Hội. Thật nghịch lý! một ông thầy sau khi đã dạy như điên về thập giá, sẽ chịu đóng đinh treo trên thập giá. Và các tông đồ cũng chẳng có vẻ gì nổi, họ tiếp tục cuộc mạo hiểm mâu thuẫn, vẫn kéo dài và sẽ kéo dài vô cùng.
GF
Suy Niệm 6: Cầu nguyện để tìm Thánh ý Thiên Chúa
Xem lại thứ Sáu tuần 2 và thứ Tư tuần 14 TN.
Cầu nguyện là bản chất của người Công Giáo. Không cầu nguyện, chúng ta khó lòng nhận ra đâu là ý Chúa và đâu là thiển ý của ta. Khi cầu nguyện, ta như được kín múc nguồn năng lượng từ Thiên Chúa, để mọi lời nói, hành động của ta được Thiên Chúa soi dẫn và chúc lành, hầu chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.
Hôm nay, Tin Mừng nhắc lại việc Đức Giêsu thức suốt đêm cầu nguyện trước khi gọi và chọn 12 người mà Ngài gọi là Tông Đồ.
Khi Đức Giêsu cầu nguyện như vậy, Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng: sứ vụ của Ngài luôn gắn bó với Chúa Cha, và những người được gọi, chọn cũng phải gắn bó với Ngài như vậy.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên ngôn sứ của Chúa, có trách nhiệm loan truyền tình yêu của Ngài cho mọi người. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể thành công khi biết gắn bó với Đức Giêsu và đón nhận thánh ý của Ngài để thi hành.
Thật vậy, để lời mời gọi của Đức Giêsu thực sự trở thành hữu hiệu, và sứ vụ chúng ta đón nhận được thi hành cách tốt đẹp theo ý hướng của Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ được phép bỏ qua việc cầu nguyện.
Chính Đức Giêsu đã làm gương về chuyện này.
Ví dụ như khi sắp ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã ăn chay cầu nguyện 40 ngày trong sa mạc; khi chọn các môn đệ, Ngài thức suốt đêm; khi sắp chịu nạn chịu chết, Ngài đã lên núi Cây Dầu cầu nguyện ...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt để mọi công việc của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Vì nhờ cầu nguyện với Chúa, chúng ta biết được thánh ý Ngài. Cầu nguyện để biết được phương cách thi hành tốt đẹp nhất. Cầu nguyện để phó thác nơi Chúa mọi sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được giá trị của lời cầu nguyện và luôn biết gắn bó với Chúa như Chúa luôn kết hợp với Thiên Chúa Cha. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa tuyển chọn mười hai Tông đồ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trước khi chọn các Tông đồ. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn các Tông đồ rât quan trọng, vì các ngài tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa gọi và chọn họ chứ họ không cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do Chúa chọn. Các môn đệ lại với Ngài, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
2. Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có những người ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ. Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến Lời Ngài.
Đối với Chúa Giêsu, con số 12 có một giá trị tượng trưng: các Tông đồ là 12 viên đá sống thay thế cho 12 viên đá lấy ở sông Giorđan (Gs 4,1-6) cho đến thời mới. Các ngài là tổ phụ cho dân tộc mới và là quan xét để xét xử các công dân của vương quốc tương lai.
Ngày nay, tiếp nối sứ vụ của thánh Phêrô là Đức Giáo hoàng, và tiếp nối sứ vụ của các Tồng đồ là các Giám mục, và Linh mục là đại diện của Giám mục trong việc chăm sóc và điều khiển dân Chúa. Ý nghĩa này khơi dậy cho người Kitô hữu có lòng yêu mến, vâng phục và trung thành với Đấng Bản quyền của mình trong Hội thánh, và nhiệt tình góp phần mình vào việc xây dựng và phát triển Hội thánh
3. Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.
Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.
Chính vì thế mà chúng ta nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật gọn:
“Tất cả là hồng ân”.
4. Lịch sử cứu độ đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn... Tất cả những sự lựa chọn của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội của Ngài. Nền tảng của Giáo hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
5. Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng có ai là vĩ đại cả, và con người chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện với Thiên Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi”.
Quả vậy, cầu nguyện là chuyện trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm gương sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”(5 phút Lời Chúa).
6. Truyện: Sự lựa chọn chẳng giống ai.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
- 2 với 2 là mấy ?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4.
Cô thứ hai: có thể là 22.
Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào ?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.
Vâng ! Việc Chúa tuyển chọn cũng như thế ! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.
Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.
Suy Niệm 8: ,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.
- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu đi lên một ngọn núi và cầu nguyện: Chúa Giêsu là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Ngài cầu nguyện tha thiết trong những lúc quan trọng (3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện “suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
- Đó là việc gì? Là việc tuyển chọn từ số đông môn đệ ra 12 người mà Ngài gọi là tông đồ.
- Khi ghi nhận các tông đồ được tuyển chọn khỏi hàng ngũ môn đệ, Lc tỏ ra quan tâm tới các tác vụ trong Giáo Hội. Quan tâm này sẽ được khai triển nhiều hơn nữa trong quyển Công vụ (chẳng hạn Cv 6,1-7). Môn đệ là tất cả những ai “đi theo” Chúa Giêsu; còn tông đồ là những môn đệ được tuyển lựa kỹ để làm “cán bộ”. Điều kiện để được tuyển là:
a/ Đã từng sống với Chúa Giêsu và chứng kiến việc Ngài chết và sống lại;
b/ Được “sai đi” (đây là ý nghĩa của chữ “tông đồ” apostolos) để loan báo Tin Mừng sống lại ấy.
Lc dành riêng danh hiệu “tông đồ” cho nhóm 12 vì chỉ có họ mới hội đủ 2 điều kiện này. Ngay cả với Phaolô, Lc cũng không gọi ông này là “tông đồ”, vì Phaolô là tông đồ theo một nghĩa khác hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm. Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.
2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.
- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.
- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.
3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)
06/09 Làm việc tốt ngày Sabbat
- Viết bởi Lc 6, 6-11
Làm việc tốt ngày Sabbat.
Thứ Hai tuần 23 thường niên.
“Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không”.
Lời Chúa: Lc 6, 6-11
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người.
Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây”. Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: “Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?” Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: “Ngươi hãy giơ tay ra”. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Giơ bàn tay anh ra
Suy niệm:
Chúng ta không biết nhiều chi tiết về người đàn ông này.
Ông bao nhiêu tuổi, có gia đình chưa, sống bằng nghề gì?
Chỉ biết là bàn tay phải của ông bị teo, không duỗi được (c. 6).
Chắc là nó bị co quắp vì các cơ không hoạt động bình thường.
Như thế sẽ rất khó chịu và bất lợi để sinh hoạt hàng ngày.
Hơn nữa đây lại là bàn tay phải, bàn tay chính để làm việc.
Người đàn ông có bàn tay thương tật đã đến hội đường vào ngày sabát.
Ông đến để nghe giảng dạy và cầu nguyện như mọi người.
Có vẻ ông chẳng mong gì, chẳng xin được Đức Giêsu chữa lành,
dù tiếng tăm của Ngài lúc đó đã lan rộng nhiều nơi (Lc 5, 15).
Thật bất ngờ khi Ngài bảo ông: “Hãy trỗi dậy và ra đứng giữa đây.”
Ông chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình, nhưng đã vâng lời.
Ông đứng ở ngay giữa cho mọi người thấy.
Sau đó Ngài bảo ông: “Hãy duỗi bàn tay của anh ra!” (c. 10).
Một lần nữa ông lại vâng lời.
Ông làm điều mà có lẽ từ lâu ông không làm được.
Duỗi bàn tay khô héo, co quắp này, để có thể cầm cái ly, cái chén.
Ước mơ đơn giản ấy nào ngờ hôm nay được thực hiện.
Ông đã duỗi bàn tay theo lời Đức Giêsu, và nó đã trở lại bình thường.
Bàn tay như được sống lại, được phục hồi, mềm mại, dễ bảo.
Cuộc đời ông từ nay sẽ tươi hơn, có ích hơn, ít phải nhờ vả hơn.
Đức Giêsu đã làm phép lạ này không phải vì được yêu cầu,
nhưng như một câu trả lời cho các kinh sư và những người Pharisêu.
Họ rình xem Ngài có chữa bệnh trong ngày sabát không, để tố cáo Ngài.
bởi lẽ theo họ, ngày sabát chỉ được chữa những bệnh nguy tử.
Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu này và công khai tỏ thái độ.
Câu hỏi quen thuộc: có được phép làm điều này vào ngày sabát không?
được thay bằng câu hỏi mới: ngày sabát được phép làm điều lành hay dữ;
cứu mạng sống hay hủy hoại mạng sống? (c. 9).
Phép lạ sau đó của Đức Giêsu chính là câu trả lời (c. 10).
Nhiều khi không làm một điều tốt, cũng bằng với việc làm một điều xấu,
Không cứu một người vào giây phút ấy, cũng bằng gián tiếp giết chết họ.
Đức Giêsu đã không coi ngày sabát như ngày chỉ biết ngồi khoanh tay,
nhưng như ngày để làm điều tốt, để cứu sự sống con người.
Dù sao Đức Giêsu đã không hề đụng đến ông có bàn tay bị tật.
Khó lòng bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày sabát
Ngài chữa cho ông ấy chỉ bằng một lời mà thôi.
Các Kitô hữu không còn phải giữ ngày sabát nữa, nhưng giữ Chúa Nhật.
Đây là ngày để chúng ta làm điều tốt, để chăm lo cho sự sống.
Chữa cho một bàn tay bị teo tóp được lành, việc này không nhỏ.
Làm cho một con người có thể sống bằng đôi tay của mình, là chuyện lớn.
Đức Giêsu đã phải trả giá cho việc chữa bệnh của mình.
Chúng ta cũng phải trả giá khi dám bảo vệ một sự sống nhỏ nhoi.
Chỉ mong bàn tay tôi không co lại, nhưng mở ra cho mọi người.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm 2: Phục hồi phẩm giá
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sự sống là món quà quí nhất Chúa ban cho con người. Từ sự sống tự nhiên được nâng lên đến sự sống siêu nhiên. Từ con loài người được trở nên con Thiên Chúa. Sự sống quí giá đến nỗi khi con người lơ đễnh làm mất mát, hao hụt, Thiên Chúa đã sai chính Con Một giáng trần để phục hồi sự sống, phục hồi phẩm giá con người. Bệnh tật là hình ảnh của tội lỗi. Nó làm con người bị giảm thiểu. Không thể sống như một con người. Trong xã hội còn bị khinh miệt. Không thể tự nuôi sống bản thân. Không thể chu cấp cho những người thân. Con người mất phẩm giá. Con người bị cái chết thống trị.
Chúa Giê-su đến cứu sống con người. Phục hồi sự sống. Phục hồi phẩm giá. Cho con người sống xứng đáng địa vị con người. Còn hơn nữa, sống xứng đáng địa vị con Chúa. Nhưng thế lực sự dữ vẫn còn đó. Họ chống đối. Họ muốn sự chết thống trị. Chúa Giê-su công khai hỏi họ: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt”. Họ không muốn làm điều tốt. Không muốn cứu sống. Mà còn âm mưu hại Chúa. Vì thế Chúa gặp nhiều khốn khó. Nhưng Chúa sẵn sang chịu chết để con người được phục hồi.
Noi gương Chúa, Thánh Phao-lô, vì niềm hi vọng sự sống của anh em, sẵn sàng chịu đựng mọi gian lao vất vả, để anh em được đạt tới niềm hi vọng vinh quang là Chúa Giê-su Ki-tô: “Để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi”. Vì sự sống, người tông đồ sẵn sàng xông vào cuộc chiến. Cùng chịu đau khổ với Chúa để anh em được sống: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào than cho đủ mứ, vì lợi ích cho than thể Người là Hội Thánh” (năm lẻ).
Ma quỉ và thế lực sự chết rất thâm độc. Nó thấm nhập vào bản thân ta. Nó như chất men độc hại vẫn đang còn tồn tại, phá hoại sự sống và phẩm giá con người. Vì thế thánh Phao-lô thúc giục ta: “Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu truyện ngụ ngôn như sau:
Một ông chủ nọ giao cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao. Thế nhưng, một thời gian sau đó, nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu. Bận bịu với những công việc mới, chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ. Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.
Nhiều người Do thái thời Chúa Giêsu, nhất là các thành phần lãnh đạo trong dân cũng có lối hành đạo tương tự. Thật ra, đạo của mạc khải Do thái giáo cốt yếu cũng là đạo của tình thương; thế nhưng trong thực tế, cái cốt lõi ấy thường bị quên lãng để nhường chỗ cho biết bao nghi thức trống rỗng vô hồn; người ta sẵn sàng loại trừ tha nhân và chối bỏ tình thương để tuân giữ những nghi thức và luật lệ vô hồn ấy.
Chúa Giêsu đã đến và đưa con người trở lại cái cốt lõi của đạo. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đúng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân. Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chính là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh, dự lễ, tham gia sinh hoạt giáo xứ mà không sống yêu thương, điều đó có thật sự là sống đạo chưa? Sống đạo đích thực là sống yêu thương: một lời kinh đích thực phải phát xuất từ cõi lòng rộng mở yêu thương; một của lễ đẹp lòng Chúa phải là một nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày thêm thấm nhuần cái cốt lõi của đạo là yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Làm việc ngày sabát
Ðoạn Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành người bị bại tay phải trong ngày nghỉ sabát, hoặc cho những luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Chúa có lỗi luật nghỉ ngày sabát hay không, ngõ hầu có lý do ám hại Chúa.
Chu toàn bổn phận bác ái có ưu tiên trên việc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, một việc thực hành đạo đức quan trọng của Do Thái Giáo. Thực hành việc đạo đức mà không có lòng bác ái yêu thương anh chị em thì việc thực hành kia có thể trở thành vụ lợi, khoe khoang. Bảo vệ cách quá khích luật nghỉ ngày sabát, các luật sĩ và những người biệt phái đã làm cớ cho người ta hiểu lầm rằng Thiên Chúa đối nghịch với con người. Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, các luật sĩ và biệt phái xem ra bắt buộc Chúa Giêsu phải chọn một trong hai việc: hoặc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, hoặc chữa lành người bị bại tay phải. Tinh thần vụ hình thức đã làm hư cốt tủy của đạo Chúa. "Tôi hỏi các ông, ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống người hay giết chết?" Câu hỏi của Chúa Giêsu thức tỉnh những kẻ sống đạo vụ hình thức.
Nơi đoạn Phúc Âm theo thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, những luật sĩ và những người Pharisiêu xem ra có thái độ dứt khoát phải chọn một trong hai việc là giữ ngày sabát hoặc làm việc thiện để cứu người bị bại tay phải. Nhưng theo Phúc Âm thánh Mátthêu chương 12 câu 11 và những câu kế tiếp, chúng ta được biết rằng những luật sĩ và biệt phái có một giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày sabát. Họ cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày sabát. Thật là nghịch đời, họ cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu con người. Phải chăng các luật sĩ và biệt phái coi trọng con vật hơn con người. Ngày nay, chúng ta có thể gặp trường hợp tương tự, có những người nhân danh lòng nhân từ để kêu gọi bảo vệ súc vật nhưng lại thẳng tay loại trừ những thai nhi còn trong lòng mẹ, mạnh mẽ cổ võ việc phá thai.
Phần Chúa Giêsu, qua hành động chữa lành người bị bại tay cả trong ngày sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người và đặt luật nghỉ ngày sabát trong viễn tượng rộng rãi hơn của tình yêu thương. Các ngày sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Một tâm hồn khô khan không có tình yêu đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em thi sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ chạy trốn trước việc lành cần phải làm để phục vụ anh chị em. Họ dễ dàng biện hộ cho thái độ sống thiếu quảng đại, thiếu bác ái bằng lý do hết sức đạo đức nhưng có thể đó là sự đạo đức giả hình, chưa trưởng thành.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã thức tỉnh chúng con qua mẫu gương và bài học căn bản. "Trong ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết?" Xin thương giải thoát con khỏi thái độ sống đạo vụ hình thức, ham danh lợi, lo củng cố địa vị hơn là thực hành yêu thương bác ái. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa để có thể trổ sinh những việc làm tốt phục vụ anh chị em mọi nơi và mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Làm việc thiện lúc nào
Đức Giêsu nói với họ: “Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: “Anh hãy giơ tay ra!” Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. (Lc. 6, 9-10)
Luôn còn tái diễn trong ngày sabát! Đức Giêsu hỏi biệt phái: ngày sabát, được phép làm việc thiện hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt? có phải lúc làm việc tốt, việc bác ái, lúc khác không được chăng? nếu nhân danh Thiên Chúa mà chủ trương thế thì quá tệ.
Cấm làm việc thiện trong ngày thờ phượng Chúa có đúng không? có làm sáng danh Chúa khi đặt ra luật lệ vụn vặt hẹp hòi không? chúng ta nên nhận định rõ rằng: Khi xoa dịu những đau đớn của tha nhân bằng mọi cách có thể thì làm sáng danh Chúa biết chừng nào. Đó là điều Đức Giêsu đã thực hiện. Người vào hội đường, Người dạy dỗ. Ánh mắt Người bắt gặp một người bại tay. Những kẻ bảo toàn luật lệ rình rập xem: Thầy này táo bạo, chẳng sợ gì, sẽ làm gì để đảo lộn lề luật đây? Ông có dám chữa kẻ tàn tật đó trong ngày sabát không? Đức Kitô biết rõ ý nghĩ của những thẩm phán cay nghiệt này luôn luôn săn bắt Người. Người vẫn coi thường họ, một lần nữa trịnh trọng, công khai, giữa ban ngày, không hề che giấu, Người nói với kẻ khô bại tay: “ Anh chỗi dậy, ra đứng giữa đây! người ấy liền chỗi dậy và ra đứng đó. Người hỏi những kẻ ghen ghét dò xét Người rằng: ngày sabát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” Tất nhiên, không ai trả lời, không ai có can đảm dám nói ra ý nghĩ của mình. Nếu nói ra đúng ý nghĩ của mình, tất nhiên, phải liên minh với Người vì tự nhiên phải chấp nhận trong ngày của Chúa thì phải làm điều lành, phải cứu mạng sống, không thể làm điều dữ. Và như thế sẽ thấy rõ người ta đã hiểu sai luật ngày sabát.
Một lần nữa Đức Kitô đã thấu suốt ý nghĩa của luật lệ. Một lần nữa Người đã được sự ủng hộ của con người để Người cứu chữa bệnh nhân: “Anh hãy giơ tay ra,... và tay anh được bình thường”.
Trong Giáo Hội được đổi mới là nhờ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động hơn bao giờ hết, không thiếu những người theo chân Đức Giêsu, muốn làm cho chúng ta hiểu rõ con người có giá trị vô biên hơn muôn vàn luật lệ. Chúng ta cố gắng nghe và theo chân Đức Giêsu và những vị đó.
GF
Suy Niệm 6: Sống yêu thương thật lòng
Xem lại CN 9 TN B
Hôm nay bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu chữa người bại tay ngày Sabát. Đây là việc làm hữu ích, vì nó thể hiện tình thương của Thiên Chúa với người đau khổ. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm cho các Luật Sĩ và Pharisêu tỏ ra khó chịu và bầy binh bố trận để hạ sát Đức Giêsu!!!
Tại sao vậy? Thưa! Vì xuất phát từ lối suy nghĩ khác nhau khi hiểu về việc giữ Luật. Những Luật Sĩ và Pharisêu thì chỉ tập trú vào việc hình thức bên ngoài, họ không bỏ sót một chấm một phết trong Luật. Còn Đức Giêsu thì quan tâm đến tinh thần của Luật, Ngài đi vào nội dung của Luật là tình thương.
Vì thế, việc chữa bệnh của Đức Giêsu được khởi đi từ bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Bởi vậy, không lạ gì khi các Luật Sĩ và Pharisêu không những không ủng hộ việc tốt lành của Đức Giêsu với người bại liệt, ngược lại, họ luôn rình rập để chờ cơ hội thuận tiện rồi lên tiếng tố cáo Đức Giêsu. Một điều đơn giản là do động lực của hận thù, ghen ghét, vì sợ Đức Giêsu lật tẩy lòng gian ác của họ trước dân chúng...
Thấy được ý đồ đen tối của các Luật Sĩ và Pharisêu, nên Đức Giêsu đã hỏi họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?". Khi hỏi như thế, Đức Giêsu trả lại cho ngày Sabát ý nghĩa đích thực của nó, đó là ngày giải phóng con người.
Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, đã biết bao nhiêu lần chúng ta lo sống hình thức bên ngoài, mà quên đi ý nghĩa và giá trị đích thực trong việc giữ đạo.
Những chuyện như: vì danh thơm tiếng tốt của cha mẹ, hoặc vì cha mẹ làm công to việc lớn trong Giáo xứ, ngoài xã hội, hay sợ liên lụy đến bản thân, nên đã biết bao lần ta sống đạo hình thức, giả tạo và rỗng tuếch, nhưng vẫn ra vẻ đạo đức, tốt lành!
Lại có những người được xem ra rất tốt lành, nhưng lại là những người chuyên ngồi lê mách lẻo chuyện của người khác với mục đích làm cho người khác mất danh dự, uy tín trước cộng đoàn. Hay cũng có những người luôn tìm cách công kích để hạ bệ người khác rồi mình hả hể với thành quả đạt được. Những hạng người như thế, họ chỉ lo tìm cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì giả điếc làm ngơ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn yêu thương, cảm thông với những người ốm đau, bệnh tật, đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, thay cho thái độ khinh miệt, kỳ thị.
Mặt khác, khi thấy được người khác làm việc tốt thì phải công tâm để nâng đỡ chứ không được vì ghen ghét mà tìm cách bẻ cong sự thật và vu khống cho người ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương và nâng đỡ những ai đang lâm cảnh khó khăn, đồng thời biết sống thật với lòng mình và luôn làm điều tốt cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chữa người bại tay ngày sabát
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu chữa người bại tay ngày hưu lễ nên bị những người luật sĩ và biệt phái rình xét, phản kháng. Người biệt phái giữ luật chặt chẽ nhưng chỉ là hình thức. Họ luôn tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu mà không biết nhân nghĩa là gì. Đức Giêsu rất trung thành với lề luật, nhưng Người đi sát tinh thần yêu thương của lề luật, chứ không phải hình thức bên ngoài. Ngày Hưu lễ là ngày làm vinh danh Chúa, cứu chữa con người để con người được hạnh phúc. Con người được hạnh phúc là lúc Thiên Chúa được vinh danh. Vì thế, chữa bệnh trong ngày hưu lễ là điều Chúa Cha rất vui lòng.
2. Giới răn Sabát được giải thích từ việc tin rằng Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật trong sáu ngày và ngày thứ bảy thì Người nghỉ ngơi. Chính vì vậy, nguyên thủy người ta nghỉ ngày thứ bảy (sabát) như là một sự bắt chước Thiên Chúa, đồng thời dành một ngày cuối tuần để chỉ dành riêng cho việc phụng sự Thiên Chúa. Thế nhưng, càng ngày, luật Sabát được các luật sĩ giải thích chi tiết, cặn kẽ và dừng lại ở mặt chữ của luật : chỉ dừng lại ở cái lý mà đánh mất cái tình, giữ luật vì luật chứ không còn vì yêu mến Chúa và đánh mất đức ái mà luật nhắm tới.
3. Việc chữa bệnh của Đức Giêsu được khởi đi từ bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Bởi vậy, không lạ gì khi các luật sĩ và biệt phái không những không ủng hộ việc tốt lành của Đức Giêsu với người bại liệt, ngược lại, họ luôn rình rập để chờ cơ hội thuận tiện rồi lên tiếng tố cáo Đức Giêsu. Một điều đơn giản là do động lực của hận thù, ghen ghét, vì sợ Đức Giêsu lật tẩy lòng gian ác của họ trước dân chúng... Thấy được ý đồ đen tối của luật sĩ và biệt phái, nên Đức Giêsu đã hỏi họ :”Tôi hỏi các ông, ngày sabát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết” ? Khi hỏi như thế, Đức Giêsu trả lại cho ngày sabát ý nghĩa đích thực của nó, đó là ngày giải phóng con người (Ngọc Biển).
4. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đứng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân.
Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Thiên Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chí là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
5. Em học sinh nọ bị rắn cắn phải đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ trong bệnh viện, với lý do phải làm theo qui định và thực hiện những thủ tục đăng ký rườm rà, đã không cứu chữa ngay cho em trong cơn “thập tử nhất sinh”. Hậu quả là em đã không qua khỏi.
Vì nệ luật và vụ hình thức, các luật sĩ và biệt phái đã trở thành những quan tòa khắt khe, xét đoán, nhỏ nhặt và tàn nhẫn. Họ giữ tỉ mỉ mọi điều luật mà không nhận ra rằng mình đang làm nô lệ cho luật. Trước sự bảo thủ, quá nệ luật của họ, Chúa Giêsu đã nêu lên câu hỏi trên đây để chất vấn họ, đồng thời qua đó, Người muốn họ trả lề luật về đúng vai trò và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, lề luật được đặt ra là để phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật, mà quên mất tình yêu thương. Lúc đó, ta đã chất những gánh nặng lên vai người khác.
6. Trong hội trường nhỏ bé ngày ấy, có ba loại người (1)người đau ốm cần giúp đỡ, (2) người bận tâm đem lại sự sống cho người khác; (3) người tìm phương kế để tiêu diệt người khác. Câu hỏi của Đức Giêsu trên đây đặt người biệt phái vào thế lúng túng, bởi vì nói đúng tim đen của họ. Trong thế giới rộng lớn ngày nay, vẫn là ba hạng người : (1) những người cần sự nâng đỡ để có sự sống; (2) những người nỗ lực phò sự sống, xây dựng nền văn minh tình thương; (3) những kẻ chủ trương tiêu diệt sự sống của người khác, để mình có thể sống hưởng thụ sung sướng, hay cổ võ nền văn hóa sự chết. Là Kitô hữu, chắc chắn bạn được mời gọi bước theo con đường của Thầy mình (5 phút Lời Chúa).
7. Truyện : Bác ái phải trên lề luật.
Một buổi chiều năm 1953, nhiều nhân vật quan trọng cùng các phóng viên của các tờ báo lớn hồi hộp đợi chờ ở sân ga thành phố Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, người được chọn nhận giải thưởng Nobel nhờ công trình thử nghiệm các vaccin chữa bệnh truyền nhiễm trên chính cơ thể của mình để phục vụ cho những thôn làng nghèo khó nhất tại châu Phi.
Khi xe lửa ngừng ở sân ga, một người cao lớn, râu dài và mái tóc đã ngả mầu bước xuống. Máy ảnh chớp sáng liên tục. Các nhân vật quan trọng tiến lại bắt tay nồng nhiệt chúc mừng. Bác sĩ khiêm tốn mỉm cười cảm ơn. Bỗng, ông giơ tay xin lỗi mọi người rồi lách vội qua đám đông, tiến đến chỗ một người đàn bà da đen đang loay hoay vất vả nặng nhọc với hai chiếc va li lớn nghèo nàn. Ông giúp bà một tay đưa hành lý lên một chiếc xe buýt, loại chỉ dành cho người bình dân.
Sau khi chiếc xe lăn bánh, ông trở lại chỗ đám đông. Một người trong đoàn tiếp đón đã thốt lên :
- Đây là lần đầu tiên tôi nhận được một bài giảng sống động về tình yêu thương.
Suy Niệm 8: Luật nghỉ-không làm việc ngày Sabat
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu, các luật sĩ và Pharisêu lại tranh luận với nhau về luật nghỉ không làm việc trong ngày Sabat.
Theo những người luật sĩ và Pharisêu thỉ nghỉ là nghỉ, “không làm gì cả”. Ngày Sabat là ngày nghỉ. Tuy họ có chấp thuận một số việc được làm trong ngày Sabat nhưng phải tuỳ từng trường hợp rất cụ thể mới được làm. Thí dụ như cứu người nguy tử trong ngày đó (Mishna Yoma VIII,6).
Theo Chúa Giêsu, nếu cứ giữ như thế thì luật sẽ trở thành một gánh quá nặng cho con người và nhiều khi còn tàn nhẫn nữa.
Một người Do Thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên thì thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng, vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Những người sống luật vì luật cũng tương tự như thế.
2. Còn Chúa Giêsu, thì thái độ của Ngài có khác. Luật nào cũng vậy, trong mọi trường hợp phải lệ thuộc vào tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì lề luật chỉ còn là cái xác không hồn. Không vì yêu thương thì luật trở thành vô đạo đức. Luật ngày Sabat cũng thế…. vì ngày Sabat theo ý nghĩa từ ban đầu là ngày giải phóng con người.
Kẻ được Chúa Giêsu cứu chữa hôm nay là một người có một cánh tay bị khô bại. Cánh tay đó lại là cánh tay bên phải nên khả năng làm việc của anh dường như không còn. Không còn khả năng làm việc cũng có nghĩa là mất luôn phương tiện để sinh sống. Đứng trước hoàn cảnh đó, tuy anh ta không xin, nhưng Chúa Giêsu vẫn thương và chữa anh.
Các luật sĩ và những người Pharisêu đã rình xem Chúa ngay từ khi Chúa bước vào hội đường cho nên khi thấy Chúa Giêsu làm như vậy thì họ chộp ngay lấy cơ hội tố cáo Người.
Chúng ta thừa biết lòng của các luật sĩ và những người Pharisêu đã trở nên chai cứng như thế nào. Họ chẳng màng gì đến những chuyện sống sao cho đẹp lòng Chúa mà chỉ nghĩ đến việc giữ một số những quy định, rồi tưởng rằng, làm như thế là đã sống đạo rồi.
Người ta kể rằng: Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với một đan sĩ có bổn phận phải coi nhà khách và thỉnh thoảng bố thí cho người đến xin giúp đỡ. Trớ trêu thay, đúng vào lúc Chúa Giêsu hiện ra thì chuông nhà khách reo lên báo hiệu có người nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Thoạt đầu, người đan sĩ có vẻ do dự không biết phải ở lại bên Chúa Giêsu đang hiện ra với mình, hay phải đến phòng khách làm bổn phận mang thức ăn cho người đói ăn xin. Nhưng rồi vị đan sĩ quyết định đến nhà khách để chu toàn bổn phận, xong việc rồi đan sĩ trở lại thì thấy Chúa Giêsu vẫn còn chờ nơi đó. Chúa Giêsu tươi cười bảo vị đan sĩ:
- Nếu con đã không ra đi chu toàn bổn phận giúp cho người nghèo kia thì Ta đây đã không ở lại để chờ con.
Qua việc chữa bệnh cho người bị bại tay trong ngày Sabat hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tâm hồn Chúa tràn đầy yêu thuơng đối với con người. Kể từ giây phút Chúa long trọng công bố rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, giải thoát người tù tội, cho người mù được thấy, cho người áp bức được tự do, tại hội đường Nazareth, Chúa đã luôn luôn trung thành với sứ mạng này để phục vụ và nâng cao con người lên.
Mẹ Têrêsa đã từng nói: “Theo tôi biết, chẳng có khổ đau nào thấm thía hơn nỗi khổ đau của người thấy mình cô đơn, thừa thãi, không được ai yêu thương. Nỗi khổ đau cùng cực là nỗi cô độc, không biết tới cả mối tương quan thân tình đích thực giữa người với người, không biết thế nào là được yêu, không người thân, không bạn hữu”.
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều các con làm cho
người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”. (Mt 25,40)
Suy Niệm 9: Khác biệt về cách nhìn nhận
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và các luật sĩ, biệt phái tranh luận với nhau về luật nghỉ làm việc ngày sabát.
- Hôm ấy trong hội đường có một người bị bại tay, các luật sĩ và biệt phái rình xem Chúa Giêsu có chữa bệnh cho người ấy không để tố cáo Ngài.
- Chúa Giêsu biết ý của họ nên hỏi trước: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ?”: Khi chống đối Chúa Giêsu, các đối thủ đã dựa vào chủ trương “không làm gì cả” trong ngày sabat. Phần Chúa Giêsu thì đặt vấn đề “làm điều lành” hay “(làm) điều dữ”.
- Thực ra chủ trương của Pharisêu không hẳn là hoàn toàn không làm gì cả. Họ cũng chấp thuận được cứu người nguy tử trong ngày đó (Mishna Yoma VIII,6). Nhưng họ phải nghiên cứu từng trường hợp cụ thể để cho phép làm như vậy. Còn Chúa Giêsu, thái độ của Ngài trong trường hợp này cho thấy rõ: luật ngày sabat phải lệ thuộc luật yêu thương và giúp đỡ kẻ khác, vì đó là ngày giải phóng.
B.... nẩy mầm.
1. Kẻ được Chúa Giêsu cứu chữa hôm nay là một người tay hữu bị khô bại, nghĩa là mất khả năng làm việc, do đó cũng mất phương tiện để sinh sống. Tuy người này không xin, nhưng Chúa Giêsu thương anh và chữa anh.
Ta hãy cầu nguyện cho những kẻ tật nguyền và những người không có công ăn việc làm để sinh sống.
2. Cái nhìn của Chúa Giêsu và của các đối thủ Ngài rất khác nhau: Chúa Giêsu thấy một người cần được Ngài giúp đỡ; còn họ thì không để ý gì đến người tàn tật mà chỉ lo rình mò để xem Chúa Giêsu có làm gì sai luật không để mà bắt bẻ.
Xin Chúa cho con có cái nhìn của Chúa: cái nhìn của tình thương chứ không phải cái nhìn soi bói rình mò.
3. Khi người khô tay đã được lành, các biệt phái và luật sĩ không vui mừng với anh mà lại tức giận với Chúa Giêsu và bàn nhau hại Ngài.
Xin Chúa đừng để cho lòng ganh ghét làm cho con bị mù quáng, trái lại xin cho con biết vui với niềm vui của người khác.
4. Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, có kể rằng: Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp. Tên này dọa giết ngài. Trước khi chết ngài xin hắn một ân huệ. Ngài chỉ vào một cây lớn trước mặt và nói:
- Ngươi hãy cắt đứt một nhánh cây.
Trong nháy mắt, tên cướp vung kiếm chém đứt nhánh cây. Đức Thích Ca nói tiếp:
- Bây giờ ngươi hãy tháp nhánh cây vào thân cây.
Tên cướp cười gằn, nói:
- Mi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.
Đức Thích Ca liền dạy cho hắn một bài học:
- Ngươi mới là tên khùng khi nghĩ rằng sức mạnh con người là để gây thương tích và phá huỷ. Người có sức mạnh thực sự là người biết sáng tạo và chữa lành. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Các kinh sư và những người pharisêu xem Chúa Giêsu có chữa người ấy trong ngày sabát không, để tìm được cớ tố cáo Ngài” (Lc 6,7)
Lạy Chúa, dò xét, rình rập thì con hay lắm, còn nhìn lại bản thân thì con thật là dở. Con dò xét người này, dòm ngó người kia, rình rập người nọ… để tìm ra chỗ hở mà đả kích cho “đã”. Rồi tự biện hộ rằng mình xây dựng cho anh em. Nhưng mắc cỡ thay, đó chỉ là những cử chỉ, hành động phô trương đạo đức giả hình.
Nhược điểm và bao nhiêu cái xấu xa của con, con lại không nói ra, mà còn khéo tô thêm một lớp sơn hào nhoáng như ngôi mô bên ngoài trông đẹp nhưng bên trong mục nát thối hư…
Chúa ơi ! Xin cho con biết nhìn lại chính con nhiều hơn là tìm những sơ hở của người khác mà lên án. (Hosanna)
05/09 Hãy mở ra
- Viết bởi Mc 7, 31-37
Hãy mở ra.
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Lời Chúa: Mc 7, 31-37
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.
Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Is. 35,4-7a; Gc. 2,1-5; Mc 7,31-37
1. Nói được rõ ràng.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,
ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc, hiểu được chúng ta,
và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.
Đôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,
khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.
Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.
Đức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh, và sợi dây đó được tháo cởi.
Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình,
đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình
khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm
vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:
kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ...
Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.
Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Ép-pha-tha, xin hãy mở miệng con
để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,
hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,
thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.
Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình
mà máy đột nhiên mất tiếng.
Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,
nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,
nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.
Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,
hay lắm khi nghe điều người khác nói
nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
Như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ.
Cần lắng nghe bằng cả trái tim.
Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,
hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Ép-pha-tha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,
ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,
để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,
vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.
Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,
chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,
để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,
đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi gặp một người bạn khép kín, cô độc, bạn làm gì để có thể đến gần và làm quen với người bạn đó?
Lắng nghe Thiên Chúa, lắng nghe tha nhân, bạn thấy điều nào khó hơn? Bạn nghĩ gì về khả năng lắng nghe của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đày.
2. Hãy mở ra
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó.
2) Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó.
3) Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
4) Lắng nghe có dễ không? Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không?
5) Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?
4. Ôi! đẹp thay bao việc Chúa làm
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh, thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: “Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người” (Augustino, Enarr in Ps 90).
Đúng như thế, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia (35, 4-7a), hôm nay thật đẹp biết bao, vì nó chứa đầy những dòng chữ yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi. Họ đã bị quân Babylon đánh bại nặng nề. Họ bị cướp bóc và lôi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù địch. Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và nếu họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước. Và nếu họ có thể chạy thoát về đất nước của họ thì ở đó không còn gì nữa.
Đang lúc lối tận, đường cùng, quẫn bách như thế, những lời lẽ dịu dàng của Thiên Chúa phán qua miệng Isaia, lời của Thiên Chúa tình thương đầy an ủi, như tiếp thêm nghị lực cho Dân Chúa đang bị xao xuyến trong cảnh lưu đày: “Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người” (Is 35, 4).
Tại sao ngôn sứ Isaia phải khuyến khích họ Can đảm lên, đừng sợ? Có lẽ họ đang sợ hãi khủng khiếp. Tại sao ngôn sứ lại nói đến nước chảy lên trong sa mạc, suối chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước? Có lẽ dân chúng đang bị hạn hán chăng? Tại sao ngôn sứ lại dùng hình ảnh người mù sáng mắt, tai người điếc sẽ mở ra, và người què quặt nhảy nhót như nai? Nếu không phải vì dân chúng đang gặp lúc khó khăn không nhìn, không nghe, không lê bước được (x. Is 35, 4-7).
Thật ủi an biết bao, bởi dân Chúa cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, mình là đối tượng của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy nay thể hiện cụ thể nơi lời nói cũng như việc làm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người.
Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu “làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mc 7, 37), giúp chúng ta suy ngẫm về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thể hiện qua việc chữa lành của một “câm điếc” (Mc 7,32).
“Effatà”, có nghĩa là “hãy mở ra” (Mc 7,34). Chúa Giêsu đang đi qua vùng “Thập tỉnh”, giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, vùng đất của dân ngoại. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh, hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. “Effatà - Hãy mở ra” (Mc 7,34). Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu, anh câm điếc ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7, 35). Thật tốt đẹp biết bao việc Chúa làm.
Khởi đầu công trình sáng tạo, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo vũ trụ: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người làm: đều tốt đẹp” (St 1, 31). Nay thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế đến thực hiện công trình cứu chuộc và sự sáng tạo mới, Tin Mừng cũng nói cùng một cách: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” (Mc 7, 37) Chúa đã làm cho anh “mở ra”.
“Effatà - Hãy mở ra” (Mc 7,34). Từ việc chữa lành đối với anh câm điếc là một sự “mở ra” cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe Lời Chúa và ca tụng những kỳ công công Thiên Chúa cũng như lòng thương xót của Ngài. Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác về công trình tốt đẹp Chúa đã làm.
Chắc chắn, tự bản chất của nó, ngọn lửa không thể tỏa hơi âm, và không thể phát sinh khí lạnh; mặt trời chiếu tỏa ánh sáng, và đương nhiên không thể là nguyên nhận của bóng tối được. Tương tự như thế, Thiên Chúa chỉ có thể làm ra những điều tốt lành bởi vì Ngài là Đấng vô biên tốt lành, là ánh sáng. Ngài là Mặt Trời công chính chiếu tỏa ánh sáng rạng ngời, là lửa hồng tỏa hơi ấm vô biên: “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37).
Theo sách Sáng Thế, thì Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Tin Mừng cũng thuật lại: Chúa Giêsu làm mọi sự tốt đẹp (x. Mc 7, 37). Nhưng làm những điều tốt lành không chỉ đơn giản là để làm cho chúng tốt. Nhiều người, thực sự, làm những điều tốt đẹp mà không làm chúng tốt, bọn giả hình chẳng hạn, họ là những người làm những điều tốt đẹp, nhưng trong một tinh thần xấu với một ý định gian tà. Thiên Chúa, Ngài đã tạo dựng tất cả đều tốt lành và làm cho chúng trở nên tốt. “Chúa chỉ là trong tất cả các cách của mình, tín hữu trong tất cả mọi thứ anh ấy làm” (Tv 144, 17)... Và nếu Thiên Chúa biết rằng chúng ta tìm thấy niềm vui của mình nơi những điều tốt đẹp Chúa đã làm, thì Thiên Chúa vui biết mấy.
Xin với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Mẹ đã luôn luôn “mở ra” cho tình yêu của Chúa, và trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa, với lòng từ mẫu giúp chúng ta là con cái Mẹ hàng biết “effatà” mỗi ngày để ca tụng những điều tốt đẹp kỳ diệu Chúa đã làm và nhất là sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Amen.
5. Hãy mở lòng ra!
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ép-pha-tha! Hãy mở ra! Động từ “mở ra” theo nghĩa đen là mở một vật gì đó ra. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1 kể Thiên Chúa mở mắt người khiếm thị, mở tai người khiếm thính và trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Nhưng, Tin Mừng còn kể mọi người chứng kiến việc Chúa Giêsu mở miệng và mở tai anh chàng khuyết tật kia hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”. Như vậy, động từ Ép-pha-ta – mở ra còn mang một nghĩa bóng là “mở lòng ra”. Có mở lòng ra mới tin và biết những việc Chúa làm là đẹp chứ! Qủa vậy, Thánh Giacôbê trong bài đọc hai nói có mở lòng ra, chúng ta mới ứng xử hay đón tiếp người giàu cũng như người nghèo. Ngược lại nếu không mở lòng ra thì chúng ta sẽ kỳ thị và trở nên những người đầy tà tâm. Vâng, mở lòng ra đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu. Vấn đề ở chỗ là lòng của chúng ta có “dễ mở” hay “khó mở”, hay “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Và khi đã mở thì mở như thế nào?
Tiên tri Isaia bài đọc 1 khuyên: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu độ anh em” (Is 35:4). Cứu Độ anh em, tức là lúc “Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Qủa vậy, Thiên Chúa vừa là Đấng giàu lòng thương xót vừa toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người bó tay. Ngài mở miệng lưỡi và mở lòng dạ con người, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Cụ thể, Chúa Giêsu hôm nay tai cho kẻ điếc nghe được, mở miệng anh nói được và mở lòng những người chứng kiến.
Chúng ta có thể nói Chúa Giêsu chưa quyền năng mấy vì với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Đồng ý như thế, như thử hỏi máy móc, kỷ thuật ở đâu ra? Con người. Con người và trí khôn như thế chẳng phải bởi Thiên Chúa sao? Con người toàn năng nhưng hữu hạn, chỉ mở cái bên ngoài không bao giờ mở lòng của người ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô hạn mở được những tấm lòng đóng chặt nhất hoặc không chịu mở được như lòng của Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna, Augustinô...
Người ta nói rằng để biết nhau, hiểu nhau, yêu nhau và hiệp thông với nhau thì phải nhờ: nói, nghe, thấy… Như vậy, nếu người khiếm thị, khiếm thính hay người câm là những người bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người sao?! Không! Họ còn cảm nhận, yêu thương và hiểu nhau bằng các giác quan khác nữa chứ thậm chứ là bằng chính tấm lòng. Vì thế trong các trường khuyết tật người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, tập nhìn bằng cảm giác để các em có thể là người tốt giỏi và thành đạt hơn người bình thường nữa là khác. Chẳng hạn, Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, là nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội, diễn giả người Mỹ. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô. Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Chúng ta có miệng, mắt và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị mù câm điếc lòng dạ mình? Chúa Giêsu đã có lần quở trách: "Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy" (Mt 13,14). Thực sự vậy, chúng ta cũng đã và đang có những lúc bị mù câm điếc. Câm là không mở rộng lòng ra để đón nhận Lời Chúa, không sống Lời Chúa, và không đón nhận và phục vụ tha nhân. Mù tấm hồn là lòng chai dạ đá, biết sai mà vẫn cứ phạm, không xót thương người và giúp đỡ tha nhân khi họ nghèo khổ hay bệnh tật; còn điếc nghe Lời Chúa nhưng nghe tai này lọt qua tai kia, Lời Chúa nói gì, Hội Thánh dạy gì cũng không nhớ để sống và giữ trong cuộc sống nhân tình thế thái này.
Cho nên, trước khi nghe Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta vừa đọc câu: "Lạy Chúa vinh danh Chúa" vừa làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực để xin Chúa hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con hiểu ý Chúa, cảm nhận Lời Hằng sống, để rồi sẵn sàng sống lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc nhưng vì làòng mình không mở ra nên khi về với cuộc, sống Lời Chúa chẳng si nhê gì với mình là vậy!
Thánh Giacôbê trong bài đọc hai dạy: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2,1). Rất rõ ràng, đối xử không thiên tư, tức là không phân biệt đối xử. Đối với gia đình, là chồng vợ hãy mở lòng ra mà tha thứ, chịu đựng, phục vụ và yêu thương khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, bệnh tật cũng như mạnh khỏe. Là con hãy mở lòng ra để yêu thương, vâng lời và chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ về già ốm đau. Là những người làm lớn có chức quyền, hãy mở lòng ra để đón nhận, lắng nghe và hướng dẫn mọi người trong tình yêu thương chân thành. Và là người Công giáo, hãy mở lòng ra để biết cho đi những gì mình có để nâng đỡ, ủi an và giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình vì “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Chính những hành động đó phương thế tột nhất giúp ta đạt được Nước Trời mai sau vì Chúa Giêsu đã nói: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" (Mt 25,34-36).
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết yêu thương mọi người. Xin dạy chúng con yêu người như Chúa, sống cho tình yêu, chết vì tha nhân. Xin dạy chúng con biết đón nhận mọi người, Chúa ơi dạy con biết mở lòng ra, trở nên bài ca chan hòa yêu thương. Amen.
6. Người chữa họ khỏi câm điếc
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
Người bị câm điếc thiêng liêng là những nngười không biết mở tai ra mà đón nhận Lời Chúa mà cũng không biết mở miệng ra mà tôn vinh danh Chúa. Những người bị câm điếc thể lý thì ai cũng biết kể cả đương sự, còn những người bị câm điếc thiêng liêng thì không ai biết và ngay chính đương sự nhiều khi cũng không biết. Đó là những người thiếu đức tin, họ sống trong mù tối không biết gì đến Lời Chúa.
Chúng ta cầu xin Chúa mở tai và mở miệng lưỡi linh hồn chúng ta để biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Đồng thời cũng biết đón nhận và chia sẻ cho người khác trong sự quảng đại, hy sinh và tình thương mến chân thành. Chúng ta hãy kêu lên:”Lạy Chúa, xin làm cho con nghe được, và xin làm cho con nói được”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 35,4-7a
Dân Do thái đang phải sống kiếp lưu đầy khổ sở tại Babylon, nhiều lúc nản lòng vì tương lai còn mù mịt. Nhưng thời gian thử thách sắp kết thúc. Isaia loan báo tin vui cho họ bằng những hình ảnh của miền Đông phương nhằm khơi dậy niềm hy vọng của họ.
Những hình hình cụ thể như người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được nhắc nhở cho họ biết: những khả năng tự nhiên ấy của họ đã bị tước đoạt, nay Thiên Chúa phục hồi cho họ để cho họ có thể nghe và nói được trong tình trạng tự do.
Những hình ảnh tiên báo của tiên tri Isaia cho người Do thái sẽ được thực hiện đầy đủ do Đức Giêsu Kitô trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2: Gc 2,1-5
Một số cộng đoàn Kitô hữu thời đó có thói quen dành chỗ ưu tiên cho người giầu mà lại bỏ quên người nghèo. Thánh Giacôbê phản ứng mạnh mẽ vì thói quen ấy đi ngược với tinh thần của Đức Kitô. Phẩm giá của người nghèo bị chà đạp, trong khi chính họ là những người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn.
Tính thiên vị luôn gây phẫn uất và chia rẽ. Đây là một quan niệm sai lầm vì dưới cái nhìn của đức tin sự giầu có đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa bằng kho tàng ân sủng tràn đầy nơi các tín hữu.
+ Bài Tin mừng: Mc 7,31-37
Bài Tin mừng thuật lại chuyện Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa câm (ngọng) tại vùng đất dân ngoại. Khi kể lại câu chuyện này, thánh Marcô lấy lại đề tài cổ điển móc nối sự câm điếc với sự thiếu đức tin và việc chữa lành bệnh với thời Thiên sai.
Phép lạ này có giá trị biểu trưng. Thay vì chỉ cần ý muốn để chữa bệnh một cách đơn giản, Đức Giêsu lại dùng những hành động có vẻ lạ kỳ như lấy ngón tay thấm nước miếng và chạm đến lưỡi của người bệnh. Những hành động ấy có ý thêm đức tin cho người bệnh và sau này trong bí tích Rửa tội theo lễ nghi cũ, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy mà đọc “Epphata”: hãy mở ra.
Người điếc và ngọng trong Tin mừng hôm nay tiêu biểu cho tất cả mọi người điếc câm thiêng liêng mà Đức Giêsu sẽ chữa cho khỏi những nết xấu và tội lỗi. Giáo hội cũng muốn dùng bài Tin mừng hôm nay để nhắc nhở cho các tín hữu phải biết lắng nghe tiếng Chúa và phổ biến Lời Chúa cho người khác.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Những ai bị câm điếc ?
I. BỆNH CÂM ĐIẾC THỂ LÝ
1. Một ân ban của Thiên Chúa
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Ngài ban cho họ có linh hồn và thân xác. Thân xác con người là một sinh vật hoàn hảo nhất, có đầy đủ ngũ quan. Trong ngũ quan ấy, ta thấy tai và miệng là hai cơ quan rất quan trọng dùng để nghe và nói.
Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý của người nói, cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Người ta gọi những người ấy thuộc hạng “Ông nói gà bà nói vịt”(Tục ngữ). Bởi vậy, người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
Nó là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp hằng ngày. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Vì vậy nghe được và nói được là hồng ân rất lớn Chúa ban cho con người. Chúng ta phải sử dụng hai khả năng ấy cho phù hợp với thánh ý Chúa.
2. Nguyên nhân bệnh câm điếc thể lý
Thường thường những người mới sinh ra đã bị câm thì cũng bị điếc. Người bị câm và điếc thiệt thòi rất nhiều và mất nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó.
Theo một vài trường hợp thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Vì thế mới có lời kinh của người điếc:
“Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín”(William Barclay).
3. Tâm lý người bị câm điếc
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khunh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
4. Đức Giêsu chữa người câm điếc
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh ! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: ”Epphata”: Hãy mở ra !
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh mong đợi.
Phép lạ không chú trọng chữa lành thể chất của anh chàng vừa câm vừa điếc. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Chúa, và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
II. BỆNH CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG
Khi chữa bệnh cho người câm điếc, Đức Giêsu nhằm đem lại cho người ấy khả năng nghe và nói được, nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn, nghĩa là chữa bệnh câm điếc tinh thần hay thiêng liêng của con người. Câm và điếc thể chất thì ai cũng biết, còn bệnh câm điếc thiêng liêng thì chỉ có Chúa biết, và đôi khi đương sự cũng biết. Chúng ta cần bàn tới bệnh câm điếc thiêng liêng mà ai trong chúng ta cũng mắc phải không nhiều thì ít.
Nhiều người rất thính tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần hay tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới danh vọng, tiền tài, sắc dục… nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hoạt bát về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên lời hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
III. ĐỂ KHỎI BỊ CÂM ĐIẾC
1. Bài học cho chúng ta
Đức Giêsu làm phép lạ này như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: ”Epphata” nghĩa là hãy mở ra tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được, cũng là bài học cho các môn đệ và chúng ta. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận, vừa thông truyền Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như lời tiên tri Isaia từng nói: ”Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh”(Is 50,4).
2. Biết lắng nghe và chia sẻ
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Đức Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
Truyện: Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ vơi nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).
Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng, bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra sự câm điếc khi chúng ta không bao giờ biết đến anh em, chỉ biết sống ích kỷ, co cụm lại nơi bản thân mình, không để ý đến ai. Do đó, chúng ta trở nên cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác để làm những điều xằng bậy mà không biết hổ thẹn. Những người như thế Được người đời tặng cho cái danh hiệu là: ”Điếc không sợ súng”. Câu tục ngữ ấy có nghĩa là vì ngu dốt, thiếu kinh nghiệm không hiểu biết nên chủ quan làm liều làm bừa bãi, không sợ sai lầm nguy hiểm.
Chúa cũng ban cho chúng ta cái lưỡi tốt để nói năng, chúng ta cũng phải biết dùng nó để chia sẻ với nhau vì lời nói là phương tiện chia sẻ với nhau hữu hiệu, có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Dùng lưỡi mà chia sẻ với nhau là một điều tốt, nhưng phải chia sẻ với nhau một cách thành thực chứ không dối trá, bởi vì người ta nói: ”Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, (Tục ngữ) có nghĩa là lưỡi không có xương nên uốn lắt léo thế nào cũng được. Nghĩa bóng của câu này thường được dùng để chỉ người ăn nói trước sau bất nhất, lúc thế này, lúc thế khác.
Ngoài ra, những người ác độc có những lời lẽ rất ngon lành, tốt đẹp nhưng lại hàm ý nghĩa xấu trong đó.Vì thế người ta nói: ”Lưỡi mềm độc quá đuôi ong”(Tục ngữ), có nghĩa là lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao, lý ưhg không có gì đáng sợ vì không làm đau đớn thương tổn được người ta. Ay vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, châm vào thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá; lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 152).
Trái lại, khi chia sẻ với nhau hãy cố gắng dùng những lời lẽ tốt đẹp mà cư xử với nhau, đem lại cho nhau một niềm vui như người đời thường khuyên:
Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
3. Xin Chúa ban thêm đức tin
Khi Đức Giêsu chữa anh điếc nói ngọng này, Ngài khêu gợi đức tin nơi anh. Chắc chắn là anh ta kém đức tin vì Đức Giêsu phải đem anh riêng ra làm những cử chỉ khêu gợi lên trong lòng anh đức tin rất cần thiết để ban ơn khỏi bệnh cho anh. Khi đức tin đã nhóm lên trong lòng, Ngài mới làm phép lạ cho anh khỏi bệnh. Điểm chúng ta muốn nói là sở dĩ anh kém đức tin vì anh điếc, không nghe được Lời Chúa. Ngày nay nhiều thanh thiếu niên kém đức tin hoặc đã mất đức tin vì anh điếc hay giả điếc, không nghe Lời Chúa.
Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng cô Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều. Nếu chúng ta bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở rađiô thì chả hiểu gì, xem truyền hình thì cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Bài Tin mừng hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nói cụ thể hơn, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là Tin mừng mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Truyện: Thánh Giêrônimô
Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi:
- Giêrônimô, con là môn đệ của ai ?
- Thưa, con là môn đệ của Chúa.
- Không phải, con là môn đệ của Cicéron.
Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội thánh.
7. Hãy mở ra
Michel Angelo là một trong những nhà danh hoạ đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời vì giá trị vượt thời gian đã đành, mà còn vì sự sống động mà ông đã mặc cho những tác phẩm ấy, điển hình là bức tượng Maisen.
Người ta kể lại rằng: Sau khi hoàn thành bức tượng này, ông đã đứng chiêm ngắm một cách say sưa. Và sự sống động của pho tượng đã làm cho ông ngây ngất, đến độ ông đã cầm chiếc búa gõ vào pho tượng và thốt lên: Hãy nói lên đi.
Thực vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Chúa trao ban đẻ chúng ta truyền đạt tư tưởng và ước muốn cho người khác, để tạo lấy một sự hiểu biết và cảm thông. Khi chúng ta nói là chúng ta đang sống cùng, và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong xã hội cần phải được biểu lộ bằng tiếng nói. Vì thế những người câm điếc một phần nào đã bị hạn chế trong mối liên hệ với thế giới chung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Họ luôn sống trong thảm trạng cô đơn và lẻ loi.
Tuy nhiên, đáng thương hơn nữa có lẽ là những kẻ thấp cổ bé miệng, những kẻ bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền được được sống. Để sóng xứng với phẩm giá con người, thì cần phải có tiếng nói. Cũng trong chiều hướng ấy, phép lạ chữa người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, không phải chỉ là một sự chữa lành bệnh tật phần xác, mà còn là một dấu chỉ cho một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi cho người câm điếc khả năng nghe và nói, có lẽ Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng Lời Chúa. Con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá của mình khi biết mở rộng tâm hồn đón nhận lời hằng sống của Chúa.
Cử chỉ của Chúa Giêsu khi chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành bí tích Rửa tội. Thực vậy, bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ, trong đó chúng ta được chữa lành với tái sinh trong đời sống mới. Với phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Épphatha, hãy mở ra. Hãy mở rộng đôi tai để lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, trong từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng lưỡi để cảm tạ, chúc tụngchúc tụng và loan báo tình thương của Chúa, để nói những lời yêu thương và hoà bình, của cảm thông và tha thứ, nhờ đó chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân sống động co Tin Mừng của Chúa giữa lòng cuộc đời.
8. Câm và điếc
Qua việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm và điếc, chúng ta cùng suy nghĩ về việc sử dụng đôi tai và miệng lưỡi của mình.
Trước hết là đôi tai. Chúa đã ban cho chúng ta đôi tai để nghe, nhất là nghe những lời cha mẹ thầy cô và những người có trách nhiệm giáo dục chúng ta, để rồi chúng ta sẽ đem ra thực hành những lời khuyên nhủ đó, hầu trở thành những người hữu ích. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải lắng nghe lời Chúa qua việc học hỏi Phúc Âm, qua việc tìm hiểu giáo lý, để sống xứng đáng người con ngoan của Chúa. Thế nhưng tội lỗi cũng thường hay đột nhập vào tâm hồn chúng ta qua đôi tai của mình. Bởi vì có những đôi tai đóng lại không muốn nghe những lời khuyên bảo và khiển trách, thế nhưng lại mở ra để lắng nghe những câu chuyện nhảm nhí do những người bạn xấu thổi vào. Vậy chúng ta thử xét xem mình có như thế hay không?
Tiếp đến là miệng lưỡi. Chúa đã ban cho chúng ta miệng lưỡi để chúng ta thân thưa với Chúa, để cùng với gia đình, chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh ban tối và ban sáng, để chúng ta hát những bài thánh ca chúc tụng Chúa, để chúng ta xưng thú tội lỗi nơi toà cáo giải, để chúng ta luôn có những lời nói ôn tồn và thành thực đối với người khác. Trên môi miệng chúng ta phải luôn có những lời lẽ lịch sự, chẳng hạn như hai chữ: Cám ơn. Miệng lưỡi của chúng ta không phải chỉ mở ra đón nhận của ăn phần xác mà còn mở ra để đón nhận của ăn phần hồn, đó là rước lấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ước chi chúng ta sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế.
Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria, kinh Kính Mừng. Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữa Ave. Người ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.
Thế nhưng miệng lưỡi cũng chính là con đường dẫn tới tội lỗi. Thực vậy, có những miệng lưỡi tham ăn tục uống, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn được, lúc nào cũng đòi phần to hơn, tốt hơn và ngon hơn, nếu không được thì vùng vằng và phụng phịu. Chính vì thế chúng ta phải biết làm chủ miệng lưỡi của mình như một câu danh ngôn đã bảo: Người ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, hay như thánh Phaolô đã cảnh cao: Đừng lấy cái bụng của mình làm chúa. Ngoài ra còn có những miệng lưỡi điêu ngoa, xảo trá và gian dối, không tôn trọng sự thật, luôn tìm cách lừa đảo người khác, nói những lời đầy ác ý, hạ nhục uy tín của người khác và tạo nên sự chia rẽ, hay nói những lời tục tĩu làm hoen ố tâm hồn trong trắng của mình. Đồng thời có những cái miệng cái lưỡi bị câm, không biết cầu nguyện và thân thưa cùng Chúa, Không biết nói lời bênh vực đức tin, không biết can ngăn người khác trước những ý đồ đen tối của họ.
Hãy cầu xin Chúa mở tai chúng ta để biết lắng nghe lời Chúa, cũng như mở miệng chúng ta để biết nói về Chúa cho những người chung quanh.
9. Câm và điếc.
Tám thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế đến, Ngài sẽ canh tân và đổi mới. Sẽ không còn đui mù, câm điếc, bệnh tật. Và phép lạ hôm nay chứng minh thời gian cứu độ đã đến, và Đức Kitô chính là Đấng giải phóng thiên hạ đợi trông, bởi vì Ngài đã thực hiện lời tiên tri Isaia: Cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được và người què quặt được nhảy như nai.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, điều quan trọng là Ngài chữa lành những tật bệnh phần hồn. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội Ngài vẫn tiếp tục mở mắt mở tai cho một nhân loại câm điếc đối với lời Chúa, đối với Tin Mừng Phúc Âm.
Chúa Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta, Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống, phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.
Ngày xưa, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vị linh mục đã diễn lại động tác của Chúa, khi ngài đặt tay trên tai và trên miệng chúng ta rồi bảo: Ephata, nghĩa là hãy mở ra, để chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và biết tuyên xưng những kỳ công của Ngài. Khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần tăng cười nghị lực để chúng ta có đủ can đảm làm chứng cho đức tin.
Thế nhưng chúng ta đã sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế nào? Một giáo dân đã phải đau khổ thốt lên: Có những người cho đến cuối đời đã chẳng mở miệng nói về Chúa Giêsu cho một ai, ngay cả cho những người muốn tìm hiểu về Ngài. Chúng ta đã thua những người quảng cáo hàng hoá trên vỉa hè thành phố và những em bé bán báo, cũng như những người cổ động cho một nhân vật chính trị hay một thiên đàng trần thế.
Chúng ta hãy có can đảm như Bazin, một tiểu thuyết gia, trong một bài diễn văn đọc giữa hàn lâm nước Pháp, đã long trọng tuyên xưng đức tin của mình như sau: Với triệu triệu sinh linh, tôi sung sướng và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa.
Tuy nhiên trước khi nói với người khác về Chúa, thì trong âm thầm chúng ta phải biết lắng nghe tiếng Chúa, qua những giây phút tâm sự và cầu nguyện, vì chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có, chúng ta chỉ có thể nói về những cái chúng ta đã biết và đã kinh nghiệm. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố: Nếu không có một đời sống cầu nguyện sâu xa, làm sao người công giáo, giữa muôn vàn tiếng nói ô hợp của thế giới, có thể lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa, làm cho mọi người phải xao xuyến và được cứu rỗi. Và hơn nữa, thế giới đang mong đợi nơi chúng ta một thứ ngôn ngữ được diễn tả bằng hành động, tức là một đời sống trong sạch và ngay thẳng, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một đời sống bác ái và yêu thương.
Bởi vì đời sống gương mẫu của chúng ta cũng chính là một tiếng nói hùng hồn nhất để giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
10. Đức Giêsu- Dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người “thiện tâm” ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.
I. Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời
Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật “vất vả”. Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.
Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Yoan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.
Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa “hữu hình” hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.
II. Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người
Con người của mọi thời đại vẫn “trọng phú khinh bần”. Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người “đời”. Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người “đời”, thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người “đời”. Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.
Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.
Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có “vấn đề”. Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.
III. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.
Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.
Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Thiên Chúa là ai, với bạn?
2. Đức Giêsu mang gì lại cho bạn?
3. Làm gì để môi trường bạn sống tin tưởng nhau hơn và hạnh phúc hơn?
11. Thiên Chúa vẫn ở bên tôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.
Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?
Chúa trả lời:
- Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!
Vâng, Thiên Chúa luôn cứu giúp chúng ta qua trung gian con người là hình ảnh của Chúa. Ngài vẫn luôn thể hiện tình thương của Ngài qua tha nhân, qua bạn bè. Đó là lý do mà Ngài tao dựng con người theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi vị liên kết với nhau thành một cộng đoàn tình yêu. Con người cũng được mời gọi liên kết với nhau trong một cộng đoàn của yêu thương và hiệp nhất. Sự liên đới, chia sẻ với nhau đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa thế gian.
Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Sinh ra trong tật nguyền là một thiệt thòi mà chẳng ai mong muốn điều đó xảy đến với mình. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.
Nét đẹp của bài phúc âm hôm nay quan yếu là ở tấm lòng những người thân và tình thương của Chúa. Anh sinh ra trong tật nguyền nhưng anh lại được mọi người thương mến, cảm thông với nỗi bất hạnh của anh. Cha mẹ và hàng xóm láng giềng đều mong muốn cho anh có ngày nói được, có ngày nghe được như bao người khác. Họ đã nghe về một Giêsu quê làng Nagiaret đầy tình thương và đầy quyền năng. Một vị cứu tinh của nhân trần có thể sẽ giải thoát và cứu chữa anh khỏi tật nguyền. Họ đã đem anh đến với Chúa. Sự nỗ lực của mọi người đã được Chúa Giêsu bù đắp bằng sự đáp ứng nguyện vọng của họ và chữa lành cho anh.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Câm điếc về thể xác đã khổ, câm điếc tâm hồn lại còn khổ hơn. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ đang chôn vùi cuộc đời trong đam mê lầm lạc. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.
Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Biết bao người đã trở thành câm điếc lương tri, vì ngay từ nhỏ đã không được cha mẹ khai trí mở lòng bằng những lời dạy bảo, những lời hay lẽ phải. Họ không được huấn luyện để nói những lời yêu thương, để lắng nghe tiếng nói của sự thật. Dần dà với thời gian môi miệng của họ không còn khả năng nói lời yêu thương, chân thành đối với tha nhân. Dần dà với thời gian con tim của họ không còn có khả năng để nghe và cảm thông nỗi đau khổ, bất hạnh của anh em. Thay vào đó là những lời độc ác, hận thù, gian dối, và với một trái tim chai cứng, thờ ơ, lãnh đạm với nỗi khổ của anh em. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tri.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã đến để phục hồi những gì đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, xin Người giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng nói của sự thật và biết sống yêu thương với mọi người. Xin Người ban cho chúng ta một tấm lòng quảng đại để chúng ta biết giúp đỡ anh chị em vượt qua những giới hạn và yếu đuối của bản thân để sống hoàn thiện con người mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen.
12. Bệnh câm điếc thời đại
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Con người một khi đã bị bệnh câm điếc thì mất khả năng giao tiếp với tha nhân. Vì "câm" sẽ làm cho chẳng ai hiểu ý mình, và "điếc" làm cho mình chẳng hiểu ai. Cũng đôi lúc người câm điếc tưởng vẫn có thể nghe nói được, nhưng thực ra họ chỉ nói và hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
Có câu chuyện dân gian kể rằng: Cụ bà trải chiếu giữa sân. Cụ ông ngồi xuống đập đập hai chân vào nhau phủi bụi rồi nói:
– Chán ghê hết thuốc lào rồi.
– Bà lão: Trưa vừa rào lại đấy thôi, quên à?
– Ông lão: Tôi bảo hết thuốc lào mà
– Bà lão: Vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
– Ông lão: Điếc rồi, thế có chán không
– Bà lão: Giờ này còn định ra sông tắm, trời! Ông đúng là đồ dở hơi
– Ông lão: Dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
– Bào lão: Ông bảo gì mà cháy nhà, cẩn thận cái miệng không là chết oan.
Câm điếc làm cho người sống bên nhau không thể hiểu nhau. Có cái câm điếc thể lý và cũng có cái câm điếc tâm lý. Điếc thể lý người ta có thể hiểu nhau bằng ký hiệu, bằng ngôn ngữ tay. Điếc tâm lý thì họ cố tình không hiểu không nghe nhau. Và trong đời sống hôn nhân hôm nay rất nhiều trường hợp vợ chồng hiện đang rơi vào tình trạng câm điếc vì họ thiếu cảm thông và đối thoại với nhau. Những ông chồng, bà vợ đáng tiếc là không hề "câm điếc" với người ngoài, mà chỉ "câm điếc" với nhau. "Bệnh" này làm đời sống hôn nhân ngày càng khô cứng và hạnh phúc chết dần mòn...
Có một người vợ tâm sự với tôi rằng: "Chồng con nghi con đem tiền bạc về cho mẹ ruột, con nói gì ông ấy cũng không nghe. Con có cảm giác như mình đang ở với người điếc". Nhưng cũng từ đó, hai vợ chồng chẳng khác gì hai người khách cùng trọ một nhà. Không đối thoại và cũng không muốn hiểu nhau.
Và cũng có người chồng nói rằng: vợ con nói nhiều quá khiến con chẳng thể chen vô được. Lúc nào cũng quát mắng con cái, khủng bố chồng bằng những lời dung tục, bà nói nhiều quá nên bây giờ con trở thành kẻ câm điếc cho xong.
Và đôi khi chính chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tâm và trách nhiệm.
Xem ra xã hội nào cũng có người câm điếc cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được khai thông tâm hồn để lắng nghe và cảm thông với nhau. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc thể lý và tâm lý. Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen.
13. Hãy mở lòng ra
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống vốn vồn vã với cơm áo gạo tiền. Con người cứ lao vào cuộc chiến để dành phần thắng cho mình. Dường như họ đã quên đồng loại hay cố tình bỏ rơi đồng loại để chỉ lo cho mình. Con người đi vào vòng xoáy danh lợi thú tựa như nhiều vòng tròn mà chẳng bao giờ gặp nhau.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay khiến tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau. Căn bệnh có tên là “Macke no” đã khiến con người kinh tởm và xa rời nhau. Họ giả điếc làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em.
Xem ra con người ngày nay cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Phải, cần phải mở tấm lòng để sống không phải vì mình mà phải vì tha nhân. Vì mình chúng ta sẽ ích kỷ và bỏ rơi đồng loại. Vì tha nhân chúng ta sẽ sống có ích cho đời. Xã hội sẽ đẹp biết bao nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người nhưng không bao giờ đòi mọi người vì mình.
Tiếc thay, con người lại thích sống trong vỏ ốc ích kỷ hơn là ra khỏi chính mình. Bằng chứng cho lối sống ích kỷ và mackeno là việc phá thai. Người ta ước tình rằng: mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ca nạo phá thai. Thật không gì nhẫn tâm khi phải chứng kiến những em bé bị cắt thành nhiều mảnh rồi lôi ra khỏi lòng mẹ. Còn đâu nữa ‘lòng mẹ bao la như biển Thái Bình’, còn đâu nữa ‘Lương y như từ mẫu”, vì bây giờ thai nhi được xem là cục nợ - là kẻ thù mình phải nhanh tay trừ khử, để trốn được trách nhiệm về sự buông thả của mình và bác sỹ thì có thêm thu nhập. Người ta nhận định ‘tệ nạn phá thai là sự phá sản của lương tâm’, vì tình mẫu tử rất thiêng liêng mà nay cũng không còn – mạng sống con người không được tôn trọng thì sự vô cảm với tha nhân quanh ta là điều tất yếu.
Đây là vấn đề thuộc về giáo dục phải khởi từ gia đình là trường học đầu tiên phải dạy cho con ý thức sống chung với đồng loại. Gia đình đừng dậy cho con trẻ sống chỉ biết mình, mà phải biết sống có ích với xã hội loài người. Gia đình phải giúp con trẻ sống có ích cho đồng loại. Rất mong mỗi gia đình biết giáo dục các thành viên biết nhường nhịn và tôn trọng nhau, có vậy ‘nó’ mới biết tôn trọng người khác khi ra xã hội và mới hạnh phúc khi lập gia đình hay tu trì. Thật đáng sợ khi xã hội nào đó đào tạo ra một lớp người chỉ biết sống theo chủ nghĩa ‘mackeno’. Lòng hào hiệp và sự vô cảm là hai mặt của ‘một đồng tiền’ lương tâm, hãy cảnh giác sự biến thái đạo đức xảy ra ngay trong lòng mình và môi trường sống quanh ta. Đừng để cho chuỗi tình thương ta nhận được từ Đấng Tạo Hóa và từ cuộc đời nầy kết thúc nơi bản thân mình.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen.
14. Chữa người câm điếc
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Nhiều người thính tai về thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh.
Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: "Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!"
Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers.
Và vào ngày 1/6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình như sau:
"Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là nhiều người xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Kết quả là người điếc thường phải xa lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín".
Chính Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc cũng nói rằng bị điếc không nghe được, thì những cánh cửa cuộc đời hầu như bị khép lại như khi mở radio thì chẳng hiểu gì, xem truyền hình cũng thế, và hầu như không thể trò chuyện được với ai cả, vì thế, sau một thời gian họ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ bài Phúc Âm hôm nay.
Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.
Câm điếc về phần xác đã khổ, câm điếc về phần hồn còn khổ hơn nữa như một người đã chia sẻ:
Nhiều người thính tai về thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh.
Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức, triết lý, khoa học, về đủ mọi thứ trên đời, nhưng lại hành xử như người câm, hoặc ấp úng, mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời đem lại bình an, hòa thuận cho những người đang cần tới.
- Chúng ta có thể bị điếc khi lặn ngụp trong tội lỗi, không còn lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua lương tâm, qua thiên nhiên, cũng như qua những biến cố xảy đến trong cuộc sống.
- Chúng ta có thể bị câm khi không còn dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ tình thương Ngài đã dành cho chúng ta.
- Chúng ta có thể bị câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá, không còn biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác.
- Chúng ta có thể bị câm điếc khi không còn lắng nghe, cũng như không còn nói được những lời an ủi và khích lệ người khác.
- Chúng ta có thể bị câm điếc khi tự coi mình là một ốc đảo, chỉ biết sống cho riêng mình và tệ hơn nữa, coi người khác như hỏa ngục, hoặc như là một sự quấy rầy phiền nhiễu.
Bởi đó, xin Chúa hãy mở môi miệng chúng ta, để chúng ta biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh.
Dù là bị câm điếc như thế nào đi nữa, Đức Giêsu cũng có thể chữa lành, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của Chúa và quyết tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và cái miệng tâm linh của ta và truyền cho chúng: «Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh câm điếc của chúng ta sẽ được chữa lành.
Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra mình đang thật sự bị câm điếc thì Chúa mới chữa lành chúng ta được! Nếu bị bệnh mà lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì Chúa cũng đành bó tay.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy mở môi miệng chúng con, để chúng con biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh chúng con. Amen.
15. Giải thoát – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.
Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35, 5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.
Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo “hãy mở ra”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.
Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.
Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.
Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.
Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14, 27).
Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! “ hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2, 3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con.
16. Hãy mở ra - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
2. Bức tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình. Sống giữa người khác như bị nhốt tù trong bức tường câm lặng. Kẻ câm điếc dễ bị khùng khùng mát mát là thế. Không hiểu người khác, dễ hiểu lầm ra thù ghét người khác. Đức Giêsu đã đến phá đổ bức tường câm điếc cho anh. Khiến anh có thể nghe được, nói được, thông cảm, hiểu biết được mọi người và mọi người cũng nghe và hiểu anh được. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã chữa anh câm điếc một cách đặc biệt. Bao nhiêu bệnh nhân khác, Người chỉ nói mấy lời. Còn đối với anh, Người đã đặt tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời và thở dài kêu lên: “Hãy mở ra”.
3. Bức tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu, không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân. Một bức tường ngăn cách vô hình thật đáng sợ! Nó đã biến Do thái và dân ngoại thành thù hận, Do thái cấm dân không được liên đới, đi lại với dân ngoại. Ai cố tình vi phạm là mắc tội ô uế. Về nhà phải tắm rửa nhiều lần mới được khỏi. Đức Giêsu phải trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số. Người bỏ miền Ty và Sidon là hai tỉnh nước Lyban bây giờ, tới phía đông biển hồ Galilê, vượt qua cao nguyên Gô lăng của nước Syrie và miền Thập tỉnh của sông Gióc đăng, qua Irăng, Irắc tới vịnh Ba tư, miền mỏ dầu bây giờ thuộc các nước chư dân ngoài Do thái. Cuộc hành trình đó đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại, phá đổ bức tường ngăn cách tôn giáo, để nước Thiên Chúa đến với muôn dân.
4. Bức tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội lỗi mà kẻ gieo rắc là satan. Chúa Giêsu đã lấy thánh giá phá đổ bức tường tội lỗi này. Người còn phá đổ bức tường cuối cùng mà thánh Phaolô nói là kẻ thù cuối cùng là sự chết. Người đã phá tung nấm mồ đè bẹp loài người để cho loài người sống lại với Người. Ai tin Chúa Giêsu sẽ chiến thắng sự chết, sẽ được thập giá như chìa khóa mở cửa nước Trời cho họ vào nhà Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin “hãy mở ra”, mở mọi trói buộc thân xác chúng con, mở mọi trói buộc tâm hồn chúng con. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi mọi xiềng xích bất công, bất hòa, hận thù, tội lỗi. Xin hãy mở cho chúng con được thấy ơn cứu độ muôn dân, thấy nước hằng sống vinh phúc của Cha chúng con trên trời.
17. Kẻ điếc nghe được. Kẻ câm nói được
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trình thuật về phép lạ chữa người điếc và ngọng này duy nhất chỉ có thánh Maccô trình bày. Chúng ta thấy có những chi tiết hơi lạ: Chúa Giêsu không chữa anh như đã chữa bao nhiêu bệnh nhân khác, chỉ bằng một lời nói… mà Ngài làm như một nghi thức:
- Ngài đem bệnh nhân ra khỏi đám đông,
- Ngài đặt tay, thấm nước miếng,
- Ngước mắt lên trời, thở dài và nói một lời: “Hãy mở ra”.
Ngài muốn gì thế?
Chúng ta muốn hiểu thế nào tùy ý. Thánh Maccô không giải thích, Chúa Giêsu cũng chẳng nói gì thêm. Mỗi nhà chú giải có ý kiến khác nhau. Chúng ta cũng tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay.
Người điếc và ngọng này do người ta đem đến với Chúa, những người đó có lẽ là những người Do Thái ở vùng dân ngoại, đã nghe biết những phép lạ Ngài đã làm ở nơi khác. Và đúng thế, Ngài đang ở vùng Thập tỉnh là vùng đất xôi đậu, người Do Thái chỉ là thiểu số.
Trước đó, Chúa Giêsu đã chữa cho con gái bà Xyrô-Phênixi ở gần đó và danh tiếng Ngài đã lan rộng đến miền Thập Tỉnh này. Điều này chứng tỏ, sứ mệnh của Ngài không hạn hẹp trong dân Do Thái mà thôi, mà cả dân ngoại cũng được hưởng nhờ, mặc dù “ơn cứu độ đến từ người Do Thái”.
Chúa Giêsu chấp nhận chữa cho người tật nguyền này, nhưng Ngài không làm giữa đám đông, mà đem anh ra khỏi đám đông. Có thể Ngài chỉ muốn làm âm thầm, sợ dân chúng tưởng Ngài làm một thứ ma thuật, bùa phép gì đó.
Ngài muốn tiếp xúc với bệnh nhân trong riêng tư để cho họ thấy rằng chính Ngài ban cho họ hồng ân của Ngài. Phải gặp gỡ Ngài trong một gặp gỡ thân tình mới cảm nhận được hồng ân.
Ngài làm những cử chỉ rõ rệt như chạm đến nơi bị bệnh tật. Chính Ngài làm cho cơ thể họ lành mạnh, không do một nguyên nhân ngoại lai nào khác.
Ngài lấy nước miếng chấm vào lưỡi, không phải như nhiều người tưởng đó là cách chữa bệnh của dân địa phương, vì họ cho nước miếng là một dược tá. Nhưng chỉ chấm một chút mà thôi thì làm sao chữa bệnh? Các bà mẹ thường nhai cơm cho con khi con còn nhỏ là một cách rất tốt để giúp cho con tiêu hóa dễ dàng. Nước miếng của người mẹ rất công hiệu. Đây chỉ là một cử chỉ tượng trưng chứng tỏ một liên đới thật sâu xa giữa Ngài với bệnh nhân và giúp cho bệnh nhân được khỏi bệnh.
Để chữa bệnh điếc, Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và sau đó mới truyền: “Hãy mở ra”.
Tại sao Ngài làm như thế? Thánh Máccô chỉ tường thuật và không giải thích. Bệnh này không trầm trọng như bệnh cùi, sao Ngài lại làm những cử chỉ khác thường như thế? Người điếc này là hình ảnh của biết bao nhiêu người điếc, không nghe, không nói, những người hững hờ với lời mời gọi của Chúa. Ngài thở dài như phải cố gắng lắm để chữa lành bệnh nhân, và sau đó mới truyền lệnh: “Hãy mở ra”. Có điều gì đó đang đè nặng con tim Ngài. Sự dửng dưng của chúng ta trước lời mời gọi của Ngài là chướng ngại để Lời Chúa có thể đi vào tâm trí chúng ta. Phải dùng cả quyền năng của Ngài mới mở cửa tâm hồn chúng ta.
Quyền năng của Ngài đã giải thoát bệnh nhân. Chúng ta chỉ có thể nghe Lời Ngài và công bố rõ ràng những gì Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta tiếp cận với Ngài, riêng lẻ, phải được Ngài chạm đến, phải được thấm nước miếng của Ngài.
Đức tin được phát sinh nhờ lắng nghe như thánh Phaolô đã xác quyết (Rm 10, 17). Thảm kịch của con người là không muốn lắng nghe Lời Chúa. Nhưng khi Chúa mở tai chúng ta, chúng ta sẽ nghe được tiếng Ngài và lòng chúng ta đón nhận Ngài, chúng ta mới hiểu được quyền năng và tình thương của Ngài.
Câu chuyện người điếc ngọng này nhắc chúng ta nhớ đến tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rủ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình”. (Hs 3,16).
Thiên Chúa đối xử với chúng ta như thế, yêu thương chúng ta như thế, sao chúng ta không muốn nghe Lời Ngài? Sao chúng ta cứ tìm hạnh phúc nơi trần thế mà lãng quên tình yêu luôn săn đón của Ngài? Ngài luôn nhẫn nại đợi chờ. Ngài vẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta trở về, không mỏi mệt. Ngài mở tai chúng ta, đồng thời cũng thoa nước miếng vào lưỡi chúng ta để chúng ta nói được rõ ràng, để chúng ta mở miệng ngợi khen Ngài, công bố những kỳ công và tình thương của Ngài.
Ngài phải đợi chờ đến bao lâu?
Đến bao giờ chúng ta mới mở miệng loan truyền tình yêu của Ngài?
Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu, để yêu, để công bố cho mọi người. Chúng ta có cảm thấy rằng nghe được tiếng Chúa là một hồng ân không: “Phúc cho tai chúng con vì được nghe!”
Chúng ta đã từng nghe Lời Chúa, chúng ta có chú tâm không? Chúng ta đánh mất không biết bao nhiêu hồng ân!
Sau khi chữa lành người điếc và ngọng này, dân chúng kinh ngạc và ngợi khen: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”!
Người tàn tật này là hình ảnh của nhiều người trong chúng ta. Anh là bằng chứng cụ thể của quyền năng Thiên Chúa. Chính nhờ anh mà nhiều người nhận ra bàn tay Chúa thi ân cho con người.
Khi chúng ta lắng nghe và công bố những việc làm của Chúa, chúng ta thành môi miệng của Ngài. Khi chữa lành người bị quỷ ám ở Ghêrasa, anh ấy xin Ngài cho anh theo Ngài, nhưng Chúa bảo: “Con hãy về tường thuật lại cho mọi người biết những gì Chúa đã làm cho con”.
Chúng ta hãy đến với Chúa, xin Ngài mở tai chúng ta và đem những người anh em điếc, ngọng đến với Chúa, như dân địa phương đã đem người tàn tật này đến để được chữa lành; và hơn nữa, chính chúng ta hãy làm cho mọi người xung quanh hiểu được Chúa thương họ như thế nào qua những hành vi bác ái của chúng ta.
Chúng ta hãy đi theo vết chân của Ngài, làm mọi sự cho tốt đẹp để mọi người thấy những việc chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Tuy chúng ta không làm phép lạ, nhưng cũng có thể làm được nhiều việc nếu chúng ta dám để cho Ngài sử dụng con người chúng ta, cuộc sống chúng ta.
Nhiều lúc chúng ta đầy thiện chí, sẵn sàng làm mọi việc cho Chúa, nhưng khi chạm vào thực tế, bị người khác tấn công, xuyên tạc, chúng ta nản chí, rụt rè…Những người dấn thân làm việc Chúa đều kinh nghiệm những giai đoạn khó khăn như thế.
Chúa Giêsu luôn gặp trở ngại và chống đối, nhưng Ngài luôn đi tới cùng, không chạy trốn. Chúng ta tưởng rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có thể làm mọi việc mà không cần phải cố gắng, vì Ngài quyền năng. Nghĩ như thế là lầm to. Ngài đã mặc lấy thân phận con người, Ngài phải luôn phấn đấu để vượt qua mọi trở lực, vì Ngài luôn vâng lời Cha Ngài và trung thành với sứ mệnh Cha đã giao. Cảnh sầu muộn trong vườn Ghếtsêmani vẫn rõ nét trước mắt chúng ta.
Theo Ngài, chúng ta không thể “ngồi mát, ăn bát vàng”. Nhưng cần phải phấn đấu! Phải nói rõ ràng Lời Chúa cho một thế giới “dị ứng” với tất cả những gì là “thiện”, là một điều không dễ. Chính vì thế mà nhiều người đã “bỏ Thầy và rút lui”.
Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta có “một quả tim biết lắng nghe” như Salômôn, vì nghe bằng tai vẫn chưa đủ, phải nghe bằng con tim, lời nói của chúng ta mới có sức thuyết phục.
Chúa Giêsu đến với chúng ta và “ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đến hôm nay qua tấm bánh để thấm nhập vào xương thịt chúng ta, giúp chúng ta trở thành “lắng nghe” và thành “lời” sống động, vì “không có Ngài, chúng ta chẳng làm được gì”. Có Ngài là sinh lực, là Tình Yêu. Ăn lấy Ngài để có sức dấn thân trọn vẹn hơn.
18. Lắng nghe.
Trong một cuộc hội thảo, anh bạn ngồi bên tôi, không hiểu vì ngủ gật hay vì chia trí lo ra những chuyện đâu đâu, nên khi được mời lên phát biểu, anh đã đưa ra một ý kiến và để trình bày ý kiến này, anh đã đi vòng vo tam quốc, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện bên tây đến chuyện bên tàu, trong khi đó mọi người thì cứ tủm tỉm cười thầm. Cuối cùng, người điều khiển phải tạm ngắt ý kiến của anh ta và nói: Tất cả những điều anh diễn tả, cũng như đề nghị, chúng tôi đã trao đổi và bác bỏ ngay từ lúc mới bắt đầu cuộc hội thảo này rồi. Lúc bấy giờ, mọi người mới dám cười ồ lên.
Lâu ngày có người bạn tới chơi vào ban tối, chúng tôi đã nằm tâm sự với nhau về những ngày tháng xa xưa. Tôi nói và anh bạn gợi lại. Cứ thế cho tới một lúc tôi cảm thấy hình như chỉ còn mình tôi nói, ngó sang bên cạnh thì anh bạn tôi đã ngủ thiếp từ lúc nào không biết.
Từ hai mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy hai anh bạn yêu quí của tôi đã không biết lắng nghe hay không chịu lắng nghe nữa, cho nên một anh thì tưởng rằng ý kiến của mình là ý kiến đầu tiên được đề nghị. Còn anh bạn kia thì lại để tôi nói chuyện một mình với đêm tối.
Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu người cũng đã không biết lắng nghe như thế. Phải chăng không biết lắng nghe đã trở nên như một lầm lỗi, một cơn bệnh thông thường.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người không thể lắng nghe vì anh ta điếc. Cái điếc này không đáng trách. Điều đáng trách, đó là biết bao nhiêu người có đôi tai thính, nhưng họ lại không nghe thấy bởi vì họ không lắng nghe.
Kinh nghiệm cho thấy lắng nghe là một điều kiện rất quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Thực vậy, đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người đều biết lắng nghe, để cố gắng hiểu được điều người khác muốn nói.
Sự cảm thông không phải là con đường một chiều. Nói và nghe đúng cách sẽ giúp chúng ta hiểu nhau hơn và sẽ bắc được nhịp cầu cảm thông giữa chúng ta với những người chung quanh.
Dĩ nhiên dưới mái ấm gia đình, con cái phải lắng nghe cha mẹ nhưng đồng thời cha mẹ cũng phải lắng nghe con cái. Hãy bình tĩnh lắng nghe con cái mình nghĩ gì, cảm gì, muốn gì để rồi từ đó có những hướng dẫn, vừa không mang tính cách độc đoán, nhưng lại vừa hợp tình lại và hợp lý.
Ở trường, học trò phải lắng nghe thày cô, bởi vì nếu không lắng nghe thì chẳng hiểu được chi về bài vở của mình. Nhưng đồng thời thày cô cũng phải lắng nghe học trò trả lời hay đặt câu hỏi, nhờ đó mà trắc nghiệm được sự hiểu biết của học trò mà đổi mới cách thức giảng dạy.
Và nhất là ở đây, trong nhà thờ này, lắng nghe lời Chúa là một việc hết sức quan trọng. Lời Chúa muốn nói gì với tôi và Ngài mong muốn nơi tôi điều chi. Điểm chính của bài giảng hôm nay là gì? Phải chăng là hai chữ lắng nghe. Chúng ta cần nói với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng ta hãy thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe…
19. Cho người điếc được nghe
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
“Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây,
Chẳng ai ngờ: sáng tai họ điếc tai cày...”
(trích bài “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến)
Sáng tai họ điếc tai cày
Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu đi cày thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: “họ!” (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.
Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.
Tai của vị hôn quân chỉ sáng trước những lời đường mật của lũ nịnh thần nhưng điếc đặc trước những lời chân thật của các bậc trung thần, vì thế mà triều đình băng hoại và sụp đổ.
Tai của những nhà lãnh đạo tham lam và mù quáng chỉ biết nghe những lời có lợi cho bản thân và điếc hẳn trước những oán than của dân nghèo, vì thế mà nhân dân khốn cùng, Nước nhà mạt vận.
Cách đây 150 năm, giá như triều đình của Vua Tự Đức (trị vì: 1847-1883) sáng tai trước những lời điều trần kêu gọi cải cách về nhiều mặt của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) thì Việt Nam ngày nay lớn mạnh biết chừng nào.
Và giá như nhân loại sáng tai trước những lời giáo huấn của Chúa Giêsu thì mọi người đã được sống trong yêu thương hạnh phúc, đâu còn cảnh chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công...
Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị nó là điều không dễ.
Điếc tâm linh
Trong tác phẩm “tự thú”, thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của người đã điếc lác trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài:
“Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài... Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con...”
Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh đã được Chúa Giêsu khai mở để đón nghe Lời Người.
Chúa Giêsu cho người điếc được nghe:
Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giêsu đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35, 5-6).
Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu qua trình thuật của thánh sử Máccô: “Hôm ấy, Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mc 7, 31-35)
Hôm nay, nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những lời ban sự sống. Nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần Người mở mắt, chúng ta mãi mãi vẫn chỉ là những người mù không thể nhận biết Thiên Chúa là Cha.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe.
Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những lời thần thiêng của Chúa.
Nay xin Chúa cũng cúi xuống trên chúng con, đoái thương tình cảnh “điếc lác” của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại cho chúng con sự sống muôn đời.
20. Sự sống thiêng liêng – Cố Lm. Hồng Phúc
Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn hôm nay, Thánh Giacôbê mời gọi tín hữu kiểm xét lại cách đối xử với anh em. Ngài viết: “Anh em là những người tin vào Đức Kitô vinh hiển thì anh em đừng thiên vị ai”. Người ta có cảm tưởng rằng Thánh Tông đồ đã dự một cuộc họp cộng đoàn, đã mục kích những sự kiện xảy ra và buộc lòng phải lên tiếng. Người ta hay đặt vấn đề giai cấp, trọng người giàu, coi thường kẻ nghèo, miệng hô hào tình huynh đệ bình đẳng, nhưng cách cư xử lại phân chia giai cấp.
“Anh em xét xử thiên vị và trở nên những quan xét đầy tà tâm”. Không phải tiền của, sự giàu sang hay nghèo hèn làm nên giá trị của con người, nhưng là đức tin, nghĩa là sự chấp nhận và đặt để Thiên Chúa vào trong đời mình. Người giàu hay trở nên bần tiện và người nghèo thường hay cởi mở, biết chia sẻ với người khác và “trở nên giàu có và được hưởng Nước Trời”.
Thánh Marcô là vị ngôn sứ duy nhất đã thuật lại việc Chúa chữa lành một người câm và điếc. Những chi tiết rõ rệt và thú vị làm liên tưởng đến Phêrô người đã chứng kiến phép lạ tại chỗ, và đã kể cho đồ đệ chép lại. Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđan, đến gần biển Galilê giữa miền thập tỉnh. Người ta dẫn đến một người câm và điếc. Chúa đã chữa lành.
Câm và điếc là một tật bệnh gây đau khổ nhiều, vì nạn nhân bị cắt đứt mọi đối thoại với kẻ khác và sống một mình lẻ loi. Chúa tỏ ra thông cảm và yêu mến anh, nêu gương cho Giáo hội lập nên những tổ chức bác ái để trợ giúp hạng người xấu số đó, như các nhà gọi là “Nhà Effata” (Hãy mở ra), danh xưng trích từ đoạn Phúc Âm này.
Chúa đã làm gì? Phúc Âm nói: Ngài đem anh ra khỏi đám đông. Vì Ngài không muốn dân chúng coi việc người làm có tính cách phù thủy. Phép lạ là do quyền năng của Chúa thực hiện, thật ra không cần đến sự việc bên ngoài, mà do tình thương của Chúa, như trong phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết. Ở đây, Chúa dùng nhiều tác động bên ngoài, để làm nên phép lạ, như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: “Ephpheta”, nghĩa là “hãy mở ra”, tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được.
Phải chăng những tác động và lời nói ấy tiên báo các phép bí tích mà một ngày xưa kia Chúa sẽ thiết lập trong Giáo hội, để thông chuyển sự sống ơn thánh. Chúa sẽ dùng chất liệu bên ngoài như nước, dầu, bánh, rượu, hiệp với lời thánh hóa để ban sự sống thiêng liêng cho chúng ta.
Phép lạ Chúa làm cũng là một bài học cho môn đệ. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận vừa thông chuyển Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như nhà Tiên tri Isaia từng nói: “Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Isaia 50, 4).
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn đức tin, ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với một người bạn chí thiết. Xin Chúa hãy đặt lên câu “Epphata –Hãy mở ra”, trên con để con được nghe, được suy niệm, được biết công bố Lời Chúa. Giáo hội tiên khởi đã đặt nghi thức vào lễ rửa tội.
Hồi ấy, Hiêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì mấy về Thiên Chúa. Người say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, người nghe tiếng Chúa hỏi:
- Hiêrônimô, con là môn đệ của ai?
- Thưa con là môn đệ của Chúa.
- Không phải, con là môn đệ của Cicéron!
Từ đó, Hiêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Bêlem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: “Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgate (phổ thông) của ngài đã được Công đồng Triđentinô (thế kỷ XVI) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Giáo hội.
“Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Ga. 1, 14 – Đáp ca).
21. Vì không biết nghe
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.
Bài Tin mừng Chúa Nhật 23 TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe ( không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác ), nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có nói thì cũng như không.
Hẳn nhiên, chúng ta không chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp "chó câm" như kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật...( x.Mt 26,64; Ga 18,37 ). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời chân lý cho đến khi "mọi sự đã hoàn tất". Chúng ta cũng không chỉ bực mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu "nói ngọng, nói vẹt", tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì được chỉ đạo, được lập trình sẵn... Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một nguyên nhân đó là không biết nghe.
Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret, một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê ( x.Ga 1,46 ). Chúa Giêsu lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân cận... mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.
Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết "vi hành" trong lớp vỏ một dân thường để "nghe-nhìn" cho chính xác hơn tình cảnh dân chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp "làm dâu trăm họ", nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì không thể không "biết" chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn chiên không dừng lại ở hình thức "tiếp xúc cử tri" như ngoài xã hội dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.
Vẫn có những người tuy nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: " Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá; chúng đã bịt tai, nhắm mắt..." ( Mt 13,14 ). Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ ( x.Mc 3,20-30 ). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là "chống lại Thánh Thần" ( x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10 ).
Chúa Giêsu đã từng minh nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết lắng nghe lời "tuyên họa" của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống ( x.Lc 11,32 ). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.
"Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con ..." Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ: Ephrata! Hãy mở ra! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe!
22. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta.
Suy niệm:
Dân gian bảo rằng: “điếc hay ngóng, ngọng hay nói”, đó là vì người đó muốn tiếp nhận thông tin, lắng nghe tiếng nói của người khác, cũng như muốn truyền đạt thông tin, muốn nói để cho người khác hiểu mình. Vì vậy mà người mắc bệnh câm điếc sẽ dễ trở nên bực bội, uất ức khi họ bị mất đi tương quan với thế giới bên ngoài. Cho nên, hôm nay, trong đoạn Tin Mừng, người câm điếc được những người thân, bạn bè của mình đưa đến xin Chúa Giêsu chữa lành.
Khi thuật lại việc Chúa Giêsu đến với những người những người ngoại quốc vùng Tyrô, Siđon, cũng như miền Thập Tỉnh Decapolis, thánh sử Marcô muốn nhắm đến những người ngoại thuộc Hy Lạp và La Mã trở lại Kitô giáo. Qua đó, ngài làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu không đóng khung sứ vụ của mình trong nền văn hóa của Israel nhưng mở rộng sứ vụ loan báo Tin mừng ra cho lương dân.
Chúa Giêsu có cách chữa xem ra hơi khác lạ với việc đặt ngón tay vào tai người bệnh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời và hô lớn: “Ephata – mở ra”, để tai họ được mở ra và nghe được, miệng lưỡi mở ra và nói được. Điều này bởi vì con người chúng ta là xác đất vật hèn, người trần mắt thịt, nên Chúa chữa với những gì cụ thể, để con người cảm nhận tỏ tường bằng xúc giác.
Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta. Ngày nay, với những thiết bị công nghệ điện tử, mạng internet phủ sóng khắp nơi, và người ta dễ dàng biết chuyện Tây chuyện Tàu, bàn luận chuyện Âu, chuyện Mỹ. Thậm chí tin tức người ta truyền nhau còn nhanh hơn nhà báo chuyên nghiệp săn tin. Thế nhưng rồi con người ta cũng dễ sống khép kín. Người ta bịt kín bởi cặp kín đen, chiếc tai phone, với cái đầu lắc lư, bước chân nhịp nhịp theo điệu nhạc sập sình, đôi môi lẩm nhẩm theo các ca từ đã dần dần làm cho con người ta trở nên bị bệnh “câm điếc” về tinh thần, sống vô cảm trước nhu cầu cần giúp đỡ từ người xung quanh, sống không đoái hoài tới công bằng chân lý khi nhan nhản bên tai những bất công sai trái trong xã hội, sống mặc kệ tiếng nói lương tâm miễn sao có lợi cho mình là được. Và không khỏi kéo theo bệnh điếc lác trong việc lắng nghe và sống theo lời Chúa mời gọi trở nên thánh, bệnh ngọng ngịu ngại ngùng trong việc loan báo Tin Mừng tình thương Chúa cứu chuộc con người.
Vậy chúng ta rất cần để cho mình được Chúa chữa lành, cũng như giúp đưa nhau đến cho Chúa phục hồi khả năng “nghe - nói” nơi chúng ta. Bài đọc I trích sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết đối với bất cứ con người nào. Trái lại, với lời “Ephata”, Người luôn thứ tha, mở ra con đường cho chúng ta bước đi. Vì đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở cửa phụ; khi Ngài đóng một cánh cửa nào đó lại thì đồng thời Ngài lại mở ra nhiều cánh cửa khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó. Vì thế, trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời mà mỗi chúng ta đang đối diện, chúng ta được mời gọi không trở nên bi quan, tuyệt vọng đối với chính mình cũng như người khác. Thiên Chúa luôn luôn là niềm hy vọng và ơn cứu độ mỗi chúng ta.
Chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ: "Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này".
Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế! Ông thưa với thiên thần: -Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu. Thiên thần đáp lại: -Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi. Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, nghe bằng tai, không đủ, nói bằng miệng không diễn tả được hết. Xin cho con cũng biết dùng cả trái tim mình để lắng nghe, dùng đôi tay đôi chân mình để diễn tả sự quan tâm anh chị em mình. Lạy Chúa, xin hãy chạm vào chính con nữa và ra lệnh “Epphatha – hãy mở ra” để con cũng được chữa lành, hầu có thể “lắng nghe” tiếng Chúa mời gọi để nói về Chúa cho anh chị em bằng những hành động bác ái cụ th,ể giúp đỡ cho những người đang cần đón nhận Tin Mừng. Amen.
23. Điếc và ngọng – Lm. GB. Văn Hào SDB
“Con người là một sinh vật xã hội”. Đây là tiền đề của triết gia Bergson khởi xướng một hệ phái triết học. Ông ta cũng phần nào có lý khi cho rằng con người không thể sống cô lẻ một mình, nhưng phải sống với những tương quan xã hội. Sống trong một cộng đồng và tiếp cận với những người khác, chúng ta cần phải có hai kỹ năng: nghe và nói. Không nói được và không nghe được, không đơn thuần chỉ là khuyết tật về thể lý, nhưng là nỗi bất hạnh lớn nhất vì chúng ta bị cắt đứt khỏi những tương giao với cận nhân. Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Chúa chữa lành một người bị điếc và ngọng, mang chở nhiều chiều kích: chiều kích nhân học cũng như chiều kích thần học. Nhưng trên hết, thánh sử Marcô muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo cứu thế nơi Đức Giêsu. Ngài đến trần gian để mở tai, giúp chúng ta nghe được những gì Chúa nói. Ngài cũng dùng quyền uy để mở miệng, giúp chúng ta biết nói về Chúa, và rao giảng Tin mừng của Chúa cho mọi người.
Giêsu, “vị lang băm” kỳ diệu
Văn phong của Marcô khá dung dị và mộc mạc. Người bình dân thời bấy giờ rất dễ hiểu. Marcô mô tả Đức Giêsu chẳng khác gì một lang băm miền quê. Vị lang băm này “ đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng xuống đất, bôi vào lưỡi anh” (Mc 7,23). Có lẽ khi vừa nghe thoáng qua, không ít người khó chịu trước kiểu chữa bệnh xem ra mất vệ sinh và phản khoa học như thế. Ngài lại còn lẩm bẩm đọc một “câu thần chú”: Ep-pha-ta tựa như trong câu truyện thần thoại Aladin và cây đèn thần. Chúng ta đừng quá ngây thơ một cách thô thiển nhìn vào câu chuyện với nhãn quan quá hẹp hòi như thế. Đây chỉ là những biểu tượng nơi phép lạ của Đức Giêsu nhưng mang chở ý nghĩa rất sâu xa.
Chắc chắn Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, càng không phải là một thầy bùa chuyên chữa bệnh bằng cách niệm thần chú. Ngài là một Thiên Chúa đầy quyền lực. Khi đến trần gian, Ngài sống kiếp con người rất con người, nhưng Đức Giêsu vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa. Ngài chữa lành các bệnh nhân để bày tỏ tình yêu vô bờ bến dành cho trao cho con người, đặc biệt những người cùng khổ và bất hạnh. Điều con người không thể làm được, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể làm được (Mt 19,26). Đức Giêsu là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự, và chúng ta đừng bao giờ đơn sơ nghĩ tưởng Ngài chỉ là một lang băm quê kệch và dốt nát.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện, xuất phát từ một trái tim yêu thương. Ngài đồng cảm trước nỗi đau của con người. Câm không nói được và điếc không nghe được, vẫn là nỗi bất hạnh lớn nhất. Những dạng thức bất hạnh đó có liên đới với tội lội. Đức Giêsu đến “giải phóng” con người khỏi những cột trói của Satan và hỏa ngục. Theo não trạng của dân Do Thái thời xưa, bệnh tật là sự khống chế của ma quỷ nhưng là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra, đặc biệt tội của chính bệnh nhân. Đức Giêsu phá bỏ quan niệm hẹp hòi này, rõ nhất khi Ngài chữa một người mù bên hồ Silôác mà Tin mừng Gioan thuật lại. Ngài đến trần gian để giải cứu con người một cách toàn diện. Trong thơ Rôma, thánh Phaolô đã viết: “ Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được công chính hóa (Rm 5, 12-21). Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, nhưng Ngài là Đấng Cứu thế, Đấng Công chính hóa. Ngài chính là vị “Anh hùng Giải phóng” toàn diện và đúng nghĩa nhất.
Điếc và ngọng trong tâm hồn.
Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành mà Tin mừng hôm nay nói tới, có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, anh ta không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần anh ta bị ngọng. Lưỡi anh ta vẫn có thể nhúc nhích, anh vẫn nói được, nhưng chỉ lờ lợ và chẳng ai hiểu anh ta muốn nói gì. Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng. Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật này, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin trong tâm hồn. Cậu bé Samuel ngủ trong đền thờ với thầy Hêli giữa đêm khuya đã nghe tiếng Chúa gọi, nhưng cậu không nhận ra tiếng gọi của Chúa, bởi vì cậu chưa từng gặp Chúa. Cũng vậy, có thể chúng ta không phải là người điếc, nhưng chúng ta sẽ không nghe được tiếng Chúa nói nếu không tiếp cận Ngài, không đi sâu vào tương quan thân tình với Ngài. Chúa nói với chúng ta qua nhiều dạng thức. Ngài ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố trong cuộc sống đời thường. Ngài nói qua sự nhắc nhở của lương tâm, qua các cử hành phụng vụ, khi chúng ta đọc hay nghe Kinh thánh. Ngài nói với chúng ta qua từng người chúng ta gặp gỡ, qua một cụ già ốm yếu đang quặn đau nằm trên giường bệnh, qua một đứa bé mặt mũi lem luốc đang bới rác tìm cái gì để ăn, qua một bạn trẻ ngồi trên xe lăn với tay chân không còn lành lặn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nghe được rất rõ tiếng Chúa Giêsu đang rên la thảm thiết trên Thánh giá trước khi Ngài tắt thở: “ Ta khát”. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi chúng ta ra tận “vùng ven” để gặp Đức Giêsu ở đó. Ngài hiện diện nơi những con người sống dở chết dở trong một nền “văn hóa loại trừ”, một thứ văn hóa vô thần mà những con người ích kỷ hôm nay đang tạo ra. Ngài vẫn đang nói, đang thét gào trong đau đớn, nhưng nhiều khi chúng ta “bưng tai bịt mắt, không thèm nhìn cũng chẳng nghe” giống dân Israel ngày xưa (Is 42,20). Đó là bệnh điếc kinh niên, một thứ bệnh nan y mãn tính và rất khó chữa. Muốn được chữa lành, chúng ta phải ý thức mình đang điếc để khiêm tốn đến với Chúa Giêsu giống như bệnh nhân trong Tin mừng hôm nay.
Bệnh câm hay ngọng cũng thế. Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Một con chó câm không biết sủa, thì chỉ đáng đưa lên mâm”. Cũng vậy, một Kitô hữu không biết mở miệng để nói có khác gì một kẻ câm. Nhưng điều quan trọng là chúng ta nói cái gì. “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng cãi ngang phè phè”. Đây là hai câu thơ trào phúng mang tính dân gian, nhưng nó cũng gợi nhắc cho ta điều mà thánh Giacôbê nhấn mạnh: “Mỗi người hãy mau nghe đừng vội nói” (Gac 1,19). “Ai cho mình đạo đức mà không biết kiềm chế miệng lưỡi, đó chỉ là đạo đức hão. Ai không vấp ngã về miệng lưỡi, ấy là người hoàn hảo” (1,26).
Một câu ngạn ngữ phương tây đã viết: “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét đó là cái lưỡi con người”. Có lẽ, rất ít người trong chúng ta bị câm về thể lý, nhưng xét về mặt thiêng liêng, chúng ta lại giống như một người không biết nói, hoặc nói ngọng nói ngịu. Có nghĩa là, chúng ta cứ thích nói những gì chúng ta không nên nói, nhưng lại không biết nói những gì chúng ta cần phải nói. Nhiều khi chúng ta lại còn dùng miệng lưỡi như một thanh gươm không han dỉ để sát hại lẫn nhau một cách ác tâm và phũ phàng. Vậy, chúng ta phải nói những gì? Chúng ta nhìn lại thái độ của chàng thanh niên trong Tin mừng hôm nay, dù Đức Giêsu cấm không được kể chuyện đó với ai, nhưng Người càng cấm họ càng đồn ra (c. 36b). Tin tức tốt lành được loan đi, chắc chắn do người thanh niên này trước tiên. Anh ta kể lại câu chuyện anh được chữa lành cho người khác, và cứ thế Tin mừng được nhân rộng, lây lan đến mọi người.
