Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
11/11 Sống giây phút hiện tại
- Viết bởi Lc 17, 20-25
Sống giây phút hiện tại.
Thứ Năm tuần 32 thường niên. – Thánh Máctinô, giám mục. Lễ nhớ.
"Nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Lời Chúa: Lc 17, 20-25
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nước Thiên Chúa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Từ sau khi dân Israel định cư ở đất Canaan,
Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Israel
như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua của nước Israel, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.
“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21).
Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi con người được biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.
Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận bởi gần 7 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào trên thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn bệnh tật nghèo đói, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công việc phải làm.
Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui, quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.Amen
Suy niệm 2: Nước Thiên Chúa ở giữa các ông
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ bao đời người Do thái luôn mong đợi “Bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến”. Họ vẫn tưởng Triều Đại Thiên Chúa đến rất hoành tráng. Một vị hoàng đế tài ba như Đa-vít sẽ xuất hiện. Đưa dân tộc lên đài vinh quang. Thống trị thế giới. Thật bất ngờ Chúa trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Vừa gần gũi. Vừa ẩn giấu. Như kho tàng chôn giấu ngay trong ruộng nhà. Như hạt cải vùi chôn dưới đất. Như nắm men vùi trong thúng bột. Phải tinh tế lắm mới nhận ra. Khi nhận ra thì thật rõ ràng: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”. Nhưng Triều Đại Thiên Chúa chỉ đến sau những gian nan đau khổ.
Để nhận ra Triều Đại Thiên Chúa đang ẩn giấu trong những gì bình thường của cuộc sống, cần có sự Khôn Ngoan. Nhưng Khôn Ngoan ở đây có ba bước tiến. Bước thứ nhất là nhìn thấu suốt sự vật. Xuyên thấu tâm can. Để khám phá ra những kho tàng chôn giấu. Những viên ngọc trong đá. Rồi đến bước thứ hai. Người thấm nhập Khôn Ngoan sẽ là hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu từ bi. Rồi đến giai đoạn thứ ba. Người Khôn Ngoan trở thành bạn hữu của Thiên Chúa. Trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa. Cộng tác với Thiên Chúa làm cho Triều Đại Thiên Chúa ngự trị. Nhưng như thế có nghĩa là phải cùng Thiên Chúa đi vào cuộc chiến đấu chống lại bóng tối. Người Khôn Ngoan sẽ sáng hơn ánh sáng. Vì ánh sáng phải rút lui khi bóng tối vây phủ. Trái lại Người Khôn Ngoan sẽ không lùi bước trước sự ác. Chính mỗi người phải hoạt động để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển trị ngay trong đời mình (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên môn đệ Phi-lê-môn làm cho Triều Đại Thiên Chúa đến. Khi cho người nô lệ Ô-nê-xi-mô được tự do. Ô-nê-xi-mô là kho tàng giấu trong ruộng. Là viên ngọc nằm trong đá. Là tự do bị vùi chôn trong nô lệ. Anh đang ở giữa Phao-lô và Phi-lê-môn. Khi thánh Phao-lô bị tù. Phi-lê-môn gửi Ô-nê-xi-mô đến phục vụ. Và thánh Phao-lô đã cho anh được tự do. Ngài thuyết phục Phi-lê-môn hãy đồng ý điều này. Như thế là được chứ không mất. “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”(năm chẵn).
Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa tôi. Tôi có đủ Khôn Ngoan để nhận ra. Và nhất là có đủ dũng khí đế thực hiện. Dù điều đó có hại vật chất. Để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển hiện không?
Suy niệm 3: Sống sung mãn giây phút hiện tại
Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng. Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu khi tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến". "Chúa lại đến", đó là niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. Ðó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin để chúng ta không ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Mầu nhiệm Nước Chúa
Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn nao chờ đợi Nước Thiên Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp dẫu rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý do: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được". Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài.
Trọng tâm của bài giảng của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể nắm bắt được bằng mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi mọi người đi vào mầu nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia. Nước Chúa chỉ đến bằng cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho các môn đệ thấy cuộc khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải qua. Chính qua các cuộc bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội được thanh luyện, củng cố và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với các cơ cấu tổ chức và biểu dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm Nước Chúa, nhưng là chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin sẵn sàng mất tất cả, ngay cả sự sống của mình để được trung thành với những giá trị của Tin Mừng. Chính niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của Nước Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Tin dổm về tận thế
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. (Lc. 17, 20-21)
Ngay thời ngôn sứ Đa-ni-en, dân Do thái đã bàn tán về ngày nước Thiên Chúa đến và sự chờ đợi cuồng nhiệt lan tràn khắp nước Ít-ra-en. Người ta khảo sát các điềm trời và các tai họa xảy ra. Họ tính toán khá thông thái để tiên báo về ngày giờ tận thế. Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa đã đến ngoài sức tính toán tự nhiên của con người, nên biệt phái muốn hỏi Đức Giêsu bao giờ triều đại Thiên Chúa đến.
Triều đại Thiên Chúa đã đến rất êm ái
Câu trả lời của Đức Giêsu làm sửng sốt: Nước Thiên Chúa đến không ai có thể quan sát được. Tất cả mọi dấu chỉ loan báo và tính toán đều vô giá trị. Nước ấy đã đến và biệt phái không nhận ra vì con tim và lỗ tai của họ đóng kín, câm lặng, chính hành động của Đức Giêsu cho thấy và cho hiểu về nước Chúa đã đến vì Người nhờ ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ, và lời Người đang sưởi nóng con tim của những kẻ khốn cùng. Thời cứu độ đã bắt đầu, nhưng ai không đón tiếp Đức Giêsu, không thể nhận biết được nước Thiên Chúa.
Khi trả lời những kẻ không tin, Đức Giêsu quay lại phía các môn đệ, các ông biết Đức Giêsu đã đến phục hưng lại nước Thiên Chúa và Người phải trở lại để hoàn tất mọi sự. Người đã tiên báo cho các ông rằng trước ngày quang lâm xảy ra những khốn khổ, những ngày khủng khiếp làm mọi người xao xuyến lo âu. Lúc đó, họ không còn kiên nhẫn chờ đợi ngày Con Người trở lại và họ sẽ bị thôi thúc tìm dấu chỉ và tin những tiên tri giả. Họ sống giữa những cảnh buồn sầu khổ sở lớn lao rồi lại để mình bị loại bỏ.
Người đến như ánh chớp chói lòa chiếu sáng.
Con Người đến trong vinh quang sáng chói hơn cả tia sáng bom nguyên tử, bom khinh khí và chiếu sáng khắp nơi không gì che lấp được. Con Người đến thình lình đột ngột như các tai họa đổ xuống loài người và luôn luôn sẵn sàng đến bất cứ lúc nào.
Trước khi biến cố này xảy đến, Đức Giêsu phải chịu xỉ vả, hạ nhục, phản bội bởi thế hệ này và các thế hệ kế tiếp. Tình yêu chắc chắn chiến thắng. Nhưng trước khi chiến thắng hận thù và chia rẽ, Người phải hành động để thuyết phục chứ không dùng bạo lực. Giáo hội cũng phải chịu khổ nhục một thời và các Kitô hữu phải biết kiên trì giữ vững đức tin luôn luôn sẵn sàng đón tiếp Con Người đến.
RC
Suy niệm 6: Hãy sám hối để gặp được Chúa
Trong một lớp giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, một hôm, thầy giáo lý viên hỏi mọi người rằng: “Tại sao lại theo đạo Công Giáo?”. Lúc đó, có một chị đã trả lời: “Con theo đạo để xin Chúa cho con khỏi đau khổ, bệnh tật...!”. Thầy giáo đó trả lời: “Việc thoát khỏi đau khổ và bệnh tật không phải là lý do chính, việc quan trọng chính là bạn tin nhận Chúa làm chủ cuộc đời của mình, sống phó thác nơi Thiên Chúa và đón nhận cũng như khám phá ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mặt khác, khi theo đạo, bạn được mời gọi bước theo Đức Giêsu trên con đường hy sinh, quên mình vì người khác, thực hành những điều Ngài dạy. Có thế, bạn mới được bình an thực sự”.
Ngày xưa, người Do thái đương thời với Đức Giêsu cũng luôn mong đợi một Đấng Thiên Sai oai phong lẫm liệt, Ngài đến để thiết lập một triều đại hùng cường, mở mang bờ cõi và đem lại cho dân tộc họ một cuộc sống ấm no, hạnh phúc theo kiểu bề ngoài.
Niềm hy vọng như thế đã làm chủ suy nghĩ của họ, nên khi Đức Giêsu đến, họ không nhận ra Ngài và khước từ những đặc tính của Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo. Nguyên nhân sâu xa chính là lòng dạ sắt đá của họ. Sự cứng lòng tin đã làm cho tâm hồn họ trở nên u tối, mê muội, nên khó chấp nhận ánh sáng là chính Đức Giêsu. Vì thế, họ đã đang tay giết luôn cả Đấng mang Nước Trời đến cho mình.
Vì biết rõ tâm hồn họ, nên Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến". Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo ở đây không thể hiểu theo nghĩa vật lý, tức là mắt thấy, tay sờ được... Nhưng Nước Trời ở đây là chính Ngài. Thực hành những lời Đức Giêsu dạy chính là đi vào mối tương quan thân tình với Ngài và được ở trong Ngài. Sống lời Ngài dạy và đem ra thực hành chính là làm cho Nước ấy được lan rộng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta muốn được nhận ra Chúa thực sự thì phải trở nên nhỏ bé, khiêm nhường. Cần phải lột bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới với những suy nghĩ và hy vọng mới theo tinh thần Tin Mừng thì mới có thể gặp được Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm nhường, hiền hậu và yêu thương để được Nước Chúa làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Đón nhận Chúa Giêsu là gặp triều đại Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Chỉ cần đón nhận Chúa Giêsu là gặp thấy triều đại Thiên Chúa. Ta hãy sống trọn giây phút hiện tại để đón chờ Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, tuy con đang sống ở quê hương dưới đất này, nhưng quê trời mới là quê thật của con. Cuộc sống con hôm nay, với những sinh hoạt hàng ngày để xây dựng cho quê hương trần thế, đều là những nỗ lực để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trên quê trời.
Thế nhưng, có những lúc con để công việc cuốn hút mình như một cơn lốc. Tâm trí con quên mất Chúa, cõi lòng con khô khan nguội lạnh. Nhìn lại quá khứ, con thấy mình trắng tay, chẳng có công nghiệp gì ngoài tội lỗi. Con chưa sẵn sàng để đón chờ ngày của Chúa.
Lạy Chúa, quá khứ lầm lỗi đã qua rồi. Tương lai sắp tới còn nằm trong vòng tay yêu thương của Chúa. Chỉ còn hiện tại, từng giây từng phút của cuộc sống hôm nay, là thuộc quyền sở hữu của con. Con sẽ được hạnh phúc vĩnh viễn hay con sẽ bị đau khổ đời đời là tùy cách sử dụng những giây phút hiện tại của con.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng vĩnh cửu đã sống trọn thân phận làm người, là triều đại của Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng con. Mỗi ngày sống hôm nay đều mang tính chất đời đời nếu con biết sống liên kết với Chúa. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc sống và kết hiệp với Chúa trong mọi công việc. Xin giúp con trong từng giây phút hiện tại biết sống trọn vẹn cho Chúa, để con được thực sự sống trong Nước Trời ngay từ hôm nay, và cho đến mai sau muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: “Nước Thiên Chúa ở giữa các ông”.
Suy niệm 8: Tín hiệu của triều đại Thiên Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một cha sở kia khuyên bổn đạo: “Hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa một ngày trước khi chết”. Bổn đạo chưa hiểu rõ lời khuyên của cha có ý nghĩa gì...
Cha cắt nghĩa: “Không ai biết mình chết khi nào. Có lẽ tối nay chăng? Có lẽ ngày mai chăng? Bởi thế, muốn cho chắc chắn, hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay là một ngày trước khi chúng ta có thể chết mà chúng ta không biết”.
Suy niệm
Nhìn những chiếc là vàng rơi, những làn gió lạnh buốt tràn về, ai cũng có thể nhận ra tín hiệu của thời gian báo hiệu mùa thu đã tới và chuẩn bị bước vào mùa đông lạnh giá...
Những tín hiệu của tiết trời báo cho chúng ta những khoảng thời gian cụ thể trong một năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa Giêsu cũng nói về những tín hiệu sẽ xảy ra trong thời gian để nói về ngày Ngài sẽ đến: Sẽ xuất hiện một ánh sáng chói ngời vinh quang là hình ảnh của Đấng ngự trên mây trời mà đến, Đấng ấy đến xét xử muôn dân. Đó như là tín hiệu báo trước về ngày quang lâm vĩnh cửu của Thiên Chúa để mọi người nhìn nhận và chuẩn bị đón Người như người tôi trung đợi chủ về.
Thiên Chúa không chỉ đến trong ngày quang lâm, tận cùng của thế giới mà Ngài đang đến và đứng trước ngõ cuộc đời mỗi người qua những tín hiệu cụ thể trong đời sống như Ngài đã nói: “Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13,28-29).
Trong đời sống của tôi của bạn luôn có những tín hiệu của sức khỏe, của gia đình, của những biến cố cuộc đời nhắc tôi và bạn cùng suy nghĩ về một Đấng đang đến gần. Thật thế, tất cả những biến cố trong cuộc đời, dù vui dù buồn đều là những tín hiệu của Thiên Chúa báo cho tôi. Khi tôi gặp những khó khăn đau khổ, đó là tín hiệu báo cho tôi cần sự can trường trong đức tin cần bám víu vào Chúa và trung kiên đến cùng. Khi tôi tràn ngập niềm vui, hạnh phúc, đó là tín hiệu báo trước cho tôi về một nước Trời cần phải nhớ đến vì niềm vui hiện tại chỉ là tín hiệu báo trước về hạnh phúc bất tận nơi vương quốc vĩnh cửu. Ngài đang ở trước ngõ của cuộc đời tôi, nhưng những tín hiệu đó không được tôi và bạn đón nhận như là những sứ điệp về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, tôi phải vững vàng bước đi để đạt được niềm vui bất tận đời đời.
Ý lực sống
“Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13,25-26).
Suy niệm 9: Triều đại của Thiên Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Người Do thái rất quan tâm đến Ngày mà Thiên Chúa thiết lập triều đại của Ngài. Họ nghĩ rằng đó là một biến cố trọng đại , đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và cho dân tộc họ. Nhưng Đức Giêsu nói với Người Do thái:”Triều đại Thiên Chúa ở giữa các ông”. Ngài muốn nói triều đại Thiên Chúa chính là sự hiện diện của Ngài. Để nhận ra Nước Thiên Chúa, nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, chúng ta không thể dùng giác quan tự nhiên, mà phải nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Nước Trời hiện diện ngay trong cuộc sống trần gian này. Vì thế, cuộc sống của chúng ta sẽ là bằng chứng sống động cho sự hiện diện của Nước Trời.
2. Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn là thao thức của con người. Nhờ người Do thái nôn nào chờ đợi Nước Thiên Chúa, nhưng dù có thao thức, có chờ đợi, họ cũng không gặp, dù rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Đức Giêsu đã giải thích lý do:”Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình, thì chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài. Người Do thái chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa theo sở thích của họ, do đó, họ khước từ hay giết chết kẻ mang nước Chúa đến cho họ. “Ngài đã đến nơi nhà Ngài, nhưng người nhà đã không đón tiếp Ngài “vì họ chỉ mơ ước một nước trần thế”(R.Veritas).
3. Thực ra, triều đại Thiên Chúa là một biến cố trọng đại, nhưng không phải trọng đại theo cặp mắt loài người. Với sự xuất hiện của Đức Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là “tin” và “theo” Đức Giêsu. Ai muốn thuộc về Nước ấy cần phải chấp nhận điều kiện Ngài đề ra, đó là sống vâng phục và yêu thương như Ngài. Nơi nào con người cố gắng sống như Ngài , nơi đó Nước Thiên Chúa được thể hiện.
4. Có thể nói, loan báo “Triều đại Thiên Chúa” là chính sứ mạng của Đức Giêsu khi Ngài nhập thể. Ngay từ những lời đầu tiên khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã rao giảng:”Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”(Mc 1,15). Ngài quả quyết thời đại hồng ân mà tiên tri Isaia tiên báo nay đã thành hiện thực: ”Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh quí vị vữa nghe”(Lc 4,21). Thế mà tiếc thay, người ta lại mải mê đi tìm một thứ “triều đại” khác, “ở chỗ này, ở chỗ kia” “như một điều có thể quan sát được”. Hôm nay, Đức Giêsu nói trắng ra:”Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Ngài chính là “Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết”(Ga 1,26). Chỉ khi nhìn lên thập giá người ta mới có thể nhận ra Triều đại của Thiên Chúa đã đến nơi chính con người Đức Giêsu, như người trộm sám hối đã tuyên xưng:”Ông Giêsu ơi! Khi nào vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi” (5 phút Lời Chúa).
5. “Chúa lại đến”. Đức Giêsu nói rằng thực tại thần linh này không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát được. Một điều chắc chắn là có chung kết lịch sử, có ngày Đức Giêsu quang lâm, nhưng không một ai từ hàng chư thánh, các thiên thần đến loài người được biết thời gian ngày tận thế. Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một điểm mà không ai biết trước được vào ngày Đức Giêsu sẽ quang lâm. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nảy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi; không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa đến, nên đòi hỏi các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi (Hiền Lâm).
6. Qua cuộc sống của Ngài, Đức Giêsu đã vạch cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Đức Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
7. Truyện: Chúa ở đâu Thiên đàng ở đó.
Một nhà truyền giáo đến thăm viếng một cậu bé da đen trong lúc cậu sắp sửa lìa đời. Cậu bé liền nói với nhà truyền giáo này về niềm hạnh phúc mà cậu cảm thấy và niềm ao ước được về với Chúa Giêsu.
Cậu bé nói:
- Chẳng bao lâu, con sẽ được lên Thiên Đàng, con sẽ nhìn thấy Đức Giêsu và ở với Ngài mãi mãi.
Nhà truyền giáo đáp:
- Nhưng nếu Đức Giêsu phải rời khỏi Thiên Đàng , con sẽ làm gì?
- Con sẽ đi theo Người.
Nhà truyền giáo lại nói:
- Nhưng giả thử Đức Giêsu đi xuống hỏa ngục, con sẽ làm gì?
Trong giây lát, với một cái nhìn thông minh và một nụ cười trên nét mặt , cậu bé đáp:
- Ồ, ở đâu có Đức Giêsu, thì ở đó không thể có hỏa ngục. Chúa Giêsu ở đâu, ở đó là Thiên Đàng.
Suy niệm 10: Nước Thiên Chúa đã đến
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Nước Thiên Chúa - Nước Trời hay Triều đại Thiên Chúa: Đây là đề tài chủ yếu trong Kinh Thánh. Cùng với niềm mong đợi Đấng Thiên Sai, người Do Thái tưởng tượng ra một vương quốc thịnh vượng, hùng cường mà Thiên Chúa sẽ thiết lập ngay trên lãnh thổ của họ. Vào thời Chúa Giêsu, một niềm hy vọng như thế bừng cháy lên một cách mãnh liệt trong tâm hồn mọi người.
Nước Trời hay Nước Chúa cũng là đề tài chủ yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Ngài đã khai mở sứ vụ bằng lời kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Nhưng trái với niềm hy vọng của người Do Thái, Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo không phải là một lãnh thổ có thể quan sát, đo đạc hay khoanh vùng trong những ranh giới. Nước ấy giống như một hạt giống được âm thầm gieo vào lòng đất. Nước ấy giống như men được cho vào bột để làm cho bột ấy dậy lên.
Vì người Do Thái quan niệm Nước Thiên Chúa như một vương quốc trần thế, có lãnh thổ, có binh lính, có quyền lực cho nên họ rất mong ngày đó mau đến, nhất là khi họ đang phải sống tủi nhục dưới ách đô hộ của Rôma. Họ muốn biết khi nào và ở đâu ngày ấy xảy ra. Bởi thế, hôm nay người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu: “Khi nào thì Triều đại Thiên Chúa đến?” (Lc 17,20)
Thực ra triều đại Thiên Chúa là một biến cố trọng đại nhưng không phải trọng đại theo cặp mắt loài người. Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là tin và theo Chúa Giêsu. Ai muốn thuộc về Nước ấy cần phải chấp nhận điều kiện Ngài đề ra, đó là sống vâng phục và yêu thương như Ngài. Nơi nào con người cố gắng sống như Ngài, nơi đó Nước Chúa được thể hiện.
Một nhà truyền giáo đến thăm viếng một cậu bé da đen trong lúc cậu sắp sửa lìa đời. Cậu bé liền nói với nhà truyền giáo này về niềm hạnh phúc mà cậu cảm thấy và niềm ao ước được ở với Đức Giêsu.
Cậu bé nói:
- Chẳng bao lâu, con sẽ được lên Thiên Đàng, con sẽ nhìn thấy Đức Giêsu và ở với Người mãi mãi.
Nhà truyền giáo đáp:
- Nhưng nếu Đức Giêsu phải rời khỏi Thiên Đàng, con sẽ làm gì?
- Con sẽ đi theo Người.
Nhà truyền giáo lại nói:
- Nhưng giả thử Đức Giêsu đi xuống hỏa ngục, con sẽ làm gì?
Trong giây lát, với một cái nhìn thông minh và một nụ cười trên nét mặt, cậu bé đáp:
- Ồ, đâu có Đức Giêsu, thì ở đó không thể có hỏa ngục. Chúa Giêsu ở đâu, ở đó là Thiên Đàng”. Đó là ý thứ nhất.
2. Ý thứ hai: Ngày của Con Người: Ngày của Con Người tức là lúc Chúa Giêsu quang lâm, khi đó Triều đại Thiên Chúa sẽ hoàn thành trọn vẹn. Cũng như bao người khác, các môn đệ cũng mong ngóng ngày đó. Nhưng Chúa Giêsu cảnh cáo: đừng quan tâm nghiên cứu về địa điểm và thời gian của ngày đó. Vô ích thôi, vì đặc tính của Ngày ấy là đến một cách nhanh chóng và bất ngờ.
Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa: “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em” (Lc 17,21). “Ở giữa” có nghĩa là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho nên muốn biết Ngày của Con người đến hay chưa thì đừng đi tìm ở đâu mà hãy đi vào ngay cõi lòng của mình. “Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được”. Nước Thiên Chúa “ở giữa anh em”, ở ngay trong lòng con người.
Vào thời Nga Hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ, quan tòa mới phát biểu như sau:
- Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa đến.
Nghe thế, người thanh niên dõng dạc trả lời:
- Thưa ông, tôi nhìn nhận là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Nếu hiểu được như vậy, thì chúng ta không thể mong Nước Trời đến như mong chờ kiểu ‘ngồi chờ sung rụng’, nhưng phải biết dấn thân, tham dự vào công cuộc đồng-sáng-tạo với Chúa và phải làm những công việc đó ngay từ hôm nay, ngay từ giây phút này.
Hãy nhìn vào tờ lịch ngày hôm nay, nhìn vào đồng hồ với việc bổn phận của ta lúc này mà bước đi những bước thật vững vàng trên con đường phục vụ, chúng ta sẽ được sống trong Nước Thiên Chúa.
Suy niệm 11: Nước Thiên Chúa ở giữa anh em
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn này gồm 2 ý:
1. Triều đại Thiên Chúa: Người do thái rất quan tâm đến Ngày mà Thiên Chúa thiết lập triều đại của Ngài. Họ nghĩ rằng đó là một biến cố trọng đại, đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và cho dân tộc họ. Họ rất mong ngày đó mau đến, nhất là khi họ đang phải sống tủi nhục dưới ách đô hộ của Rôma. Họ muốn biết khi nào và ở đâu ngày ấy xảy ra. Bởi thế hôm nay người pharisêu hỏi Chúa Giêsu: “Khi nào thì Triều đại Thiên Chúa đến?” Thực ra Triều đại Thiên Chúa tuy cũng là một biến cố trọng đại như người do thái nghĩ, nhưng không phải trọng đại nhìn theo cặp mắt loài người (vinh quang, chiến thắng v.v.). Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Bởi đó Chúa Giêsu nói “Triều đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta không thể nói “Ở đây” hay “ở kia”, vì này Triều đại Thiên Chúa ở giữa các ông”. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là Tin và theo Chúa Giêsu.
2. Ngày của Con Người: Ngày của Con Người tức là lúc Chúa Giêsu quang lâm, khi đó Triều đại Thiên Chúa sẽ hoàn thành trọn vẹn. Cũng như bao người khác, các môn đệ cũng mong ngóng Ngày đó. Nhưng Chúa Giêsu cảnh cáo: đừng quan tâm nghiên cứu về địa điểm và thời gian của ngày đó. Vô ích thôi, vì đặc tính của Ngày ấy là đến một cách nhanh chóng và bất ngờ.
B.... nẩy mầm.
1. “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”. “Ở giữa” có nghĩa là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho nên muốn xây dựng Nước Chúa thì phải xây dựng ngay trong lòng mình. “Ở giữa” cũng có nghĩa là một người âm thầm phục vụ giữa một tập thể nhiều người. Chính bởi vì Nước Thiên Chúa “ở giữa anh em” như thế nên Chúa Giêsu nói “Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được”.
2. “Vào thời Nga hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ, quan tòa mới phát biểu như sau: “Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa đến”. Nghe thế người thanh niên dõng dạc trả lời: “Thưa ông tôi nhìn nhận là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. Con người sống không tương lai là con người thiển cận khô héo, nhưng con người chỉ sống với tương lai là con người hão huyền.
- Hãy biết kết nối giữa tương lai và hiện tại, giữa hy vọng và thực tế.
- Đừng chỉ hướng mắt về tương lai xa vời huyền ảo, hãy nhìn vào tờ lịch ngày hôm nay, nhìn vào đồng hồ với việc bổn phận của ta lúc này. Một nhà thiên văn vừa bước đi vừa dán mắt vào những ngôi sao thăm thẳm xa vời có thể sẽ rơi tọt xuống cái hố ở sát chân mình.
4.. Đừng mong chờ Trời mới Đất mới theo kiểu ‘ngồi chờ sung rụng’, ‘ngồi mát ăn bát vàng’, nhưng hãy biết dấn thân, tham dự vào công cuộc đồng-sáng-tạo với Chúa.
5. “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21)
- Sa mạc thật đẹp… Cái để tô điểm cho sa mạc – ông hoàng nói nhỏ – là nó ẩn dấu một cái giếng ở nơi nào đó (Hoàng tử bé. Antoine de Saint-Exupéry)
Và thế giới cũng đẹp bởi vì ở giữa mỗi con người ẩn chứ tình yêu của Thiên Chúa. Từ khi Cha đóng dấu ấn yêu thương bằng máu Con mình trên mặt đất, mỗi con người không còn là hạt cát khô rát úa rũ giữa sa mạc. Đấy, con nhìn thấy Thiên Chúa giữa anh em, trong thiên nhiên. Con thấy bàn tay Chúa giang rộng khắp địa cầu, xoa dịu khổ đau từng giây phút.
Lạy Cha, con hạnh phúc biết bao khi biết rằng Cha đang ở giữa chúng con cùng với triều đại của Ngài. Và con mãi mãi tạ ơn Cha về điều đó. (Hosanna)
10/11 Biết Tạ Ơn Thiên Chúa.
- Viết bởi Lc 17, 11-19
Biết Tạ Ơn Thiên Chúa.
Thứ Tư tuần 32 thường niên. – Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
* Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe dọa niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Lời Chúa: Lc 17, 11-19
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Sấp mình tạ ơn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ)
Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.
Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình.
Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng.
Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời,
nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.
Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho:
cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc…
Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn,
tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.
Đức Giêsu đã làm bao điều tốt đẹp cho người thời của Ngài.
Nhưng ít khi Tân Ước nói đến chuyện họ cám ơn,
mà Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ.
Bởi đó bài Tin Mừng hôm nay thật độc đáo.
Mười người phong ở với nhau trong một ngôi làng.
Họ biết tiếng của Đức Giêsu và biết cả tên của Ngài.
Họ vui mừng thấy Ngài vào làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa.
Tiếng kêu của họ vừa bi ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành:
“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (c. 13).
Đức Giêsu đã chẳng chữa lành cho họ ngay lập tức,
như từng làm với một người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16).
Dù họ chưa được sạch, Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế
để cho thấy là mình đã khỏi rồi.
Họ đã tin tưởng, vâng phục, ra đi, và được khỏi bệnh.
Chỉ có một người, khi thấy mình được khỏi, liền quay lại.
Anh ấy lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu.
Đó là một người Samaria, thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18).
Anh được ơn lành bệnh, và hơn nữa anh có lòng biết ơn.
Tôn vinh Thiên Chúa thì làm ở nơi nào cũng được.
Nhưng anh muốn trở lại để gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình.
Cám ơn, biết ơn, tạ ơn, là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ.
Người phong xứ Samaria không chỉ được chữa lành.
Anh còn có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu.
Ơn này còn lớn hơn ơn được khỏi bệnh.
Đức Giêsu có vẻ trách móc khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18).
Ngài ngạc nhiên vì không thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn.
Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện.
Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban.
Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được.
Nhận ra ơn Chúa ban cho đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn.
Người có lòng biết ơn bao giờ cũng vui.
Họ hạnh phúc với những gì Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại.
Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.
Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được,
thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Suy niệm 2: Tạ ơn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tạ ơn là một hành vi nhân văn cao đẹp. Phát xuất từ một nhận thức đúng đắn. Nhưng trong đời sống thiêng liêng tạ ơn còn đem đến ơn cứu độ. Nên hành vi tạ ơn còn cao sâu hơn nhiều. Phát xuất từ nhận thức nền tảng. Thiên Chúa là tất cả. Ta không là gì hết. Thiên Chúa có tất cả. Ta không có gì hết. Sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Hành vi tạ ơn vì thế vừa sâu xa vừa hân hoan vô vàn. Người bệnh phong ngoại đạo nhận thức được ân huệ lớn lao đó. Bệnh phong bị lên án tử. Sống cũng như chết. Được khỏi bệnh là được lại sự sống. Hơn nữa anh lại là người ngoại đạo. Nên hồng ân thật không kể xiết. Vì anh không xứng đáng. Nhưng lại được ơn trọng hậu. Một niềm vui khôn tả dâng lên trong tâm hồn. Anh vội vàng chạy lại tạ ơn. Anh phủ phục vì nhận thức Thiên Chúa mới có quyền ban sự sống. Nhận thức đó đưa anh đến một ân huệ lớn lao hơn. Được làm con Chúa. Được ơn cứu độ.
Được ơn Chúa phải biết tạ ơn. Phải biết sử dụng ơn Chúa xứng đáng. Đó là điều những người quyền thế trên trần gian thường quên lãng. Hay cậy quyền cậy thế. Hay tự cao tự đại. Hay áp bức bất công. Đó thực là thiếu khôn ngoan. Sách Khôn ngoan khuyên họ nên ý thức ân huệ Chúa ban. Chính họ phải tuân giữ luật Chúa. Để biết sử dụng quyền thế cho đúng thánh ý Chúa. Để phục vụ nhân loại. Vì cuối cùng họ sẽ bị xét xử nghiêm nhặt hơn thường dân vì quyền hành đã được trao cho họ. “Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước. Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên chúng ta phải tuân phục thế quyền. Vì đó là quyền Chúa ban. Nhưng trên hết phải tuân phục Thiên Chúa. Thánh nhân tạ ơn Chúa vì ân huệ sự sống thiêng liêng nhờ bí tích Rửa tội. Đó là ân huệ nhưng không. Nhưng lại vô cùng cao quí. Vì ban cho ta sự sống đời đời: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (năm chẵn).
Ý thức hồng ân sự sống. Ý thức sự bất xứng bất toàn. Ý thức tình yêu thương vô cùng và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lòng ta sẽ không ngừng dâng lời tạ ơn. Đó là hành vi phải lẽ. Đem lại niềm vui cho cuộc đời. Đem lại ơn cứu độ cho ta.
Suy niệm 3: Thể Hiện Của Tự Do Thực Sự
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Ðó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Ðền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Ðấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Ðó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Dâng Lời Tạ Ơn
Chờ đợi Chúa đến là một trong những chủ đề trọng tâm của Kinh Thánh. Vì không nắm bắt và sống sứ điệp này nên chúng ta thường thiếu kiên nhẫn và do đó hầu hết những khó khăn của cuộc sống đều là kết quả của thái độ vội vã của chúng ta. Chúng ta thường không chờ đợi cho cây trái được chín muồi nhưng lại vội vã hái lấy khi nó còn xanh.
Chúng ta không thể chờ đợi sự đáp trả của Chúa cho lời cầu nguyện của chúng ta, bởi vì chúng ta quên rằng Chúa muốn chúng ta phải mất nhiều ơn thánh để chuẩn bị đón nhận ơn Ngài. Chúng ta được mời gọi để tiến bước với Chúa nhưng Chúa thường đi những bước rất chậm rãi. Thật ra, không phải chúng ta chờ đợi Chúa mà chính Chúa đang chờ đợi chúng ta. Lắm khi chúng ta không muốn đón nhận ơn Chúa đã dọn sẵn bởi vì chúng ta không muốn đến với Ngài. Có những lúc chúng ta phải sẵn sàng tiến tới với những bước đi đầy tin tưởng. Tất cả những lời hứa của Chúa đều có điều kiện. Chúa chờ đợi sự đáp trả của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn lại cuộc đời của tổ phụ Abraham để thấy rõ điều đó. Chúa đã hứa ban cho Abraham rất nhiều điều cả thể nhưng chắc chắn không một lời hứa nào sẽ được thực hiện nếu tổ phụ vẫn ở lại xứ Canđê. Abraham phải lên đường, ông phải bỏ lại đàng sau nhà cửa, bạn bè, xứ sở và dấn bước vào cuộc hành trình mà ông không thể nào lường trước được những gì có thể xảy ra. Hành trang duy nhất của tổ phụ Abraham là lời hứa của Chúa và lòng tin tưởng của ông.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mặc lấy thái độ tin tưởng phó thác ấy của tổ phụ Abraham. Chúa Giêsu quả thật là người đã chữa trị cho mười người phong cùi, nhưng khác với những phép lạ khác, ở đây thay vì sờ vào những người phong cùi hoặc nói một lời, Chúa Giêsu sai họ đi trình diện với các tư tế theo như luật Môisen qui định. Thánh Luca ghi lại rõ ràng rằng trong khi họ đi, họ được lành sạch. Quả thật, nếu họ đứng yên tại chỗ để chờ đợi, họ sẽ chẳng bao giờ được lành bệnh. Chúa chờ đợi để chữa trị họ và chính lúc họ tin tưởng để ra đi, ơn Chúa mới đến. Chúa luôn chờ đợi lòng tin, sự kiên nhẫn và cả sự chờ đợi của chúng ta. Có khi ơn Ngài chỉ đến sau nhiều năm tháng chờ đợi và nhất là sau nhiều năm tháng chiến đấu hy sinh của chúng ta. Một sự thất bại, một nỗi mất mát lớn lao, một căn bệnh bất trị, bao nhiêu đau khổ là bấy nhiêu tiến tới và chờ đợi để ơn Chúa được chín muồi.
Thật ra, đối với những ai có lòng tin thì tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa. Có điều gì thuộc về chúng ta mà không do Chúa ban tặng, có điều gì chúng ta làm được mà không là hồng ân của Chúa, và ngay cả những thất bại, rủi ro và đau khổ trong cuộc sống cũng đều là những cơ may của muôn ơn lành Chúa không ngừng tuôn đổ trên chúng ta. Con người vốn chỉ vô ơn bạc nghĩa. Trong mười người phong cùi được chữa lành chỉ có một người biết quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu. Biết ơn, xem ra không phải là điều tự nhiên của con người. Tâm tình ấy cần được dạy dỗ trau dồi ngay từ lúc con người vừa bập bẹ biết nói và nuôi dưỡng trong suốt cuộc sống. Tâm tình cảm mến tri ân cũng cần phải được trao dồi trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Trong một kinh Tiền Tụng, Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện rằng: "Dâng lời tạ ơn Chúa cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho chúng ta". Cầu nguyện trong tin tưởng phó thác và không ngừng dâng lời tạ ơn, đó phải là tâm tình cơ bản và thường hằng của người tín hữu Kitô chúng ta.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn được sống trong tâm tình ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Lòng tin chữa khỏi phong cùi
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc. 17, 12-13)
Vẫn còn trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi qua làng biên giới Sa-ma-ri, Người gặp những kẻ bị loại ra khỏi xã hội vì mắc bệnh ngoài da, người ta gọi là phong cùi.
Một thứ bệnh mất hết vẻ đẹp.
Những người cùi hủi đứng đàng xa đón gặp Người. Họ kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu”. Như thế họ đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng tỏ quyền phép và lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ xin Người thương xót. Người không thể từ chối trước lời van xin này, vì Người đến để giải thoát những kẻ bị ngược đãi, áp bức bởi bệnh tật và xã hội.
Đức Giêsu nhìn họ với ánh mắt bốc lửa tình yêu và đầy thương cảm. Người bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế, để chứng nhận cho họ đã sạch như luật buộc. Trong khi đi thì họ được lành bệnh”.
Chín người là Do thái, rất thỏa thích vì họ đã lại được thuộc về dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Họ cho mình là đáng được Thiên Chúa trả công. Sự lành bệnh của họ đã trả lại quyền cho họ.Nhưng chỉ có một người được hưởng niềm vui nhất trong tâm hồn.
Chỉ có người thứ mười là dân Sa-ma-ri thấy mình được khỏi, là kẻ tội lỗi đáng thương, bị Do thái khinh tởm, anh thấy mình được lành sạch nhất là trong tâm hồn mình, anh ý thức Thiên Chúa đang ngự trong con tim anh, vì anh đã nhận được sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu. Anh trở lại và sấp mình xuống chân Người mà tạ ơn, vì Thiên Chúa đang hiện diện trước mặt anh. Gặp gỡ được Thiên Chúa, lòng anh xúc động khôn tả, ăn sâu vào tận căn tính của anh, tận bản chất hữu thể của anh, anh chỉ có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cất cao lời xin thương xót tha thứ tội lỗi của anh với hết lòng khiêm tốn. Đó là một bài ca giải phóng, một bài ca trong sáng phát ra từ đáy con tim. “Anh đứng dậy đi về! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Lòng tin nhờ lời Người gọi anh, nhờ ánh mắt Người nhìn anh làm bừng dậy đức tin này. Đức tin này đã cứu chữa anh cả thân xác lẫn tâm hồn anh.
RC
Suy niệm 6: Hãy tạ ơn Chúa
Xem lại CN 28 TN C.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu trước khi được lành bệnh, ông là một người ngoại đạo. Lúc thập tử nhất sinh, ông đã được giới nghệ sĩ chuẩn bị tang lễ cho ông cách chu đáo. Tuy nhiên, khi có người Công Giáo đến thăm và gợi ý đưa ông đến đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế để cầu khấn Đức Mẹ, ông đã đồng ý. Khi đến nơi, kỳ lạ thay, ông không xin cho mình được khỏi bệnh, nhưng ông lại xin đức tin. Thật nhiệm mầu, không những ông được ơn đức tin, mà ông còn được lành luôn căn bệnh xơ gan cổ trướng của mình. Sau đó, ông đã được đón nhận Bí tích Thánh Tẩy và dành thời gian còn lại để tạ ơn Chúa bằng việc sống đạo thật tốt, làm nhiều việc từ thiện bác ái.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, hẳn ít có ai dán can đảm để xin ơn đức tin như Lê Vũ Cầu! Bởi vì khi xin ơn đức tin, chúng ta phải thay đổi đời sống, dám chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho đức tin mà mình đã lãnh nhận.
Ngược lại, chúng ta thường chạy đến với Chúa, Mẹ và các thánh để xin cho mình những ơn như: giàu sang, chức vị, sức khỏe... Xin những điều đó là tốt, tuy nhiên, xét về cấp độ trong ân sủng thì ơn đức tin là cao trọng nhất, vì nếu có đức tin, chúng ta dễ dàng an vui và hạnh phúc trong hoàn cảnh hiện tại, miễn sao danh Chúa được cả sáng và thánh ý Chúa được thực hiện.
Thật vậy, khi có đức tin, chúng ta sẽ nhận ra tất cả là hồng ân, vì thế, cần phải tạ ơn Chúa và yêu thương anh chị em mình.
Lời Chúa hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy mẫu gương đức tin của người phong cùi xứ Samaria. Chính nhờ lòng tin mà ông được chữa lành. Cũng nhờ lòng tin mà tâm tình đầu tiên của ông là tạ ơn Chúa. Thái độ này của người Samaria ngược lại hẳn với 9 người cùng bị phong cùi Dothái. Họ đã được lành bệnh, nhưng không một ai quay lại để cám ơn Chúa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ yêu mến Thiên Chúa, tin tưởng vào Ngài. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: nếu những người trong Tin Mừng hôm nay đã mắc phải những căn bệnh ghê sợ là bệnh cùi, thì hẳn mỗi người chúng ta cũng có những căn bệnh cùi tâm linh đáng sợ hơn rất nhiều, vì cùi tâm linh nó có thể hủy diệt cả tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, nhờ đức tin, chúng ta có hy vọng được lòng nhân từ của Thiên Chúa chữa lành và ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Tuy nhiên, khi được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta phải biết cám ơn Ngài và thay đổi đời sống nhờ hồng ân đức tin soi dẫn.
Thực ra, Thiên Chúa đâu cần con người phải cám ơn thì Ngài mới được vinh dự, nhưng việc chúng ta tạ ơn Ngài lại đem lại ơn cứu độ cho mình và mọi người nữa. Đồng thời, khi cám ơn Chúa, chúng ta đón nhận được lòng khiêm tốn và tôn nhận Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Như vậy, khi ta biết tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì “ơn lại thêm ơn”. Còn khi không biết cám ơn Chúa, thì “ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi” vì đã không biết sử dụng ơn Chúa cho hữu ích...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con ơn sám hối để đáng được Chúa chữa lành bệnh cùi tâm linh của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Biết ơn cảm tạ Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lòng biết ơn cảm tạ Chúa xuất phát từ việc nhận ra ơn phúc Chúa ban. Không nhận ra hồng của Chúa, không những đưa đến sự vô ơn mà còn ngăn cản chúng ta đến với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, “quen quá hóa nhàm”; “gần chùa gọi bụt bằng anh”: đó là những thái độ làm cho con người trở nên xơ cứng khô cằn, không còn bén nhậy tinh tế với những gì xảy đến cho mình.
Mười người cùi được Chúa chữa lành, thế mà chỉ có một người thấy được ơn cao trọng Chúa ban, mà người đó là người Samaria, một người bị coi thường, bị hạ giá. Con thấy những người thấp hèn, kém cỏi, có lẽ cảm nhận được ơn huệ hơn là người cao sang quyền quý.
Riêng con, nhiều lần con đã vong ân đối với Chúa, nhiều lần con không nhận ra được hồng ân và tình yêu thương Chúa dành cho con. Đời sống con được tràn ngập đầy hồng ân Chúa, cả tâm hồn lẫn thể xác. Con có được sức khỏe, có một gia đình ấm cúng, con được tham dự thánh lễ, được lắng nghe Lời Chúa và rước Chúa mỗi ngày… Biết bao nhiêu điều may lành, hạnh phúc phủ ngập đời con, nhiều khi con biết được, nhưng lắm khi con quên rằng tất cả đều do Chúa ban. Thật sự con đã uống nước mà quên nguồn!
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho những vong ân bội nghĩa của con. Xin cho con nhận ra hồng ân và tình thương của Chúa, để con đến với Chúa, để con đền đáp tình yêu bao la của Chúa cho xứng đáng. Xin giúp con mỗi ngày biết dâng lên Chúa lời tạ ơn. Amen.
Ghi nhớ: “Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.
Suy niệm 8: Sống tâm tình tạ ơn trong đời sống
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Kurt Emmerich - bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga:
Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.
Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh: “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.
Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận và rồi với nụ cười mỉm đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ: “Cám ơn” (Theo Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr. 343).
Suy niệm
Tin mừng Luca 17,11-19 gợi lại trong tâm hồn chúng ta tâm tình sống nhớ ơn, tạ ơn. Tinh thần này không chỉ là nét đẹp trong đời sống nhân văn mà còn là giá trị cao quý của tâm tình đức tin: Chúa Giêsu đánh giá cao lòng biết ơn qua biến cố Ngài chữa lành mười người bị phong hủi nhưng chỉ có người Samaria ngoại đạo quay lại tạ ơn Ngài và ca tụng Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu luôn sống trong tâm tình tạ ơn: Mỗi khi làm việc, Ngài cũng tạ ơn chúc tụng Chúa Cha, Ngài tạ ơn Chúa Cha khi làm cho Ladarô phục sinh (x. Ga 11,41-42), Ngài tạ ơn Cha khi làm phép lạ bánh (x. Mt 15,36; Mc 8,6...). Chúa Giêsu trở nên gương mẫu cho chúng ta về đời sống tâm tình tạ ơn mỗi ngày. Thánh Phaolô học tập gương Thầy Chí Thánh thể hiện qua các thư gửi các giáo đoàn, Ngài luôn tạ ơn Thiên Chúa, Ngài nhớ ơn sự quảng đại các cộng đoàn đã quảng đại giúp đỡ Ngài trên đường sứ vụ và Ngài cũng mời mỗi người tín hữu sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa với Ngài.
Sống tâm tình tạ ơn trong đời sống là một nét đẹp nhân bản và tác động của tâm tình đức tin. Tôi và bạn có được ngày hôm nay là do công lao của biết bao bàn tay và tâm hồn đưa chúng ta vào đời. Trước hết phải kể đến ơn tạo dựng của Thiên Chúa, không lạ gì khi Kinh Thánh có rất nhiều Thánh Vịnh, bài ca ca tụng Thiên Chúa, cụ thể như những câu Thánh Vịnh: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?” (Tv 116,12); “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở” (Tv 117,1)... Chúng ta phải mang bổn phận biết ơn, vì “Từ nguồn sung mãn của Người (Đức Giêsu), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).
Cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những gì chúng ta có được trong đời, dù rằng như Kinh Tiền tụng trong thánh lễ nhấn mạnh: “Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời” (Kinh Tiền tụng IV). Sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, chính lời tạ ơn trở nên hoa trái ân sủng cho chúng ta như phương pháp “Hồi tâm” của thánh Ignaxiô, nhấn mạnh đến tâm tình tạ ơn, tâm tình này giúp con tim chú ý đến những món quà mà chúng ta nhận được trong ngày. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta với thiên nhiên, với anh chị em, với bạn bè và thế giới xung quanh, đặc biệt với Thiên Chúa sẽ được sung mãn và dồi dào hơn trong tình yêu.
Hãy ghi nhận và biểu lộ lòng biết ơn với những người thân quen sống bên ta... Lòng biết ơn gắn kết chúng ta trong tình yêu, như là những bông hoa nhỏ chớm nở xua đuổi mùa đông băng giá nơi tình người và bắt đầu nảy nở “mùa xuân” trong cuộc sống mỗi ngày.
Ý lực sống
“Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
Kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm.
Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa,
đàn hát kính danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao”. (Tv 9,2-3)
Suy niệm 9: Chúa chữa mười người phong cùi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trên hành trình của Đức Giêsu về Giêrusalem, khi qua biên giới hai miền Samari và Galilê thì có mười người phong cùi đến xin Chúa chữa cho mình. Đức Giêsu không trực tiép chữa mà chỉ bảo họ đi trình diện với các tư tế để chúng tỏ mình đã được sạch. Họ tin lời Chúa, đang khi đi trên đường họ đã được khỏi bệnh. Nhưng sau khi được lành thì chỉ có một người trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín ngưới kia thì không. Còn chúng ta, có nhận ra ơn lành Chúa ban và biết dâng lời cảm tạ Người hay không?
2. Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nhắc nhở chúng ta phải có tinh thần biết ơn. Đức Giêsu đã chữa lành 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người quay trở lại để cám ơn Ngài, mà người đó lại là người Samaria, một người ngoại giáo. Những người có đạo lại trở thành ngoại đạo, vì họ không biết nói lời cám ơn, không biết sống tình người. Trong khi đó, dưới cái nhìn của Đức Giêsu, một người ngoại đạo lại trở thành có đạo vì đã biết sống tình người. Đức Giêsu đã nói với người Samaria:”Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Lòng tin ở đây là biết trở lại tìm Đức Giêsu và nói lên niềm tri ân của mình. Người Samaria ra về được lành không những trong thân xác, mà nhất là được chữa lành trong tâm hồn. Từ nay tâm hồn của ông được mở ra vì đã biết sống tình liên đới với tha nhân. Trong khi đó 9 người Do thái kia được hồi phục trong thân xác, nhưng vẫn tiếp tục cắt đứt tâm hồn họ khỏi mọi liên đới và ràng buộc với tha nhân, và đó chính là sự cùi hủi đáng thương nhất của con người (Mỗi ngày 1 tin vui).
3. Tin Mừng kể lại việc 10 người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Sở dĩ, 9 người Do thái được chữa lành không trở lại tôn vinh Thiên Chúa, có lẽ vì họ quá chú trọng đến việc thi hành lề luật là đi trình diện tư tế, để được công nhận đã khỏi bệnh và được hòa nhập vào cộng đoàn trở lại. Cũng có thể vì quá vui mừng tìm đến gia đình bạn hữu mà quên Đấng đã cứu mình. Nhưng dù lý do nào đi nữa, thì sự thật vẫn là những người được ơn đã quên mất Đấng là mọi nguồn ơn lành.
4. John Hughes là một tài xế taxi nại Nữu ước. Một sáng nọ, trong khi lau chùi xe, ông bắt gặp một chiếc nhẫn bằng ngọc bảo trên xe. Ông cố nhớ xem chiếc nhẫn này là của người hành khách nào. Cuối cùng, ông nhớ đến một người phụ nữ đã mang theo rất nhiều tiền. Sau hai ngày tìm kiếm, ông gặp lại người phụ nữ và hồi hộp trả lại chiếc nhẫn cho bà ta. Chẳng những không thưởng, mà bà ta cũng chẳng nói một lời cám ơn. Sau đó, ông John Hughes nói:”Tôi rất mừng vì dù sao cũng đã gặp được bà ta. Đó là việc tôi phải làm”.
5. Mười người đều được khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn chúa. Tỉ lệ 1/10 thật là đáng buồn. Vì thế có người nói rằng: “Con người ta thường hay ích kỷ: muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn và mau quên ơn Đời là thế: Lẽ ra phải
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Ăn cây nào rào cây ấy,
Uống nước phải nhớ nguồn,
Thì lại:
Ăn cháo đá bát,
Vắt chanh bỏ vỏ,
Có trăng phụ đèn,
Ăn mật trả gừng,
Ăn sung trả ngải...
Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, còn kẻ biết ơn, hàm ơn, thì lại quá ít, và số người này lớn quá (Phạm văn Phượng).
6. Truyện: Nhật ký của một bà già.
Đây là những lời của một bà già viết trong Nhật ký:
Chúa ban cho tôi biết bao ơn lành của Chúa,
Chúa cho tôi đôi mắt, để tôi nhìn ngắm bao kỳ công,
Chúa cho tôi đôi tai, để tôi nghe đủ âm thanh,
Chúa cho tôi đôi môi, để tôi hé mở nụ cười,
Chúa ban cho tôi hai tay, để tôi bưng chén cơm, cầm bút,
Chúa cho tôi đôi chân, dẫn tôi đi khắp nẻo đường,
Chúa cho tôi khối óc, để tôi biết phân biệt điều thực điều hư,
Mà đã có lần nào tôi nhớ đến những thứ ấy để cám ơm Chúa chưa?
Hay phải đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, tôi mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
Suy niệm 10: Lòng biết ơn
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài Tin Mừng này được đọc nhiều lần trong năm. Mỗi lần đọc câu chuyện này tôi lại cảm thấy có cái gì đó xót xa trong lòng. Xót xa vì số người “biết ơn” trên cõi đời này ít quá. Người Á đông chúng ta rất trọng sự biết ơn, nhất là đối với những bậc sinh thành: Biết ơn ông bà tổ tiên. Lòng biết ơn ấy đã được nâng lên thành một đạo: Đạo ông bà.
Bởi vậy, thái độ vô ơn sẽ là một thái độ khó hiểu trong cuộc sống.
Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói một tiếng nào. Cậu bé hỏi:
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế?
- Tôi có nói gì đâu.
- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
2. Lòng biết ơn là giá trị cốt yếu nhất của một đời người, vì nó nhắc nhở cho con người về chân lý nền tảng của cuộc sống, đó là sự sống không tự nhiên mà có. Tôi không tự mình mà hiện hữu, tôi không tự mình mà nên người. Tôi không thể sống mà không cùng sống với người khác. Tôi không thể hạnh phúc mà không cần nhờ đến người khác. Nếu tôi là con người có suy nghĩ một chút, tôi sẽ không thoát khỏi câu hỏi: Tôi bởi đâu mà ra? Và nếu tôi là người thành tâm đi tìm giải đáp cho vấn đề nhân sinh thì cuối cùng, tôi sẽ thấy rằng, tôi không thể là một con người biết ơn mà lại có thể là một người vô thần.
Đây là những lời của một bà cụ già viết trong Nhật ký:
Chúa ban cho tôi biết bao ơn lành của Chúa
Chúa cho tôi đôi mắt, để tôi nhìn ngắm bao kỳ công
Chúa cho tôi đôi tai, để tôi nghe đủ âm thanh
Chúa cho tôi đôi môi, để tôi hé mở nụ cười
Chúa cho tôi hai tay, để tôi bưng chén cơm, cầm bút
Chúa cho tôi đôi chân, dẫn tôi đi khắp mọi nẻo đường
Chúa cho tôi khối óc, để tôi biết phân biệt điều thực điều hư
Mà đã có lần nào tôi nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa chưa,
Hay phải đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, tôi mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
3. Thật là cảm động khi người trở lại cám ơn Chúa lại là một người ngoại đạo! “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15).
Hồi còn học Trung Học, có một cuốn sách tôi rất thích đọc đó là cuốn “Những Tấm Lòng Cao Cả” của Edmondo Amicis. Trong tác phẩm này tôi thấy có rất nhiều chuyện hay. Và đây là một trong những chuyện đó. Chuyện kể rằng:
Có một thầy giáo nọ ở tỉnh Torino nước Ý được phân công đến dạy học cho những người tù trong suốt mùa đông.
Để giảng bài, ông đứng giữa một căn phòng hình ống, chung quanh là tường cao trần trụi có rất nhiều những ô cửa sổ nhỏ gắn chấn song sắt: Mỗi ô cửa là một xà lim, bên trong những ô cửa đó là những khuôn mặt hốc hác, râu tóc bù xù và những ánh mắt hết sức dữ tợn của những tội nhân với nhiều loại tội khác nhau, hay là những khuôn mặt của những tội nhân đang bị dày vò bởi những lỗi lầm đã trót phạm của mình...
Thầy giáo cứ thế giảng bài, đi đi lại lại quanh phòng, còn học sinh thì áp sát cuốn vở vào song sắt mà hí hoáy ghi chép.
Trong đám tù có một người mang số 78 là chăm chỉ chuyên cần nhất. Anh nhìn xuống thầy giáo với đôi mắt cung kính mến phục. Anh còn trẻ. Trước đây làm thợ mộc. Trong một lần bị oan ức, anh đã tức giận ném mạnh cái bào gỗ vào đầu tên chủ xưởng khiến hắn bị tử thương. Anh bị kết án 20 năm cấm cố. Chỉ trong ba tháng học mùa đông, người tù ấy đã biết đọc biết viết khá thông thạo.
Một hôm, buổi học vừa xong, anh đưa tay ra hiệu mời thầy giáo lại gần ô cửa sổ của anh. Anh buồn rầu báo tin rằng, hôm sau anh sẽ phải chuyển đi trại giam khác. Anh ngỏ lời từ biệt và xin được hôn lên đôi bàn tay thầy giáo. Thuyết phục nài nỉ mãi, anh mới được toại nguyện. Người thầy khi rút tay lại thì thấy tay mình đẫm nước mắt...
Thời gian thấm thoát trôi qua, chợt một hôm, thầy giáo ra mở cửa thì thấy một người lạ mặt quần áo nghèo túng, râu tóc đã bắt đầu muối tiêu. Người ấy nghẹn ngào tự giới thiệu:
- Thầy ơi, con chính là người tù số 78 mà thầy đã dạy cho con biết đọc biết viết trong một mùa đông giá lạnh cách đây 6 năm. Bây giờ thì con đã được mãn hạn tù, con đến xin thầy vui lòng nhận cho một vật nhỏ mà tự tay con đã làm ra trong tù, con chỉ thành tâm muốn biểu lộ lòng biết ơn vô hạn của con đối với thầy.
Thầy giáo lại một lần nữa xúc động đỡ lấy món quà, ông nhận ra ngay đó là một chiếc bình mực làm bằng gỗ, trên mặt có khắc tỉ mỉ hình một quyển tập và một dòng chữ nắn nót trân trọng: “BIẾT ƠN THẦY...”
Suy niệm 11: Biết nhận ra ân huệ Chúa để cảm tạ tri ân
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
2. Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:
- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay
- Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
3. 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
B.... nẩy mầm.
1. Cám ơn là gì ? Điểm đáng chú ý là Thánh Luca không ghi lại lời cám ơn của Người Samari cho nên chúng ta không biết anh ta đã nói gì. Nhưng Thánh Luca ghi khá tỉ mỉ thái độ của anh ta: anh “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài”. Thực ra nói cám ơn Chúa thì chúng ta đã nói nhiều. Nhưng lòng biết ơn thực còn xuất phát từ sự nhận thấy tình thương Chúa, thức đẩy ta quay trở lại với Chúa, thôi thúc ta tôn vinh Chúa và sấp mình thờ lạy Chúa nữa.
2. Hai tiếng “Cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa:
- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.
- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn tớ...
Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn “người nhà” ? (Frank Mihalic).
3. Tâm lý chung:
- Ta quen nghĩ đến mình và quên nghĩ tới người, nhất là trong những lúc quá mừng, quá lo (những ngày đại tiệc, dễ quên cám ơn những người phục vụ bếp núc đã vất vả cho buổi lễ của ta).
- Ta dễ vụ lợi, ích kỷ, vô ơn: ‘Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất’, ‘Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi’.
4. Người Á đông chúng ta có thói quen trọng sự biết ơn: Biết ơn ông bà tổ tiên, Đạo ông bà… Nhưng cũng nên đề phòng thái độ biết ơn chỉ ngừng lại ở phạm vi công bằng, biết điều, ‘Ơn đền; oán trả’, và đi đến chỗ phải mau lo đền ơn để rũ nợ cho sớm.
5. Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi:
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế ?
- Tôi có nói gì đâu.
- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
6. Các tâm tình tạ ơn gương mẫu: - Magnificat - Benedictus - Nunc dimmittis - Thánh Lễ (Eucharistie).
7. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15)
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công
Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh
Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười
Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút
Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường
Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư…
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con luôn biết nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen. (Hosanna)
09/11 Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ
- Viết bởi Ga 2, 13-22
Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ.
Thứ Ba tuần 32 thường niên – CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính.
"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
* Thánh đường Latêranô là vương cung thánh đường của Đức Giáo Hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Contantinô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”.
Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của Đức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa.
LỜI CHÚA: Ga 2, 13-22
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Lễ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Lời Chúa: Ed 47,1-2.8-9.12; 1Cr 3,9c-11.16-17; Ga 2,13-22
Suy niệm 1: Tôi Sẽ Xây Dựng Lại
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Ðây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh,
là nhà thờ chính toà của Ðức Thánh Cha, giám mục Rôma,
là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà
để dành riêng cho việc phụng tự.
Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa,
thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu.
Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân
cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ.
Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại,
mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.
"Hãy phá hủy Ðền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại."
Ðức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem.
Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài,
thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại,
thân thể bị giết chết và được phục sinh.
Ðức Giêsu phục sinh trở nên Ðền Thờ của Giao Ước mới.
Ai ai cũng được mời gọi bước vào Ðền Thờ này.
Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.
Hội Thánh cũng được ví như một Ðền Thờ thiêng liêng,
mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8),
và Ðức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11).
Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định
"Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh em" (1Cr 3,17).
Hơn thế nữa, ngài còn nói:
"Thân xác anh em là Ðền Thờ của Thánh Thần" (1Cr 6,19)
Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Ðền Thờ.
Ðền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà
có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy.
Ðền thờ là những con người sống động.
Ðền thờ quan trọng nhất là con người Ðức Giêsu phục sinh,
một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần.
Mọi Ðền thờ đều phải qui về Ðền thờ đó.
Không gắn bó với Ðấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài,
chẳng Ðền thờ nào là Ðền thờ thực sự.
Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán,
Ðức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha.
Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy,
vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều.
Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.
Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ.
Nhà thờ đầu tiên là con người tôi.
Xin Ðức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần,
cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế.
Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa
để Hội Thánh thật sự là Ðền thờ,
nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Ðền thờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thân xác là Ðền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?
Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Suy niệm 2: Đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thân Thể Đức Kitô Phục Sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho mọi người. Mỗi người Kitô hữu cũng phải trở thành một đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa đã ban cho giáo xứ chúng con có được ngôi thánh đường, để hàng ngày chúng con đến hiệp thông với nhau trong lời kinh, trong tiếng nguyện cầu, nhất là cử hành thánh lễ.
Lời Chúa hôm nay còn mạc khải cho con biết chính Thân Thể Phục Sinh của Chúa là đền thờ mới. Đền thờ đích thực là nơi thờ phụng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật. Nhờ lòng tin vào Chúa, nhờ hiệp nhất với Chúa qua bí tích Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu cũng là một ngôi đền thờ của Chúa.
Lạy Chúa, có những lúc con xót xa vì những ngôi thánh đường bị đóng cửa. Con tiếc xót vì những ngôi thánh đường bị biến thành nhà kho, khách sạn… Còn đền thờ Chúa nơi chính bản thân mình, con lại bỏ hoang. Những nỗi lo toan cho cuộc sống hằng ngày, miếng cơm manh áo, tiền bạc…, cùng với những tội lỗi dần theo năm tháng chồng chất đầy lòng con, đã làm ngôi đền thờ nơi con nên hoen ố, xấu xa.
Lạy Chúa, xin Chúa thanh tẩy và giúp con vất bỏ những gì làm xấu xa đền thờ Chúa nơi tâm hồn con. Xin ơn thánh hoá tưới gội và trang điểm cho con nên xứng đáng đón Chúa trong bí tích Thánh Thể. Xin cho con biết ẩn mình nơi Chúa để tâm hồn được trong sạch, bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Người có ý nói đền thờ là thân thể Người”.
Suy niệm 3: Cung hiến thánh đường Latêranô
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
* lịch sử
Đại thánh đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế và từ thế kỷ XII cũng được dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả, là nhà thờ cổ nhất của Đức Giáo Hoàng, được mang danh là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”.
Sau khi chiến thắng các đối thủ tranh giành ngai hoàng đế, Constantin đã ký sắc lệnh Milanô vào năm 313 công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc La Mã. Thế là các tín hữu lục tục từ các hang toại đạo bước vào xã hội công khai, không còn sự bắt bớ nữa.
Hoàng đế Constantin làm một cử chỉ đẹp: nhường cung điện ở đồi Latran cho ccác Giáo Hoàng làm nơi trú ngụ. Năm 324 Đức Giáo Hoàng Sylvester I đã thánh hiến đại thánh đường và cự ngụ tại nơi đây cho đến thế kỷ thứ XIV, sau đó mới dời về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô. Đây cũng là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, lý do: ngai toà của vị Giám mục Rôma được đặt tại đây.
Đền thờ này được gọi là “mẹ các nhà thờ” vì là nhà thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc La Mã và vì cũng là nhà thờ chính tòa của địa phận Rôma, nơi đó có ngai toà của Đức Giáo Hoàng.
Qua các trận hoả hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức của Pháp... đại thánh đường Lateranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngáy 28.4.1726 sau một công trình tái thiết lớn, Đức Bênêđíctô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9.11 là ngày thánh hiến Đền Thờ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Hành động của Chúa Giêsu hôm nay rất đặc biệt: bình thường Ngài rất hiền hòa, thế mà hôm nay Ngài la lối, lật nhào bàn ghế, lấy dây làm roi mà quất...
2. Tại sao? Chính Ngài nói rõ: “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán”. Câu này hàm chứa nhiều ý nghĩa:
- Đền thờ là nhà của Thiên Chúa, phải dùng để thờ phượng Thiên Chúa.
- Nhưng lắm khi người ta đã biến đền thờ thành nơi buôn bán (nghĩa đen: như trong chuyện này; nghĩa bóng: dùng tiền bạc lễ vật để mong mua lấy ơn Chúa).
3. Trong những câu đối đáp với người do thái, Chúa Giêsu còn cho biết thêm chính thân thể Ngài là Đền thờ.
B.... nẩy mầm.
1. Nhiều người đến nhà thờ như đi chợ để mua bán: họ đưa cho Chúa tiền bạc, hoa đèn, lễ vật và đòi Chúa đưa cho họ những ơn mà họ muốn. Những người ấy có khác gì những kẻ buôn bán trong Đền thờ Giêrusalem ngày xưa bị Chúa đánh đuổi đâu?
2. Hs 6,6: “Ta muốn tín nghĩa chứ không phải tế tự, và nhận biết Thiên Chúa hơn là lễ thượng hiến”.
3. Chính Chúa Giêsu mới là Đền thờ đích thực. Bởi vậy, đến nhà thờ mà không gặp Chúa Giêsu thì cũng như không đến nhà thờ. Trong mọi sinh hoạt cuộc sống ở mọi nơi mà gặp được Chúa thì cũng như đang ở trong nhà thờ.
4. 1 Pr 2,5 “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng”; 1 Cr 3,16 “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”
5. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã không ngại phá đổ những gì lệch lạc hầu sắp xếp lại sự thờ phượng Thiên Chúa cho đúng hướng. Tâm hồn mỗi người chúng ta cũng là một đền thờ. Nếu hôm nay Chúa Giêsu ra tay, Ngài sẽ nổi giận về điều gì? lật nhào những gì? lấy roi quất những gì?
6. Nhà thờ gỗ đá đã khiến Thánh Augustinô nghĩ đến nhà thờ tâm hồn. Việc xây dựng nhà thờ vật chất làm Ngài nghĩ đến việc xây dựng nhà thờ tâm hồn. Vì thế, trong lễ khánh thành một nhà thờ ở giáo phận mình, ngài đã giảng như sau: “Điều đã diễn ra lúc xây cất nhà thờ này cũng diễn ra khi các tín hữu tụ họp nơi đây: khi anh chị em nghe loan báo Lời Chúa, khi anh chị em lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi anh chị em nghe giảng huấn, đó là những lúc anh chị em được cưa, được bào, được ráp bởi tay các thợ mộc thợ nề. Nhưng ta chỉ xây dựng Nhà Chúa thực sự nếu mọi người đều hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ”. 1. Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
7. “Các môn đệ của Ngài nớ lại Lời đã chép trong Thánh Kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2,17)
Khi thấy những kẻ buôn bán xâm lấn Đền thờ, Đức Giêsu đã dám xông đến và xua đuổi họ mà không sợ phản kháng, chống đối. Ngài cũng đã hy sinh mạng sống để thiết lập một Đền thờ mới cho Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với loài người.
Phần tôi, tôi đã làm những gì để xây dựng và tô điểm cho ngôi Đền tờ tâm hồn? Nhiều lần tôi đã không dám chống lại, nhưng còn đồng lõa với những kẻ làm ô uế đền thờ tâm hồn tôi. Vâng, chính lúc tôi phạm tội là lúc tôi biến đền tờ tâm hồn thành nơi đổi chác, buôn bán: nào là tiền tài, ích kỷ; nào là danh vọng, địa vị…
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã dám làm tất cả vì Đền thờ. Hôm nay xin cho con dám chấp nhận mọi khổ đau, khó nhọc để xây dựng một đền tờ xứng đáng cho Chúa (Hosanna)
Suy niệm 4: Đền thờ tâm hồn
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mohandas Karamchand Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của người dân trong đấu tranh bất bạo động.
Du học ở Anh và sau đó về Ấn Độ, Gandhi làm luật sư, tiếp đó làm việc tại Nam Phi - thuộc địa của nước Anh. Nam Phi nổi tiếng về phân biệt chủng tộc. Ở Nam Phi, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo, lập tức giáo huấn của Đức Giêsu cuốn hút ông, nhất là tám mối phúc thật. Ông rất tâm đắc trước Lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, Do Thái hay lương dân...
Quyết định học đạo, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Kitô giáo.
Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ, thật là bất ngờ khi người giữ cửa trả lời: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu anh muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin”. Gandhi rất sốc, tức giận, bỏ về nhà và không theo đạo Kitô.
Suy niệm
Lễ Vượt qua và các dịp lễ quan trọng của dân Do Thái. Người trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đền thờ dự lễ. Không chỉ người lân cận trong vùng, mà mọi dân Do Thái khắp thế giới có điều kiện cùng trở về đền thánh.
Người hành hương đến đền thờ thường dâng lễ vật như bò, chiên, chim câu..., chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu cũng dâng lễ vật khi dâng Chúa vào đền thánh (x. Lc 2,24). Cho nên, ở đền thánh có người bán bò, chiên, bồ câu để phục vụ cho việc lễ tế của người Do Thái. Người ta phải đổi tiền Rôma sang tiền Do Thái để nộp thuế đền thờ mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp nửa đồng bạc Do Thái (x. Mt 17,27). Một số người khác đổi tiền để tự nguyện dâng cúng cho đền thờ (x. Lc 21,1-2).
Với sự hiện diện của thú vật, đền thờ là nơi thánh bị ô uế và những người đổi tiền đã làm tục hóa sự thánh thiêng của đền thờ. Cho nên, Đức Giêsu đã lên tiếng: “Đừng biến nhà Cha ta thành một cái chợ” (Ga 2,16), và Ngài đã đánh đuổi phường buôn bán cùng với các loài thú vật ra khỏi đền thờ, để trả lại sự thánh thiêng của nơi thờ phượng Thiên Chúa.
Chính trong khi thanh tẩy đền thờ - một đền thờ được xây dựng bằng đá cho việc tôn thờ Thiên Chúa, Chúa Giêsu hé mở cho nhân loại biết một sự tôn thờ mới được hình thành nơi thân thể Ngài: “Cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu nói đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thân thể được phục sinh sẽ là đền thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực như văn sĩ Tertullianô khẳng định: “Đức Kitô là đền thờ thật của Thiên Chúa, đền thờ mở cho tất cả, nơi Thiên Chúa đón nhận sự thờ kính thật sự”. Cho nên, việc tôn thờ Thiên Chúa từ nay không chỉ trong đền thánh Giêrusalem lộng lẫy bằng đá với các trang trí vàng ròng, nhưng việc thờ phượng dựa trên căn bản trong chính Ngài: “Là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), với thân thể phục sinh của Ngài. Cách thờ phượng trong chính sự thật, được Ngài mạc khải cho nhân loại khi hé mở cho phụ nữ Samaria (x. Ga 4,21.23).
Tham dự vào mầu nhiệm sự chết, phục sinh của Đức Kitô, chúng ta tin và làm vào những gì Ngài dạy. Người Kitô hữu trở nên đền thờ của Thiên Chúa như thánh Phaolô viết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?.Vì đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16-17).
Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu truyền lệnh: “Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!”, lời đó trực tiếp nói với tôi với bạn, với tất cả mọi tín hữu tin vào Chúa Kitô - đền thờ mới của Thiên Chúa, vốn thường xuyên bị tục hóa, ô uế do chính tội lỗi, cần được thanh tẩy. Thật thế, cần cố gắng thanh tẩy không ngừng, bằng tâm tình sám hối và dấn thân bác ái, đặc biệt trong Mùa Chay, để đền thờ tâm hồn người tín hữu luôn là nơi Thiên Chúa ngự …
Ý lực sống
“Thân xác là đền thờ Thiên Chúa” (1Cr 6,19), “xin Ngài thanh tẩy” (Tv 50,4).
Suy niệm 5: Cung hiến Thánh đường Latêranô
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Hai loại đền thờ
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được, vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do Thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, giáo họ nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng, nhưng luôn phải có vẻ trang nghiêm đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt, nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương!
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo, và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại,thông cảm và tha thứ.
Tôn trọng đền thờ chúng ta
Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68,10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giày ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta.
Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, màu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn Độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!”
Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: “Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!”
Suy niệm 6: cung hiến thánh đường Latêranô
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Đây là vương cung thánh đường xưa nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất trong số rất nhiều thánh đường ở Roma.
1. Theo lịch sử thì đền thờ này được xây nên ngay sau khi Hội Thánh vừa thoát ra khỏi tình trạng hang toại đạo có nghĩa là vừa thoát ra khỏi tình trạng bị bắt bớ dưới các triều hoàng đế Rôma. Năm 313 lệnh bắt đạo được bãi bỏ. Năm 320 tự do tôn giáo được pháp luật công nhận và bảo hộ. Sự việc này đã làm nức lòng các tín hữu và ngay lập tức người ta nghĩ ngay đến việc phải xây dựng những đền thờ để làm công việc thờ phượng Chúa cho xứng đáng. Trong số những nhà thờ được xây vào lúc đó người ta đặc biệt chú ý đến ngôi đền thờ dành cho vị Giám Mục Roma đồng thời cũng là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội phụ trách. Chính Hoàng đế Constantinô đã xin biến nơi ông đã được rửa tội trong cung điện Latêranô để làm cơ sở cho việc xây dựng ngôi đền thờ này. Người ta cũng đã khiêng cái bàn thờ nơi các Giám mục Roma đã từng dâng lễ trong những năm bị bắt bớ về đặt ở trong ngôi thánh đường mới. Lúc đầu người ta dâng đền thờ này để kính Đấng Cứu Thế. Về sau người ta lại gọi đền thờ này là Vương cung Thánh đường dâng kính Thánh Gioan Tẩy giả. Rồi từ đời này qua thời đại khác, đền thờ Latêranô luôn được coi là Nhà thờ chính tòa của các vị Giám mục thành Roma mà tất cả các Giáo Hội trên Thế giới đều coi là Giáo Hội Mẹ. Đến thế kỷ thứ XVI thì ngôi vị này mới được chuyển đổi qua một ngôi Đền thờ mới: đó là Đền thờ thánh Phêrô hiện ở trong cung điện Vaticanô. Xét về phương diện lịch sử và ý nghĩa, thì sự thay ngôi đổi vị này không có ảnh hưởng gì đến ngôi đền thờ đặc biệt chúng ta mừng kính hôm nay. Chính vì thế mà hằng năm cả Hội Thánh vẫn hướng về nó như người mẹ muôn thuở đã sinh ra hàng hà sa số những người con trên mặt đất này.