Điều chúng ta cần nói, chính là Tin Mừng. “Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc16,15). Rao giảng Tin mừng tức là kể lại những câu chuyện về Chúa cho người khác, nhất là những câu chuyện liên quan tới chúng ta. Chúng ta không thể thực hiện công việc này, nếu chúng ta không tiếp cận với Chúa Giêsu, không gặp gỡ Ngài, không cảm thấu được tình yêu của Ngài, không để Ngài cuốn hút, và không để Ngài viết nên câu chuyện lịch sử trong đời sống của chúng ta. Nếu không thực hiện được điều ấy, chúng ta chỉ là những người vừa câm vừa điếc, và giả như không bị câm, thì có nói, cũng chỉ biết nói ngọng nói ngịu chẳng ra thể thống gì.
Các anh em tu sĩ dòng Đaminh được gọi là các anh em giảng thuyết (Ordo predicatorum). Châm ngôn của thánh phụ Đaminh là: “Hãy chiêm niệm và chuyển giao những điều chiêm niệm cho người khác” (contemplari et comtemplata aliis tradere). Nguyên tắc này rất đơn giản: Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Không ai có thể dạy người khác điều mình không biết. Phải chiêm niệm Lời Chúa, phải để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, chúng ta mới có thể rao giảng Lời Chúa cho người khác. Nếu không cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha, chúng ta không thể nói về Ngài, và loan báo Tin mừng của Ngài cho mọi người.
Nói và nghe bằng cõi lòng
Năm 1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy Jacques Lebreton. Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay. Người ta thắc mắc, một con người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời Chúa. Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn trái tim. Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ Đức năm 1982:
“Cách đây khá lâu, tôi là một quân nhân. Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn. Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy. Trái đạn nổ tung. Tôi thấy tối tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết. Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn. Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử. Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu. Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi. Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi”. Tại Evreux, tôi gặp một người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử động được. Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích. Bà đã dùng ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người. Bà cũng dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười”. Tôi cũng gặp một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với mọi người: “Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp. Tôi cám ơn Chúa và xin cám ơn mọi người”.
Thầy phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa. Cuộc đời chỉ thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”
Kết luận
Có gặp gỡ Chúa, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Có nghe tiếng của Ngài, tâm hồn chúng ta mới có thể mở ra. Khi tâm hồn được mở ra, đến lượt chúng ta, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác. Nếu không, chúng ta chỉ là những kẻ vừa điếc vừa ngọng. Điều này cần thiết cho mọi tín hữu, nhất là cho các anh em linh mục. Nếu không biết mở miệng nói về Chúa, chúng ta chỉ là những người câm. Nếu không để Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, dù có đứng trên bục giảng để khua tay múa chân và thao thao bất tuyệt, cuối cùng chúng ta cũng chỉ là những tên ngọng mà thôi. Vừa điếc lại vừa ngọng, là nỗi bất hạnh lớn nhất nơi mỗi người.
24. Bệnh tật
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Việt ngữ thật thú vị: Bệnh Tật. Bệnh thì có Tật, và có thể thành Tật – đôi khi cái tật “mệt” hơn cái bệnh. Đau đâu khốn đấy. Khổ lắm! Thế nên tiền nhân xác định: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Sống vui vẻ là lối sống lành mạnh, ít phải sử dụng thuốc men hoặc phải “hỏi thăm” thầy thuốc. Điều đó cũng có nghĩa là những người khó tính, nóng nảy, hay hờn giận, thường là những người dễ bị bệnh. Đúng vậy, “Ăn được, ngủ được là tiên – Không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo”. Sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể lý luôn có liên quan lẫn nhau. Có thể nói đây là một chân lý bất biến: “To vòng bụng, ngắn vòng đời”. Người ta bảo rằng “phát tướng thì phát tài”, thật ra lại là “phát tướng thì… phát tang”.
Thiên Chúa đã tạo dựng các cơ phận rất hợp lý (2 mắt, 2 tai, 2 tay, 2 chân,... 1 đầu, 1 miệng, 1 tim), chắc chắn không phần nào thiếu hoặc thừa, ngay cả “ruột thừa” (appendix) cũng vẫn không thừa, bởi vì nó có một số tác dụng miễn dịch quan trọng và một số tác dụng khác – phát triển cả bào thai và người lớn.
Bất cứ cơ phận nào khác thường thì sẽ khổ lắm. Chỉ là nhức răng thôi mà nhiều người đã phải khóc như cha mẹ chết. “Cái răng, cái tóc là gốc con người”, đúng vậy! Con mắt là cửa sổ tâm hồn, nó chỉ mờ thôi đã khổ rồi, huống chi nó cứ “khép chặt” thì… ôi thôi, khổ biết chừng nào! Thế nên phải tìm cách “mở” nó ra. Y học và khoa học tìm đủ cách mà nhiều người vẫn chưa thỏa ước nguyện là được nhìn đời. Mù lòa mắt thể lý là khổ, mù lòa mắt tâm linh còn khổ hơn. Thế nên cần phải cầu xin Thiên Chúa để Ngài phán một lời chữa lành: “Effatha! Ép-pha-tha! Εφφαθα! Hãy mở ra!”.
Thế nhưng “mở ra” cũng có nhiều mức độ, không chỉ đơn giản là “không đóng, không khép”. Mở thế nào: Mở toang hay mở hé? Động từ “mở ra” thường được nghĩ ngay tới mở một vật gì đó – theo nghĩa đen. Nhưng “mở ra” cũng có nghĩa bóng, tức là “mở lòng ra”, đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu, nghĩa là phải sống cởi mở và yêu thương. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều có những thứ “dễ mở” và “khó mở”, đôi khi có thể “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Vấn đề là chỗ đó!
Cũng cần can đảm và quyết tâm khi “mở ra”. Thế nên ngày xưa, ngôn sứ Isaia khuyên những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35:4). Đó là Giờ Cứu Độ, Ngày Công Lý, (cũng có thể) là ngày Đức Kitô giáng lâm, vì thời đại chúng ta đang sống là Thời Cánh Chung. Thời giờ cứu độ là lúc “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Lúc đó sẽ “có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu; miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra; trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên” (Is 35:6b-7). Mọi sự trở nên mới, hoàn toàn thay đổi, và thật là hạnh phúc cho những ai vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13; Lc 21:19).
Tận thế ư? Xa hay gần? Chắc chắn “ngày tận thế” ai cũng chứng kiến là lúc mình chết, lúc chúng ta trút hơi thở cuối cùng để giã biệt thế gian. Đó là “giờ cánh chung” của mỗi cuộc đời chúng ta. Còn ngày tận cùng của thế gian này chẳng ai biết lúc nào, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32).
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, kể cả những điều chúng ta chưa nghĩ tới, Ngài chí minh và chí thiện: “Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Không chỉ vậy, Ngài còn “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà; cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên; và yêu chuộng những người công chính” (Tv 146:7b-8). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng nhất mực công bình, Ngài “phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:9). Và chỉ có Ngài mới là người duy nhất nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị đời đời. Ngài là Thiên Chúa của hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13:8).
Ngài toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người “bó tay”. Ngài “mở” được mọi thứ, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Thậm chí những tấm lòng chai đá nhất, những “cửa lòng” khó mở nhất hoặc hầu như “không thể mở ra”, thế mà Ngài vẫn khả dĩ thâm nhập và “mở” được: Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna (bị 7 quỷ kiềm chế), Augustinô,... Vì thế, chúng ta càng phải cần nhớ đến Ngài, kêu van Ngài xót thương và gìn giữ chúng ta từng giây phút, qua từng hơi thở, bởi vì không có Ngài thì chúng ta chẳng làm gì được (Ga 15:5).
Thật chí lý với lời khuyên của Thánh Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1). Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Không thiên tư, không thiên vị là thế nào? Đó là không phân biệt đối xử: Không coi trọng người giàu mà khinh chê người nghèo, không qụy lụy người chức quyền mà áp bức người cô thân yếu thế, không nịnh người tâng bốc mà ghét người trực tính,… Đó là cách sống công bình, là cách thể hiện công lý, và đó mới là cách sống mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi chúng ta.
Và không hề úp mở hoặc bóng gió, Thánh Giacôbê nói thẳng luôn: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc: ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?” (Gc 2:2-4). Tình trạng này rất thường thấy, giống như một định dạng phân biệt hoặc kỳ thị mặc nhiên vậy.
Thật thế chứ chẳng oan ức chi, có thể chúng ta không hề nói ra bằng lời nhưng động thái, ánh mắt và cử chỉ của chúng ta lại “tố cáo” chúng ta “kỳ thị” và “xét đoán” người khác, thế mà chúng ta vẫn tự nhận là đang sống đức công bình. Cái loại “tưởng” như vậy rất nguy hiểm, nếu không chấn chỉnh thì không yên thân với Chúa đâu đấy!
Cuộc sống luôn có những vấn đề nhỏ mà không nhỏ, đơn giản mà khó xử lý. Có bao giờ chúng ta động lòng trắc ẩn với một người nghèo đứng bơ vơ ở một góc đường? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho những người bị tai nạn khi nghe người khác nói, khi thấy trên ti-vi hoặc trên internet? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho một người qua đời khi chúng ta đi trên đường và thấy đám tang, dù người đó thuộc tôn giáo khác? Có bao giờ chúng ta nghĩ về món nợ mình phải trả cho những người nghèo khó và đau khổ hơn mình? Đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, chúng ta có cầu nguyện cho quê hương Việt Nam? Thánh Phaolô vừa căn dặn vừa truyền lệnh: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Đức ái quá lớn lao. Và món nợ này chúng ta phải trả cho đến hơi thở cuối cùng. Ai thanh toán xong đồng-xu-yêu-thương-cuối-cùng đó thì mới được vào Nước Trời. Chúa Giêsu nói thật chứ chẳng đùa đâu, vì Thiên Chúa rất mực công bình và chính trực. Chắc chắn là phải “hai năm rõ mười”. Vấn đề thực sự đáng quan ngại!
Và rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5). Chắc chắn như vậy! Chàng trai Phanxicô ở thành Assisi đã sống đúng nghĩa đen của chữ nghèo theo Tin Mừng nên được mệnh danh là “Phanxicô nghèo khó”, thế nên mới được làm “công dân Nước Trời”.
Thế nhưng trong thực tế của cuộc sống đời thường, ai nghèo đều bị khinh và bị người khác “không thèm ngó”, thậm chí còn bị mỉa mai là “bộ mặt hãm tài”. Trong một nhóm người, một hội đoàn hoặc một giáo xứ, chúng ta thấy rõ ai có “máu mặt” đều được bề trên “lưu ý” người ta “chăm chút”, được đề cao, được “yêu quý”, được “lưu ý”, được “săn đón”, được mời chào, được “hỏi thăm”, được tiếp đón nồng hậu,… Xin lễ hoặc xin khấn cũng có loại “giá” riêng. Nếu theo kiểu cầu nguyện như thế thì người giàu được cầu nguyện nhiều, và dễ lên thiên đàng, còn người nghèo thì đừng hòng nhìn thấy cổng thiên đàng, vì không có tiền thì chẳng ai cầu nguyện cho, do đó mà “đi chỗ khác chơi”. Việc “yêu người như chính mình” hoặc “thương người nghèo” chỉ là… nói cho vui thôi! Người có quyền và có tiền thì trở thành người có “thế” (vị trí và giá trị). Vì vậy, người Việt thường nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép”, họ có nói sai hoặc làm sai cũng thành đúng “tất tần tật”, hoặc như kiểu nói khác: “Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”. Sự thật minh nhiên: Có tiền được gọi là “ông”, không có tiền bị gọi là “thằng”. Và người ta thường thở dài não nuột: “Đời là thế!”. Thế thì buồn thật!
Theo lời kể của Thánh sử Mác-cô, hôm đó Đức Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Chúa Giêsu đúng là “siêu bác sĩ”, là “thần y”, bởi vì Ngài chữa bệnh mà không hề dùng thuốc men gì – không thuốc Tây, không thuốc Nam hoặc thuốc Bắc, mà chữa bệnh bằng… nước miếng. Không chỉ lạ mà hay quá là hay, đặc biệt là có hiệu quả hơn bất cứ loại thuốc nào khác trên đời. Ôi chao, đúng là trên cả tuyệt vời!
Thật vậy, sau khi “nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi bệnh nhân”, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha, hãy mở ra!” (Mc 7:34). Thánh sử Mác-cô cho chúng ta biết một “chi tiết lạ” là Chúa Giêsu RÊN một tiếng. Và rồi lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Chỉ cần bôi nước miếng mà bệnh nhân hết điếc và hết ngọng, anh ta nói được rõ ràng. Sư phụ Giêsu tài quá, độc chiêu quá, tuyệt vời quá! Phàm ngôn không có từ ngữ để mô tả một cách trọn vẹn nhất.
Chắc chắn không ai có thể làm được như Ngài, thế nhưng Chúa Giêsu không khoe khoang, không khoác lác, không “nổ” chút nào, mà Ngài bắt người ta không được kể chuyện đó với ai. Ngài càng cấm thì họ càng đồn ra. Tiếng lành đồn xa là vậy, và đó là chuyện tất yếu thôi. Ôi, điều kỳ diệu thế làm sao im lặng được, làm sao mà cấm nổi? Không bàn tán xôn xao sao được vì ai cũng hết sức kinh ngạc và khâm phục: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7:37). Có ai thấy “siêu bác sĩ” mà không bàn tán chứ? Chắc chắn không thể im lặng được! Và thế là “siêu bác sĩ” Giêsu nổi như cồn, trở thành “siêu sao” ngay lập tức. Tuyệt vời quá chừng! Giả sử chúng ta là các tông đồ thấy Sư phụ như vậy thì chúng ta “lên nước” và “nổ banh trời” chứ chẳng chơi. Thế nhưng không thấy Kinh Thánh nói gì về các môn đệ, chắc là họ đã thấm thía bài học khiêm nhường mà Thầy Giêsu đã dạy.
Thông thường thì chứng câm đi đôi với chứng điếc, gọi là câm điếc – có lẽ liên quan dây âm thanh, việc phát âm và lắng nghe không thể tách rời chăng? Đó là chứng câm điếc thể lý, còn về tâm linh, chúng ta cũng có những lúc bị “bệnh câm điếc”. Triệu chứng thế nào? CÂM là không muốn nói về Chúa, không nói lời tốt, thấy sai mà không dám nói; còn ĐIẾC là không chịu nghe Lời Chúa, không nghe lời khuyên, cố chấp. Chứng câm điếc tinh thần thật là đáng sợ lắm. Càng đáng sợ hơn khi không nhận biết mình bị câm điếc hoặc không chịu “mở ra”. Cần lắm sự tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan, đặc biệt là ơn Chúa!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, mọi cửa đời của chúng con vẫn khép chặt và khóa bằng ổ khóa ích kỷ, xin thương mở cửa đời đầy “gỉ sét tội lỗi” của chúng con để chúng con mở đời và thoát khỏi chứng câm điếc, xin chữa lành bệnh đời và tật đời của chúng con, xin giúp chúng con tuyên xưng Thánh Danh Ngài và kiên tâm chờ đợi Con Chúa giáng lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
25. Nghe và nói được rõ ràng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thực ra, trong số các phép lạ Đức Giêsu thực hiện, thì phép lạ chữa cho người vừa điếc vừa ngọng để có thể nghe và nói được rõ ràng không mấy nói lên quyền phép của Đấng Thiên Sai, cho dầu dân chúng vẫn cứ cất lời ca ngợi: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả, ông ấy làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”. Hơn ai hết, Đức Giêsu có lẽ là người hiểu rất rõ, phép lạ này thực ra có một ý nghĩa vừa tế nhị vừa sâu sắc hơn, do đó ‘Người truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả’. Hơn nữa cử chỉ và thái độ khi Người thực hiện phép lạ này hình như cũng biểu lộ một tâm trạng gì đó khác thường; ‘Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông… đặt ngón tay vào lỗ tai anh… nhỏ nước miếng và bôi vào lưỡi anh… Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-phê-tha”, nghĩa là ‘hãy mở ra!’
Tại sao việc nghe - nói, đối với Đức Giêsu lại có tầm quan trọng đến thế?
Nếu đối với Cựu Ước khả năng giữ trọn lề luật là tối quan trọng bao nhiêu, vì nó nói lên sự trung thành tuyệt đối với giao ước đã được ký kết sòng phẳng giữa Đức Chúa A-đo-nai và dân riêng Ngài, thì trong Tân Ước, khi Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) mặc lấy hình hài con người, thì việc nghe - nói càng có một tầm quan trọng hơn bấy nhiêu.
Lắng nghe Lời sẽ đồng nghĩa với việc ký kết giao ước mới, tức là đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô Giêsu - Lời. Khả năng nghe chính là khả năng (hay ân huệ) tin vào Đức Kitô Giêsu để đón nhận tình Thiên Chúa yêu thương nhân trần. Người môn đệ của Giêsu - Lời phải là những người có khả năng nghe, tức là nhận biết tình yêu Thiên Chúa. Ân huệ này mang tính riêng tư cá nhân, ‘Người kéo anh ta ra khỏi đám đông’; là tác động trực tiếp của Thần Khí Thiên Chúa trên từng người, ‘Người đặt ngón tay vào lỗ tai anh…’; là ân huệ không được ban cho hết mọi người, vì ‘nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính muốn… nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe’ (Mt 13:17). Thế đấy, ước vọng lớn nhất của Ngôi Lời Nhập Thể là làm sao cho Lời tình yêu này được nhiều người nghe thấu. Và người môn đệ đích thực phải là người có khả năng nghe - nhận biết: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (Mc 9:7).
Khả năng ‘nói’ cũng tương tự như thế. Thời Đức Giêsu, nếu các kinh sư và biệt phái là những người có bổn phận nói cho dân về các lề luật phải tuân giữ để trung thành với Đức Chúa, thì Người cũng đòi hỏi nơi các môn đệ Người khả năng công bố cho mọi người nghe biết về Lời Tình Yêu đã giáng trần và chịu chết. “…Điều anh em rỉ tai trong buồng kín, phải được công bố trên mái nhà” (Lc 12:3). Người sai các ông lên đường cũng là để làm điều này, và đó chính là mệnh lệnh tối hậu - hay đúng hơn - là di chúc Người trăn trối trước khi về trời; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo!” (Mc 16:25). Kitô hữu phải là người có khả năng nói rõ ràng chứ không ngọng nghịu về Lời Tình Yêu này. Đó là tất cả lý do hiện hữu cũng như sứ mệnh của họ trên trần gian, như Phao-lô quả quyết: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9:16).
Thế đấy, đối với Kitô hữu, nghe và nói thật quan trọng biết bao, đó chính là lắng nghe Lời Tình Yêu và công bố Tin Mừng Tình yêu! Thật không may, số các Kitô hữu làm được điều này lại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Quan trọng hơn, số người ý thức điều này để chuyên tâm trau dồi và cầu xin ơn trên trợ giúp thì lại càng hiếm hoi hơn. Nhiều khi chính tôi cũng nhìn vào Phao-lô và coi ông chỉ là một trường hợp cá biệt. Cùng với nhiều người tôi vẫn coi việc truyền giáo (= công bố Tin Mừng tình yêu) là ơn gọi đặc biệt chỉ được dành cho một số ít. Ngay trong Giáo Hội, người ta thích nghiên cứu sâu rộng sự công thẳng của Thiên Chúa hơn là thấu hiểu Lời tình yêu, nhiệt tình giảng dạy về án luận phạt Chúa giáng xuống trên kẻ tội lỗi hơn là ơn tha thứ vô biên Người rộng rãi trao ban cho hết mọi người. Chẳng trách được, trước khi cất tiếng ‘Ép-phê-tha!’ Đức Giêsu đã phải ‘ngước mắt lên trời, rên một tiếng’!
Tôi cần xem lại khả năng nghe và nói của chính mình, trong tư cách một linh mục của Đức Kitô.
Lạy Lời của tình yêu của Thiên Chúa hằng sống, cùng với thánh Âu-tinh, sau nhiều năm tháng từng xưng mình là Kitô hữu - hơn nữa là linh mục, có lẽ con cũng phải thốt lên: con đã nghe Lời quá trễ và đã ngọng quá lâu khi cất tiếng nói về Lời nhân ái. Xin hãy đặt ngón tay hiền dịu Chúa vào tai con và hãy dõng dạc thốt lên câu ‘Ep-phê-tha’. Xin hãy nhỏ nước miếng của Lời và bôi vào lưỡi con, để con dùng chuỗi ngày còn lại cao rao to tiếng và rõ ràng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa là vô bờ bến. Amen.
26. Hãy mở ra
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Câm và điếc thường đi đôi. Không nói được cũng chẳng nghe được vì thế họ lệ thuộc vào mắt nhìn, quan sát, nhận xét, phỏng đoán việc đang xảy ra quanh họ.
Câm và điếc có tài nhận xét các biểu tượng. Biểu tượng, hình ảnh là cách họ dùng để thông tin, đối thoại, diễn tả tư tưởng, tình cảm của con người. Người mắt sáng cũng cần đến biểu tượng.
Biểu tượng
Biểu tượng và hình ảnh luôn chứa đựng những ý nghĩa thầm kín. Biểu tượng xuất hiện trong thiên nhiên cũng lắm và do bàn tay con người tạo ra cũng nhiều. Chúng chứa đựng những tin tức liên quan đến sinh hoạt đất trời và cuộc sống. Nhìn thấy cây đâm chồi, nảy lộc người ta biết ngay đông sắp tàn, xuân đang đến. Nhìn cánh nhạn bay người ta biết hè về bên cửa ngõ.
Tài xế lái xe dọc đường lệ thuộc rất nhiều vào các bảng chỉ dẫn nhận biết khi nào đi nhanh, khi nào chạy chậm. Nơi nào đậu xe an toàn, nơi nào không.
Rất nhiều trường hợp khuôn mặt tố cáo tấm lòng. Trẻ em làm điều sai đứng trước cha mẹ, thầy cô thường cảm thấy mất tự nhiên. Người lao nhọc quá sức, lo lắng quá độ, biếng ăn, khó ngủ, khó dấu được vẻ mệt mỏi xuất hiện trên khuôn mặt.
Một khi, vì lí do nào đó, không thể giải thích bằng ngôn từ thì biểu tượng là cách duy nhất con người dùng để diễn tả tư tưởng thầm kín bên trong. Tù nhân trong các trại tù hiểu rõ điều này hơn cả. Nơi mạng người bị coi rẻ, dư thừa xúc phạm cá nhân người ta nhìn nhau biểu tỏ nỗi lòng.
Bác sĩ chẩn bệnh cũng lệ thuộc nhiều vào triệu chứng xuất hiện nơi cơ thể con bệnh. Bác sĩ tâm lí lại chú trọng vào phong cách con người diễn tả qua cách nói, thế ngồi, điệu bộ, đi đứng, giọng nói, cách nhìn.
Biểu tượng trở thành một phần cuộc sống, con người dùng để diễn tả tình cảm, nội tâm. Biểu tượng cũng trở thành dấu chỉ cho người khác nhận xét nhau. Vì là chẩn đoán nên kết quả khi được, khi hỏng. Đúng sai ảnh hưởng bởi kinh nghiệm sống, quan niệm sống. Đức tin đóng vai trò quan trọng trong việc nhận xét sự việc, diễn dịch các dấu chỉ trong biểu tượng.
Cởi trói
Đức Kitô ra lệnh 'hãy mở ra' tức thì người câm điếc nói được và nghe được. Anh không còn câm và điếc nữa. Từ lúc đó anh trở thành người bình thường. Anh nhận được ơn lạ là do thân hữu giúp anh. Phúc âm thuật lại người ta đem đến cho Ngài một người câm điếc. Người ta đây chính là những người tốt bụng, những người giúp anh được cởi trói khỏi tình trạng câm và điếc. Họ không có khả năng chữa trị cho anh khỏi câm và điếc, nhưng họ đưa anh tới gặp Chúa và thay anh kêu cầu Chúa chữa. Nhờ họ giúp đưa anh tới gặp Đức Kitô mà anh hết câm và điếc. Như thế công việc tốt lành chúng ta có thể làm được là dẫn người khác đến gặp Chúa, cộng thêm lời cầu xin. Giải quyết vấn đề như thế nào là công việc của Chúa, Ngài có cách riêng của Ngài. Trường hợp của anh này hơi khác lạ. Chúa đưa anh ra riêng một nơi rồi dùng tay chạm vào tai anh và dùng nước miếng bôi trên lưỡi anh. Ngài ra lệnh không được kể chuyện đó cho ai biết. Nhưng Ngài càng cấm họ càng đồn xa.
Đức Kitô chữa lành bệnh tật thân xác, dẫn con người nhận biết Chúa chữa lành tâm linh, chữa vết thương lòng. Ngài là Đấng duy nhất chữa lành tâm linh, nội tâm.
Điếc giả, điếc thật
Chúa ban cho người câm điếc ơn nói được và nghe được. Anh nghe được điều hiện tại và nghe điều tương lai. Như thế ơn Chúa ban cho trong hiện tại nhưng lại xử dụng được về lâu, về dài trong tương lai.
Đức Kitô dùng hình ảnh chữa lành thân xác dẫn ta đến câm điếc tâm linh. Điếc tâm linh xảy ra khi nghe lời Chúa mà không hiểu, hoặc hiểu, mà thiếu thực hành. Lời Chúa âm thầm qua đi, như thế có khác chi người điếc không nghe thấy Lời Ngài. Bịt tai, ngoảnh mặt làm ngơ chính là điếc giả câm, điếc có chọn lựa.
Bất công lan tràn trong xã hội. Khi chính ta là nạn nhân; khi chứng kiến cảnh bất công xảy ra cho người khác. Thấy bất công mà chọn thái độ lặng im, không lên tiếng bênh vực lẽ công chính, ủng hộ chân lí. Bị oan ức, chịu câm nín có khác chi người câm không nói được. Thái độ câm giả, câm từng lúc, câm giai đoạn là căn bệnh mới của thời đại. Bệnh này rất phổ thông trong giới lãnh đạo, đạo cũng như đời.
Đời trớ trêu
Kẻ nói được thì không chịu nói, kẻ không được nói lại muốn nói.
Nhờ thân hữu dấn thân, dẫn đến với Đức Kitô, lên tiếng thay, kêu cứu giúp, người câm điếc được đổi đời. Anh không bị câm điếc suốt đời.
Bao tiếng nức nở, khóc than. Bao lời kinh vang vọng. Bao tiếng kêu gào công lí, lời kết án, vạch trần tội ác. Kêu gọi ngừng phá thai, tránh hiếp đáp nơi sân trường, đừng phá huỷ môi sinh, tránh lọc lừa và nhiều thứ tội ác khác. Cần có người lớn, đồng lên tiếng thay, cùng kêu cứu giúp. Có như thế mới mong có đổi đời cho người phận nhỏ. Bao lâu còn tình trạng giả câm, làm bộ điếc trường kì. Bao lâu còn tình trạng đua câm, thi điếc, bấy lâu thế giới còn tiếp tục nghe những tiếng than khóc đột xuất phát ra từ những tâm hồn đau thương.
Lời Chúa luôn có sức mạnh, rất hiệu nghiệm. Lời Ngài thể hiện khi có những Kitô hữu dấn thân vì anh em.
27. Người làm mọi sự tốt đẹp
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Trình thuật Sáng Tạo kể về những việc Chúa làm khi tạo dựng vũ trụ, sau mỗi việc đề có câu: "Thiên Chúa thấy mọi việc Ngài làm: thật tốt đẹp" (St 1,31)... Tin Mừng cũng thuật lại công trình cứu chuộc và sáng tạo mới theo cùng một cách nói: "Người làm mọi sự tốt đẹp" (Mc 7,37) ... Tất nhiên, tự bản chất, lửa chỉ có thể tỏa nhiệt nóng, chứ không thể phát sinh tiết lạnh; mặt trời chỉ khuếch tán ánh sáng, chứ không thể là nguyên nhân của bóng tối được. Cũng vậy, Thiên Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, nên mọi việc người làm đều tốt đẹp. Chúa là ánh sáng, là mặt trời chiếu tỏa ánh sáng vô biên, sưởi ấm vũ trụ muôn loài: "Ngài làm mọi việc tốt đẹp" ...
Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước mô tả: mọi việc Chúa làm đều tốt đẹp. Nhưng, làm những điều tốt đẹp không đơn giản là làm những điều đúng. Thực tế, có nhiều người làm những điều tốt đẹp nhưng lại không làm đúng, giống như những kẻ giả hình làm việc tốt, nhưng tinh thần xấu, nghĩa là làm với một ý định sai lầm và ác ý. Thiên Chúa làm mọi việc tốt lành, và Ngài làm tốt chúng. "Chúa chính trực trong mọi lời Chúa phán, và nhân nghĩa nơi mọi việc Chúa làm" (Tv 144,17).
Chữa một tấm lòng câm và điếc
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người câm điếc. Kết đoạn, những người chứng kiến lòng đầy thán phục và rằng "Người làm mọi sự tốt đẹp" (Mc 7,37). Chúng ta đừng quên rằng Đấng Mêssia, Ngôi Lời nhập thể không chỉ đến để chữa bệnh và khuyết tật về thể lý cho con người nói chung và dân Israel nói riêng, dân theo các tiên tri, vì bị bệnh nặng tai không thể nghe rõ Lời Chúa nói nên không trả lời đúng.
Phép lạ Chúa Giêsu chữa kẻ câm điếc diễn ra trên địa Decapolis cho thấy Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa đến ngỏ lời với toàn thể nhân loại và muốn chữa lành nhưng ai không lắng nghe Thiên Chúa, nghĩa là đang ở trong tình trạng tội lỗi cần phải cứu.
Chúa Giêsu thi hành sứ mạng vượt ra khỏi dân Israel, mặc khải cho cả nhân loại. Vùng đất dân ngoại chứng tỏ Chúa đang hiện diện, cả lúc chúng ta không thấy Chúa, "vùng đất của dân ngoại" đang trong tình trạng nhơ bẩn tội lỗi cũng có Chúa vẫn hiện diện. Người đến cứu chuộc tất cả những ai cầu cứu. Trước khi làm phép lạ chữa người câm, Con Thiên Chúa ngước mắt lên trời cầu nguyện, một cử chỉ giống như Người làm trước khi hóa bánh và cá (x. Mc 6,41). Chúa Giêsu không đơn giản là một tiên tri, Người là chính Thiên Chúa. Có lúc Chúa Giêsu làm phép lạ do quyền năng Lời Chúa. Tuy nhiên, trong trường hợp người câm, Chúa Giêsu cầu cùng Thiên Chúa Cha, để dạy cho chúng ta biết rằng ơn cứu độ là ân sủng do Thiên Chúa tặng ban, một món quà cần phải cầu xin với lòng thành thực.
Việc Chúa Giêsu chữa một người về mặt thể lý ám chỉ điều Chúa muốn chữa mỗi người chúng ta về phương diện tinh thần. Chúa Kitô chạm vào thân xác để chữa lành tinh thần. Người câm điếc được Chúa Kitô chữa lành là người trước đây không thể giao tiếp hay nghe người khác, ngày cả thể hiện cảm xúc cũng như nhu cầu của mình cũng khó. Nếu bệnh câm điếc là nét đặc trưng của người không có khả năng giao tiếp với người bên cạnh, để có được quan hệ tối thiếu tốt đẹp rõ ràng, thì chúng ta phải thừa nhận ra rằng tất cả chúng ta ít nhiều bị câm điếc khi không nghe được Chúa nói, không biết cầu nguyện. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thở dài và nói với mọi người: "Effata, hãy mở ra!" Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần dẫn đến với Chúa, cầu xin Chúa mở tai chúng ta để chúng ta có thể nghe Lời Con Chúa.
Trái tim chữa lành nói ngôn ngữ của tình yêu
Giọng nói đầu tiên người được chữa lành nghe thấy là Lời Chúa Giêsu: "Effata, hãy mở ra ! " Nhờ thế, người ấy có thể nghe Lời Chúa và đón nhận, tai mở ra ám chỉ niềm vui vì con tim được cởi trói, phẩm giá "người con" thuộc về Chúa thực sự được phục hồi.
Khi chịu phép Rửa, chúng ta cũng lặp lại từ "Effata - Hãy mở ra", theo cách này, chúng ta trở thành con trong Con Thiên Chúa, nghe Lời Chúa, đối thoại với Chúa là Cha.
Để nghe Chúa Con, Lời Thiên Chúa, hầu nên giống Chúa Con. Nếu chúng ta kiên trì lắng nghe, chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa trong tình yêu. Nếu chúng ta lắng nghe lời Đấng Kitô, chúng ta có thể nói như Đức Kitô. Nếu chúng ta mở lòng mình ra đối thoại và lắng nghe Chúa Cha, hay Lời tức là Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, chúng ta có thể đáp lời Chúa bằng lời cầu nguyện của đời ta.
Trái tim được chữa lành để lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện với Chúa và thông truyền tình yêu của Chúa cho nhân loại; qua Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng đời sống Kitô hữu phụ thuộc vào lời cầu nguyện và lòng bác ái.
Lạy Chúa, xin mở tai con để con biết nghe lời Con Chúa và đem ra thực hành trong đời sống đượm tình bác ai yêu thương. Amen.
28. Sống hoàn thiện mình theo ân sủng Chúa ban
Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Khi chữa lành người bị tật, Chúa Giêsu không chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà thôi chứng tỏ mình là Đấng Thiên Sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử dụng: "mở ra," "hết buộc lại," cho thấy Chúa Giêsu không chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng Ngài còn chứng tỏ Ngài có quyền cầm buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại.
Phép lạ chữa lành này cho tôi nhận ra mình, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình thường nhưng tôi vẫn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực. Có những thứ câm và điếc đáng sợ. Càng tệ hại hơn khi chính tôi bịt tai, ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của khi tôi không biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Thiên Chúa là viễn vong, chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm mới xác thực. Hay khi tôi câm điếc không biết yêu thương anh em đồng loại, ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân, làm mọi cách để tiến thân trong cuộc đời, miên man trong sự ham hố tiền của, và danh vọng.
Vì thế, nỗi câm điếc chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm, cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối tôi hướng về linh thánh, hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội là nguồn của tôi, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban cho tôi. Nguy hiểm vì lòng tôi thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh hồn tôi nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh: cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng... Quả là nguy hiểm không cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần chúng ta để lòng mình được mềm đi và đừng cứng cỏi nữa, ta sẽ dễ dàng nhận ra con người thật của mình, biết bao gai góc cần gọt giũa; thói xấu cần chữa trị; tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ để Chúa chạm đến bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta. Như vậy, có nhiều bức tường ngăn chặn làm cho lỗ tai ta bị điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho miệng của ta trở nên câm nín.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa Thánh Thần mở mắt, lưỡi để chúng ta có thê sống hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, chúng ta cũng thường điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố hằng ngày. Do kiêu căng, ích kỷ, tôi lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta không cho chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với mỗi người chúng ta: "Hãy mở ra!". Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời tha nhân để san sẻ, giúp đỡ họ. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và đón nhận tha nhân.
Hãy mở miệng ra để nói được những lời yêu thương với tha nhân và với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của mọi tha nhân, mạnh dạn nói những lời sự thật, nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa. Hãy đến với Chúa, thực tâm tôn thờ Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình... Chắc chắn khi ta đến với Chúa bằng một tấm lòng chân thành, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Ngài sẽ biến đổi chúng ta và ta sẽ sớm lành mạnh. Chúng ta sẽ cảm nhận được những điều kỳ diệu của Chúa "Ngài làm những điều tốt đẹp". Ngài chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để giải thoát và cứu chữa chúng nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh câm trong tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết sống yêu thương tha nhân bằng thái độ tích cực, biết rao giảng Lời Chúa, biết lắng nghe nỗi thống khổ của anh chị em đồng loại và chân thành đi đến với tha nhân bằng tình thương Chúa dành cho chúng con. Amen.
29. Hãy mở ra - ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm.
“Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được”
Có nhiều khi tôi tự hỏi: Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao? Tôi lại nghĩ: Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Đến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Để tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Đồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.
Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.
Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”. Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn ngữ là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.
Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người phụ nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một phụ nữ khác nhập viện nằm gần chị. Người phụ nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người phụ nữ mới vào sau nói với chị “Này Chị ơi! Chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc chị”. Câu ấy làm cho chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:
“Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Đôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của chị sẽ phong phú hơn.”
Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra”.
Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.
Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.
Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Đây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa” và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói: Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày. Amen.
30. Ephata! Hãy mở ra – Đức Ông Nguyễn Quang Sách
Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa Nhật 23 Thường Niên năm B tuần này như sau:
Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.
"Và người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha", (nghĩa là "Hãy mở ra!"), và lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng" (Mc 7,32-35).
Chúa Giêsu không làm phép lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã thành gánh nặng của Người.
Trong một dịp, sau khi Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Mt 8,17).
Những phép lạ của Chúa Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng.
Người Chúa Giêsu chữa lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!
Sự khác biệt là bịnh điếc thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách.
Ngày nay người ta tránh dùng từ ngữ "điếc" và chúng ta chuộng hơn cách nói "khuyết tật thính giác," chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự điếc luân lý.
Chúng ta điếc, xin đan cử ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt giữa chúng ta và người thân cận "hai thứ nước men" sự dửng dưng. Cha mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.
Một người chồng điếc khi ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.
Chúng ta điếc khi chúng ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ, đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại bình an và an toàn cho nhà cửa.
Chúng ta những tu sĩ nam và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo mình khi xưng tội: "Con đã phá vỡ sự thinh lặng." Tôi tưởng thỉnh thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: "Con đã không phá vỡ sự thinh lặng."
Điều quyết định chất lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh lặng, sửa chữa hay là buông xuôi.
Đây là một luật đúng đúng cho mọi trường hợp: "Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn." Hãy quan tâm có tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình yêu.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt đẹp và sung sướng: "Đó là thịt bởi thịt tôi." Tương quan của ông bà với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội lẫn nhau: "Tại ông ấy, tại bà ấy..."
Chính từ đó mà người ta phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để "hoà giải chúng ta với Thiên Chúa" và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục "rờ" chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu: "Ephphatha, Hãy mở ra!"
Bí tích Thánh Thể cách riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên Chúa.
31. Chúa Giêsu- Đấng cứu chữa hồn xác
Một trong những khác biệt cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe hiểu và diễn đạt ý tưởng bằng lời nói. Ai mất hai chức năng này thì thường sống cô đơn vì khó giao tiếp được với cộng đoàn xã hội. Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ đó, có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này. Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).
Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại... và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.
Một số ý kiến cho rằng:
Lý do thứ nhất có lẽ là vì Chúa Giêsu biết dân chúng chưa thể hiểu được vai trò cao cả của Người. Do đó, chưa phải lúc cho họ chứng kiến và cao rao phép lạ này kẻo họ đến với Người vì phần xác hơn phần hồn, trong khi mục đích của Chúa Giêsu là nhắm chữa lành cả con người, nhất là phần linh hồn. Thực sự thì Người thương chúng ta cả hồn lẫn xác, không muốn chúng ta phải đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất hiểu những nỗi đau khổ của loài người và đứng trước cuộc tử nạn Ngài cũng đã cầu nguyện với Chúa Cha: lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng Con sẵn sàng theo ý Cha đón nhận khổ hình thập giá. Và chúng ta ai cũng biết rằng: thân phận con người đời tạm này không thể thoát được mọi đau khổ và cái chết. Đó là quy luật của kiếp người, chạy trời cũng không khỏi nắng. Chúa Giêsu khi mang lấy thân phận xác phàm để cứu chuộc chúng ta chắc Người cũng biết mình sẽ phải qua đau khổ và cái chết để nói cho chúng ta biết sự thật: do tội nguyện tổ mà con người phải đau khổ và phải chết. Nếu Chúa Giêsu có chữa lành đau khổ bệnh tật hay cho kẻ chết sống lại cũng chỉ là tạm thời để xoa dịu nỗi đau và để tỏ mình là Đấng Messia cho nhân loại được ơn cứu rỗi, chứ không nhằm giải thoát mọi người khỏi mọi đau khổ đời này. Điều Chúa muốn con người là: tin vào ngài để được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đời đời. Tuy con người phải trải qua đau khổ và cái chết nhưng ai tin vào Chúa Con sẽ sẽ được hạnh phúc trường cửu, bất diệt bên Chúa Cha. Đó là điều Chúa Giêsu chuẩn bị cho tất cả chúng ta. Như vậy, Chúa không muốn người ta đến với Chúa chỉ vì mục đích được chữa lành thể xác mà thôi. Chúa muốn họ biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành để được chữa lành phần linh hồn, để được hạnh phúc bền vững muôn đời trong nhà Chúa.
Lý do thứ hai, có lẽ là tác giả muốn nhấn mạnh việc người ta hăng hái loan truyền Tin Mừng về việc Chúa Giêsu cứu chữa loài người, các tác giả Tin mừng khuyến khích kitô hữu hãy mạnh dạn loan Tin mừng cho người xung quanh. Bởi vì chính những người Do thái xưa kia dù Chúa Giêsu cấm loan báo mà họ cũng không nín lặng được vì lòng quá tràn đầy niềm vui. Huống chi bây giờ Chúa dặn cao rao Tin mừng thì mình càng phải hăng say loan báo hơn nữa cho mọi người. Mình gọi là Tin mừng, là Lời đem lại hạnh phúc thì tại sao mình chưa nói cho anh chị em mình biết để cùng chung niềm vui lớn lao đó.
Mỗi người chúng ta đều được Chúa cho hưởng phép lạ. Đó là trong Bí tích giải tội, mọi tội lỗi của chúng ta qua lời xá giải của linh mục thì liền được tha thứ, hay trong thánh lễ, mỗi khi linh mục đọc Lời Truyền Phép, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu làm của ăn nuôi linh hồn ta. Những điều đó chúng ta tin và chứng kiến hàng ngày, chúng ta có loan truyền những dấu lạ đó bằng niềm vui sống đạo hay chưa. Nếu chúng ta được ban ơn trong các Bí tích thì chúng ta hãy sống thế nào để người khác nhận ra ơn Chúa nơi chúng ta. Xem ra chúng ta chưa tỏ rõ thái độ vui mừng, phấn khởi trước tình thương diệu kỳ của thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, người câm điếc còn biết cao rao danh Chúa cho mọi người, còn chúng con vốn được Chúa ban cho khả năng nghe nói biết bao năm qua, xin cho chúng con biết hăng hái cao rao danh Chúa cho mọi người để mai sau được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen.
32. Hãy cao rao tình yêu Thiên Chúa – Lm. Anmai
Nhớ lại tâm tình của một số người Do Thái khi họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu về dấu lạ. Họ đòi Chúa Giêsu làm dấu lạ thì họ mới tin.
Cũng hay đó chứ! Đó là quyền tự do của họ, quyền tự do của mỗi người khi đối diện với Thiên Chúa. Với bản thân tôi, đơn giản, mỗi ngày được thở, mở mắt ra sống với Chúa một ngày mới nữa đó là dấu lạ rồi.
Nhiều và nhiều dấu lạ xung quanh Chúa đã làm cho con người, đã làm cho chúng ta là dấu lạ nhưng chuyện quan trọng là chúng ta không nhận ra.
Một lần kia, lang thang ở trong Viện Tim với một cha đang điều trị. Ngồi trước phòng thay băng, hai bà mẹ bế hai đứa con khoảng 5 tuổi ngồi chờ thông tin về con mình. Đang lúc đó, hỏi thăm thì tôi nghe hai bà nói là 2 đứa bị tim và phải tốn cả vài trăm triệu để phẫu thuật cho hai đứa này.
Nghe xong giật thót cả người. Mình mà bị như hai đứa nhỏ này thôi thì cũng mệt.
Đâu cần nghĩ đâu xa, ngay người anh em vừa phải qua lần phẫu thuật vừa rồi đã là phát khiếp. Một vết mổ thật dài ngay trước ngực! Tạ ơn Chúa là ca mổ thành công và người anh em đang bình phục. Nếu tôi bị như thế không biết tôi sẽ ra sao vì sức khỏe không khá mấy và rất nhát những chuyện dao kéo.
Đó là tim, còn nhiều bộ phận khác trong cơ thể con người. Chi thể nào, bộ phận nào con người cũng cần cả. Chỉ cần khiếm khuyết một cái thôi thì ta sẽ thấy đời ta bao là rắc rối.
Nhớ đến những em bị câm điếc khi có thời gian sống chung với các em. Thật khổ sở, muốn nói cái gì thì phải dùng cái ngôn ngữ riêng của những em khiếm thính. May chăng học được vài từ của chúng để hiểu những cái sinh hoạt thường ngày chứ đâu biết hơn. Với chính bản thân chúng thì quả là khổ sở, để diễn tả tình cảm, tâm tư cho người khác các em phải vận dụng ngôn ngữ của các em, chỉ có thế giới của những người khiếm thính mới hiểu được với nhau.
Và, thử đặt trong trường hợp chúng ta khiếm thính chúng ta sẽ cảm nhận gì?
Dĩ nhiên, thoạt đầu thì cha mẹ và người thân phải tìm đến sự trợ giúp của y khoa cũng như bằng mọi cách hỗ trợ để cho người khiếm thính hội nhập với mọi người. Cuối cùng không làm được gì thì đành phải cho em học ở trường khiếm thính.
Ngày hôm nay, trong hành trình đi rao giảng Tin Mừng của mình, người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Chúa Giêsu và xin Chúa Giêsu đặt tay trên người câm điếc ấy. Chúa Giêsu đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng.
Sau đó, Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Chúa Giêsu càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”
Dĩ nhiên, sứ mạng của Chúa Giêsu đến trong cuộc đời này là Ngài băng bó những tâm hồn tan vỡ, Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền … và chuyện quan trọng nhất đó là cứu độ con người.
Tâm tình đó, lời loan báo đó chúng ta vừa được nghe ngôn sứ Isaia nói: Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Vâng! Thiên Chúa đến mang lại bình an, mang lại hạnh phúc, mang lại ơn cứu độ cho con người.
Trong cuộc sống thường ngày, Thiên Chúa vẫn yêu thương, vẫn chở che mỗi người bằng tình yêu thương của Ngài. Thế nhưng, đáng tiếc thay con người đã không nhận ra tình yêu thương đó mà đôi khi cáu gắt, hận thù, hơn thua, ganh tỵ nhau.
Chúng ta vừa nghe tâm tình của Thánh Phaolô: Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”.
Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta về tâm tình khiêm hạ. Nhiều lần nhiều lúc chúng ta đã coi thường những người nghèo, những người thấp bé hơn chúng ta.
Thật ra, Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn huệ nhưng chúng ta đã không nhận ra những ân huệ đó để rồi chúng ta cứ than vãn, chúng ta cứ ganh đua nhau.
Ngay cả bản thân chúng ta, như ông bà thường nói nhìn lên chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người.
Tại sao chúng ta không nhận ra diễm phúc, ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta cao rao tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta.
Chúng ta hãy bắt chước anh chàng câm điếc hôm nay để cao rao tình yêu Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta.
33. Ngài cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Tại viện câm điếc Lái Thiêu có trên 200 em câm điếc. Các em nói chuyện với nhau bằng một thứ ký hiệu riêng. Trong trường có em Lâm văn Lý bị điếc ngay từ khi sinh ra, cha mẹ em đã gửi vào trường từ khi em lên bảy. Các thầy cô vẫn coi em là người chậm chạp và ngu đần. Nhưng khi em lên lớp ba, cô giáo Trần thị Mơ đã nhận ra em có khả năng nghe được. Cô giáo đã tìm cách chạy chữa cho em, cuối cùng em đã nghe được và nói được. Em đã theo đuổi hết lớp trung học và đã ra trường năm em lên 18 tuổi.
Em Lâm văn Lý bị nặng tai cũng giống như người thanh niên trẻ trong Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành cho anh. Chúa vẫn còn mở tai cho người điếc ngày nay như mở tai cho người thanh niên trong thời của Ngài. Có điều là Ngài không dùng tay một cách trực tiếp để chữa lành, nhưng Ngài dùng cách gián tiếp qua những bàn tay của người khác cũng giống như cô giáo Trần thị Mơ nhờ thầy lang, nhờ bác sĩ mà chữa lành cho em.
Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta để ban phát sự lành cho những tâm hồn đói khát sự công chính. Chúa muốn mượm trái tim bác ái, nhân từ của chúng ta để Ngài chạm tới các tâm hồn những người khác. Chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ngài không?
Lạy Chúa, xin cho chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem trái tim đổi mới thế giới như chúng con là những dụng cụ của Chúa dùng.
34. Câm điếc tâm linh
(Suy niệm của Br.Thiện Mỹ, CRM.)
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời:
- Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc.
Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gởi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!...
Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khoá chặt lại: mở Radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản....
Chúa đã tạo dựng nên ta có tai để nghe Lời Chúa, có mắt để đọc Lời Chúa, có miệng để ca tụng Chúa. Ngoài những mục đích cao cả đối với Chúa, chúng ta còn phải liên kết với tha nhân đủ mọi phương diện. Thế mà ở đây lại có người vừa câm lại vừa điếc, thật là tội nghiệp. Nên người ta thương hại đem kẻ khuyết tật đó đến cùng Chúa Giêsu để được chữa lành. Họ đã tìm cầu tình thương rất đúng chỗ, nguồn thương xót vô bờ bến của Chúa đã ra tay cứu vớt kẻ bất hạnh đó….
Hôm đó Chúa Giêsu đi từ địa hạt Tyrô qua Sidon đến gần biển Galilê giữa miền Thập Tỉnh, người Do Thái coi miền 10 thành phố này như vùng đất ngoại giáo. Theo thánh Marcô thuật lại: “Người ta đem đến một người vừa câm vừa điếc cho Chúa Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh ấy”. Trong lúc người ta chờ đợi Chúa chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và đầy quyền năng của Ngài, thì thánh sử Marcô làm mọi người ngạc nhiên khi ông thuật lại việc Chúa Giêsu đã chữa lành theo cách các thầy lang làm theo những dấu chỉ bề ngoài. Và để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc ra xa khỏi đám đông. Rồi Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ. Chúa cũng đã dùng cử chỉ bề ngoài đó để biểu lộ ý lực bên trong: Ngài ngước mắt lên trời khẩn nài để chỉ nguồn gốc quyền năng từ Thiên Chúa. Ngài thở dài và nói: “Ephata” nghĩa là hãy mở ra. Đây là lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền lực sự dữ. Lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu có hiệu quả ngay lập tức: Đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh ta bắt đầu nói rõ ràng. Sự kiện siêu vời này làm phấn khởi nơi đám đông dân chúng, nhưng Chúa lại muốn họ giữ kín, đừng nói điều đó với ai. Như vậy chúng ta thấy cuộc đời công khai của Chúa Giêsu vẫn còn là cuộc đời ẩn dật giữa nhân loại, vì thế lai lịch của Đấng Kitô không được biểu lộ công khai ngay, mà chỉ được công bố cách rõ ràng cho mọi người sau khi Người chịu chết và sống lại. Nhưng dù Chúa cấm họ vẫn hứng khởi loan truyền ra rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Đây là phản ứng của dân chúng được chứng kiến hiệu quả của phép lạ mang tính cách thần linh; sự việc mà con người đã bó tay; đó là dấu chỉ quyền lực của Thiên Chúa được thực hiện do Chúa Giêsu. Cảm hứng của quần chúng Do Thái với lời tung hô ca ngợi làm cho chúng ta liên tưởng đến sách Sáng Thế Ký nói về công việc ngợi khen công trình sáng tạo vũ trụ: “Mọi sự Người làm, Thiên Chúa đều thấy tốt đẹp (St.1,31)”. Ngày xưa Chúa tạo dựng vũ trụ loài người, bây giờ Chúa lại tái tạo thế giới, đó là dấu chỉ Thiên sai mang nguồn ơn cứu độ cho trần thế.
Chúa đã dịu dàng mau mắn dủ lòng thương xót đối với người câm điếc về thể lý, chắc hẳn Chúa lại còn quan tâm đến người câm điếc về mặt tâm linh gấp bội: Chúng ta câm khi không biết mở miệng ra ca tụng Chúa, không biết nói những lời hữu ích xây dựng. Chúng ta điếc khi không biết đón nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, không biết lắng nghe và đối thoại với tha nhân. Chúa đã muốn phục hồi sự câm điếc tinh thần như bài đọc tiên tri Isaia hôm nay đã báo trước: “Này đây Thiên Chúa đến để cứu thoát các ngươi: Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”.
Qua câu chuyện Chúa chữa lành cho người câm điếc, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta mau mắn chạy đến với Chúa qua Giáo Hội để nhận những ơn lành Chúa ban cho đời sống thường ngày. Qua Bí tích rửa tội chúng ta đã được Chúa chữa trị bệnh câm điếc Đức Tin: Được mở tai để đón nhận Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng danh Chúa.
Tiếp đến là như những người trong Tin Mừng hôm nay, họ đã đem kẻ câm điếc đến cùng Chúa, chúng ta cũng hãy mau mắn đem người câm điếc tinh thần để Giáo Hội chữa trị, để họ cũng được hiệp thông vào cộng đoàn Nước Trời.
Cuối cùng chúng ta hãy cố gắng trở nên chân tay cho người què cụt, làm đôi mắt cho ai đui mù, làm tai cho người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được v.v.
35. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Trong đời sống, hẳn đã hơn một lần chúng ta thấy người câm và điếc. Một người mà không sao xử dụng được hai tài năng của mình là cái lưỡi và đôi tai thì thực là khổ. Sống giữa đời mà như bị loại ra khỏi trần gian. Có miệng mà không sao nói được để có thể truyền thông tư tưởng của mình cho kẻ khác; có tai mà không sao nghe và thưởng thức được âm thanh như mọi người. Họ bực rọc và khổ sở, vì sống giữa đám đông mà như ở sa mạc, ngơ ngác như một viên đá cuội giữa chốn hoang vu.
I. CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa đã chữa một người câm điếc, cho họ nói được và nghe được. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, Người ngước mắt lên trời tha thở và truyền lệnh: "Epheta! Hãy mở ra!" Lập tức, tai anh ta mở ra và lưỡi anh ta được tháo gỡ, anh ta nói được thành thạo và nghe được rõ ràng. Dân chúng thấy việc Chúa làm, hết lòng thán phục, ca ngợi Chúa: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Chúa Kitô đã thực hiện đúng từng nét lời tiên tri Isaia đã tiên báo từ 700 năm trước: "Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Hãy can đảm lên, đừng sợ!. Này Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính người sẽ đến để cứu thoát các ngươi. Bấy giờ, Người mở mắt kẻ mù, mở tai kẻ điếc, cho người què nhảy nhót như nai, người câm nói được..."
II. BỆNH TẬT THỜI ĐẠI HÔM NAY
Xin Chúa chữa cho chúng ta khỏi căn bệnh thời đại hôm nay, không phải là tật câm và điếc phần xác, nhưng là bệnh câm và điếc của tâm hồn.
* Có miệng mà sợ nói về Chúa, không biết ca ngợi tôn vinh Ngài.
* Có tai mà chán ghét không muốn nghe về Chúa và những sự thuộc về Ngài.
* Bệnh thích nghe và nói nhiều về những điều xằng bậy phản nghịch lại giáo huấn, tinh thần của Chúa và Giáo Hội.
Đi sâu vào đời sống người Việt Nam chúng ta tại các cộng đoàn, giáo xứ ở hải ngoại này, chúng ta sẽ thấy cái sự thật đau lòng này, là người ta hay đưa điều, nói hành, dèm pha, châm chọc, phá đổ hạnh phúc của tha nhân. Rất ít người biết xây dựng hạnh phúc cho kẻ khác... Cứ túm đông túm ba lại để đàm tiếu về truyện này truyện khác, có tin gì sốt dẻo là bốc điện thoại lên truyền thông cho nhau cách mau chóng, tin lành thì chẳng thấy đâu còn tin dữ thì nhanh như chớp... Có nhiều khi ngay trong gia đình, họ hàng thân quyến cũng phá vỡ hạnh phúc của nhau. Thấy gia đình người ta có nhà mới, có công ăn việc làm khá giả, có cửa tiệm này cửa tiệm kia phát tài, có tầu mới đánh tôm được mùa cũng ghen tương ganh tỵ, gây hận thù nói hành nói xấu. Thấy vợ chồng người ta đôi khi có những bất hòa, không khuyên nhủ cho họ yêu thương nhau, lại đổ dầu châm lửa thêm, khiến bất hòa lại càng thêm bất hòa, để rồi đi đến chỗ đổ vỡ... Có khi ngay chính cha mẹ đã vô lương tâm, phản trách nhiệm, đã xúi dục con cái ly dị nhau... Biết bao nhiêu tội lỗi gây ra do miệng lưỡi không kiềm chế, thả lỏng tự do, làm tay sai cho quỉ dữ mà không hay biết.
III. THÁI ĐỘ CẦN CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái Chúa, chúng ta hãy lưu tâm suy nghĩ, và thực hành giáo huấn Chúa răn dạy chúng ta: "Thầy bảo thật cho các con hay, đến ngày phán xét, người ta sẽ phải thưa lại tất cả những lời nói vô ích. Lại nữa, cũng bởi lời nói mà các con được trắng án, hoặc bị luận phạt" (Mt 12:36-37).
Chúng ta cũng cần nhắc lại lời căn dặn của Thánh Giacôbê Tông Đồ: "Anh chị em hãy mau nghe và chậm nói, và trì hoãn cơn tức giận" (Jac 1:19). Ngài còn cho chúng ta biết sự tai hại của cái lưỡi không biết kiềm chế: "Lưỡi là một chi thể nhỏ bé, mà khoe khoang được những việc lớn lao. Thử xem một khu rừng lớn, một ngọn lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy được. Lưỡi cũng là ngọn lửa nơi chứa chấp gian ác. Lưỡi thuộc chi thể của chúng ta, nó có thể làm dơ nhớp thân xác chúng ta, đốt cháy cả cuộc đời chúng ta, mà chính nó lại bị địa ngục hun cháy" (Jac 3:5-6).
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria, như mẫu gương tuyệt hảo Chúa đã ban cho loài người chúng ta, Mẹ luôn đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, suy niệm trong lòng và thực hành trong đời sống. Xin cho chúng ta biết dùng miệng lưỡi để ca ngợi tôn vinh Chúa, bởi các công trình kỳ diệu mà tình thương Chúa đã thực hiện, như chính Mẹ đã hằng ca ngợi Chúa: "Linh hồn Tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ Tôi" (Ca Vịnh Đức Mẹ).
Chớ gì trọn cuộc đời chúng ta là một lời ngợi khen, cảm tạ Chúa không ngừng, bằng chính đời sống thánh thiện, khiêm nhu, bác ái, dịu hiền và trong sạch như Mẹ chúng ta, để Chúa tôn vinh chúc tụng.
36. Chúa cứu chữa những khuyết tật của chúng ta
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ðức Giêsu cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng điếc và ngọng, vì tai chúng ta chưa biết lắng nghe Lời Chúa cho đủ và miệng lưỡi chúng ta chưa biết ca tụng Chúa cho xứng. Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa cứu chữa chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Người công giáo Việt Nam chúng ta quen đọc kinh nhưng chưa quen đọc và suy gẫm Lời Chúa.
Trong khi cầu nguyện, chúng ta thường xin Chúa ban ơn, nhưng ít khi biết ca tụng Chúa.
Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Giacôbê chỉ trích những kitô hữu coi trọng người giàu và khinh rẽ người nghèo. Phải chăng lời công kích ấy cũng đúng cho chúng ta?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 35,4-7a)
Chương 35 sách Isaia là những lời an ủi dân Do Thái đang sống kiếp lưu đày khổ sở. Bằng những hình ảnh rất cụ thể, Isaia mô tả ơn giải thoát Chúa sẽ ban cho họ: người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được. Dĩ nhiên đây chỉ là những hình ảnh được mượn để nói đến những ơn cao trọng hơn: điếc, què và câm là tình trạng khốn khổ của con người bị tước mất những khả năng tự nhiên; nghe, đi và nói là tình trạng được ơn Chúa phục hồi.
Ðiều Isaia tiên báo sẽ được Ðức Giêsu thực hiện.
2. Ðáp ca (Tv 145)
Thánh vịnh này mang cùng nội dung với bài đọc I, nghĩa là nói về ơn giải thoát của Thiên Chúa. Nhưng tác giả Thánh vịnh xử dụng những hình ảnh khác hơn: xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng người tù tội, mở mắt kẻ mù lòa v.v.
3. Tin Mừng (Mc 7,31-37)
Phép lạ này có nhiều ý nghĩa biểu tượng:
Diễn ra "giữa miền Thập Tỉnh", nghĩa là miền đất lương dân.
Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được.
Lúc chữa bệnh, Ðức Giêsu nói Epphata (Hãy mở ra), tiếng này ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
4. Bài đọc II (Gc 2,1-5) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu đừng đối xử thiên vị coi trọng người giàu và coi khinh người nghèo. Ngài còn lưu ý rằng Thiên Chúa ưu ái người nghèo.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ơn nghe được và nói được
Nghe và nói là khả năng rất quan trọng của con người.
Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý người nói cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Bởi vậy những người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
Nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ.
Cho nên nghe được và nói được là hai ơn rất lớn Chúa ban cho con người.
Ðức Giêsu chữa cho một người câm điếc hôm nay không chỉ có ý nghĩa với người đó, mà cũng có ý nghĩa đối với chúng ta. Có ý nghĩa không phải vì chúng ta câm điếc, mà vì chúng ta được Chúa ban cho hai khả năng quý báu đó. Tuy nhiên nhận được hai ơn ban ấy không hẳn là chúng ta biết xử dụng đúng hai ơn ban ấy. Trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều đáng nói. Cho nên cả chúng ta ta nữa cũng cần được Ðức Giêsu chữa trị.
Nghe được mọi chuyện nhưng lại không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc. Nói đủ thứ chuyện nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa thì cũng kể như câm.
2. Mê tín trong đạo
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể chuyện Ðức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là:
Khi chữa trị cho người này, Ðức Giêsu đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh.
Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, Ðức Giêsu còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.
Tại sao Ðức Giêsu cư xử như vậy? Thưa vì Ðức Giêsu không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc.
Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Ðức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến. Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh.... Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.
Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Ðó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người công giáo đi coi bói, đi xin bùa... Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào? Thường là:
. Khi có người thân bị bệnh nặng: chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.
. Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.
Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cần cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái...
Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các cha. Các cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các Cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v... Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bả ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tin dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào!
Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm:
. Thứ nhất: hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân này đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỷ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao? Ðương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin chỉ cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Ðừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ" mà.
. Ðiểm thứ hai: chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở thế gian có những thứ ấy. Ðể làm chi? Ðể nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương... Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau: "Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một thánh giá ta đang gánh vác. thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó".
Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Ðức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ấy là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.
Xin Chúa cho chúng con theo Chúa vì thực sự tin Chúa. Xin cho đức tin chúng con được vững mạnh, nhất là trong những lúc đau khổ, gian nan.
3. Lưỡi và tai
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về "Cái lưỡi và cái tai" như sau:
Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn thuyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau:
- Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của "cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những "cái tai" không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: "Nhà báo nói láo ăn tiền".
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể "vẽ vời" để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
- Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói:
- Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
***
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ "câm và điếc" hoàn toàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay, Ðức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán: "Ép-pha-ta" nghĩa là "Hãy mở ra" lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc (x. Mc.6,34-35).
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: "Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu".
Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng; không gây phương hại, vẫn đục cho tâm hồn.
Cha Mark Link có viết: "Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng có thể luôn tin vào những gì được thấy bằng con tim của mình".
****
Lạy Chúa, xin phá đổ bức tường thành kiến trong tâm trí chúng con, để chúng con lắng nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em, và tiếng thúc giục của Lời Chúa.
Xin cho chúng con đừng câm điếc trước lời mời gọi của Chúa và tha nhân. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Ðừng đánh giá con người theo vẻ bề ngoài
Những chuyện dưới đây có thể dùng để minh họa lời khuyên của Thánh Giacôbê trong bài đọc II hôm nay:
a/ Hôm đó, một đệ tử của một vị thiền sư đi dự một buổi lễ trở về, mặt mày hớn hở. Khi được hỏi tại sao hớn hở như vậy, người đệ tử ấy cho biết là mọi người đều khen anh mặc áo đẹp. Vị thiền sư ôn tồn chỉ dạy: "Con chẳng có gì để vui mừng hớn hở cả, vì người ta khen chiếc áo đẹp chứ đâu phải khen con đẹp".
b/ Một ông nhà giàu mở tiệc khoản đãi tất cả những người láng giềng. Cạnh nhà ông có một người rất nghèo. Vì nễ tình hàng xóm nên người này cũng đến dự. Tuy nhiên người này nghèo nên chiếc áo anh mặc rất là tầm thường. Khi tới cổng, anh bị các đầy tớ của người nhà giàu không cho vào. Tức quá, anh mượn một chiếc áo rất đẹp của một người nhà giàu khác và lại đến. Lần này, anh được mời vào tử tế. Rủi thay, đang lúc lấy thức ăn thì một cánh tay áo rơi vào dĩa thức ăn. Lý do là chiếc áo đặc biệt này có hai cánh tay loại tháo ráp được. Người nhà nghèo chưa quen mặc nên đã không cẩn thận cài nút ở chỗ ráp nối. Những đầy tớ thấy vậy bảo anh nhà nghèo mau lượm cánh tay áo lại. Nhưng anh nhà nghèo thản nhiên nhìn cánh tay áo và nói: "Mày nằm trong dĩa thức ăn thì cứ tha hô mà ăn cho thoả thích đi nhé, vì người ta kính trọng mày chứ đâu phải kính trọng tao".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, thời Ðức Giêsu người ta đem các thứ bệnh nhân đến để xin Chúa chữa lành, chúng ta cũng hãy đến với Chúa với tất cả mọi lo âu và bệnh tật hồn xác, và dâng lên Chúa lời nguyện sau đây:
1. Hội thánh ngày nay đang sống giữa đa số những người nghèo khổ bệnh tật cả xác hồn / Xin cho mọi người trong Hội thánh trở nên bạn của những người nghèo khổ bệnh tật / và sẵn sàng chia vui sẻ buồn với họ.
2. Ða số các nước trên thế giới còn sống trong tình trạng kém phát triển, chậm tiến, đói khổ và bệnh tật / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước kém phát triển biết thật tình quan tâm hơn đến đa số dân còn nghèo đói và chậm tiến.
3. Chung quanh chúng ta còn nhiều người bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / mà không có ai đem họ đến với Chúa / Xin cho họ sớm gặp được người an ủi giúp đỡ và dẫn họ đến với Chúa.
4. Trong họ đạo chúng ta còn nhiều người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng sợ hôn câm điếc thể xác / Xin cho họ được chữa lành để nghe tin Chúa và ca tụng cảm tạ.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa luôn quan tâm sẵn sàng giúp đỡ mọi người đang gặp cảnh khốn khó, xin Chúa chấp nhận những y nguyện chúng con vừa dâng lên, để mọi người nhận biết quyền năng Chúa, và dâng lời cảm tạ tôn vinh. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ", chúng ta hãy xin Chúa thương đến những người nghèo nàn, bệnh hoạn, tật nguyền...
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là những chứng mù, què, câm, điếc về mặt thiêng liêng, khiến chúng con không nhìn thấy Chúa, không hăng hái đi theo Chúa, không ca tụng Chúa và không lắng nghe tiếng Chúa..."
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ một câu Tin Mừng hôm nay: khi Ðức Giêsu chữa cho người vừa điếc vừa ngọng, Ngài nói: "Epphata", nghĩa là hãy mở ra. Sống trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng mở lòng, mở tai và mở rộng bàn tay để vừa đón nhận tình yêu của Chúa vừa đón tiếp anh chị em chúng ta.
37. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương
EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA, VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC
Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm "như câm như điếc" khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.
Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.
Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.
Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.
Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.
Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.
Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: "Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được". Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác...
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.
Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc".
Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.
38. Hãy mở ra!
"Thiên Chúa, Đấng mở đường" là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót. Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như "gà mẹ ấp ủ con dưới cánh", nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.
Trước những lầm lạc của dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó.
Bài đọc một trích Sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc . . . được trở lại bình thường. Nói cách khác, Thiên Chúa đã "mở đường" cho họ. Đó là con đường dẫn đưa họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con người.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là "Đấng mở đường" đích thực. Ngài đã "mở tai và mở miệng" cho một người bị bệnh câm, ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con người. Nhìn thấy anh bệnh nhân "vừa điếc vừa ngọng" từ lúc mới lọt lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây giờ!
Theo thói thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Có một chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:
"Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này".
Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
- Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
- Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.
Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! "Epphatha- Hãy mở ra" là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.
39. Một ngày kia khi vương quốc đến.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Một biến cố có vẻ như ở bên lề sứ vụ của Chúa Giêsu –việc chữa lành một người câm điếc- làm sao lại có thể gặp gỡ chúng ta và đưa chúng ta đến một suy tư thiết yếu về niềm hy vọng và sự tham gia của chúng ta vào việc làm cho nước Chúa trị đến? Có nhiều lý do. Chúa không làm gì cách nhẹ dạ cả, như thể đối với Ngài có những điều quan trọng và những điều khác không quan trọng. Hơn nữa, mỗi cử chỉ, cũng như mỗi lời nói của Ngài đều diễn tả một cách mới mẻ và luôn luôn thúc bách cùng một sứ điệp đó: Nước Thiên Chúa đã đến, anh em hãy hoán cải và đón nhận nó!
Lời hứa.
Bài đọc một diễn tả lời Thiên Chúa hứa với dân Ngài: Ngày kia sẽ có một thế giới mới, một thế giới khác trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ nỗi lầm than hoặc sự điên rồ nào của thế giới hiện tại nữa: Sẽ không còn tật nguyền nữa nhưng sẽ đầy sự sống, không còn đói khát, âu lo, chiến tranh nữa, nhưng là hòa bình. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa sẽ đến khai mạc.
Những kẻ lắng nghe những tiếng kêu hăng say này của các ngôn sứ phần lớn là những người nghèo nhất và những kẻ thiếu hy vọng nhất trong một xứ sở đã trở thành mồi cho sự xung đột giữa các cường quốc. Họ không có quyền hành gì trên những bức xúc liên lỉ của cuộc sống: Tật nguyền, bệnh tật, sự hiện diện gây ám ảnh của thần chết, đói kém, giặc giã và thiếu tự do.
Có phải đã đến lúc không?
Những người nghèo ấy đã nghe những lời hứa này, đã chờ đợi chúng được thực hiện, biết các dấu chỉ loan báo điều ấy sắp xảy ra. Chắc hẳn họ nhắc lại những dấu chỉ đó trong lòng và chờ đợi chúng. Lời cầu của họ có thể là gì khác hơn là một lời kêu xin lâu dài và kiên nhẫn không?
Vậy nên, khi họ biết được rằng một vị ngôn sứ thực hiện những dấu chỉ đầu tiên trong các dấu chỉ được hứa, rằng những người nghèo, những người đau ốm và tật nguyền, những nạn nhân của nỗi lầm than của con người tìm thấy được nơi Người sự an ủi đã chờ mong từ rất lâu, thì những đám đông lầm than khốn khổ nhưng tràn trề hy vọng tuốn đến với Chúa Giêsu.
Một vương quốc phải bắt đầu.
Quả thật đây là khởi điểm. Nhưng cũng còn là điều gì khác lớn hơn và hấp dẫn hơn nữa.
Tin rằng triều đại Thiên Chúa gồm những phép lạ, một phép mầu biến đổi cuộc sống mà chúng ta không cần làm gì cả ngoài việc ngồi dưới bóng mát và nhìn xem nó từ trời xuống, tức là có một ý niệm rất sai lầm về Chúa, một ý niệm nghèo nàn về con người và ơn gọi của họ, một ý niệm nghèo nàn về Nước Trời.
Như bài Tin Mừng nhắc nhở, Chúa Giêsu đã rất cẩn thận làm cho người ta hiểu ý nghĩa các phép lạ Ngài thực hiện: Đây là những cử chỉ giới thiệu một con đường phải đi và mời gọi người ta đi vào đó như Ngài đang đi.
Nước Chúa phải bắt đầu bằng việc an ủi những kẻ lầm than, chia sẻ với những ai khốn cùng khi làm cho người điếc nghe được, người câm nói được, người què đi được, người mù được sáng mắt. Vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng, theo lời căn dặn của Chúa Giêsu mà trong mỗi Thánh lễ đều được nhắc lại cho chúng ta, là phục vụ lẫn nhau, theo gương Ngài.
Nước Chúa là một hồng ân. Đây cũng là công việc biến đổi thế giới: thay thế bất công bằng sự công chính, đau khổ bằng sự an ủi, lo âu bằng hy vọng, tính ích kỷ bằng tình thương. Sau khi đã hoàn tất những công việc đó mà chính Thiên Chúa cũng tham gia vào, thì thế giới mới đã được hứa sẽ xuất hiện.
Kết luận.
Niềm hy vọng, vốn là sức mạnh của sự xác tín, phải sống động đủ nơi chúng ta để thúc đẩy chúng ta thi hành những công việc Chúa đề nghị cho chúng ta để thế giới mới mà Thiên Chúa hứa có thể trở thành hiện thực.
40. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
KHÔNG PHẢI CHÚNG TA TỰ MÌNH NGHE ĐƯỢC LỜI CHÚA
MÀ LÀ CHÍNH LỜI CHÚA LÀM CHO CHÚNG TA NGHE ĐƯỢC LỜI NGƯỜI
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này trình thuật việc Chúa chữa lành cho một người câm điếc ở miền Thập Thành. Nếu chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh thì phép lạ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu có liên hệ như thế nào? Trước hết, chúng ta chẳng những cần phải nhớ lại ý nghĩa của bệnh hoạn tật nguyền với tội lỗi, sau đó phải còn để ý tới tiến trình và cách thức chữa lành của Chúa Giêsu nữa.
Về ý nghĩa của bệnh nạn tật nguyền liên quan đến tội lỗi, chúng ta vẫn được Giáo Lý dạy cho biết đau khổ và sự chết nơi thân xác là hậu quả của tội lỗi, của nguyên tội. Tuy nhiên, bệnh nạn tật nguyền, tình trạng bất toàn về sự sống thể lý và không toàn vẹn của thân xác con người, chẳng những là thực tại của đau khổ và là hiện thân của sự chết thể lý, mà còn là tiêu biểu cho tội lỗi nữa. Thật thế, những thứ tật nguyền như mù lòa, câm điếc, bất toại, kể cả chính tình trạng tột cùng tối hậu của đau khổ là chết chóc, thậm chí cả tình trạng bị quỉ ám, cũng đều nói lên ý nghĩa và tác dụng của tội lỗi nơi con người.
Con người tội lỗi không phải là con người mù lòa hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị mù lòa hay sao? Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với viên chức trong Hội Đồng Do Thái là ông Nicôđêmô rằng: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Ai làm điều gian ác thì ghét ánh sáng; họ không đến gần ánh sáng vì sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19-20). Trong trường hợp chữa lành cho một người mù từ lúc mới sinh, sau khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi đến thế gian để phân rẽ thế gian, để làm cho kẻ mù được thấy còn kẻ thấy bị mù”, các người Pharisiêu nói với Người rằng: “Thế thì ông cho chúng tôi toàn là những kẻ mù hay sao?”, nên đã được Người xác nhận: “Nếu quí vị mù thì quí vị vô tội, đằng này quí vị nói ‘chúng tôi thấy’ nên tội của quí vị vẫn còn đó” (Jn 9:39-41). Nguyên tội chính là tác động mù lòa đầu tiên của con người, ở chỗ, con người đã bỏ Đấng Tạo Hóa của mình để đi nghe theo tên cám dỗ bùi tai, và sau khi đã phản bội Chúa là Thiên Chúa của mình rồi, con người đã đâm ra mù quáng, không biết giơ tay hái cây trường sinh cũng được Thiên Chúa trồng ở giữa vườn cùng với cây biết lành biết dữ (x Gen 2:9) mà ăn để tự giải độc gây ra bởi trái cấm oan nghiệt, lại cuống lên sau khi mở mắt ra thấy mình trần truồng liền ẩn trốn và đổ thừa cho nhau (x Gen 3:7,12-13).
Con người tội lỗi không phải là con người câm điếc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành câm điếc hay sao? Thật ra, ngay từ ban đầu con người không phải là thành phần câm điếc bẩm sinh, vì ngay sau khi nghe tên cám dỗ xui dại, miệng con người còn nhắc lại những gì tai họ đã nghe thấy chính Chúa là Thiên Chúa của mình dặn bảo (x Gen 3:2-3), những gì đã được Ngài in ấn hay ghi khắc sâu xa trong lương tâm làm người của họ. Và sau khi con người đã sa ngã phạm cái tội đầu tiên được gọi là nguyên tội ấy, con người vẫn còn nghe thấy tiếng Chúa di động trong vườn địa đường như tiếng lương tâm ray rứt, và đã trả lời những vấn đề được Ngài đặt ra (x Gen 3:8-13). Thế nhưng, việc nghe được tiếng Chúa mà còn phạm tội không phải là dấu chứng tỏ con người chủ động muốn trở thành câm điếc hay sao, ở chỗ họ đã muốn bịt tai trước tiếng nói của lương tâm để có thể âm thầm làm theo ý riêng của mình? Ngày nay con người đã đến bậc câm điếc rối loạn, đến nỗi chẳng những không nghe được tiếng lương tâm, ở chỗ đã mất ý thức tội lỗi, nhưng lại nghe được những tiếng quái gở khác, được thể hiện điển hình qua các việc họ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
Con người tội lỗi không phải là con người bất toại hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành bất toại hay sao? Thật vậy, ngay từ ban đầu, con người đã tỏ ra bất lực trước những gì mình biết là tốt, là sự sống mà không làm theo, không làm nổi, trái lại, làm theo những gì sai trái, những gì mang lại chết chóc cho mình. Hậu quả ngay sau nguyên tội là con người đã không có đủ can đảm để nhận sự thật, lại đi đổ lỗi cho nhau. Nghĩa là, cho dù có thể làm được (theo quyền năng tự do) những gì không được làm (vô luân và tội lỗi) nhưng con người thật sự bị bất toại trước sự lành và hoàn toàn trở thành bất toại trước sự thật. Bởi đó, tự do không phải là muốn làm gì thì làm, mà là làm những gì hợp với sự thật để có thể đạt được sự thiện, tức làm những gì khiến con người nên hoàn thiện hơn, đạt được cùng đích chân thật của mình, bằng không, nó sẽ làm cho con người trở thành một thứ nô lệ phục vụ đam mê nhục dục, làm tay sai của sự dữ, làm hiện thân của tử thần. Một con người nghiện ngập không thể chừa bỏ không phải là một kẻ bất toại hay sao?
Con người tội lỗi không phải là con người bị chết chóc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị chết chóc hay sao? Đúng thế, tội lỗi được thể hiện rõ nhất nơi tình trạng chết chóc của thân xác. Nếu chết là trường hợp linh hồn lìa xác, hay xác trở thành vô hồn, thì một khi con người phạm tội là con người không còn được Thiên Chúa hằng hữu ở với họ nữa, nghĩa là một khi Thiên Chúa là nguyên lý hiện hữu của con người và nơi con người không còn ở với họ nữa thì toàn thể hữu thể của họ trở thành như một cái xác vô hồn, mang đầy những tính chất chết chóc, cho tới ngày họ thực sự là bụi đất trở về với đất bụi (x Gen 3:19). Thực tế cho thấy, sau nguyên tội, thậm chí kể cả sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, con người vẫn còn ở trong tội lỗi, vẫn mang trong mình những dấu vết của tội lỗi, mầm mống của tội lỗi, vẫn đầy những tính mê nết xấu trong tâm hồn, và vẫn phải chịu đau khổ rồi chết đi nơi thân xác. Nếu chết là tình trạng phân ly giữa hồn và xác thì cuộc sống con người là một cái chết liên lỉ về tâm linh, ở chỗ, như Thánh Phaolô cảm nghiệm những gì tôi muốn thì tôi không làm, còn cái gì tôi ghét thì tôi lại làm (x Rm 7:15), tôi không làm điều lành tôi muốn làm mà là điều xấu tôi không muốn làm (x Rm 7:19). Nếu hiện tượng lạnh ngắt, cứng đơ và nặng trịch nơi thi thể của người chết là dấu hiệu cho thấy sự sống không còn nơi họ thế nào, thì con người còn sống động nơi thân xác đây thật sự cũng mang trong mình những tính chất hay dấu vết của sự chết thiêng liêng như vậy. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ nhất nơi con người đó là tâm hồn con người “lạnh ngắt” và dửng dưng trước tình trạng cùng khổ của tha nhân, kể cả người thân yêu nhất của mình; việc các cường quốc thực hiện mưu đồ tân thực dân đối với các nhược quốc trong thế giới ngày nay, cùng với trào lưu ly dị và phá thai hiện tại không phải là hiện tượng lạnh ngắt lòng người hay sao? Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ hai nơi con người đó là phản ứng của con người “cứng đơ” trước tiếng lương tâm, ở chỗ họ không thể đáp lại sự thật tối cao và sự thiện chân chính là những gì làm cho họ hoàn toàn sống tự do và hạnh phúc trường sinh vinh phúc. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ ba nơi con người đó là hành động của con người “nặng trịch” trước việc làm lành lánh dữ.
Con người tội lỗi không phải là con người bị quỉ ám hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành ô uế hay sao? Sự kiện hay hiện tượng con người bị quỉ ám là dấu chứng tỏ rõ ràng nhất cho thấy con người không còn sự sống thần linh là Thiên Chúa ở nơi bản thân họ. Con người của họ đã bị thần dữ chiếm đoạt và làm chủ, xui khiến họ làm những gì bất xứng với phẩm giá của họ, và họ trở thành dụng cụ, thành tay sai hay thừa sai gieo rắn “văn hóa sự chết” cho hắn. Ngoài trường hợp bị quỉ ám thực sự, bình thường con người còn bị các thứ thần ô uế ám nữa. Đó là các thứ đam mê nhục dục, tính mê nết xấu nơi họ, nhất là các thứ ngẫu tượng do họ tạo ra, như đã được đề cập đến trong bài chia sẻ tuần trước về “bảy thần ô uế khác”. Trường hợp bị quỉ ám hay các thứ thần ô uế ám là trường hợp con người còn bị chi phối và điều khiển bởi “quyền thống trị của tối tăm” (Col 1:13), “quyền lực sự chết” (Heb 2:14), “quyền lực tội lỗi” (Rm 3:9), “quyền lực của tên gian ác” (1Jn 5:19).
Tóm lại, việc trừ thần ô uế, hồi sinh kẻ chết và việc chữa lành các thứ tật nguyền bệnh hoạn, như việc chữa lành cho một người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu, đúng như lời Thánh Gioan xác tín: “Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để phá hủy các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), tức là Người đến để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, đúng hơn Người đến là để tái sinh con người “bởi trên cao” (Jn 3:3), “bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của Người, ở chỗ Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống. Như thế, nơi mỗi phép lạ, cách riêng phép lạ chữa lành, đều có hai phần, phần Chúa tỏ mình ra và phần con người nhận biết, chẳng khác gì như việc ánh sáng chiếu trong tăm tối và xua tan tối tăm vậy. Nếu con người, nhất là thành phần nạn nhân của tật nguyền bệnh hoạn, như người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, nhờ thân xác họ được chữa lành mà tâm linh họ nhận biết “Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:47), thì không phải là họ được Lời Nhập Thể là Chúa Kitô tái sinh hay sao? Vì “sự sống đời đời” chính là ở chỗ nhận biết Chúa là Thiên Chúa của mình (Jn 17:3), là trở về với nguyên lý hiện hữu tối cao của mình.
Chưa hết, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta còn thấy cách thức Chúa Giêsu chữa lành ngươiøi câm điếc nữa. Vẫn biết, với quyền năng vô hạn của mình, Chúa Kitô có thể chữa lành bằng bất cứ cách nào dễ nhất và nhàn nhất, chẳng hạn phán một lời “Ephrata”, “hãy mở ra” cũng đủ, đằng này, trước khi phán lời quyết liệt đó, Người còn phải dẫn anh ta ra khỏi đám đông, rồi đặt các ngón tay vào lỗ tai của anh ta và bôi nước bọt lên miệng anh ta nữa mới được. Nếu từng tác động Chúa Giêsu làm đều không phải là vô nghĩa thì những tác động Người chữa lành câm điếc cho nạn nhân của bài Phúc Âm Chúa Nhật này cũng phải có một ý nghĩa nào đó? Trước hết, Chúa Giêsu không chữa lành câm trước mà là điếc trước. Bởi vì, bình thường người bị điếc bẩm sinh sẽ là người cũng bị câm luôn, vì một khi bộ phận tiếp nhận âm thanh của họ là đôi tai bị hỏng thì bộ phận phát thanh của họ là miệng lưỡi của họ cũng bị tịt luôn. Đó là lý do Chúa Giêsu đã chữa thính giác của nạn nhân đã rồi mới tới khả năng phát ngôn của anh ta. Phúc Âm đã ghi lại rõ ràng thứ tự này như sau: “Tức thì tai anh ta mở ra… và bắt đầu nói năng bình thường”. Ở đây chúng ta thấy rằng cần phải nhận được mạc khải đã mới có thể loan truyền mạc khải. Chắc hẳn người câm điếc được chữa lành này không hề nghe thấy lời Chúa Giêsu phán “hãy mở ra”, nhưng chính quyền năng của lời này đã làm cho tai anh ta mở ra và nghe thấy. Ở đây chúng ta còn thấy một điều quan trọng khác nữa, đó là không phải chúng ta tự mình nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người.
Sau nữa, ba cử chỉ Chúa Giêsu làm nơi nạn nhân trước khi Người phán lời “hãy mở ra” mang ý nghĩa gì, nếu không phải đều là những gì cần thiết để nạn nhân có thể được chữa lành sau lời truyền phán “hãy mở ra” của Người. Tự Người không cần phải làm thêm ba cử chỉ này, nhưng sở dĩ Người làm như thế là vì để sửa soạn cho nạn nhân câm điếc, thành phần cần hội đủ ba điều thiết yếu ấy để có thể nghe thấy và nói được. Tu đức đã cho thấy rõ ba tác động cần thiết đối với một tâm hồn vốn bị câm điếc trước mạc khải thần linh, ba tác động có thể giúp họ chẳng những nghe được tiếng Chúa mà còn đáp ứng lời Chúa là ở chỗ, họ cần phải sống yên tĩnh, xa lánh tình trạng ồn ào của thế gian, để nhờ đó chuyên chú lắng nghe Chúa nói qua những gì Người đã dùng ngón tay của Người ghi khắc trong lòng họ (x Rm 2:15), và sau đó sẵn sàng loan truyền những gì (như nước miếng chẳng hạn) “phát ra từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4).
41. Đức tin là bởi nghe, sự thờ lạy là bởi nói.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Giác quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định giác quan nào là thế giá hơn, ánh nhìn của chúng ta hay là đôi tai, nhưng người đàn ông trong Phúc Âm đã không do dự. Ông ta bị điếc và ông biết chính xác điều gì là quan trọng nhất đối với ông ta.
Điếc làm cho anh ta không nghe được; anh ta cũng không thể nghe được những lời mà mình phát âm. Anh ta không thể hỏi Chúa Giêsu về những đặc ân mà mình cần. Khổ thay, một số người liên quan đã mang anh ta đến với Chúa Giêsu và giải thích về hiện trạng của anh. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh, và cho anh một khả năng để lắng nghe và Người đã làm cho người đàn ông đã có thể nói một cách rõ ràng. Chúng ta không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đã động lòng thương xót. Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên đó là tất cả chúng ta một lúc nào đó trong cuộc sống đã bị tình trạng giống như một người điếc, không bị cách thể lý nhưng là tinh thần, cách thiêng liêng. Trước kh chúng ta chịu phép rửa, chúng ta là những người điếc cách thiêng liêng. Chúng ta không có đặc ân đức tin. Kết quả là chúng ta không nghe được lời Chúa nói với chúng ta, và chúng ta cũng sẽ không nói với Thiên Chúa được.
Đức tin đến với chúng ta bằng việc nghe thấy, không phải xuyên qua bộ phận tai nghe của chúng ta nhưng là qua đặc ân đức tin mà chúng ta lãnh nhận nơi phép rửa. Đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta có cơ hội lắng nghe bằng đức tin. Chúng ta sẽ đặt chỗ ưu tiên để suy nghĩ về việc lắng nghe Lời Chúa như là một nguồn mạch đức tin của chúng ta, còn có những cơ hội khác trong Thánh Lễ. Kinh Tin kính sau bài giảng đã diễn tả đức tin của chúng ta, như chúng ta hát những ca vịnh, hoặc khi chúng ta đọc những lời linh đặc biệt là kinh nguyện Thánh Thể. Một câu ngạn ngữ xưa nói rằng cách mà chúng ta đọc kinh là diễn tả những gì chúng ta tin (Lexorandi, lexcredendi).
Tuy nhiên đức tin thì bất toàn cho đến khi chúng ta nói với Thiên Chúa về cung cách mà chúng ta sẽ cử hành, hay khi chúng ta đáp trả trong việc thờ phượng. Lời kinh trong phụng vụ sẽ phục vụ cho một mục đích kép đôi: Nó vừa dạy chúng ta đức tin, vừa trao ban cho chúng ta những từ ngữ thích hợp để diễn tả sự thờ phượng của chúng ta. Những điều này được ban xuống là để chúng ta thờ lạy Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Nói một cách khác, chúng ta dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã làm và còn đang tiếp tục làm. Trong thời kỳ Phúc Âm, dân chúng đã tôn kính Chúa Giêsu bằng việc kể lại cách đơn giản những gì Ngài đã làm. Họ nói: “Ngài đã làm cho người điếc nghe được, người câm nói được”.
Thí dụ trong kinh nguyện Thánh Thể thứ ba, chúng ta đọc: “Lạy Cha, Cha là sự thánh thiện và mọi tạo vật của Cha đều phải dâng lời ngợi khen Cha. Tất cả đời sống, tất cả sự thánh thiện đều phát xuất từ Cha”. Thiên Chúa đã mạc khải rằng Ngài là nguồn mạch của mọi sự sống, của mọi sự thánh thiện, chúng ta ngợi khen Ngài bằng việc tuyên xưng Ngài là chân lý thật. Các Thánh Vịnh cũng là hoa quả giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Trong Thánh Vịnh đối đáp ngày hôm nay, Thánh Vịnh 146: “Thiên Chúa của Giacóp đã giữ lời hứa đến muôn đời, bảo đảm sự công chính cho người bị áp bức, cấp thực phẩm cho người đói, Chúa giải thoát kẻ ngục tù”. Những lời này vừa là lời mạc khải vừa là lời cầu nguyện.
Thiên Chúa không cần chúng ta nhắc nhở Ngài về sự lớn lao mà Ngài có và sự kỳ diệu nơi các việc Ngài đã làm. Ngay trong mối quan hệ của con người, chúng ta ngợi khen người khác bằng việc nói với họ về những gì họ đã làm. Đối với người bạn mà anh ta đã mời bạn đến nhà dùng cơm thì bạn phải nói: “Món mì nóng tuyệt vời mà trước đây tôi chưa hề nếm qua bao giờ”. Thiên Chúa cũng làm cách tốt nhất trong mọi cách cho chúng ta. Đó là những gì chúng ta đã học được khi chúng ta lắng nghe tất cả mọi hình thức của sự mạc khải. Chúng ta là những người khôn ngoan, khi sự thờ lạy mà chúng ta dâng cho Thiên Chúa là theo những gì mà Ngài đã nói về Ngài cho chúng ta, kh chúng ta nói với Người trong cầu nguyện theo cách mà chúng ta có thể.
42. Chúng ta là những kẻ câm điếc được chữa lành.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Từ xứ Galilêa, Chúa Giêsu lên miền Bắc, vòng qua xứ Phênêkia, rồi lại xuống phía nam, về hướng hồ Tibêria (tức biển Galilêa). Khu vực Chúa đi qua mang tên là Đêcapôli. Ở đây sinh sống khá nhiều người Do thái, lẫn trong đám dân phần lớn là người ngoại. Danh tiếng Chúa làm phép lạ lan đến cả đây, cho nên Chúa di chuyển đến đâu là có người chạy đến xin Người chữa những kẻ bệnh tật. Người ta đem đến trước mặt Chúa một kẻ bẩm sinh câm điếc. Chúa chữa lành kẻ ấy. Tuy nhiên ở đây ta chứng kiến một sự biểu dương đặc biệt sự thể Chúa can thiệp vào sinh hoạt con người. Thay vì chữa khỏi kẻ tật nguyền bằng một hành vi ý chí thuần tuý và đơn giản, Chúa chạm tay vào người y. chúa tra ngón tay vào trong lỗ tai kẻ điếc như thể mở tai y. chúa nhổ nước miếng vào tay rồi chạm vào lưỡi kẻ khốn khổ. Từ phép lạ này ta rút ra hai chủ đề suy niệm:
1) Chúa muốn biểu lộ công hiệu của sự tiếp xúc giữa nhân tính Chúa và nhân tính chúng ta.
Người muốn cho thấy rằng mầu nhiệm nhập thể không những là Con Thiên Chúa đến giữa loài người, mà còn là một sự hiệp thông thân mật giữa Người-Thiên Chúa với người phàm. Người ta có thể lầm tưởng rằng có lẽ Đức Kitô mặc lấy dáng vẻ con người, đi qua thế gian giữa nhân loại phàm trần mà vẫn đứng ngoài nhân loại. Cũng đúng là Đức Kitô có thể truyền thông cho chúng ta tất cả mọi hồng ân cứu rỗi, chỉ nhờ vào ý chí Người, từ ngoài xa truyền ơn đến cho chúng ta. Chúa không muốn thế. Chúa đem nhân tính hiển-vinh của Người tiếp xúc với chúng ta, để hiệp thông với chúng ta. Ngày nay thánh lễ tạ ơn là sự làm chứng cao độ nhất cho ý muốn Người. Thánh lễ chính là nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu đến trong chúng ta, và đem chúng ta vào trong nhân tính Chúa để trở nên nơi chốn chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa.
2) Về phương diện thiêng liêng, chúng ta là những kẻ câm điếc bẩm sinh được chữa khỏi do phép thanh tẩy.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể tiếp xúc với loài người, cho chúng ta nghe được Lời của Thiên Chúa và cùng một lúc nói được với Thiên Chúa và với anh em chúng ta. Chịu phép Rửa tội nhờ bí tích thanh tẩy Chúa lập ra, chúng ta được Chúa mở tai mở Lưỡi chúng ta, cho chúng ta khả năng nghe Lời Người và nói theo Thần trí Người. Khả năng nghe và nói đó là gì? Trước hết là đức tin. Nhờ ơn huệ của đức tin, một Lời của Chúa đến với chúng ta, chúng ta ý thức được Lời đó-cũng như một lời nói thường lọt qua tai vào tới não, nhờ não chúng ta ý thức được lời nói ấy. Điều ta nghe thấy nhờ Đức Kitô, cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là ‘Cha’ và trong Đức Kitô, Thiên Chúa kêu gọi ta đến với Người. Tiếp đến, khả năng nói, được ban cho ta là sự cầu nguyện. Vì tiếp nhận ơn nói được, ta thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Lời nói được Thiên Chúa linh ứng, nó biểu lộ tâm khảm sâu kín nhất của bản thể ta, chính là tiếng: ‘Cha’ mà chúng ta thưa với Thiên Chúa. Sự đông người họp nhau lại cầu xin Thiên Chúa như thể cầu xin Cha, đưa đến hệ quả: lời chúng ta nói với nhau phải là lời nói của anh em trao đổi với nhau. Mọi người đều có Thiên Chúa là Cha chung, cho nên tất cả là anh em, ngôn ngữ chúng ta dùng để nói với mọi người-tức là cách biểu lộ những tình cảm sâu sắc nhất-phải cho thấy giữa chúng ta và mọi người khác có mối tình huynh đệ. Chúa Giêsu trong chúng ta là Đấng ban ơn cho chúng ta có được phong cách cư xử như vậy.
43. Ephata - Hãy mở ra.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Thưa anh chị em,
Với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Ngày xưa Chúa Giêsu đã làm phép lạ cứu chứa những người bất hạnh này. Phép lạ Chúa Giêsu đã làm để chứa người câm và điếc được Thánh Marcô ghi lại xem ra thật là đơn giản dễ dàng: Ngài kéo riêng người câm điếc ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời lâm râm cầu khẩn rồi lớn tiếng truyền lệnh: “Ephata!” nghĩa là “Hãy mở ra!” Tức thì lỗ tai điếc của anh mở ra, nghe được rõ ràng, lưỡi bị cột cứng của anh uốn được và nói được sành sõi. Cuối cùng là sự kinh ngạc thán phục của đám đông. Họ nói: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời thán phục của dân chúng chính là lời Ngôn Sứ Isaia đã loan báo cho dân Israel về Đấng Cứu Thế. Ông nói: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Như thế chứng tỏ là dân chúng đã nhận ra Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã đến rồi. Ngài chính là Đức Giêsu đang thực hiện lời Ngôn Sứ Isaia trước mắt họ.
Nhưng giữa đám đông dân chúng chứng kiến phép lạ của những người có tai nghe được, có miệng lưỡi nói được, những lại câm, lại điếc. Họ giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Biệt Phái Pharisêu: “Họ có mặt mà không thấy, có tai mà không nghe!” Quả thật, họ đang điếc trước công lý, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ chẳng những không chịu hiểu Lời Chúa mà còn loan truyền toàn những điều lệch lạc, sai trái. Họ thay thế Lời Chúa bằng các tập tục của cha ông họ. Họ cầm phải được chữa cho khỏi mù tội, khỏi câm điếc, mới có thể hiểu đúng và công bố Tim Mừng cho người khác. Họ phải mở tai, mở mắt để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài, thì mới được cứu độ.
Anh chị em thân mến,
Trong số những người câm điếc đó, ngày nay có thể có cả chúng ta nữa. Phải chăng chúng ta cũng nằm trong hạng người có tai thích nhưng không nghe; không nghe vì không biết lắng nghe. Có miệng lưỡi nói được sõi sàng, nhưng không mở lời ca tụng Chúa, không nói lên tiếng nói yêu thương anh em? Phải chăng chính chúng ta cũng là những người câm điếc cần được Chúa Giêsu cứu chữa? Ca dao tục ngữ nước ta có nhiều câu nói gợi hình để tránh cứ những người có tai mà không biết lắng nghe. Chẳng hạn, nghe mà không biết nghe, mà hiểu, tai nghe mà lòng không suy nghĩ, thì người ta lại bảo: “Nghe tai này lọt qua tai khác” hoặc “như nước đổ lá khoai môn”… Chính vì thế mà khả năng nghe là một tình trạng tinh thần tốt cần để đón nhận ơn cứu độ. Trong Kinh Thánh, biết bao lần Chúa nói rõ điều đó: Mỗi lần ban bố lề luật, Thiên Chúa kêu gọi: “Hỡi Israel, hãy nghe đây!” Hôm nay các ngươi hãy lắng nghe tiếng Chúa phán và đừng cứng lòng”. “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chính Chúa Cha cũng ra lệnh cho chúng ta hãy nghe lời Con Của Ngài: “Này là Con Ta rất yêu dấu, các con hãy nghe lời Ngài”. Vì thế, khi chữa lành người câm điếc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng Ngài đến không chỉ để nói mà còn để chữa lành khả năng nghe của chúng ta nữa, nếu không, thì có nguy cơ là Ngài nói mà chẳng được ai lắng nghe cả.
Nghe và nói là hai phương tiện truyền thông luôn đi đôi với nhau. Con người sống trong xa hội là phải biết tiếp nhận chân lý qua việc nghe và nói, trao đổi, đối thoại, trao đổi, mà chỉ biết sống trong ao tù suy tư của mình, nên khi phát biểu hay hành động, chỉ có thể là những tư tưởng chủ quan, cố chấp, những hành động sai trái, lỗi thời. Ta thử nghĩ xem: Trong gia đình mà vợ chồng không biết lắng nghe nhau hoặc mạnh ai nấy phát ngôn, hoặc ông nói gà bà nói vịt, không ai chịu nghe ai nữa, thì làm sao gia đình có được hạnh phúc? Biết lắng nghe nhau và đối thoại cởi mở chân thành sẽ giúp vợ chồng thông cảm chia sẻ, như thế sẽ tránh được biết bao bữa cơm không lành canh không ngọt! Tình cha mẹ và con cái cũng sẽ đậm đà mật thiết khi con cái biết lắng nghe cha mẹ và cha mẹ cũng biết lắng nghe con cái. Ở trường học cũng thế, giữa học sinh và thầy cô giáo, giữa các bạn trẻ, cũng phải biết lắng nghe nhau. Và nhất là trong nhà thờ, người Kitô hữu phải biết lắng nghe Lời Chúa để hiểu ý Chúa muốn nói gì với chúng ta và mở miệng lưỡi ra để ca khen chúc tụng Ngài. Chúng ta không chỉ biết lắng nghe trong nhà thờ, trong gia đình, ở trường học mà còn phải biết lắng nghe ngoài cuộc sống xã hội nữa. Hãy tập lắng nghe tiếng nói của người cô đơn, người phiền muộn, kẻ âu lo, người nghèo đói. Đối vời nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quý giá nhất, đó là có được một ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền muộn cũng như niềm vui sướng của họ và biết nói với họ những lời tình nghĩa yêu thương…
Anh chị em thân mến,
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được Thánh Thần mờ tai, mở lưỡi, mở mắt để ta có thể hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Tuy nhiên, chúng ta thường vẫn điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố thường ngày. Chúng ta vẫn câm, vẫn ngọng khi nói lời ngợi khen Chúa và lời cảm thông với anh chị em. Chính tính kiêu căng, lòng ích kỷ, tội lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta lại không cho chúng ta hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Vì thế, chúng ta còn phải nhờ quyền năng cứu chữa của Chúa Giêsu để ngày càng nghe rõ hơn, nói sành sõi hơn những lời ngợi khen Chúa, những lời cảm thông với anh chị em, ngày càng thấy rõ hơn đường lối kỳ diệu của Chúa và đường lối phục vụ anh chị em. Vì “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Ngài chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, nơi Ngài ơn cứu độ, sự giả thoát đã đến với chúng ta.
44. Ephata, hiệp thông với Chúa và tha nhân
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Qua trang blog và video của mình, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 73 tuổi, bị mù và điếc đã biến khuyết tật của mình thành “món quà” của Chúa. Linh mục Cyril Axelrod bị điếc khi lên ba và hoàn toàn bị mù khi ở tuổi trưởng thành. Sứ vụ của cha, các chuyến du hành, các dấn thân của cha để ở gần người khiếm thính bao gồm cả năm châu lục. Ngài biết 15 thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ bằng dấu hiệu và bây giờ ngài dùng Internet để rao giảng Phúc Âm và cũng để chống sự loại trừ ra khỏi xã hội của những bị điếc và bị mù. Ngài tin chắc những người có khuyết tật là “thiên thần của Chúa,” họ có nhiệm vụ dạy cho những người gọi là “bình thường” quyền lực của một “tình yêu không điều kiện” và những giá trị nền tảng như lòng “tự tin, hy vọng, đức tin và bình an nội tâm” để vượt lên những khó khăn của cuộc đời, cha cho biết như trên trang blog của mình: cyrilaxelrod.wordpress.com.
“Chỉ những người hiểu được sự mong manh, giới hạn của mình mới có thể xây dựng được mối tương giao trong tình huynh đệ, tình tương trợ, trong Giáo hội, trong xã hội và làm chứng điều này”, Đức Phanxicô đã tuyên bố như trên trong lần gặp cảm động với 6 000 người mù và câm điếc vào tháng 3-2015 vừa qua. Trong số họ ở hàng đầu là linh mục Cyril, cha quá hạnh phúc được gặp Giáo hoàng thứ ba trong đời mình, Đức Phaolô VI năm 1971 và Đức Bênêđictô XVI năm 2009. “Quan trọng là những người này phải là chứng nhân cho một thái độ mới, mà chúng ta gọi là “văn hóa của gặp gỡ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh trong ngày đó, để chống lại với nền “văn hóa loại bỏ”, một nền văn hóa làm băng hoại xã hội đương thời.
Linh mục Cyril Axelrod còn nhớ những giọt nước mắt cảm động của Đức Chân Phước Phaolô VI. Lúc đó cha vừa chịu chức xong và trước khi bị bệnh – hội chứng Usher, bị nốt chấm trong cườm mắt liên quan đến bệnh điếc – đã làm cho cha bị mù luôn. Cha đã dịch câu ban phép lành của Đức Giáo hoàng ra ngôn ngữ dấu hiệu: “Đi và rao giảng tình yêu của Chúa cho người điếc”. Các giọt nước mắt của Đức Giáo hoàng đối với cha là “dấu hiệu điều kỳ lạ của Chúa dành cho tôi, cho sứ mạng cứu chuộc của tôi,” cha thổ lộ trong quyển tiểu sử của mình như trên.
Năm nay linh mục Cyril được 73 tuổi và sống tại Luân Đôn. Cha sinh năm 1942, cha mẹ là người Do Thái-chính thống, cha trở lại đạo công giáo năm 23 tuổi và năm 28 tuổi cha vào cộng đoàn các Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, thực hiện giấc mơ được làm linh mục. Công việc của cha là giúp người điếc, mở cánh cửa giáo dục và hiểu biết cho họ. Cha không bao giờ quay lưng với sứ vụ này! ( Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch Linh mục Cyril Axelrod, người rao giảng Phúc Âm điếc và mù trên Web )
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu thể hiện rất rõ ràng “Văn Hóa của Gặp Gỡ”, khi Người chữa lành người câm điếc giữa dân ngoại. Ngày nay, Linh mục Cyril Axerod đang trung thành tuân theo lời dạy của Đức Giêsu, hội ngộ thường nhật với tha nhân qua phương tiện điện máy tân kỳ, mặc dù vừa bị điếc và mù lòa. “Văn hóa của Gặp Gỡ” đòi hỏi những quy tắc vàng do chính Đức Giêsu ân cần hướng dẫn: vị tha, tiếp cận và hiệp thông.
Vị tha
“Người đem anh ta ra khỏi đám đông.” Gặp gỡ đối thoại luôn cần tách ra khỏi đám đông bầy đàn, hỗn độn, nhiễu nhương, ồn ào, xô bồ và phức tạp, để có thể lắng nghe trung thực và nói ra điều công chính hữu ích. Gặp gỡ giúp đỡ với tình thương mến, thì càng cần tìm đến chốn riêng tư, khiêm tốn, kín đáo và thân mật. Không những quan tâm giúp đỡ anh câm điếc này, Đức Giêsu còn tỏ ra tôn trọng anh, không muốn anh bị đám đông chế giễu xúc phạm, không muốn tạo cơ hội nổi danh, cũng chẳng muốn thiên hạ ngộ nhận Người là thầy thuốc, thầy lang, hay phù thủy. Tất cả chỉ vì vị tha, yêu thương cứu giúp người tật nguyền, vì Người muốn tái tạo con người trở nên tốt lành, sửa chữa những hư hỏng, bệnh hoạn, lệch lạc, khiếm khuyết do tội lỗi, thói hư tật xấu, hoặc do áp lực thói đời dung tục gây nên.
Thoát khỏi đám đông, Đức Giêsu muốn gặp gỡ riêng từng người, từng con chiên hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, cô đơn, lạc lõng, bị áp bức hay bị bỏ rơi, tẩy chay. Người chính là Mục Tử nhân lành, dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trong đàn, để đi tìm một con chiên lạc. Hoàn toàn xả kỷ, quên mình, chẳng nề quản mệt nhọc, vất vả, chông gai, nguy hiểm, thách đố, Người tìm cho bằng được con chiên lạc, hớn hở vác lên vai đem về.
Bất cứ cuộc gặp gỡ nào không noi gương Đức Giêsu hành động, ứng xử kiểu mẫu, xả kỷ, vị tha thì chỉ dẫn đến thất bại, ngộ nhận và tan vỡ mà thôi. Vì nếu ai cũng khư khư giữ thái độ vị kỷ, vị lợi, kiêu căng, tham lam, thì luôn xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, bất khoan dung, không thể nào gần gũi, hòa hợp và hiệp thông.
“Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh nhọc mệt, tránh hy sinh; họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một thiên đàng dành riêng cho họ giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn.”( Đường Hy Vọng, số 196 )
Tiếp cận
“Người đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta.” Với quyền năng vô biên, Đức Giêsu chỉ cần phán một lời, thì anh câm điếc được lành bệnh ngay. Nhưng Người không chọn việc làm dễ dàng, đơn giản ấy, mà chịu khó ân cần, gần gũi, tỉ mỉ và tiếp cận, chữa lành cho anh ta. Gặp gỡ, tiếp xúc cụ thể mới có thể hoán cải, biến hóa, tái tạo, tái sinh. Những lời rao giảng dù hoa mỹ, hùng hồn, cao quý, sâu sắc cách mấy, mà thiếu những hành động cụ thể, tiếp cận con chiên đang trầm luân khốn khó, thì vẫn chỉ là mớ lý thuyết suông thiếu sức thuyết phục. “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chóp lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm cụ thể.” ( 1Ga 3, 18 ) Thánh Gioan đã chân thành khuyên nhủ các tín hữu Kitô tiên khởi về lời nói phải luôn đi đôi với hành động.
“Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” ( Ep 2, 13 ) Đức Giêsu đã và đang tiếp cận từng người, từng ngày giờ qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, qua những Bí tích mầu nhiệm và những lễ nghi, kinh nguyện hằng ngày. Vấn đề là người Kitô hữu có muốn được Người tiếp cận, để được cám hóa, canh tân, tái sinh, tái tạo cả thân xác lẫn tinh thần, hay cứ cố chấp bịt tai, câm lặng, đồng lõa với thế gian bất chính, bất công, tội lỗi và thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân?
Hiệp thông
“Ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Ephêta!" Đức Giêsu luôn luôn cầu nguyện trước khi hành động. Người luôn thực hiện theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chứ không bao giờ theo ý riêng Người. Cầu nguyện là quy hướng mọi sự về Thiên Chúa, tin tưởng, trông cậy, yêu mến, hoàn toàn phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa Quan Phòng. Trong niềm tri ân, cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu làm phép lạ cởi trói cho người câm điếc thoát khỏi ngục tù thân xác bệnh tật, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân, để có thể nghe Lời Chúa và rao giảng Tin Mừng cho tha nhân.
Nhờ Đức Giêsu nhập thể, cứu chuộc con người khỏi câm điếc với Thiên Chúa và với nhau. Khỏi dửng dưng với Lời Chúa, khỏi vô cảm với tha nhân, khỏi xiềng xích, tường lũy giam cầm của tội lỗi, ma quỷ, thế gian và xác thịt. “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.” ( Cv 2, 42 )
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi câm điếc tinh thần, để chúng con nghe được Lời Chúa mời gọi hằng ngày, nghe được Thánh ý Chúa, nghe được tiếng nói lương tâm. Cũng như nghe thấy những nhu cầu của những người khó khăn, đau khổ, mất tiếng nói trong xã hội, mà yêu thương, dấn thân hy sinh giúp đỡ. Xin mở miệng chúng con biết tri ân cảm tạ, ngợi khen Chúa, cũng như an ủi, hướng dẫn, hỗ trợ người yếu đuối, cơ quả, nói lên những gì hữu ích cho tha nhân mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe cách trung thực và biết nói lời chân thành, xây dựng, để có thể hiểu biết, yêu thương và chia sẻ mọi sự với người khác trong cuộc sống lưu đầy này. Amen.
45. Chúa Giêsu chữa người câm điếc
Anh chị em thân mến.
Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghỉ. Khi xe vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe, rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ: dường như những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin, nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói được lời nào.
Chúng ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Ngày hôm nay, còn biết bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuếch, hay là những âm thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.
Biết bao lần, chúng ta đã để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn, tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác. Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh. Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gỏng. Chính sự ngoan cố trói buộc miệng lưỡi.
Có những lần Chúa Giêsu muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe. Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: "Hãy mở ra".
Lạy Chúa, xin mở tai con để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết nói những lời yêu thương chân thật với anh em.
46. Cái chạm đến của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Tai để nghe và miệng lưỡi để ca tụng
Ngày nay, người ta vẫn gặp những đứa trẻ bị giam hãm trong nỗi cô đơn bởi vì chúng bị mù, bị câm, bị điếc ngay từ lúc mới chào đời. Nhiệt tâm và kỹ thuật chuyên môn của các chuyên viên đôi khi cũng đem lại thành công đôi chút là giúp cho những đứa trẻ tật nguyền này biểu lộ một vài cử chỉ, bập bẹ được vài tiếng. Tuy vậy, có những đôi mắt, những đôi tai và miệng lưỡi bị đóng kín: có rất nhiều người, nhiều đôi vợ chồng "không hiểu được nhau", "không nói với nhau"! Có biết bao "cuộc đối thoại giữa những người điếc" đang diễn ra tại các quốc gia, nơi những nhóm người, những cộng đoàn: người ta không tin nhau, không đón nhận người khác trong nỗi yếu đuối của họ ...
Những tình trạng này có thể giúp người tín hữu hiểu được ý nghĩa biểu tượng trong câu chuyện Đức Giêsu chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng. Đức Giêsu nhận thấy rằng đám dân được tuyển chọn nay đã trở nên điếc, không nghe được lời giảng của Người, và không lắng nghe lời Người mời gọi thay đổi nếp sống, nên Người du hành sang miền đất thuộc dân ngoại: Tia, rồi Xi-đon và Thập Tỉnh. Đức Giêsu có mặt ở giữa đám dân không có tai để nghe lời Thiên Chúa và không có miệng để ca tụng Người. Họ giống như các ngẫu tượng có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe.
Và đây, một minh hoạ cụ thể về đám dân ngoại này: người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu.
Đức Giêsu bắt đầu làm việc. Hình như việc đặt tay không không đủ. Sự dữ lớn quá. Đức Giêsu kéo riêng người bệnh ra một nơi, đặt ngón tay vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Người còn ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên một tiếng... Cái ác thật mạnh! Đức Giêsu chiến đấu chống lại nó, không phải là không khó nhọc; nhưng cuối cùng Người đã chiến thắng: tai anh đã mở ra, lưỡi anh hết bị buộc lại.
Phép lạ này vừa là việc chữa lành người bệnh, vừa là một Tin Mừng cho dân ngoại, và cũng là một dấu chỉ quý giá cho Hội Thánh.
Chữa lành người bệnh: Đức Giêsu tái tạo miệng lưỡi và đôi tai của anh, cho chúng hoạt động được. Như thế, Người bày tỏ quyền năng sáng tạo của Người.
Tin Mừng cho dân ngoại: Đức Giêsu ban cho họ, như đã ban cho dân Ít-ra-en, đôi tai để nghe lời Thiên Chúa, và miệng lưỡi để ca tụng Người cách đúng đắn. Tất cả đều được mời gọi hưởng ơn cứu độ.
Dấu chỉ quý giá cho Hội Thánh: cử chỉ lấy nước miếng bôi vào tai, và nhất là lời đọc Ép-pha-ta - Hãy mở ra được nhắc lại mỗi khi cử hành bí tích Thánh Tẩy. Nhân loại vẫn khép kín nơi chính mình, giờ đây được mở ra và tái lập cuộc đối thoại với Thiên Chúa của mình.
Như vậy, Đức Giêsu muốn mọi người trở thành "những người có trách nhiệm", những người có khả năng nghe và đi vào cuộc đối thoại đem lại ơn cứu độ do Giao Ước thiết lập. Trước những thái độ khép kín nơi chính mình - thái độ của những người giàu có, những người quyền thế, những người kiêu căng, trước những thái độ vô tâm, tự mãn, ích kỷ, Đức Giêsu vẫn luôn nói: "Hãy mở ra". Hãy mở ra để đón nhận ơn cứu độ đích thực, hãy mở ra để cùng dấn thân với Thiên Chúa ...
Hãy mở ra
Người ta biết nhiều đến bản văn này qua từ ngữ "Ép-pha-ta - Hãy mở ra". Dĩ nhiên chủ đề chính của bản văn này là mở ra, nhưng cần phải hiểu là có nhiều mức độ.
* Đức Giêsu, người chữa lành
Đối với những người cùng thời với Đức Giêsu, tất cả những cử chỉ do thánh Mác-cô thuật lại là những cử chỉ thông thường vẫn gặp thấy nơi những người chữa bệnh: tách riêng bệnh nhân, tiếp xúc thể lý (đặt tay vào tai), thấm nước miếng và bôi lên người bệnh.
Trong một xứ sở thuộc dân ngoại, tức là miền Thập Tỉnh, Đức Giêsu xuất hiện như một người chữa bệnh. Tuy nhiên, dân ngoại nhận ra Đức Giêsu không giống như những người khác: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được."
Phép lạ tạo nên hai cuộc cắt đứt:
- Đức Giêsu có những cử chỉ giống như người khác, nhưng tự căn bản, những cử chỉ này mang ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Người thực hiện điều ngôn sứ I-sai-a báo trước (35,5) theo một ý nghĩa mới.
- Phép lạ xảy ra tại một miền đất ngoài lãnh thổ Ít-ra-en. Điều này cho thấy Đức Giêsu muốn mở rộng mặc khải cho toàn thể nhân loại.
Thái độ mở ra của con người
Kẻ vừa điếc vừa ngọng chính là biểu tượng của tình trạng không có thông tin, không có hiệp thông. Anh ta không đón nhận được tiếng nói, và cũng không phát ra được lời nào. Anh ta tựa như một người đã chết, đã bị vùi lấp và giờ đây anh ta gặp Đức Kitô, Đấng là Lời và là Sự Sống.
Đối với người bệnh, phép lạ này là một cuộc sinh ra mới, là một cuộc phục sinh. Anh ta mở ra với sự sống, với thế giới bên ngoài, với những con người đang sống bên cạnh. Nhận định này cũng tương tự như trường hợp người mắc bệnh cùi. Do sự can thiệp, do lời cầu nguyện của Đức Giêsu, sự sống không thể tắt lịm, và nếu sự sống có sự ác bị ngăn lại, thì cũng được khai thông.
Sự tái sinh này xảy ra do cuộc tiếp xúc với con người Đức Giêsu (đụng chạm, nước miếng). Điều này nhấn mạnh đến một kinh nghiệm thiêng liêng. Sinh ra trong sự sống do Thiên Chúa ban không phải là kết quả của cây đũa thần điều khiển từ xa. Phải có một sự hiện diện, một cuộc tiếp xúc. Chính vì vậy, sự nhập thể của Con Thiên Chúa là một yếu tố không thể tách rời của mặc khải. Chính nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu mà nhân loại yếu đuối có thể chạm đến và cảm được điều thiêng thánh (Thánh Ép-rem).
Đến với dân ngoại hôm nay
Ngày nay cũng như hôm qua, các Hội Thánh của chúng ta, thân thể của Đức Kitô cũng đang du hành sang các miền đất của dân ngoại. Thay vì Tia, Xi-đon, Thập Tỉnh là những tên gọi mới.
Khắp nơi, những người đang vây quanh chúng ta chẳng có tai để nghe lời Thiên Chúa, chẳng có miệng lưỡi để nói lên lời ca tụng Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào đám đông này với niềm hy vọng chắc chắn rằng họ không ở xa ơn cứu độ. Họ chờ đợi Đức Kitô đến trong chúng ta để chạm vào tai họ, và cởi dây đang buộc lưỡi họ. Khi ấy, sẽ có nhiều tiếng nói vang lên để cùng chúng ta ca tụng Thiên Chúa, miễn là chúng ta để cho Thiên Chúa chạm đến, miễn là tai chúng ta mở ra để nghe lời Thiên Chúa, miễn là lưỡi chúng ta đưa ra để đón nhận bánh từ trời xuống.
Vì vậy, hãy mở ra để lắng nghe và đón nhận những giáo huấn Tin Mừng! Hãy mở ra để nói lên lòng tin cùng với tất cả cuộc sống! Hãy mở ra để môi miệng thốt lên lời kinh "Lạy Cha chúng con". Được như thế, đời sống của chúng ta sẽ trở nên một lời nói sống động, và sẽ hoàn toàn quy hướng về Đức Giêsu Kitô.
Và khi ấy, người khác cũng kinh ngạc mà thốt lên: "Ông ấy làm gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được."
Lạy Chúa,
chúng con cảm tạ Chúa cho chúng con được sống
hôm nay và ngày mai
cũng như hôm qua và mỗi ngày
trong ân sủng của Chúa,
trên mặt đất, với bánh ăn và ánh sáng,
với những con người vây quanh.
Chúng con cảm tạ Chúa
vì chúng con đang sống ở đây và lúc này,
và được cảm nhận cả nỗi buồn lẫn niềm vui.
Chúng con cầu xin Chúa
để dù tương lai hay sự chết
cũng không tách rời chúng con khỏi Đức Giêsu Kitô,
khỏi tình yêu của Chúa
đối với con người
cũng như đối với mặt đất.
H.Oosterhuisn
47. Ephata: Hãy mở ra
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rất ít chỗ trong Phúc Âm còn lưu truyền lại tiếng Aramäisch, tiếng mẹ đẻ của Ðức Giêsu, như trong bài Phúc Âm hôm nay: “Effata: Hãy mở ra!” Tại sao người ta lại lấy tiếng đó làm quan trọng và lưu truyền lại cho tới ngày nay? Phải chăng người ta còn lưu truyền tiếng đó lại, vì cho rằng nó có một sức mạnh có thể chữa lành các tật bệnh, như thể một tiếng thần chú vậy? Dĩ nhiên là không phải thế!
Cũng như chính Ðức Giêsu đã không đến trong thế gian để chữa lành tất cả mọi bệnh tật một cách cách có hệ thống, Giáo Hội cũng không cho mình có sứ mệnh như một cơ sở nghiên cứu các phương pháp chữa bệnh một cách kỳ lạ. Vì thế, xưa kia khi Ðức Giêsu chữa lành một bệnh nhân tìm đến với Người, là chỉ muốn qua đó nhắc cho con người đến một sự chữa lành khác quan trọng và cần thiết hơn bội phần, một sự chữa lành có liên hệ với sự tương quan giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa. Cũng vì thế Người đã chữa lành người câm và điếc mà Người đã gặp trên đường đi.
Trong cuộc sống xã hội hằng ngày, nhiều người đã từ từ trở nên tư lự ít nói và cuối cùng thành câm luôn, dĩ nhiên không vì bộ phận phát âm của họ bị bệnh, nhưng vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bất thuận lợi: họ nói mà không một ai thèm để ý lắng nghe. Ðó là một thứ bệnh câm phát xuất từ thái độ bịt tai giả điếc của những kẻ khác. Bởi vì những người sống bên cạnh tôi chỉ biết có mình họ và họ tự đóng khung trong chính con người của họ, nên mọi cố gắng tìm thông tin đối thoại của tôi trở thành vô ích. Tôi có nói cũng chỉ nói để mình tôi nghe. Tiếng nói của tôi chỉ là tiếng nói trong sa mạc của tình cảm chết, không có tiếng vọng, không có tiếng trả lời! Từ từ tôi trở thành câm, quên mất tiếng nói của loài người. Quả thực đây là một căn bệnh mà các vi khuẩn của nó ít nhiều đang đồn trú trong mỗi người chúng ta.
Quả vậy, thường chỉ do một sự hiểu lầm nho nhỏ, một sự khác biệt ý kiến hay một sự bị làm tổn thương nho nhỏ, bỗng nhiên cả toàn bộ những tương quan và tình nghĩa thân thiết trong cuộc sống chồng vợ, cuộc sống gia đình hay cuộc sống xứ đạo hoàn toàn bị đóng băng, bị tê liệt hay bị sụp đổ. Lý do là vì những người trong cuộc muốn giữ thái độ câm nín và giả điếc, chứ không muốn mở miệng để nói với nhau và mở tai để nghe tiếng nói của nhau nữa, hầu cùng nhau tìm ra nguyên nhân đã gây ra cớ sự và giải tỏa đi những vướng mắc. Hoặc mỗi người đều chỉ muốn bày tỏ quan điểm của mình và khư khư bảo thủ quan điểm đó, chứ không còn muốn kiên nhẫn lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tìm ra một dung hòa nào đó!
Nếu thành thật với lương tâm, lắm lúc chúng ta phải tự cảm thấy hổ thẹn với chính mình, bởi vì chúng ta đã không rộng lượng với nhau; bởi vì chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình, đến lợi ích tư riêng của mình mà thôi!
Nhưng ai sẽ có thể chữa lành chứng bệnh câm và điếc này của chúng ta? - Xin thưa, không có ai cả! Ðức Giêsu cũng không! Ðức Giêsu chỉ có thể chỉ cho ta con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh! Người chỉ cho chúng ta cách thức có thể giúp chúng ta tự giải thoát mình khỏi chứng câm và điếc kia: “Effata! Hãy mở ra!” Ðức Giêsu chỉ có thể giúp ta phương pháp: “Effata! Hãy mở ra!” còn chính hành động “mở ra” thì chúng ta phải tự làm lấy. Chúng ta phải tự mở rộng lòng mình ra. Chúng ta phải tự mở rộng sự quảng đại của mình ra. Chúng ta cần phải tự bắc nhịp cầu nối lại với người khác. Chúng ta cần phải tự giải thoát mình khỏi sự ích kỷ hẹp hòi, khỏi sự tự tôn tự đại, và biết can đảm lắng nghe kẻ khác.
Những ai không muốn cố gắng tập cho mình có thói quen biết quan tâm đến ý kiến người khác, thì làm sao họ có thể nghe được tiếng Chúa? Bởi vì tiếng Chúa luôn luôn âm thầm nhỏ nhẹ, đến nỗi rất dễ bị các tiếng nói ồn ào khác xuất phát từ môi trường sống chung quanh hay bởi chính nội tâm bất ổn của chúng ta lấn át đi và không thể nghe được nữa
Nếu chúng ta tìm cách giả điếc làm ngơ trước tiếng Chúa, trước tiếng lương tâm mình, hoặc chúng ta không còn muốn lắng nghe người đồng loại, không muốn giao tiếp với họ nữa, chúng ta sẽ trở thành câm và điếc, chúng ta sẽ trở nên bệnh hoạn và cần phải được chữa lành.
“Effata! Hãy mở ra!” Tất cả chúng ta cần phải mở rộng cửa lòng mình ra cho Thiên Chúa và cho người đồng loại. Chúng ta cần phải giải thoát mình khỏi sự cô lập của chính bản thân và nối lại mọi quan hệ với Thiên Chúa và với những người khác. Ðó là con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh bất trị câm điếc của chúng ta.
“Lạy Chúa, xin hãy mở lòng và môi con, đề miệng con cao rao lời ngợi khen Chúa! Xin Chúa hãy mở miệng con ra để con ca ngợi Chúa, và xin hãy ban cho con một Thần Khí mới”. Amen.
48. Lắng nghe – Gm. Arthur Tonne.
Một công ty xây cất lớn đang vẽ sơ đồ để xây một toà nhà mới. Năm kỹ sư trẻ và một kiến trúc sư làm việc trên bản thiết kế, họ đang bàn luận về những phương cách sắp xếp một phần nào đó của toà nhà. Khi một người trong nhóm đột nhiên đề nghị một điều anh nghĩ là một phương cách mới để thi hành. Những người khác nhìn anh đầy vẻ ngạc nhiên. Người trưởng nhóm phải trả lời anh rằng ý kiến của anh đã có người đề nghị rồi, đã cứu xét và đã bị bác bỏ. Điều gì xảy ra vậy. Người kỹ sư trẻ này đã không lắng nghe ý tưởng đó lần đầu tiên được đề nghị. Anh không nắm được vấn đề. Kết quả là anh không được thăng cấp, anh không được tăng lương. Anh đã phải trả cái giá không lắng tai nghe.
Rất khó nhận ra được biết bao người không lắng tai nghe. Đó là một lỗi rất thông thường đến nỗi nhiều trường cao đẳng có mở những lớp gọi là: “Viện lắng nghe” để tìm ra và chữa trị những nguyên do lắng nghe kém.
Chúng ta vừa nghe Chúa Giêsu chữa người không thể lắng nghe, vì họ điếc. Anh là một trong hàng triệu người điếc hay lãng tai. Có hàng triệu người khác có tai thính, nhưng họ không nghe, vì không lắng tai nghe. Vả lại, trong mọi lãnh vực đời sống, lắng tai nghe rất quan trọng.
Đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người biết lắng tai nghe, không phải với cái ý là để người khác nói nhưng là cố gắng nghe được điều người khác muốn nói. Sự thông cảm không phải là đường một chiều. Nói và lắng nghe đúng cách sẽ giúp hai người hôn phối chia sẻ không chỉ với ý tưởng và sự việc, mà còn với cảm nghĩ nữa. Cố gắng nghe những gì người khác cảm xúc cũng như những gì họ nói.
Dĩ nhiên con cái cần lắng nghe cha mẹ, nhưng cha mẹ cũng cần lắng nghe con cái mình. Hãy bình tĩnh nghe con trai, con gái bạn nghĩ gì, cảm gì.
Rất thường gặp một học sinh bỏ mất lời giảng nghĩa, vì em không chăm chú nghe ông thầy. Cùng lúc ấy ông thầy cũng phải lắng nghe khi học sinh trả lời hoặc đặt câu hỏi.
Lắng nghe một cách khôn ngoan rất quan trọng ở đây, trong nhà thờ. Lời Chúa nói những gì? Ý nghĩa của nó ra sao. Điểm chính yếu của bài giảng là gì? Hôm nay bạn có thể gồm tóm sứ điệp của chúng ta trong hai chữ “lắng nghe”.
Chúng ta cần nói với Chúa trong kinh nguyện. Nhưng chúng ta cũng phải lắng nghe Chúa. Ít phút thing lặng sau khi rước lễ là lý tưởng để lắng nghe điều Chúa nói.
Hãy tập lắng nghe người cô đơn, người phiền muộn, người lo lắng. Với nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quí giá nhất là có ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền muộn cũng như nỗi vui mừng của họ.
Trong và qua Thánh Lễ, cũng chính Đức Giêsu, Đấng làm cho người điếc được nghe, sẽ giúp bạn và tôi học nghệ thuật như Chúa Kitô, để chân thành lắng nghe.
Xin Chúa chúc lành bạn.
49. Hãy mở ra - Noel Quesson.
Một ông già nổi tiếng là hiểu rộng. Ông học hành rất ít nhưng lại có kiến thức uyên bác. Nhiều người tới thăm ông và bàn luận với ông về nhiều vấn đề cao xa. Trong số đó, có một giáo sư nổi tiếng, cũng ngạc nhiên về ông và đặt câu hỏi:
- Ông lấy những hiểu biết đó ở đâu ra vậy? Tôi không thấy cuốn sách nào viết như thế.
Ông già đáp:
- Hàng ngày tôi đọc ba cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc. Cuốn thứ nhất là những việc Chúa làm quanh tôi. Cuốn thứ hai là lương tâm của tôi. Và cuốn thứ ba là Kinh Thánh.
Đúng như ông già nói, những điều kỳ diệu có sẵn quanh ta, ai cũng có thể nhìn, ai cũng có thể nghe và nói về những điều kỳ lạ này. Nếu chúng ta không hiểu, là vì chúng ta không vận dụng ngũ quan và không muốn suy nghĩ tìm tòi. Chính Chúa Giêsu cũng nhiều lần phàn nàn về các môn đệ; Sao các con tối dạ thế? Có mắt mà không xem, có tai mà không nghe. Và chúng ta cần được Chúa chữa trị như Chúa đã chữa người câm điếc mà Tin Mừng mới kể.
Đây là một bệnh nhân thuộc vùng Siđon, dân ngoại bang. Sau một thời gian dài Chúa hoạt động ở Galilê, có một vài thành công nhưng cũng gặp nhiều thất bại. Một trong những thất bại đó, là bài diễn văn về bánh hằng sống, đa số dân chúng và các môn đệ không tiếp thu, họ đã bỏ Chúa mà đi. Chúa quay sang các dân ngoại bang, những người chưa biết Chúa nhưng có thiện chí, chỉ cần Chúa khai quang, họ sẽ nghe được Lời Chúa và biết lên tiếng ca ngợi Chúa.
Chúa chữa người câm điếc như thực hiện một bí tích. Cũng có một cử chỉ và một lời nói. Chúa đưa anh ra xa đám đông, chạm vào tai và lưỡi anh ta. Chúa ngước nhìn trời, cầu nguyện rồi nói: Hãy mở ra. Và anh khỏi câm khỏi điếc. Phép lạ nào cũng do niềm tin của người xin. Nhưng phép lạ cũng do sức mạnh từ thân mình Chúa Giêsu phát ra. Như các bí tích chúng ta chịu bây giờ, cũng là sự tiếp xúc giữa người lãnh nhận với vị chủ sự, đại diện Hội Thánh. Và có khi tiếp cận chính Chúa Giêsu, như bí tích Thánh Thể. Đó cũng là Đức Giêsu đã xuôi ngược trên các nẻo đường Do Thái xưa. Nhưng ít khi ta thấy phép lạ, vì niềm tin của ta còn yếu kém.
Chuyện người câm điếc được lành hôm nay cũng là một ẩn dụ. Vì vậy Chúa chữa bệnh với một lệnh truyền. Hãy mở ra. Lệnh này không phải nói tới cái tai và cái lưỡi, nhưng nói với người bệnh. Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn. Nhưng bệnh câm điếc tinh thần thì có thể là một lựa chọn của người bệnh. Có những lúc chúng ta không muốn nghe Lời Chúa nói trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng, có lúc chúng ta chẳng khác gì người câm điếc. Chúng ta mất khả năng giao tiếp với Chúa và với anh em. Chúng ta cần cầu xin Chúa, để Chúa chạm tới ta và nói với ta: Hãy mở ra, và chúng ta khỏi câm điếc, lại tiếp nối sự hiệp thông với Chúa, và anh chị em trong ân sủng và trong cuộc sống bác ái.
Lạy Chúa, xin chữa con khỏi câm khỏi điếc, xin cho con biết lắng nghe Lời Chúa, biết chia sẻ cuộc sống với anh chị em, biết nhiệt thành lên tiếng ca ngợi Chúa và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người.
50. Câm điếc.
Trên một tờ báo, người ta đọc được một lời kinh cầu cho những người câm và điếc như sau:
- Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà những người câm điếc phải gánh chịu, đó là thiên hạ coi họ như những kẻ chuyên môn gây phiền hà. Kết quả là họ thường phải xa lánh bạn bè và ngày càng trở nên khép kín. Vì thế, xin Chúa hay xót thương nhìn đến họ.
Lời kinh trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay, cũng như hiểu được niềm vui của người câm điếc được Chúa chữa lành, bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời anh ta nghe được và nói được. Vậy tại sao Chúa lại chữa lành cho anh ta?
Lý do thứ nhất là vì qua việc chữa lành này, Ngài hoàn tất những dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói đến để giúp dân chúng nhận ra Đấng Thiên sai, đó là kẻ điếc được nghe và người câm nói được.
Lý do thứ hai là qua việc chữa lành này, chúng ta thấy được lòng thương xót của Ngài. Thực vậy, người câm điếc thường mặc cảm khi tiếp xúc. Họ không hiểu gì cả nên cảm thấy như mình đứng bên lề những sinh hoạt của cuộc sống. Vì thế, khi dẫn anh ta ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót thực sự của Ngài đối với anh.
Sau cùng, lý do thứ ba đó là qua việc chữa lành này, chúng ta tìm thấy được niềm hy vọng. Thực vậy nhiều người trong chúng ta mặc dầu không câm và điếc về thể xác, nhưng lại câm và điếc về mắt tinh thần.
Chẳng hạn như họ không bao giờ nghe thấy tiếng Chúa nói với họ qua lương tâm, qua mười điều răn, qua Kinh Thánh, nhất là Phúc âm, qua Giáo hội cũng như qua những dấu chỉ của thời đại. Họ là những kẻ điếc về phương diện thiêng liêng.
Tiếp đến họ là những kẻ khô khan nguội lạnh, chẳng bao giờ biết thân thưa với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, cũng như không bao giờ mở miệng lên tiếng bênh vực Chúa và Giáo hội. Họ là những kẻ câm về phương diện thiêng liêng.
Còn chúng ta thì sao? Nếu như chẳng may chúng ta rơi vào tình trạng trên, nghĩa là chúng ta cũng đã là những người câm và nhưng kẻ điếc về phương diện thiêng liêng, thì chúng ta hãy tìm kiếm Chúa và cùng Ngài bước ra khỏi đám đông để được tận hưởng đôi chút thời gian gắn bó với Ngài, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài mở tai và mở miệng chúng ta.
Nói cụ thể hơn, đoạn Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Chúa trong việc chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng nơi chúng ta.
Tóm lại, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta nhận biết Ngài chính là Đấng Thiên sai mà tiên tri Isaia đã loan báo từ hàng trăm năm về trước. Hơn nữa chúng ta còn nhận biết được lòng thương xót của Ngài. Ngài đưa người câm điếc ra khỏi đám đông để chữa lành, bởi vì Ngài không muốn biến người ấy trở thành trò cười cho thiên hạ, nhưng Ngài muốn tiếp xúc thân mật với anh ta.
Cuối cùng chúng ta xin Chúa chữa lành câm điếc thiêng liêng mà chúng ta đang mắc phải để nhờ đó, chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa cũng như biết thân thưa cùng Chúa qua những tâm tình cầu nguyện.
51. Câm và điếc.
Tôi đã đọc một câu sau đây trong một cuốn sách: “Yếu tố đầu tiên trong một cuộc đối thoại là sự thật, thứ hai là có lương tri, thứ ba là tính hài hước vui vẻ, và cuối cùng là sự hóm hỉnh thông minh”. Nhưng làm sao mà một người có thể đối thoại với người khác bằng miệng, nếu như anh ta vừa câm lại vừa điếc.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc.
Những người câm điếc thì không thể giao tiếp bằng miệng với chúng ta, bởi vì họ không nghe được và không nói được. Họ chỉ có thể giao tiếp qua các cử chỉ và dấu hiệu. Nhiều người có mặc cảm tự ti vì khuyết tật của họ. Nhiều người tàn tật cảm thấy xấu hổ và tránh né mọi người, vì sợ người khác cười nhạo khuyết tật của họ. Tôi tin là Chúa Giêsu hiểu rõ điều này, và vì thế Chúa đã đưa người câm điếc ra khỏi đám đông trước khi Chúa chữa cho anh ta.
Tuy nhiên, những người câm điếc không chỉ là những người thiếu khả năng nói và nghe. Chúng ta cũng có thể gặp thấy những người câm điếc về mặt xã hội. Họ là những người mà chúng ta không muốn nói chuyện, họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, không có tiếng nói, không có thế lực và ảnh hưởng trong xã hội ngày nay. Họ có nói cũng chẳng có ai thèm lắng nghe họ. Giúp đỡ những con người phận nhỏ như thế là một cách chúng ta cám ơn Thiên Chúa, vì những ơn huệ lớn lao chúng ta đã nhận được. Hơn nữa, chúng ta cũng nên xét mình xem chúng ta thường sử dụng khả năng nghe và nói của mình như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân hay đã lạm dụng nó?
Dù chúng ta có thể nghe và nói được, nhưng có thể chúng ta lại câm và điếc đối với những lời của Thiên Chúa phán dạy. Chúng ta câm điếc khi không giúp đỡ, không đáp ứng lại trước những nhu cầu cấp thiết của những người lâm cảnh túng quẫn, khi chúng ta có khả năng, nhưng đã giả tảng làm ngơ, không nghe thấy những tiếng cầu cứu của tha nhân. Chúng ta cũng lạm dụng miệng lưỡi khi vu khống hay nói xấu người khác, khi chúng ta phá hủy tiếng tốt của người khác qua những lời nói dối trá, gièm pha. Bạn có nhận ra những dấu hiệu câm điếc như thế nơi chính bạn hay không?
Lạy Chúa Giêsu, xin chữa lành tật câm điếc của con đối với lời của Chúa. Xin mở miệng con để con loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người con gặp gỡ hàng ngày.
52. Phép lạ.
Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giêsu. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giêsu làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn ngươi ăn no. Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người… Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?
Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giêsu trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưỡi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa tan để giải phóng con người.
Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giêsu đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? Và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.
Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai… Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rôma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giêsu có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.
Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma: “Hỡi Tôma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Kitô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Kitô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Kitô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.
53. Câm điếc.
Chúng ta thường bảo: Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng, trong một xã hội. Và để cuộc sống chung này được tốt đẹp, chúng ta cần phải tạo lấy những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm thông. Tuy nhiên, muốn tạo được những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm thông, chúng ta cần phải nói cho nhau nghe, cũng như cần phải nghe nhau nói.
Trước hết là hãy nói cho nhau nghe. Ngôn ngữ và tiếng nói chính là phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta truyền đạt những ý nghĩ, những tư tưởng, những ước muốn cho người khác, nhờ đó họ sẽ hiểu chúng ta và cảm thông với chúng ta hơn. Thế nhưng, chúng ta không phải chỉ biết nói, mà còn phải biết nghe. Có biết nghe người khác nói, chúng ta mới ghi nhận được những ý kiến và đóng góp của họ. Bằng không, chúng ta chỉ là những kẻ độc thoại, nói một mình mà chẳng biết có ai lưu tâm đến hay không. Chính vì thế, việc biết nghe nhau nói cũng quan trọng không kém việc biết nói cho nhau nghe. Nói và nghe là những phương tiện, những khả năng giúp chúng ta liên hệ với người khác, nhờ đó tạo được một sự cảm thông chân thành. Nếu không có những phương tiện này, nếu không có những khả năng này, chúng ta sẽ phải mãi mãi sống trong sự cô độc lẻ loi và bị loại trừ. Người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã lâm vào một tình cảnh bi đát. Anh ta đau khổ biết bao vì không được nói với ai, cũng như chẳng được nghe ai nói với mình. Anh ta không thể hiểu người khác và người khác cũng khó mà hiểu được anh ta. Cảm thông tình cảnh bi đát ấy, Chúa Giêsu đã chữa anh ta khỏi câm và điếc, để anh được trở lại với cuộc sống xã hội, cuộc sống với người khác. Kể từ nay, anh ta có thể liên hệ với mọi người mà không còn tự ti mặc cảm nữa.
Trong phạm vi thiêng liêng cũng vậy, chúng ta không thể sống cô độc lẻ loi, trái lại, chúng ta còn sống với Chúa và với anh em. Vì thế, rất có thể lúc này, mặc dù chúng ta không câm điếc về phần xác nhưng biết đâu chúng ta lại câm điếc về phần hồn, một sự câm điếc thiêng liêng. Chúng ta câm điếc khi lặn ngụp trong tội lỗi, không còn lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua lương tâm, qua thiên nhiên, cũng như qua những biến cố xảy đến trong cuộc sống. Chúng ta câm điếc khi không còn dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ tình thương Ngài đã dành cho chúng ta. Chúng ta câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá, không còn biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Chúng ta câm điếc khi không còn lắng nghe, cũng như không còn nói được những lời an ủi và khích lệ người khác. Chúng ta câm điếc khi tự coi mình là một ốc đảo, chỉ biết sống cho riêng mình và tệ hơn nữa, coi người khác là như hỏa ngục, là như một sự quấy rầy và phiền nhiễu.
Bởi đó, xin Chúa hãy mở miệng và mở tai chúng ta, để chúng ta biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh.
54. Câm điếc - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng.
Những công việc và phép lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một công đôi ba việc, hay nhất cử lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết… thế là phép lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của chúng.
Trước hết, Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập tỉnh, là nơi có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.
Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.
Thứ ba, Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh? Cứ sự thường nước bọt có chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.
Sau cùng, Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và nói “Ep-pha-tha: hãy mở ra”. Không mấy khi đứng trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra tiếng thở dài ấy chăng? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng: “Phi-át: xin vâng” đã lôi cả vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng “Ep-pha-tha” này cũng chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.
Thường thường những người mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Tuy nhiên, ngoài những người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói, không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động: hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cũng cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.
Lại có những người câm điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm: tai trâu, tai cối, lơ đễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.
Sau hết, có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng v.v… Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình… Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi… như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.
55. Các phép lạ của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giê-su. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng, Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giê-su làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giê-su đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giê-su còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại. Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng Cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người … Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?
Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giê-su trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Ép-pha-tha” nghĩa là “hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưởi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa-tan để giải phóng con người.
Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giê-su đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.
Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai … Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rô-ma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giê-su có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.
Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giê-su đã nói với tông đồ Tô-ma: “Hỡi Tô-ma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Ki-tô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Ki-tô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Ki-tô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Ki-tô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.
56. Tặng vật.
Khả năng nghe và nói là hai tặng vật lớn. Giống như mọi tặng vật, người ta có thể coi là việc đương nhiên hoặc sử dụng sai lầm. Chúng có quan hệ với nhau. Chúng ta thấy điều đó đặc biệt nơi những người lớn tuổi. Khi họ lãng tai, họ trở nên câm lặng. Người đàn ông đến với Đức Giêsu vừa bị điếc, vừa nói ngọng. Đức Giêsu chắc hẳn đã biết anh.
Những người có thính giác kém thường lúng túng và vụng về và buồn cười. Thính giác kém dẫn người ta đến sự im lặng bối rối, khiến người khác phải hiểu lầm. Ngày nay những phương tiện trợ giúp cho thính giác đã làm giảm nhẹ nỗi đau khổ của họ nhưng không làm biến mất hoàn toàn.
Tặng vật nói được là phương tiện chính để chúng ta truyền thông với người khác. Người nói ngọng thường làm trò cười cho người khác.
Chúng ta thấy nỗi đau khổ mà Đức Giêsu chịu thay cho người khốn khổ ấy, và sự săn sóc mà Người dành cho người ấy. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông để Người có thể chăm sóc cho anh trong sự riêng tư và dành cho anh sự quan tâm trọn vẹn. Thay vì nói với anh, Người sờ vào tai và lưỡi anh. Như thế, Người làm cho anh ta cảm thấy điều anh không thể nghe được.
Phép lạ có ảnh hưởng lớn đến chúng ta, không phải vì chúng ta điếc hoặc câm (may mắn thay, đa số chúng ta không bị), nhưng chính xác vì chúng ta có được tặng vật là nghe được và nói được. Việc chúng ta có được những tặng vật ấy không có nghĩa là chúng ta sử dụng chúng tốt. Nhiều người là những thính giả rất nghèo nàn. Và nhiều người gặp sự khó khăn khi diễn tả biểu lộ.
Nghe được mà không chịu nghe (điều phải) thì số phận còn tệ hơn bị điếc từ lúc sinh ra. Có tai mà không chịu nghe hoặc có lưỡi mà không chịu nói hẳn là tệ hơn rồi. Vì thế, chúng ta cần Chúa sờ vào để chữa lành nếu chúng ta muốn sử dụng tốt hai tặng vật quí giá ấy.
Các giác quan của chúng ta quí giá và sống động. Chúng ta cũng phải cảm nghiệm Thiên Chúa với các giác quan của chúng ta: với mắt, tai, lưỡi, và đặc biệt với tâm hồn chúng ta.
Phép lạ không chú trọng sự chữa lành thể chất của người đàn ông vừa điếc vừa câm. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Thiên Chúa và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe Lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
Vì thế, không gì ngạc nhiên khi linh mục sờ tai và lưỡi trong nghi thức Thanh Tẩy từ những thời kỳ sơ khai và ngày nay vẫn thế. Linh mục chủ tế sờ vào tai và miệng của người nhận phép Rửa tội và nói: “Chúa Giêsu đã làm cho người điếc nghe được và người câm nói được. Xin Người cũng sờ vào tai anh/ chị để anh/ chị đón nhận lời Người và sờ vào miệng anh/ chị để anh/ chị tuyên xưng đức tin vào Người, để ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta”.
Chúng ta cần khả năng nghe Lời Thiên Chúa. Rồi cần khả năng tuyên xưng Lời ấy vào thực tiễn của cuộc sống. Lời của Thiên Chúa, một khi được nghe và thực hành, sẽ giống như hạt giống rơi xuống đất tốt; nó làm cho đời sống của chúng ta sinh hoa kết quả.
57. Tin Mừng.
Tên tôi là James. Vì hoàn cảnh bị điếc, tôi bị thiệt thòi rất nhiều đến nỗi những người khác coi là việc đương nhiên. Tôi không thể nghe tiếng la hét của các em bé đang chơi, tiếng chim hót, tiếng gió thổi trên cây. Tôi không thể nghe những lời an ủi, động viên hoặc cảnh báo. Ít người chịu cố gắng thông tin cho người điếc. Họ thấy điều đó rất tẻ nhạt. Tôi cảm thấy cô đơn kinh khủng.
Thực tế tôi cũng bị câm, nó càng làm tăng thêm cảm giác bị loại trừ và cô độc. Tôi không thể giãi bày. Tôi không thể diễn tả cảm giác của tôi. Những người vô tình đã cười nhạo sự nói lắp của tôi.
Tôi không có cơ hội để đóng góp gì cho cộng đoàn. Hậu quả là, tôi cảm thấy vô dụng và trở thành vô dụng. Người ta ngại chạm vào tôi. Bị tàn tật là gặp khó khăn. và khi bạn khó khăn, người ta sợ bạn. Hơn thế nữa, tôi còn đi đến chỗ tin rằng sự tàn tật của tôi là do Thiên Chúa trừng phạt.
Tôi đầy lòng thương cảm chính mình. Tôi ao ước được người ta thương xót. Tôi tin chắc không một ai hiểu và thương xót tôi. Cho đến một ngày kia, tôi biết được Đức Giêsu. Dù Người là dân Do thái, còn tôi là dân ngoại, tôi cũng không ngã lòng thối chí đi tìm sự giúp đỡ của Người.
Quả là một kinh nghiệm tuyệt vời! Việc đầu tiên Người làm là kéo tôi ra khỏi đám đông, và dành cho tôi sự quan tâm trọn vẹn của Người. Điều này làm cho tôi cảm thấy rằng Người coi tôi quan trọng. Đồng thời Người cứu tôi khỏi sự tò mò của những người lắm chuyện.
Người không nói với tôi như thể Người tiết kiệm lời nói. Trái lại, Người đã sờ vào tôi. Người đã làm cho tôi cảm nhận điều mà tôi không thể nghe được. Không có gì thô lỗ và vội vàng khi Người sờ tôi. Đó là một cử chỉ dịu dàng, nhẫn nại và yêu thương.
Người đặt ngón tay Người vào lỗ tai tôi. Rồi Người đặt ngón tay Người vào miệng Người, lấy ra một ít nước bọt trị bệnh và đặt nó vào lưỡi tôi. Kế đó, Người ngước mắt lên trời để cho tôi thấy rằng đây là sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Rồi với một tiếng thở dài lớn, Người nói: “Hãy mở ra!”. Và thình lình tai tôi được mở ra và lưỡi tôi trở lại bình thường. Tôi đã được chữa khỏi!
Người nói với tôi chớ nên loan truyền điều Người đã làm cho tôi. Nhưng tôi không thể giữ im lặng. Có quá nhiều điều bị dồn nén bên trong tôi đến nỗi trước hết tôi nói liên tục, không ngừng. Tôi không thể đi qua một người nào trong phố mà không nói: “Xin chào”. Tôi không thể giữ im lặng khi gặp một người đang đau khổ nếu tôi cảm thấy một lời của tôi có thể nâng đỡ người ấy. Tôi cũng không thể đứng nhìn hành động bất công mà không tố giác nó.
Nhưng không bao lâu, tôi đã nhận ra rằng tôi đã nói quá nhiều. Tôi đã không lắng nghe. Điều này khiến tôi làm tổn thương người khác. Vì thế tôi quyết định cố gắng lắng nghe người khác. Điều này có nghĩa là tôi phải ngừng nói. Tôi cũng nghe những âm thanh của thiên nhiên, của âm nhạc, tiếng cười và tiếng khóc.
Tôi đã khám phá một số điều lý thú trong suốt những tháng đầu tiên sau khi tôi khỏi bệnh. Tôi thấy mỗi người đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ sử dụng trọn vẹn tặng vật nói được như e thẹn, vô tình, vô cảm … Và họ đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ nghe tốt như thiên kiến, phân tâm, khước từ việc lắng nghe…
Tại sao tôi nói với bạn điều đó? Chính là để tránh cho số phận của những người có tai nhưng không thể nghe và có lưỡi nhưng không thể nói. Từ kinh nghiệm của tôi, tôi đã khám phá ra điều này: bi kịch lớn nhất không phải là sinh ra điếc và câm, nhưng là có tai mà không chịu nghe và có lưỡi mà không chịu nói điều phải.
Nghe và nói là hai tặng vật lớn. Nhưng nếu không có một tâm hồn có khả năng cảm nhận lòng thương xót, chúng ta sẽ không bao giờ có thể sử dụng tốt việc nghe và nói. Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nghe đúng, và chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói đúng.
Đấng đã sờ vào tai tôi và lưỡi tôi, cũng sờ vào tâm hồn tôi. Có như thế thì mọi việc mới làm tôi đổi mới. Đó là một phép lạ buổi sáng trước ánh mặt trời.
58. Sự phân biệt.
Có một lần nọ, một người giàu có mời tất cả những người bạn ông là những người dân thành phố đến dự tiệc. Có một người đến bữa tiệc trong một bộ quần áo rách rưới, đó là bộ y phục duy nhất mà người ấy có. Vừa đến cửa, người ấy bị đuổi về. Không bị khuất phục, người ấy trở về nhà và mượn một bộ đồ đắt tiền của một ông láng giềng giàu có. Rồi người ấy trở lại nhà tiệc, trông có vẻ như một người có của. Lần này người gác cổng tiếp đón với vẻ cung kính và chỉ cho ông ngồi chỗ cao nhất trên bàn. Trong bữa ăn, lúc ông với tay để lấy miếng thịt chiên, bất ngờ cái tay áo nhúng vào đĩa thức ăn.
“Kéo tay áo của ông lên”, người khách kế bên nói nhỏ.
“Không, cứ để vậy” ông nói. Rồi ông nói với cái tay áo: “An đi, hỡi tay áo của tôi, ăn đi cho no nê. Mày có quyền dự bữa tiệc này hơn tao, vì người ta tôn trọng mày hơn tao trong nhà này”.
Thánh tông đồ Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư (giữa các giai tầng xã hội)”. Nếu đoạn văn này của thánh Giacôbê làm chúng ta khó chịu vì sự thật là thế. Xã hội chúng ta có đầy sự phân biệt giai cấp. Chúng ta thấy điều đó qua loại xe người ta lái, loại phi cơ người ta đi, khu đất người ta ở, câu lạc bộ người ta năng lui tới v.v… Có một chỗ cho người giàu và một chỗ cho người nghèo. Người ta gán giá trị xã hội cho số lượng tiền bạc mà người ta có. Nếu bạn giàu có, bạn là một nhân vật nào đó. Nếu bạn nghèo, bạn không là một con người.
Việc phân chia giai cấp sẽ không đến nỗi nào nếu kết quả của nó không ảnh hưởng đến chúng ta. Phân chia giai cấp dẫn đến sự thiên vị, đến sự trọng phú, khinh bần. Người ta thường giữ chặt mỗi người ở vị trí của họ, làm cho có những người bị tự ti mặc cảm. Nó giữ cho người ta sống riêng rẽ. Đôi khi, người nghèo không được phép vào sống trong khu nhà của người giàu. Nhưng người giàu cũng đau khổ, bởi vì nó cho họ một cảm giác giả tạo về sự quan trọng của họ.
Sự phân chia giai cấp dẫn đến những tiêu chuẩn kép và không nên có giữa các Kitô hữu với nhau. Các Kitô hữu cần phải thách thức những tiêu chuẩn giả tạo ấy, và không cho phép mình bị lôi kéo thích ứng với các tiêu chuẩn ấy.
Có những rào cản giữa các giai cấp đổ xuống. Khi có những nguy hiểm và đau buồn tập thể hoặc niềm vui tập thể thì những sự phân biệt ấy bị gạt sang một bên và họ thấy chúng chỉ là những điều ngớ ngẩn. Trong những dịp như thế, người ta đến với nhau và làm phong phú cho nhau. Trong những dịp như thế, người ta nhận ra rằng biết bao điều đã bị bỏ mất qua những phân chia giả tạo đó.
Nếu Thiên Chúa có tỏ ra thiên vị thì đó là sự thiên vị dành cho người nghèo và người bị áp bức. Việc Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo không có nghĩa là Thiên Chúa yêu họ chỉ vì họ nghèo, như thể nghèo khó là một nhân đức. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo và người bị áp bức bởi vì họ bị đối xử bất công. Kinh Thánh nhìn người giàu đang áp bức người nghèo. Và Thiên Chúa quyết định chứng minh chính nghĩa của người bị áp bức. Các Kitô hữu phải làm cho các tiêu chuẩn của mình phù hợp với các tiêu chuẩn của Thiên Chúa.
Sự cao thượng cùng lòng nhân hậu không thể được giai cấp xác định: điều xấu cũng thế. Không có giai cấp nào được độc quyền tốt hoặc xấu, đau khổ hay vui mừng. Nhưng khi đến với đức tin, thánh Giacôbê nói rằng chính những người nghèo đối với thế gian này, mới giàu có trong đức tin. Người giàu có khuynh hướng dựa vào của cải của mình, trong khi mà người nghèo theo bản năng quay về Thiên Chúa. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Ở đây, trong ngôi nhà của Thiên Chúa mọi rào cản phân chia giai cấp đều sụp đổ. Chúng có vẻ ngớ ngẩn. Bởi vì ở đây, phẩm giá thật sự của chúng ta xuất hiện. Nó không dựa trên những điều thường vẫn phân chia con người và vẫn được xã hội đánh giá cao. Nó dựa trên một điều rất sâu xa là bản chất của con người. Nói cách khác chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em với Đức kitô. Bất cứ sự phân biệt nào khác đều tầm thường và vô nghĩa. Khi chúng ta đến đây, những sự phân biệt khác đều tiêu tan như sương mù buổi sáng trước ánh mặt trời.
59. Mê tín.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là:
. Khi chữa trị cho người này, Chúa Giêsu đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh.
. Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, Chúa Giêsu còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.
Tại sao Chúa Giêsu cư xử như vậy? Thưa vì Chúa Giêsu không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc.
Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Đức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến. Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh… Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.
Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Đó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người Công giáo đi coi bói, đi xin bùa… Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào? Thường là:
. Khi có người thân bị bệnh nặng: chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.
. Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.
. Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cầu cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái…
Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các cha. Các cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v… Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bã ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tín dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào!
Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm:
Thứ nhất: hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân nào đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỉ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao? Đương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin thì cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Đừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà.
Điểm thứ hai: chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở trần gian có những thứ ấy. Để làm chi? Để nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương… Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau: “Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một thánh giá ta đang gánh vác, thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Đức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ay là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.
60. Lưỡi và tai.
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về “Cái lưỡi và cái tai” như sau:
Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn huyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau:
- Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo”. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: “Nhà báo nói láo ăn tiền”.
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
- Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói:
- Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn hoàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay, Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán: “Ép-pha-ta” nghĩa là “Hãy mở ra” lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc.
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng; không gây phương hại, vẩn đục cho tâm hồn.
Cha Mark Link có viết: “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.
61. Thích điếc, muốn ngọng
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Các phương tiện truyền thông đang nói nhiều đến sự ô nhiễm: ô nhiễm môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn lương thực, ô nhiễm âm thanh. Bên cạnh đó, các nhà giáo dục còn nói đến ô nhiễm những mặt trái của văn minh phương tây, ô nhiễm tinh thần tục hoá của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ. Hơn lúc nào hết, chúng ta có quá nhiều cái để nghe và cũng có quá nhiều điều để nói đang khi biết bao điều phải nghe mà chưa nghe được, bao nhiêu điều phải nói mà nói không được. Phải chăng, một cách nào đó, chúng ta cũng không hơn chi anh chàng vừa điếc vừa ngọng trong bài Tin Mừng hôm nay khi anh phải nhờ người khác dẫn mình đến với Chúa Giêsu.
"Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...". Bài hát của một tác giả như là một lời nhắc nhở chúng ta; hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa còn nói với chúng ta nhiều hơn.
Trình thuật Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu chữa lành một người điếc và ngọng. Phép lạ không chú trọng đến việc chữa lành thể chất nhưng đúng hơn, chú trọng đến việc chữa trị tâm hồn. Đức Giêsu mở tai anh, để anh có thể nghe Lời Chúa; mở miệng anh, để anh có thể tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chính Ngài là Đấng Thiên Sai đã được Isaia loan báo trước đó hơn tám thế kỷ, Ngài là Đấng mở mắt người mù, mở tai người điếc và mở miệng người câm như bài đọc thứ nhất và bài đáp ca hôm nay nhắc lại.
Vậy thì Lời Chúa hôm nay nói gì với chúng ta?
Hơn bao giờ hết, chủ đề điếc và ngọng thật hấp dẫn và cũng dễ đụng chạm. Nguyên chuyện khoái điếc, thích ngọng và kể cả muốn mù như căn bệnh mãn tính lâu ngày hoá quen và coi như chuyện nhỏ không thành vấn đề đã là một cái gì đụng chạm ghê gớm.
Anh Chị em, chúng ta sẽ đụng ai khi nói đến những căn bệnh mãn tính nầy? Và một loạt câu hỏi được đặt ra: Đụng ai trước nhất? Vì sao phải đụng? Tại sao chúng ta khoái điếc khi không còn muốn nghe? Tại sao chúng ta thích ngọng khi chẳng còn buồn nói? Ai tập cho chúng ta điếc? Ai dạy cho chúng ta câm?
Có lẽ nhiều người đang nín thở, nhưng dường như tất cả chúng ta đã hiểu lầm hết với câu trả lời của mình. Còn đây mới là câu trả lời đúng nhất, chính xác nhất. Đề cập đến việc khoái điếc, thích ngọng và giả mù của chúng ta sẽ đụng chạm đến chính linh hồn, đụng chạm đến bản thân chúng ta trước nhất.
Chúng ta điếc đặc trước Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì, cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu réo ới ời.
Không chỉ khoái điếc, chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè và đồng nghiệp... vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất, chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận...
Làm sao một người làm cha làm mẹ, làm sao một mục tử, một thầy cô giáo hay một chứng tá của Chúa Kitô trong môi trường mình đang sống lại có thể yên thân? Làm sao chúng ta lại hoá như bao người khác? Mà tại sao lại phải yên thân? Đến đây, có người sẽ nói: Cuộc đời phức tạp lắm, các linh mục không biết đâu! Không, tôi biết. Vì nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ vô tình đánh mất sự hồn nhiên, đánh mất cả sự tự do và đánh mất chính mình. Phải, chúng ta mù loà điếc lác và ngọng miệng, một căn bệnh cần được Đức Giêsu chữa lành.