Như vậy, về phương diện lịch sử chúng ta thấy việc mừng kính có một giá trị rất thiết thực. Nó hướng chúng ta về một quá khứ hào hùng của Giáo Hội, một quá khứ nói theo kiểu của Renan đã có thời phải thở bằng máu, nhưng lại là một quá khứ dể lại những tấm gương về đời sống anh hùng, về niềm tin bất khuất và nhất là về một lòng yêu mến vô bến bớ đối với Thiên Chúa, làm cho những thế hệ đi sau phải noi gương. Nhắc lại những biến cố như thế thật là việc nên làm nhất là đối với chúng ta ngày hôm nay.
2. Nhưng thử hỏi có phải khi mừng lễ cung hiến thánh đường Lateranô, Giáo Hội chỉ có ý nhắm tới mục đích này mà thôi không? Không! Giáo Hội còn muốn cho chúng ta nghĩ tới những mục đích khác.
Như anh chị em đã biết: Đền thờ có một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt của cộng đoàn dân Chúa.
* Ta thấy trong Cựu Ước đến thờ có một giá tri rất lớn: Đền thờ là nhà của Thiên Chúa.
* Đến thời Tân ước thì chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đẩy nó lên một cấp độ cao hơn. Đây không phải là đền thờ bằng những nguyên liệu đất đá nhưng là bằng chính cõi lòng của con người. Trong câu truyện Chúa thanh tẩy đền thờ mà bài Tin Mừng hôm nay ghi lại chúng ta thấy được điều đó.
Như vậy thì chúng ta đã rõ việc mừng lễ cung hiến đền thờ Lateranô hôm nay không phải chỉ là một việc làm ôn lại lịch sử mà là một việc làm củng cố niềm tin của chúng ta. Chúng ta mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa. Mỗi người là đền thờ cũng có nghĩa là mỗi người có chỗ cho Chúa trong tâm hồn của mình. Một thi sĩ Đức nói: Chúa có giáng sinh ra cả 100 lần ở Belem cũng vô ích cho bạn nếu Ngài không sinh ra được ở trong băng hoại hồn của bạn” Như vậy thì trách nhiệm của mỗi người thật nặng nề. Thánh Phaolô nói một câu mà tôi cho là rất khủng khiếp: “Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy”.
Vậy phải biết quí trọng con người chúng ta. Anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải làm gì để chu toàn được bổn phận đó? Tôi xin để nghị một vài công việc.
Giống như một toà nhà muốn cho nó được đứng vững và tồn tại lâu dài chúng ta phải biết bảo trì nó. Bảo trì bằng cách săn sóc chăm lo cho nó. Chăm lo như thế nào?
1. Trước hết hãy lo cho nó được sạch sẽ. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã mô tả tầm hồn của một người tội lỗi là tâm hồn chất chứa đầy những thói hư tất xấu như “gian tà, giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian, và vu không” và Chúa bảo “đó là những cái làm cho con người ra ô uế”(Mt 15,19-20). Một tâm hồn như thế không thể xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa được.
2. Tiếp theo muốn cho một ngôi nhà được đẹp đẽ chúng ta phải biết trang hoàng cho nó. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã mô tả tâm hồn thánh thiện là một tâm hồn được trang hoàng bằng hoa quả của Thánh Thần. Hoa quả đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ” (Ga 5,22-23)
3. Sau cùng một ngôi nhà dù được trang hoàng đẹp đẽ cách mấy đi nữa nhưng nếu nó không có sức sống thì nó cũng trở thành vắng lạnh không phát huy được tác dụng. Hãy làm cho tâm hồn chúng ta bằng cách để cho ơn Chúa hoạt dộng trong chúng ta. Thánh Phaolô dã dám tự hào mà noí: “Tôi đã không để cho ơn Chúa ra vô ích trong tôi”
Ngày kia Bà thánh Catarina thành Sienna bị một cơn cám dường như quá sức của mình. Bà phải vất vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn cám dỗ đã qua, Bà thấy Chúa hiện ra Bà liền hỏi Chúa: - Lạy Chúa lúc tâm hồn con bị cám dỗ đầy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?
Chúa trả lời: - Con yêu quí của Cha, Cha ở ngay trong lòng của con.
- Trong lòng của con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong những lúc như thế được?
- Vậy con hãy trả lời cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con vui sướng hay cực khổ?
- Lạy Chúa khi đó con vô cùng đau buồn và khổ cực.
- Con biết ai đã làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu không phải là Cha ở trong lòng con? Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con làm cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần con, con đã hết sức chống cự, còn Cha, Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ làm cho con trở nên vững mạnh và giúp con có thêm nhiều công nghiệp”
Suy niệm 7: Đền thờ mới
Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.
Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.
Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.
Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
Suy niệm 8: Latêranô và những ngôi Đền Thờ
(Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.
Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!
Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…
Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.
Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:
- Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.
- Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.
- Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.
- Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.
Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.
Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9. 11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.
Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.
Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.
Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.
Suy niệm 9: Cung Hiến Thánh Đường Latêranô Ga 2,13-22
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh đường là nơi qui tụ dân Chúa, là nơi các tín hữu tới cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Thánh đường là nơi Chúa ngự, là nơi Mình Máu Thánh Chúa luôn hiện diện, là nơi dân Chúa lãnh nhận muôn vàn ơn huệ, muôn vàn hồng ân của Chúa.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ
Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng. Đức Thánh Cha với tư cách là Giám Mục Roma, cũng đặt ngai tòa của mình tại nhà thờ chánh tòa. Đền thờ này được xây dựng vào năm 320 khi Giáo Hội Chúa Kitô, tượng trưng cho Tòa Thánh Roma vừa thoát qua khỏi một thời kỳ cấm cách, bắt bớ khủng khiếp. Đền thờ này do công của Hoàng đế Constantinô xây dựng để tôn vinh danh Chúa và để dân Chúa có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đền thờ này đã được cung hiến vào khoảng thời gian nói trên.Lịch sử thuật lại rằng khi hoàn tất ngôi thánh đường này, nhiều đoàn người khắp trong thành phố Roma đã tuôn đến để dự lễ khánh thành và hiệp ý trong nghi lễ cung hiến ngôi thánh đường dùng đặt ngai tòa của Đức giáo hoàng, với tư cách là Giám Mục Roma. Ngôi đền thờ Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu thăng trầm của đạo giáo, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn của các thời Hoàng đế Roma trị vì. Biết bao nhiêu người đã tới thánh đường Latêranô để xin rửa tội, gia nhập dân thánh Chúa trong những đêm phục sinh và mừng lễ vượt qua tại đây.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ NGÀY NAY
Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm tuần thánh Đức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Roma, với các Hồng y, Giám mục và Ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là rửa chân cho các tông đồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kính yêu Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và cho Giáo Hội luôn trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
Suy niệm 10: Đền thờ tâm hồn
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).
2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.
Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
"Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).
3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
Suy niệm 11: Cung Hiến Thánh Đường Latêranô.
Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.
Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.
Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.
Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.
“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”
+ Ghi nhớ
Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.
+ Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Suy niệm 12: Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
- Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia (1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga 1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng cách này, dự đoán “giờ” của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng với đức tin, với lòng gắn bó riêng.
- Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng, Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua) tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15). Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên Chúa bằng tiền bạc.
- Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác. Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi. Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?" (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ biết đó là cái chết của Người: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.
3. Một vài câu hỏi cá nhân
- Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?
- Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát dứt khoát của bạn không?
Suy niệm 13: Cung hiến Thánh Đường Latêranô
(Lm Hồ Thông)
Đại thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”, bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo Hoàng.
Lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726 cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.
Nhưng Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài? “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).
Ed 47, 1-2, 8-9, 12
Bài Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ lýý tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.
1Cr 3, 9-11, 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.
Ga 2, 13-22
Tin Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục sinh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)
Trước tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố hiện nay.
Sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.
Sứ điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa lýý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải một ýnghĩa mới.
1. Thực tại địa lý.
Dòng nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy diễn tả thực tại địa lýý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687 tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.
2. Biểu tượng vườn địa đàng.
Nhưng thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước khi phạm tội.
Đền Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện, nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.
Đức Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 37-38).
Nước biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền. Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).
3. Bên phải Đền Thờ:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời. Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự sống đời đời.
4. Đền Thờ.
Vào Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta Suy niệm về Đền Thờ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy. Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống 18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp nối công việc của thánh nhân.
Dân Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp. Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.
1. Nhà Thiên Chúa.
Cộng đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).
2. Đền Thờ Thiên Chúa.
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng từ “hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực thánh” của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.
Khái niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa (Bài Đọc I).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.
Sau cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở Ca-phác-na-um.
Phần mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.
Phản ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu trọn vẹn ýý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.
1. Khung cảnh bên ngoài.
Đền Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên. Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ. Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.
Chính ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ. Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế cao cấp – đứng đầu là thượng tế - đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền “ô uế” do có đúc hình vị hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày đại lễ.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua.
Khung cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan.
Khi đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh kýý để lộ những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng có.
Trước hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể phá hủy…” (Mc 14: 58).
Ngoài ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Hơn nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa “nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện” hay “cung thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Tình tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.
Suy niệm 14: Tẩy uế Đền Thờ
(Trích: tgpsaigon)
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2,16)
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.
Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hêrôđê.
Sự bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga 15,5).
“Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
“Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
Thế nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Họ còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4,23-24).
Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16; 14,26).
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra oai nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ mà không ngại bị họ thù ghét, làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số người thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ trở thành một bãi rác công cộng, mất vẻ mỹ quan nơi Nhà Chúa. Rồi những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích...gây cảnh ồn ào náo loạn, làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng. Xin cho chúng con can đảm đóng góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người. Amen
Suy niệm 15: Thanh tẩy
(Lm Trần Ngà)
Từ thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem...
Chúa Giêsu là Đấng rất hiền lành, và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường...” ( Mt 11, 29 )
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người Samaria ngăn chặn không cho đi qua làng của họ mà tiến về Giêrusalem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, muốn khiến lửa trời xuống đốt, Chúa Giêsu quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy của các ông. (Lc 9, 54)
Khi có người cho Chúa là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), thậm chí là người bị quỷ ám (Ga 7, 20), là người dại dột... Chúa Giêsu cũng chẳng lấy làm điều.
Nhất là trong cuộc thương khó, người ta lăng nhục hành hạ Chúa đủ điều, Chúa vẫn nín thinh không nói một lời. Khi chịu treo trên thập giá đau đớn lại còn bị chế nhạo, Chúa Giêsu chẳng những không giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ lăng nhục Ngài. Nói chung, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Ngài không hề biết giận là gì.
Vậy mà... khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Ngài không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”
Thế là để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem khỏi bị tục hoá, Chúa Giêsu phải dùng đến roi vọt, dùng đến biện pháp cứng rắn không ai ngờ như “đổ tung tiền của những người đổi bạc”, “lật nhào bàn ghế”, dùng roi để ‘xua đuổi tất cả bọn’ ra khỏi Đền Thờ!
Thật không thể ngờ được! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà “cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” ( Mt 12, 20 )... giờ đây phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giêrusalem. Điều đó chứng tỏ cho thấy rằng việc làm ô uế Đền Thờ là một hành vi rất tai hại khiến Chúa Giêsu đau khổ và bất bình xiết bao!
Đến thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thân thể chúng ta cũng là những Đền Thờ, xét ra còn cao trọng hơn Đền Thờ Giêrusalem xưa. Trong chương 3 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 13) và qua chương 6, Thánh Phaolô tái khẳng định chân lý này: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1 Cr 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng có Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị nơi những ai yêu mến và tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Bản thân chúng ta là những Đền Thờ cao quý hơn mọi thánh đường trên khắp thế gian, vì đây là những Đền Thờ sống động, có linh hồn, có trí khôn... chứ không phải bằng gỗ đá vàng bạc vô tri vô giác, được chính Ba Ngôi Thiên Chúa xây dựng nên theo hình ảnh Ngài, được Chúa Giêsu đổ Máu Thánh ra mà cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, được Chúa Giêsu tô điểm và bồi bổ bằng lời hằng sống cũng như bằng chính Thịt Máu Ngài và nhất là mai sau được đưa lên cõi trời vinh hiển. Không một ngôi Thánh Đường vật chất nào trên thế gian có được những vinh dự lớn lao như thế.
Vậy nếu Chúa Giêsu yêu quý Đền Thờ Giêrusalem một thì Ngài còn yêu quý các Đền Thờ sống động này gấp trăm. Thế nên, Ngài đã không tiếc khi lấy chính Máu Thánh mình mà thanh tẩy chúng; không tiếc hiến mạng mình để chuộc lại chúng. Như thế thì bản thân mỗi người Ki-tô hữu là Đền Thờ vô giá!
Những người làm ô uế Đền Thờ Giêrusalem thì bị Chúa Giêsu đuổi đi bằng roi vọt; còn ai làm hư hại Đền Thờ thiêng liêng nơi người tín hữu thì bị Chúa đe phạt nặng nề hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42) Có lẽ không còn răn đe nào nghiêm khắc hơn!
Xin hãy hồi tâm...
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy cảnh tỉnh nhìn lại mình, nhìn thật sâu vào nội tâm sâu thẳm của bản thân chúng ta là Đền Thờ Thiên Chúa để nhận ra những ý tưởng đen tối, những tham vọng xấu xa, những đam mê tội lỗi đang ẩn mình trong đó... để sớm quét sạch chúng đi. Chính mỗi người chúng ta là thủ phạm trực tiếp làm ô uế Đền Thờ thân thể mình chứ không ai khác. Vậy hãy liệu mà thanh tẩy kịp thời trước giờ Chúa Giêsu lại đến.
Suy niệm 16: Latêranô
Hôm nay chúng ta mừng kính ngày cung hiến đền thờ Latêranô, đền thờ đầu tiên của Giáo hội La mã, được coi như là mẹ của các đền thờ khác. Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám mục Rôma. Đền thờ này được hoàng đế Constantinople xây dựng vào năm 320, thời gian Giáo hội vừa thoát khỏi cơn bách hại tàn khốc để bước vào giai đoạn huy hoàng.
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh thiêng, là nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận những sự thờ kính và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống thần linh.
Chắc hẳn nơi cư ngụ của các thần linh không thuộc trần gian này, nhưng có thể nói, đền thờ đồng hóa với nơi cư ngụ ấy, nhờ đó con người giao tiếp được với thế giới của các thần linh. Chính trong chiều hướng này mà chúng ta tìm thấy những hình ảnh của đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người, nhưng đó mới là một dấu chỉ tạm thời, sẽ được thay thế bằng thân xác Đức Kitô với Giáo hội của Ngài, như là một đền thờ mới và có tính cách vĩnh cửu.
Vào thời các tổ phụ, người Do thái không biết đến đền thờ, cho dù họ vẫn có những nơi thánh để kêu cầu với Đức Giavê như Bêtal, như Sichem, như Sinai…Nhưng rồi sau đó, họ đã dùng một thánh điện lưu động, để Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân chúng đang được Ngài dẫn qua sa mạc. Đó là nhà tạm với hòm bia giao ước.
Sau khi người Do thái đã tiến vào miền đất hứa và lập thành vương quốc, bấy giờ Đavid mới nghĩ đến việc xây dựng đền thờ dâng kính Thiên Chúa. Ước mơ ấy được Salomon thực hiện. Ông đã xây dựng đền thờ Giêrusalem với tất vả vẻ huy hoàng của triều đại ông, và Thiên Chúa đã nhận đền thờ ấy như nơi cư ngụ của Ngài. Vì thế, đền thờ Giêrusalem trở nên trung tâm sinh hoạt chính trị về tôn giáo của người Do thái. Người ta từ khắp nơi hành hương về Giêrusalem vào những dịp lễ lớn để cầu nguyện, kết hiệp và tôn thờ Thiên Chúa.
Năm 587 trước công nguyên, đền thờ Giêrusalem bị vua Nabucodonosor phá hủy và bắt một số người Do thái phải lưu đày sang Babylon. Sống dưới ách nô lệ với những đau khổ và nặng nhọc, nhưng lòng họ vẫn hướng về đền thờ Giêrusalem. Thế nhưng, bây giờ đền thờ Giêrusalem đã bị đổ vỡ hoang tàn. Vì thế, họ đã tìm thấy một chiều hướng tôn thờ mới, đó là tôn thờ thiêng liêng, tôn thờ trong tâm hồn vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.
Trong Tân ước, đền thờ chính là thân xác Đức Kitô: Đền thờ ấy bị phá hủy nhưng dã được xây dựng lại trong ba ngày. Đây mới chính là đền thờ vĩnh cửu, không do tay người trần thế làm nên, nhưng do chính Ngôi lời. Đền thờ ấy nói lên sự hiện diện thiết thực của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Ngoài ra, các Kitô hữu còn ý thức rằng chính họ kết thành đền thờ mới, đền thờ thiêng liêng nơi thân thể Đức Kitô, đó chính là Giáo hội. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa, thiết lập trên Đức Kitô. Ngài là nền móng, là đầu và là viên đá góc tường.
Còn chúng ta thì sao? Tâm hồn mỗi người cũng phải là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục đã nói với chúng ta: Hỡi thần ô uế, hãy xéo đi, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thần Linh Thiên Chúa.
Bao lâu sạch tội trọng, bao lâu còn sống trong ân nghĩa Chúa thì linh hồn chúng ta chính là một ngôi đền thờ sống động cho Thiên Chúa. Trái lại, khi phạm tội trọng, chúng ta là những kẻ dám nói với Thiên Chúa như sau: Hỡi Thiên Chúa, xin Ngài hãy ra khỏi tâm hồn tôi để nhường chỗ cho ma quỷ.
Chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn mình cho trong sạch, xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, chứ đừng biến nó thành hang trộm cướp. Chúng ta hãy noi gương bắt chước ông Giakêu đã tiếp đón Chúa tại nhà mình. Chính sự hiện diện của Chúa đã đem lại cho ông niềm vui mừng và hy vọng, để rồi ông đã hoán cải bản thân, làm lại cuộc đời. Hãy sửa đổi những sau lỗi để tâm hồn chúng ta thực sự là một đền thờ được dâng hiến cho Thiên Chúa.
Suy niệm 17: Nhà thờ trở nên cộng đồng
Hai anh chị kia sắp cưới. Trong khi chuẩn bị hôn nhân, họ xin cha làm lễ cưới tại một cảnh thơ mộng trên núi. Họ ngạc nhiên thấy cha nói không được. Họ phải làm lễ cưới tại nhà thờ xứ của họ. Họ tỏ ra bất mãn. Cha cho biết đó là luật của địa phận nhưng họ thắc mắc làm sao đám cưới của họ mà họ không được làm nơi họ muốn?
Điều anh chị này thắc mắc có liên quan đến lễ chúng ta cử hành hôm nay, lễ kỷ niệm Dâng Hiến Thánh Đường Lateranô. Thánh đường này từ thế kỷ thứ 12 vẫn được coi là mẹ, là đầu của các nhà thờ. Thánh đường này cũng là nhà thờ chính toà của Đức Giáo Hoàng.
Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta nghĩ đến nhà thờ của giáo xứ, cộng đoàn chúng ta.
Nhà thờ tượng trưng cho thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô và mỗi Kitô hữu được kêu gọi để xây dựng thân thể mầu nhiệm này. Nhà thờ ví như bào thai cho ra đời những người con cùng một trí một lòng truyền tụng và phục vụ Nước Trời.
Để thực hiện điều đó, mỗi nhà thờ luôn thực hiện việc xây dựng cộng đồng. Như các đường chỉ được dệt với nhau thành tấm vải, mỗi người cũng có một sứ vụ hiệp thông trong trong chiều hướng để sứ vụ chung được kết quả tốt đẹp trong tinh thần Chúa Kitô.
Những người trong giáo xứ hoặc là lạnh nhạt với mọi người và điều đó không xứng với Kitô Giáo; hoặc mọi người tích cực liên hệ đến giáo xứ, kiến tạo một cộng đồng một trí một lòng.
Mỗi lần chúng ta tham dự vào một bí tích nhắc nhớ chúng ta mục đích của bí tích là xây dựng thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong sự dấn thân chung đó là hiệp thông và thi hành sứ mệnh. Vì thế bí tích được khuyến khích cử hành tại nhà thờ. Nhà thờ trở nên nơi liên kết, để tinh thần thân thiện được triển nở chứ không phải chỉ là nơi tụ họp của những muốn giữ thái độ xa lạ.
Chúng ta cố gắng làm cho giáo xứ chúng ta nên cơ hội thuận tiện cho tinh thần hợp nhất Chúa Kitô được phát triển. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ chia rẽ, không thể đầu hàng trước các phe nhóm.
Giống như cặp anh chị sắp cưới được nói cho biết là họ cử hành bí tích hôn phối của họ nơi nhà thờ của họ. Cùng với những lý do khác, các giáo dân cùng cử hành với họ, dâng họ lên Chúa, cầu nguyện cho họ, và nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời.
Để kết thúc, chúng ta đọc lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: "Anh em không còn là người xa lạ, là khách ngoại bang. Anh em là công dân của các thánh, là phần tử nhà của Chúa."
Suy niệm 18: Nhà thờ của giáo xứ
Hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.
Khi một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường, mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…
Vị thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em. Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.
Cũng thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.
Chúng ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an toàn.
Tới đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm thật êm đềm và tươi đẹp.
Phải, giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được dành cho mọi người.
Thực vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để cử hành bí tích Hôn phối.
Và sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.
Và nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và giúp đỡ cho những người chung quanh.
Tuy nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo xứ hay chưa?
Suy niệm 19: Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Ðền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.
Ðền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Ðền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Ðây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Ðó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Ðây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
08/11 Bổn phận với đồng loại
- Viết bởi Lc 17, 1-6
Bổn phận với đồng loại.
Thứ Hai tuần 32 thường niên.
"Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
Lời Chúa: Lc 17, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".
Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Làm cớ vấp ngã
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thỉnh thoảng báo chí lại nói đến một chuyện không hay nào đó
bị coi là gây sốc hay phản cảm.
Có những chuyện tồi tệ hơn được gọi là xì-căng-đan.
Xì-căng-đan gốc là một từ Hy Lạp dùng trong Tân Ước (scandalon)
để chỉ một viên đá làm người ta vấp ngã (Rm 11, 9),
hay một duyên cớ khiến người ta phạm tội (Mt 13, 41).
Trong Giáo Hội đôi khi cũng có những xì-căng-đan.
Nơi bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta hãy đề phòng
về những xì-căng-đan trong chính cộng đoàn tín hữu.
Ngài nhìn nhận rằng không thể nào tránh được những xì-căng-đan (c. 1).
Nhưng Ngài lại rất nặng lời với người nào gây ra cớ vấp phạm đó.
Cột cối đá lớn vào cổ anh ta và xô xuống biển cho chết đi
thì tốt cho anh ấy hơn là để anh ấy làm cớ phạm tội
cho một trong những kẻ bé nhỏ này (c. 2).
Những kẻ bé nhỏ ở đây là những người môn đệ của Chúa.
Rõ ràng Đức Giêsu quý tâm hồn trong sạch của con người.
Tuy hiền lành, nhưng Ngài lại tỏ ra không khoan nhượng
với những kẻ làm gương xấu khiến người khác phạm tội.
Ngài muốn bảo vệ những kẻ yếu đuối, đơn sơ, thiếu bản lãnh.
Ngài không muốn những Kitô hữu khác lợi dụng, lôi kéo họ,
khiến họ mất đức tin, mất niềm hy vọng và mất lòng yêu mến.
Trong bài diễn từ cuối cho các kỳ mục của Êphêsô ở Mi-lê-tô,
thánh Phaolô đã khuyên các ông nên coi chừng sói dữ vào đàn chiên,
“giảng dạy những điều sai lạc, lôi cuốn các môn đệ đi theo” (Cv 20,30).
Làm cớ cho người khác phạm tội
là một tội chúng ta ít để ý và ít xưng thú.
Chúng ta cho mình có quyền tự do nói và làm điều mình thấy là đúng.
Nhưng khi làm như vậy, chúng ta lại không để ý
đến những thương tổn có thể gây ra nơi lương tâm
của những người anh em yếu đuối trong cộng đoàn,
cũng như đến chuyện làm cớ cho anh em mình sa ngã (1 Cr 8, 11.13).
Thánh Phaolô nhấn mạnh: phạm đến anh em là phạm đến Đức Kitô.
Không thể vì tự do của tôi mà làm mất một người anh em
đã được Đức Kitô chết cho (1 Cr 8, 11).
Trong cuộc sống nối mạng toàn cầu hiện nay,
cái tốt và cái xấu được loan đi xa với tốc độ chớp nhoáng.
Một biến cố mới xảy ra ở đây, lập tức cả thế giới đều biết.
Nhưng cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt chước hơn,
khiến con người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề.
Làm thế nào để những gương tốt được nhân lên khắp đó đây?
Làm thế nào để Giáo Hội bớt đi những viên đá làm người ta vấp ngã?
Mong có ngày một giáo dân bình thường cũng biết nhận định đúng sai
khi tiếp thu đủ thứ thông tin từ mọi nguồn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt”.
Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều.
“Chớ chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói:
“Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến thế nào!” Amen.
(Chân phước Charles Foucauld)
Suy niệm 2: Huyền đồng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người thường sống theo xác thịt. Chỉ biết có mình. Dễ với mình. Khó với người. Hôm nay Chúa dậy ta sống theo Thần Khí. Một chân trời mới mở ra. Người ta ngặt nghèo với bản thân. Không dám làm điều gì xấu. Không chỉ là làm điều xấu cho tha nhân. Thậm chí không được làm gương xấu nữa. “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã”. Nhưng đối với tha nhân lại phải rất rộng lượng. Phải tha thứ mãi mãi. “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận’ thì anh cũng phải tha cho nó”. Ta chỉ đạt tới cảnh giới đó khi có đức tin vững mạnh. Mọi sự sẽ theo sự điều khiển của ta. Ta có đức tin vững mạnh khi hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Khi đó ta có sức mạnh của Thiên Chúa. Nhìn người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Đối xử bằng tấm lòng của Thiên Chúa. Yêu thương bằng trái tim của Thiên Chúa.
Sách Khôn ngoan dạy ta đạt tới cảnh giới đó bằng một tiến trình. Yêu chuộng đức công chính. Thành tâm kiếm tìm Chúa. Khiêm nhường và tuyệt đối tin tưởng. Không lý luận quanh co. Không thử thách Thiên Chúa.Không sống theo xác thịt. Tránh xa thói lọc lừa gian dối. Khi ta thanh tẩy tâm hồn rồi, ta sẽ được Đức Khôn Ngoan. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở trong ta. Thần Khí sẽ ngập tràn cõi đất. Sẽ “bảo toàn mối hợp nhất giữa muôn vật muôn loài. Sẽ thấu hiểu mọi lời mọi tiếng” (năm lẻ).
Khi đạt tới cảnh giới đó Nước Trời hiển trị. Muôn người sẽ sống trong hạnh phúc. Đó chính là trách nhiệm của đạo Chúa. Vì thế những người môn đệ phải rèn luyện bản thân. Sao cho có đức tin vững mạnh. Sao cho hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Để có tấm lòng Thiên Chúa. Nghiêm ngặt với bản thân. Rộng lượng với tha nhân. Đó chính là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ người môn đệ Ti-tô. Và căn dặn ông phải đào tạo người như thế: “Thật vậy, giám quản với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối” (năm chẵn).
Chỉ khi đạt tới Thiên Chúa ta mới hoàn toàn làm chủ bản thân. Mới thấu hiểu và yêu mến anh em thật tình.
Suy niệm 3: Sống Là Liên Ðới
Trong tác phẩm "Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.
Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin Mừng hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: "Tôi có phải là người giữ em tôi đâu!"
Sống là liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng cho người khác; không có một hành động nào của tôi mà không có liên hệ đến người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của mỗi người. Ðó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Chối Bỏ Trách Nhiệm
Cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống đối trong nước theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số tiền hối lộ ông đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều người ủng hộ ông, nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh doanh, chính trị gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia tăng. Ông khó có thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông trước đây.
Trong một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo vẫn còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh giá sự lãnh đạo. Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel Ramos đã nói thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: "Hoặc là tổng thống phải từ chức trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của ông". Ông Ramos nói như sau: "Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa đổi bản thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu trách nhiệm".
Trong một buổi lễ qui tụ hàng ngàn người chống đối ông Estrada, Ðức Hồng Y Sin, tổng giám mục Manila, cũng đã thách thức nhà lãnh đạo Phi lúc đó rằng: "Liệu ông có thể nhìn thẳng vào nhân dân Phi, nhất là giới trẻ, và nói với họ rằng ông là một con người gương mẫu cho họ không". Người dân Phi nào cũng biết rằng ông Estrada đã và đang dan díu với nhiều phụ nữ cũng như cờ bạc và rượu chè thâu đêm suốt sáng. Nhà lãnh đạo của một quốc gia được trao phó cho trách nhiệm phục vụ công ích. Công ích ấy không chỉ giới hạn trong lãnh vực kinh tế, nó còn bao hàm cả những giá trị tinh thần và đạo đức. Do đó, ngoài tài năng, nhà lãnh đạo nào cũng còn được đòi hỏi phải có tác phong đạo đức. Nói cách khác, ông được đặt vào vị trí cao nhất trong nước để trở thành ngọn đèn pha cho nhiều người. Trong cụ thể, ông phải là một mẫu người đáng được đề cao về tư cách làm người, về đời sống gia đình, v.v... Ðây cũng là trách nhiệm mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Thật ra, đây không phải là trách nhiệm dành riêng cho những môn đệ của Chúa Giêsu mà là trách nhiệm làm người. Ðã làm người thì ít hay nhiều, cách này hay cách khác, ai cũng phải có trách nhiệm với những người anh chị em của mình.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp cụ thể về trách nhiệm đối với tha nhân: một là phải tránh làm gương mù cho anh em, hai là phải tha thứ cho anh em. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu làm cho chúng ta nhớ lại câu hỏi mà Thiên Chúa đã đặt ra cho Cain sau khi Cain đã sát hại em mình là Aben: "Cain, em của ngươi đâu?" Cain đã trả lời: "Tôi có phải là người đã giữ em tôi đâu". Câu trả lời của Cain là lời thú nhận về một trách nhiệm mà ông muốn chối bỏ. Thái độ của Cain vẫn thường được lập lại trong cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu chúng ta. Làm thiệt hại người anh em bằng nhiều cách khác nhau đã đành, đối xử với người anh em như một phương tiện đã đành, chúng ta cũng thiếu trách nhiệm đối với người anh em bằng thái độ dửng dưng. Mặc ai sống chết, chúng ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng chúng ta.
Trong ngày sau hết, chúng ta sẽ chỉ bị xét xử dựa trên cách cư xử của chúng ta đối với người anh chị em của chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu đồng hóa với mỗi tha nhân. Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được tỉnh thức để nhận ra Ngài trong mỗi một tha nhân và đối xử với người ấy như với chính Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Toa thuốc nuôi sống cộng đồng
Đức Giêsu nói: “Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.”
Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bẩy lần, rồi bẩy lần nó trở lại nói với anh: Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó Các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc. 17, 1b+4-5)
Đức Giêsu ban cho các môn đệ mấy quy tắc về cách cư xử của các phần tử trong Giáo hội.
Loại bỏ gương mù:
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không dựa vào sự khôn ngoan loài người. Kẻ xấu dùng gương mù để bóp nghẹt đức tin và khiêu khích sự chống đối, có khi nổi loạn chống cả Thiên Chúa. Những người nhỏ bé như người nghèo khó, bị áp bức, bị khinh chê, rất dễ xúc động khi gặp những người giàu, những luật sĩ phản đối và gây cho họ sa ngã, mất tin tưởng và hy vọng. Con người ta dễ gây ra gương mù và mắc vào tội lỗi đáng chịu hình phạt nặng nề. Người ta không thể tha thứ gương mù trong Giáo hội, như thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô.
Toa thuốc tha thứ:
Giáo hội là một cộng đồng anh chị em tội lỗi đang được thánh hóa. Khi ai phạm tội và gây lây lan cho những người khác, người ta phải lo giúp họ ăn năn trở lại. Lòng thương người phải noi theo lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, phải biết tha thứ, dù bảy lần trong một ngày, nếu là cần thiết.
Sự tha thứ chân thực do lòng yêu mến. Người ta chỉ có thể giúp anh chị em mình và hướng dẫn họ ăn năn nếu có ý thức hiểu biết cảnh ngộ cùng khốn và đau khổ của họ, cần có lòng tốt vô vị lợi và xả kỷ.
Sức mạnh của lòng tin:
Ý thức rõ ràng về lời kêu gọi của Đức Giêsu, các tông đồ cầu nguyện Người ban thêm lòng tin cho mình. Câu trả lời của Đức Giêsu cho các ông thấy lòng tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức rất mạnh mẽ. Lòng tin tự phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa đem lại can đảm và sức mạnh để có lòng tha thứ. Và đồng thời, còn làm cho kẻ tội lỗi ăn năn trở về.
Sự phó thác này tăng thêm tình yêu cho các phần tử của Hội thánh và rất cần để chống lại những ảnh hưởng chia rẽ của tội lỗi. Và tình yêu có sức hoạt động mạnh mẽ và hữu hiệu để tăng thêm lòng tin của các phần tử của Hội thánh.
RC
Suy niệm 6: Sống chứng nhân thì hơn là thày dạy
Xem thêm CN 26 TN B và thứ Năm tuần 7 TN -CN 23 và 24 TN A - thứ Ba tuần 3 MC, thứ Tư và thứ Năm tuần 19 TN
Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41 của Đức Thánh Cha Phaolô VI, có viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”. Như vậy, chúng ta có quyền nghĩ rằng: nếu đời sống chứng nhân có tác dụng rất tốt trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngược lại, không có gì nguy hại cho bằng đời sống phản chứng nơi người Kitô hữu!
Thật thế, Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đề cao đời sống chứng nhân nơi người môn đệ khi Ngài dùng phương pháp phản biện để làm toát lên tính quan trọng của gương sáng. Ngài nói: “Vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này”. Nêu gương xấu là điều tắc trách, nhưng gây nên cho những trẻ nhỏ, những người bé mọn, người kém đức tin là một tội ác vì tính chất nguy hiểm khôn cùng của nó!
Gương xấu được ví như một thứ ôn dịch và có nguy cơ lây lan rất cao.
Gương sáng thì khó làm, khó sống, nhưng gương xấu thì quá dễ làm, dễ bắt trước. Làm gương sáng cần phải có một sự cố gắng cao với nhiều hy sinh, từ bỏ. Nó được ví như một người leo núi với tất cả sự cố gắng, hy sinh... Còn gương xấu thì thực sự chẳng khác gì một người buông mình xuống núi, chúng ta không cần phải cố gắng thì vận tốc rơi xuống cũng sẽ nhanh chóng...
Như vậy, với bản tính của con người, chúng ta dễ hướng chiều về điều xấu hơn điều tốt. Dễ làm điều bất chính hơn điều thiện. Vì thế, tội lỗi luôn có cơ hội len lỏi vào trong suy nghĩ và hành động của chúng ta hơn là điều tốt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần nhớ lại ánh sáng đức tin ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để sống cuộc đời nhân chứng cho xứng đáng với ơn đã lãnh nhận. Cần làm cho hình ảnh Đức Kitô hiền lành, dễ thương, giàu lòng thương xót ngay trong cuộc sống, qua lời nói, hành động và việc làm của chúng ta.
Tuy nhiên, để sống được điều đó, chúng ta cần phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Bởi vì nếu không có đức tin, chúng ta khó có thể tha thứ, kiên trì, tôn trọng và nâng đỡ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con đã trở nên những người gây ra gương mù gương xấu cho người khác. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con can đảm, trung thành sống cuộc đời chứng nhân. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Tránh cớ vấp phạm và hãy tha thứ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu dạy các tông đồ những đức tính phải có trong đời sống cộng đoàn: chúng ta không được làm gương xấu, xúi giục hay nên cớ cho người khác phạm tội bằng bất cứ hình thức nào vì đời sống của chúng ta ảnh hưởng đến anh chị em chung quanh. Chúng ta phải biết góp sức xây dựng cho nhau trong yêu thương, quảng đại và tha thứ. Khi chúng ta đối diện với cuộc sống, điều quan trọng là phải có đức tin vững mạnh để chiến đấu với thử thách cam go. Đức tin càng lớn mạnh, con người càng làm được những điều phi thường.
2. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói đến hai bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không thành cớ vấp phạm cho người khác; hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh thánh đã nói đến tính liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adong đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”.
3. Đừng nên cớ vấp ngã. Chúng ta có thể hiểu “Cớ vấp ngã”có thể là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chết có lẽ không xấu, nhưng do ở trong một hoàn cảnh nào đó không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Ví dụ như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì nó sẽ thành cớ khiến nhiều người vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể có nhiều người, tất nhiên không thể không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy “đề phòng” đừng trở thành cớ vấp ngã, nhất là đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho người khác. Đức Giêsu phán xét rất ngặt đối với chúng ta về vấn đề này.