Đức Hồng Y Gracias nói: "Gương mù cho thế kỷ hôm nay là chúng ta y hệt mọi người khác", dửng dưng như người khác, thờ ơ như người khác và lạnh lùng như người khác.
Không, mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều được mời gọi hướng thượng: nhanh hơn, cao hơn và xa hơn. Chúng ta là con cháu Hồng Bàng, là đại bàng sải cánh giữa lồng lộng trời cao; chúng ta không thuộc họ nhà gà lệt đệt. Bùn càng tanh, sen càng phải thơm tho. Bùn càng đặc, sen càng phải toả ngát. Cắm sâu giữa bùn nhưng sen vẫn mãi là sen vì chỉ có sen mới được quyền nói về bùn, cũng như chỉ có bùn mới được quyền nhắm mắt không thừa nhận sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là vậy.
Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: "Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?". Mặc Tử trả lời: "Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?".
Ngày xưa cũng như ngày nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu chúng ta biết đó là bệnh và ước được chữa lành. Mỗi chúng ta có thể cầu nguyện:
Lạy Chúa, có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai con điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm lưỡi con ngọng. Xin cũng nói với con:"Ephata, Hãy mở ra", để con nghe được tiếng Chúa, tiếng lương tâm mà hoán cải tâm hồn, đổi mới con tim. Xin hãy phá đi bức tường định kiến, bức tường ích kỷ để con mở rộng cõi lòng đón nhận Lời Chúa, đón nhận anh em. Xin hãy mở miệng lưỡi con, cắt đứt sợi dây ích kỷ, sợi dây sợ sệt, sợi dây ươn hèn để con mạnh dạn nói lời chân lý, lời thứ tha, những lời ca ngợi tình Chúa, những lời chúc khen tình người, Amen.
62. Chúa Giêsu hành động hôm nay.
Cách đây khá lâu, Jerry Izenberg của tờ báo New York Post đã viết về Reggie Williams thuộc đội Cincinnati Bengals. Khi sinh ra, Reggie đã bị bệnh về thính giác, nhưng không có ai để ý. Các thầy cô giáo ở tiểu học tưởng rằng cậu là người chậm chạp và ngu đần. Tuy nhiên khi vào lớp ba, Cô Chapman khám phá ra chứng bệnh của cậu và đã tìm cách giúp đỡ. Thật rất cám ơn cô giáo Chapman, hai lỗ tai của Reggie đã được chữa lành và nghe được.
Rốt cuộc, Reggie đã ra trường trung học và được xếp vào hạng giỏi 5% trong số học sinh lớp mười hai ra trường. Người mà các cô giáo và học sinh chê bai là chậm chạp và ngu dốt nay đã xin được vào trường Đại Học Darthmouth.
“Nếu không nhờ cô giáo Chapman, tôi không dám tưởng tượng ra ngày hôm nay tôi sẽ như thế nào.” Reggie đã nói với ký giả Izenberg như thế.
Reggie bị nặng tai giống như người thanh niên trẻ trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành người thanh niên khỏi điếc.
Chúa Giêsu vẫn còn mở lỗ tai cho những người điếc hôm nay như Ngài đã từng làm trong thời của Ngài. Chúa Giêsu vẫn còn mở lưỡi cho những người câm hôm nay như Ngài đã từng làm trong thời của Ngài.
Điều duy nhất khác biệt là cách thức Ngài làm những công việc này. Ngài không làm một cách trực tiếp, nhưng gián tiếp qua những bàn tay và giọng nói của những người khác. Chúng ta có thể nói rằng: Chúa Giêsu không có chân để có thể đi vào cuộc sống của con người hôm nay. Ngài cần phải dùng đôi chân của chúng ta để làm điều đó.
Chúa Giêsu không có đôi tay để có thể chìa ra và chữa lành những lỗ tai và miệng lưỡi của con người hôm nay. Ngài cần phải dùng đôi tay của chúng ta để làm điều đó.
Chúa Giêsu không có giọng nói để có thể nói vào trái tim của con người hôm nay. Ngài cần phải dùng giọng nói của chúng ta để làm điều đó cũng giống như nhờ cô giáo Chapman, hai lỗ tai của Reggie đã được chữa lành.
Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy dâng cho Ngài đôi tay của chúng ta để Ngài có thể dùng để mở tai kẻ điếc và mở miệng lưỡi kẻ câm như Ngài vẫn làm lúc Ngài ở dương thế.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cho Ngài mượn giọng nói của chúng ta để Ngài có thể ban phát của ăn “Lời Chúa” cho những tâm hồn đang đói khát sự công chính như lúc Ngài ở dương thế.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cho Ngài mượn trái tim của chúng ta để Ngài có thể chạm tới các linh hồn ngày nay như lúc Ngài ở dương thế.
Lạy Chúa, xin chạm đến trái tim chúng con hầu chúng con có thể cho Ngài mượn chúng để đổi mới thế giới, như chính Ngài đã từng là dụng cụ cho Thiên Chúa Cha.
63. Niềm vui Nước Thiên Chúa - Anmai, CSsR
Xem lại bản đồ Palestina, thì lộ trình đi rao giảng của Chúa Giêsu như sau. Rời Tyrô, người lữ hành sẽ đi về phía Bắc, tức phía Siđôn. Còn nếu muốn tiến xuống phía biển Ghênêsaret (biển Galilêa) ở vùng Dêcapôli tức vùng đông nam biển hồ, thì người ta phải đi ngược lại từ Tyrô.
Ở đây, bản văn Marcô viết: ngang qua Siđôn, đến biển Galilêa băng giữa xứ Dêcapôlia. Như thế, lộ trình này không phù hợp với bản đồ địa lý. Qua sự kiện này, Thánh Sử Máccô gợi nhắc một lần nữa rằng Ngài chỉ muốn trình bày ý nghĩa của những cuộc hành trình của Chúa Giêsu. Người đến đất dân ngoại vì ơn cứu rỗi cũng được trao ban cho các dân ngoại.
Với hành trình như vậy, hôm nay chúng ta được nghe lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành anh chàng vừa điếc và vừa ngọng. Trình thuật này được biên soạn theo kiểu kết cấu tương đồng với câu chuyện chữa lành người mù ở Mc 8,22-26. Chúng ta thử phác họa sơ lược vài chi tiết song chiếu:
Mc 7,31-37
Câu 31: Người ta đem đến cho Người một người vừa điếc vừa ngọng.
Câu 33: Kéo người ấy ra xa dân chúng... Người tra ngón tay vào tai, nhổ nước miếng Người đụng vào lưỡi người ấy.
Câu 36: Rồi người căn dặn không được nói cho ai biết.
Mc 8,22-26
Câu 22: Người ta đem đến cho Người 1 người mù...
Câu 23: Dắt tay người mù, Người đưa nó ra ngoài làng; đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó đặt tay cho nó.
Câu 26: Ngài cho nó về nhà mà dặn rằng: đừng nói với ai trong làng.
Như vậy, trong nhãn quan thần học Máccô, những phép lạ luôn mang giá trị của dấu chỉ thời đại Thiên sai mà Chúa Giêsu đến khai mở. Ở Thời đại ấy, ở Nước ấy của Thiên Chúa thì sẽ không còn những người đui mù, câm điếc nữa mà ở Nước Thiên Chúa là những người hạnh phúc, bình an và vui mừng. Nước Thiên Chúa, Nước của bình an và hoan lạc ấy được Thánh Sử gợi nhắc ở câu 37. "Bấy giờ mắt mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm cũng sẽ reo hò". Câu này có nét gì đó tương đồng với đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe:
"Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em."
Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên. (Is 35, 4-7)
Nước Thiên Chúa còn hơn thế nữa. Nước Thiên Chúa là nơi mà:
Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui mừng.
Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la.
Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu
và người già tuổi thọ không tròn;
vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa.
Người ta sẽ xây nhà và được ở,
sẽ trồng nho và được ăn trái.
Người ta sẽ không xây nhà cho kẻ khác ở,
không trồng nho cho kẻ khác ăn;
vì cây được bao nhiêu tuổi, dân Ta cũng sẽ thọ bấy nhiêu;
và những kẻ Ta chọn sẽ được hưởng kết quả do tay chúng làm.
Chúng sẽ không luống công vất vả,
không sinh con cho con chết bất ưng,
vì chúng sẽ là dòng dõi
những người được Đức Chúa ban phúc lành,
bản thân chúng cũng như cả nòi giống.
Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời,
chúng hãy còn đang nói thì Ta đã nghe rồi.
Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta." Đức Chúa phán như vậy. (Is 65, 17-25)
Qua đoạn sách ngôn sứ Isaia về hình ảnh của Nước Thiên Chúa, ta thấy nước ấy là một nước tràn đầy hoan lạc và bình an. Ở trong nước ấy "chiên con và sói con cùng ăn cỏ, sư tử cùng ăn rơm như bò" chứ không có chuyện thiệt hơn, tranh giành, cãi cọ và chà đạp người khác.
Sự hơn thua, tranh giành và chà đạp người khác thời nào cũng có. Cách riêng, thời của Chúa Giêsu, những người biệt phái, những người pharisêu tự cho mình là hơn người khác để rồi coi thường người khác. Nước Thiên Chúa không có chỗ cho những người như thế.
Chắc có lẽ bực mình và chướng mắt trước những con người chỉ nhìn cái bề ngoài, xét đoán cái bề ngoài mà không trân trọng cái bên trong, cái chất thật của con người nên thánh Phaolô hôm nay đã phải thốt lên: "Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó! " hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây! ", thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao? (Gc 2, 3-4).
Ở Nước của Thiên Chúa thì không có chuyện phân biệt đối xử như vậy. Ở Nước Thiên Chúa là như thế này: Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao (Gc 2, 5).
Nước Thiên Chúa, ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo khổ, những người bị bỏ rơi, những người thấp cổ bé miệng như anh chàng câm điếc hôm nay Chúa Giêsu đã chữa lành. Niềm vui Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta nếu chúng ta sống trong tâm tình khiêm hạ, nhỏ bé, coi tất cả mọi người như anh em như lời thánh Giacôbê vừa mời gọi chúng ta và chúng ta cũng không miệt thị, không phân biệt đối xử với những người tật nguyền như Chúa trong tin mừng hôm nay.
Xin Chúa mở con mắt chúng ta thật to để chúng ta nhìn thấy những anh chị em thấp cổ bé miệng đang ở gần ta, ở xung quanh ta để ta xoa dịu, chia sẻ nỗi đau, sự thấp bé của họ để ta mang hạnh phúc đến cho anh chị em đồng loại ngay thế gian này và những hạnh phúc ấy chính là những hạnh phúc nho nhỏ mang chúng ta đến hạnh phúc, đến niềm vui ở trên trời mà Chúa đang dọn sẵn và chờ đợi chúng ta.
64. Cần chữa lành bệnh điếc và ngọng tâm linh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta vẫn gặp được những người điếc, ngọng, câm thể chất, họ chiếm một tỉ lệ thấp trong xã hội. Thế còn những người điếc, ngọng, câm tinh thần và tâm linh thì sao? tỉ lệ của họ cao hay thấp trong xã hội và Giáo Hội? Bản thân ta có bị bệnh điếc, ngọng, câm tinh thần hay tâm linh này không?
2. Điếc và ngọng về tinh thần và tâm linh nghĩa là gì? Đó là bệnh cá nhân hay xã hội? một xã hội hay giáo hội có thể bị điếc và ngọng không?
3. Có ai bị điếc và ngọng đối với chân lý không? Tại sao họ lại bị điếc và ngọng trong lãnh vực này?
Suy tư gợi ý:
1. Các thứ bệnh điếc và ngọng: thể chất, tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân, xã hội và giáo hội
Trong xã hội con người, có rất nhiều người bị bệnh: bệnh thể chất, bệnh tinh thần, và bệnh tâm linh. Đó là nói về bệnh cá nhân. Ngoài ra, một xã hội cũng có thể có nhiều chứng bệnh: bệnh thể lý như dịch tễ, bệnh tinh thần như sự bất công, áp bức, các tệ nạn xã hội (đĩ điếm, ma túy), bệnh tâm linh như vô tín, đạo đức xuống dốc, tình trạng tội lỗi… Một cộng đoàn tôn giáo có thể bị những bệnh như: cơ cấu làm tê liệt thần khí, hình thức bên ngoài làm mất đi tinh thần bên trong, quyền bính bị lạm dụng, chia rẽ không hiệp nhất, trên dưới không nghe nhau, khô khan nguội lạnh, thỏa hiệp với kẻ ác…
Đức Giêsu đến trần gian để chữa chủ yếu những bệnh tinh thần và tâm linh của con người, của xã hội và giáo hội, nhưng Ngài cũng chữa cả những bệnh thể lý như dấu chỉ khả năng chữa lành tinh thần và tâm linh. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ngài chữa lành «một người vừa điếc vừa ngọng» thể lý, là dấu chỉ của loại bệnh «vừa điếc vừa ngọng» tinh thần hay tâm linh. Điếc là không nghe được, hoặc không nghe rõ. Ngọng là không nói được, hoặc nói không rõ, khó nghe. Số người điếc, ngọng, câm thể lý chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong xã hội. Nhưng số người điếc, ngọng, câm về tinh thần và tâm linh chiếm một tỉ lệ rất cao. Thậm chí có cả bệnh «câm điếc xã hội», nghĩa là có những xã hội bị điếc, ngọng và câm nữa. Nếu Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay có thể chữa lành bệnh điếc và ngọng thể lý, thì Ngài còn có thể chữa lành một cách hữu hiệu hơn nữa bệnh điếc và ngọng về tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân cũng như trong xã hội và giáo hội.
2. Điếc, ngọng về tinh thần và tâm linh
Điếc và ngọng về thể chất thì ai cũng biết, thiết tưởng chúng ta không cần đề cập tới trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài chia sẻ Tin Mừng này. Chúng ta cần bàn tới bệnh điếc và ngọng về tinh thần và tâm linh, mà ai trong chúng ta cũng bị không nhiều thì ít.
Nhiều người thính và tinh tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức, triết lý, khoa học, về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ thật, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
3. Điếc và ngọng trước chân lý
Nhiều người đã trở thành điếc trước những quan niệm mới, những cách nhìn mới hay những cách diễn tả mới về chân lý. Vì họ luôn luôn cho rằng những quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả chân lý mà họ lãnh hội được trước đây chính là chân lý. Mà đã là chân lý thì không bao giờ thay đổi. Thực ra, chân lý thì bất biến, muôn đời không thay đổi, nhưng cách hiểu, sự lãnh hội và cách diễn tả chân lý của con người thì luôn luôn thay đổi tùy theo khả năng nhận thức của họ. Cũng như cơ cấu của vật chất, từ ngàn xưa đến nay không hề thay đổi, nhưng quan niệm, cách nhìn, cách mô tả của con người về cơ cấu vật chất luôn luôn thay đổi: càng về sau, con người càng quan niệm và diễn tả đúng hơn.
Một khi đã coi một quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả nào đó là chân lý bất biến, con người sẽ không còn khả năng chấp nhận những cách diễn tả khác phù hợp với thời đại mới, với nhận thức mới của con người thời đại. Ta đã thấy gương về sự cố chấp này trong Kinh Thánh: Thiên Chúa thì bất biến, nhưng cách diễn tả Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước rất khác nhau. Các kinh sư Do-thái chính vì cố chấp vào cách diễn tả cũ nên họ đã không chấp nhận được Đức Giêsu, với quan niệm mới, cách nhìn mới, cách diễn tả mới mẻ về Thiên Chúa của Ngài. Vì thế, họ đã nhắm mắt bịt tai trước lời của Ngài: lời Ngài có vẻ như không phù hợp với quan niệm rất hạn hẹp của họ. Tâm trí họ giống như một tách trà đã đầy nước, không thể tiếp nhận thêm một giọt nước nào nữa, nếu cứ rót vào, nước trà sẽ tràn ra ngoài.
Một khi đã điếc trước cách diễn tả mới về chân lý, họ cũng trở thành câm hay ngọng đối với cách diễn tả ấy.
4. Điếc và ngọng trong xã hội và tôn giáo
Trong những xã hội hay tôn giáo độc tài, chỉ có một bè đảng, một phe nhóm hay một giáo phái nào đó được ưu đãi và toàn quyền hành động, thì người dân luôn luôn phải chịu cảnh bất công áp bức. Lúc đó, người dân sẽ trở thành những kẻ điếc và ngọng. Điếc vì họ bị bọn cầm quyền bưng bít không cho nghe những thông tin nào bất lợi cho chúng, khiến cho người dân trở nên bức xúc và đấu tranh. Ngọng hay câm vì họ không thể nói lên được những uất ức, những bực bội, những tư tưởng, những ước muốn của họ. Đương nhiên bị điếc và ngọng thì hết sức bực bội, khổ não, và không hạnh phúc.
Trong những xã hội hay tôn giáo ấy, còn một loại điếc và ngọng khác, đó là bệnh điếc và ngọng của những người theo lý tưởng ngôn sứ. Đó là một lý tưởng cao đẹp tuyệt vời! Lý tưởng này rất cần thiết, đặc biệt trong những xã hội hay tôn giáo đang chịu đầy dẫy bất công áp bức. Lý tưởng đó là «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải phóng những kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng mắt, trả lại công lý cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Sách Châm ngôn diễn tả một công việc quan trọng của những người mang lý tưởng đó: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Nhưng có rất nhiều người mang danh theo lý tưởng ngôn sứ này, đáng lẽ họ phải nói thay cho người câm hay ngọng, nhưng tiếc thay chính họ dường như cũng bị câm và ngọng luôn! Thay vì sáng mắt thính tai để nghe và thấy tình cảnh khốn cùng của những người chung quanh mình hầu lên tiếng thay cho họ, thì họ cố tình giả điếc làm ngơ, bưng tai bịt mắt để khỏi thấy, hầu có thể câm miệng làm thinh cho yên thân, để «cố đấm ăn xôi» hay «ngậm miệng ăn tiền»!
5. «Épphatha», hãy mở ra!
Tuy không điếc và ngọng thể lý, nhưng rất có thể chúng ta đang bị điếc và ngọng về tinh thần hay tâm linh. Điếc và ngọng thể lý thì không phải chịu trách nhiệm về căn bệnh. Nhưng điếc hay ngọng về tinh thần hay tâm linh, thì chúng ta sẽ bị quy kết trách nhiệm trước Thiên Chúa và lương tâm của mình. Vì thế, xét về mặt tâm linh, điếc và ngọng tinh thần hay tâm linh nguy hiểm hơn nhiều. Bị căn bệnh tâm linh này, chúng ta cần chữa cho khỏi. Dù là điếc, ngọng hay câm loại nào, Đức Giêsu cũng có thể chữa lành được, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của Ngài và quyết tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và cái miệng tâm linh của ta và truyền cho chúng: «Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh điếc, ngọng, câm tâm linh của ta sẽ được chữa lành. Điều quan trọng là chúng ta phải xác định được mình đang thật sự bị điếc và ngọng về tâm linh thì Ngài mới chữa lành ta được! Nếu bị bệnh mà mình lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì Chúa có quyền năng đến đâu Ngài cũng đành bó tay. Hãy nghe Đức Giêsu nói với người Pharisêu: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).
Cầu nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy con đang bị điếc và câm - hay ít ra là đang giả điếc và giả câm - trước lời mời gọi của Cha. Cha mời con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ… Nhưng con đang giả mù giả điếc để có thể câm lặng… hầu được an thân, hầu khỏi bị mất mát những gì mà kẻ áp bức đang ban cho con! Xin Cha hãy chữa lành bệnh ấy cho con!
65. Câm điếc tâm linh – Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: “Nhiều người trong chúng ta bị câm điếc về mặt tâm linh cần được Chúa Giêsu chữa lành”
Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: “Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!”. Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers. Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình. Một đoạn trong lời cầu đó như sau:
“Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay)
Lời kinh trên cho chúng ta thấy một nỗi niềm, một uẩn khúc nào đó của người điếc mà chúng ta thường ít người nhận ra được. Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở radio thì chả hiểu gì, xem truyền hình cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.
Điều này dẫn chúng ta đến một vài câu hỏi:
Tại sao Chúa Giêsu đã chữa lành người câm điếc ấy?
Tại sao Ngài đã khai thông lỗ tai người ấy?
Tại sao Ngài đã phục hồi miệng lưỡi người ấy?
Câu trả lời nằm trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay. Trong lời mô tả vài dấu chỉ sẽ xảy ra khi Đấng Mêsia đến, tiên tri Isaia đã nói: “Kẻ điếc sẽ được nghe, ai không nói được sẽ mừng rỡ reo lên”… Qua việc chữa lành người câm điếc trên, Chúa Giêsu đã hoàn tất hai dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói để giúp dân chúng nhận ra Đấng Mêsia. Vậy, một trong những mục đích của việc chữa lành ngày hôm nay là xác nhận rõ hơn Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Tuy nhiên, việc chữa lành ngườì câm điếc kia còn tỏ lộ một điều ẩn kín nào đó nơi bản thân Đức Giêsu. Nó cho ta thấy Đức Giêsu là một mẫu người giàu lòng thương xót. Điều này đặc biệt biểu lộ qua cung cách Ngài tách biệt anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông. Như ta biết, người điếc thường hay mặc cảm nên lúng túng trước tình cảnh của mình. Họ không hiểu ất giáp gì cả khi nghe người ta hỏi, nên họ luôn cảm thấy mình như ở ngoài rìa. Vì thế khi dẫn anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng xót thương thực sự của Ngài đối với anh, Ngài rất nhạy cảm đối với tình cảnh đáng thương của anh. Như thế ngoài việc tỏ cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, việc chữa lành người câm điếc còn cho ta thấy rõ lòng thương xót của Đức Giêsu.
Cuối cùng, việc Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc đã tạo nên nguồn hy vọng cho chúng ta là những kẻ đang sống ở thời đại ngày nay.
Trạng thái của người câm điếc không giống trạng thái của riêng chúng ta. Nhiều người trong chúng ta không điếc về thể lý nhưng lại điếc về tâm linh. Chúng tôi muốn ám chỉ gì đây? Hãy dùng một ví dụ để làm sáng tỏ.
Mới đây một bà mẹ và ông bố đến thăm đứa con gái của họ đang lâm trọng bệnh ở nhà thương. Ngay khi họ lái xe rời bệnh viện, bà mẹ bắt đầu vừa khóc vừa nói; “Anh Ron ơi, em chả biết rõ điều gì đang xảy đến cho em, lẽ ra 10 năm trước em có thể cầu nguyện với tất cả tấm lòng cho con gái chúng ta. Lẽ ra em có thể trình bày với Chúa về nó, và lẽ ra em có thể nghe lời Chúa dặn dò em “Đừng lo”. Thế nhưng em không còn làm điều ấy được nữa. Em không còn cầu nguyện được nữa, em không thể nói chuyện với Chúa như em đã thường làm. Hình như về mặt thiêng liêng em đã trở nên như câm như điếc”.
Câu chuyện trên mô tả tình trạng của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta đôi lúc cũng cảm thấy khó cầu nguyện khác với chúng ta ngày xưa. Chúng ta cũng cảm thấy khó đối thại với Chúa và chúng ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc nghe Chúa nói với chúng ta. Vậy trong trường hợp này, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời đã nằm sẵn trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta có thể bắt chước người câm điếc trên, nghĩa là tìm kiếm Chúa Giêsu, cùng Ngài bước ra khỏi đám đông và tận hưởng đôi chút thời gian bên sự hiện diện có khả năng chữa lành của Ngài.
Bài Phúc Âm hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nó cụ thể hơn, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta đã từng có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Như thế, câu chuyện người câm điếc trên nói với chúng ta 3 điều; Thứ nhất, nó mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã được mong đợi từ lâu. Đức Giêsu đã thực hiện điều mà Isaia tiên báo Đấng Mêsia sẽ làm, tức là cho người điếc được nghe và người câm nói được.- Thứ hai, câu chuyện người câm điếc mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài đưa người điếc ra khỏi đám đông để chữa lành cho người ấy. Ngài không biến người ấy thành trò cười cho thiên hạ mà muốn tiếp xúc thân mật riêng tư với người ấy. - Cuối cùng, bài Phúc Âm mặc khải cho chúng ta phương pháp giải quyết các vấn nạn mà nhiều người trong chúng ta đang gặp phải ngày hôm nay. Đó là chúng ta không còn cầu nguyện được nữa, không còn thưa chuyện với Chúa, lắng nghe lời Ngài nói trong tâm hồn chúng ta được nữa. Về mặt thiêng liêng quả thực chúng ta đang bị câm điếc.
Để tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề khổ tâm này, chúng ta hãy bắt chước người câm điếc, là tìm kiếm Chúa Giêsu và xin Ngài chữa lành chúng ta. Cụ thể hơn, chúng ta hãy để riêng vài phút mỗi ngày tiếp xúc với Chúa Giêsu ngõ hầu Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.
66. Đừng Sợ! - Như Hạ, OP
Thế giới tràn ngập những con người nhát sợ. Đó là điều kiện cho sự dữ sinh sôi nảy nở. Sự dữ càng tăng cường độ khi con người thích tổng quát hóa những thực tại chỉ nhìn thấy từ một góc độ nào đó. Chính vì muốn tránh thảm họa cho nhân loại, Tin mừng đã muốn chúng ta nhìn thấy toàn diện thực tại, nhất là thực tại về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế đã đến trong thế gian.
ƠN CỨU ĐỘ MUÔN DÂN
Tin mừng Marcô hôm nay mở đầu bằng một dòng vắn tắt mô tả bước đi ngoằn ngoèo của Đức Giêsu tới miền Thập tỉnh. "Hành trình này phần lớn qua những lãnh thổ dân ngoại. Có lẽ thánh Marcô chủ ý nói thế để tiên báo trước về sứ mạng Giáo hội giữa chư dân." (The New Jerome Biblical Commentary 1990: 613) Ngay trong hành trình đã có chiều hướng mở ra, chứ không khép kín trong lãnh thổ Do thái. Người muốn cho mọi người thấy một chiều kích phổ quát và toàn diện của Tin mừng trong cộng đồng nhân loại. Tin mừng không thể đóng khung trong một cái nhìn phiến diện nào. Nhưng càng thấm sâu tinh thần Tin mừng, càng thấy nhiều chiều cạnh mở tung ra thế giới.
Chính vì thế, khi bắt tay vào việc mở mắt cho người mù hôm nay, Đức Giêsu cũng muốn giải thoát mọi người khỏi cảnh tăm tối với những giới hạn vô nghĩa. Quả thực, sau khi chữa cho "một người vừa điếc vừa ngọng," (Mc 7:32) "Đức Giêsu cấm họ không được kể chuyện đó với ai cả." (Mc 7:36) Vừa giải thoát anh, Người lại muốn ngăn chặn đám đông muốn tôn vinh mình. Lệnh cấm đó chỉ muốn giúp mọi người vượt quá tầm nhìn bình thường. Hochết dí vào sự kiện trước mắt, không thể đi xa hơn được. Quả thế, khi chứng kiến phép lạ đó, họ tấm tắc: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được." (Mc 7:37) Dưới cái nhìn của họ, Đức giêsu chỉ là một ông lang tài gioi. Thế thôi! Một cái nhìn như thế cứ phóng tới chắc chắn sẽ kẹt kinh khủng cho sứ vụ của Chúa. "Có lẽ thánh Marcô muốn nhấn mạnh: Đức Giêsu còn hơn một thầy thuốc chữa bệnh. Căn tính của Người chỉ hoàn toàn được mạc khải trên thập giá và trong ngày phục sinh." (The New Jerome Biblical Commentary 1990: 613)
Quả thực, trên thập giá, Người mới có thể mạc khải hoàn toàn bản chất đầy lòng thương xót của mình. Nhưng ngay hôm nay mọi người đã chứng kiến một phần lòng thương xót đó. Khi nhìn thấy anh chàng điếc và ngọng đó, Đức Giêsu đã động lòng trắc ẩn b iết chừng nào. Đây là một dấu chỉ về tình cảm đặc biệt Chúa dành cho anh: "Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước mếng mà bôi vào lưỡi anh." (Mc 7:33) Đó cũng là một cử chỉ đầy ý nghĩa biểu tượng. Chúa muốn tách anh khỏi đám đông tăm tối.
Ngón tay quyền năng trực tiếp giải thoát các chi thể anh khỏi những giới hạn lầm than và đưa anh vào cuộc sống. Tai và lưỡi là những phương tiện cần thiết để trao đổi với mọi người và nhận những nguồn thông tin cần thiết cho cuộc sống. Trước mặt người đời, anh chỉ là con số không, vì thiếu cả những phương tiện căn bản nhất để sống một cuộc sống bình thường. Bởi thế, khi trả lại cho anh khả năng nghe và nói, Đức Giêsu đã dành lại cho anh tất cả quyền làm người. Anh có cả một cơ hội lớn để tiếp tục hòa nhập và lớn lên như mọi người trần thế. Chỉ cần một lời "hãy mở ra!" (Mc 7:34) Đức Giêsu đã khai thông tất cả. Từ đám đông, anh chẳng có gì. Nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa, anh có tất cả khi trở lại đám đông. Anh có tất cả vì anh đã tin vào quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, "Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu có đức tin và thừa hưởng vương quốc Người hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?" (Gc 2:5)
HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC
Anh thực sự hạnh phúc. Nhưng tại sao anh hạnh phúc như thế? Anh hạnh phúc vì đã cảm nghiệm sâu xa lòng Chúa xót thương. Chúa biến đổi đời anh. Có lẽ không ai hiểu thấu lòng Chúa thương xót bằng anh. Lòng Chúa xót thương là chỗ dựa duy nhất cho người tín hữu. Có kinh nghiệmvề lòng thương xót đó, mới có thể sống hạnh phúc và bình an.
Khi suy gẫm về lòng Chúa thương xót trong thánh vịnh 50, ĐGH Gioan Phaolô II đã coi Thánh vịnh là "một ốc đảo dành cho việc suy gẫm, nơi đó con người có thể khám phá sự dữ đang ẩn núp trong lương tâm và cầu xin Chúa thanh tẩy và tha thứ. con người thì giới hạn và mỏng dòn, nhưng lại có khả năng xấu xa khi gieo rắc sự dữ và bạo lực, ô uế và sai lầm." (Zenit 30/07/03) Nhân loại thật đáng thương! Họ rơi vào tăm tối. Vì thế không còn nhận ra ánh sáng chiếu tỏa từ lòng Chúa xót thương.
Giữa một thế gian đầy tăm tối như thế, người tín hữu hãy lắng nghe một "sứ điệp hi vọng": "Thiên chúa có thế 'hủy bỏ, thanh tẩy' lỗi lầm của một tâm hồn biết thống hối. Bởi đấy, người tín hữu ý thức mình được Thiên chúa tha thứ. Chính nhờ trung gian là Đức Giêsu, Đấng đã hiến dâng của lễ toàn hảo lên Thiên Chúa." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 30/07/03) Chỉ trên thập giá Đức Giêsu mới có thể mạc khải tất cả sự thật về lòng Chúa xót thương, nguồn hi vọng duy nhất cho toàn thể vũ trụ. Lời ngôn sứ đã loan báo từ xưa về niềm hi vọng này: "Chính Người sẽ đến cứu anh em." (Is 35:4) Bởi thế, dù bị bao vây tứ bề và đe dọa muôn mặt, người tín hữu vẫn được Chúa khích lệ: "Can đảm lên, đừng sợ!" (Is 35:4) vì "Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi." (Tv 27:1).
67. Người đạo đức - Lm Gioan Trần Khả.
Thế nào là một người đạo đức? Phần Lời Chúa hôm nay cho chúng ta hình ảnh của người đạo đức thật và người không đạo đức thật. Người đạo đức thật phản chiếu tâm tình và thái độ giống Chúa Kitô. Người không đạo đức thật là những người không phản ảnh trung thực tâm tình và thái độ của Chúa kitô, trái lại họ có những tâm tình sai lầm thiên vị, ganh ghét như những người được thánh Giacôbê tông đồ khuyến cáo trong bài đọc thứ hai. Họ đã chú trọng đón tiếp người giàu có sang trọng, “Mời ngài lên hàng ghế nhất.” và coi thường khinh rẻ người nghèo: “Chú đứng ở đàng kia”, “hoặc chú ngồi tạm dưới sàn nhà.” Đây là thái độ “trọng phú khinh bần” không được chấp nhận trong tinh thần Kitô Giáo. Chính chúng ta nhiều lần cũng mắc phải trong cách cư xử và lời ăn tiếng nói: “Ông tổng thống, ông kỷ sư, ông bác sỹ, bà thị trưởng... Nhưng cái thằng mỹ trắng, cái thằng mỹ đen, cái con mễ... Lời ăn tiếng nói và cung cách xử thế của chúng ta sẽ cho ta thấy mình là người như thế nào.
Một Bài Học
Người Thổ nhĩ Kỳ có câu truyện kể rằng, có một nhà giáo nổi tiếng cả về tài trí và lòng đạo đức. Một hôm ông ra ruộng làm tiếp với vợ và đã quên giờ phải về đi dự bữa tiệc của một người giầu có quý phái mời. Người nhà và các bạn hối thúc ông phải mau chân kẻo trễ. Ông biết rằng mình không còn đủ giờ để về nhà tắm rửa thay quần áo, nên đã quyết định mặc yên bộ đồ đi làm đó và đi thẳng tới nhà của người quý phái kẻo trễ giờ.
Khi tới nơi, các người đầy tớ và người giữ cổng nhất định không cho ông vào, lý do vì quần áo của ông mặc là quần áo quá bình thường của một nông dân, lại thêm lấm bùn. Ông cố gắng phân giải vì vội vã kẻo trễ, và ông nói cho họ biết ông là thày giáo dạy con của ông chủ nhà. Tuy thế họ vẫn không chịu để ông vào, lý do vì chủ nhà ra lệnh không tiếp người ăn vận bê bối. Sau cùng ông đành chịu chạy qua một nhà người quen gần bên để muợn đỡ một bộ đồ lịch sự, áo khoác và ca vát, cùng giày bóng đi vào. Ông trở lại. Và lần này người ta niềm nở tiếp đón ông và mời ông ngồi vào bàn tiệc. Khi thức ăn được đưa lên, ông liền lấy các thức ăn bỏ vào túi áo khoác. Ông bôi các món ăn vào quần áo; đổ rượu vô giầy... Và miệng ông luôn nói lớn: “Ăn đi, áo khoác, quần tây và giầy bóng các ngươi hãy ăn và uống cho no thỏa đi.” Tất cả mọi người đều hướng mắt nhìn đổ xô về ông thày giáo có thái độ khùng điên kỳ cục này. Sau cùng cha con của ông chủ nhà đến hỏi: “Thưa thày tại sao thầy lại làm kỳ cục như vậy? Tại sao thày không ăn uống mà lại bảo áo quần ăn uống cho thỏa thích đi?”
Ông trả lời: “Khi tôi đến vì vội vã từ ngoài ruộng về không kịp thay quần áo, các người giữ cổng và con ăn đầy tớ nhà ông đã từ chối không tiếp đón tôi. Họ nói rằng gia đình ông ra lệnh cho họ chỉ đón tiếp người ăn bận lịch sự, và không tiếp người hành khất. Và họ đã nhất định từ chối không cho tôi vào cửa. Tôi chỉ được tiếp đón sau khi chạy đi mượn bộ đồ này mặc vào. Như thế tôi trộm nghĩ, bộ quần áo, chứ không phải tôi được đón tiếp vào bàn tiệc.”
Đạo Đức Là Trở Nên Giống Chúa
Người đạo đức thật sẽ có tâm tình và cách cư xử giống Chúa Kitô. Lời Kinh nguyện phải có sức biến đổi tâm tình và tấm lòng làm cho chúng ta có tâm tình giốùng như tâm tình của thiên Chúa; và như thế mới là đạo đức thật. Tiên tri Isaiah loan báo rằng: “Thiên Chúa sẽ đến và cứu thoát con người. Khi Ngài đến thì mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Người què sẽ nhẩy nhót như nai, và người câm sẽ nói được. Đồng khô, hoang địa sẽ có suối nưóc chảy và có ao hồ tươi mát. Lần rở các trang phúc âm chúng ta thấy Chúa Kitô dạy chúng ta sống đạo cách rất cụ thể, chứ không chỉ có lý thuyết kinh kệ, hoặc thiêng liêng trừu tượng. Bài phúc âm hôm nay là một điển hình cụ thể. Chúa Giêsu đã không khuyên người câm và điếc đó là hãy nhẫn nại chịu khó chấp nhận Thánh Ý Chúa vì sự tàng tật của anh, và phần thưởng của anh sẽ lớn lao trên Thiên Đàng! Ngài cũng chẳng khuyên người câm và điếc đó hãy dâng cái thân phận hẩm hiu đau khổ và xấu số của anh lên Thiên Chúa. Chúng ta thường nghe những lời khuyên này trên môi miệng nhiều người khi đi thăm viếng bệnh nhân hoặc khi chứng kiến những người tật nguyền, nhưng chúng ta không nghe Chúa Giêâsu nói như thế. Chúa cũng chẳng khuyên anh đi đến đền thờ để đọc kinh xin khấn.Trái lại Ngài đã nhìn lên trời và thở dài một tiếng. Ngài đã cảm thông được sự đau khổ của con người. Và ngài đã cố gắng chữa lành và phục hồi lại vẻ đẹp của tạo vật mà Thiên Chúa đã tạo dựng.
Thực Hành Việc Chữa Lành
Chúa Giêsu đã truyền cho tai và miệng người câm điếc đó được mở ra. Tình trạng câm và điếc đó đã ngăn cách anh với những người chung quanh. Chúa Kitô đã muốn giải phóng cho anh ra khỏi tình trạng cô lập đó. Có lẽ chúng ta tự bào chữa vì mình không là bác sỹ, không có quyền năng chữa lành như Chúa Giêsu. Tuy vậy ta vẫn có thể làm, và thực hiện được nhiều cái cho anh chị em mình. Nhất là khi họ gặp sự khốn khó. Chúng ta có thể giải thoát anh chị em chúng ta bằng nhiều cách. Chúa Kitô muốn mỗi người chúng ta biết cảm thông với những người tàn tật, yếu đau, nghèo khổ. Ngài không chỉ muốn chúng ta cầu nguyện cho họ, nhưng Ngài còn muốn chúng ta đưa bàn tay lên để xoa dịu nỗi đau thương của họ. Mở miệng ra nói những lời an ủi dịu ngọt. Móc túi mình ra hoặc trích qũy gia đình để thực sự chia sẻ cho người nghèo khó những khi cần thiết. Có được như thế chúng ta mới thực sự là những con người đạo đức.
68. Quyền năng Thiên Chúa
(Suy niệm của Tu sĩ Đa minh Đỗ Công Tâm)
Kính thưa cộng đoàn. "Không ai là một hòn đảo". Đây là lời của một bài hát và có rất nhiều người tâm đắc, như vậy ý muốn nói đến tình liên đớigiữa con người với con người: liên đới bằng những việc làm giúp ích cho nhau, bằng những nâng đỡ, khích lệ, bằng việc chân thành lắng nghe nhau, bằng việc trao cho nhau ánh mắt ,nụ cười… tất cả những điều này đều diễn tả cùng một ý nghĩa: thể hiện tình thương, cho nên khi một người không còn thể hiện được những việc làm hay không biểu lộ được những tâm tình đó, thì họ cảm thấy như bị loại trừ và mặc cảm không còn được yêu thương nữa.
Các bài đọc hôm nay đã mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã mong đợi từ lâu, Đức Giêsu đã thực hiện điều mà tiên tri Isaia tiên báo Đấng Mesia sẽ làm, tức là cho người điếc nghe được và người câm nói được, và qua đó cũng mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Đức Giêsu.
Kính thưa cộng đoàn.Tình cảnh thật bi đát của người câm điếc trong bài Phúc Âm hôm nay chính là ở điểm đó. Anh ta đau khổ biết bao vì không nói được với ai, cũng chẳng nghe được ai nói với mình. Mối quan hệ với tha nhân và vũ trụ như bị cắt đứt có thể nhìn ở một khía cạnh nào đó anh ta bị loại trừ khỏi kiếp sống làm người, bị loại vào hàng những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu xuất hiện, Ngài hiểu được tâm trạng, ước vọng và thông cảm với anh.Vì chính Ngài là Người đem đến cho nhân loại một Tin Mừng Tình Thương. Vì thế, Ngài đã chữa cho anh khỏi câm điếc. Qủa là vui mừng biết bao cho anh, vì từ nay anh lại có thể sống trên đời với cái nhìn đầy bình đẳng không còn tự ty mặc cảm nữa, bây giờ anh có thể nghe được những lời dậy dỗ ngọt ngào của Đức Giêsu và anh có thể nói được những lời yêu thương trừu mến cho những người khác.
Bị câm điếc thể lý quả là một nỗi đau và mất mát, phải nói rằng , đau hơn và mất mát hơn rất nhiều khi bị câm và điếc về phần hồn. Thế mà nhiều khi chúng ta lại tự biến mình thành kẻ câm điếc mà chẳng hề quan tâm lo lắng.
Câm điếc khi ta ngụp lặn trong tội lỗi,không còn chịu lắng nghe tiếng Chúa đang nói với ta qua các biến cố trong cuộc sống, qua lương tâm, qua các giáo huấn, qua tha nhân…
Câm điếc khi ta không còn sống đời cảm tạ chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa.
Câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá không còn biết rung động trước những đau khổ của tha nhân.
Câm điếc khi mỗi người là một ốc đảo, chỉ biết sống cho mình, hoặc tệ hơn nữa khi coi tha nhân là hoả ngục như cái nhìn của J.P.Sartre. Coi tha nhân là hoả ngục chính là cái nhìn đầy bi quan yếm thế, tự cô lập mình để rồi chẳng còn thể nào nhận ra và thể hiện được tình thương. Hãy biết sống quên mình, vị tha như vậy sẽ tạo được sự bình an và hạnh phúc cho nhau, nhưng trước là chính mình được sự bình an và hạnh phúc đó, như lời của Thánh Phanxicô đã nói: vì chính lúc cho đi là khi được lãnh nhận.
Chỉ lắng nghe bằng tai thôi thì chưa đủ mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải những thông tin nào cũng nên nghe, cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng, không gây phương hại làm vẩn đục cho tâm hồn. Cha Mark Link có nói: " Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai mà còn tin vào những gì nghe bằng con tim của mình". Vì khi biết lắng nghe là phá đổ được bức tường thành kiến trong tâm trí và tháo cởi được sợi dây trói buộc trong con tim cứng cỏi.Như thế mới nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em và tiếng mời gọi của Lời Chúa.
Chuyện kể rằng: Có một vị ẩn sĩ sống trong rừng luôn bị một cô gái lố lăng đến cám dỗ. Có lần người con gái nói với vị ẩn sĩ:
- Thầy không biết yêu ư ? (ý của cô gái này là vừa ngạc nhiên trước sự thanh thản của ẩn sĩ và đồng thời nghi ngờ chế nhạo sự bất bình thường của một người đàn ông !)
- Giờ chưa đến ! vị ẩn sĩ trả lời.
Lần nọ, trong lúc đi khất thực, vị ẩn sĩ phát hiện người con gái hay đến quấy nhiễu mình đã bị cướp và bị đánh đập nằm dở sống dở chết bên dọc đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cho cô ta, cuối cùng vị ẩn sĩ bế cô ta về thành phố điều trị. Lúc đó vị ẩn sĩ mới nói với cô gái:
- Bây giờ đã đến giờ, giờ của lòng thương xót !
Vâng, vị ẩn sĩ này đã lắng nghe bằng cả con tim và nói với cả tấm lòng cao thượng qua việc làm đầy yêu thương và bác ái.
Qua bài Tin Mừng, Chúa muốn gởi đến chúng ta sứ điệp: Hãy luôn sống đời sống hiệp thông, vì tất cả là hồng ân, hiệp thông với Chúa,hiệp thông với tha nhân …. Tôi đã nhận lãnh bằng tình thương thì tôi cũng phải cho đi bằng tình thương. Mỗi người Kitô hữu chúng ta phải là chứng tá của Tin Mừng Tình Thương theo gương mẫu của Đức Kitô. Tin Mừng Tình Thương ấy phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể đượm tình bác ái yêu thương.
Chúng ta cũng cầu xin Chúa chữa lành bệnh câm điếc nơi tâm hồn chúng ta, và nhất là biết lắng nghe bằng cả con tim, để rồi biết nói lên bằng những việc làm hữu ích. Lạy Chúa, xin cho tim chúng con cũng được hoà nhịp cùng trái tim Chúa và cả cuộc đời chúng con trong tay Chúa, để chúng ta trở thành những khí cụ và được sống trong tình hiệp nhất của tình thương Chúa.
69. Hãy mở ra! – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An.
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Cách đây mấy năm tôi có dâng lễ cưới cho một đôi câm điếc. Hôm ấy bà con giáo dân và lương dân đi dự lễ đông lắm, ai cũng muốn xem đôi tân hôn câm điếc cử hành bí tích hôn phối như thế nào. Mọi người cười ngất khi chủ tế luống cuống và cô dâu chú rễ tự nhiên làm cử điệu của nghi thức hôn phối. Mặc dù trước đó tôi đã nhờ cô giáo trường Khiếm thính giúp dạy giáo lý cho hai anh chị và hướng dẫn những cử điệu cho nghi thức. Một thánh lễ hôn phối nhiều dấu ấn khó phai.
Câm và điếc đi đôi với nhau như cặp song sinh. Câm là do hậu quả của chứng điếc sớm. Người ta hay nói ngược là câm điếc, nhưng thực ra khoa học giải thích là vì điếc nên mới câm.Trẻ con ngay từ khi sinh ra đã bị điếc, do đó không tiếp nhận được các tín hiệu âm thanh nên không biết nói và bị câm.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ. Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng, nghe và nói là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
1. Hãy mở ra
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa chữa lành đôi tai và cái lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để người điếc có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để người câm có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày con người dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả suy nghĩ, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, không có gì để cho, chẳng có gì để nhận. Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Người bình thường luôn có đôi tai thính, đôi mắt sáng, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng “nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
2. Người câm điếc được làm Linh mục
Chúa Giêsu đã chữa lành cho người khuyết tật. Giáo Hội đã trao ban tác vụ Linh mục cho những người câm điếc. Những mục tử ấy thực thi sứ vụ loan truyền Tin mừng tình thương cho những người bất hạnh. Giáo Hội thật tuyệt vời!
Vào ngày 6.7.2007, Đức Hồng y Cheong Jin-Suk cai quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập tu đức. Đó là cha Benedict Park Min-seo, vị LM câm điếc đầu tiên tại Á Châu. Cha Park, sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc còn trẻ Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định đi làm nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được cha Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại chủng viện nên cậu Park được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994 câu Park được vào đại học Gallaudet để học triết và toán học. Tại đây cậu Park lại được gặp cha Thomas Coughlin, một linh mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ. Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu Park. Sau khi học ở đại học Gallaudet, cậu Park được vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở New York và sau đó theo học tại viện đại học thánh Gioan. Tại đây vào năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và tiếp tục theo học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.
Khi cử hành thánh lễ mở tay, cha Park nói bằng ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc: “Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm Linh Mục. Là linh mục tàn tật đầu tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất nhiều, ngay cả trước khi chịu chức, nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi là một Linh Mục thường, xin mọi người cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn và là một linh mục đích thực ”Linh Mục Michael Cheong Soon-o tuyên bố, “Việc phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy lòng yêu thương của Chúa đối với người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật." (Vietcatholic 22.7.2007).
Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bị câm điếc.Các tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các giáo dân câm điếc. Trong thánh lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy”. (Vietcatholic 25.5.2009).
3. Cầu nguyện
Người đời thường hay đổ thừa mọi điều là do "cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Nhưng cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện xấu xa nếu nó được hỗ trợ của cái tai không biết phân biệt tốt xấu, thật giả.Thánh Giacôbê viết: "Lưỡi là một chi thể nhỏ bé, mà khoe khoang được những việc lớn lao. Thử xem một khu rừng lớn, một ngọn lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy được. Lưỡi cũng là ngọn lửa nơi chứa chấp gian ác. Lưỡi thuộc chi thể của chúng ta, nó có thể làm dơ nhớp thân xác chúng ta, đốt cháy cả cuộc đời chúng ta, mà chính nó lại bị địa ngục hun cháy".
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự thánh lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe bài Phúc Âm, con đọc: "Lạy Chúa vinh danh Chúa", và làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con, để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm. Amen.
70. Hãy mở ra! – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An.
Trang nhất tờ Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai, 13 tháng 8 năm 2012 có bài: “Cởi trói cho dân”.
Tác giả dùng chữ “Cởi trói” để nói về quyết định trả lại hàng ngàn hecta đất cho nông dân. Đã có một vài tỉnh thi hành quyết định này. Hàng ngàn hộ dân vui mừng và biết chắc mình sẽ thoát nghèo, thoát đói, vì từ nay có ruộng đất để cày cấy. Chuyện chỉ đơn giản như vậy nhưng người dân đã phải chịu bị “trói” hàng mấy chục năm qua.
Ông Lê Minh Hiệp (ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, Long An) là một trong hàng ngàn hộ vừa được tỉnh trả đất trồng lúa. Ông nói 10 năm bị “treo” đất, cuộc sống gia đình ông như bị trói chân trói tay. Sáng 12.8, gặp vợ chồng ông Hiệp đang tất bật làm đất chuẩn bị gieo sạ vụ ba, ông bảo đến bây giờ mới an tâm đầu tư sản xuất lúa để năng suất cao hơn, tích lũy mua thêm ruộng. (x. “Tôi như người được cởi trói, thoải mái lắm”, tuoitre.vn, ngày 13.8.2012). Hy vọng người dân Việt Nam còn được “cởi trói” nhiều thứ khác nữa.
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện, Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa “cởi trói” cho tai và lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để anh ta có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với mọi người. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đó chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Hãy mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em. Đừng “Nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”.
Hãy mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa,lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc.
Hãy mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
Mỗi khi tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện một cử chỉ rất quen thuộc. Sau khi nghe bài Phúc Âm, chúng ta đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa”, và làm Dấu Thánh Giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đó như là lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng lưỡi con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa.
Mỗi lần làm Dấu Thánh Giá nhân Danh Ba Ngôi Thiên Chúa, xin Chúa cho chúng con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con, xin cho chúng con giống Chúa trong lời nói và việc làm.
Xin cho cuộc sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa lòng đời hôm nay. Amen.
71. Hãy để Chúa chạm đến ta - Lm. Vũ Xuân Hạnh
Mới ngày nào người bạn trẻ ấy đã từng là một cậu giúp lễ, đến chào tôi và báo tin, em đã đậu đại học mỹ thuật… Thấm thoát em đã ra trường. Lần này đến thăm tôi, cùng với việc báo tin mình đã tốt nghiệp, em còn tặng tôi một bức tranh. “Thưa cha, con đã vẽ nhiều tranh. Nhưng đây là bức tranh con ưng ý nhất từ trước tới nay, con tặng cha”, em nói như thế trong khi chìa bức tranh cho tôi. Nhìn bức tranh của em, tôi chẳng hiểu gì hết. Thú thật, đối với em, bức tranh là kiệt tác của chính mình, là vẻ đẹp, là ngôn ngữ nội tâm của chính em, nhưng tôi chẳng thấy gì cả, chẳng mường tượng được chút nào. Tôi chỉ hiểu phần nào khi được em giải thích mà thôi. Dù cám ơn em vì em yêu quý tôi, vì tấm lòng em dành cho tôi, nhưng tôi thấy trước thế giới nghệ thuật mà em đang theo đuổi, tôi là một kẻ vừa câm, vừa điếc.
Nói đến câm và điếc, thói thường, người ta vẫn hiểu đó là tình trạng tật nguyền của lưỡi và tai: lưỡi không thể nói và tai không thể nghe. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được và cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu anh chị em bị tật ấy. Bởi thế, điều mà anh chị em cần nơi những người lành mạnh là thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương. Hôm nay, Tin Mừng thánh Marcô cho biết, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc. Dù hành động chữa lành này mang nhiều ý nghĩa, thì bên cạnh những ý nghĩa đó, người ta không thể không nói tới lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Dù vậy, bạn có bao giờ nghĩ rằng, sự điếc câm thể lý của một ai đó chưa phải là vấn đề cần nhất để ta phải ưu tiên đề cập đến? Đúng là bất hạnh nào cũng đáng thương, nhưng nếu chỉ dừng lại để nói đến sự điếc câm thể lý thì thật là thiếu sót. Chúa Giêsu, một khi chữa lành người bị tật, Người đâu chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà thôi. Điều quan trọng ẩn trong những phép lạ, đó là Chúa Giêsu chứng tỏ mình là Đấng thiên sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử dụng: “mở ra”, “hết buộc lại”, cho thấy Chúa Giêsu không chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng còn có quyền cầm buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại….
Nhìn bức tranh tôi không hiểu gì hết trong câu chuyện bên trên, làm cho tôi chợt nhận ra, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình thường, thì câm điếc không dừng lại ở thể lý, mà còn là nỗi câm và điếc thuộc thế giới tinh thần. Chắc bạn đồng ý với tôi, sống giữa cuộc đời này, không chỉ là nghệ thuật hay mỹ thuật, bạn và tôi còn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực: là một linh mục, chưa bao giờ tham dự một lớp y khoa nào, làm sao tôi có thể chẩn đoán bệnh. Cũng thế, một bác sĩ dù giỏi đến đâu, vẫn không bao giờ làm được những việc hay sống những điều thuộc về thế giới của linh mục… Mỗi người có những chọn lựa cho riêng mình. Chọn lựa để phục vụ con người trong lãnh vực nào, người ta chỉ có thể từng trải trong lãnh vực của mình mà thôi. Chuyện câm và điếc ấy cũng bình thường đấy thôi.
Nhưng không phải mọi nỗi câm điếc thuộc thế giới tinh thần đều trở nên bình thường. Có những nỗi câm và điếc đáng tội. Càng tệ hại hơn khi chính ta bịt tai, ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của một người không bao giờ biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Đối với họ, giáo lý là chuyện xa vời, thực hành nhân đức là điều vô ích, đời sống đạo đức là không cần thiết, Thiên Chúa là viễn vong, chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm mới xác thực. Đó là nỗi câm điếc của một người không bao giờ biết đến anh em đồng loại, ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân. Đó là nỗi câm điếc của một người làm mọi cách để tiến thân trong cuộc đời, miên mang trong sự ham hố tiền của, và danh vọng. Đó là những lời cay nghiệt phun ra để chửi bới, nguyền rủa anh chị em mình. Đó cũng là tình trạng của ai ham hố dục vọng thấp hèn và để mình chìm trong sự khát khao bất chính, nếu không muốn nói là tội lỗi. Vì thế, nỗi câm điếc chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm, cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối ta hướng về linh thánh, hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội là nguồn của ta, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban cho ta. Nguy hiểm vì lòng ta thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh hồn ta nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh: cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng…
Quả là nguy hiểm không cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần bạn và tôi mềm lòng chứ đừng cứng cỏi, ta sẽ dễ nhận ra con người thật của mình: biết bao nhiêu gai gốc cần gọt giũa; biết bao nhiêu thói xấu cần chữa trị; biết bao nhiêu đam mê hạ cấp, tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ đến với Chúa để Chúa chạm đến bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta. Người bị câm điếc trong bài Tin Mừng đã không làm gì khác hơn là để Chúa chạm đến mình, nhờ đó anh được thoát khỏi tình trạng câm điếc. Cũng vậy, ta hãy đến với Chúa, hãy thực tâm tôn thờ Chúa, hãy chăm lo cho đời sống cầu nguyện của mình, hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình… Chắc chắn khi ta đến với Chúa bằng một tấm lòng thành của người con yêu mến Cha như thế, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Người sẽ biến đổi ta, và ta sẽ sớm lành mạnh. Lịch sử Giáo Hội đã chẳng để lại biết bao nhiêu tấm gương của nhiều vị thánh thoát khỏi tình trạng câm điếc, đui mù và trở thành thánh nhân nhờ để Chúa chạm vào cuộc đời, chạm vào linh hồn mình đó sao. Đó là tấm gương cao đẹp của thánh Augustinô; của thánh Phanxicô Asisi; của cha Charles de Foucauld…
Bạn và tôi hãy nhớ một điều rất chắn chắn: Chỉ sợ mình bất trung với Chúa, chứ không bao giờ sợ Chúa bỏ ta.
72. Suy niệm của Lm. Đan Vinh.
ÉP-PHA-THA: XIN MỞ TAI MỞ MIỆNG VÀ MỞ LÒNG TRÍ CON
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Người đã chữa bệnh câm điếc cho anh như sau: đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói “Ép-pha-tha!”-“Hãy mở ra!”
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: “Ep-pha-tha: hãy mở ra” (Mc 7,34).
Duy chỉ có Tin Mừng Máccô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người bị câm điếc. Người thực hiện phép lạ chữa bệnh này tại miền Thập Tỉnh, là nơi hầu hết cư dân là dân ngoại. Người đã chữa bệnh câm điếc này bằng các cữ chỉ như sau: đặt ngón tay vào tay anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói: “Ep-pha-ta!: “Hãy mở ra!”. Lập tức bệnh nhân được chữa lành: tai anh ta đã mở ra để nghe được và lưỡi anh ta đã được tháo cởi sợi dây ràng buộc để nói được rõ ràng.
2) Chú thích:
- Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh (Mc 7,31-32):
- Bỏ vùng Tia: Tia là một thành thuộc nước Phê-ni-xi-a, phía Bắc nước Do thái, đã có bang giao với nước Do thái ngay từ thời vua Đa-vít và Sa-lo-mon (x. 1 V 9,11-12). Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, một số người từ vùng Tia cũng đã tìm đến gặp Người (x. Mc 3,8).
- Qua ngả Xi-đon: Thành Xi-đon nằm bên bờ Địa Trung Hải giữa Tia và Bây-rút. Thời xưa thành này là thủ đô của dân Xi-đon và đã bị các ngôn sứ lên án (x. Ed 32,30). Thời Tân Ước, Đức Giêsu tỏ ra khoan dung với các thành thuộc dân ngoại này (x. Mt 11,21-22).
- Đến biển hồ Galilê: Còn được gọi là Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-át. Đây là biển hồ hình quả trám, có chiều dài 21 cây số và chiều ngang 12 cây số, mực nước thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải, và có chỗ sâu tới 40 mét. Biển hồ này thường có nhiều sóng to gió lớn, và có khá nhiều cá.
- Vào miền Thập Tỉnh (gọi là Đê-ca-bô-lơ): Là vùng đất phía Đông biển hồ Galilê, gồm mười thành chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp. Đó là các thành; Sy-thô-pô-li, Pen-la, Ga-da-ra, Đi-on, Híp-pô, Phi-la-đen-phi-a, Ghê-ra-sa, Ka-na-tha, Đa-mát và A-bi-la. Tin mừng Nhất Lãm thường hay nhắc tới miền Thập Tỉnh này (x. Mt 4,25; Mc 1,28; 5,20).
- Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng: Hai thứ bệnh câm và điếc thường đi đôi với nhau. Chính vì điếc không nghe được âm thanh hay lời nói, nên bệnh nhân bị câm không thể nói được, chỉ phát ra một thứ âm thanh vô nghĩa. Người câm điếc thường bị thiệt thòi vì không có khả năng giao tiếp với tha nhân.
- Xin Người đặt tay trên anh: Xin đặt tay là xin chúc lành theo phong tục Do thái (x. St 48,14-15). Đây cũng là cử chỉ Đức Giêsu thường làm như: đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa bệnh (x. Mc 6,5; 8,25).
- Người kéo riêng anh ta ra giữa đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “ Ep-pha-ta”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7, 33-35):
- Kéo riêng ra khỏi đám đông: Cũng như khi chữa con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,37), hoặc khi chữa một người mù thành Bét-sai-đa (x. Mc 8,23). Ở đây, Người tách riêng kẻ bị căm điếc ra khỏi đám đông. Điều này chứng tỏ sự tế nhị và cảm thông đối với sự ngượng ngùng của bệnh nhân, khi anh ta phải ra đứng trước đám đông đang muốn nhìn xem Đức Giêsu chữa bệnh. Đàng khác, việc can thiệp của Thiên Chúa được thực hiện cách kín đáo như Samuen được Đức Chúa sai đến nhà ông Gie-sê ở Bêlem để bí mật xức dầu phong một người con ông này làm vua, thay thế vua Sa-un (x. 1 Sm 16,1-13); Ông Giê-hu cũng được xức dầu phong vương cách kín đáo như vậy (x.2 v 9,2-6).
- Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng bôi vào lưỡi anh… Đức Giêsu làm hai động tác để chữa bệnh: Một là “đặt ngón tay vào tai và lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh” (c.33); Hai là “ngước mắt lên trời” cầu nguyện, rên một tiếng (thở dài) và nói; “Ep-pha-tha” nghĩa là “Hãy mở ra!” (c.34). Hai động tác này lập tức phát sinh công hiệu là làm cho tai người điếc mở ra để nghe được, lưỡi bệnh nhân được tháo cởi và nói được rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành người câm điếc, cũng như chữa người mù (x. Mc 8,22-26), Máccô muốn chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai. Vì Người đã thực hiện dấu chỉ của thời Thiên Sai đã được I-sai-a tiên báo như sau: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6).
- Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7,36-37):
- Không được kể chuyện đó với ai cả…: Khi chữa người câm điếc (x. Mc 7,36), chữa người phong cùi (x. Mc 1,44), phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,43), chữa lành người mù thành Bết-xai-đa (x. Mc 8,26)…Đức Giêsu đều truyền cho họ phải giữ im lặng. Sở dĩ thế là vì đây là “Bí mật Thiên Sai”. Người muốn tránh cho dân Do thái khỏi hiểu lầm về sứ mệnh Thiên sai của Người. Sứ mệnh được Chúa Cha trao phó là lập một Nước Trời thiêng liêng và vĩnh cửu, đang khi dân chúng lại khao khát mong chờ một Đấng Thiên Sai theo kiểu trần tục, để lãnh đạo dân nổi loạn chống lại đế quốc La-mã, đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Để thi hành sứ mệnh Thiên sai về thiêng liêng đúng theo Thánh ý Thiên Chúa, Đức Giêsu cần phải có thời gian để rao giảng cho dân Do thái hiểu rõ về vai trò và sứ mệnh của Người. Do đó, khi làm các phép lạ cứu nhân độ thế, Người không muốn có sự ồn ào dễ trở thành động cơ ảnh hưởng trên phong trào Thiên Sai quá khích, làm cớ cho quân Rôma kéo đến đàn áp giết hại, như đã từng xảy ra trước đó.
- Nhưng họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”: Những người được Đức Giêsu chữa lành đã không giữ kín về những ơn mà họ đã nhận được. Họ thật sự thán phục trước những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã làm. Việc chữa bệnh này giống như sự tái tạo một con người mới, con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi … tương tự việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật thuở ban đầu đã được Sách Thánh tường thuật như sau: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,14):
Câu chuyện: Phá đổ bức tường Bá-linh
Ngày 13.8.1961, một bức tường cao 8 mét, dài 700 cây số đã được cấp tốc xây dựng để làm biên giới, phân chia nước Đức làm hai quốc gia đối nghịch với nhau là Đông Đức và Tây Đức. Bức tường này được gọi là bức tường Bá-linh (Berlin). Từ đây, nhiều gia đình bị phân ly, nhiều ngôi nhà bị chia cắt làm đôi, và tiếp theo đó là sự hình thành một bức tường tâm lý, mang tính thù hận và chia rẽ ngăn cách nhau.
Mãi đến ngày 13.11.1989, sau thời gian tồn tại 28 năm, bức tường Bá-linh này mới bị phá huỷ. Từ đây các gia đình đang phân tán lại được đoàn tụ, dân tộc và đất nước lại tái thống nhất. Thế giới chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và hai nước Đông và Tây Đức đang thù nghịch nhau lại trở thành đồng minh với nhau, cùng nhau hợp tác xây dựng hoà bình, đưa đất nước này ngày một thăng tiến về mọi mặt
Suy niệm:
+ Phá đổ bức tường câm điếc: Bệnh câm điếc cũng chính là bức tường vô hình ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Vì điếc nên không thể nghe, không thể hiểu và không thể cảm thông với tha nhân. Vì câm nên không thể nói, không thể diễn tả tâm tư nguyện vọng của mình cho người khác hiểu. Vì không hiểu người khác và không được người khác hiểu, thông cảm nên dễ sinh ra hiểu lầm và ngày càng xa cách người khác. Đức Giêsu đã tỏ ra cảm thông với hoàn cảnh của người câm điếc. Người ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách là bệnh câm điếc này cho bệnh nhân, khiến anh ta lại có thể nghe được, nói được và cảm thông được với người khác, và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe và hiểu biết thông cảm với anh.
+ Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và chư dân: Các đầu mục Do Thái đã xây dựng một bức tường lề luật phức tạp về sự tinh sạch và nhơ uế. Bao nhiêu thứ lề luật nhỏ mọn về việc rửa tay, tắm rửa, những quy định bề ngoài về đồ ăn thức uống làm người ăn trở nên nhơ uế … làm cho người Do Thái không còn dễ dàng tiếp xúc với chư dân. Những tập tục, quy định này là bức tường ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa, làm cho ơn ấy không thể đến được với dân lâng bang. Đức Giêsu đã trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số, băng qua các thành phố làng mạc của chư dân, để rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, đế phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và dân ngoại, để Tin Mừng nước Thiên Chúa được đến với muôn dân
+ Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa: Trong vườn địa đàng xưa, ma quỷ đã cám dỗ nguyên tổ Ađam Eva phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, và loài người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, phải vào trần gian là nơi đầy đau khổ chia rẽ thù hận, và đầy gai chông nước mắt. Chính ma quỷ đã xây dựng bức tường tội lỗi chia lìa loài người với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã được Chúa Cha sai đến để phá bỏ bức tường ngăn cách bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Người đã chiến thắng ma quỷ và thần chết nhờ quyền năng Thánh Thần. Người đã chịu chết vì loài người chúng ta và ban ơn cứu độ cho những ai tin vào Danh Người. Ai tin thì sẽ được cứu độ, nghĩa là được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, và được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Quyết tâm: Hiện giờ tôi có bị ngăn cách với ai bằng bức tường thù hận, thiếu sự cảm thông hay không? Tôi quyết tâm sẽ làm gì để phá bỏ bức tường ngăn cách ấy, để có thể sống vui tươi, cảm thông và hoà hợp với mọi người?
2) Epphatha: “Hãy mở ra” (Mc 7,34):
Câu chuyện: Ông già uyên bác:
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hoá của ông mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa triết lý và thần học … Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng này ngày càng đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để hỏi ý kiến của ông về các thắc mắc và các vấn đề liên quan đến cuộc sống. Họ đã được ông cụ tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học đã đến thăm ông. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư đã hỏi ông cụ nguyên nhân nào khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy. Đồng thời xin ông giới thiệu một cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ, ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi không có thời giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học…Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn thứ hai là những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban cho các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa trong Thánh kinh, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành trong đời sống hằng ngày. Mỗi lần dự lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế hôm ấy.”
Suy niệm:
+ Đúng như ông cụ trong câu chuyện trên đã nói: Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những việc kỳ diệu ấy. Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do chúng ta đã không chịu mở mắt để nhìn xem, không chịu mở tai ra để lắng nghe, không chịu mở lòng để đón nhận, không chịu mở trí ra để suy nghĩ tìm hiểu Thánh Ý Thiên Chúa…
+ Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng (câm) vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Nhiều người đã mất đi sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay bị câm nín, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác châm chọc, khinh thường và từ chốu giúp đỡ…cũng có những sự đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói lên sự thật theo đúng suy nghĩ trung thực của mình. “Ep-pha-ta”, xin Chúa mở miệng chúng ta ra, để ta có thể làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ vì tai nạn rủi ro, bị ngược đãi cách bất công, và đang gặp những điều trái ý cực lòng…
+ Người điếc hoặc bị lãng tai là người mất khả năng nghe được lời nói của kẻ khác. Lắng nghe lời người khác là một điều quan trọng trong quan hệ giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe, hoặc nghe người khác nói nhưng lại hiểu theo ý mình, thay vì phải hiểu theo ý của người nói. Chính vì thế mà có những sự hiểu lầm và tranh cãi mất đoàn kết. Nghe bằng tai chưa đủ, mà còn phải nghe bằng trái tim nữa. Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng bên trong lớp vỏ ngôn từ. “Ep-pha-tha”, xin Chúa hãy mở đôi tai chúng ta, để có thể lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những đau khổ của tha nhân và kịp thời đáp ứng nhu cầu của họ.
+ Thế giới hôm nay đang thiếu sự cảm thông và đối thoại, vì có quá nhiều người bị câm và điếc tinh thần. Bệnh này biến người ta trở thành những hòn đảo cô độc giữa lòng đại dương bao la. Bệnh này cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, khép kín và sơ cứng…:Chẳng có gì để cho ai và cũng không nhận của ai cái gì. Cuối cùng người ta sẽ chết trong sự nghèo nàn tình thương của mình. “Ep-pha-tha”, xin Chúa mở tai mở miệng và mở lòng chúng ta, để ta có thể giao lưu với Thiên Chúa và với tha nhân; để chúng ta được ơn Chúa biến đổi trở nên con người mới đầy ấp tình người. Nhờ đó chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội ta đang sống, trở nên Thiên Đàng chan hòa tình thương, đúng như lòng Chúa mong muốn.
Quyết tâm: Trong những ngày này, tôi quyết tâm sẽ “đi bước trước” đến với tha nhân, nhất là đến với những người cô độc bất hạnh, bằng việc nở một nụ cười thân thiện với họ, bằng những cái bắt tay thân ái. Tôi sẽ năng cầu xin Chúa “Ep-pha-tha”, để xin Chúa mở rộng trái tim, mở rộng lòng trí để nghe những Lời Chúa phán dạy, để lắng nghe những tâm sự của tha nhân đang gặp khó khăn đau khổ, và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng của mình.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. “Ep-pha-tha!”, Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở nên tay chân của những kẻ tàn tật, trở thành đôi mắt cho những kẻ đui mù. Để con nên tai nghe cho những ai bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho những kẻ ngọng câm. Để con trở nên tiếng kêu cho những người bị áp bức. Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái trong đời sống thường ngày: Sẳn sàng chia sẻ cơm bánh cho những kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho những người đau ốm, mang áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem sự che chở cho những kẻ không nhà. Nhất là để con đem tình thương khoan dung tha thứ của Chúa, để làm hòa với những kẻ đang thù ghét làm hại con.
Lạy Chúa Giêsu. Ep-pha-tha! Xin giúp con biết mở rộng trái tim, để thực thi giới răn yêu thương của Chúa: Để con chiếu sáng dẫn đường cho những kẻ đang lạc lối lầm đường, để đốt lửa tin yêu nơi những tâm hồn băng giá, để cảm thông với nỗi khổ đau của những người bất hạnh, để bảo vệ phẩm giá cho những ai đang bị khinh dể chà đạp; để đem lại niềm vui và hy vọng cho những người đang buồn bã thất vọng.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, qua bài Tin Mừng hôm nay, con hiểu rằng: người bệnh câm điếc chắc chắn sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với tha nhân: Họ chỉ có thể nói và nghe được bằng các dấu hiệu của bàn tay. Đang khi chúng con, tuy vẫn có khả năng nghe và nói, nhưng lại mắc bệnh câm điếc tinh thần: Đối với Chúa, con chán ngại và không muốn nghe những Lời Chúa nói, và cũng chẳng biết thưa chuyện thế nào với Chúa. Con luôn bị tiền bạc, danh vọng, đam mê và các thú vui khác cám dỗ và chi phối, nên con chẳng dành riêng ra thì giờ để tiếp xúc, chẳng mấy khi con nghĩ đến Chúa. Con chẳng tỏ ra thiết tha với bổn phận phải cầu nguyện và dự lễ đọc kinh. Còn đối với tha nhân, nhiều khi con hóa thành người câm điếc khi con quá ích kỷ, bịt tai ngậm miệng và khép kín cửa lòng, trong khi biết bao người đang cần đến con: cần một nụ cười cảm thông chia sẻ, cần một lời động viên an ủi chân tình, cần một sự trợ giúp cấp thời để giúp họ vượt qua khó khăn trở ngại trên đường đời.
Lạy Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa giúp con được khỏi bệnh câm điếc tinh thần. Xin hãy mở tai con để nghe những Lời dạy của Chúa và lắng nghe những tiếng kêu cứu, những lời tâm sự của anh chị em con. Xin cho con biết noi gương Đức Giêsu người con yêu của Mẹ: Luôn chạnh lòng xót thương, biết quảng đại để chia sẻ cả về tinh thần cũng như vật chất cho những ai đang gặp đau khổ bất hạnh. Xin Mẹ giúp con biết “lặng thinh trước những điều không nên nói, và mạnh dạn lên tiếng trước những điều không được im lặng!”
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
73. Suy niệm của Lm. Đan Vinh
MỞ TAI ĐÓN NGHE LỜI CHÚA ĐỂ MỞ LÒNG CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG
1. LỜI CHÚA: Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: "Hãy mỡ ra!" Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7,34).
2. CÂU CHUYỆN: Kiến thức uyên bác do đâu?
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học... Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về các vấn đề cuộc sống. Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ nguyên nhân khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ đã trả lời như sau: "Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học... Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn sách thứ hai là những việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành hằng ngày. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế".
3. SUY NIỆM:
+ Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta: Đúng như ông lão có kiến thức uyên bác trong câu chuyện trên đã nói: "Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều kỳ diệu ấy". Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do đã không biết mở mắt để nhìn xem, mở tai để lắng nghe, mở lòng để đón nhận, mở trí khôn để khám phá và thi hành theo thánh ý Chúa.
"Ép-pha-ta": Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng, mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình người với tha nhân.
+ Xin Chúa mở miệng lưỡi chúng ta: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã chữa một người vừa ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi không thể diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, giống như bị một sợi dây vô hình trói buộc miệng lưỡi, làm cho họ không nói ra được điều muốn nói. Nhiều người thiếu sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay đành nín thinh, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác miệt thị khinh thường... Ngòai ra còn có những mối đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói ra suy nghĩ trung thực của mình.
"Ép-pha-tha": Xin Chúa mở miệng chúng con, để sẵn sàng làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ do tai nạn, do bị ngược đãi bất công, hay phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.
+ Xin Chúa mở đôi tai chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai do không nghe được những lời kẻ khác. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ lắng nghe điều mình muốn nghe, hoặc dù có nghe người khác nói nhưng lại chỉ hiểu theo ý rịêng chủ quan của mình. Vì thế gây ra hiểu lầm tranh cãi mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim. Chỉ khi biết nghe bằng trái tim yêu thương, chúng ta mới hiểu đúng và hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng trong lớp vỏ ngôn từ bên ngoài.
"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con để lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những nỗi đau của tha nhân và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng cùa mình.
+ Xin Chúa mở lòng trí chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu cảm thông và đối thoại, vì quá nhiều người đang bị câm điếc tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo giữa đại dương nhân lọai bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, sống khép kín vì tâm hồn hóa thành sơ cứng khi không trao tặng cho ai cái gì và cũng không muốn đón nhận của ai điều gì. Cuối cùng con người sẽ chết trong nghèo nàn về hiểu biết và tình thương.
"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở tai mở miệng và mở lòng, để chúng con dễ dàng giao lưu với Chúa và với tha nhân, để được biến đổi nên người mới sống có tình người hơn. Nhờ đó, chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội trở nên thiên đàng tình thương đúng theo ý Chúa muốn.
4. THẢO LUẬN: 1)Mỗi tín hữu chúng ta có thể phá bỏ bức tường ngăn cách giữa mình với tha nhân bằng những việc làm cụ thể nào? 2)Tuần này bạn sẽ làm gì để mở lòng đón nghe Lời Chúa, khám phá ra ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng? Bạn phài mở rộng trái tim như thế nào để nghe được những tâm tư của kẻ bất hạnh và sẵn sàng đáp úng nhu cầu của họ? Bạn sẽ làm gì để những anh em lương dân mở lòng đón nhận niềm vui ơn cứu độ?
5. CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu. "Ép-pha-tha!", Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở thành tay chân cho người tàn tật, trở thành đôi mắt cho kẻ đui mù. Để con biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho nhưng kẻ ngọng câm. Để con trở thành tiếng kêu cho những ai bị áp bức... Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn sàng mở hầu bao chia sẻ cơm bánh vật chất cho kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho người ốm đau, chia sẻ áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem lại chỗ trú thân cho những kẻ không nhà... Nhất là để con chia sẻ tình thương bao dung của Chúa để tha thứ hòa giải với những kẻ đang thù ghét và làm hại con.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
74. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng.
DÙNG MIỆNG LƯỠI ĐỂ CA TỤNG
VÀ LÀM VINH DANH CHÚA
Thường người ta không đánh giá được sự vật mà họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Nếu ta đặt mình vào địa vị người câm và điếc trong phúc âm hôm nay, ta mới đánh giá được cơ quan tai và lưỡi. Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên cái lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe, và nghe người khác nói. Người điếc trong Phúc âm hôm nay phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Chúa chữa anh ta. Phúc âm ghi lại ‘Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người rên một tiếng và bảo: Ephrata, nghĩa là “hãy mở ra”. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7: 33-34).
Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt in tức, thông đạt sự thật và sự thiện hảo. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để khuyến khích người khác nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Đấng tạo dựng đôi tai. Có bao giờ khi xưng tội, ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt không?
Hơn nữa miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để thông đạt lời Chúa. Khi lãnh phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay:Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa, và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Phúc âm. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nhưng chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Ta biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn lắng nghe với cả tâm hồn. Tai ta có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe tiếng Chúa.
Tóm lại mục đích của việc tạo dựng giác quan là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Chúa. Chúa cho ta cái tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngợi khen Chúa. Đó chính là việc người câm điếc đã làm sau khi được Chúa chữa khỏi: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được (Mc 7: 37).
Hôm nay ta hãy cầu xin Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh, trong bài giảng. Nghe lời Chúa rồi ta cần đáp trả bằng cách tuyên xưng lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đạo hạnh. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Trong một buổi học hỏi Thánh kinh, ông cha hỏi:
* Sao Chúa nhật rồi bài Phúc âm nói về gì vậy?
Mọi người thinh lặng: người thì bóp trán, người thì gãi tai, người khác gãi đầu. Cuối cùng có một ông giơ tay phát biểu.
- Dạ thưa cha con nhớ rồi.
- Ông nhớ sao?
- Dạ thưa cha, con nhớ cha đọc: Đó là lời Chúa.
75. Bệnh tật làm tê liệt khả năng hoạt động!
(Suy niệm của Lm. Hà Ngọc Đoài)
Suy Niệm: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mk 7:37) Xã hội loài người có những tương quan ảnh hưởng đến nhau, đời trước liên hệ đến đời sau. Nếu cha mẹ làm điều thiện, thì con cháu được hưởng phúc. Nếu người thân gây điều ác, thì gây hậu quả xấu cho mình và gia tộc. Văn hóa Việt Nam có nhiều châm ngôn dạy cách sống ở đời. Chẳng hạn: “Mẹ hiền để đức cho con.” Nếu trong gia đình ai sống thất đức thì cũng gieo họa cho con cháu: “đời cha ăn mặn, thì đời con sẽ khát nước”. “Một người làm nên, thì cả họ được cậy. Một người làm bậy, thì cả họ mất nhờ!” Văn học tây phương cũng có câu: “Cha ăn chua, thì con bị ê răng!” Có chuyện kể một người mẹ hiền giáo dục con. Ngày kia bà đem con đi phố mua hàng cùng mấy người hàng xóm. Họ để con tụ họp và chơi đùa với nhau. Sau khi mua đủ những thứ cần dùng, các bà ra tìm con. Thấy chúng đang trêu ghẹo một người tàn tật ngồi ăn xin ở góc phố. Có một số bà cười và khen con mình có khiếu khôi hài! Còn bà mẹ này thì nghiêm nghị, đến gọi con ra về. Khi tới nhà, bà nhỏ nhẹ giải thích cho con biết thông cảm những bất hạnh của kẻ tàn tật. Bà giúp con biết sự may mắn của mình và khích lệ con biết thương yêu và làm việc thiện cho kẻ khác, nhất là những người tàn tật. Phúc thay, người con biết nghe lời mẹ, và sau này sống ơn gọi dòng thánh Gioan Thiên Chúa. Dòng này chuyên lo săn sóc người bất hạnh trong xã hội. Người mẹ này là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu. Biết sống theo tinh thần ‘cứu thế’ của Đức Giêsu. Suốt đời sống trần gian, Đức Giêsu không bới móc tội lỗi, hoặc nói xấu ai. Ngài không vu oan, bịa chuyện để làm tổn thương danh dự kẻ khác. Thực ra là con người, về phần xác không ai hoàn toàn khỏe mạnh. Nếu chưa bị tật này, thì bị bệnh khác đang âm thầm tàn phá sức khỏe ở bên trong!
Về phần hồn cũng thế, ai tự mãn là toàn thiện, thì chính họ đang bị bệnh tâm linh! Bệnh thể xác ít truyền nhiễm, còn thứ bệnh tâm linh tai hại ghê gớm! Những người cùng đồng lõa, thích nghe chuyện xấu của kẻ khác thì chính họ cũng đang ở vào tình trạng nhiễm bệnh! Tội nghiệp, nhiều người đang mang thứ bệnh này mà không biết, vì thế mà họ gieo nhiều điều xấu gây ngột ngạt cho cộng đoàn!
Thực Hành: “Linh hồn tôi ơi! Hãy ngợi khen Chúa.” (TV 145:2) Vì thấy mọi người bất toàn nên Chúa mới đên cứu. Xin Chúa chữa bệnh trong linh hồn con. Xin Chúa dạy con biết loan truyền lòng nhân hậu của Chúa.
76. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
MỌI VIỆC CHÚA LÀM ĐỀU TỐT LÀNH
Câu chuyện này bắt đầu kể lại khởi điểm của một chuyến đi kỳ diệu. Chúa Giêsu đang từ Tia đến vùng đất chung quanh biển Galilê, nghĩa là Ngài đang từ Tia ở Phía Bắc đi xuống xứ Galilê ở phía Nam. Ngài bắt đầu hành trình bằng cách đi đến Siđôn. Điều này có nghĩa là Ngài bắt đầu đến Siđôn, và đã bắt đầu chuyển xuống phương Nam bằng cách vòng lên hướng Bắc. Chính vì chỗ khó hiểu này mà nhiều học giả cho rằng bản văn này đã chép sai, đáng lý ra Siđôn chẳng dính dáng gì đến chuyện ở đây, nhưng hầu như chúng ta có thể chắc chắn bản văn đúng như hiện có. Một học giả khác nghĩ rằng chuyến đi này kéo dài không dưới tám tháng, hoặc lâu hơn thế nữa. Có thể chuyến đi dài hạn này là giai đoạn yên tĩnh trước khi bão tố, một thời gian dài để Chúa Giêsu và các môn đệ thông hiệp với nhau trước khi cơn giông bão cuối cùng nổi lên. Ngay trong chương tiếp sau đây, Phêrô đã phát giác được Chúa Giêsu là Đức Kitô (Mc 8,27-29) và có thể chính nhờ chuyến đồng hành lâu dài này với nhiều cơ hội được sống riêng với nhau mà ý tưởng đó dần dần ăn sâu vào lòng trí Phêrô để trở thành chắc chắn. Chúa Giêsu cần có thời gian lâu dài này để sống chung với các môn đệ trước khi sự căng thẳng của ngày kết thúc cuộc bão táp đang tiến đến gần.
Khi Chúa Giêsu trở lại khu vực Galilê, Ngài vào địa phận Đêcapôli, tại đây người ta đem đến cho Ngài một người vừa điếc vừa ngọng, chắc chắn hai khuyết tật đó đi đôi với nhau, chính bệnh điếc đã khiến người ấy không thể nói rõ. Không có phép lạ nào nêu rõ cách Chúa Giêsu đối xử đẹp với con người bằng phép lạ này.
1/ Chúa Giêsu đem người điếc riêng ra khỏi đám đông. Đây là sự quan tâm hết sức dịu dàng. Người điếc luôn luôn ngượng nghịu lúng túng. Theo một vài phương diện thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Chúa Giêsu đã tỏ ra sự quan tâm hết sức dịu dàng đối với người ấy, vì biết người ấy đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống.
2/ Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã hành động như sắp diễn một vở kịch câm, Ngài đặt tay lên lỗ tai người điếc, thấm nước miếng xức lưỡi anh ta, sau đó Chúa Giêsu ngước mặt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người, rồi Ngài nói một tiếng và người điếc được chữa lành. Câu chuyện này cho thấy cách hết sức sống động Chúa Giêsu xem người này là một nhân vị có nhu cầu, một vấn đề đặc biệt, và bằng những cử chỉ dịu dàng, quan tâm, Chúa Giêsu giúp người ấy không cảm thấy khó chịu ngỡ ngàng và khiến anh có thể hiểu được.
Sau khi làm phép lạ này, dân chúng đã tuyên bố Ngài làm mọi việc đều tốt lành. Đây là câu kết luận chẳng khác câu kết luận của Đức Chúa Trời liên hệ đến công việc sáng tạo trời đất của Ngài lúc khởi thủy (St 1,31). Khi Chúa Giêsu đến, đem theo ơn chữa lành cho thân thể và cứu rỗi các linh hồn con người. Ngài đã bắt đầu công cuộc sáng tạo một lần nữa. Nguyên thủy, mọi sự đều tốt lành, tội lỗi của nhân loại đã phá hư tất cả, và bây giờ, Chúa Giêsu đem trở lại cho thế gian vẻ đẹp đẽ Thiên Chúa đã ban từ đầu, mà tội lỗi loài người đã làm xấu xa.
77. Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ (6,1-6a), các môn đệ được sai đi rao giảng sự sám hối và trừ quỷ (6,7-13). Nhưng khi Người đề nghị cho đám đông ăn (6,37), thì các môn đệ sửng sốt, cũng ý như khi họ thấy Người đi trên mặt biển (6,51). Những người nghe đọc Tin Mừng có nắm được tương quan giữa khả năng đi trên mặt nước và khả năng nuôi sống đám đông chăng? Việc Đức Giêsu đi vào vùng Dân ngoại (địa hạt Tia và Xiđôn), tại đó Người đã chữa con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri (7,24-30) và chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) cũng như hóa bánh nhiều lần thứ hai (8,1-10) hẳn là khích lệ các độc giả gốc Dân ngoại nhiều.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (7,31);
2) Đức Giêsu chữa người tàn tật (7,32-35);
3) Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (7,36-37).
Tuy nhiên, bản văn có gây ra những thắc mắc: nơi chốn không thể xác định; người tàn tật có vẻ thụ động (không có đối thoại, có vẻ các cử chỉ của Đức Giêsu và công thức A-ram quan trọng hơn); vai trò của nước miếng; một lệnh yêu cầu thinh lặng, nhưng không giữ được…
3.- Vài điểm chú giải
- bỏ vùng Tia, đi qua … đến… (31): Lộ trình của Đức Giêsu hơi lạ (đi vòng lên phía bắc, rồi quặt xuống phía đông nam, tiếp tục đi xuống phía nam băng qua Xêdarê Philipphê, đi đến phía đông của sông Giođan, và như thế đến gần hồ Galilê về phía nam, trong phần lãnh thổ Thập Tỉnh). Có lẽ tác giả Mc muốn mô tả cuộc hành trình xuyên qua một vùng đất phần lớn thuộc Dân ngoại để báo trước sứ mạng của Giáo Hội là phải đến với muôn dân.
- vừa điếc vừa ngọng (32): Từ ngữ Hy Lạp kôphos (x. 7,37; 9,25) có nghĩa là “điếc”. Còn mogilalos (không phải là alalous, “câm”, c. 37) không có nghĩa là mất tiếng hoàn toàn, chỉ có nghĩa là nói khó khăn (vì thế, đến c. 35: “anh ta nói được rõ ràng”).
- Người kéo riêng … (33): Tác giả Mc mô tả phép lạ này theo tập tục thời đó trong thế giới Hy-La: tránh những cặp mắt hiếu kỳ, sự đụng chạm bằng tay, dùng nước miếng, nhìn lên trời, thở dài, những lời nói bằng tiếng ngoại quốc. Những chi tiết này phản ánh lối chữa bệnh thời đó, nhưng cũng rất có thể là những quy ước của một thể văn (x. K. Kertelge; K. Tagawa; A. Duprez).
- đặt ngón tay vào lỗ tai: Những hành vi biểu tượng của Đức Giêsu, mà những người chữa bệnh Hy-La và Do Thái thường làm, gợi ý cho người tàn tật biết rằng anh rất có thể được chữa lành.
- nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi: Sử gia Pliniô kể rằng hoàng đế Vespasianô đã chữa một người mù bằng nước miếng (Hist. nat. 28, 4,7; Tacite, Hist. 6,18). Bài tường thuật này, cũng như những bài Mc 8,23 và Ga 9,6, là những dịp trong đó kể rằng Đức Giêsu đã dùng nước miếng. Chúng ta không được biết chắc chắn nước miếng được sử dụng như thế nào. Có những thủ bản cho rằng nước miếng được bôi trên môi, hoặc đặt vào miệng như một cử chỉ tượng trưng; trong khi có những dị bản nói là cả ở trên tai nữa. Bản văn là “nhổ và chạm lưỡi anh”, và Zerwich & Grosvenor giải thích: “bằng nước miếng”. Mann cho rằng các hành vi này chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi.
- Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng (34): Những cử chỉ này diễn tả Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa và động lòng thương người tàn tật. Không nên coi các cử chỉ này như là yếu tố của nghi thức ma thuật.
- Ép-pha-tha: Câu “Hãy mở ra” là lời dịch nghĩa từ Hy Lạp ephphtha phiên âm từ A-ram ippơtah (hoặc itpơtah), do động từ phatah là “mở ra”.
- tai mở ra, lưỡi hết bị buộc (35): Đây là chi tiết văn chương nhằm nói rằng Đức Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh; chân tính Người là khác, và người ta chỉ biết được rõ ràng chân tính của Người khi theo Người đến chân thập giá và đến cuộc Phục Sinh.
- ông làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được (37): Nhận định này của đám đông nhắc tới Isaia 35,5-6, mà đoạn văn Isaia này là một phần thuộc về cái nhìn tương lai vinh quang của Israel (Is 34–35). Bản văn Cựu Ước này được sử dụng ở đây, điều này chứng tỏ rằng tương lai vinh quang của Israel đã hiện diện trong sứ vụ của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (31)
Có lẽ câu truyện bắt đầu từ c. 32, còn tác giả Mc đã tạo ra c. 31 để cung cấp một cái khung địa lý cho bản văn, vì chúng ta biết rằng Xiđôn đã được nói đến ở 3,8, còn Thập Tỉnh đã được nhắc đến ở 5,20. Vậy c. 31 là câu nối bản văn với phần đi trước. Các chi tiết gom lại ở đây muốn nói đến các miền đất ngoại giáo chung quanh Galilê và nêu bật chủ trương phổ biến Tin Mừng sang đất Dân ngoại.
* Đức Giêsu chữa người tàn tật (32-35)
Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.
* Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (36-37)
Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lăng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).
+ Kết luận
Đọc lướt qua, chúng ta thấy đây là một bài tường thuật về một phép lạ chữa bệnh về thể lý. Thật ra, bài này, cùng với các bài tường thuật về việc chữa người mù (8,22tt; 10,46tt) là một lời cam kết rằng Đức Giêsu có thể mở tai, tháo lưỡi, mở mắt cho các môn đệ, và là một lời mời gọi các ông tin tưởng vào Người, và để Người giúp các ông. Hãy nhìn nhận sự giải thoát mà Người đã mang lại cho chúng ta. Cũng hãy cố gắng đón nhận sự giải phóng mà Người đang muốn ban cho chúng ta, trên nẻo đường Người đang mở ra trước mắt chúng ta, xuyên qua những ngờ vực và những nỗi sợ hãi, mà tiến về vinh quang của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải có tâm tình tha thiết của Người là đưa Tin Mừng đến cho các Dân ngoại. Nếu ngại ngùng vì đường dài, e dè vì những khó khăn có thể gặp về mọi phương diện, các ông sẽ không đi xa được, và sẽ phản bội bản chất của Tin Mừng vì Tin Mừng là ánh sáng cứu độ được Thiên Chúa ban cho mọi người qua trung gian của các ông.
2. Các môn đệ đã không hiểu bản thân và sứ mạng của Đức Giêsu nên đã bị Người trách (7,18; 8,17-21). Sự kiện Đức Giêsu đã mở tai của người điếc cho hiểu rằng Người có thể ban sự hiểu biết cần thiết để người ta sống đức tin. Và chính các môn đệ cũng cần được Người mở tai cho, hầu nghe được và hiểu được những giáo huấn của Đức Giêsu, và nghe ra tiếng kêu la của những con người khốn khổ hôm nay.
3. Theo thánh Bêđa (PL 92,203t), người Kitô hữu nào không lắng nghe Lời Chúa là người điếc và kẻ nào không truyền đạt lời tuyên xưng đức tin cho kẻ khác là người câm. Nước miếng mà Đức Giêsu bôi vào lưỡi anh câm có nghĩa là sapor Domini sapientiae (hương vị của sự khôn ngoan của Chúa); còn ngón tay mà Đức Giêsu ấn trên tai anh điếc, tượng trưng ân huệ Thánh Thần (x. Lc 11,20).
4. Giai thoại Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng này có thể được coi như một dụ ngôn nói về biết bao hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật của chúng ta hôm nay. Đây là những hoàn cảnh ngặt nghèo khiến chúng ta ở xa rất nhiều “điều”, nhưng đồng thời lại cho chúng ta gặp được Chúa tể sự sống. Khi đó, đã được tháo cởi tai và miệng, chúng ta có thể nói: “Ngài làm điều gì cũng tốt cả”, với sự kinh ngạc thấm đẫm tâm tình biết ơn.
5. Khi Đức Giêsu nói “hãy mở ra”, tai anh ta mở ra lập tức và “anh ta nói được rõ ràng”. Đức Giêsu nói ra và điều ấy xảy ra. Hôm nay Đức Giêsu cũng nói Lời Người trên chúng ta, “Hãy mở ra!”. Với đôi tai đã được mở ra, chúng ta không những lãnh nhận lời Người, mà lòng chúng ta cũng được mở ra để đón lấy nữa. Nghe Lời Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
“Hãy mở ra!”. Những lời này mở chúng ta ra với lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những lời đó cũng mở ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, từng ngày, trong các liên hệ giữa chúng ta và các loài thọ tạo. Đó chẳng phải là một bí nhiệm sao: một người trông thấy và nghe được Thiên Chúa trong những biến cố nhỏ bé, thậm chí không đáng kể thuộc đời sống hằng ngày? (Siciliano)
78. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Việc mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc 6,31-44). Sau bài giảng thất bại về “Bánh hằng sống” (Ga 6,66), Đức Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra “nước ngoài” nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền “Thập Tỉnh”, bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.
Chúng ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày.
Ngày nay, những khối Người, trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Danh tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại “điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ chối?
Chúng ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ' dân ngoại quốc thuộc HyLạp - La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề “Sạch và Nhơ”, chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel. Người mở rộng cửa: Giáo Hội của Người phải là Công giáo nghĩa là “đa dạng” “mở rộng” “phổ quát”. Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại quốc không?
Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này nói lên không gì?
Đức Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự phi thường. Còn Đức Giêsu, một “Thiên Chúa ẩn kín” lại trốn tránh những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin “người ta giữ bí mật”.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch từng chữ, sẽ kể như sau: “Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc, và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên trời, Người thở dài”.
Vâng, những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ “thuộc thân xác”. Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta “từ xa” một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định “tiếp xúc” với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra “đụng chạm” đến Mình Thánh Đức Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của “Thân xác”, là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập Thể (Economie de l'incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải qua những cử chỉ tầm thường “cụ thể” là những bí tích của Đức Giêsu. Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay. Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận “lấy” và “ăn” theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.
Cử chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu Thiên Chúa, khi nhận thấy một “nỗ lực”, một “nhiệm vụ khó khăn”, một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự đang “làm lại” công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.
Ép-pha-tha, nghĩa là: hãy mở ra!
Lời nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải dịch nghĩa chữ “Effata”!
Chúng ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói với chính người bệnh: “Hãy mở ra” hay đúng hơn “hãy mở trở lại”.
Nghi thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Khi dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện tượng trưng? “Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”. Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18; 8,52; 7,18).
Qua phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.
Biết bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn “đóng kín”, mắc kẹt trong thế giới tập quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng không?
Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”
Những lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp” (St 1,30). Nhờ Đức Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo... một con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.
Lạy Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết bao!
79. Chú giải của Fiches Dominicales.
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tại vùng đất dân ngoại
Sau khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về “sạch, và “ô uế”, Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra khỏi con gái bà (7, 24-30: Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli): nơi chốn Máccô xác định ở đây có tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố này; ở phía Đông sông Giócđanô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của ngài mới có: “Người ta đem một ngài vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh”.
2. Người câm điếc được chữa lành cách lạ lùng
Lúc chúng ta chờ đợi Đức Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của Ngài, thì Máccô chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chửa lành theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.
Để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc: “Xa khỏi đám đông”. Ngài: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Chúng ta thấy Đức Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bétsaiđa trong Máccô 8,23 và chữa người mù từ mới sinh trong Ga 9, 6.
J. Potin xác nhận: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Đức Giêsu Lịch sử đích thực), Centurion, tr.172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là trước thời cánh tân phụng vụ, trong lễ nghi rửa tội, có cử chỉ vùa lấy nước miếng xức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu?
- Ngài ngước mắt lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có.
- Ngài rên lên một tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền n lực sự dữ.
Ngài phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng Araméen, ngôn ngữ Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin mừng bằng tiếng Hy lạp, đó là ‘Eftata’, nghĩa là ‘hãy mở ra’.
Lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng; và như trong như người câm trong chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi nơi đám đông chứng kiến phép lạ dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.
3. Dấu chỉ thời đại Đấng Thiên Sai
Lời tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của bài đọc: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”
Phần thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng thế: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp”, (Sáng thế 1,31). Như vậy, nó ám chỉ việc Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ đợi trong thời buổi cuối cùng.
Phần thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong sách bài đọc của Chúa nhật thứ 23 này: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra và miệng người câm sẽ reo hô mừng rỡ”. Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời đại Đấng Thiên Sai.
4. Loan báo sự chữa lành thiêng liêng
Việc Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào đón những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù ở Bétsaiđa trong 8,22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Như vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý tượng trưng của việc chữa lành thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung cảm: “Hãy mở ra” nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy. Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: “Thầy là Đấng Thiên Sai” (3,29).
Sau cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó trong “đoạn về bánh trường sinh” là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể; ông cũng có chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được”. Là muốn công bố và báo trước lời tuyên xưng đúc tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (Xem J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Hãy mở ra!”
H. Vulliez, “Thiên Chúa rất gần. Năm B”
“Phải chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê ly trong một thế giới hư ảo?
Khi thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc, Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai: hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài chính là Đấng Thiên Sai.
Thực vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, thì một người mù sẽ mở ra và tai người nghe được”. Đối với sự điếc lác, mù tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người mới. Và giờ đây nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. “Mọi sự Ngài làm đều mới lạ... và tất cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi”.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi Người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất khác biệt về ngôn ngữ chủng tộc và văn hóa, mỗi khi lời người khác không bị phớt lờ vì giải thích một chiều; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim, nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa; mỗi khi những kẻ xấu không còn dám khẳng định mình làm “việc nhân đạo” bằng cách chiếm đoạt quyền ăn nói của những người “thấp cổ bé miệng” trong xã hội vì sau cùng, ai cũng có quyền lên tiếng; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn là những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi bản thân mình cũng như nơi người khác.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta tung được bức tường giam hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc bởi sức ép của tính tình và chính trị; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người khó hoặc không thể giao tiếp với nhau.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi con người cùng nhau tạo lập được thế quân bình chính đáng giữa lời phải nói và sự im lặng để lắng nghe; mỗi khi trong gia đình, trong nhóm, trong các đám đông, mối dây giao tiếp trở thành mối dây hiệp thông; mỗi khi các tín hữu phân định được tiếng Chúa trong những điều con người nói với nhau; mỗi khi những bạn hữu của Đức Giêsu không còn ấp úng trong việc loan báo Tin Mùng và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa.
2. Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
(N. Quesson, trong “Những cuộc đàm đạo ngày Chúa nhật. Năm B, Droguet ét Ardent, tr. 187-188)
“Sự chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng ta bằng cách nào? Các giáo phụ trả lời: “Bằng nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu”. Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách tiếp xúc với thân thể chúng ta! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của dấu chỉ: “Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng” toàn bộ hành vi cứu độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù chúng “rất người”. Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói: bữa Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói! Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
Do đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập Thể: một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu, là một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống với Thiên Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên: con-người khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù trước những thực tại cao cả. Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích, những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn thực hiện trên chúng ta? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không? Con người từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở!
80. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHỮA LÀNH MỘT NGUỜI NGỌNG ĐIẾC
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Điểm cần lưu ý trước tiên, đó là Chúa Giêsu đang ở trên đất lương dân, và đang chữa lành cho một người không phải là Do thái. Người không phân biệt đối xử. Điều quan trọng đối với Người là niềm tin. Và bước đầu của niềm tin là nhận biết mình bất lực, mình đang đau yếu, cần sự giúp đỡ của một đấng cao siêu hơn, quyền năng hơn.
2. “Người làm mọi sự cách hoàn hảo” (Mc 7,37). Hình như dân chúng đã khám phá ra sự liên hệ giữa phép lạ và tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, bởi vì việc cho kẻ câm được nói, kẻ điếc được nghe đúng là những công việc của Đấng Messia mà Isaia đã tiên báo (bài đọc 1). Một điều đáng ngạc nhiên: dân chúng ít học thì trực giác bén nhạy, trái lại các thượng tế, các thầy thông luật lại không nhận ra, dù họ nghiền ngẫm Thánh Kinh mỗi ngày (x. Ga 5,39). Chỉ có những tâm hồn cởi mở, đơn sơ, khiêm tốn như Maria mới có thể thốt lên: “Chúa đã làm cho tôi những việc kỳ diệu” (Lc 1,49). Tham dự Thánh lễ là cất tiếng ca tụng và tri ân Thiên Chúa.
3. “Epphata”: Ngay từ khi lãnh bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được mở tai để nghe Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng đức tin và cất lời ca tụng ngợi khen Chúa. Tuy nhiên căn bệnh câm điếc thiêng liêng luôn rình rập, đe dọa mọi người, như Chúa Giêsu đã từng khiển trách các sứ đồ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (Mc 8,18; x. Ed 12,2) Cũng như đã trách cứ Biệt phái. Bởi đó cần tránh mọi thái độ kiêu căng tự phụ, mọi thiên kiến lệch lạc, mọi tham lam dục vọng v.v.. là những nhân tố biến ta thành những kẻ “điếc lác, trước tiếng lương tâm và che mắt tâm hồn ta không nhìn thấy được Chúa.
4. Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến mối liên lạc cá nhân mà Chúa Giêsu tạo ra giữa Người với các bệnh nhân Người chữa trị. Lối Người hành động không có tính cách xa xôi, vô danh, tổng quát. Đối với Người, con người là một nhân vị đặc biệt, độc nhất không thể thay thế. Một trong những yếu tố căn bản của mầu nhiệm Tin Mừng là sự ưu ái mà Thiên Chúa dành cho con người và mầu nhiệm ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Một đàng, Thiên Chúa làm việc để cả nhân loại trở nên một dân tộc, dân của Ngài, một đàng, Ngài biết tên của mọi người trong dân ấy. Trong Tin Mừng, người Mục tử biết tên mỗi con trong đoàn chiên mình. Chúa Giêsu, đối với mỗi một người, có một cái nhìn độc nhất, một lời nói riêng biệt. Một tình yêu cá nhân. Mọi người trên đời này đều đã, đang hoặc phải khám phá ra rằng Chúa Giêsu xem mình như một con người và cư xử với mình như một nhân vị Thiên Chúa nâng con người tầm thường lên một ngôi vị.
81. Chú giải của William Barclay.
CHỮA LÀNH MỘT NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Để tiếp tục cuộc du hành rao giảng, Chúa Giêsu đã chuyển hướng đi. Ngài băng từ mạn tây hồ Tibêria (Tia, Siđon tức vùng Liban hiện nay) sang mạn đông tức vùng Thập Tỉnh (xứ Giođan) (c. 31). Ngài rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mệnh của mình. Vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại, giờ đây Ngài lại ban phát hồng ân cho một người dân ngoại khác (c. 32). Maccô là tác giả duy nhất trong bốn tác giả Phúc Âm tường thuật lại việc chữa lành người câm điếc này. Tuy nhiên trình thuật này chứa đựng một khía cạnh khá lạ cần phải làm sáng tỏ. Người ta xin Chúa Giêsu đặt tay lên người bệnh để chúc lành nhưng Chúa Giêsu lại không làm thế; Ngài kéo người bệnh riêng ra và bắt đầu chạm đến các cơ quan cần được chữa lành. Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai và bôi nước bọt vào lưỡi người bệnh (c. 33). Với quan niệm vệ sinh hiện nay thì cử chỉ này xem ra làm chúng ta khó chịu. Tuy nhiên chẳng qua là Chúa Giêsu vay mượn một số thói quen y học của thời Ngài: đó là chạm tay vào cơ quan hư hỏng đồng thời sử dụng nước bọt, thứ nước được xem như nguồn sống kề cận với lời nói của con người để bôi vào lưỡi. Thái độ cầu nguyện tiếng Ngài thở dài (biểu thị phải làm một việc khó khăn) và lời Ngài thốt ra bằng tiếng Aram: “Hãy mở ra”, là những chi tiết lịch sử quý báu của lần chữa bệnh này (c. 34). Đang ở giữa vùng lãnh thổ dân ngoại nên Chúa Giêsu đã thích ứng với lối chữa bệnh của môi trường và thời buổi lúc đó. Loại chữa bệnh này được tìm thấy đầy dẫy trong các trình thuật về phép lạ nơi vùng đất dân ngoại thời đó nên nó chẳng làm ngỡ ngàng các độc giả đầu tiên của Phúc Âm Maccô là những người hiểu biết các tập tục của những người đương thời với họ. Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu lập tức phát sinh hiệu quả (c. 35). Bệnh nhân câm điếc bắt đầu nghe và nói dễ dàng. Lẽ ra sau khi đạt được mục đích, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên lần nữa tác giả lại đề cập đến bí mật Đấng Mêsia (c. 36a). như trước kia Chúa Giêsu đã truyền cho người phung cùi (1,44) và gia đình cô bé bị bệnh chết (5,43) phải giữ kín thì lần này Ngài cũng truyền cho thân nhân người bệnh không được tiết lộ với ai. Trong tất cả các trường hợp này, Đấng Mêsia đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh Mêsia trước hạn định, bởi vì người ta có thể lẫn lộn về tư cách “Mêsia” của Ngài, tước hiệu và Ngài chỉ nhận được một cách thoả đáng, đầy ý thức qua miệng lưỡi Phêrô tuyên xưng nhân danh các môn đệ (8,30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy vậy, ngay lúc này đây, Maccô lại cho thấy rõ là lệnh Chúa Giêsu truyền giữ im lặng đã bị người ta cố tình vi phạm (c. 36b). sở dĩ như thế là vì trong khi Maccô ghi laị trình thuật này, Tin Mừng Chúa Kitô Cứu Thế đã loan ra đến tận các vùng dân ngoại, đến tận cả Rôma! Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao vì Tin Mừng ấy đã được “công bố” ở giữa lòng thế giới. Cuối cùng, chúng ta thấy Maccô còn muốn trình bày ở đây đám quần chúng dân ngoại của Chúa Giêsu phải ứng bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt (c. 37). Người ta dùng những lời của tiên tri Isaia để chúc tụng Chúa Giêsu (Is 35,5- 6): “Ngài làm kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”.
Đó là đích điểm của trình thuật được Maccô chủ ý dàn xếp. Trong “Chương nói về bánh” (từ 6,30) Maccô không bỏ qua chủ đề chính liên quan tới sự chậm hiểu của những kẻ theo Chúa Giêsu, tức các môn đệ Ngài. Các tông đồ vẫn không nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ Thầy họ thực hiện. Ở đây, họ chẳng được Maccô nêu tên: họ có vẻ như bị “vắng mặt” đang khi thực ra họ vẫn ở bên cạnh Chúa Giêsu trong sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại (x. 8,1 và tiếp theo). Như thế, người ta có quyền nghĩ rằng đoạn Phúc Âm trên đây trực tiếp nhằm vào họ. Họ là những kẻ vẫn khăng khăng câm điếc trước sứ điệp của Thầy mình mặc dù chính họ là những kẻ đầu tiên nhận được lời kêu gọi mạnh bạo của Ngài: “Hãy mở ra!” (c. 34b).