4. Tha thứ không giới hạn. Chúng ta thường nói “quá tam ba bận”, như thế đã là hiểu, ấy thế mà trong Tin Mừng Chúa dạy phải tha thứ tới bảy lần. Hơn nữa, theo ngôn ngữ Do thái, con số 7 là con số đủ, tha đến 7 lần có nghĩa là không đưa ra một hạn định nào cho sự tha thứ. Đức Giêsu trên Thập giá đã “kêu xin Chúa Cha” tha thứ cho người đóng đinh mình; thánh Têphanô khi bị ném đá cũng “cầu xin Chúa” tha thứ cho những kẻ bách hại... Đến lượt chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta giống Chúa và khác với người ngoại chính là việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ.
5. “Quá tam ba bận” đã là quá nhiều để có thể thông cảm cho người lầm lỡ. Ấy vậy mà Đức Giêsu dạy ta tha thứ không chỉ có thế. Thử tưởng tượng, một người làm việc một ngày tám tiếng mà lỗi phạm đến bảy lần, mà cứ mỗi lần như thế ta lại phải tha thứ!!! Hành động tha thứ chỉ phát xuất được từ chính “tâm nhân hậu”. Tâm nhân hậu không chỉ là yêu thương thế nào cũng được, mà là yêu bằng một trái tim thật lớn, đến độ không sự xúc phạm nào có thể làm quị ngã; và là yêu bằng một tình yêu sung mãn đến độ tha thứ luôn mãi mà không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ bị nghèo đi. Tâm nhân hậu như thế chỉ có nơi Đức Giêsu. Nhưng ta có thể xin Ngài cho ta được điều đó (5 phút Lời Chúa).
6. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức trách nhiệm của mỗi người chúng ta đối với đời sống đức tin của người anh em chúng ta. Sống đức tin là trở thành người trách nhiệm đối với tha nhân. Sống đức tin thiết yếu là là ràng buộc vào số phận của người anh em mình. Không có cuộc sống đức tin nào, dù âm thầm đến đâu mà không tạo nên một ảnh hưởng nơi người khác. Không có một biểu lộ đức tin nào mà không là một củng cố và nâng đỡ cho người khác. Đức tin của người Kitô hữu chính là ngọn đuốc soi sáng và sưởi ấm lòng người, do đó, khi đức tin ấy trở thành nguội lạnh thì chắc chắn sẽ có biết bao người chìm trong tăm tối lầm lạc (R.Veritas).
7. Truyện: Tuyên xưng đức tin trong cuộc sống.
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng; trước đây anh vẫn luôn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vỉ sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao”?
Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu Thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi nghĩ, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.
Suy niệm 8: Cuộc sống chung trong tập thể
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca gom chung 3 lời dạy của Chúa Giêsu. Tất cả đều rất thực tế cho cuộc sống chung trong tập thể:
1. Cớ vấp ngã: Cớ vấp ngã là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chất có lẽ không xấu, nhưng do nó ở trong một hoàn cảnh không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Cũng như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì sẽ khiến người ta vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể nhiều người, tất nhiên không thề không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy đề phòng đừng trở thành cớ vấp ngã cho người khác.
2. Việc sửa lỗi anh em: Trong tập thể thì đương nhiên cũng có nhiều khi một người nào đó xúc phạm tới mình. Khi đó ta hãy nói thẳng với người đó. Nếu người đó hối hận thì ta phải tha thứ. Cho dù sau đó người ấy lại lỗi phạm nữa thì cũng vẫn phải tha thứ nữa.
3. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
B.... nẩy mầm.
1. Được làm và nên làm: Có những việc tôi có thể làm, nhưng tôi không nên làm, bởi vì làm trong hoàn cảnh cụ thể nào đó và làm trước hạng người nào đó thì việc đó sẽ trở thành một cớ vấp phạm. Bởi đó tuy được làm nhưng tôi không nên làm.
2. Nếp sống của ta sẽ gây ảnh hưởng trên người khác, dù ta cố ý hay không. Ảnh hưởng về phạm vi thể lý lẫn tinh thần: ‘Hữu xạ tự nhiên hương’, ‘Gần mực thì đen gần đèn thì sáng’. Đây là vấn đề trách nhiệm đối với tha nhân trong cuộc sống. Do đó cần lưu tâm tới những ảnh hưởng tốt xấu ta gây nên trong cộng đoàn.
3. Tha thứ là gì? Là mùi thơm mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
4. Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ: đây cũng là một hình thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô giới hạn’.
5. Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:
- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.
- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng.
- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng tội không?
-........
6. Đức tin: một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
7. “Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng không có không có những cớ làm cho người ta vấp ngã, nhưng khốn cho những kẻ làm cho người ta vấp ngã”. (Lc 17,1)
Nghe tin thằng “Hiền bụi đời” sắp về lại cái xóm nhỏ này sau thời gian khá dài trong trại giam, thỉnh thoảng người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục, cưa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo. Hôm ấy hắn trở về với khuôn mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp. Dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm bán hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bắt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười gượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: “… Vì muốn trả thù đời”.
Mỗi ngày của tôi cũng có không ít những cái liếc mắt, bỉu môi trước niềm vui khám phá của người bạn, những cái cười mỉa mai, không phục…
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức điều con đang làm. (Hosanna)
07/11 Hai đồng tiền của bà góa nghèo
- Viết bởi Mc 12, 38-44
Hai đồng tiền của bà góa nghèo.
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".
Lời Chúa: Mc 12, 38-44
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn".
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu.
Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết.
Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: 1V. 17, 10-16; Dt. 9, 24-28; Mc. 12, 38-44
1. Bỏ vào tất cả. --‘Manna’
Suy Niệm
Khó lòng nhận ra đồ giả trong các món hàng.
Ta thường đánh giá một sản phẩm dựa trên mẫu mã,
nên dễ bị đánh lừa về chất lượng.
Thật ra đồ giả cũng có ở nơi con người.
Làm cho mình trẻ hơn nhờ trang điểm, tốt hơn nhờ ăn nói.
Làm cho mình có dáng trí thức hơn, quý phái hơn
để chiếm được lòng tin, lòng quý mến của người khác.
Có loại người giả hình dạy một đàng, làm một nẻo,
bắt người khác làm những điều mình chẳng bao giờ làm,
mạt sát người khác về những tội mình không tránh khỏi.
Có loại người giả hình rất tử tế với người ngoài,
còn sống với người trong nhà thì không ai chịu nổi.
Nói chung mọi thứ giả hình đều không thật.
Đức Giêsu cảnh giác chúng ta về thứ giả hình đạo đức:
"Anh em hãy coi chừng...", kẻo lại giống một số kinh sư.
Đức Giêsu cố ý ngồi đối diện với thùng tiền ở Đền Thờ.
Ngài tò mò muốn xem đám đông bỏ tiền ra sao.
Những người giàu bỏ nhiều hơn cả.
Nhưng Ngài lại xúc động khi thấy một bà goá nghèo
rón rén bỏ vào thùng hai đồng xu nhỏ.
Ngài quả quyết trước mặt các môn đệ:
"Bà goá này đã bỏ nhiều tiền hơn người khác,
vì mọi người lấy từ cái dư thừa mà bỏ vào,
còn bà, bà lấy từ cái túng thiếu của mình
mà bỏ vào tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân."
Các môn đệ ngỡ ngàng trước cách đánh giá của Đức Giêsu,
cách nhìn con người dựa trên tấm lòng của họ.
Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Đức Giêsu,
bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả.
Lối đánh giá của Đức Giêsu đòi ta xét lại
lối đánh giá của mình về người khác.
Có khi chúng ta ca ngợi một người
chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao,
đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng.
Có khi chúng ta chê một người
vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực.
Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài,
và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm.
Lối đánh giá của Đức Giêsu cũng đòi ta
xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.
Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen.
Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận.
Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa.
Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy.
Điều quan trọng khiến tôi bận tâm
đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không,
chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ.
Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng
để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn đánh giá sai người khác không? Có khi nào bạn bị lừa vì cái bề ngoài của người khác không?
Mỗi người đều ít nhiều có tính giả hình. Làm sao có thể sống thành thật với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
2. Tất cả những gì bà có. -- Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược.
Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa.
Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ,
từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.
Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do thái giáo.
Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê,
thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng.
Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân.
Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã.
Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực,
dễ bị vấp vào thói háo danh.
Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ.
Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc,
họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao.
Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác.
Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập
lại trở nên phương tiện
để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa.
Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức
khi giả vờ đọc kinh dài.
Với uy tín và sự giả hình khéo léo,
họ nuốt chửng nhà của các bà góa.
Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy
là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng.
Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền.
Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại
và khẳng định rằng bà góa này
đã bỏ nhiều hơn mọi người khác,
mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ.
Nhưng cái rất nhỏ này lại là
tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân.
Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy,
cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa.
Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật.
Ngài không mãn nguyện với của dư thừa,
nhưng Ngài đòi tất cả.
Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất.
Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.
Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức
khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo,
ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình.
Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa,
với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh.
Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm.
Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền,
nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại
như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
3. Ánh mắt Thiên Chúa -- TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Tâm hồn thế nào sẽ bộc lộ ra trong ánh mắt thế ấy. Hôm nay, Chúa Giêsu ngồi trước cửa đền thờ Giêrusalem quan sát những người bỏ tiền vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Người đã thấy. Và đã phán đoán. Qua cách quan sát và phán đoán ta có thể thấy được tâm hồn của Người.
Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ. Hàng hàng lớp lớp người tiến đến dâng cúng. Tin Mừng thuật lại: “Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma”. Thật lạ lùng. Biết bao nhiêu người Chúa chẳng quan tâm, chỉ quan tâm tới một người bé nhỏ nhất. Chúa chỉ quan tâm tới một người nghèo nhất. Một bà góa. Bà góa này chắc chắn phải gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nhưng Chúa đã chú ý đến bà. Người ta bảo tìm gì gặp nấy. Chúa yêu thương những người bé nhỏ, nên quan tâm tới người bé nhỏ và chỉ nhìn thấy những người bé nhỏ. Ánh mắt quan tâm nên nhìn thấy rõ, dù người đó bé nhỏ, lạc giữa đám đông. Ánh mắt yêu thương nên thấy người đó thật đẹp dù ăn mặc rất đơn sơ, hình dáng rất tiều tụy. Quả thật trái tim Chúa nhân hiền như người mục tử tốt lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc còm cõi. Như người phụ nữ đốt đèn tìm một đồng tiền nhỏ bé rơi trong góc nhà.
Chúa nhìn bên trong tâm hồn. Biết bao người giàu sang béo tốt quần là áo lụa, nhưng Chúa không nhìn. Chúa chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy gò, rách rưới. Biết bao người dâng cúng tiền rừng bạc biển mà Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen người phụ nữ bỏ vào thùng tiền hai đồng xu nhỏ. Không những khen mà Chúa còn cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác. Thì ra Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Chúa đã nhìn thấu tâm hồn của bà. Một tâm hồn thiết tha yêu mến Chúa và với công việc nhà Chúa. Chúa đã thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay vừa cảnh tỉnh tôi vừa dạy dỗ tôi về cách sống đạo và về cách nhìn người.
Về cách nhìn người, Chúa dạy tôi đừng chạy theo những người giàu sang phú quý quyền cao chức trọng, nhưng hãy biết chú ý tới những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội. Đừng xét đoán người theo hình dáng bề ngoài, theo y phục hay theo tiền của. Hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người. Có những người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp hèn. Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.
Vì thế trong đời sống đạo, Chúa dạy tôi đừng giả hình vì Chúa nhìn thấu rõ tâm hồn. Tôi có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Chúa. Đừng khoe khoang kiêu ngạo vì Chúa chỉ yêu thích tâm hồn bé nhỏ khiêm nhường. Đừng tìm chỗ đứng trong xã hội, trước mặt người đời, nhưng hãy tìm chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết noi gương bà góa nghèo, biết sống đơn sơ chân thật, nhưng luôn quảng đại với Chúa và với anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong Phúc Âm ta thấy Chúa quan tâm tới những người nào?
2- Chúa đánh giá người ta theo hình dáng bên ngoài hay tâm tình bên trong?
3- Vì sao Chúa khen bà goá dù bà bỏ rất ít tiền vào nhà thờ?
4- Bản thân tôi rút được bài học gì qua bài Tin Mừng hôm nay?
4. Đồng tiền quý giá -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một ông nhà giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: "Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền". Vị đạo sĩ trả lời: "Cám ơn ông tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác". Ông nhà giàu nói: "Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy". Vị đạo sĩ trả lời: "Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử". Ông nhà giàu lại nói: "Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?". Vị đạo sĩ trả lời: "Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc". Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.
Cuộc đàm thoại giữa ông nhà giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận những điều mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết và công nhận như vậy. Bởi vì tự nó tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ. Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng giống như tờ 1 đồng, chỉ là một tờ giấy có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền giấy và công in. Nhưng theo giá trị định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần tờ 1 đồng. Chính vì giá trị định ước này mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó vẫn được quý trọng, dù đẹp dù xấu, dù mới dù cũ, nó vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình. Nó được chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.
Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó. Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại cũng như được dùng vào những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.
Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế theo như định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng. Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô-ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ lại quý hơn những số tiền lớn của những người giàu?
Xét về số lượng thì chắc chắn hai đồng tiền của bà góa thua kém xa số tiền của những người khác. Nhưng xét theo tỉ lệ tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do, về mục đích thì người đàn bà này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư thừa mà dâng những cái rất cần thiết để nuôi sống. Có thể số tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Nhưng không, bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay lợi dụng Thiên Chúa. Trái lại, những người dâng cúng nhiều chỉ khoe khoang để tìm danh vọng tiếng khen. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng so với cơ nghiệp và gia tài của họ thì có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc nhưng lại được lời về danh giá và tiếng khen. Cho nên, thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là một cuộc đầu tư một vốn bốn lời. Đó là một sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải phục vụ. Chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu đã đánh giá bà goá nghèo dâng cúng nhiều hơn mọi người.
Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.
Qua bài Tin Mừng với việc làm của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc đối với người sử dụng nó và qua đó chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha. Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên cao quý như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành...
5. Của ít lòng nhiều -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Người đời thường hành động theo phương châm: “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại" (Tục ngữ). Ai cũng muốn cho mình được người ta ca tụng, không muốn bị người ta chê cười, nên tìm cách ếm nhẹm những cái xấu mà chỉ phô ra những cái tốt của mình. Luật sĩ là những người chỉ thích khoe những cái tốt đẹp của mình để lòe thiên hạ, nhưng những cái họ khoe ra không có thực mà chỉ là ảo, nghĩa là họ giả hình giả bộ cốt lấy tiếng khen của mọi người.
Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu: luật sĩ và bà góa để nói lên cái tương phản của hai loại người: giả dối và thành thực. Luật sĩ dâng cúng cho Đền thờ không vì lòng mến Chúa mà cốt tìm tiếng khen, còn bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, với lòng mến yêu nồng nàn đối với Chúa. Bà đã âm thầm dâng cúng tất cả những gì thiết yếu đối với bà, kể cả mạng sống, mà không cần ai biết đến. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà này đã dâng cúng nhiều hơn hết mọi người".
Thiên Chúa không xét giá trị theo của dâng cúng nhưng xét theo tấm lòng của người dâng cúng. Người ta thường nói: “Cách cho quí hơn của cho". Người ta có thể cho một cách miễn cưỡng, hay cho vì bổn phận bó buộc hay cho vì lòng hảo tâm, vì lòng thương mến. Bà góa này đã cho đi một cách tự nguyện, quảng đại, thơm thảo, bất vụ lợi… nên việc dâng cúng của bà được đánh giá cao. Bà góa này đã dâng cúng với cung cách tốt đẹp đó, nên đã được Đức Giêsu khen là bà đã dâng cúng nhiều hơn hết mọi người vì bà là người có "của ít lòng nhiều".
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: 1V 17,10-16
Khi tiên tri Êlia phải lánh nạn để tránh cơn giận của hoàng hậu Jézabel, ông cảm thấy mệt nhọc và kiệt sức. Ông xin bà góa làng Serepta cho trú nhờ và xin cho ăn một chút bánh hiếm hoi của bà. Bà sẵn sàng làm bánh cho ông ăn và Chúa đã thưởng công do lòng quảng đại của bà: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ không cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất".
+ Bài đọc 2: Dt 9,24-28
So sánh chức tư tế Do thái giáo và chức Thượng Tế của Đức Giêsu, tác giả thư Do thái làm nổi bật sự siêu việt của lễ tế do Đức Giêsu dâng hiến hoàn hảo và đời đời.
1. Trong tư tế là Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Ngôi Lời nhập thể. Hiến tế mà Ngài dâng trên đồi Calvê có một giá trị vô cùng và tuyệt đối.
2. Từ khi phục sinh và lên trời, Ngài còn tiếp tục hiến dâng lễ vật này, tiến dâng mãi mãi để tôn vinh Chúa Cha và không ngừng nguyện cầu ơn phúc cho nhân loại.
+ Bài Tin mừng: Mc 12,38-44
Hình ảnh trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai đối chọi: luật sĩ và bà góa. Bề ngoài có vẻ như không ăn khớp, nhưng thực tế bổ túc cho nhau.
1- Người luật sĩ chỉ có cái vỏ bề ngoài, trong lòng thì rỗng tuếch: kiêu căng, tham lam, khoe khoang, giả hình.
2- Bà góa thì khiêm nhường, âm thầm, thành thật, nghèo tiền nhưng giầu lòng.
Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên "gọi môn đệ đến" chỉ cho thấy và khuyên các ông hãy noi gương bà góa đó.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Vật khinh nhưng hình trọng
Tục ngữ Việt nam dùng câu "Vật khinh hình trọng" có ý nói đến con người là quí trọng, còn của cải thì coi thường. Con người có giá trị hơn của cải.
Cũng có câu khác ý nghĩa tương tự: “Thèm lòng chẳng ai thèm thịt" hoặc: “Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy", đều có ý nói: người ta đến giỗ tết hiếu hỷ vì quan hệ tình cảm chứ không phải cốt để ăn uống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai hình ảnh trái ngược. Bà góa đã sống theo phương châm "vật khinh hình trọng" nghĩa là bà đã dâng cúng cho Chúa với "của ít lòng nhiều" hay "của một đồng công một nén" (Tục ngữ): của dâng cúng của bà thì tít, nhưng tâm tình thì dạt dào.
Ngược lại, các luật sĩ lại sống trái ngược với phương châm trên mà họ đã đổi lại thành "vật trọng hình khinh", họ chỉ chú trọng đến số lượng mà quên đi chất lượng hay phẩm chất, điều mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi người dâng cúng. Họ chỉ thích sống theo cái vỏ bề ngoài mà trong lòng thì trống rỗng. Trước mặt Chúa họ đúng là những người sống theo tiêu chẩn "Thùng rỗng kêu to", mà kiểu sống đó đã bị Đức Giêsu chỉ trích.
I. HAI KHUÔN MẶT ĐIỂN HÌNH.
1. Khuôn mặt người luật sĩ.
Các luật sĩ là những người chuyên nghiên cứu Thánh Kinh và pháp luật. Họ giải thích Thánh Kinh cho người khác và làm cố vấn pháp luật cho dân chúng. Họ là bậc thầy thuộc giới thượng lưu nên được người ta kính trọng. Nhưng Đức Giêsu lại chỉ trích miệt thị họ vì họ là những người kiêu căng và giả hình giả bộ.
Những người này làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng, lợi dụng chức quyền để nuốt trửng tài sản của các bà góa… Họ hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu căng. Xét theo giá rị đạo đức họ bị Đức Giêsu xếp vào hạng xấu: "Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn".
2. Khuôn mặt hai bà góa.
Phụng vụ hôm nay đề cập tới hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. Họ là những người giữa đường đứt gánh, một mình gánh vác giang sơn nhà chồng. Vì không có sự bao bọc của người chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tài sản của chính mình, không ai giúp đỡ. Bởi vì họ có gì đâu? Của cải chồng họ để lại thuộc về trưởng nam. Có thể trước đó họ đã gửi gắm ở đâu được một chút của nào đó. Hay tài sản riêng họ có trước khi về nhà chồng, họ đã gửi nơi các luật sĩ mà họ tưởng là những người đạo đức nâng đỡ họ. Ai ngờ bọn này lại lợi dụng và dã tâm ngốn cả nhà cửa của họ.
Theo Thánh Kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22).
a) Bà góa thành Serepta.
Sách Các Vua hôm nay kể lại truyện có một bà góa ở Serepta đang đi kiếm củi. Tiên tri Êlia thấy bà đội một cái bình dầu trên đầu thì tưởng bà ta đi múc nước. Nhưng không, đó là một cái vò đựng một chút bột còn sót lại. Bà đi kiếm mấy thanh củi rồi về nướng làm bánh cho con trai ăn và mình ăn rồi cũng chết. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, mà theo lời yêu cầu của Êlia, bà vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho nhà tiên tri ăn, dù không biết ông là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó, Thiên Chúa đã làm phép lạ cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và tiên tri Êlia nữa.
Bà góa này không những tỏ ra rất nhân đạo, nhưng nhất là còn tin ở lời vị tiên tri và tin vào Lời Chúa. Chính niềm tin này khiến bà dám làm bánh cho nhà tiên tri ăn trước. Bà như quên và như bỏ mạng sống của mẹ con bà vì tin lời nhà tiên tri. Và Chúa đã thưởng công lòng tin này, khiến câu chuyện về bà hôm nay đáng được dùng để dẫn nhập vào bài Tin mừng.
b) Bà góa trong Tin mừng.
Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng tiền để giúp cho Đền thờ, chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng.
Khung cảnh của Tin mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x. 2V12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng.
Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú ý đến người đàn bà góa nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào hai đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu bị thống trị bởi đế quốc Rôma. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bằng bạc, một đồng cân nặng 3,8 g và tương đương với 0,875 quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin mừng dâng cúng vốn giá trị chẳng đáng là gì , nhưng đối với Đức Giêsu , Ngài đã khen: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết"(Mc 12,43).
II. BÀI HỌC TỪ HAI BÀ GÓA
1. Giá trị việc dâng cúng.
Tại sao Đức Giêsu lại nói với các môn đệ: “Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết"? Lý do để Đức Giêsu khen thật rõ ràng: đó là số tiền mà dòng người kia tấp nập bỏ vào thùng tiền dâng cúng Đền thờ là những đồng tiền dư thừa. Số tiền mà họ bỏ vào dâng cúng không làm hụt đi tài sản và thanh thế của họ mà còn tô thêm uy danh cho kẻ lắm bạc nhiều tiền. Còn bà góa, trái lại, bà đã rút ra từ cái túng thiếu, cái nghèo đói của mình, từ giá trị của hai đồng tiền kẽm chính là tài sản duy nhất nuôi sống mình để dâng cúng vào Đền thờ.
Như vậy, giá trị của việc dâng cúng không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.
Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh.
Chính vì vậy mà chân phước Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà".
Truyện: Bà Oseola Mc Carthy
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng "Lòng từ thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla"(Thiên Phúc).
2. Có ba cách cho.
Người ta nói rằng có ba cách cho: người cho một cách bất đắc dĩ, người cho vì bổn phận và người cho với tâm tình yêu thương.
Người cho một cách bất đắc dĩ thì nói: “Tôi bực mình vì phải cho…". Người cho vì bổn phận thì nói: “Tôi buộc phải cho…". Còn người cho vì tình thương thì nói: “Tôi muốn cho…"
Nói cách khác, kẻ cho một cách bất đắc dĩ thì cho một cách miễn cưỡng, bực mình vì phải cho. Kẻ cho vì bổn phận thì cũng cho một cách miễn cưỡng nhưng lòng nặng trĩu vì bị bổn phận trói buộc. Còn người cho vì tình thương thì tự ý cho và cho thật lòng.
Câu chuyện bà góa trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ tuyệt hảo về sự trao tặng với tâm tình yêu thương trìu mến. Bà cho đi mà không phải vì bị ép buộc hay vì bổn phận thúc đẩy, nhưng với tất cả tấm lòng.
Truyện: Nhường phòng cho khách
Cách đây khá lâu, một đêm kia, có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị mắc phải cơn mưa rào dữ dội. Không thể đi xa hơn nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ về hướng một căn nhà có thắp ngọn đèn lù mù. Khi họ bước vào nhà thì gặp đôi vợ chồng già tay cầm đèn dầu tiến ra cửa. Người thanh niên trình bầy tình trạng khó khăn, đoạn yêu cầu: “Quí ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được".
Ngay lúc đó có vài hạt cơm dính trên mái tóc người thiếu phụ mới đến rơi xuống sàn nhà. Đôi vợ chồng chủ nhà liếc thấy liền đưa mắt nhìn nhau thông cảm. Bà chủ nhà lên tiếng: “Được chứ, các cháu ! Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe khi chồng tôi và tôi dọn dẹp căn phòng cho tươm tất một chút".
Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy hai vợ chồng già, họ lặng lẽ mặc quần áo, đoạn họ đặt tờ 10 đôla lên chiếc tủ, rồi nhón chân đi xuống cầu thang. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng già đang nằm ngủ trên những chiếc ghế dựa. Té ra cặp vợ chồng già này đã nhường cho đôi tân hôn căn phòng ngủ duy nhất của họ. Chàng thanh niên và cô vợ nén lại vài phút, đoạn anh ta nhón chân quay lên cầu thang và đặt thêm 5 đôla nữa lên chiếc tủ (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr.78).
3. Cho với tấm lòng chân thành.
Qua nội dung ba bài đọc Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Đức Giêsu gồm ba điểm chính:
a- Thương thì phải cho, vì yêu là cho đi.
b- Của cho không bằng tấm lòng người cho.
c- Chỉ chính cái mình quí nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất.
Ở đây chúng ta chú trọng vào tấm lòng của người cho. Các luật sĩ dâng cúng cho Chúa nhiều thật, nhưng với những ý đồ không tốt. Họ dâng cúng chỉ là để khoe khoang, chứ không với tấm lòng chân thành để dâng kính Chúa vì lòng mến Chúa. Kiểu dâng cúng như thế cũng đi ngược với tâm lý người Việt nam: “Người ta thèm lòng chứ đâu thèm thịt"(Tục ngữ).
Người Việt nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn như:
"Tốt gỗ hơn tốt nước sơn"
Hoặc:
"Cái nết đánh chết cái đẹp'
Gỗ là giá trị chân chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của con người, còn vẻ đẹp duyên dáng bên ngoài là phụ thuộc, chóng phai, chóng tàn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng.
Truyện: Người buôn cam
Ngày xưa, ở Hàng châu có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc.
Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà không thèm? Cơ tôi cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Tôi liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc:
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm.
Người buôn cam mỉm cười nói:
- Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ong thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp hộ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ hách dịch vô cùng!...
Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bên trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xet những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam tôi"?
Câu chuyện buôn cam trên đây nói lên thực trạng mai mỉa của xã hội ngày nay. Đức Kitô đã nhiều lần lên án gắt gao bọn mũ cao áo dài thể ấy:
Hỡi những kẻ giả hình,
Các ngươi không khác chi những nấm mồ bôi vôi
Vỏ ngoài thì xem xinh xắn lắm,
Nhưng bên trong là thây ma và mọi thứ xú uế.
Bên ngoài các ngươi có vẻ công chính đối với ngươi ta
Nhưng bên trong thì đầy giả dối và vô đạo"
(Mt 23,27-28)
Cụ Nguyễn Khuyến thì gọi họ là nộm, hữu danh vô thực:
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
III. BIẾT LẤY GÌ DÂNG CHÚA BÂY GIỜ?
Mỗi khi đọc câu Thánh vịnh:
Tôi biết lấy gì dâng lại cho Chúa
Để đền đáp những gì Ngài ban tặng cho tôi.
Tô xin nâng chén hồng ân cứu độ
Và kêu cầu danh thánh Chúa.
Chúng ta cảm thấy lòng dạt dào lòng tri ân đối với Chúa vì muôn hồng ân Chúa đã ban tặng cho ta. Nhìn trời, nhìn trăng sao, nhìn đất, nhìn hoa lá cỏ cây… tất cả đều nói lên tình thương yêu của Chúa đối với chúng ta, trong việc tạo dựng mọi sự vật cho chúng ta một cách dồi dào:
Chúng tôi xin một bông hoa, thì Ngài cho cả bó,
Chúng tôi xin một giọt nước, thì Ngài cho cả đại dương,
Chúng tôi xin một hạt cát, thì Ngài cho cả một bờ biển,
Chúng tôi xin một lá cỏ, thì Ngài cho cả một bồn,
Chúng tôi xin ăn, thì Ngài ban cho cả Thịt Máu Ngài.
(Mark Link)
Trước tình thương bao la của Chúa, chúng ta không bao giờ được trở nên những kẻ vô ơn. Chúng ta phải đáp lại tình thương đó bằng những của hiến dâng xứng đáng được Chúa chấp nhận. Của dâng Chúa phải là những của lễ thơm thảo nhất, thân thiết nhất mà chúng ta dành cho tha nhân.
Văn hào Louis Veuillot khi chết, có để lại một bao thơ dầy cộm với mấy hàng chữ ghi: “Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp cho người nghèo".
Tư tưởng của Chúa, cách phán đoán và đánh giá sự vật cũng như con người của Ngài không phải là của chúng ta. Ngài thấu suốt tận thẳm sâu tâm hồn. Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài đâu.
Thường người ta thích hình thức hơn là thực chất, thích tự đề cao giá trị thực sự. Trái lại, Thiên Chúa không nhìn diện mạo, y phục, không nhìn vật chất nhưng nhìn vào tâm hồn. Thánh Kinh đã không nói rằng "Người thấu suốt tâm can sao"? Không thể đánh lừa Ngài được đâu. Vàng quí không phải là thứ vàng giới thiệu trên tay, nhưng là thứ vàng hiện diện trong tâm hồn.: vàng ròng của tình yêu.
Chúng ta hãy theo gương bà góa trong Tin mừng, hãy biết cho đi, cho đi tất cả. Với hai đồng tiền kẽm, bà góa đã cho đi tất cả, trao phó tất cả mạng sống cho Thiên Chúa vì bà tin rằng Đấng bà tin theo không bao giờ để bà thiệt thòi. Vâng, khi chúng ta cho đi chính là lúc chúng ta nhận lãnh và nhận lãnh càng dồi dào những hồng ân của Thiên Chúa. Một thi sĩ đã gợi cho chúng ta những ý tưởng rất hay:
Quà tặng đẹp nhất
Cho kẻ thù, chính là sự tha thứ
Cho bạn bè, là sự trung thành
Cho các em bé, là những gương sáng
Cho một người cha, là lòng tôn kính
Cho một bà me, là trái tim ta
Và cho người lân cận, là đôi tay ta.
(Cảm hứng do Francis Balfour)
6. Tấm gương bà góa -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Người đời thường đánh giá theo bề ngoài, còn Thiên Chúa thì đánh giá theo tấm lòng. Hôm nay chúng ta đến nhà thờ này. Chúa không để ý tới quần áo, vẻ mặt hay phong cách bề ngoài của chúng ta, nhưng Ngài nhìn thấu tấm lòng của chúng ta. Vậy chúng ta hãy rất chân thành với Chúa, bày tỏ hết những gì nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi của chúng ta để được Ngài thứ tha, nâng đỡ và bồi dưỡng thêm cho chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta thường sống giả hình
Chúng ta thường ích kỷ, không sẵn sàng chia xẻ với người khác.
Chúng ta ham nhận hơn là cho.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 17,10-16)
Câu chuyện bà goá xứ Sarépta giúp đỡ ngôn sứ Êlia có nhiều điểm rất đáng suy gẫm: (1) Bà là người ngoại nhưng tấm lòng lại quảng đại hơn rất nhiều tín hữu do thái; (2) Bà đã cho ngôn sứ Êlia không phải những cái bà dư thừa, mà chính chiếc bánh cuối cùng của mẹ con bà; (3) Sở dĩ bà dám cho đi như thế là vì bà có lòng tin tưởng phó thác vào lời hứa của Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 145)
Thánh vịnh này triển khai một nét cao quý của bà goá xứ Sarepta, đó là niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, Đấng yêu chuộng người công chính và phù trì nâng đỡ những kẻ yếu đuối nghèo nàn.
3. Tin Mừng (Mc 12,38-44)
Có hai hình ảnh rất đối chọi nhau trong đoạn Tin Mừng này:
Hình ảnh của các luật sĩ: rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.
Hình ảnh một bà góa: nghèo tiền nhưng rất giàu lòng. Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên "gọi các môn đệ đến" chỉ cho họ thấy và bảo họ noi gương.
4. Bài đọc II (Dt 9,24-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do Thái nhắc tới việc vị Thượng Tế Do Thái mỗi năm vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem một lần, và so sánh với Đức Giêsu Thượng Tế: (1) Vị thượng tế Do Thái vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem; còn Đức Giêsu thì vào chính cõi trời; (2) Vị thượng tế Do Thái vào đó để dâng của lễ; còn Đức Giêsu Thượng tế thì dâng chính bản thân mình; (3) Mỗi năm vị thượng tế Do Thái phải vào lại gian cực thánh ấy; còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ hiến tế một lần là đủ.
IV. Gợi ý giảng
1. Hình thức và tâm tình
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 2 mẫu người:
. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ: bề ngoài họ rất đạo đức: họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế họ được người ta kính trọng: ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào: họ chỉ làm ra bộ đạo đức như thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.
. Mẫu người thứ hai là người đàn bà goá: bề ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quý: mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.
Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề Hình thức và Tâm Tình. Đó là 2 mặt của 1 thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn? Theo cách đánh giá của CG thì mặt Tâm tình trọng hơn mặt Hình Thức: Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà goá, và nhận xét: "Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".
Cách đánh giá của CG thật là đúng: bởi vì nếu có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống như có một cái xác mà không có hồn... tất cả sẽ vô ích, vô dụng.
. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp, ngày nào cũng dự lễ rước lễ... nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người... thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.
. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện, giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu... nhưng làm việc thì lờ đờ, biếng nhác... thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.
Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong thì quan trọng và quý giá hơn cái Hình Thức, cái dáng vẻ bề ngoài,. Trong việc sống đạo cũng vậy: đọc kinh, dự lễ... không quý giá, không quan trọng bằng tâm tình mến Chúa yêu người.
Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên, có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng: "Đạo Tại Tâm": sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tôi gì hết.
. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Ông bảo "Tôi thờ Chúa trong lòng".
. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo "Chẳng cần đến hình thức bên ngoài".
Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự. Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao:
. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện: quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc.... đó là chưa kể đến son phấn, sơn móng tay móng chân nữa... Như thế có phải là chúng ta bất cần hình thức bên ngoài không?
. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu: Nếu thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì phải âu yếm nhau?
Hai trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính Hình Thức biểu lộ Tâm Tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu giữa 2 người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, CG mặc dù coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần Hình Thức. Vì thế, bà goá trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.
Ngày nay không ít người chủ trương "Đạo Tại Tâm" và coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện dự lễ, dự các Bí tích... Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ là một thứ ngụy biện: ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo; ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức. Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo đức của chúng ta.
2. Hai bà goá - Thương là cho
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá: Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Thánh, một bà Đức Giêsu gặp trong sân Đền Thờ Giêrusalem một bà tiên tri Êlia gặp ở xứ Serepta, một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ một đồng xu và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.
Do đâu mà 2 bà goá này được đề cao? Có phải vì cái mà 2 bà đã cho không? Hiển nhiên là không, một đồng xu thì có đáng là bao, cũng như một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Nhưng đề cao là vì cái của cho ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghép cả tấm lòng người cho: đồng xu của Bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà; còn chiếc bánh nhỏ mà bà goá xứ Sarepte cho tiên tri Êlia, là cả một cuộc sống - đúng hơn là cả hai cuộc sống - của 2 mẹ con trong lúc chết đói đến nơi.
Đúng vậy, của cho không bằng tấm lòng người cho, bởi vậy tục ngữ ta có câu "của ít lòng nhiều". Và nếu chúng ta xem kỹ lại bài Sách Thánh thì chúng ta còn thấy tấm lòng của bà goá xứ Sarepta là một tấm lòng dằn co ray rứt vì tiếc rẻ: khi ấy cả xứ đang bị hạn hán, đồ ăn trở thành khan hiếm. Trong hoàn cảnh đó người giàu còn khổ nữa huống chi là người nghèo như bà goá này. Bà chỉ còn có một nhúm bột và chút dầu. Bà đi kiếm một mớ củi định về nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho 2 mẹ con bà ăn lần chót rồi sao đó là nằm chờ thần chết dần dần tiến tới. Khi đó tiên tri Êlia đến và xin bà chiếc bánh ấy. Bà thành thật nói: "Đây là chiếc bán cuối cùng". Nhưng sau đó vì biết Êlia là tiên tri của Chúa nên dù rất tiếc Bà cũng đem chiếc bánh cuối cùng ấy ra cho. Thật là một tấm lòng ray rứt dằn co vì tiếc rẻ. Sự tiếc rẻ ấy có làm giảm giá trị của tấm lòng không? Nếu tiếc mà không cho thì chẳng còn giá trị gì. Nhưng đàng này dù tiếc mà vẫn cho, cho nên sự tiếc rẻ ấy chẳng những không làm giảm giá trị mà còn tăng thêm giá trị của một tấm lòng quảng đại. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì; cho cái mình đang cần mới là quý; và cho cái mình vừa cần vừa tiếc thì là quý nhất.
Chúng ta có thể coi những bài đọc trong Chúa nhật hôm nay là nối tiếp bài Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Tin Mừng Chúa nhật vừa qua dạy rằng Đạo Chúa là đạo yêu thương: thương Chúa trên hết mọi sự và thương người như chính mình. Còn Lời Chúa hôm nay giải thích rõ thêm Thương thì phải làm sao?
. Thương thì phải cho. Thương ít thì cho ít, thương nhiều thì cho nhiều. Nhưng nhất thiết thương là phải cho, nếu không cho là dấu không thương. 2 bà goá này đã thương nên đã cho, đã cho vì đã thương.
. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Chính vì thế mà tuy bà goá ở Giêrusalem dù chỉ cho có một xu nhưng được Đức Giêsu coi là cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.
. Và của cho quý nhất là cho chính cái mình đang tha thiết, tiếc rẻ. Như bà goá xứ Sarepta rất tiếc chiếc bánh, vì đó là chiếc bánh cuối cùng của 2 mẹ con bà, nhưng dù vậy bà cũng đem cho.
Đó là nội dung giáo huấn của những bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay. Có cần phải nhắc lại không? Giáo huấn gồm 3 điểm chính:
Thương thì phải cho.
Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho.
Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất.
Chúng ta nói rằng mình thương Chúa. Nhưng có thương thật hay không? Hãy xét mình xem ta có cho Chúa gì không? Mỗi ngày vài phút buổi tối trước khi đi ngủ mà có khi ta cũng không cho. Mỗi tuần chừng một tiếng đồng hồ ngày Chúa Nhật mà có k hi ta cũng không cho hay có cho thì cũng cắt đầu cắt giữa cắt đuôi, nghĩa là đi lễ trễ, chia trí lo ra, về sớm. Thỉnh thoảng Chúa xin ta một chút hay sinh, một chút cố gắng, chúng ta có cho Chúa hay không? Hay là chúng ta cho Chúa thì ít nhưng xin Chúa thì nhiều, cầu nguyện thì chỉ toàn là xin, xin cho con... xin cho con... Có người xin ơn mà không được Chúa ban thì giận, họ kể lể nào là đã đọc kinh cầu nguyện, nào là đã hy sinh hãm mình thế này thế nọ, vậy mà Chúa không nhậm lời họ cầu xin. Như thế là dựa vào một ít việc lành mình đã cho Chúa để làm áp lực với Chúa, bắt Chúa phải ban ơn trả lại cho mình. Như vậy cũng chưa phải là thương Chúa thật.
Chúng ta nghĩ rằng mình thương người. Nhưng có thương thật hay không? Thì cũng hãy xét mình xem ta có cho người cái gì không? Đừng vội tự biện minh rằng tại vì tôi không có nhiều tiền. Một khi đã thương ai thật thì người ta không thiếu gì cái để cho và cũng không thiếu gì cách để cho. Đâu nhất thiết là phải cho tiền mới là thương. Thí dụ như cho cảm nghĩ tốt (thương ai ta sẽ không nghĩ xấu về người đó), thí dụ như cho sự quan tâm (thương ai ta không thể nào lơ là dửng dưng với người đó được), thí dụ như cho sự chăm sóc, giúp đỡ, cho những lời an ủi khuyến khích chân thành, cho lời cầu nguyện v.v.
Người không thương thì chỉ biết nhận mà không biết cho. Còn người thương thật thì vừa nhận mà cũng vừa cho, và coi cho là quý hơn nhận. Chúa dạy chúng ta yêu thương: thương Chúa và thương người, thương bằng cách cho.
3. Giá trị của của cho
Giá trị của của cho không phải ở nơi số lượng được cho mà là sự mất mát mà người cho phải chịu.
Chúng ta phải cho cái mà chúng ta quý chuộng. Vì thế không phải chỉ cho cái mà chúng ta có thể sống mà không có nó, mà là cho cái mà chúng ta không thể sống nếu thiếu nó. Cách cho như thế này đòi phải hy sinh, nhưng đó mới thật là cho với cả tấm lòng.
Mẹ Têrexa kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố thì gặp một người ăn xin. Người này nói: "Thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30 xu. Tôi muốn cho mẹ hết". Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: "Nếu tôi lấy 30 xu này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa".
Và Mẹ Têrêxa kể tiếp: "Thật là một hy sinh lớn đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30 xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì cho đáng. Nhưng khi ông đưa cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành hàng ngàn bởi vì nó được cho với biết bao tình. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn tấm lòng của ta khi làm việc đó."
4. Quà tặng dốc cạn túi
Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty: Biểu tượng "Lòng Từ Thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: "Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla".
***
Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện bà góa nghèo đã bỏ vào thùng tiền đền thờ "tất cả những gì mình có để nuôi sống" (Mc.12,44). "Của ít lòng nhiều". Bà góa này tuy dâng cúng ít tiền nhưng lại hy sinh rất nhiều, và hy sinh quí giá nhất là hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng "tất cả những gì mình có để nuôi sống". Quà tặng đẹp nhất là quà tặng dốc cạn túi. Quà tặng quý giá không phải chỉ ở giá trị món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa.
Đức Giêsu đã khen nghĩa cử cao đẹp ấy: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết" (Mc.12,43) Cũng vậy, bà Mc Carty chỉ dâng tặng 150.00 đôla không thể so với tỷ phú Ted Turner bỏ ra 1 tỷ đôla, nhưng đó là tất cả kết quả chắt chiu từng đồng suốt một kiếp người. Nghĩa cử cao đẹp ấy đã mở đầu cho gần 300 nhà từ thiện khác tham gia đóng góp cho quỹ học bổng này.
Nếu bà góa nghèo được Chúa khen ngợi, thì bà Mc Carty cũng được chính Tổng Thống Bill Clinton bắt tay thăm hỏi, được vinh dự cầm ngọn đuốc Olympic chạy trên đường băng qua khu vực Mississippi, được trao tặng Huân chương người công dân danh dự Hoa Kỳ, và được cấp bằng tiến sĩ danh dự của đại học Harvard.
Văn hào John Powell viết: "Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp đặc biệt để loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng".
****
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta tránh xa thói đạo đức giả của người Biệt phái và Luật sĩ: Lạm dụng việc đạo đức để khoe khoang, mưu cầu hư danh, ham hố chức quyền, trục lợi vật chất. Người muốn chúng ta có ý hướng ngay lành khi làm bất cứ việc gì. Đức Giêsu dạy: "Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh" (Mt.6,3-4).
Người ta chỉ cho đi cái mình có. Nhưng chính vì cho mà người ta mới có, và người ta có chính vì những gì mà họ đã cho. Cha Mark Link viết: "Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi". Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn vương lại hương thơm.
***
Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình có.
Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
5. Cho mà không mất
Từ câu chuyện bà goá trong bài đọc I, chúng ta có thể rút ra được ý tưởng này: có những thứ có thể cho đi mà không bị mất, ngược lại còn được thêm. Người cho không bị nghèo đi, lại giàu thêm. Dĩ nhiên đó không phải là những thứ vật chất.
Một thầy giáo cho đi những kiến thức của mình, học trò được giàu thêm kiến thức nhưng kiến thức của ông thầy không hề vơi.
Một người mẹ cho con cái mình tình thương cũng vậy.
Một người vui tính mang niềm vui đến cho người khác cũng thế.
Kiến thức, tình thương, niềm vui, hoà thuận v.v. là những thứ có cho đi cũng không bị mất, trái lại cả người cho và người nhận đều được giàu hơn.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn, Người không bị lừa gạt bởi những vẻ bề ngoài. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện của chúng ta:
1. Hội thánh phải nêu gương về lòng mến Chúa yêu người chân thật / Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tránh xa những thói quen giả hình và máy móc / đối với Chúa cũng như đối với mọi người.
2. Trên thế giới còn nhiều nơi không có công lý / hoặc chỉ có công lý giả hiệu bề ngoài / Xin cho các nhà cầm quyền biết tôn trọng sự thật và công lý / để dân chúng được sống an ninh và hòa bình.
3. Chung quanh chúng ta còn nhiều người giàu cũng như người nghèo, đang làm nô lệ tiền bạc, danh vọng và quyền thế / Xin cho họ được ơn khôn ngoan của Chúa để biết sống quảng đại và chia sẻ / theo gương bà góa trong Tin mừng hôm nay.
4. Bà góa trong Tin mừng hôm nay đã nêu gương quảng đại với Chúa / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / dù túng thiếu cũng vẫn rộng rãi với Chúa và với mọi người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đánh giá mọi người theo sự thật trong lòng họ chứ không theo hình thức bề ngoài, xin giúp chúng con biết sống thành thật và quảng đại với Chúa cũng như với mọi người, để luôn xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa là đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày", chúng ta hãy nhớ đến gương của hai bà goá đã dám cho đi chiếc bánh và những đồng xu cuối cùng của mình. Xin Chúa cũng dạy chúng ta biết phó thác vào Chúa như vậy.
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mội sự dữ, đặc biệt xin Chúa cứu chúng con khỏi sự dữ này là coi tiền bạc của cải như chúa tể đời mình..."
VII. Giải tán
Lời Chúa hôm nay nêu gương chia xẻ của hai bà góa nghèo. Khi trở về với cuộc sống bình thường, anh chị em sẽ gặp biết bao người túng thiếu cần được chia xẻ. Anh chị em hãy cố gắng noi gương hai bà góa ấy.
7. Quảng đại và tự do – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác. Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.
Hãy coi chừng
Chúa Yêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.
Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”. Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình. Hãy coi chừng.
Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của. Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền. Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết. Hãy coi chừng.
Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!
Người nghèo quảng đại
Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo. Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi. Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.
Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà. Cách hành xử của bà goá này rất đẹp. Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không? Thiên Chúa qúa tuyệt.
Bà goá trong Tin Mừng được Đức Yêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có. Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”! Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu. Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có. Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.
Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!
Người nghèo dễ tự do để chọn theo Thiên Chúa hơn
Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo? Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào? Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình. Vì sợ nên không được tự do.
Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn kể nỗi sướng điều khổ của người giầu?
2. Xin bạn liệt kê điều cực và cái hay của người nghèo?
3. Bạn thường bị nô lệ bởi điều gì nhất khi quyết định? Làm sao để quyết định tự do?
8. Để "của cho" thành lễ dâng đẹp lòng Chúa -- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giêsu khiển trách thói đạo đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh, tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giêsu đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.
CHÚ THÍCH:
- C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư”: Đức Giêsu cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ áo thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà các tư tế thường xử dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái thường tỏ lòng tôn kính đối với các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này để tỏ ra mình có lòng đạo đức và cũng mong được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo, tự cao tự đại (x. Mt 23,5). + thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh sư, là những người giải thích Kinh Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi” có nghĩa là “đại nhân của tôi”, được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều người để được thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh vọng.
- C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội đường: Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ dành cho những bậc vị vọng. Ai ngồi ở đây thì không bị che khuất và mọi người trong hội đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. + thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc: Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ ngồi được xếp đặt rõ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên trái, và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra thứ bậc của người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết tài sản của các bà góa: Các bà góa thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào hạng người cần được quan tâm giúp đỡ (x. Đnl 24,17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà góa thường cậy nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho. + làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng: Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ nhằm phô trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ cố tình cầu nguyện tại ngã ba đường, nơi mà người ta dễ thấy mà ca tụng lòng đạo đức của họ. + họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật Môsê coi việc xử tệ với các người cô thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh 22,21-23). Đức Giêsu cho biết: Những hành vi này của các kinh sư chỉ là hình thức đạo đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày tận thế.
- C 41-42: + Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp. Đức Giêsu đã đến ngồi tại đó sau khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự nguyện đóng góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị cô thế cô thân không nơi nương tựa, nhất là còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn. Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.
- C 43-44: + Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức Giêsu khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả những cái cần cho cuợc sống hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 15,7). + mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì “của nhiều lòng ít”. + còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình: Bà “của ít lòng nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã tăng giá trị lên nhiều lần.
CÂU HỎI:
1) Đức Giêsu đã quở trách bọn kinh sư và biệt phái về các thói xấu nào?
2) Người đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm mà bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Tránh làm việc bác ái để tìm hư danh:
Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi vào sau buổi họp mặt hôm đó để mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều. Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi lần nghĩ tới là bà lại cảm thấy nuối tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài dự tính kia.
2) Gã bán thịt và lão ăn mày:
Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt. Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền”. Hai người cự cãi không ai chịu thua ai. Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ đồng tiền của lão ăn mày”.
3) Cái chết của cô gái bán diêm nghèo khó:
Vào một buổi tối mùa thu, nhà văn Anderson đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một bao nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này”. Nhà văn vừa nói vừa khoa tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé không hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải đi xa.
Nhiều tháng trôi qua, Anderson dường như đã quên lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ trở lại Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã ghé mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm để tặng. Tuy nhiên người chủ tiệm bên đường đã cho ông biết con bé bán diêm đã chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy nó nằm chết cóng bên vệ đường. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một ai đó. Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng chú Anderson”.
Câu chuyện cảm động trên là một kỷ niệm buồn trong cuộc đời của nhà văn Anderson. Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện về người đàn bà góa nghèo trong Tin Mừng Marcô hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa có nét giống nhau: Cả hai đều là những người rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi; tuy vậy cả hai đều có lòng quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản là tuy nghèo vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái khi luôn biết nghĩ đến người khác.
4) Tinh thần nghèo của thánh Phanxicô khó khăn:
Một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi Phanxicô đã phân phát cho người nghèo tất cả của cải của mình, ngài bắt đầu đi lang thang đó đây khất thực, vừa đi đường vừa ca hát. Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu cả rồi?”. Phanxicô trả lời: “Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó tất cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi lang thang đến đây từ đâu và anh định sẽ đi đâu thế?“ – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang trên đường đi về nơi ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “Thế tại sao anh lại vừa đi đường vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” – “Tôi hát là để khỏi bị lạc đường đó thôi.”
Là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ bị lạc đường, nếu chúng ta để cho của cải vật chất điều khiển. Điều quan trọng là chúng ta phải phá đổ thới xấu ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi giống như bà góa trong Tin mừng hôm nay.
5) Lòng quảng đại của một đôi vợ chồng nghèo:
Một cặp vợ chồng về quê thăm họ hàng trong ngày nghỉ lễ. Họ lái xe được một quãng đường thì trời đổ mưa tầm tã và xe thình lình bị hư dọc đường. Đêm đã khuya và lạnh mà họ thì lại không quen thuộc đường lối. Sau khi đã hết mưa, họ bèn bỏ xe, đi bộ đến gõ cửa một căn nhà gần đó có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống. Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ để một số tiền lên bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà ngoài phòng khách. Thì ra hai ông bà già này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ, còn mình sẵn sàng nằm ngủ dưới đất. Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa cao quí của sự hy sinh và tình yêu thương của bà góa thời ngôn sứ Êlia và bà góa trong Tin mừng. Các bà đã cho đi tất cả những gì mình có.
3. THẢO LUẬN: Trong những ngày này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ rơi để làm vui lòng Chúa?
4. SUY NIỆM:
1) Hãy quảng đại dâng cho Chúa mọi sự thuộc về mình:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã lên án thái độ giả dối của các kinh sư Do thái và Người đã dạy môn đệ phải quảng đại cho đi, noi gương bà góa nghèo nọ đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong một ngày. Bà đã được Đức Giêsu đánh giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).
Câu chuyện cổ tích Ả rập về anh hàng thịt nướng keo kiệt đối xử hà khắc đối với kẻ nghèo nói trên cũng vẫn thường hay xảy ra trong xã hội hôm nay: Nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác cách keo kiệt tương tự. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện vui về một ông bố keo kiệt và tham ăn như sau:
Một hôm sau một đêm thức trắng đánh dậm bắt được một giỏ mươi con cá, anh ta về ngồi bên bếp than nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một mình. Đứa con trai nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi thơm của cá liền khóc lóc đòi được ăn cá. Bà mẹ liền dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào nhỏ cả, con nào cũng to bằng nhau hết!”.
Cũng vậy, nhiều lần chúng ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”. Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn mỏi không biết phải chờ đến bao giờ. Người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.
2) Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ tại chỗ nào?
- Của cho không bằng tấm lòng người cho: Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Hai bà góa thời ngôn sứ Ê-li-a và thời Đức Giêsu sở dĩ được đề cao là do lòng yêu mến đối với người của Chúa và với công việc nhà Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho hành động của hai bà có giá trị trước mặt Chúa. Và Chúa Giêsu đã khen bà góa trong Tin Mừng tuy chỉ bỏ hai đồng kẽm nhưng đã dâng Chúa nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ nhiều tiền. Vì những người kia dâng số tiền dư, còn bà goá này dâng Chúa tất cả những gì bà đang cần.
- Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng mến. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra quảng đại hơn người khác. Sau đó việc rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng để bỏ vào thùng là ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối và muốn đến đòi lại số tiền dư kia, nhưng do thói sĩ diện hão, nên đành chấp nhận số tiền đã lỡ bỏ thùng hơn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị về thiêng liêng trước tòa Chúa phán xét sau này vì nó không phát xuất từ tình yêu tha nhân, mà chỉ vì thói sĩ diện hão nhằm để tìm tiếng khen.
3) Về ba loại người cho và giá trị của ba cách cho:
+ Một là người cho cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên du cho mà trong lòng cảm thấy bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền cho xong, để hắn mau biến đi khuất mắt!”.
+ Hai là người cho để làm xong bổn phận: Loại người cho này dù đã cho mà vẫn không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan”: “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ! ”.
+ Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ cảm thấy buồn. Loại người cho này thường hay nói với những người chịu đau khổ bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp lòng Chúa và chúng ta cần gắng thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa và mang lại hạnh phúc sau này cho chúng ta.
4) Hãy tập quảng đại cho đi noi gương Chúa Cha:
- Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta:
+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.
+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng suối.
+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng dài.
+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như PHĂNG-SÍT BAN-PHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:
+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ;
+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành,
+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,
+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ công việc nội trợ,
+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giêsu”.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu. Cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”. Bà dâng do lòng mến Chúa thôi thúc, nên đã được Chúa đánh giá: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).
Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ bị chán nản buông xuôi việc tốt, khi không được nhiều người biết và khen ngợi... Xin Chúa thanh luyện ý hướng khí làm việc lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng sẽ được người chung quanh nhận biết và họ sẽ ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5,14-16).
X. Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
9. Đạo đức giả và quảng đại thật -- Lm. PX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Giáo huấn của Đức Giêsu và lời nhắc đến các kinh sư đi với nhau, khiến chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc 12,35). Bản văn này là như bức tranh bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương phản. Các kinh sư khoe khoang và đạo đức giả bị chỉ trích trong đoạn văn này là hình ảnh ngược lại với hình ảnh người môn đệ của Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (12,38-40);
2) Câu truyện bà goá nghèo (12,41-44).
Hai phần này được liên kết với nhau bằng từ móc nối “bà góa” (cc. 40.42).
3.- Vài điểm chú giải
- Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa … thích … (38): Các lời cáo buộc của Đức Giêsu được nêu theo một mức độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo thụng, thích được chào và thích ghế danh dự. “Áo thụng” (HL. stolê) là áo choàng các kinh sư thường mặc để vận dụng trong một số trường hợp. Mt 23,5 trách là họ đã nối dài tua áo. Thật ra chính bộ áo cũng đã “thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi cầu nguyện, khi tuyên một bản án hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo xống, nhằm được tôn kính. “Ưa được chào hỏi” tại các nơi công cộng cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội đường là vị trí ở trước hòm chứa tôrah, chỗ này được dành cho những nhân vật cao trọng và các quan chức. Chỗ danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ nhà hoặc người khách đặc biệt.
- Họ nuốt hết tài sản của các bà goá (41): bản văn Hy Lạp viết là “nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy, các kinh sư có thể được cậy nhờ quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà goá. Nhờ đó, họ có thể trục lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc lột bà goá, người ít được luật bảo vệ nhất (vì: 1) là phụ nữ; 2) đại diện cho tình trạng nghèo túng), là một tội đặc biệt đáng ghét (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,7.23; 10,2; Gr 7,6; 22,3; Tv 93/94,6), còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo gương Thiên Chúa (Đnl 10,18t; 24,17-22; 26,12t; G 29,13; 31,16) là một việc lành được kể ở hàng đầu.
- làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: x. Mt 6,5. Đức Giêsu không kết án việc cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc cầu nguyện để cho người ta thấy. Các kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo là cầu nguyện khi nối kết nó với thái độ khoe khoang kệch cỡm của họ.
- thùng tiền (41): Từ Hy Lạp gazophylakion (do từ ngữ Ba Tư gaza = kho tàng). Đây có thể là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do Thái mới được vào. Trong căn phòng này, có đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo 2 Mcb 36, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do Thái 6,282), vào năm 70 sau CG, khi Đền Thờ bị thiêu hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.
- Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô tả của Mc không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi đối diện với phòng tàng trữ của cải (gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng (gazophylakion); mà dường như người ta không được phép ngồi ở đây, nhất là lại ngồi để xem như xem trình diễn!
- đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy Lạp chalcos, “tiền đồng”, nhưng ở đây có nghĩa là “tiền bạc nói chung.
- một bà goá nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số lượng mia (one) thay vì dùng tis (a certain), nhưng đấy là lối viết thông thường thời đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý đến một sự cố đặc biệt (“một bà goá nghèo đến bỏ vào đó…”).
- hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc: Hai đồng tiền kẽm”, lepta (số ít: lepton), bằng một kodrantês; một kodrantês bằng ¼ as hoặc assarion; một assarion bằng 1/6 quan (một quan, denarius, là lương công nhật một người thợ).
- Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa … , bà này thì rút từ cái túng thiếu … (44): Ở đây không có một bài học luân lý nào được minh nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể rút ra được nhiều bài học như: đừng phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài (x. Mc 12,40; Mt 23,27); những người quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không nhất thiết là những người đã tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy trong nơi bí ẩn (Mt 6,4.6.18) và biết các cõi lòng (Lc 16,15; x. Cv 1,24; 15,8)…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (38-40)
Giáo huấn của Đức Giêsu được chia thành một lời khuyến cáo mở đầu (c. 38b), một lời mô tả các kinh sư (cc. 38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (c. 40c). Lời chỉ trích đầu tiên nhắm đến cao vọng diễn tả ra trong cố gắng tìm cho được dân chúng nhìn nhận. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài đại lễ và yêu cầu được người ta cung kính chào tại các quảng trường và được có những chỗ danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ đến sự tham lam của các kinh sư. Lối sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi họ nối kết hành vi bóc lột với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.
Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời (x. Mc 10,30).
* Câu truyện bà goá nghèo (41-44)
Khung cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải, cùng với những người giàu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà góa, một con người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu ở trong thế có thể thật sự lượng định giá trị của lối xử sự của loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh thoát đối với của cải đã đưa lại giá trị cho hành vi dâng cúng, nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua hành vi đó.
+ Kết luận
Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), và không bị đánh lừa bởi những dáng vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ đừng để bị lừa bởi một bộ mặt đạo đức che đậy sự khoe khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác ái do những người nghèo và những người thất học thực hiện. Mỗi người được mời gọi ý thức về sự mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí của kẻ khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể có phần phóng đại. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các cấp vẫn cảm thấy được mời gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm các công việc phục vụ.
2. Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng đáng trách hơn nữa hành vi lừa dối bằng cách vận dụng những yếu tố liên hệ đến sự thánh thiện (như đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà thờ…) để che giấu một thực trạng tiêu cực.
3. Tấm gương bà góa mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng to lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng. “Của cho không bằng cách cho”!
4. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa kính trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa, không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo đức, mà còn san sàng giúp đỡ những người đang sống cảnh cô độc neo đơn.
10. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
CHÚA GIÊSU VÀ GIỚI KINH SƯ (12,35-42)
Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).
Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.
ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)
Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.
Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.
11. Lòng quảng đại và tín thác không giới hạn
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về hai hình ảnh đối lập: các ông kinh sư và bà góa nghèo. Từ hai hình hình ảnh này, Chúa Giêsu căn dặn ta hãy coi chừng sự giả hình, ưa chiếm hữu danh lợi của các kinh sư và dạy ta quảng đại trao dâng như bà góa nghèo. Lòng quảng đại của bà chứng tỏ một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng quan phòng đời bà. Thế nhưng giữa một thế giới mà trong đó con người đang tranh giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực và hơn thua nhau về địa vị, tài sản... Liệu bài học về Lòng quảng đại tín thác của Chúa đưa ra có lỗi thời không?
Người Việt Nam chúng ta vốn quan niệm: "Một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp". Quan niệm ấy cho chúng ta hai suy nghĩ vừa tích cực lẫn tiêu cực. Chiều tích cực là cho thấy sự trọng vọng của mọi người dành cho những người có chức quyền và địa vị trong xã hội ở mọi thời. Sự vinh quang này cũng có thể là động lực giúp cho nhiều người cố gắng vươn lên trong khả năng của mình sao cho bằng người khác. Tuy nhiên mặt trái của sự vinh quang thế gian ấy cũng có thể làm cho chính đương sự nhiễm thói kiêu ngạo, dương dương tự đắc, ưa thích danh vọng và coi mọi người không ra gì.
Nhưng sông có khúc, người có lúc. Khi có chức có quyền thì phải sống làm sao để khi hết quyền hết chức người ta vẫn kính trọng, quí mến. Cách riêng với những người đang nắm chức vụ trong Giáo Hội, trong các đoàn thể, cộng đoàn... Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ coi chừng các ông kinh sư, nhưng có lẽ Chúa cũng thấy trước những cám dỗ mà có thể các đồ đệ của Ngài cũng dễ mắc phải đó là "Ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự, chỗ nhất..." Và còn tệ hơn: "Chiếm tài sản của các bà góa, làm bộ đọc kinh lâu giờ". Giáo Hội trong mọi thời đều dễ rơi vào cơn cám dỗ kinh khủng của uy thế, của những độc quyền, những "bộ áo thụng" và của những chức vị phô trương... của những giả hình, bất công và làm méo mó khuôn mặt của Hội Thánh Chúa.
Thực ra chức vị và quyền hành không phải là một cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa. Vì những người được Chúa yêu thương tuyển chọn, có khả năng, khôn ngoan, nhiệt thành và được tập thể tín nhiệm trao phó trọng trách để phục vụ Chúa và cộng đoàn. Như thế càng phải ý thức cách triệt để như lời sách Huấn Ca nhắn nhủ: "Càng làm lớn con phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa". (Hc 3,18) Chúa Giêsu căn dặn và mong muốn tất cả chúng ta sống theo Lời và gương của Người đã sống là quảng đại hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Vì Con Người đến... là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người". (Mc 10, 43.45) Chúa muốn ta thay đổi cách sống và thói quen. Linh mục cũng như giáo dân... không đặc quyền, đặc lợi. Một Giáo Hội nghèo và trần trụi, sống trong sự giản dị theo Tin Mừng... không để bị lôi cuốn trong xa hoa, tráng lệ của thế gian.
Một sự tương phản giữa những kinh sư sùng đạo đã "Nuốt hết tài sản của các bà góa"... và bà góa nghèo này, người đã "rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống".
Chúa Giêsu đã khâm phục bà bởi vì bà đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng "Tất cả những gì bà có để sống". Sự nghèo khó: đó là tình trạng của người không có những gì cần để sống. Bà góa này đang ở trong tình trạng đó. Bà đã rút từ trong sự túng thiếu của mình, dâng cúng cho Đền Thờ. Hai đồng tiền nhỏ là tài sản duy nhất của bà. Hai đồng tiền nhỏ ấy là cơ nghiệp gắn liền với bà, nó sẽ là cơm ăn thuốc uống của bà và là sự sống của bà. Hai đồng tiền nhỏ ấy là cả một tài sản của thân phận nghèo nàn của bà. Thế mà, không luyến tiếc, bà đã quảng đại dâng cho Thiên Chúa tất cả. Dâng tất cả tài sản nhỏ bé của mình, bà như dâng lên Thiên Chúa tất cả sự sống. Bà phó dâng hiện tại và tương lai trong tay Chúa Quan Phòng. Đời bà thuộc về Chúa, sự sống của bà là của Chúa. Lòng quảng đại ấy biểu lộ một Niềm Tin Tín Thác mãnh liệt vào Thiên Chúa là Chủ sự sống.
Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại để giới thiệu cho các ông một mẫu gương cho đi tận tình. Và Chúa cũng mời gọi tôi là con cái Chúa, học gương bà góa, cũng hãy dâng hiến cho Thiên Chúa những gì mình có, vì tất cả những gì tôi có đều do bởi Chúa, như lời Thánh Phao-lô nhắc: "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh" (1Cr 4,7).
Hình ảnh bà góa dâng tất cả những gì bà có để sống gợi cho tôi bao suy nghĩ và tự vấn. Tôi đã sẵn sàng dâng tâm hồn tôi để trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị hay chưa? Tôi có dấn thân dâng lên Thiên Chúa cuộc đời tôi để phục vụ cho Tin Mừng và hăng say rao giảng Nước Chúa không? Và tôi đã quảng đại dâng những tài sản vật chất của mình để phục vụ Chúa, xây dựng Giáo Hội và chia sẻ với anh em túng thiếu chưa? Tôi nhận thấy mình kém xa bà góa nghèo, mặc dù tôi không nghèo như bà. Nhiều khi tôi đắn đo tính toán với cả Thiên Chúa và anh chị em mình mà chưa biết quảng đại hiến trao, chưa thật tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Chúa và không thật sự tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Nói tới bà góa nghèo, tôi nghĩ đến Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta. Mẹ thật nhỏ bé, nghèo nàn. Mẹ đến Ấn Độ chỉ với hai bàn tay trắng. Tài sản của Mẹ là một trái tim đầy ắp tình yêu phục vụ người nghèo, nhất là những người vô gia cư nằm hấp hối bên lề đường. Mẹ đã quảng đại trao dâng cho Thiên Chúa tất cả và một lòng tín thác vào Chúa để yêu thương phục vụ tha nhân. Đời sống và nghĩa cử yêu thương của Mẹ được cả thế giới biết đến và khâm phục. Và đã gợi hứng cho nhiều người tiếp tục quảng đại dâng hai đồng tiền nhỏ của mình cho Chúa và tha nhân. Vì trong thế giới của chúng ta, còn đó sự chênh lệch về mức sống giữa người với người, giữa nước này với nước kia. Và còn đó biết bao anh chị em nghèo khổ quanh ta cần lắm lòng quảng đại sẻ chia tinh thần và vật chất.
Một đức tin đầy đức ái và lòng quảng đại sẽ là mẫu sống cho ta. Ta đừng ngại nói ngôn ngữ của lòng quảng đại và đừng sợ tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Chúa Kitô, Đấng đã hiến dâng chính mạng sống mình vì lòng tín thác vào Chúa Cha là khuôn mẫu cho chúng ta. Sự nhiệt tâm và quảng đại của chúng ta được xây nền trên nền quảng đại của Chúa Giêsu- Một Thiên Chúa giàu sang nhưng đã trở nên nghèo để cho ta được giàu có, như lời Thánh Phao-lô nói với giáo đoàn Cô-rin-tô để khuyến khích họ chia sẻ: "Quả thật, anh em đã biết Đức Giêsu Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có." (2Cr 8,9)
Nguyện xin Chúa Giêsu chia sẻ cho ta lòng quảng đại của Người và ban ơn giúp ta tín thác để rồi ta dám quảng đại với Thiên Chúa và với anh em. Amen.
12. Đồng xu của bà góa
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 12:38-44: Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh.
Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Nước Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ. Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần Tổng Thống, nhưng không hiểu làm thế nào mà hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống.
Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình.
Cậu bé kia buồn thiu, vì em không có gì để dâng tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả sự trân trọng.
Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.
Tin Mừng hôm nay nhắc đến "Đồng Xu của Bà Góa", trong khi có nhiều người bỏ tiền vào thùng, nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiện đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiến đến và bỏ vào đó hai đồng xu.” Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt của nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tài sản của chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh Kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy thánh Marcô mới nói: “người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu, một món tiền chẳng có nghĩa lý gì cả. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội để qua cử chỉ khiêm tốn này, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng. Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược là kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho đi chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Nghĩa là bà đã rút ra từ cái túng thiếu, cái nghèo đói của mình, từ giá trị của hai đồng tiền kẽm chính là tài sản duy nhất nuôi sống mình để dâng cúng vào Đền Thờ. Như vậy, giá trị của việc dâng cúng không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng. Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Chính vì vậy mà Mẹ Têrêsa Calcutta nói: "khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà quí giá”.
Mẹ Têrexa còn kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố thì gặp một người ăn xin. Người này nói: "thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho Mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30 xu. Tôi muốn cho Mẹ hết". Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: "nếu tôi lấy 30 xu này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa". Và Mẹ Têrêxa kể tiếp: "Thật là một hy sinh lớn đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30 xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì, nhưng khi ông đưa cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành cả hàng ngàn xu bởi vì nó được cho với biết bao tình người. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn tấm lòng của ta khi làm việc đó.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giầu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật. Một Thiên Chúa giầu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh phục vụ quên mình của chúng ta. Amen.
13. Lòng tốt việc tốt
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai tấm lòng tốt việc tốt của hai người phụ nữ: một người thời ngôn sứ Êlia và một người thời Chúa Giêsu.
Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarépta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa, bà hy sinh chút bột và dầu còn lại làm bánh nuôi ngôn sứ, nhưng Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Một phụ nữ khác thời Chúa Giêsu, đang sống trong cảnh túng thiếu, thế mà bà đã đem cả số tiền lương công nhật, tức là những gì bà có để nuôi sống mình, bỏ vào hòm tiền dâng cúng cho nhà thờ, và Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác, tại sao vậy? Bởi vì trước mặt Chúa, tất cả những công việc làm từ thiện hay đạo đức phải phát xuất từ lòng mến Chúa và yêu người, chứ không phải như giới kinh sư và Pharisêu, họ làm những việc ấy chỉ là những phương tiện trục lợi và tích trữ của cải đem lại danh giá và địa vị cho mà thôi, ai đói hay chết mặc kệ.
Chúa Giêsu hôm nay mạnh mẽ lên án lối sống hai mặt của các kinh sư và người Pha-ri-sêu: dáng vẻ bề ngoài của họ rất đạo đức: giữ luật chín chắn, đọc kinh dài và nhiều giờ, xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho người công chính… Nhưng thực tế, trong thâm tâm họ độc ác, nhan hiểm vô: bó những gánh nặng chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không động ngón tay vào; hoặc rủ người ta theo đạo nhưng theo rồi đẩy họ xuống hoả ngục, và nhất là nuốt hết tài sản của các bà goá.
Cho nên, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng bắt chước họ vì họ quá chú tâm đến hình thức bên ngoài mà chẳng màn chi đến tâm tình bên trong, họ đáng bị kết án. Tâm tình bên trong quan trọng hơn dáng vẻ bên ngoài, vì nó sẽ chi phối lời nói, việc làm của chúng ta ra tốt hay xấu, chứ không phải bề ngoài. Vì thế ông bà ta nói rằng “Thà tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hai bà goá trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay tuy dáng vẻ bề ngoài nghèo nàn, hèn hạ đến nỗi không ai tôn trọng bà, thậm chí chả thèm để ý đến nhưng các bà có một tấm lòng đáng trân trọng, khâm phục và noi theo.
Trong đời sống, nếu chúng ta có nội tâm tốt lành thánh thiện đương nhiên sẽ biểu lộ ra bên ngoài bằng những hình thức đáng trân trọng đó là: những lời nói chân tình, hành động yêu thương phục vụ, cử chỉ thân ái, nụ cười thứ tha… Nhân ngày của mẹ năm nay, bài viết có tựa đề “Tình mẹ” được đăng trên mạng lưới Internet kể như sau: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm. Mẹ tần tảo nuôi tôi khôn lớn. Khi vào trung học, tôi vô cùng xấu hổ và thẹn thùng và nhục nhã vô cùng vì bạn bè thấy mẹ tôi bị chột một mắt, xấu xí đến nỗi chúng gọi bà là phù thủy. Sau đó, tôi tốt nghiệp đại học loại giỏi, được đi du học và làm việc và ở lại luôn nước Philippines. Từ đó tôi không muốn liên lạc gì với mẹ nữa, thậm chí lấy vợ sinh được 3 cháu mà bà nội cũng chẳng biết gì. Tình cờ, một hôm mẹ tôi lụ khụ đứng trước cửa nhà tôi (Philippines). Tôi đưa mẹ vào nhà và cắn răng giới thiệu mẹ tôi cho vợ con biết. Thế là đám cháu nội xúm lại chọc ghẹo đùa giỡn hổn láo với bà nội vì bà giống phù thủy quá! Mẹ ở với gia đình tôi chưa được một tháng, thì tôi mua vé máy bay cho bà về quê ở Bến Tre gấp. Một năm sau, tôi được tin mẹ tôi đã qua đời. Tôi quyết không về, nhưng vợ tôi nói: “Nghĩa tử là nghĩa tận” nên tôi đành bay về Việt Nam. Về quê, vào nhà thì thấy người ta đã chôn mẹ được ba ngày rồi. Tôi vào phòng và nhìn lại cái gường ngày xưa tôi nằm nghe mẹ kể chuyện và ru tôi à ơi. Bỗng tôi phát hiện trên đầu gường có một lá thư, tôi cầm lên mở ra và thấy vỏn vẹn chỉ mấy dòng sau: “Con ơi, dù mẹ xấu mẹ vẫn thương con hết lòng. Con biết không? Mẹ bị chột mắt xấu xí như vậy là vì ngày xưa con chơi chạy té bị chiếc đũa đâm vào mắt làm hư mắt của con. Mẹ đã yêu cầu bác sĩ múc mắt mẹ mà đắp cho con đấy. Mẹ không nói chuyện này chỉ vì mẹ muốn con thành người tốt sống có ích: yêu thương và giúp đỡ mọi người”.
Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết vì Bà đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân” (Mc 12,43-44). Giờ đây, chúng ta hãy xét xem mình đã cho Chúa cái gì? Mỗi ngày một vài phút trước khi thức dậy hay đi ngủ có dành cho Chúa qua việc đọc kinh thờ phượng Ngài không? Ngày Chúa nhật chỉ có vỏn vẹn một tiếng đồng hồ mà có khi chúng ta cũng chẳng dành cho Chúa đủ, cắt đầu, cắt đuôi. Rồi khi Chúa đòi ta một chút cố gắng hy sinh, để phục vụ Chúa và tha nhân, thì ta né tránh, biện cớ bận rộn công việc, không có thời gian, không đủ trình độ… Hay chúng ta có đọc kinh, hy sinh hãm để đòi Chúa phải ban ơn cho mình bằng cách cho con cái này cái kia, chứ không phải là phụng sự Chúa và yêu mến anh em một cách chân tình. Như thế, chúng ta chưa yêu Chúa và tha nhân đích thật, chúng ta mới nói yêu trên đầu môi chót lưỡi bên ngoài, yêu vì có lợi chứ chưa trao ban chính tấm lòng mình như thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu nói: “Yêu là cho đi tất cả và trao ban chính mình”. Còn Thánh Giacôbê tông đồ nói: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi, đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,24.26).
Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta từ nay đến với Chúa và tha nhân bằng chính tấm lòng, con người của mình qua việc hăng hái tham gia các hoạt động tông đồ của giáo xứ, và góp phần cụ thể (tiền bạc, công sức…) cho việc bác ái của cộng đoàn của mình. Xin Chúa uốn nắn những gì còn cong quẹo, giả hình, giả dối nơi chúng ta. Và xin Chúa xua tan những tính toán, ích kỷ đang cột chặt con tim của chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng đong đầy ân sủng Chúa trong tâm trí chúng ta ngõ hầu chia sẻ, trao ban những gì chúng ta có cho những người cần chúng con giúp đỡ trong cuộc sống qua việc hy sinh, cầu nguyện cho người còn sống hay đã qua đời, nhất là trong tháng Các Đẳng này. Amen.
14. Những cách cho trong cuộc sống
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Mẹ Têrêxa thuật lại câu chuyện như sau: "Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo".
Ở Calcutta, mọi người đều biết là: Mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.
Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?". Họ trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con".
Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái".
Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?". Hai bạn trẻ đó trả lời: "Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào". (Câu chuyện được sưu tầm từ Internet)
Tấm lòng hy sinh quảng đại của đôi vợ chồng trẻ trong câu chuyện trên đây cũng tương tự tấm lòng của hai bà goá mà lời Chúa hôm nay tường thuật lại.
Bài đọc I, sách Các vua kể lại câu chuyện ông Êlia đến xin bánh của một bà goá Sarephta. Hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Bà chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Theo lời bà nói: “Bà đang đi lượm mấy que củi để về nấu cho bà và con bà ăn, rồi chết” (x. 1V 17,12). Vậy mà, ông Êlia lại đến xin bà. Bà đắn đo nhưng không từ chối. Lý do bà đắn đo là vì bà muốn ông Êlia biết được hoàn cảnh của mình. Sau khi lắng nghe bà trình bày, ông Êlia đưa ra đề nghị: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: 'Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Sau khi ông Êlia giải thích, bà đã mạnh dạn nhường phần ăn duy nhất của bà và con bà. Đây là một cử chỉ anh hùng. Tuy bà nghèo của cải vật chất nhưng lại có tấm lòng quảng đại. Bà đã cho ông Êlia không phải cái dư thừa nhưng là cái bà đang cần, là sự sống của mẹ con bà. Sở dĩ bà làm được như vậy là vì bà biết phó thác tin tưởng vào lời Chúa: “Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất”.
Bài Tin mừng thuật lại việc người ta dâng cúng tiền của vào đền thờ. Đang khi họ dâng cúng, Chúa Giêsu đứng quan sát. Ngài thấy những người giàu có bỏ nhiều tiền. Đồng thời, Ngài thấy người đàn bà goá nghèo bỏ hai đồng tiền (1/4 xu). Ngài đưa ra nhận xét: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết" (Mc 12,43). Lời nhận xét của Chúa Giêsu có vẻ nghịch lý. Nếu tính theo số lượng, hai đồng tiền của bà goá quá ít so với những người giàu có bỏ nhiều tiền. Thế thì tại sao Chúa lại bảo người đàn bà bỏ vào hòm tiền nhiều nhất? Câu trả lời đã được Chúa Giêsu giải thích ở câu kế tiếp: “Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” (Mc 12,41). Thế mới biết, Chúa Giêsu đánh giá việc làm của người khác ở tấm lòng, ở cách cho chứ không phải ở số lượng, ở của cho. Đúng như lời Người nói: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13; 12, 7).
Trong cuộc sống, chúng ta nhận thấy có nhiều cách cho:
Có người cho vì sợ quấy rầy, vì ép buộc: Chúa Giêsu đã nói rõ điều này qua câu chuyện người xin bánh ban đêm. Chúa nói: “Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần” (x. 11,5-8).
Có người cho vì muốn nổi tiếng hoặc để khoe khoang: Dâng cúng vào nhà thờ, đóng góp vào việc chung với ý muốn được nêu danh trong nhà thờ hay được khắc tên vào bia kỷ niệm. Làm việc bác ái là để phô trương cho người ta biết.
Có người cho theo kiểu “Thả con tép bắt con tôm” hay “Hòn đã ném đi, hòn chì ném lại”.
Có người cho chỉ vì bổn phận: Cha mẹ cho con cái những cái tối thiểu để con cái vào đời: học hành, nghề nghiệp, gia đình… đó là cha mẹ đang làm việc bổn phận. Con cái giúp đỡ cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời bằng tinh thần và vật chất những cái tối thiểu, đó là con cái đang thể hiện lòng hiếu thảo, thể hiện bổn phận đối với cha mẹ. Người giàu bố thí cho người nghèo. Người thầy giáo dạy chữ nghĩa cho học sinh… Đó là cách cho vì bổn phận, mà bổn phận thì ai cũng phải chu toàn. Sách Giáo lý HTCG số 2446 dạy: “Không cho những người nghèo dự phần vào của cải cải của ta, đó là ăn trộm của họ và cướp lấy mạng sống của họ. Của cải ta giữ đó không phải là của chúng ta, nhưng là của họ”. Nói là vậy, nhưng thực tế cho chúng ta thấy: Có nhiều bậc cha mẹ giàu có nhưng để cho con cái sống trong cảnh nghèo nàn. Ngược lại, con cái giàu có, sung túc, nhưng bỏ bê cha mẹ thiếu thốn, nghèo khó. Có nhiều người giàu có nhưng lại ích kỷ không bao giờ làm việc bác ái, không dám cho đi.
Có người cho vì tình thương, vì lòng mến thực sự: Đôi bạn trẻ và bà goá Sarephta đã cho vì tình thường. Bà goá trong bài Tin mừng đã cho vì lòng mến. Họ đã cho đi tất cả, cho đi chính cái mình đang cần, cho vì tình thương và lòng yêu mến. Đó cũng là cách cho của Chúa Giêsu vị thượng tế tối cao (x. Dt 9, 24-28). Cả cuộc đời của Ngài đều cho đi: Cho đi thời gian, sức lực, lời giáo huấn, tình thương yêu. Đỉnh cao của sự cho đi là cái chết trên thập giá: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15,13). Theo gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã cũng cho đi vì tình thương, vì lòng mến. Chẳng hạn, các thánh Tử đạo “Đã can đảm tuyên xưng đức tin, đến hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa”. Thánh Maximilianô Kolbe đã tự nguyện nộp mình chịu chết thay cho người bạn tù. Mẹ Têrêxa Cacutha đã cho đi cả cuộc đời mình vì người nghèo.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta đã từng cho, nhưng cách cho của chúng ta như thế nào? Cho nhiều nhưng luôn cho cái dư thừa? Cho vì khỏi bị quấy rầy? Cho để khoe khoang? Cho vì bổn phận? Cho vì tình thương và lòng mến?
Hãy nhớ rằng: “Của cho không bằng cách cho” hay “Của ít lòng nhiều”. Vì thế, hãy cho vì tình thương, vì lòng mến Chúa yêu người. Hãy quảng đại cho đi, vì “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi” (Lm. Mark Link). Tôi còn nhớ lời khuyên ngắn gọn nhưng đầy súc tích và ý nghĩa của Cha Bề Trên khi tôi còn học ở Đại chủng viện rằng: “Cụ tụ thì dân tán, cụ tán thì dân tụ”. Ý của Ngài muốn dạy cho các chủng sinh là những linh mục tương lai bài học về lòng quảng đại với giáo dân. Với mười lăm năm làm cha xứ, tôi nhận thấy lời khuyên đó thật chính xác. Không chỉ chính xác đối với cha xứ mà còn chính xác trong mọi lãnh vực: Tôn giáo, xã hội, gia đình, cộng đoàn, đặc biệt cho những người đang có trách nhiệm lãnh đạo. Đúng như lời dạy của Kinh Hoà Bình:
“Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa Giêsu lòng con mến yêu, xin ban cho mỗi chúng con có tấm lòng rộng mở, biết cho đi một cách quảng đại những gì chúng con đang có. Cho đi không phải vì miễn cưỡng. Cho đi không chỉ vì bổn phận nhưng cho đi vì tình thương và lòng mến. Amen.
15. Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Mc 12:38-44: Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại...
Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phái trách xa thói giả hình của các Kinh sư và học lối sống khiêm hạ, quảng đại của người đàn bà goá. Người môn đệ phải là người có tâm trong sáng, có đời sống bên ngoài xuất phát từ chính tâm trong sáng ấy. Sống trung thực và quảng đại hy sinh là hình ảnh chân thực người môn đệ Chúa Giêsu của mọi thời đại.
I/ Tìm hiểu Lời Chúa Tin Mừng: Mc 12, 38-44
Bản văn được chia làm hai phần:
1. Lối sống đạo đức giả của các Kinh Sư (12, 38-40: Giáo huấn của Chúa Giêsu được chia thành lời khuyến cáo mở đầu (c. 38), một lời mô tả các Kinh sư(c. 38-40), và một lời kết đe doạ phán xét (c. 40). Các kinh sư là những người chuyên về diễn giải mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Israel cho dân chúng hiểu và thực hành (Er 7,11). Họ là những người có tư cách giải thích luật và phê phán những ai không giữ luật. Chúa Giêsu lên án sự khoe khoang, tham vọng và thói ham chức quyền của họ. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng những hình thức lố bịch bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn họ thì sống một lối sống giả dối, tham lam, bóc lột người nghèo khổ. Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày xét xử cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời.(x. Mc 10, 30). Noi chung, Chúa Giêsu kết án thói đóng kịch của họ: họ cho rằng họ là những người đạo đức và thánh thiện để thuyết phục dân chúng tin rằng Thiên Chúa ở về phía họ. Nếu phê phán họ, phản đối họ, từ chối vinh dự phải dành cho họ là sỉ nhục chính Thiên Chúa.
2. Câu chuyện Bà Góa nghèo (12, 41-44): Khung cảnh đến thờ, phòng lưu trữ củ cái, hòm tiền cùng với những người giáu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nội bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà goá, một người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Chúa Giêsu thấy đựơc tấm lòng của bà. Phải chăng bà ấy khiêm nhường? Đúng là như thế, nhưng bà do một lý do khác bà đã trở thành tấm gương, thành hình ảnh của người môn đệ Chúa "bà đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có." Bà đã chu toàn một điều kiện thiết yếu để trở thành một môn đệ đích thực đó là người biết chia sẻ quang đại cho những khác tất cả những gì mình có.
3. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu cho thấy cách nhìn của Thiên Chúa khác hẳn và vượt trên cái nhìn của con người. Thiên Chúa nhìn thấu dạ lòng người và dựa vào đó để đánh gía một con người. Thiên Chúa không nhìn nhận và đánh giá một ai qua dáng vẻ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa mời gọi các môn đệ một mặt phải sống trung thực, quang đại, hãy tránh xa lối sống đạo đcứ giả của các Knh sư, mặt khác phải biết khôn ngoan nhìn nhận đánh giá đúng bản chất của anh chị em chung quanh, đừng để bị lừa dối bởi lối sống, bởi dáng vẻ hào nhoáng bên ngoài.
II. Gợi Ý Suy Niệm:
Lời Chúa Giêsu phê phán các Kinh sư có thể hới quá đáng. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân chúa ở mọi cấp vẫn cảm thấy đựơc mời gọi đánh giá lại cung cách sống của mình, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng phục vụ của mình. Lừa dối đã là hành vi đáng bị lên án, nhưng đáng bị hơn nữa nếu lợi dụng những sự thánh thiện, những việc đạo đạo đức tôn giáo để che giấu thực trạng tội lỗi, xấu xa của mình.
Tám gương bà Goá mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng " Của cho khong bằng cách cho". Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa yêu mến, tôn trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương bà goá, âm thầm kín đáo làm các việc đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang gặp khó khăc cách quảng đại.
Người giàu có cho một phần gia sản của họ, có lẽ sẽ không mất mát thiệt thòi la bao. Còn bà goá đã cho hết những gì bà có, dù nó chẳng là bao, qua nhỏ bé so với của dâng cung của người giàu có. Điều này không phải ngầm ý so sánh trước mặt Chúa người nghèo khó thế giá hơn, người giàu bị Chúa ghét hay loại bỏ nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng quảng đại của bà, đế sự hy sinh và nhất là tấm lòng phó thách của bà vào Thiên Chúa. Bà đã đặt tất cả cơm ăn, sự sống của bà vào Thiên Chúa, bà hy vọng tất cả nơi Thiên Chúa.
III/ Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Thiên Chúa luôn quảng đại yêu thương con người chúng ta và cần tấm lòng trung thực con người. Vậy với tất cả tầm lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Chúa Giêsu lên án lối sống đạo đức giả của các Kinh sư và giáo huấn các Môn đệ sống trung thực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các bậc chủ chăn luôn biết chân thành sống đúng giao huấn của Chúa và can đảm lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý.
2. Qua lời dạy của Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ đừng bắt chước các kinh sư có lối sống giả hình, chuộng hình thức bên ngoài, chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia thực sự có tấm lòng vì dân, vì nước. Xin cho các vị ấy có được cái tâm trong sáng, trung thực trong hành xử công việc, nhờ đó đất nước và người dân đựơc sống hạnh phúc.
3. Bà goá đã cho tất cả những gì bà có. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được thấm nhuần Lời Chúa biết quảng đại hy sinh và luôn tin thưởng phó thác cuộc sống vào bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.
* Lời Kết: Lạy Thiên Chúa, đấng giàu lòng quảng đại và luôn thành tín yêu thương. Chúng con xin phó dâng tất cả cuộc sống chúng con trong Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn tràn đầy ơn Thánh Chúa để tất cả chúng con biết sống trung thực với Chúa và với nhau, đồng thời biết thành tâm chia sẻ cuộc sống với mọi người chung quan. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
16. Đồng tiền của bà góa
Trong cuộc đổi tiền lần như nhất vào năm 1975, khi mọi tiền bạc đã được ký quỹ, nhà nước phát cho mỗi gia đình đợt đầu là 200 đồng. Tôi còn nhớ hồi đó, sau khi chịu chức phó tế, Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm giáo phận Đalạt, đã lì xì cho mỗi tân chức một tờ mười xu. Mười xu lúc bấy giờ sao mà nó to thế. Hôm sau, tôi được cha Lã Thanh Lịch, tuyên úy Viện Đại Học Công Giáo Đalạt mừng cho một tờ mười đồng. Mang tờ mười đồng này ra chợ lúc đầu thật khó tiêu, vì không ai có tiền để thối. Rồi thì mua tới mua lui, mua mãi cũng chẳng hết được mười đồng. Phần vì giá cả lúc bấy giờ chưa được ổn định. Phần vì mười đồng trên một tài sản hai trăm đồng, được coi là một số tiền khá lớn.
Từ chi tiết này, tôi muốn đi vào đoạn Tìn Mừng sáng hôm nay. Bọn Biệt Phái và những người giàu có trong dân Do thái vốn rộng rãi đối với đền thờ. Họ thường bỏ vào hòm dâng cúng những đồng tiền vàng lấp lánh. Trong khi đó một bà góa nọ chỉ bỏ vào có hai đồng xèng, trị giá bằng một phần tư xu, thế mà Chúa Giêsu lại khen ngợi bà là người đã dâng cúng nhiều hơn hết. Tại sao lại thế? Tôi xin thưa vì bọn Biệt Phái và những người giàu có tuy dâng nhiều, nhưng là dâng những cái dư thừa, ấy là chưa nói tới việc họ dâng những cái được tích lũy bằng những hành động bất công, gian tham và bóc lột của người khác. Còn bà góa, tuy dâng ít, nhưng cái ít của bà là tất cả những gì bà hiện có, là tất cả những gì cần thiết để duy trì sự sống cho bà và gia đình bà. Như thế, trước mặt Chúa, bà tuy ít mà lại nhiều, còn bọn Biệt Phái và những người giàu có, thì tuy nhiều mà lại ít.
Hơn thế nữa, nếu đi vào ý hướng của từng người, chúng ta sẽ ghi nhận được một sự khác biệt xâu xa. Thực vậy, bọn Biệt Phái và những người giàu có dâng cúng nhiều, cốt ý để cho mọi người thấy và lên tiếng ca tụng họ là người bác ái, rộng rãi và quảng đại. Như vậy, động cơ thúc đẩy họ hành động là vì mình, vì danh dự phù phiếm của mình, hầu thỏa mãn tính tự phụ và kiêu căng của mình. Trong khi đó, bà góa nghèo túng âm thầm hy sinh cả những cái cần thiết nhất của mình vào đền thờ, mà không cần một ai biết đến, không cần một ai ca ngợi. Động cơ thúc đẩy bà hành động đó là vì Chúa, vì lòng yêu mến Ngài.
Đây cũng chính là một phương thế giúp chúng ta thánh hóa cuộc sống thường ngày, hay nói cách khác, lòng mến chính là đôi đữa thần, biến những hành động nhỏ bé và tầm thường của chúng ta trở nên những sợi chỉ vàng và dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta.
Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta những công việc vĩ đại, những thành công rực rỡ, nhưng Ngài muốn thấy nơi chúng ta những cố gắng xuất phát từ thiện chí, từ lòng yêu mến chân thành. Bởi đó, hãy chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, hãy chu toàn những công việc tầm thường vì lòng yêu mến Chúa, để cuộc đời chúng ta thực sự có một giá trị to lớn trước mặt Ngài.
17. Ở đời quí nhất tấm lòng --Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ai cũng biết dâng cúng là sẻ chia, là cho đi một phần những gì mình có. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại lời Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35), nhưng để trở thành phúc nhân, cầu phải cho đúng cách mới mong có cái kết hậu thì không phải ai cũng biết và thực hành.
Người xưa cũng khái quát được vấn đề bằng câu “Của cho không bằng cách cho”. Quả thật, trước khi cho đi ta phải nghĩ đến “của cho” và “cách cho”. “Của cho” xét cho cùng không quan trọng bằng “cách cho”. Cho thế nào để nói lên tấm lòng chân thành của mình và nhất là làm cho người nhận cảm thấy vui lòng. Đặc biệt đối với Chúa, tấm lòng chân thành dâng hiến luôn được Chúa coi trọng: “Ta muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ”.
Cho đi là quý nhưng không phải cho suông mà cho với cả tấm lòng. Một cuộc đời biết cho đi là một cuộc đời hạnh phúc. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mức độ và cách thức chúng ta trao ban cho tha nhân những gì mình có. Sống vì và sống cho người khác là cách làm tăng trưởng nhân cách và phẩm giá của mỗi người. Cho đi là cả một nghệ thuật mà chúng ta cần phải trau dồi cho bản thân mỗi ngày. Thế nhưng, cho đi cái gì và cho như thế nào lại là một vấn nạn. Học biết cho đi đã khó, nhưng học biết cách thức cho đi lại càng khó khăn gấp bội.
Bà goá ở Xarepta có vẻ miễn cưỡng phải cho, bà ngập ngừng, lúng túng trước lời xin của Êlia, hoàn cảnh khốn khổ của bà làm cho bà khó làm phúc. Nhưng rồi cuối cùng bà cũng dám cho đi cái phần để nuôi sống mẹ con bà với tấm lòng tin tưởng phó thác và đầy tôn trọng đối với người xin bà. Còn bà goá nghèo được Tin mừng nhắc đến hôm nay có một thái độ rất anh hùng. Chúa Giêsu đã đề cao bà như một gương mẫu cho chúng ta về cách cho đi mà không tính toán, để các môn đệ cũng như chúng ta ngày hôm nay noi gương bắt chước học đòi.
Câu hỏi được đặt ra: Các bà góa nghèo đã dâng gì và dâng như thế nào?
Tin Mừng theo thánh Marcô thuật lại cho chúng ta câu chuyện diễn ra trong Đền thờ Giêrusalem nơi dân chúng bỏ tiền dâng cúng. Có nhiều người giàu bỏ bao nhiêu đồng tiền, song có một góa phụ nghèo, chỉ bỏ hai đồng xu nhỏ. Chúa Giêsu quan sát kỹ lưỡng người đàn bà ấy và Người lưu ý các môn đệ về sự tương phản trong cảnh tượng này. Chúa Giêsu nói, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết, bà tuy thật túng thiếu, nhưng đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Còn những người khác rút từ túi mình tiền dư bạc thừa của họ mà dâng cúng. Vậy là thước đo không phải là số lượng nhưng là với cả tấm lòng thành. Đây không phải là vấn đề ví tiền, nhưng là con tim, là tấm lòng. Có sự khác biệt giữa ví tiền và con tim.
Những người giàu có khoa trương cho đi những điều dư thừa, trong khi bà góa, kín đáo và khiêm tốn, do sự nghèo khó cùng cực của bà, lẽ ra bà có thể chỉ cúng một đồng cho Đền thờ và một đồng kia giữ lại cho mình. Nhưng bà không muốn kiểu sống nửa với, nghĩa là dâng cho Thiên Chúa nửa chừng; bà dâng tất cả. Vì thế, Chúa Giêsu nói, bà đã cho nhiều hơn tất cả những người khác. Trong sự nghèo khó của mình, bà hiểu rằng, có Chúa là có tất cả; bà cảm thấy được Chúa hoàn toàn yêu thương và đáp lại bà yêu Chúa trọn vẹn. Gương của bà già ấy mới đẹp làm sao!
Kinh nghiệm cho thấy có những khi chúng ta cho đi, nhưng người khác lại không đón nhận, hoặc có lúc người ta đón nhận nhưng chỉ đón lấy trong sự ép buộc chứ không mấy vui vẻ. Thành thực mà nói, nhiều khi ta trao tặng mà người kia không đón nhận, có lẽ không phải vì món quà không có giá trị, nhưng vì cách thức chúng ta cho đi có vấn đề. Chúng ta hãy cho đi bằng tất cả tấm lòng và hãy học cách cho đi như chính Đức Giêsu đã cho đi.
Nhìn lại trong dòng lịch sử, không có ai có cách cho đi đẹp cho bằng Đức Giêsu. Người đã cho đi tất cả kể cả mạng sống của mình chỉ vì yêu thương nhân loại. Sự trao hiến của Người là một sự cho đi đến tận cùng, một sự cho đi không tính toán. Người không những cho đi chính mình mà còn dạy cho nhân loại chúng ta biết nghệ thuật của sự cho đi. Có thể nói, cả cuộc đời Đức Giêsu là một lời giáo huấn liên tục về sự cho đi và cách thức cho đi.
Như thế, kim chỉ nam của sự cho đi chính là sự chân thành phát xuất từ một con tim biết cảm thông và yêu thương. Một khi chúng ta biết cho đi bằng cả tấm lòng thì chắc chắn món quà của chúng ta sẽ được người khác đón nhận với tất cả lòng biết ơn và lòng cảm mến. Nghệ thuật cho đi là bài học chúng ta cần trau dồi mỗi ngày hầu có thể hoàn thiện bản thân và đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho tha nhân.
Xin Chúa giúp cho chúng ta hiểu rõ giá trị của sự cho đi với tấm lòng quảng đại theo gương Chúa. Hãy quảng đại đối với Chúa và mọi người để được hưởng tấm lòng quảng đại của Chúa dành cho chúng ta. Amen.
18. Đức tin và tấm lòng của bà góa -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta, Chúa Giêsu cho như một người Thầy, dạy cho chúng ta biết về sự thờ ơ mà chúng ta phải sống. Thứ nhất, thờ ơ về danh dự và nhận ra điều chúng ta thường xuyên tìm kiếm: "Hãy coi chừng (...) lời chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc "(x. Mc 12, 38 -39). Về điểm này, Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về những gương xấu của các luật sĩ. Thứ hai, dửng dưng với của cải vật chất. Chúa Giêsu ca ngợi thái độ của bà góa nghèo và lên án thói đạo đức giả của một số người, (x. Mc 12, 44).
Ai không có tinh thần từ bỏ của cải tạm thời, sống với đầy những của riêng tư người ấy không thể yêu mến được. Người có đức tin mà không nghĩ đến người khác: không động lòng trắc ẩn, không thương xót và để ý đến tha nhân, không thể sống trọn đòi hỏi của Tin Mừng là mến Chúa yêu người được.
Đức tin kèm theo tấm lòng vàng của hai bà góa được Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta là hai mẫu gương sống động. Hai bà được trình bày song song với nhau: một bà trong Sách Các Vua quyển thứ I (17, 10 - 16), và bà thứ hai trong Tin Mừng theo thánh Marcô (12, 41 - 44). Cả hai đều rất nghèo, và chính trong thân phận ấy hai bà chứng tỏ một niềm tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa.
Tấm lòng vàng
Người phụ nữ thành Sarephta xuất hiện trong trình thuật về tiên tri Êlia. Trong thời kỳ hạn hán, vị ngôn sứ này nhận được lệnh của Chúa đi tới miền Siđon, tức là ra ngoài Israel, nơi lãnh thổ dân ngoại. Tại đó Êlia gặp bà góa phụ là người Sarephta đi lượm củi, ông cất lời: “Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống… Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh" (1V 17, 10-11), trong lúc bà đang ở trong tình trạng không còn gì ăn và con bà sẽ chết đói nay mai, nên trả lời: “Này tôi đi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn rồi chết thôi" (1V 17,12), nhưng vì Êlia nài nỉ và hứa với bà rằng nếu bà nghe lời, bà sẽ không thiếu bột và dầu nữa, bà ấy đã nghe và được tưởng thưởng.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người phụ nữ này, đã đi kín nước với tất cả tình yêu của trái tim. Khi bà trở về, Êlia nói với bà: “Cứ đi và làm như bà đã nói…với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem lại đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và cho con trai bà" (1V 17,13). Tấm lòng vàng và đức tin của bà góa lúc này bị thử thách, bà chỉ còn một nắm bột, cứ sự thường thật khó để có thể nuôi sống con bà, nay lại làm bánh cho cả vị tiên tri là này nữa.
Thái độ của bà góa thành Sarephta làm chúng ta liên tưởng tới một góa phụ khác mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin Mừng Marcô hôm nay. Khi ngồi đối diện với hòm tiền, Chúa Giêsu quan sát thấy bà góa nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu vào đền thờ, ngưỡng mộ bà, Chúa tuyên bố: "Với hai đồng tiền, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống" (Mc 12, 44). Nghĩa cử dâng cúng của bà góa nghèo chứng tỏ nét đẹp của tấm lòng vàng tràn đầy hy vọng và tin tưởng vào Chúa nơi tâm hồn bà.
Tin vào Thiên Chúa
Nếu nói đến mẹ góa con côi, người Việt Nam ta thường nói đến người khổ cực thiếu thốn tứ bề, từ tình cảm đến vật chất, thì theo Kinh Thánh, thời trung cổ, hay quan niệm của người Do Thái, những cô nhi quả phụ tự nó đã là một thân phận thiếu thốn trầm trọng rồi. Họ không còn chồng, còn cha để mà cậy dựa, hai bà trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một bằng chứng. Cả hai cùng cực nghèo, nhưng không có ai nghèo túng đến độ không thể cho đi một cái gì. Câu hỏi được đặt ra: Điều gì đã thúc đẩy các bà làm điều đó? Thưa: Đức tin. Cả hai bà góa hôm nay đều chứng tỏ niềm tin của họ bằng cách thực hiện một cử chỉ bác ái thể hiện tấm lòng vàng: một bà thi hành cử chỉ ấy đối với vị ngôn sứ, và bà thứ hai thi hành việc làm phúc.
Trong Kinh Thánh, các quả phụ và cô nhi là những người mà Thiên Chúa chăm sóc đặc biệt: họ không còn sự nương tựa trần thế, nhưng Thiên Chúa vẫn là vị Hôn Phu, là người Cha của họ. Hoàn cảnh túng thiếu khách quan, hay thân phận góa phụ, vẫn không đủ: Thiên Chúa luôn đòi hỏi sự tự nguyện gắn bó trong niềm tin, và được biểu lộ trong tình yêu đối với Chúa và tha nhân. Qua đó họ chứng tỏ sự hiệp nhất không thể tách rời giữa đức tin và đức ái, cũng như giữa lòng mến Chúa và yêu người như Tin Mừng đòi hỏi.
Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả đã khẳng định rằng: "Trên cán cân công lý của Chúa không phải trọng lượng của dâng cúng là đáng kể, nhưng là trọng lượng của con tim. Bà goá trong Tin Mừng đã đặt vào hòm tiền của đền thờ hai đồng xu nhỏ và vượt quá tiền dâng cúng của những người giàu. Không cử chỉ từ nhân nào thiếu ý nghĩa trước mặt Chúa, không có lòng từ bi nào mà không có hoa trái" (Bài giảng về chay tịnh dec.mems., 90,3).
Sống tín thác vào Chúa
Chúng ta có thể nghĩ tới một phụ nữ góa nghèo khác tên là Maria, dưới chân Thánh Giá Chúa đã dâng tất cả đời mình cho Chúa. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo của người tận hiến trọn vẹn qua sự tín thác nơi Thiên Chúa; với niềm tin ấy mẹ nói với Sứ Thần "Này tôi đây" và đón nhận thánh ý Chúa. Nhờ lời thưa xin vâng ấy, ý Chúa được thể hiện, mầu nhiệm sự sống được trao ban và dâng hiến được thực hiện nơi đồi Golgotha, thế gian có được Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Tại Cana, Mẹ đã xin Chúa Giêsu cứu giúp anh em mình khi nói: "Họ không còn rượu nữa" (Ga 2,3), và nhận được lời Chúa Giêsu: "Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì?" (Ga 2,4) Mẹ vẫn bảo gia nhân vâng lời Chúa Giêsu.
Bà góa thành Sarephta đã làm những gì tiên tri Êlia nói với bà, mang cho ông ít bánh. Tương tự như thế, những người hầu bàn tại Cana vâng lời Chúa Giêsu. Sức mạnh tình yêu vô biên của Thiên Chúa, sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô được tái diễn nơi bàn tiệc thánh: Này là Mình Thầy hiến tế vì anh em.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp mỗi người chúng con tín thác vào Chúa như Mẹ. Amen.
19. Giá trị đạo đức – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Đức Giêsu đưa ra ba hạng người tiêu biểu trong đời sống đạo đức, giúp ta nhận ra đâu là giá trị đạo đức thật, đâu là giả.
Ba hạng người đó giống như một ông đi họp từ thiện ăn mặc sang trọng. Trước khi đi, ông quyết định giúp 20.000$, đến nơi, thấy nhiều người giúp 20.000$, ông muốn hơn người ta, nên góp 50.000$ nhưng ông lại rút lộn bao thư 100.000$ trao cho hội từ thiện. Vậy đâu là giá trị việc bác ái của ông?
Giá trị việc bác ái của ông xét theo đạo đức học là ở ý hướng, ở lòng tốt, thiện tâm, thiện chí. Lòng tốt của ông ở quyết định giúp 20.000$. Đến nơi, ông muốn góp 50.000$ để hơn người ta, nổi tiếng hơn người ta, đó là do tính ham danh vọng, ham địa vị của ông, nên ông không được phúc lại mắc thêm tội kiêu ngạo. Còn việc ông rút lầm bao thơ 100.000$ là ngoài ý hướng tốt của ông. Đây là việc đóng góp vô ý thức, nó vô thưởng vô phạt, nó vô ích đối với ông. Xét về đạo đức, nó không có giá trị gì với ông.
2. Ba hạng người trong Tin mừng hôm nay cũng có những hành vi đạo đức tương tự như ông đi họp từ thiện trên.
- Hạng kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Họ hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu ngạo. Xét theo giá trị đạo đức, hạng này rất xấu: “Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
- Hạng thứ hai là những người giàu có, làm việc đạo đức bằng dâng cúng những của dư thừa, hoặc vì gò bó theo tục lệ phải dâng cúng, hoặc vì sợ chê cười, hoặc làm cho qua đi, cho xong chuyện, khỏi bị quấy rầy. Họ làm việc bác ái từ thiện sống đạo đức theo thói quen, sợ dư luận hay sợ tội, sợ phạt. Họ thiếu lòng thành tâm, thiện chí. Họ không có ý tốt, lòng tốt. Xét theo giá trị đạo đức, việc từ thiện, dâng cúng, đọc kinh của họ là vô ích. Họ không được công phúc gì.
- Hạng thứ ba là những người sống đạo đức, làm việc từ thiện, bác ái cách thành tâm, thiện chí, cố gắng hy sinh làm việc thiện, việc tốt, việc thiêng liêng sốt sắng như bà góa nghèo, dù chỉ có một phần tư xu để nuôi mình, bà cũng dâng cúng hết. Bà cũng không sợ chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận cảnh thấp hèn thua kém người khác. Bà thật là người thành tâm, thiện chí, rất khiêm tốn. Đức Giêsu đã đánh giá bà có lòng đạo đức rất cao đáng làm gương cho các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết, tuy rất túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống bà”.
Bà góa này cũng giống bà góa thành Sarépta: “Chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò, đang đi tìm mấy thanh củi rồi về nướng cho con trai và mình ăn, rồi chết”. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho Êlia ăn, dù chẳng biết Êlia là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó, Thiên Chúa đã cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và tiên tri Êlia nữa.
3. Người Việt Nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn như: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Gỗ là giá trị chân chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của con người, còn vẻ đẹp, duyên dáng bên ngoài là tùy phụ, chóng phai, chóng tàn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng. Vì thế, giá trị đạo đức bị suy đồi, những sản phẩm, hàng hóa giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa. Phân, thuốc, giống cây dổm làm mất mùa, đói kém, nghèo khổ khắp nơi. Vật liệu xây cất dổm làm bao nhiêu công sở, nhà cửa mới xây đã đổ nát, bỏ hoang không ai dám ở. Máy móc, nhiên liệu dổm, sản phẩm kém phẩm chất, xuất khẩu bị trả lại làm kinh tế xuống dốc. Miệng hô hào: “Người tốt việc tốt” nhưng làm láo, báo cáo rất hay, tệ đoan tham nhũng, ô dù, thành tật vô phương cứu chữa, tương lai đất nước thật đen tối!
Mỗi người chúng ta phải tự xét mình: mọi việc chúng ta làm giả dối hay chân chính, nhất là những việc bác ái và đạo đức thiêng liêng, chúng ta có thành tâm, thiện chí cố gắng thực hiện không. Những dâng lễ, đọc kinh cầu nguyện, dâng cúng giúp đỡ làm vì mến Chúa yêu người hay vì bó buộc, vì thói quen, vì sợ dư luận, tệ hơn nữa làm vì cầu danh, khoe khoang?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối, và đã tán thưởng bà góa nghèo túng biết hết lòng hy sinh dâng cúng tất cả những gì bà có đến cạn kiệt, không còn chút gì để nuôi sống. Còn Chúa, chính Chúa đã hy sinh dâng tất cả những gì Chúa có và cả mạng sống cho chúng con hơn gấp trăm ngàn lần bà góa kia. Xin cho chúng con biết chân thành hiến dâng đời sống mình để phục vụ mọi người vì hết lòng mến Chúa. Amen.