Chúa Giêsu thực sự mời gọi bạn hữu Ngài – kể cả Maccô cũng như các độc giả của ông- mở lòng đón nhận Tin Mừng và hành động của Đấng Cứu Thế đồng thời can đảm đem “công bố” lời giảng và hành động ấy cho thế gian.
82. Xin cho được nghe và nói
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Thường người ta coi sự vật mà họ có là ngẫu nhiên và không đánh giá được sự vật họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Chẳng thế mà cổ nhân mới nói: Có hay đau mắt mới thương người mù. Về khả năng nói và nghe, người ta cũng coi là ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu đặt mình vào địa vị người điếc và ngọng trong Phúc âm hôm nay, người ta mới đánh giá được cơ quan nói và nghe. Người ngọng và điếc phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Đức Giêsu đặt tay chữa anh ta. Phúc âm ghi lại Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở hơi và bảo: “Ephata”, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7: 34-35).
Việc Chúa Giêsu làm trong Phúc âm hôm nay là việc hoàn thành lời ngôn sứ Isaia tiên báo là Đấng Thiên sai sẽ đến làm cho người điếc được nghe (Is 35:5) và người câm được nói (Is 35:6). Hai việc này cũng được dân chúng trong Phúc âm hôm nay chứng kiến khi họ nói: Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được (Mc 7:37).
Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe và nghe người khác nói. Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt tin tức, nói sự thật và sự thiện hảo, chứ không phải nói lừa dối và nói lời ghen ghét. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để nghe và khuyến khích người khác nghe nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Đấng tạo dựng đôi tai. Khi vào toà cáo giải, ta có thể xưng tội nói hành nói xấu người khác, nhưng có bao giờ ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu không?
Việc người ta xin Đức Giêsu chữa người điếc và ngọng bao hàm lòng tin tưởng cậy trông vào quyền năng Chúa. Và việc Chúa chữa người ngọng và điếc xẩy ra trong lãnh thổ dân ngoại của miền Thập tỉnh. Điều đó chỉ cho thấy Chúa Giêsu cũng để ý đến dân ngoại và thương xót họ. Việc Chúa chữa người điếc và ngọng còn ám chỉ mục đích gì khác nữa chứ không phải chỉ để người đó có thể nghe và nói chuyện giữa loài người với nhau thôi. Miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để nghe và loan truyền lời Chúa nữa. Đó là việc mà người điếc và ngọng được chữa khỏi và bạn hữu anh ta đã làm. Họ loan truyền với nhau: Ông ấy làm việc gì cũng tốt cả (Mc 7:37).
Khi lãnh nhận phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay: Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Thánh kinh. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại. Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn nghe với cả tâm hồn. Tai ta có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe tiếng Chúa.
Tóm lại mục đích của việc tạo dựng miệng lưỡi và lỗ tai là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa cho ta lỗ tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngượi khen Chúa.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh và trong bài giảng, và cả trong thánh ca và thánh nhạc.. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Nghe lời Chúa rồi ta cầu xin cho được biết đáp trả bằng cách loan truyền lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đức tin.
Trong bài giảng lễ Chúa nhật, có linh mục kia hỏi cử toạ xem có ai nhớ tuần trước linh mục giảng về điều gì không? Cử toạ yên lặng một lúc. Cuối cùng một thanh niên có vẻ bụi đời, giơ tay phát biểu:
- Dạ thưa Cha, con nhớ rồi.
- Sao Anh nhớ thế nào? Linh mục hỏi.
- Thưa Cha, con nhớ Cha giảng thế này: Đó... đó... đó là lời Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết nghe và loan truyền lời Chúa:
Lạy Thiên Chúa toàn năng!
Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con
miệng lưỡi và lỗi tai để thông đạt với loài người
và thông đạt với Chúa.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
biết tìm phương tiện và cách thế,
giúp người điếc và ngọng được thông đạt
với nhau và với Chúa theo cách thế của họ. Amen.
83. Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng
(Giải thích và suy niệm của Nguyễn Ngọc Thế SJ)
Vài hàng sơ lược
- Với câu mở đầu (31), Máccô nối kết câu chuyện này với câu chuyện trước, nghĩa là với chuyến đi rao giảng ở ngoài Israel của Giêsu. Sau khi rời Tia, giờ đây Giêsu lại đến một miền đất khác. Đó là miền đất Thập Tỉnh, một miền đất của dân ngoại. Với Mác-cô quan trọng là Giêsu đi khắp miền dân ngoại để rao giảng Tin Mừng. Miền thập tỉnh - Deka,polij (dekapolis), là một liên hiệp của các thành phố trong miền đông Gio-đan. Trong miền thập tỉnh này, chiếm phần lớn là dân Hy-lạp và Sy-ri. Miền này không thuộc về sự cai quản của Hê-rô-đê. Tổng trấn La-mã là người có quyền ở đây và miền này có những ưu tiên riêng biệt. Dân Do-thái là thiểu số trong miền này, và thuộc về tầng lớp thấp hèn. (ss. G. Schille - Horst Balz / Gerhard Schneider (Hrsg.), Band I, s.681-682)
- Câu chuyện chữa bệnh này thuộc về những câu chuyện Giêsu làm phép lạ. Và nó chỉ ra nhiều điểm liên quan đến y học dân gian và cách thức làm phép lạ thời đó: Đụng vào chỗ đau, sử dụng nước miếng, hướng nhìn lên trời để ‘kéo’ sức mạnh có sức chữa lành xuống, rên lên là công thức bí mật trong khi chữa bệnh. Trong thực tế, Giêsu đã hòa nhập và thích ứng với xã hội thời đó.
- Theo Helmut Meklein, so với Mác-cô, Mát-thêu 15, 29-31 kể lại rằng, sau khi rời Tia, Giêsu đi đến ven Biển Hồ Ga-li-lê ngay. Ở đó Ngài chữa kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Sau sự kiện chữa lành này, Mát-thêu đã kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ hai cho bốn ngàn người ăn. (Mt 15, 32-39).
Suy niệm
- Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Trong mỗi phép lạ, Mác-cô đều nêu bật rõ hai phần, phần người làm phép lạ xuất hiện, và phần người cần được giúp đỡ đến. Thêm vào đó, Mác-cô nêu rõ bối cảnh của phép lạ. Như phép lạ Ngài chữa người bị quỷ ám trong Mc 1, 21: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um.” Hay phép lạ khác cũng liên quan đến người bị quỷ ám trong vùng của người Ghê-sa-ra: “Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa” (Mc 5, 1). Ngoài ra, có thể coi thêm ở Mc 1, 29; 2, 1-3; 7,24tt và 8,22.
Còn ở đoạn phúc âm này, khung cảnh của phép lạ Giêsu sắp làm cũng được nhắc đến: “Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Tuy nhiên, theo R.Pesch thì khi diễn đạt bối cảnh như vậy, Mác-cô không có ý nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của nơi phép lạ xảy ra, mà Mác-cô muốn diễn đạt một chương trình truyền giáo. Vâng, Đấng làm mọi sự tốt đẹp cần được loan báo không chỉ nơi miền đất đầy ánh sáng, mà còn cần phải được loan truyền tại miền đất của dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Theo Meinrad Limbeck, thì đối với Giêsu miền đất dân ngoại không phải là miền đất ô uế. Và ngoài những người ở mảnh đất Israel còn có nhiều người cần đến sự giúp đỡ và cứu thoát của Giêsu.
- Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Một người vừa điếc vừa ngọng – một người bị giới hại rất nhiều trong tương quan với người khác. Thật là khó khăn anh ta mới có thể hiểu được người khác, và ngược lại cũng thế. Chẳng dễ dàng gì để người vừa điếc vừa ngọng có thể hiểu điều mình muốn diễn đạt. Vì vậy, mà cánh cửa mở ra với thể giới bên ngoài, đến với người khác, rất hẹp hay đôi khi bị đóng lại đối với những người điếc và và ngọng. Có thể nói rằng, một bức tường ngăn cách đang đứng trơ trơ ở đó. Cái thê thảm nằm ở chỗ là, bây giờ không chỉ người điếc không nghe được những âm thanh ở bên ngoài, mà anh ta chỉ có thể nghe chính mình mà thôi. Một thế giới như bị đóng kín. Một cuộc đời như bị khóa kỹ vào trong căn phòng đóng chặt tất cả cửa sổ, và bị cách âm hoàn toàn. Chúng ta thử mường tượng, trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta chỉ còn nói chuyện với chính mình, chúng ta chẳng còn nghe thấy gì cả và cũng chẳng được người khác lắng nghe. Thật thê thảm. Nếu cứ như vậy thì một lúc nào đó tất cả sẽ bị “xé rách” ra hết. Cả tâm hồn, cả cuộc sống, cả những gì thật là cao quý có thể đều bị “xé nát”. Một cuộc sống thật buồn, vì cuộc sống đó bị cô lập, bị tách ra khỏi lòng xã hội.
Hình ảnh này cũng có thể liên hệ đến chính chúng ta. Vâng, chúng ta hãy để Đức Thánh Cha Biển Đức chia sẻ về điều này:
“Các giáo phụ nói về đề tài con người và nói cho con người của thời đại các ngài. Nhưng điều mà các ngài nói, cũng có liên hệ một cách mới mẻ cả với chúng ta, những con người thời hiện đại. Không những có sự điếc tai của thân thể làm cho con người gần như hoàn toàn bị tách ra khỏi sinh họat xã hội. Còn có một sự giảm yếu trong sự lắng nghe đối với Thiên Chúa, mà chúng ta đang gặp phải, nhất là trong thời đại chúng ta. Chúng ta không thể cảm thấy Thiên Chúa được nữa; có quá nhiều làn sóng khác nhau chiếm cứ đôi tai chúng ta. Điều được nói về Thiên Chúa, xem ra như là điều “tiền khoa học” đối với chúng ta, xem ra như không còn thích hợp với thời đại chúng ta nữa. Với sự giảm yếu sự lắng nghe, hoặc nói cách khác, với sự điếc tai tinh thần đối với Thiên Chúa, thì cũng bị mất đi khả năng chúng ta nói cùng với Ngài hoặc nói với Ngài. Như thế, chúng ta bị thiếu đi một nhận thức quyết định. Những giác quan nội tâm chúng ta gặp nguy hiểm bị mai một đi. Với sự thiếu mất sự nhận thức này, thì tầm mức của tương quan chúng ta với thực tại cũng bị bao vây một cách mãnh liệt và đầy nguy hiểm. Chân trời của đời sống chúng ta bị thu hẹp một cách đáng ngại.” (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
Vâng, thật đáng ngại biết bao, khi cuộc sống của chúng ta bị giới hạn trong thế giới nhỏ bé của chính mình, trong thế giới bao la nhưng thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng đi khả năng lắng nghe Lời Ngài, và vì thế mà tình yêu của Chúa cũng bị để ngoài tai. Vì vậy, lúc này những đôi tai như bị điếc hay bị điếc thật và những đôi môi như bị ngọng hay bị ngọng thật, cần được dẫn tới với Giêsu. Chính Ngài sẽ ra tay chữa lành, chính Ngài sẽ đến để cứu chữa. Ở đây, chúng ta nghe tiên tri I-sa-ia đã loan truyền:
“Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35, 4)
Như vậy, người ta đưa anh điếc và ngọng đến với Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Thái độ đặt tay là thái độ mà Giêsu đôi khi làm để chữa bệnh, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc 5, 23) Ngoài ra, cũng có nhiều đoạn khác nhắc đến việc chữa bệnh của Giêsu qua việc đặt tay, hay dùng tay để đụng tới người bệnh: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1, 40-41) Hay trong trường hợp của người mẹ vợ ông Phêrô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31) Vâng, đôi bàn tay nhân từ yêu thương, bàn tay của Giêsu là đôi bàn tay chữa bệnh, nâng dậy, và dẫn về với con đường của sự sống. Về đôi bàn tay nhân ái này, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nói như sau: “Người giơ tay nắm chúng ta trong các bí tích, Người chữa lành chúng ta khỏi bịnh hoạn của những đam mê và tội lỗi nhờ sự xá giải trong bí tích hoà giải. Người ban cho chúng ta khả năng trỗi dậy để đứng trước Thiên Chúa và trước những người nam và nữ.” (Bài giảng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican)
- Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Không như những thầy thuốc bình thường, sẽ đưa người bệnh đến trước đám đông để chữa, vì qua đó họ muốn được người ta nhìn thấy, trầm trồ thán phúc khen ngợi và công nhận. Giêsu chẳng cần lời khen, và cũng không muốn ai thán phục, nên Ngài đã kéo riêng người bệnh tách khỏi đám đông, tách khỏi đám người tò mò, đám người hay dòm ngó, phê bình. Một cách nào đó, đôi khi Giêsu cũng không muốn đám đông quấy rầy, khi Ngài làm phép lạ, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 40-41)
Sau khi tách người bệnh ra, và một mình với anh ta Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Hành động đầu tiên là đặt ngón tay vào lỗ tai. Theo R. Pesch thì sức mạnh có sức chữa lành không chỉ toát ra từ đôi tay, mà còn từ ngón tay nữa. Chính ngón tay của Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi quyền lực của Pha-ra-ô. Vâng, qua cây gậy của A-a-ron, các phù thủy đã nhận ra ngón tay của Thiên Chúa: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập…. Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: “Đó là ngón tay của Thiên Chúa! “ Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.” (Xh 8, 12 và 15) Và cũng với chính ngón tay của Thiên Chúa, Giêsu đã trừ quỷ, đã đuổi thần dữ ra khỏi cuộc đời: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11, 20)
Hành động thứ hai Giêsu làm cũng liên quan đến ngón tay. Vâng, Ngài đã dùng tay bôi nước miếng vào lưỡi anh ngọng. Theo R. Pesch , người ta có thể mường tượng rằng, Giêsu nhổ nước miếng trên tay của mình và sau đó mới bôi cho người bệnh.
Nước miếng là một chất để chữa bệnh. Vâng, tôi vẫn còn nhớ hồi nhỏ Mẹ tôi cũng đã từng dùng nước miếng mình để bôi lên vết xước da chảy máu sau những lần nghịch ngợm. Theo R. Pesch, thì kế bên Nước, Máu, Rượu và Dầu thì nước Miếng cũng thuộc về những chất lỏng có thể dùng để chữa bệnh. Nước miếng cũng có chất nhờn như dầu, và từ cơ thể con người nên cũng có “họ hàng” với máu. Như thời cổ đại Hy-lạp và La-mã, Do-thái giáo cũng coi nước miếng như là chất dùng đặc biệt để chữa bệnh đau mắt. Về điểm này, chúng ta có thể đọc được ở Mc 8,23: “Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: “Anh có thấy gì không? “
Sau hai hành động trên, Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Ngước mắt lên trời là hướng về cha mình. Theo Hans Urs von Balthasar, thì mỗi phép lạ mà Giêsu làm là một hành động của Cha được làm qua Giêsu. Chúng ta có thể đọc được thái độ hướng lên trời của Giêsu ở một vài phép lạ khác: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.” (Mc 6, 41) Hay như trong phép lạ kêu ông La-gia-rô ra khỏi mồ ở Gioan 11, 41-43: “Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! “
Sau khi hướng mắt nhìn lên trời, Mác-cô thuật lại là Giêsu rên lên một tiếng. “stena,zw stenazo – rên “ Theo R. Pesch là cách diễn tả về thái độ Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Nghĩa là dấu chỉ Giêsu nhận được sức mạnh để chuẩn bị cho phép lạ Ngài làm.
Sau khi đã chuẩn bị như vậy, Giêsu lên tiếng nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Mác-cô giữ lại từ ngữ này trong tiếng aramaica với ý nghĩa được dịch ra sau đó. Theo R. Pesch thì từ ngữ để chữa bệnh này, trong tai của người Hy-lạp là một lời lạ lẫm có sức chữa bệnh như một câu thần chú. Bình thường, thì lời chữa bệnh là lời đầy quyền năng có thể truyền tải sức mạnh. Vâng, một lời có sức giải thoát đời người khỏi bóng đêm, một lời có thể kéo đời người ra khỏi cái điếc và cái ngọng, một lời của tình yêu thương, một lời của ân sủng tràn đầy trên một đời người, trên cả dân Israel và hôm nay cho toàn thể nhân loại. Lời “Ép-pha-tha”, này Giáo Hội cũng dùng trong bí tích rửa tội. Vị linh mục hay thầy phó tế sẽ rờ tới tai và miệng của con trẻ và nói: ““Ép-pha-tha – hãy mở ra”. Mở tai ra để lắng nghe Lời của Chúa, và mở miệng ra để loan báo Tin Vui của Chúa. Tin vui về ơn cứu thoát về tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa từ nhân. Theo Adolf Pohl, qua lời chữa lành của Giêsu, người đọc ở đây sẽ được nhắc nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài đã mở miệng cho con người, mở mắt, mở tai, mở lòng, mở niềm tin, mở cuốn sách cuộc đời, mở cánh cửa cuộc đời, và mở cả cửa lao tù nhốt con người vào trong đêm đen. Và Thiên Chúa mở cả cánh cửa của mồ mả và mở cả cánh cửa của trời cao để đón nhận con người.
Tóm lại, về những hành động của Giêsu trong phép lạ này, Đức Thánh Cha diễn tả rất hay và liên quan trực tiếp đến chúng ta: “
“Phúc âm kể lại rằng Chúa Giêsu đưa ngón tay chạm đến lỗ tai của người câm điếc, và thấm một chút nước miếng của Ngài trên lưỡi của người bệnh và nói: Effata - Hãy mở ra! Tác giả phúc âm đã giữ lại cho chúng nguyên ngữ tiếng aramaica mà Chúa Giêsu đã nói, và như thế đưa chúng ta trực tiếp vào trong giây phút đó. Điều mà được kể lại trong phúc âm, là điều duy nhất, tuy nhiên không thuộc về quá khứ xa xôi: Chúa Giêsu thực hiện cũng một điều như vậy một cách mới mẻ và làm lại điều đó nhiều lần cả trong thời đại hôm nay. Trong bí tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã hoàn tất trên chúng ta cử chỉ chạm đến này, và đã nói với chúng ta: Effata, hãy mở ra! Để làm cho chúng ta có khả năng cảm nghiệm được Thiên Chúa và như thế để cho chúng ta có lại khả thể nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng biến cố này, --- biến cố Bí Tích Rửa Tội --- không có gì là ảo thuật. Bí tích Rửa tội mở ra một con đường. Bí Tích đưa chúng ta vào trong cộng đoàn của những kẻ có khả năng lắng nghe và nói, đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với chính Chúa Giêsu, Đấng duy nhất đã nhìn thấy Thiên Chúa Cha và sau đó đã có thể nói về Ngài (x. Gn 1,18): qua đức tin, Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta việc Người nhìn thấy Thiên Chúa, việc Người lắng nghe Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa. Con đường của kẻ lãnh nhận bí tích rửa tội, phải là một diễn tiến của sự phát triển từ từ, trong đó chúng ta lớn lên trong cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa, và như thế đạt được một cái nhìn mới khác về con người và về tạo vật….. và Phúc âm mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng trong chúng ta có bị thiếu hụt về khả năng nhận thấy --- một sự thiếu mà lúc đầu chúng ta không lưu ý được như vậy ---, bởi vì phần còn lại được xử dụng bởi sự khẩn thiết và hợp lý của nó; bởi vì từ bên ngoài xem ra như tất cả đều tiến hành một cách bình thường, cả khi chúng ta không còn đôi tai lắng nghe và đôi mắt nhìn thấy Thiên Chúa nữa và chúng ta sống không có Ngài. Nhưng thử hỏi có phải tất cả đều diễn ra cách đơn thuần, khi Thiên Chúa bị thiếu đi trong đời sống chúng ta và trong thế giới chúng ta hay không? (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
- Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Kết quả của phép lạ được Mác-cô diễn tả tương hợp với hành động Giêsu đã làm trước đây. Đó là “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.”
Như vậy, Giêsu đã đặt ngón tay vào lỗ tai và đã “mở tai” của người điếc, để anh ta có thể nghe lại được, và với nước miếng Ngài đã bôi vào lưỡi, để nhờ đó lưỡi anh hết bị buộc lại, nghĩa là được cởi ra khỏi “một sức mạnh đang trói buộc anh.”
Động từ “trói buộc” chỉ về một căn bệnh bị thần dữ trói buộc. Ở Luca 13,16 cũng nhắc đến người phụ nữ còng lưng được Giêsu tháo cởi khỏi xiềng xích trói buộc bà: “Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? “
Vâng, giờ đây anh bạn điếc và ngọng của chúng ta đã có lại được khả năng nghe và nói. Và anh ta còn nói được rõ ràng nữa, chứ không phải bặp bẹ một vài câu. Mác-cô diễn tả rất rõ ràng. Anh ta đã trở lại con người bình thường như mọi người. Thật là một tin vui lớn lao. Tin vui này ứng nghiệm với lời của tiên tri Isaia 35, 5-6:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.”
- Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
Lời truyền bảo phải giữ kín của Giêsu ở đây hướng về ngôi thứ hai số nhiều “họ”. Như vậy, nhóm người có mặt dù đã bị tách biệt, nhưng có thể vẫn chứng kiến được phép lạ Giêsu làm. Tuy nhiên, điều mà tác giả muốn diễn tả ở đây là việc lời truyền bảo giữ kín của Giêsu đã bị “phá tan”. Ngoài ra, Mác-cô cũng hướng về tinh thần truyền giáo của Giêsu và về Giêsu tại miền Thập Tỉnh, miền đất của dân ngoại, như chính một anh bị quỷ ám được Giêsu chữa bệnh, và sau đó được sai đi vào miền Thập Tỉnh để làm chứng: “Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” (Mc 5, 19)
Vâng, hành động tốt lành của Giêsu không thể giữ kín được. Điều tốt lành cần được lan rộng, lan rộng như vết dầu loang.
Còn về nguyên nhân Giêsu truyền phải giữ kín, thì chúng ta cũng có thể nhận ra. Đó là Giêsu muốn thi hành sứ mạng của mình. Nếu không, thì người Do-thái có thể bắt Ngài và tôn Ngài lên làm vị thủ lãnh, là Vua theo ý riêng và chương trình của họ. Mà sứ mạng của Giêsu thì đâu có tương hợp với một kế hoạch chính trị nào.
- Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Một lời chứng và ngợi ca giữa mảnh đất dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Thật là tuyệt vời!
Vinh danh Thiên Chúa không chỉ tỏ rạng trong vùng trời của niềm tin, mà còn tỏ rạng trong bầu trời của nhiều tâm hồn chưa biết Chúa. Có lẽ vì thế, mà cần phải mở miệng tung hô to hơn và rõ ràng hơn.
Máccô diễn tả thật là hay: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả.” Lời ngợi khen này giành cho Giêsu. Và Giêsu được ăn mừng như Đấng được nhắc trong Sáng thế ký 1, 31: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp.” (ss. thêm ở Hc 39,16)
Vâng, trong Giêsu Gia-vê Thiên Chúa đang đến, như I-sa-i-a đã nói: “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (35,4), và khi Người đến thì người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ nói được, và què sẽ đi lại đàng hoàng, người còng lưng sẽ đứng thẳng dậy và không chỉ thế, mà còn:
“có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên.” (Is 35, 6b-7)
Vâng, Đấng Cứu Độ đã đến và khi Ngài đến thì Ngài sẽ giải thoát những người con yêu dấu của Ngài và:
“Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35, 10)
---------------------------
Tham khảo
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1, s. 391-400
- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, s.296-301
- Meinrad Limbeck, Markus-Evangelium, Stuttgarter kleiner Kommentar, kbw-Verlag, Stuttgart 1984, s. 97-98
- Gottfried Schille - Horst Balz & Gerhard Schneider (Hrg), Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament Band I, 2.Aufl., Kohlhammer Verlag, Stuttgart-Berlin-K#ln 1992I, từ ngữ Deka,polij (dekapolis)
- Helmut Merklein, Die Jesusgeschichte-synoptisch gelesen, Stuttgarter Bibelstudien 156, kbw-Verlag, Stuttgart 1994, , trang 135-136
- Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI, giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican. www-vietcatholic.net
- Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera. www.vietcatholic.net
04/09 Ý nghĩa ngày Sabbat
- Viết bởi Lc 6, 1-5
Ý nghĩa ngày Sabbat.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 22 thường niên.
“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Lời Chúa: Lc 6, 1-5
Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi”. Và Người bảo họ rằng: “Con Người làm chủ cả ngày Sabbat”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Điều không được phép làm
Suy niệm
“Tại sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”
“Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?”
“Tại sao môn đệ ông không chịu rửa tay khi dùng bữa?”
Mấy người Pharisêu có vẻ thích đặt những câu hỏi tại sao.
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại đặt một câu hỏi nữa :
“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát?”
Câu chuyện đơn giản như sau.
Thầy Giêsu và các trò đi ngang qua một cánh đồng lúa chín.
Các môn đệ đói nên bứt những bông lúa, vò trong tay cho vỏ tróc ra mà ăn.
Hành vi này được phép làm, dựa theo sách Đệ nhị luật (23, 26).
Nhưng vì đó là ngày sa-bát, nên lại không được phép làm.
Thật ra sách Xuất hành chỉ cấm gặt lúa vào ngày sa-bát thôi (34, 21).
Nhưng truyền thống đã dựng thêm một hàng rào bảo vệ,
bằng cách coi bứt lúa cũng là một hình thức gặt lúa.
Bởi thế các môn đệ bị coi là đã vi phạm luật giữ ngày sa-bát.
Thầy Giêsu lại một lần nữa bênh vực học trò của mình.
Ngài bắt đầu câu trả lời bằng việc đưa các ông Pharisêu về với Kinh Thánh.
Chẳng lẽ những người trí thức như họ mà đã không đọc chuyện này rồi sao.
Đó là chuyện vua Đa-vít và thuộc hạ đói bụng, đã được ăn “bánh thánh”,
khi họ đến đền thờ Nốp, gặp tư tế Akhimêléc (1 Sm 21, 2-7).
Vị tư tế này đã cho họ ăn thứ bánh đặt trước nhan Đức Chúa (Xh 25, 30)
mà chỉ tư tế mới được phép ăn (c. 4; Lv 24, 9),
khi 12 bánh cũ của tuần trước được thay bằng bánh mới vào ngày sa-bát.
Akhimêléc đã làm điều không được phép, vì bánh thường không còn.
Đứng trước cơn đói của Đavít, ông đã không quay đi vì nệ luật.
Đức Giêsu dùng câu chuyện này để bênh các môn đệ đang đói của Ngài,
dù nó không liên quan gì đến chuyện giữ ngày sabát.
Như tư tế Akhimêléc, Ngài cũng không quay đi vì nệ luật.
Hơn nữa, Ngài khẳng định mình là chủ ngày sa-bát (c. 5).
Đức Giêsu không dẹp bỏ ngày sa-bát, nhưng đặt nó ở dưới quyền của Ngài.
Chính Ngài cho ta biết cách giữ ngày sa-bát theo đúng ý Thiên Chúa.
Tội nghiệp các môn đệ bị đói, vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Giêsu.
Họ chấp nhận bữa đói bữa no với một vị Thầy lang thang đây đó,
sống hoàn toàn nhờ lòng tốt của người nghe.
Mấy bông lúa có là gì để tránh cái cồn cào trong ruột.
Thầy Giêsu đã từng nếm cái đói, và thèm một trái vả (Mc 11, 13).
Thầy đã từng khát và xin nước của người phụ nữ (Ga 4, 7).
Bởi đó Thầy hiểu được cái đói khát hành hạ con người mọi thời.
Mọi luật lệ được đặt ra để phục vụ con người và thăng tiến nó.
Đôi khi chúng ta phải nhìn lại những luật đã quen giữ từ lâu
để điều chỉnh lại cho phù hợp với những nhu cầu mới của con người.
Làm sao để luật không đè bẹp, nhưng nâng đỡ con người sống tốt hơn?
Làm sao để khi áp dụng luật, tôi vẫn giữ được sự mềm mại của tình yêu?
Cầu nguyện
Lạy Chúa,
con được no nê mà vẫn thiếu ăn,
vì bên con còn có người đói lã
Con uống nước mát mà lòng vẫn khô ran
vì bên con còn có người đang khát
Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi
vì bên con còn có người phiền muộn.
Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm
vì bên con còn có người mù tối
Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi.
vì bên con còn có người trần trụi
Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,
vì bên con còn có bao nhiêu người thiếu thốn.
(Myrtle Householder)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Phục vụ Tin mừng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phục vụ Tin Mừng là nhiệm vụ cao quí. Tin Mừng giúp phát triển bản thân và thế giới. Nhưng việc phục vụ Tin Mừng không phải dễ dàng. Người phục vụ Tin Mừng phải vất vả gieo trồng để có được mùa gặt phong phú.
Thánh Phao-lô cho tín hữu Cô-rin-tô biết những vất vả mà ngài phải chịu vì phục vụ Tin Mừng: “Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng”. Ngoài vất vả về thể xác, còn có những đau đớn trong tâm hồn: bị nguyền rủa, bị bắt bớ, bị vu khống, bị loại trừ: “Cho đến giờ này, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (năm chẵn).
Các tông đồ đói đến nỗi phải tuốt lúa xanh ngoài ruộng mà ăn. Thế mà không yên thân. Vẫn còn bị người Pha-ri-sêu hoạnh hoẹ vì lỗi luật ngày sa-bát. Nhưng Chúa đã lên tiếng bênh vực các ngài bằng trích dẫn trường hợp Đa-vít. Đa-vít cho thuộc hạ ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng đây còn hơn Đa-vít. Là Chúa Thượng của Đa-vít. Vì thế có thể cho các môn đệ tuốt lúa ăn trong ngày sa-bát. Tư tế được ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su mới là Thầy Cả Thượng Phẩm. Người cũng là đền thờ mới. Vì thế có thể cho các môn đệ được tuốt lúa ăn trong ngày lễ nghỉ.
Khi trưng dẫn Đa-vít, Chúa có ý cho biết Người chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Từ xưa dân Ít-ra-en luôn mong chờ Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đa-vít ra đời. Giải phóng dân khỏi nô lệ. Đưa đất nước đến phồn thịnh, vinh quang. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng lại là Chúa của Đa-vít. Là niềm hi vọng của Dân Chúa. Các môn đệ đã gặp được niềm hi vọng ngàn đời. Đã được thấy ơn cứu độ. Nên các ngài theo Chúa, phục vụ Chúa, dù gian nan vất vả.
Chính vì thế, thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-lô-xê phải kiên trì giữ vững đức tin: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng anh em đã nhận được”. Chúa là Tin Mừng. Là niềm hi vọng. Chính vì thế Phao-lô sẵn sàng chịu đau khổ. Hãnh diện vì được phục vụ Tin Mừng (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Ý nghĩa đích thực của lề luật
Một trong những sợi chỉ chạy xuyên suốt các sách Tin Mừng là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tức là những người đứng ra bảo đảm cho việc thi hành Lề Luật. Thật ra, như Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài đến không phải để hủy bỏ Lề Luật mà để hoàn thành nó.
Với Chúa Giêsu, sống tốt lành, thánh thiện không hệ tại ở chỗ thi hành Lề Luật mà chính là sống theo tinh thần Lề Luật. Một người có thể giữ hết mọi Lề Luật nhưng có thể chưa phải là một người thánh thiện. Lề Luật tự nó là tiêu cực, Lề Luật thường đưa ra những điều cấm đoán. Chúa Giêsu thì trái lại, luôn tích cực. Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời. Thiên Chúa thánh thiện không phải do tuân giữ Lề Luật. Thiên Chúa thánh thiện bởi vì Ngài là tình yêu và vì Thiên Chúa là tình yêu cho nên ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân không mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay sự kiện các môn đệ đi qua cánh đồng lúa và bứt lúa ăn trong ngày sabát làm nổi bật sứ điệp của Chúa Giêsu. Cuộc chạm trán ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các biệt phái cho thấy ý nghĩa đích thực của Lề Luật. Bánh thánh là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đồng. Bánh Thánh của người Do Thái cũng mầu nhiệm như bánh thánh của Chúa Kitô, nó biểu hiện phép Thánh Thể. Không người Do Thái nào dám sờ đến bánh thánh cũng như không một người công giáo nào dám mở nhà chầu lấy bánh thánh để ăn trưa. Thật là trái tai khi nghe Chúa Giêsu biện hộ cho hành vi của vua Ðavít. Tuy nhiên, qua lời biện hộ này chúng ta hiểu được quan niệm của Chúa Giêsu về Lề Luật. Lề Luật là chỉ để hướng dẫn và hỗ trợ cho con cái của Thiên Chúa, không nên biến nó thành một gánh nặng, nó phải đáp lại nhu cầu của con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Lề Luật được lập ra cho con người chứ không phải con người cho Lề Luật, ngày sabát được lập ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát". Con cái của Thiên Chúa là thánh thiện chứ không phải Lề Luật.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta, có khi chúng ta giữ đạo một cách chi ly nhưng chưa thực sự sống đạo, chúng ta tuân giữ mọi Lề Luật nhưng chưa sống tinh thần của Lề Luật. Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Tất cả mọi Lề Luật đều thu tóm về giới răn yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật. Lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô đoạn 13 cần được chúng ta đem ra suy niệm và thực hành:
"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác nào thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi chuyện bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả những đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Vì con người hay vì ngày sa-bát
Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: “Tại sao các ông lại làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?” (Lc. 6, 1-2)
Không quá đáng khi nói trên trái đất này luôn luôn xảy ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa con người và luật lệ. Có thể nói: rút cuộc con người hình như bị bại trận.
Suốt thời gian thi hành chức vụ công khai, Đức Kitô chống lại óc pháp trị không ngừng áp đặt luật sa-bát trên con người. Thà phải chịu chết đói hơn là phạm tới luật thánh để tôn trọng ngày của Chúa. Đức Giêsu muốn cho biệt phái hiểu rằng họ đã khắt khe vô lý đến tột độ. Người kể trường hợp của vua Đa-vít đã cứu đoàn tùy của mình, ông không ngần ngại vào đền thờ lấy bánh hiến tế dành riêng cho tư tế đưa cho họ ăn. Sự bó buộc của biệt phái thật vô nhân đạo, và Người kết luận: luật lệ vì con người chứ không phải con người nô lệ luật pháp.
Người không thành công cũng như bao nhiêu người khác trước và sau Người, họ đã thử bảo vệ sứ điệp này. Kẻ thù không tha cho ai muốn lãnh đạo hay phục vụ như Người. Một ngày nào đó, họ sẽ lên án Người. Kể từ lúc đó, trong thế giới lương cũng như giáo, xuyên suốt dòng lịch sử, có hàng ngàn đàn ông, đàn bà bị loại trừ và thanh lọc vì đòi quyền ưu tiên cho người trên pháp luật bất chính.
Đức Kitô không phải là con Người ngây ngô. Người biết rất rõ cần thiết phải có luật pháp. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại: Người đến không phải để phá hủy luật lệ, nhưng để kiện toàn. Tuy nhiên, Người không chấp nhận luật đặt ra để đè bẹp con người, nhưng luật là để giúp con người thăng tiến. Luật không để giết hại mà để phục vụ. Nhiều người công giáo ngày nay chưa ý thức được bài học này. Họ sẵn sàng chia rẽ, xé lẻ để bảo vệ hình thức luật lệ. Có những luật tốt cho xưa kia, nhưng không còn thích hợp với những yêu cầu nhân loại ngày nay. Thế giới đã có những cuộc cách mạng tiến bộ rõ rệt, không còn nữa những hạng quá bảo thủ và quá cấp tiến nếu bài học của Chúa được đón nhận.
GF
Suy Niệm 5: Ý nghĩa của lề luật
Về triết gia Ðavít Hume của Anh vào thế kỷ 18, người ta kể một giai thoại như sau:
Một hôm, có một quận công hỏi ông: - Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Ðavít Hume trả lời: - Ðó là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công hỏi lại: - Thế thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia đáp: - Số lớn nhất là số một.
Ðây là thực tế thường xảy ra trong luật pháp của nhiều quốc gia: số lớn nhất thường chỉ là một thiểu số. Luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi.
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ơn can đảm để luôn biết nói không với những gì loại trừ con người và xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm xác tín và vâng phục cho đến cùng, để trong mọi sự, chúng ta chỉ tìm thánh ý Chúa và xây dựng những giá trị Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 6: Luật vì con người
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc môn đệ Đức Giêsu bứt lúa và ăn trong ngày Sabát. Thời điểm này vào khoảng tháng tư trong năm và rơi vào cuối mùa hạ.
Câu chuyện những người Pharisêu hôm nay lên tiếng khiển trách thầy trò đã đến mức căng thẳng. Họ cảnh cáo Đức Giêsu và các môn đệ không giữ Luật. Lý do:
1) Một là đi qua đồng lúa, tức vi phạm luật chỉ được đi 100 mét ngoài thành vào ngày hưu lễ;
2) Hai là bứt lúa rồi chà trấu trong tay để ăn, một hành vi tương đương với viêc gặt lúa, vậy là vi phạm luật cấm việc xác.
Khi cảnh cáo như thế, ngầm hiểu rằng họ đã ra “tối hậu thư” cho thầy trò Đức Giêsu, nếu còn vi phạm thì sự việc sẽ bị coi là cố tình trước mặt các nhân chứng và đáng chịu tử hình, vì coi thường ngày hưu lễ.
Đáp lại, Đức Giêsu đã lật ngược vấn đề và đặt ra cho họ câu hỏi: "Các ông chưa đọc điều Ðavít đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Hay như các tư tế trong đền thờ. Khi hưu lễ trùng với một đại lễ, các tư tế và các phụ tá phục dịch phải giết chiên nhiều hơn, thế mà vẫn không bị buộc tội vi phạm hưu lễ!
Khi nói như thế, Đức Giêsu mặc khải cho họ rằng: Ngài chính là đền thờ mới, là Con Thiên Chúa, có một quyền bính tự Trời ban cho. Vì thế, Ngài đến để lập lại trật tự nguyên thủy của Lề luật. Lề luật không thể có vai trò tuyệt đối. Nó chỉ được lập ra vì con người, chứ không được trở thành gánh nặng áp bức con người. Ngài đến với tư cách là Chủ của Lề Luật, có quyền ngang với Thiên Chúa, để hoàn chỉnh Lề Luật hoặc sửa đổi nó, một khi không còn thích hợp với ý định của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy giải thoát khỏi tâm trí chúng ta một thứ ý thức hệ vụ hình thức, chuộng cơ cấu, cứng nhắc làm tê liệt tình yêu đối với Chúa và lòng nhân ái đối với tha nhân. Nếu cứ bán vào Luật thuần túy, hẳn không thể có một trái tim biết yêu thương nhạy bén với ơn Chúa và sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống cốt lõi của Luật. Biết dùng Luật như là phương tiện để giúp nhau sống tốt hơn chứ không phải dùng Luật để cưỡng ép nhau. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Thương xót và cảm thông
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Theo gương Chúa Giêsu, hãy có lòng thương xót và biết nhìn bằng tinh thần cảm thông, tha thứ. Đừng nhìn nhau kiểu “bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì tội nguyên tổ mà tội lỗi đã tràn vào thế gian. Từ đó, lòng người trở nên nhỏ mọn, hay ghen tị và thích đè bẹp kẻ khác. Ca-in vì ghen tị mà nhẫn tâm giết em là A-ben. Con cái của Gia-cóp cũng vì ghen ghét mà bán em là Giu-se sang Ai-cập. Vua Sau-lê rắp tâm hãm hại Đa-vít cũng vì ghen tức. Các biệt phái theo Chúa và các môn đệ như một cái bóng để tìm cách bắt lỗi cũng vì ghen ghét Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã đến khai mở con đường yêu thương. Chúa đi tiên phong trên con đường đó và dạy con bước theo. Ai cũng có ưu điểm và có cả khuyết điểm. Chúa đã nhìn vào ưu điểm của mỗi người mà cứu vớt họ. Chúa đã gọi một Phê-rô chân thành, Chúa đã chọn một Mát-thêu dứt khoát. Chúa không ngần ngại đến nghỉ tại nhà ông Gia-kêu, Chúa không lầm khi tha tội cho người phụ nữ ngoại tình… Xin cho con có cái nhìn như Chúa. Xin cho con mạnh dạn bước theo Chúa trên con đường yêu thương.
Xin Chúa thanh luyện đôi mắt con để con nhìn thấy những ưu điểm của anh chị em con. Xin Chúa hướng dẫn đôi tay con để con đối xử tử tế với mọi người. Xin uốn nắn miệng lưỡi con, cho môi miệng con bớt chua ngoa, chì chiết người khác, và thay vào đó bằng lời khích lệ nâng đỡ tha nhân.
Xin Chúa dìu con đi bằng ơn thánh của Chúa, để con đủ sức đi trọn con đường yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat ?”
Suy Niệm 8: Thực thi luật Chúa với tình yêu thương
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trên đường trốn sự truy bức của vua Saulê, Đavít và các thuộc hạ đói không có gì ăn đã ăn bánh tiến (x. 1Sm 21,1-6), điều không được phép làm…, bánh tiến gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24,5-9). Vào ngày Sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày Sabát thánh (x. 1Mcb 2,34-38).
Suy niệm
Người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu và môn đệ Ngài, khi các môn đệ vì đói mà bứt bông lúa ăn trong ngày Sabát. Chúa Giêsu trả lời buộc tội của họ khi dẫn chứng vua Đavít đã vào đền thờ lấy bánh dành cho thượng tế để ăn cho đỡ đói. Qua đó, Chúa Giêsu nhấn mạnh giá trị cao cả nhất là hướng dẫn hành vi của con người vì con người chứ không cứng nhắc luật vì luật.
Như thế, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật như người biệt phái thường kết án Ngài, nhất là vi phạm ngày Sabát. Vào mỗi ngày Sabát, Ngài vẫn đến hội đường Do Thái đọc Kinh Thánh, như thế Ngài vẫn tuân giữ ngày Sabát, nhưng Ngài mặc cho ngày đó một ý nghĩa cao cả. Vì thế với ngày Sabát, Chúa Giêsu đưa ra ba viễn tượng sâu sắc hơn luật về ngày Sabát của người Do Thái:
Chúa Giêsu xác nhận sự tôn trọng luật ngày Sabát. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh: Phải vượt trên cách thực thi luật pháp cứng nhắc của người Pharisiêu, khi chú ý đến ý nghĩa nhân văn của ngày Sabát. Trình thuật các môn đệ bứt bông lúa trong ngày Sabát mà Chúa Giêsu bảo vệ, giải thích Lề Luật dưới ánh sáng của thánh ý Thiên Chúa: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát”. Ngày Sabát nhắm đến sự sống viên mãn của con người (Mc 3,4; Mt 12,11-12).
Chúa Giêsu hoàn thành ý nghĩa ngày Sabát như Ngài đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17): Đó là ngày của tình thương và giải thoát con người khỏi sự dữ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Sứ mạng của Chúa Giêsu được hoàn tất trong việc trao ban cho nhân loại ân sủng để thực hiện ơn gọi của mình, bởi ơn gọi đó mà Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy đã tạo dựng con người. Ân sủng được ban trước hết cho những người bị tổn thương nơi thân xác và linh hồn, đó là: Những người đau yếu bệnh hoạn, những người tàn tật, những người đui mù, những người tội lỗi. Đối với Chúa Giêsu, ngày Sabát là ngày của hành động giải thoát.
Chúa Giêsu là “Chúa” của ngày Sabát vì Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đưa ngày Sabát đến viên mãn, qua đó Ngài mạc khải chính mình như là sự sống viên mãn, là cùng đích của giới luật ngày Sabát.
Trong ý nghĩa đó của ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bộc lộ sự tự do và cứu chữa trong ngày Sabát đến mức dường như các phép lạ thường tập trung vào ngày này: Sau việc bứt bông lúa trong ngày Sabát (x. Mc 2,23-28; Mt 12,1-8; Lc 6:1-5); Chúa chữa lành người bị bại tay (x. Mc 3,1-6; Mt 12,9-14; Lc 6:6-11), Chúa chữa lành người phụ nữ còng lưng (x. Lc 13,10-17) và người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6). Chúa chữa người bị bại liệt ở hồ nước tại Bếtdatha (x. Ga 5,1-18) Chúa cho sáng mắt người mù từ khi mới sinh cũng trong ngày Sabát (x. Ga 9,1-41).
Xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu biết tính tích cực của Lề Luật. Thực thi luật Chúa không phải là gánh nặng, nhưng với tất cả tình yêu thương như thánh Phaolô dạy: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10)
Ý lực sống
“Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Suy Niệm 9: Môn đệ bứt lúa vào ngày sabát
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Ngày sabát nghỉ việc là để ghi nhớ việc Thiên Chúa nghỉ ngơi sau khi tạo dựng nên thế giới (Xh 20,8-11). Đồng thời nó cũng loan báo việc dân Thiên Chúa khi kết thúc thời gian, đi vào nơi yên nghỉ và bình an của Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát. Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án. Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị Luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ sabát, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ, luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay nói lên sự dị biệt của Chúa Giêsu và người biệt phái về ngày sabát, ví dụ như việc các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa ăn khi đi qua cánh đồng. Mọi sự việc tầm thường không đáng kể, nhưng cái tính hay ghen tương nghi ngờ, cái tính hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của những người biệt phái đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabát. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xảy ra những xung đột và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Ngày sabát, bứt mấy bông lúa như thế chẳng có lỗi gì, luật chỉ cấm cày cấy hay gặt hái, nhưng những người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm làm trong ngày sabát. Đây là tính hay xét nét, khắt khe, quét nhà ra rác... để sinh ra mất lòng nhau.
“Đức Giêsu trả lời: Các ông chưa đọc...”
Đức Giêsu bênh vực các môn đệ bằng cách giải thích cho họ nhớ lại những trường hợp được miễn giữ luật. Và Đức Giêsu đã rút ra từ Thánh kinh hai trường hợp được miễn giữ luật để minh chứng: 1Sm 21,1-6 và Ml 12,5-6. Ở đây Luca chỉ ghi lại trường hợp thứ nhất về câu chuyện vua Đavít cùng với thuộc hạ vì đói quá, nên đã ăn bánh trưng hiến trong đền thờ, thứ bánh mà chỉ dành riêng cho tư tế mới được ăn.
Nại đến bằng chứng này, Đức Giêsu muốn nêu lên rằng: được miễn giữ luật khi có việc tối cần, mà ở đây là trong lúc quẫn bách không có gì ăn cho đỡ đói ngoài thứ bánh trưng hiến (Lm. Trần Hữu Thành).
Đức Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5).
Trả lời phỏng vấn trước ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2005 tại Kohn, nước Đức, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 cho biết Ngài sẽ nói với các bạn trẻ khắp thế giới rằng: được làm người Kitô hữu thật tốt đẹp biết bao, bởi vì đây đó vẫn phổ biến một quan niệm rằng Kitô giáo chỉ gồm những luật lệ cấm đoán mà ta phải tuân giữ. Vị Đại Diện Đức Kitô cho thấy đời sống Kitô hữu có những luật lệ, nhưng đó là đôi cánh để đưa ta lên cao.
Hôm nay lời Chúa nói với chúng ta rằng Ngài là chủ của ngày sabát, nghĩa là Ngài có quyền qui định luật lệ cho ngày lễ nghỉ nói riêng và mọi luật lệ tôn giáo. Chính những luật lệ ấy nâng chúng ta lên cao khỏi những khuynh hướng thấp lè tè của bản năng, để đến gần và nên giống Đức Kitô hơn.
Đức Giêsu vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, là việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương; nếu không, việc giữ luật chỉ là việc đạo đức ở bên ngoài, mà bên trong không có thực chất. Giữ luật là thể hiện tình thương, không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Truyện: Giữ luật một cách máy móc
Một người Do thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Suy Niệm 10: Giữ luật theo tinh thần
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Những người luật sĩ và Pharisêu bề ngoài xem ra có vẻ rất tôn trọng luật pháp nhưng bên cạnh việc giữ luật như thế hỏi còn có một hậu ý gì khác nữa không ? Chắc là phải có một cái gì đó, cho nên chúng ta mới thấy Chúa không ca tụng họ.
Một hôm, quận công Ressen hỏi triết gia David Hume:
- Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì ?
Triết gia David Hume trả lời:
- Là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công Ganh Ressen hỏi lại:
- Vậy thì theo ông số lớn nhất là gì ?
Triết gia liền trả lời:
- Số lớn nhất là số một.
Thực tế trong rất nhiều quốc gia, chúng ta thấy luật pháp được làm ra là chỉ để phục vụ cho một thiểu số. Số lớn nhất thường là số một, chỉ là một thiểu số. Một thiểu số thủ lợi còn những người khác thì phải è cổ ra mà chịu. Luật pháp là của Chúa nhưng nhiều khi họ giải thích rồi thêm vào những qui định quá đáng để phục vụ quyền lợi cho phe nhóm, cho một thiểu số của họ.
Như vậy thì muốn việc giữ luật cho đúng thì phải giữ theo tinh thần của luật.
2. “Con người là chủ của ngày hưu lễ” (Lc 6,5)
Chúa vẫn là chủ của luật pháp. Vậy phải giữ ngày Sabat hay hưu lễ thế nào ?
Có người kia lúc sinh thời rất tự hào về đời sống luân lý, liêm sỉ, chính trực của mình. Rồi một hôm ông bị bệnh nặng và qua đời, linh hồn ông bay thẳng đến trước cửa Thiên Đàng và xin được trình diện trước tòa Chúa.
Tới nơi, ông phủ phục thưa:
- Lạy Chúa, Chúa quá biết rõ đời con, suốt đời con luôn trung thành tuân giữ luật Chúa, không hề bỏ sót hoặc lỗi phạm điều gì bất lương bất chính cả. Này đây con xin Chúa thương nhìn xem bàn tay trong trắng của con.
Thiên Chúa nhân từ nhìn ông và nói:
- Con ơi, con nói đúng, hai bàn tay con trong sạch, không vướng mắc tội gì cả. Nhưng đáng tiếc con chỉ có hai bàn tay trắng, còn ngoài ra thì không có một việc lành phúc đức nào cả.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trong mỗi cộng đồng tôn giáo, bao giờ cũng có những người đạo đức rất khắt khe trong vấn đề giữ luật đạo. Họ lo giữ luật đạo một cách chặt chẽ chi li sao cho đúng việc, đúng thời gian, đúng truyền thống. Đối với họ giữ đạo là giữ lề luật.
Chính vì thế nên khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không giữ luật như họ, thì coi đó là một điều thiếu sót đáng trách.
3. Chúng ta thấy, Đức Kitô không bao giờ chủ trương phá hủy lề luật: “Ta đến không phải để phá hủy luật pháp” – “Ta bảo thật các ngươi cho dù trời đất có qua đi nhưng một chấm một phết trong luật cũng không được bỏ qua”(Mt 5,18). Ngài vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương nếu không, việc giữ luật sẽ chỉ là việc đạo đức ở bề ngoài, mà bên trong không có thực chất.
Giữ luật là thể hiện tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Một người thợ xây đang ở trên giàn giáo cao bị xảy chân rơi xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.
Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng”(Mt 5,38) của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa vốn từ lâu đã thấy những cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:
- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ rằng: Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải giết anh ta đúng bằng cách ấy, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn giáo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.
Nghe tòa phán xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.
Mẹ Têrêsa nói: “Đừng sợ yêu thương đến độ phải hy sinh, tới mức phải nhức nhối. Tình yêu Chúa Giêsu yêu chúng ta đã đưa Ngài đến chỗ chết.
Thiên Chúa quan tâm đến tình yêu của chúng ta.
Chúa chẳng cần ai, Ngài có cách làm được tất cả, Ngài có thể làm luôn cả công trình của những người tài năng nhất.
Chúng ta có thể làm việc đến cùng kiệt, có thể làm việc tới tuyệt mức. Nhưng nếu công việc chúng ta không gắn kết với tình yêu, sẽ là vô ích dưới mắt Chúa”.
Suy Niệm 11: Con Người là chủ ngày sabát
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát:
- Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án.
- Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái đã quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày Chúa nhựt, nếu tôi chỉ biết nghỉ làm việc và đi dự lễ thì chưa chắc là tôi đã “thánh hóa” ngày đó theo đúng ý muốn của luật Giáo Hội. Tôi còn phải yêu mến Chúa nhiều hơn và quan tâm đến anh em tôi hơn.
2. Nếu tôi giữ luật chỉ vì đó là luật thì việc giữ luật của tôi không đem lại lợi ích thực nào cho tôi mà lại thêm nặng nề khó chịu. Nếu tôi buộc người khác giữ luật chỉ vì đó là luật thì cũng chẳng ích lợi gì cho người khác, trái lại càng làm cho người khác khổ sở thêm.
3. “Con Người là chủ của ngày hưu lễ”: Chúa Giêsu là chủ của ngày Chúa nhựt. Ngày Chúa nhựt tôi có quy hướng mọi sự về Chúa Giêsu không?
4. “Con Người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5)
Hồi bé, tôi luôn phải nghe đi nghe lại điệp khúc: “nghỉ chơi đi lễ, lễ xong về chơi chẳng muộn”. Vâng, tôi đã đi lễ, nhưng đi một cách miễn cưỡng. Giáo Hội thật “ác”, đặt ra bao điều phải theo.
Bây giờ tôi đến với thánh lễ không phải vì những luật lệ, những “điệp khúc” hồi bé, nhưng bằng chính tấm lòng, bằng sự khao khát của con tim, của tâm hồn muốn có được sự bình an vĩnh cửu. Nghĩ lại, tôi thầm cám ơn Chúa vì những luật lệ trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con đến với Chúa không phải vì lề luật đòi buộc, nhưng với cả tấm lòng của một người con. (Hosanna)
- 03/09 Vui tươi vì Chúa đồng hành
- 02/09 Kẻ chinh phục con người
- 01/09 Tiếp tục rao giảng Tin Mừng.
- 31/08 Đấng Thánh của Thiên Chúa
- 30/08 Tin mừng của Chúa Giêsu
- 29/08 Giới răn Thiên Chúa – tập tục phàm nhân
- 28/08 Trung tín và sáng kiến
- 27/08 Chúa động lòng thương
- 26/08 Tỉnh thức và sẵn sàng
- 25/08 Mồ mả tô vôi