20. Một số tiền nhỏ nhưng tấm lòng thật lớn
(Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Nhà văn Anderson Đan mạch đã viết một câu truyện kể lại sự kiện xảy ra trong chính cuộc đời của ông. Câu truyện vắn tắt như sau: “ Vào một buổi tối mùa thu, ông đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một xu nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Đứa bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì?” – Chú tên Anderson, và chú làm nghề này. Nhà văn lấy tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé vẫn không hiểu tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ ông phải đi xa.
Nhiều tháng trôi qua, Anderson quên mất lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ ông trở lại Copenhague và chợt nhớ tới đứa bé, mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm nó. Người chủ tiệm bên đường nói cho ông biết rằng con bé đã chết rồi. Ngày đầu năm, người ta thấy đứa bé nằm chết cóng bên đường không biết từ lúc nào. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều, là khi nó chết, khuôn mặt vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một cái gì đó.
Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp, “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật gì giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó, vì trên quản bút có viết hàng chữ ‘tặng chú Anderson’.
Câu chuyện cảm động trên không phải là một câu chuyện hư cấu, nhưng là một kỷ niệm buồn trong chính cuộc đời của nhà văn. Câu chuyện này cũng giống như giai thoại về người đàn bà góa nghèo khổ mà thánh Marcô thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa khá giống nhau. Giống nhau ở chỗ cả hai đều là những con người rất nghèo, bị xã hội bỏ rơi. Giống nhau cũng ở chỗ cả hai là những con người rất quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản, vì họ là những con người tuy nghèo về vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái.
Thân phận bà góa: người nghèo của Giavê
Trong bài đọc một, tác giả sách Các Vua quyển thứ nhất cũng thuật lại giai thoại về một bà góa nghèo thành Sarepta. Người phụ nữ này đã trao tặng ngôn sứ Elia tất cả phần lương thực ít ỏi còn sót lại trong nhà. Lòng quảng đại đó đã được Thiên Chúa đền đáp: Hũ bột của bà không bao giờ vơi và bình dầu không bao giờ cạn. Vị tiên tri còn thực hiện phép lạ cứu sống đứa con trai của bà. Trong xã hội Do Thái khi xưa, những phụ nữ góa chồng bị xã hội gạt ra bên ngoài. Họ không có một quyền lợi gì về mặt xã hội. Nhưng ngay từ thời Môise, vị thủ lãnh đã ban hành lề luật là không được làm hại cô nhi, quả phụ (Đệ nhị luật 27, 19). Các ngôn sứ thường gọi các bà góa là những người nghèo của Giavê (anawim), tức là những con người được Thiên Chúa chúc phúc. Đặc biệt đến thời Chúa Giêsu, Ngài luôn lên tiếng bênh vực các bà góa, là những người thấp cổ bé họng trong xã hội. Hình ảnh của người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay là một minh dẫn cụ thể. Ngay cả người phụ nữ Samari, một người đàn bà ngoại giáo đã góa chồng và sống lang chạ với 5 người đàn ông khác, Chúa cũng không kết án và coi khinh chị. Ngược lại, Chúa kết án gay gắt thái độ giả hình của các đầu mục Do thái, làm ra vẻ đạo đức để moi hết tiền bạc của các bà góa (Lc 20, 47; 7, 11). Chúa cho đứa con trai bà góa thành Naim sống lại cũng để diễn bày lòng thương cảm với những người đàn bà bị bỏ rơi trong xã hội thời bấy giờ (Lc 7,11-17). Ngôn sứ Anna, một phụ nữ góa chồng ngày đêm cư ngụ và phục vụ đền thánh, cũng là một hình ảnh nổi bật về mẫu người luôn được Thiên Chúa yêu thương và chúc lành.
Người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay được Đức Giêsu đề cao như một mẫu gương. Bà rất nghèo nhưng lại giàu lòng quảng đại. Điểm son nơi người phụ nữ này không phải là những danh giá xã hội hoặc sự giàu sang phú quý bên ngoài, nhưng chính là tấm lòng nơi bà. Chúa nói với các môn đệ “Thầy bảo thật anh em, bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12, 43).
Chẳng ai cho không cái gì
Người ta vẫn thường nói thế. Trong đời sống xã hội hiện nay, hầu như chẳng có ai cho không hoặc biếu không cái gì. Khi trao tặng một phần quà, ngay cả những món quà từ thiện, chúng ta dễ ngầm đặt ra điều kiện, ít nhất là để khoe khoang sự quảng đại của mình cho người khác thấy. Tính ích kỷ và keo kiệt là một nết xấu ai cũng có. Mỗi khi làm công tác từ thiện, nhiều cá nhân cũng như những tổ chức xã hội thường hay bày biện những hình thức rầm rộ, nào cờ xí, nào nghi thức, nào chụp hình đăng báo….Điều này vẫn xảy ra ngay cả nơi các tổ chức tôn giáo. Dâng cúng nhà thờ một bức tượng, một cái ghế đá… cũng phải được rao tên tuổi, phải được phát bằng ân nhân, khi chết giáo xứ phải xin lễ cầu nguyện để trả nghĩa v..v. Điều này không có gì đáng nói, nếu người cho không ngỏ ý mà người nhận tự nguyện biểu tỏ sự biết ơn. Nhưng, nhiều khi thói quen đó trở thành một căn bệnh chỉ nhằm để khoe khoang. Một vị linh mục khi đến tham dự lễ khánh thành tháp chuông tại một nhà thờ nọ, lúc nghe rao tên tuổi vị ân nhân đã khôi hài pha chút mỉa mai nói rằng: Chuông nhà thờ kêu rất sang và rất hay. Nó kêu “ Kiêu căng, kiêu căng” thay vì kính koong kính koong như các chuông nhà thờ khác. Chúng ta hãy từ từ đọc kỹ lại bài Tin mừng hôm nay để suy nghiệm điều này. Đức Giêsu trước khi quan sát người ta bỏ tiền vào hòm dâng cúng, đã cảnh báo các môn đệ: “ Anh em phải coi chừng những kinh sư ưa đi dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ thích chiếm chỗ nhất trong hội đường, thích ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc” (Mc 12, 38). Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đưa ra huấn dụ căn bản để giúp chúng ta nên hoàn thiện. Một trong những huấn dụ đó, là “ Khi anh em bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6, 3), tức là đừng khoe khoang, khua chiêng gõ mõ để đề cao cái tôi kiêu ngạo của mình. Sự khoe khoang đi đôi với tính keo kiệt, tức là cho đi với điều kiện. Điều kiện là phải được công bố tên tuổi cho bàn dân thiên hạ được biết. Điều kiện là phải được nể trọng như một vị ân nhân. Song chúng ta rất dễ quên rằng, mọi sự chúng ta đang sử dụng đều là ân huệ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ còn chúng ta chỉ là người quản lý. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của người đàn bà góa hôm nay. Chúa đề cao lòng quảng đại của bà, chứ Ngài không ca ngợi những người giầu có hoặc cánh Pharisiêu đã bỏ ra những số tiền kếch xù thừa thãi chỉ để phô trương. Người Pharisiêu khoe với Chúa: “ Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng 1 phần mười tài sản của con”. Khi kể dụ ngôn này, chúng ta đều biết Chúa đã kết luận như thế nào.
Đức Giêsu, mẫu gương tuyệt hảo về lòng quảng đại
Nhiều người trong chúng ta, đặc biệt các tu sỹ tự nguyện sống nghèo như lời khấn đã cam kết với Chúa. Người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay cũng nghèo xác nghèo xơ. Gia sản duy nhất bà sở đắc chỉ là 2 đồng xu cỏn con. Nhưng, nói một cách sâu xa hơn, mẫu gương tuyệt hảo về tinh thần nghèo khó mà chúng ta phải học hỏi và sao chép, không ở đâu khác mà chính từ nơi Đức Giêsu. Không ai nghèo như Ngài và cũng không ai quảng đại bằng Ngài. Trong thư thứ 2 gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh Phaolô đã viết: “ Đức Giêsu Kitô vốn giàu sang phú quý nhưng đã trở nên nghèo khó để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em nên giàu có” (2Cr 8, 9). Ngài tự nguyện sống kiếp con người, sinh ra trần trụi không nơi trú thân. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu”. Cao điểm của sự nghèo khó nơi Ngài, là Ngài đã bị phơi thây chết trần trụi trên thập giá. Đôi tay Ngài dang rộng, không tích lũy bất cứ một thứ của cải nào. Nhưng cũng chính đôi tay ấy đã trao ban tất cả, ngay cả đến mạng sống để hiển thị điều mà Ngài đã nói với các học trò trong bữa tiệc ly: “ Không có tình yêu nào cao cả cho bằng mối tình của người hiến dâng sự sống cho bạn hữu”(Ga 15,13).
Hôm nay Chúa nêu ra mẫu gương về lòng quảng đại của một người đàn bà góa nghèo khổ. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Thập giá để trải nghiệm lòng quảng đại vô bờ bến mà chính Ngài đã diễn bày. Đây là sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn khải thị. Một vị thánh đã nói: “ Không ai trong chúng ta nghèo đến mức độ không có gì để mà cho”. Chúa chẳng thèm để ý tới những món tiền kếch xù mà những người giàu có đã dâng cúng vào đền thờ, nhưng Ngài nhắc các học trò mẫu gương của một phụ nữ nghèo. Bà ta nghèo mạt rệp, chỉ có 2 xu, nhưng đã trao dâng tất cả. Một số tiền quá nhỏ, nhưng tấm lòng thật lớn. Chúng ta nhớ lại trình thuật Chúa làm phép lạ nuôi sống năm ngàn người ăn no. Một đứa bé trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, chẳng đáng giá bao nhiêu. Nhưng Đức Giêsu đã trọng thị đón nhận sự quảng đại của nó, và từ đó phép lạ đã xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ lượng giá con người qua những hình thức và số lượng bên ngoài. Ngài biết rõ tâm can từng người. Đồng thời Ngài cũng không bao giờ thua kém lòng quảng đại của chúng ta.
Kết luận
Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành tiểu thuyết. Sau khi Phanxicô đã cho đi tất cả của cải của mình, phân phát cho người nghèo, Ngài bắt đầu đi lang thang khất thực. Vị thánh vừa đi vừa hát. Một anh bạn cũ rất thân quen gặp lại Ngài đã rất ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu rồi?”. Phanxicô trả lời: “ Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó hết cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “ Anh từ đâu lang thang đến đây và anh đang định đi đâu thế? – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang đi về nơi xa xăm ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “ Thế tại sao anh vừa đi vừa hát nghêu ngao như một thằng điên?” – “Tôi hát để khỏi bị lạc đường.”
Là người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ lạc đường, nếu để cho của cải bủa vây. Điều quan trọng nhất là chúng ta dám bứt phá, dám phá đổ pháo đài ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi như người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay.
21. Đồng kẽm đồng xu của tôi đâu?
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Trong những ngày cuối niên lịch phụng vụ, khi mà Hội Thánh muốn mọi Kitô hữu suy niệm nhiều về các chân lý thời sau hết (tứ chung), chúng ta được mời gọi hướng tư tưởng về ngày ‘phán xét’, khi mỗi người đều phải ‘đứng trước mặt vị thẩm phán chí công’. Để chuẩn bị cho ngày đó, vấn nạn sẽ là: vị Thẩm Phán sẽ dùng tiêu chuẩn nào để phán xét tôi, cái ‘chí công’ của Ngài sẽ ra sao? Trình thuật Mác-cô hôm nay về ‘đồng xu đồng kẽm của bà góa’ được đặt ngay trước bài giảng dài về cánh chung trong chương 13, chắc hẳn phải soi chiếu một điều gì đó vào các vấn nạn trên. Mong rằng nó sẽ mang lại một giải đáp đầy an ủi mang tính Tin Mừng thật sự cho cái viễn tượng phán xét, thường vẫn tạo nên bao hãi hùng kinh khiếp.
Thẩm Phán chí công sẽ xét xử theo tiêu chuẩn nào? Người ta vẫn thường dạy rằng Thiên Chúa phán xét mỗi người theo công tội họ đã làm trong cuộc sống: nếu là người lương thiện ngay lành, tôi sẽ được thưởng, còn nếu làm điều dữ điều trái, tôi sẽ bị luận phạt muôn đời muôn kiếp. Căn cứ theo tiêu chuẩn này, tôi sẽ là người hoàn toàn trách nhiệm và chủ động về thưởng phạt; ơn thánh Chúa nếu có, cũng chỉ đóng vai trò trợ giúp. Tuy nhiên Giáo lý Công giáo lại dạy rằng, ơn cứu độ của Đức Kitô là cần thiết (essential) cho hết thảy mọi người, vì mọi người đều phạm tội. Nếu quả thật như thế, thì quan niệm phán xét trên có cái gì đó không ổn! Không một ai, cho dầu có cố gắng tu luyện tới đâu đi nữa, có thể ra trước tòa phán xét ‘xúng xính trong bộ áo thụng… đáng chiếm ghế danh dự’ vì đinh ninh rằng khi còn sống mình đã thu tích đủ ‘công nghiệp’ để đáng được thưởng công. Trước mặt vị Thẩm phán chí thánh chí công đó, mọi người đều chỉ là: ‘đầy tớ vô dụng’ (Lc 17:10). Thế nhưng may mắn thay trong ngày phán xét, vị Thẩm Phán lại cũng chính là Giêsu đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Người sẽ không khen thưởng những kẻ bỏ thật nhiều tiền vào thùng, nhưng lại đề cao‘một bà góa nghèo’, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ ‘hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu’ mà bà đã ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’. Như thế để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ra trước vị Thẩm Phán chí công, tôi rất cần biết cái ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’ đó có nghĩa là gì? Làm thế nào để Ngài cũng sẽ gọi các thần thánh lại, chỉ vào tôi và nói: “tên nghèo nàn đốn mạt này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”!
‘Đồng tiền kẽm… rút ra từ cái túng thiếu’ chắc chắn không phải là: các việc lành phúc đức tôi đã làm được trong đời, các thành công hoành tráng để có thể xứng đáng được ‘người ta chào hỏi’ tung hô trên thiên quốc; đó phải mãi mãi vẫn là những gì vô giá trị như đồng kẽm, đồng xu trước mặt người đời, nhưng lại vô cùng quí hóa trước mặt Thiên Chúa từ nhân. Phải chăng đó là: những cố gắng, những nỗ lực vươn lên khỏi sự thấp hèn yếu đuối tột cùng của mình… nhưng đã thất bại, vẫn hoàn toàn sụp đổ chẳng đi tới đâu. Sẽ chẳng bao giờ có ai trong đời, ngay cả chính tôi, đánh giá cao những điều đó, nếu không có cặp mắt ‘quan sát’ vô cùng chí công nhưng rất mực nhân hậu của Đức Kitô từ nhân. Có thể như phần đa mọi người, tôi phải thừa nhận: bất chấp những nỗ lực cố gắng, đời mình thành đạt không nhiều, nhưng thất bại thì lắm; “Điều tôi muốn thì tôi không làm, còn điều tôi ghét thì tôi cứ làm’ (Rm 7:15). Rất nhiều khi tôi thấy mạc cảm và thất vọng vô cùng về các yếu đuối, sa ngã mình vướng mắc. May mắn thay, trong niềm tin vào Thiên Chúa từ nhân, suy đi nghĩ lại, tôi còn thấy: đời mình - và rất có thể nhiều mảnh đời khác cũng thế - không thiếu những đồng kẽm đồng xu của các nỗ lực vô vọng này; vì tuy được tạo dựng ‘nhân chi sơ tính bản thiện’, và mang trong người ‘hình ảnh của Thiên Chúa’, kiếp sống ô trọc nào mà không tránh khỏi các bất toàn yếu đuối? Do đó điều quan trọng nhất trong đời chưa hẳn là tránh được tội lỗi, nhưng là làm sao tranh thủ được cặp mắt ‘quan sát’ đầy từ tâm ấy, cặp mắt từng nhận ra giá trị của ‘đồng kẽm’ nơi bà góa, đồng xu nơi Phê-rô, nhưng lại không tìm thấy nơi các Biệt phái, thượng tế. Chỉ có thế thôi, và ngày phán xét sẽ đâu còn gì đáng sợ nữa!
Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta hay lặp lại câu nói sau đây: “Chúa không muốn nhìn thấy bao nhiêu việc bác ái tôi đã làm, nhưng ngài muốn nhìn thấy bao nhiêu bác ái tôi đã nỗ lực đem vào các công việc của tôi”. Hình như Lời Chúa hôm nay cũng nhắc lại cùng một chân lý đó: Chúa không phán xét tôi căn cứ vào những gì tôi đạt được, nhưng cặp mắt nhân ái của Người muốn tìm thấy nơi tôi những đồng kẽm nhỏ nhoi của nỗ lực vươn lên thầm kín trong mọi tình huống cuộc đời. “Còn bà này thì rút ra từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản” hẳn mang nội dung rất an ủi đó chăng?
Nếu quả là như thế thì, cho những người yếu đuối và tội lỗi như tôi, Tin Mừng đích thực là đây: Tim Mừng có khả năng làm cho đứa con hoang đàng hay tên cướp bị tử hình trên thập giá thay vì hãi sợ, sẽ ra trước vị Thẩm Phán ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi’ (Lc 21:28).
“Hãy tạ ơn Chúa vì ngài nhân lành, vì tình thương của ngài bền vững muôn năm!” Lạy Chúa, con muốn cất lời ca ngợi lòng thương xót hải hà của Chúa, khi sống và nhất là trong giờ chết. Lòng thương xót đó cho phép con không mạc cảm trước những yếu đuối thiếu xót của mình, hơn nữa còn có khả năng biến chúng thành nguồn an ủi và hy vọng cho đến muôn đời. Xin cho con đừng bao giờ xa rời cặp mắt yêu thương đó, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
22. Nghèo tiền nhưng giàu tình
(Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Tại một phố nhỏ bên Châu Âu, vào một mùa đông nọ, sau khi nghe nhà trường thông báo sẽ lạc quyên tiền bạc và phẩm vật để làm quà giáng sinh cho những trẻ em nghèo trong vùng, một em bé 13 tuổi đã dành dụm trong suốt 1 tháng được 15 đồng và em quyết định đón xe đến trường để trao tặng số tiền đó.
Một trận bão tuyết bất ngờ đổ xuống khiến lưu thông bị bế tắc, xe cộ không thể di chuyển. Cậu bé đã đi bộ đến trường, băng qua những cánh đồng ngập tuyết trắng xoá.
Ông hiệu trưởng vô cùng kinh ngạc trước tấm lòng quảng đại và hy sinh của cậu bé, nhưng ông còn ngạc nhiên bội phần khi biết em thiếu niên trước mặt ông lại có tên trong danh sách những trẻ em nghèo mà nhà trường sẽ tặng quà giáng sinh năm đó.
Đúng là nghèo tiền nhưng giàu tình. Nghèo đến nỗi được nhà trường ghi nhận, cho vào danh sách những người cần được giúp đỡ. Nhưng tình thương liên đới và trách nhiệm san sẻ đã làm cho tâm hồn cậu bé nhà nghèo trở thành “viên ngọc quý”.
Thánh Kinh cũng có ghi nhận một câu chuyện tương tự: Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt 13 thùng tiền. Dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay đóng góp vào vấn đề nhang khói, hương hoả của đền thánh. Trong các mùa lễ Vượt qua, số người dâng cúng rất đông nên thường có các tư tế đền thờ ngồi gần các thùng tiền để ghi nhận số tiền người ta dâng. Thỉnh thoảng họ xướng to danh xưng của một vài nhân vật đã bỏ vào thùng những khoản tiền lớn.
Việc xướng danh và tiếng va loảng xoảng liên tục của các đồng tiền kích thích những người giàu có hăng hái mở rộng hầu bao dâng cúng đền thờ. Chúa Giêsu ngồi quan sát và chứng kiến nhiều người giàu có bỏ tiền vào hòm. Ngài im lặng!
Bỗng xuất hiện một bà goá nghèo. Bà đến bên hòm tiền. Lặng lẽ bỏ vào đó hai trinh. Số tiền quá nhỏ. Không đáng kể. Tiếng va chạm của hai đồng bạc vang lên khô khan, cụt ngủn. Chẳng ai để ý. Chẳng ai thèm hỏi thăm hay xướng danh của bà. Nhưng Đức Giêsu lên tiếng. Ngài gọi các môn đệ đến và tuyên bố: “Bà goá nghèo kia đã bỏ vào nhiều nhất.”
Trong xã hội Do thái, đàn bà goá phần lớn là thành phần nghèo khổ đáng thương. Họ chẳng có tài sản. Của cải người chồng để lại đều thuộc về trưởng nam. Chính Phaolô cũng đã có lần kêu gọi các cộng đoàn tiên khởi nâng đỡ, trợ giúp các bà quả phụ (1 Tim 5:3-16). Theo lẽ thường các quả phụ nghèo không buộc phải dâng cúng. Nhưng thái độ và việc làm của bà goá nghèo nơi đền thờ đã được Chúa Giêsu ghi nhận. Không phải vì bà “nghèo” và “goá” mà không đáng trọng bằng người giàu có. Không phải bà bỏ ít tiền mà lòng đạo của bà thua kém người ta. Không phải vì chẳng được xướng danh mà công nghiệp của bà không ghi trên trời. Trái lại hai đồng trinh bé nhỏ của bà đã được Thiên Chúa đón nhận với lời chúc lành: “Bà đã bỏ nhiều nhất.” Bởi vì bà đã bỏ vào thùng tiền chính sự sống của mình. Bà đã dâng cho Thiên Chúa tặng phẩm quí nhất của con người là sự sống: “Tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có để nuôi sống” (Mc 12:44).
Cũng thế, điều mà sách Các Vua ghi nhận trong câu chuyện “Bà goá thành Sarephta” không phải là việc bình dầu hũ bột không vơi, cũng chẳng phải là phép lạ cả thể mà tiên tri Êlia đã chỉ làm cho một người dân ngoại, nhưng là việc bà ta tin tưởng đến độ dám hy sinh chút sự sống còn sót lại cho người của Thiên Chúa.
Tin tưởng là trao ban. Nhưng nếu trao ban nhiều thứ mà chưa trao ban sự sống thì vẫn chưa có gì đáng kể. Phải chăng đây chính là điều mà Chúa Giêsu, qua hành vi của bà goá nghèo, báo trước về việc Người sắp làm: dâng hiến chính mạng sống mình cho phúc lộc con người.
Thư gởi tín hữu Do thái đã xác nhận điều này: Các thượng tế dâng tiến lễ tế hàng năm, với máu không phải của mình; việc làm đó không xoá được tội lỗi người ta; nhưng Đức Giêsu, Người đã dâng hiến chính máu mình, đã tế lễ chính thân xác mình để huỷ diệt tội lỗi. Và như thế sự trao dâng của Đức Giêsu có giá trị ngàn đời.
Chỉ khi dâng hiến những gì đụng chạm đến sự sống còn của cuộc đời, tôi mới trao ban đúng nghĩa. Thế nên, khi dám trao ban ngay cả sự nghèo túng của mình như người đàn bà goá, của lễ tôi dâng mới có giá trị trường tồn không phai. Đừng nghĩ tôi không có gì để cho, nhưng hãy nghĩ tôi có cho khi mình chẳng còn gì nữa không? Nếu cứ tự nhủ khi nào có thời giờ, tôi mới cộng tác với cộng đoàn xứ đạo, khi nào dư giả tài chánh lúc đó mới trợ giúp trao ban, khi nào sức khoẻ phong phú mới dấn thân phục vụ. Thế ra tôi chỉ biết dâng những của dư thừa chứ không dám dâng cả sự túng thiếu. Tôi chỉ sát tế chiên bò, dâng máu lừa dê, chứ chẳng dám dâng hiến chính mạng sống cuộc đời của mình. Phải chăng giữa tôi và người đàn bà goá nghèo vẫn còn cả một khoảng trời xa cách.
Lắm khi việc dâng hiến của tôi không thanh thản và siêu thoát. Vẫn còn thấp thoáng đâu đó một mưu đồ trục lợi, một ý tưởng khoe khoang, hay một khát khao danh vọng. Phải chăng “chất ký lục và biết phái” vẫn còn tồn đọng trong hồn tôi?
Lời Chúa đã phán: “Ta chuộng lòng nhân nghĩa hơn là của lễ toàn thiêu.” Lễ toàn thiêu của tôi có được khứng nhận là vì tình yêu đang thiêu đốt tâm hồn. Cha sở Gioan Maria Vianney thường tâm sự: “Cái gì đẹp nhất, tôi đều dành cho việc phục vụ và thờ phượng Chúa.” Điều đáng nói không phải vì ngài đã dành của cải người ta tặng để mở cô nhi viện, để sắm sửa áo lễ hào quang thật đẹp, nhưng là vì ngài đã dâng hiến tặng phẩm quí giá nhất cuộc đời. Đó là cuộc sống của chính ngài, với thời gian, sức lực, tài năng, học thức (dù rất giới hạn)… tất cả cho tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu rỗi các linh hồn.
Để trở thành người Kitô hữu chân chính, chúng ta cũng được mời gọi sống đời dâng hiến như vậy.
23. Quà tặng dốc cạn túi – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty: Biểu tượng "Lòng Từ Thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: "Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla".
***
Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện bà góa nghèo đã bỏ vào thùng tiền đền thờ "tất cả những gì mình có để nuôi sống" (Mc.12,44). "Của ít lòng nhiều". Bà góa này tuy dâng cúng ít tiền nhưng lại hy sinh rất nhiều, và hy sinh quí giá nhất là hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng "tất cả những gì mình có để nuôi sống". Quà tặng đẹp nhất là quà tặng dốc cạn túi. Quà tặng quý giá không phải chỉ ở giá trị món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa.
Đức Giêsu đã khen nghĩa cử cao đẹp ấy: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết" (Mc.12,43) Cũng vậy, bà Mc Carty chỉ dâng tặng 150.00 đôla không thể so với tỷ phú Ted Turner bỏ ra 1 tỷ đôla, nhưng đó là tất cả kết quả chắt chiu từng đồng suốt một kiếp người. Nghĩa cử cao đẹp ấy đã mở đầu cho gần 300 nhà từ thiện khác tham gia đóng góp cho quỹ học bổng này.
Nếu bà góa nghèo được Chúa khen ngợi, thì bà Mc Carty cũng được chính Tổng Thống Bill Clinton bắt tay thăm hỏi, được vinh dự cầm ngọn đuốc Olympic chạy trên đường băng qua khu vực Mississippi, được trao tặng Huân chương người công dân danh dự Hoa Kỳ, và được cấp bằng tiến sĩ danh dự của đại học Harvard.
Văn hào John Powell viết: "Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp đặc biệt để loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng".
****
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta tránh xa thói đạo đức giả của người Biệt phái và Luật sĩ: Lạm dụng việc đạo đức để khoe khoang, mưu cầu hư danh, ham hố chức quyền, trục lợi vật chất. Người muốn chúng ta có ý hướng ngay lành khi làm bất cứ việc gì. Đức Giêsu dạy: "Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh" (Mt.6,3-4).
Người ta chỉ cho đi cái mình có. Nhưng chính vì cho mà người ta mới có, và người ta có chính vì những gì mà họ đã cho. Cha Mark Link viết: "Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi". Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn vương lại hương thơm.
Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình có.
Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen.
24. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin mừng Mc 12:38-44: Hình ảnh trao dâng quảng đại ấy còn được minh họa rõ nét trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (12,41-44) hôm nay. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt thùng tiền mà dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay duy trì việc phụng tự của đền thánh.
Suy niệm:
Chúng ta xem các kênh giải trí truyền hình, có nhiều chương trình làm việc từ thiện, nhưng vẫn còn thấp thoáng đâu đó một mục đích khác là quảng cáo thương hiệu sản phẩm. Hoặc có những người đi làm công tác bác ái, đăng lên các mạng xã hội facebook, zalo để khoe khoang thành tích, vì ai mà không muốn “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, ai mà không muốn được nhiều người biết đến.
Bài đọc I trích sách các Vua quyển I (1V 17,10-16) hôm nay diễn ra trong bối cảnh dân Do thái đang gặp nạn đói. Lúc ấy, tiên tri Êlia lỡ đường ngang qua, ghé vào xin chút nước uống và chút bánh lót dạ. Bà góa nghèo thành Sarephta chỉ còn có một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình, đang lượm vài que củi về nấu cho bà và đứa con trai ăn, rồi cũng chết vì quá đói. Thế nhưng, với lòng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, bà dám hy sinh những gì còn sót lại cho sự sống còn để khoản đãi cho người của Thiên Chúa mà không tính toán. Nhờ thế bà được chúc phúc hũ bột không vơi, bình dầu không cạn giúp bà vượt qua nạn đói hoành hoành.
Hình ảnh trao dâng quảng đại ấy còn được minh họa rõ nét trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (12,41-44) hôm nay. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt thùng tiền mà dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay duy trì việc phụng tự của đền thánh. Người ngồi thinh lặng, quan sát và chứng kiến nhiều người đủ mọi giai tầng đến dâng cúng. Và Chúa đã để ý tới một người nghèo đang tiến lại gần thùng tiền. Mặc dù bà góa này không có nhiều tiền như bao người, bà cũng chỉ bỏ vào hai đồng tiền nhỏ chẳng đáng kể nhưng lòng đạo đức của bà không hề thua kém người khác. Chính cách thành tâm của bà đã được Chúa Giêsu ghi nhận và nêu gương cho các môn đệ rằng “Tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có để nuôi sống” (Mc 12,44). Bà góa nghèo được gọi là người đã bỏ nhiều nhất vì ngay cả những gì có thể nuôi thân cứu đói qua ngày, bà cũng tặng dâng cho Thiên Chúa mà không so đo tính toán.
Người đời chúng ta thường đánh giá theo vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa thì đánh giá theo tấm lòng chúng ta trao ban hơn là dựa trên chủ nghĩa duy hiệu quả và những gì thấy ngay trước mắt. Trong việc sống đạo cũng vậy, việc đọc kinh, dự lễ, làm việc tình nguyện, bác ái mà thiếu sự chân thành, thiếu tâm tình bên trong thì những gì chúng ta trao dâng chỉ là hình thức, đánh bóng chính mình mà thôi. Hoặc một thái cực khác đó là một số người chủ trương “sống Đạo tại tâm” là đủ, không cần đọc kinh, dự lễ, không phải xưng thú tội lỗi gì cả vì Chúa biết hết rồi; và cũng có người quan niệm tới nhà thờ ngày Chúa nhật để “check in” là đã có mặt, cho lòng mình an tâm đã giữ lễ ngày Chúa nhật, nhưng sự thật chỉ ngồi tám chuyện, hóng mát như ở ghế đá công viên mà thiếu tâm tình tôn kính Chúa, không đối đáp thưa kinh, chẳng cần rước Mình Thánh Chúa. Tất cả những điều này là một sự ngụy biện nơi những người lười biếng, bê trễ thi hành những bổn phận đạo đức. Rốt cuộc đời sống đạo của người đó trở nên èo uột, vì họ không chăm lo cho linh hồn mình.
Thử hỏi trong tình yêu, khi hai người thương nhau mà quan niệm rằng yêu thì để trong lòng là đủ, cần gì phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải nhắn tin gọi điện cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì ly chè ly kem, cần gì những cử chỉ âu yếm hay những những lời động viên nhau... Vậy nó có còn là tình yêu không?
Chính Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta về việc trao ban. Người đã yêu thương đến nỗi trao ban cả mạng sống mình, sẵn sàng gánh lấy tội lỗi chúng ta đưa lên cây thập giá. Vậy mỗi người chúng ta cũng được mời gọi sống tập dâng hiến như bà góa nghèo, tin tưởng và trao dâng cho Thiên Chúa mà không tính toán, giúp đỡ anh chị em mà không lo tư lợi. Đó là một sự cho đi mà cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cảm nhận và viết lên những ca từ trong bài “Để gió cuốn đi” như sau: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!” Vâng, một khi trao ban cách chân thành bằng cả tấm lòng con người thì quý biết bao.
Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen. (Kinh dâng hiến của thánh Ignatio Loyola).
25. Quảng đại với Thiên Chúa -- PM. Cao Huy Hoàng
Lời Chúa CN 32 TN đề cập đến lòng quảng đại của Thiên Chúa Cha và lòng quảng đại hai bà góa nghèo đối với công trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban người Con một mình, người Con duy nhất cho nhân loại. Thiên Chúa Cha không tiếc cái “núm ruột” quí báu của mình, và Người Con Duy Nhất cũng bằng lòng vâng ý Cha để thực hiện chương trình yêu thương của Cha. Và cuối cùng, chỉ một của lễ duy nhất ấy, chỉ một hy sinh duy nhất ấy, đủ để làm đẹp lòng Cha và mang lại cho nhân loại niềm vui ơn cứu độ muôn đời. Vì thế, Thánh Phaolô kết luận:
- “Đức Kitô đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9,26)
- “Người đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9,28)
Nếu hình ảnh người Con Một duy nhất là Đức Giêsu Kitô nói lên lòng quảng đại vô cùng của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại, thì hình ảnh bà góa trong Mc 12,41-44 với hai đồng tiền kẻm duy nhất cuối cùng bỏ vào thùng tiền dâng cúng đền thờ và hình ảnh của bà góa ở Xarépta (1 V 17,10-16) với phần lương thực duy nhất cuối cùng dành cho tiên tri Elia lại nói lên lòng quảng đại đối với Thiên Chúa của con người.
Bà góa ở Xarepta biết rằng với một nắm bột và một chút dầu, mẹ con bà chỉ còn một bữa cơm trần gian cuối cùng, và sau đó là chết chắc. Không thể khác hơn được. Nhưng tiên tri Elia, “người được Thiên Chúa sai đến”, có yêu cầu bà cộng tác với Thiên Chúa, qua việc giúp ông một chén nước, một bữa cơm.
- "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống."
- "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!"
- "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết."
Trước sự do dự của bà góa vì việc bảo toàn sinh mạng mẹ con ít là một thời gian ngắn, Tiên tri Elia nói cho bà biết ý định của Thiên Chúa:
- "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen phán thế này: "Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất."
Việc đã xảy ra đúng như lời tiên tri đã nói: “Hũ bột đã không với, vò dầu đã chẳng cạn”.
Một phép lạ của ba nhân đức đối thần: tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, yêu mến Chúa và yêu mến người của Chúa, việc của Chúa, vững dạ cậy trông hết tình như lời Chúa hứa qua miệng tiên tri. Một phép lạ ngay tức khắc và bền vững để giữ uy tín cho “người nói thay Lời Thiên Chúa”. Một phép lạ tiên báo về Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu và duy nhất của Thiên Chúa Cha mà Ngài cũng chẳng tiếc chẳng tha, để chương trình cứu rối nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện và hoàn tất.
Thế rồi, con người được loan báo ấy cũng đã đến trong “ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”, ấy chính Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu, trong trình thuật của Thánh Marco hôm nay cho biết Ngài đang có mặt trong đền thờ và “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”.
Thấy một bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền hai đồng kẻm, Ngài nói:
- "Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.(Mc 12,43)
- Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12,44)
Chúa Giêsu trân quí nghĩa cử cao đẹp của bà góa nghèo một cách đồng cảm. Vì chính Ngài cũng mang thân phận đồng tiền duy nhất của Chúa Cha. Ngài thấu hiểu lòng Chúa Cha khi hy sinh cái quí giá nhất là Con Một mình cho chương trình cứu rỗi nhân loại. Vì thế, trước mắt Ngài, đồng bạc nhỏ nhoi mà quí giá của bà góa nghèo kia lại là hình ảnh của Ngài, mà thế gian chưa chắc đã nhận ra.
Liên kết ba bài đọc hôm nay, có thể rút ra một bài học cho hành trình đức tin chúng ta: Hãy biết rằng Thiên Chúa đã quảng đại với chúng ta là dường nào, và hãy quảng đại với Thiên Chúa.
Không có gì quí hơn Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu là món quà vô giá mà Thiên Chúa Cha đã ban tặng cho nhân loại. Không nên chỉ biết điều ấy, mà hãy đón nhận Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng thành kính, rồi cộng tác với Ngài, tiếp tục sứ mạng cứu rối nhân loại. Một trong những cách cộng tác ấy, là hãy quảng đại với Chúa một đồng, hãy quảng đại với Chúa một giờ, hãy quảng đại với Chúa chút hơi sức còn lại, hãy quảng đại với Chúa một lời yêu thương giũa thế giới ngập tràn thù hận, gian ác…
Vài tuần trước đây, tôi có việc về Nha Trang, và ghé thăm Cha MT, cha kể rằng: một Chúa nhật nọ, Cha nói chuyện với Giáo dân về tư thế tham dự phụng vụ của Giáo Dân: quì, ngồi, đứng trước mặt Chúa đều tốt cả, miễn là chúng ta có lòng chân thành. Nhưng, tư thế quì, bao giờ cũng trang nghiêm sốt sắng hơn và nhất là tỏ được lòng khiêm tốn, lòng yêu mến, quí trọng Thiên Chúa là Cha. Ví dụ, khi rước lễ, ta quì đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, thì xứng đáng hơn.
Sáng thứ hai trong tuần, một cụ bà 80 tuổi đem đến cho Cha một triệu đồng.
Cha hỏi: -“Tiền gì đây bà cụ?”
-“Thưa Cha, tiền con dâng cúng để đóng bàn quì rước lễ”
-“Tôi mới ví dụ thôi mà!”
-“Ví dụ gì nữa, cha đóng bàn quì đi, bọc khăn trắng nữa!”
-“Úi chà! Bà cụ già thế, ở đâu ra mà tiền nhiều vậy?”
-“Hết rồi Cha ạ, có bấy nhiêu thôi! Con cháu nó cho mối lúc ít đồng, để dành mua cái áo quan, nhưng bây giờ thì cái áo quan không cần bằng cái bàn quì rước lễ!!!”
Không thiếu những hình ảnh quảng đại như bà cụ 80 tuổi trên đây, mỗi khi chúng ta bước vào nhà thờ, nhất là những nhà thờ ở Việt Nam sau 1975, nếu chúng ta liên tưởng đến những đồng tiền chắt chiu của các bà góa trên khắp thế giới. Có những người rất điển trai, đẹp gái, và cả những lão bà lão ông đang ăn mày cho Giáo Hội những đồng xu rất nhỏ, để các cơ quan từ thiện có điều kiện mà thi thố tình thương của Chúa khắp nơi.
Tôi nhớ năm 1990, Cha FX, cha sở trước đây của GX tôi, cùng với Giáo Xứ khởi công xây dựng Ngôi Thánh Đường Anrê Kim Thông với sự đóng góp tiền bạc thật ít ỏi, nếu không nói là hầu như không có gì, vì giáo dân quá nghèo. Cha cũng chạy vạy hành khất khắp nơi, nhưng khó khăn quá. Thế là Cha có chương trình: “Tôi sẽ làm kỹ sư, tất cả chúng ta là thợ xây, nhà nào cũng có thợ xây Nhà Chúa, để giảm thiểu tối đa sự tốn kém”. Mọi người cùng đồng lòng, cùng quyết tâm. Cha sở ngày ngày mang đôi bata, mặc đồ lính, đội nói cời cùng với Giáo dân thi công suốt hai năm ròng! Trước ngày Cung Hiến Thánh Đường Anrê Kim Thông, nụ cười Cha rạng rỡ trên khuôn mặt đen sì màu nắng rám! Cha nói: “ Xin cảm ơn anh chị em, chúng ta đã xây dựng ngôi thánh đường nầy chỉ với số tiền 240 triệu, nhờ những đồng tiền của các bà góa trên khắp thế giới, nhờ những đóng góp của anh chị em, chúng ta đã tiết kiệm được của Chúa rất nhiều. Hãy tạ ơn Chúa và xin Chúa trả công cho các bà góa âm thầm trên khắp thế giới, mỗi khi anh chị em đến sum họp trong ngôi thánh đường nầy.”
Cũng với kế hoạch ấy, Cha FX ĐQH, đang chuẩn bị cho lễ Đặt Viên Đá trong tháng này, sau hơn hai năm gõ cửa các bà góa khắp nơi, đồng thời cũng ngần ấy thời gian “Cha, con cùng tiết kiệm”. Nghe nói, phần Cha, góp tất cả bỗng lễ của Giáo dân trong xứ (theo luật, Cha được hưởng) vào kinh phí xây dựng nhà thờ, và riêng các em thiếu nhi, tuổi chưa bao đồng, đã dành phần làm cái cửa tiền đường với giá 40 triệu từ những hủ pig!
Chúa muốn chúng ta quảng đại với Chúa, vì Chúa đã không tiếc gì cho ta, vì Chúa không keo kiệt, không tính toán, không kể đếm, không khoe khoang khi Ngài thi thố tình thương của Ngài đối với chúng ta. “Một đồng của đức tin cậy mến”, quảng đại cho Chúa, cho công việc của Chúa, sẽ là một đồng trổ sinh muôn phép lạ. Chúa muốn chúng ta quảng đại với Chúa một giờ giữa trăm công ngàn việc, giữa bao bề bộn lo toan, và cả giữa những gọi mời tiêu khiển giải trí của trần thế… để đến với Chúa, nghe và nói với Ngài một lời tạ lỗi, một lời xin ơn, một câu chúc tụng. Chúa muốn chúng ta đóng góp với Chúa một chút sức lực, một chút cố gắng, một chút hy sinh bắt nguồn từ lòng biết ơn và lòng tin cậy mến.
Hơn thế nữa, Chúa muốn chúng ta trân quí sự đóng góp của mọi người cho công cuộc Nước Chúa. Có người dâng cho Chúa tiền bạc, có người hiến cho Chúa thời gian, sức lực, có người hiến cho Chúa cả danh dự mình, cả sĩ diện mình, có người đóng góp bằng lời cầu nguyện âm thầm, cũng có người không nói gì cả, nhưng bằng lòng làm chứng cho chân lý, bằng lòng chịu thương chịu khó vì Chúa trong cảnh tù đày, quản thúc, bức bách…. Kẻ ít người nhiều, mọi sự đóng góp đều có giá trị cứu rỗi trước mặt Chúa. Không vì phần đóng góp nhiều hơn mà có giá trị hơn và đóng góp ít hơn mà kém giá trị. Giá trị của lễ dâng không do bởi số lượng mà do lòng yêu hết tâm hồn, hết linh hồn hết trí khôn.
Bà Tám nghèo ở xóm nghèo của chị tôi siêng đi xin lễ cho các linh hồn mồ côi. Ky cóp được vài chục ngàn là đi xin lễ, hoặc nhà thờ có công việc gì kêu gọi bà đều có tiền đóng góp, nhưng không nhiều, rát ít. Một lần bà nói với Cha sở: “Cha ơi, con xin được cái bì thư bỏ tiền vào xin lễ, mà lần nào xin lễ, con cũng thấy Cha lấy tiến ra đếm, con ngại quá”. Từ đó, linh mục ấy không đếm tiền trước mặt người xin nữa.
Vâng, người nghèo, tự họ đã cay đắng với cái nghèo của họ lắm rồi. Chỉ có Chúa Giêsu biết rõ, sự giàu có nơi họ. Chúng ta cũng bắt chước Chúa Giêsu mà thay đổi cách thẩm định các giá trị của những đóng góp.
Chúa cần một đồng của lòng quảng đại. Chúa không cần một ngàn của lòng khoe khoang tự phụ. Vì một đồng của lòng quảng đại mới có sức làm nên phép lạ lớn lao, còn một ngàn của lòng khoe khoang không sinh ích lợi gì cho người dâng hiến, và cả cho Thiên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã không tiếc Chúa Giêsu, Con Một Chúa, mà đã ban cho chúng con như quà tặng quí giá mang ơn cứu rỗi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại với Chúa luôn. Amen.
26. Dâng cho Chúa -- PM. Cao Huy Hoàng
Nếu bà góa Sareptha không lấy chút bột, chút dầu nhỏ bé kia mà làm bánh cho Êlia ăn, thì mẹ con bà cũng chỉ ăn được trong ngày ấy mà thôi, rồi sẽ chết. Nhưng vì lòng tin và lòng quảng đại, bà nghĩ rằng: nếu ta không lấy chút bột chút dầu kia mà cứu người đang đói là Êlia, thì hẳn Êlia sẽ chết. Việc cần làm ngay là phải cứu người. Còn việc của mình: Chúa sẽ liệu lo.
Và khi bà đã thực hiện như lòng tin và quảng đại, phép lạ đã xảy ra, đó là, hũ bột không vơi, bình dầu không cạn, mẹ con bà không chết đói. “Bà ấy đi và làm như ông Êlia nói; thế là bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán” (1 V 17, 15–16).
Thiên Chúa thật công bằng! Và công bằng của Ngài không chỉ là trả lại vừa đủ cho ta những gì ta cho đi, mà còn trả lại gấp trăm.
Hình ảnh bà góa Sareptha được nhắc lại trong Tin Mừng theo Thánh Marcô, Nhưng ở đây, đồng tiền của bà góa, đồng tiền nuôi sống bà ta một ngày đời, được kể là đồng tiền có giá trị nhất trước mắt Thiên Chúa. Trong mắt những người bỏ tiền dâng cúng vào hòm, thì có thể họ khinh miệt bà góa ấy, hoặc họ chê trách bà ấy thà đừng bỏ vào hòm tiền thì hơn, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới nhìn thấu tận cõi lòng bà, hiểu được tấm lòng quảng đại của bà, vì đồng tiền ấy là cả sự nghiệp của bà.
Bà không đợi đến lúc có dư ra 5 bảy đồng mới dâng cúng được một đồng, nhưng bà dâng ngay tất cả những gì mình có trong lúc cùng cực nhất, bế tắc nhất. “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống" (Mc 12, 44).
Có vài người không bao giờ xin lễ cho các linh hồn, vì cho rằng chưa có lúc nào nhà mình thong thả dư ra được vài chục nghìn.
Cũng có người không thể dâng cúng cho công việc xây dựng Nhà Thờ, vì người ta dâng tiền triệu, há lẽ tôi lại dâng tiền trăm, tiền chục ngàn. Khó coi quá!
Còn có người không thể giúp kẻ hoạn nạn, bởi vì cho rằng tôi còn chưa lo được cho tôi, nói gì đến chuyện giúp người.
Không phải tất cả như thế đâu. May quá, tôi tìm thấy trong danh sách công khai của cha Quang Uy về việc xin trợ giúp các trường hợp bệnh hoạn khẩn cấp của Trung Tâm Mục Vụ DCCT, có cả những người đã giúp 500 USD và cũng có người từng giúp 50.000 VND. Đành rằng có khoản nhiều hơn và ít hơn gấp 200 lần nhưng giá trị trước mặt Chúa không nằm ở những con số. 50.000 VND kia có thể là một ngày công của chị bán bắp, của cô bán xôi, của những người xa quê bán bánh tráng, lạc rang đi suốt một ngày mòn mỏi trên các ngõ phố.
Uống nước trước Bệnh Viện Tim Việt-Pháp, bạn có thể gặp cả trăm người từ miền Trung vào buôn bán nhỏ. Trước mắt tôi, một chị khoảng 45 tuổi, người Quảng Ngãi, bán bánh tráng, lạc rang, gặp người quen ở quê vào chữa bệnh tim cho con. Sau mấy câu thăm hỏi, chị dúi vào tay chị bạn 80.000 đồng: “Em gửi cho cháu vài hộp sữa. Cầm đi chị, mang tiếng vào Sàigòn làm ăn, nhưng một ngày của em chỉ được chừng ấy”. 80.000 so với ca mổ tim vài chục triệu thì có thấm vào đâu. Nhưng chị kia nắm tiền trong tay mà rưng rưng nước mắt. Tôi tò mò đi theo chị đã làm từ thiện dò hỏi, mới biết, chị vào trong nầy thuê nhà trọ ở chung với con gái đi học đại học. Một là “trông nom con gái, sợ xa cha mẹ ở đất Sàigòn này dễ hư lắm anh ạ”, hai là “kiếm thêm và để dành đóng tiền nhà và tiền học phí cho con”... “Mẹ con em quen ăn mì tôm rồi anh ạ. Ăn mì tôm vài hôm thì cũng dư ra được gần trăm ngàn”. Hỏi chị theo đạo nào, chị nói: “Nhà em không theo đạo nào cả, thờ Ông Bà”.
Như vậy, cũng có người chắt bóp giảm chi tiêu để có được chút gì mà giúp đỡ kẻ khác. Người ấy chắc chưa từng nghe những đoạn Lời Chúa hôm nay, nhưng tấm lòng của họ thật đáng quí. Người Công Giáo vẫn gọi họ là người “lương” đúng nghĩa lương thiện, tốt lành.
Còn người Công Giáo chúng ta thì sao? Đoạn Tin Mừng về đồng tiền của bà góa nghe đi nghe lại nhiều lần trong đời, nhưng chúng ta vẫn chưa đem ra thực hành chỉ vì một lý do rất đơn giản: Chưa đủ tin vào quyền năng của Thiên Chúa, hoặc tồi tệ hơn, vì vẫn kiêu ngạo mà quá tin vào sức riêng của mình.
Ông C. tim bị hẹp động mạch vành, hay mệt và đã có lần thoát cơn tai biến nhờ cấp cứu kịp. Chị H. mới quen biết ông, nhưng nghe tin ông cần tiền thuốc hằng tháng, chị hẹn xin gặp và trao cho ông bì thư với 3 triệu đồng. Ông C. ngần ngừ không dám nhận. Chị nói: “Có người gửi cho em để giúp kẻ khó. Em đâu được giữ mãi cho em”. Thiết nghĩ đây chỉ là cách nói. Vừa cầm tiền về đến nhà, ông C. nghe tin có một cháu cạnh nhà đi làm về bị tai nạn, bệnh viện trên tỉnh chê rồi, chuyển Chợ Rẫy gấp. Ông C. sang nhà và trao ngay bì thư 1 triệu rưỡi. “Có người mới gửi cho cháu”. Về nhà,ông nghe tim mình nhịp đều những nhịp hạnh phúc.
Ước gì có nhiều người Công Giáo như chị H, như ông C. Những người luôn biết cho đi là những người hạnh phúc.
Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta được hạnh phúc nhờ ĐỨC TIN mà tín thác vào Đấng có thể ban cho chúng ta mọi sự cần. Ngài biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết chúng ta. Ngài lo lắng cho chúng ta nhiều hơn chúng ta lo lắng cho bản thân mình.
Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ “ở hiền, gặp lành” như chị bán bánh tráng, lạc rang, mà các Kitô hữu còn phải biết vượt lên trên cách sống tự nhiên ấy, để mỗi dâng cúng của ta cho người, là một lần minh chứng Đức Tin của chúng ta rằng Thiên Chúa luôn quan phòng gìn giữ những ai sống và thực thi ý muốn của Chúa.
Lời Chúa còn nhắc nhớ mỗi chúng ta đừng đánh giá sai lầm những cống hiến âm thầm, nhỏ nhoi, nhưng hãy xét lại những cống hiến của mình xem có phải đã cống hiến vì lòng tin, vì lòng quảng đại hay không.
Trong những cống hiến âm thầm cho nhân loại, tôi phải nghĩ tới những lời nguyện ít ai biết đến, không ai nghe, chẳng ai thấy của những kẻ đau khổ trên giường bệnh, cùng cực trên đường đời, bị áp bức trong nơi tù đày côi cút… Những lời nguyện ấy là sự dâng hiến cho Thiên Chúa cách đáng trân trọng, để Thiên Chúa ban muôn hồng phúc cho mọi người.
Như chú thích cho sự dâng hiến của bà góa, của chúng ta, Thánh Phaolô nhắc đến việc Chúa Giêsu đã “tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (x. Dt 9, 24 – 28). Vậy mỗi lần chúng ta tín thác vào Thiên Chúa và sẵn lòng mất đi, sẵn lòng chia sẻ sự sống, niềm vui cho người khác, hẳn là chúng ta đang góp phần vào việc tiêu diệt các tội lỗi trong chúng ta để mỗi ngày chúng ta được xứng đáng lãnh hồng ân cứu độ hơn.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi căn bệnh chần chừ, nghi ngại. Xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con biết tín thác vào lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa mà dâng hiến cuộc sống của chính mình cho Chúa, cho mọi người. Amen.
27. Tinh thần chia sẻ
Chuyện cổ tích Ảrập kể lại rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, nên cửa hàng của anh ta luôn bị ế ẩm. Anh ta đã làm đủ mọi cách để câu khách, nhưng chẳng ai thèm đến. Ngày kia có một người ngồi ăn xin nơi lề đường. Ông thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng trên chiếc vỉ sắt. Cuối cùng ông móc trong bị ra một miếng bánh mì, rồi lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh một cách ngon lành. Anh chàng bán thịt thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo người ăn mày đòi tiền, nhưng người ăn mày phân trần: Tôi đâu có lấy thịt anh nướng cùa anh. Khói thịt đâu có phải là thịt. Anh hàng thịt quát lớn: Khói thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi. Hai người đưa nhau lên quan toà xin xét xử. Quan toà truyền cho người ăn mày móc ra một đồng tiền cắc và bảo ném xuống nền nhà, phát ra một tiếng keng. Rồi quan toà nói: Đây là giảp pháp công bằng nhất. Người ăn mày hưởng khói thịt của anh còn anh thì hưởng tiếng keng đồng tiền của ông ta.
Nghe câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ mỉm cười trước thái độ keo kiệt của anh hàng thịt. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác như vậy. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện kể về một người cha tham ăn đang ngồi nướng mấy con cá để nhậu lai rai. Đứa con nhỏ khóc đòi ăn, người mẹ liền dỗ: Con nín đi để mẹ xem có con nào nhỏ, mẹ sẽ xin ba cho con. Ông bố nghe vậy liền quắc mắt quát lên: Cho cái gì? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau.
Tình thương không chia sẻ chỉ là tình thương giả dối, không có thật. Đứng trước những nhu cầu cần thiết của người khác, đôi lúc chúng ta đã tránh né, đã chạy trốn bằng cách trả lời: Chừng nào tôi đủ ăn đủ mặc tôi sẽ cho. Hãy để lúc khác, bây giờ tôi không có khả năng. Và cái lúc khác ấy không bao giờ đến. Chúng ta có tới 1001 lý do để biện minh cho thái độ thiếu thông cảm, thiếu yêu thương của mình.
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã lên ái thái độ giả dối này: Nếu có ai xin các ngươi áo ngoài, thì hãy cho họ cả áo trong nữa. Nếu có ai xin các ngươi đi với họ một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm. Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi ba goá nghèo chỉ bỏ vào hòm tiền được có 2 đồng tiền kẽm, thế nhưng bà là người đã dâng cúng nhiều nhất bởi vì bà dám hy sinh cả những cái thực sự cần thiết cho cuộc sống của mình. Nhiều lần, Chúa Giêsu đã phán dạy: Hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.
Yêu thương anh em là chấp nhận, khoan dung và hết lòng phục vụ với trọn tình bác ái chân thành của mình.
28. Sống quảng đại
Thiên Chúa chúng ta tôn thờ luôn đứng về phía con người. Ngài thấu suốt mọi bí ẩn. Ngài chạnh lòng thương và rộng tay ban phát dư tràn hồng ân cho con người. Như thế, tất cả những gì con người có đều do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa ban cho. Cho nên chúng ta hãy sống tâm tình biết ơn và thái độ sống quảng đại yêu thương là cách đáp trả tích cực làm hài lòng Thiên Chúa nhất.
Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái như luật sĩ và biệt phái tự cho mình là kẻ đạo đức hơn người nên họ dễ lầm lạc khi có thái độ tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu con người. Họ cho rằng cứ đọc kinh nhiều, "nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo" là đặng rỗi. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.
Họ giữ luật nghiêm ngặt, tính toán tỉ mỉ từng cử chỉ: ăn uống phải rửa tay, đi ra ngoài về phải tắm giặt, không hề đụng chạm xác chết, cố tình rình rập xem Chúa Giêsu chữa bệnh ngày Sabat để bắt lỗi...Đáng lý ra họ phải rao giảng và thực thi lòng bác ái hơn, phải đối xử nhân từ với tha nhân, bao dung với kẻ tội lỗi,...Nếu chịu khó nhìn lại bản thân, họ sẽ thấy được sự bất toàn của kiếp người, kể cả bản thân họ cũng từng hơn một lần vấp ngã, lỗi phạm...Thế mà họ không biết thông cảm và yêu thương người đồng loại. Hơn nữa, nếu chịu khó nhìn Thiên Chúa, họ sẽ thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ, sẵn sàng tha thứ và rộng rãi ban ơn cho họ. Những gì hiện họ đang có đều bởi Chúa mà ra. Nếu họ chịu khó nhìn thấy được như thế, nếu họ khiêm tốn thì họ sẽ thấy mình quá bé nhỏ, những gì họ giữ luật lệ, làm cho mình và cho người khác trở nên bé nhỏ, quá ít ỏi so với điều Thiên Chúa ban cho.
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác so với con người thời ấy tưởng nghĩ. Đó là một vì Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức "nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo" kia. Hơn nữa, đó là một vì Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người. Thiên Chúa ban cho con người hơn điều họ mong ước. Bởi vì mục đích là Thiên Chúa muốn tất cả ngững gì con người nhận được đều sinh ích cho họ. Ngay cả điều họ trao hiến cho Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa luôn tôn trọng và quý mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng cho Ngài. Những lễ vật tuy đơn sơ nhỏ bé nhưng chất chứa tình yêu và sự chân thành của chúng ta thì càng được Thiên Chúa đón nhận. Tuy nó nhỏ bé trước mặt người đời nhưng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy được hết những giá trị âm thầm, hy sinh đau khổ của chúng ta, những hy sinh hằng ngày làm nên những giá trị sáng chói trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao. Ngài cho chúng ta thấy Ngài trân trọng và đáng quý trước mặt Ngài biết bao, bởi vì chúng ta là hồng ân của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa kêu gọi lòng yêu mến, quảng đại của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa lại cao sang tuyệt đối. Ngài là chủ tể mọi loài mọi vật. Tất cả những gì chúng ta có đều là do bởi Ngài mà ra. Do đó, chúng ta có đáng gì mà dâng cho Chúa đâu. Là thụ tạo, chúng ta quá nhỏ, thân phận nghèo hèn, mỏng giòn, yếu đuối trước một Thiên Chúa cao sang. Chúng ta có thể nghèo tiền của vật chất đủ thứ, thiếu thốn đủ thứ nhưng không ai trong chúng ta có thể sống mà không có trái tim có khả năng yêu thương. Đó là điều cốt lõi, là cái làm cho chúng ta nên giá trị trước mặt Thiên Chúa. Lễ dâng của chúng ta chỉ đáng Chúa chấp nhận khi nói lên lòng yêu mến và chính tình yêu của chúng ta.
Ở Bài đọc 1, Bà goá thành sareptha cũng đã dâng cho ngôn sứ Êlia một chút bột còn sót lại trong hủ, là khẩu phần cuối cùng của bà và đứa con côi cút của bà. Đối với bà trong lúc cả nước đói kém và nắng hạn, thì một chút bột này là cả một tài sản đắt giá có thể cứu được mạng sống của bà và con bà. Thế nhưng bà đã nhường lại khẩu phần cuối cùng của mẹ con bà mà cho Ngôn sứ Êlia ăn trước. Và Thiên Chúa đã trả lại cho bà bằng cách cho hủ bột và bình dầu ăn của bà không bao giờ vơi cạn cho đến khi trời hết hạn và mưa lại đổ xuống. Lòng quảng đại dâng hiến sẽ được Thiên Chúa đền bù gấp bội.
Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta. Do đó, chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và phó thác vào trong sự an bài của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy sống tình yêu thương bác ái với anh chị em chung quanh chúng ta cho thật tốt theo như ý Chúa muốn, đó là thái độ bày tỏ đức tin của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn về Chúa để chúng con thấy Chúa lớn lao, tình thương Chúa dành cho chúng con thật bao la, để từ đó chúng con thấy mình quá nhỏ bé, bất xứng, chỉ biết trông cậy vào Chúa. Và để chúng con luôn biết sống quảng đại với tha nhân như Chúa đã đối xử đại lượng với chúng con. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Amen.
29. Bác ái
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Khi nói về việc bác ái, làm phúc bố thí chúng ta thường nghĩ về người nghèo cần bữa cơm ấm bụng, cần áo che thân. Điều này rất đúng. Về phương diện vật chất, không có gì sai. Miếng cơm, manh áo thoả mãn nhu cầu vật chất, không thoả mãn nhu cầu tinh thần và tâm linh. Xã hội hiện nay có người cần ai đó lắng nghe tâm sự của họ. Như thế họ cần thời gian của bạn. Người khác cần có người ngồi bên để họ cảm thấy bớt cô đơn. Như thế họ cần sự hiện diện của bạn. Người khác nữa thất bại trong thương trường, học vấn, tìm công ăn việc làm, họ chán nản, cần hỗ trợ tinh thần của bạn để họ tiến lên. Kẻ khác nữa mất tinh thần, chán sống. Như thế họ cần đến sức sống của bạn. Người khác nữa cần được đối xử công minh. Như thế họ cần tiếng nói công lí của bạn. Người khác nữa cần được đối xử tử tế như thế họ cần đến lòng khoan dung của bạn. Người khác nữa cần giúp bỏ được tật xấu nghiện ngập như thế họ cần đến sự cảm thông của bạn. Đừng ép họ uống thêm li rượu, dù là rượu mời, tránh cơ hội dẫn đến xì ke, ma tuý. Như thế bác ái bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống. Có người lâu ngày không đến nhà thờ, gặp lại họ, dù bạn thành tâm cũng nên tránh hỏi hay nói những câu làm cho họ cảm thấy áy náy. Họ đứng chỗ đông người nhưng cảm thấy lạc lõng, họ cần bạn là người tạo cho họ gây lại mối liên hệ với cộng đoàn.
Hôm nay Kinh thánh nhắc đến hai goá phụ, một đói, một nghèo. Cả hai đều nghèo về vật chất và cả hai đều rộng lượng, giầu tinh thần, giầu bác ái. Lối sống và hành động của hai bà hoàn toàn trái ngược với lối sống đài các, xa hoa của nhà lãnh đạo tôn giáo, người có chức, có quyền, có thế trong dân thời đó. Họ chú trọng đến việc quan trọng hoá chính mình qua cách ăn mặc; đối với xã hội họ đòi hỏi được coi trọng và nơi công cộng mong được trọng vọng. Hành động của họ chứng tỏ họ nghèo về tinh thần. Họ dùng vật chất, hào nhoáng bề ngoài mong khoả lấp cái nghèo khó tinh thần bên trong. Hai bà goá hành động khác hẳn. Phúc âm không nhắc đến tên của các bà và do đó chúng ta có thể hiểu dụ ngôn này áp dụng cho tất cả những ai sống tinh thần nghèo khó vì nước trời.
Bà thứ nhất tạm gọi là bà đói, bà đi kiếm củi về nấu bữa cháo cuối cùng cho con ăn trước khi chết, bởi hạn hán dài hạn và nhà không còn gì để ăn. Trên đường về bà gặp người ăn xin. Người này đòi bà nấu cho ông ăn trước rồi sau đó mới đến lượt gia đình bà. Điều ông đòi hỏi có vẻ hơi quá đáng nhưng ngạc nhiên thay bà chấp thuận điều ông yêu cầu. Có lẽ bà thông cảm cái đói khát của người khách lạ như chính gia đình bà đang trải qua. Dầu gì đây cũng là bữa ăn cuối cùng, no hơn một chút, hay đói hơn một chút cũng vậy thôi. Bà vẫn biết xã hội bà không đòi hỏi goá phụ nghèo phải giúp đỡ người khác nhưng bà giúp vì sâu thẳm trong tim bà có lòng nhân ái, muốn giúp đỡ người khác trong khả năng của mình. Quan trọng hơn hết bà coi việc bác ái chính là chia sẻ quà tặng Chúa ban. Tất cả những gì bà có đều là của Chúa ban và bà trao tặng cho người khác để làm Sáng Danh Chúa. Người khách lạ ăn một mình, không ăn chung với gia đình bà cho biết người đó là khách, không phải là thành viên của gia đình. Bà đâu ngờ hành động bác ái cuối cùng trong đời lại trở thành hành động cứu sống cả gia đình trong cơn nguy khốn. Thiên Chúa ban ân sủng của Ngài cho mỗi người một kiểu, một cách. Bà chỉ nhận ra điều đó sau khi đã thi ân và nhận biết thùng bột trong nhà không bao giờ cạn, chai dầu ăn trong tủ không bao giờ vơi cho đến khi mưa thuận, gió hoà. c.16.
Bà đói trong sách Các Vua chương 17 và bà goá nghèo trong Phúc Âm, người dâng cúng hai đồng xu vào nhà thờ, cùng chung quan niệm về cuộc sống, chung cung cách hành động. Bác ái và yêu thương phát xuất tự tấm lòng. Đức Kitô đã khen bà goá bỏ hai đồng xu vào tiền công quỹ bởi bà cho đi đồng xu bà cần. Có người cho nhiều của hơn nhưng cho đi đồng tiền tiết kiệm, tiền để dành chi tiêu vào việc không tên; còn bà goá cho đi đồng xu dùng để mua cơm bánh nuôi thân. Điều này cho biết cung cách và động lực dẫn đến việc thực thi bác ái rất quan trọng. Bác ái xuất phát tự tim là điều Đức Kitô trông đợi môn đệ Ngài thực hiện với tha nhân. Xin ơn khiêm nhường và thật thà trong lòng.
30. Bố thí – Lm. Vũ Đình Tường
Nói đến bố thí người ta nghĩ ngay đến cho đi những gì thuộc về vật chất như: tiền bạc, cơm ăn, áo mặc.
Xin ông bà làm ơn, làm phước cho con xin đồng tiền bát gạo.
Câu xin này khiến chúng ta liên tưởng đến của cải, vật chất khi bố thí. Thực ra việc bố thí bao la hơn câu trên. Bản chất của bố thí là cho đi với lòng yêu mến, vì chạnh lòng thương. Cho vì thương người nghèo khó, túng quẫn. Cho vì lòng mến Chúa thương tha nhân. Cho bao gồm của cải, vật chất, nhà cửa, ruộng vườn, việc làm, thời giờ, sự hiểu biết, tinh thần hoặc ngay cả tình yêu.
CHO HAY BIẾU
Tùy theo đối tượng nhận mà việc cho mang tên thích hợp. Cha mẹ để ruộng vườn, tài sản cho con cái gọi là đất hương hỏa. Con cho cha mẹ thì thành của biếu. Cùng một món quà nếu vua cho dân gọi là lộc vua; dân cho vua phải gọi là tiến vua; bạn bè cho nhau thành quà tặng; giầu cho nghèo biến thành bố thí; giáo dân cho Giáo Hội là dâng cúng. Giáo Hội cho giáo dân là ban ơn. Mang hoa cho Đức Mẹ gọi là dâng, tiến hoa. Cho tiền xây cất tượng đài hay thánh đường gọi là ủng hộ. Bỏ tài lực và công sức phục vụ coi là hy sinh.
CÁCH NHÌN KHÁC NHAU
Phúc âm nhắc việc bà góa bỏ tiền vào nhà thờ. Có hai cách nhìn khác nhau. Ta nhìn bên ngoài để nhận định sự việc. Chúa đánh giá tấm lòng bên trong. Ta nhìn giá trị vật chất đo lường lòng hảo tâm người cho. Chúa nhìn vào giá trị sâu thẳm trong tâm hồn để định lượng sự việc. Ta nhìn vào số tiền dâng cúng đem lòng kính trọng. Chúa nhìn vào tình yêu, lòng mến tỏ lòng quý mến.
'Lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Bà góa nghèo bỏ hai đồng. Chúa khen bà: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Vì mọi người lấy tiền dư bạc thừa của họ và đem bỏ vào đó, còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân.'
Chúa nhìn thấy nội tâm còn chúng ta làm sao biết được lòng người. Chấp nhận lập luận này đồng nghĩa với chấp nhận tránh phán đoán vì không rõ lòng người. Với Chúa kẻ bố thí nhiều không phải là cho nhiều tiền mà cho với nhiều tâm tình. Tâm tình đó đến từ lòng mến, chân thành. Chúa khen bà góa vì bà cho của túng thiếu, tiền dùng mua cơm chiều nay nhưng bà dốc cạn túi dâng cúng.
BỐ THÍ ÂM THẦM
Có nơi vì mong đạt mục đích muốn thực hiện hoặc do quá sốt sắng biến vật chất thành chính, tâm tình hiến dâng thành phụ. Dùng Danh Cha làm sáng danh con. Xấp bạc biến người đó thành ân nhân ưu hạng của cộng đoàn dân Chúa. Ân nhân loại cao cấp được thưởng ba hồi chuông trong ngày lễ an táng, trọn đời hưởng lễ đặc biệt dành cho. Nên nhớ lời Chúa hứa chắc chắn hơn ngàn lần lời cha hứa. Chúa dậy khi làm phúc bố thí đừng khua chiêng gõ mõ. Trong khi đó cha nêu danh cho bá tánh biết để noi gương. Lời hứa khó thực hiện. Khi cha xứ đổi đi nơi khác bàn giao 'ân nhân' cho người thừa kế dù người này không hứa. Đôi khi không bàn giao lời hứa. Chúa không bao giờ nuốt lời hứa nhưng cha hứa đôi khi phải xét lại vì cha cũng có tính mau quên.
Chúa hứa dù cho một chén nước Ngài cũng không quên. Xin nhớ câu tiếp theo 'vì Danh Chúa'. Bố thí vì Danh Chúa sẽ không bị lãng quên, nhưng bố thí cho danh con cả sáng, sổ vàng ân nhân thì lại khác vì đã được đồng đạo ca tụng ban khen.
'Vậy khi bố thí, đừng có khua chiên đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em'. Mt 6,1-4.
Cần nơi thờ phượng khang trang sạch sẽ là điều tốt. Nhà của Chúa nên phải coi trọng. Còn Đền Thờ Chúa Thánh Thần thì sao? Cũng phải coi trọng. Anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần vì thế mà việc bố thí cho kẻ đói ăn, khát uống, lạnh cho áo mặc, rét run sưởi cho ấm, cô đơn đến ngồi bên, bệnh tật cho thuốc uống, quan trọng ngang với xây dựng nhà Chúa. Nhà Chúa nguy nga phản lại đền thờ Chúa Thánh Thần rách nát. Hãy chăm sóc đền thờ sống động nhiều hơn, quan tâm đến đền thờ biết đi, biết xin, biết đói, biết khổ nhiều hơn vì điều đó làm đẹp lòng Chúa. Ngày phán xét Chúa cũng chỉ hỏi có bấy nhiêu.
Hy sinh mong được tiếng sẽ mất tiếng. Hy sinh không cần tiếng lại nổi tiếng. Đó là trường hợp của Thánh Phanxicô thành Assissi, của Vinh Sơn Đệ Phaolô, của Mẹ Têrêsa thành Calcuta, Mary Mc Killop của Úc. Tất cả đều cho đi trong âm thầm khi chết người vang lời ca tụng.
Không ai phủ nhận cho đi là cách làm giầu tốt nhất. Nhưng phải cho đi theo tinh thần của bà góa cho tiên tri Elia (1V 17,10-16) miếng bánh. Đây chính là đền thờ sống động. Cho đi trong tinh thần bà góa Chúa nhắc đến trong phúc âm Mc 12,41-44. Đây chính là đền thờ gỗ đá, nhà Chúa. Cả hai đều tốt vì cả hai đều làm âm thầm, khiêm nhường và yêu mến.
31. Quy luật của sự sống là nhận và trao -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Ba bài đọc hôm nay đều đề cập đến vấn đề trao ban.
Đang lom khom kiếm củi, bà goá Sarepta gặp ông khách bộ hành xin nước. Trong cơn đại hạn, một giọt nước quý như vàng. Thế mà bà không tiếc những giọt nước trong mát đang cần cho cơ thể mình giữa cơn nắng cháy. Bà vui lòng đem vò nước lại cho người qua đường không quen biết.
Đã uống cạn vò nước, người bộ hành lại xin ăn.
Bà goá trả lời: "Tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi bữa cuối cùng. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết."
Nhưng rồi không cầm lòng được, bà đã lượm củi, lấy chút dầu và bột cuối cùng của gia đình, làm bánh cho người khách lạ ăn. (bài đọc I Vua 17, 10-16)
Và thế rồi, hũ bột sẽ không vơi, bình dầu không cạn cho đến ngày mưa xuống dồi dào cho hoa màu tốt tươi.
Lại một bà goá khác trong đền thờ Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giêsu. Bà chỉ có hai đồng tiền kẽm, giá trị chỉ bằng một phần tư đồng xu Rô-ma, là tất cả gia sản của mình. Bà đã quảng đại bỏ vào hòm dâng cúng đền thờ. Vì lợi ích chung, bà cống hiến tất cả những gì cần thiết để nuôi sống mình. (bài Tin Mừng Mc 12, 44)
Thư Do-Thái hôm nay lại đề cập đến một Vị Thượng Tế cao cả là Đức Kitô, không chỉ trao ban những gì mình có, mà còn trao ban cả bản thân, trao ban đến giọt máu cuối cùng, "tự hiến tế chính mình để xoá bỏ tội lỗi muôn người" (thư Do-Thái 9,28)
Hiến trao là quy luật Thiên Chúa truyền ban để duy trì sự sống cho con người.
Thánh Phan-xi-cô At-xi-di xác nhận chân lý nầy: "Chính khi hiến thân là lúc nhận lãnh, chính khi quên mình là lúc nhận lại bản thân."
Nhưng có người chủ trương ngược lại:
Dại gì tôi phải cho, dại gì phải hiến mình làm thân trâu ngựa cho người khác được nhờ! Đối với tôi, sống là thu vén, là tận hưởng những công lao và thành quả của người khác cũng như của tôi. Của tôi, tôi hưởng tôi xài; đèn nhà ai nấy sáng, việc gì phải cống hiến, phải trao ban!.
Chủ trương như thế là "bế môn toả cảng", là cắt đứt tương quan với tha nhân, đồng nghĩa với tự huỷ diệt.
Trái tim của chúng ta luôn biết trao ban. Trái tim nhận máu rồi thì nó liền trao ban cho toàn thân. Nhờ đó, toàn cơ thể được sống. Ngày nào trái tim ngừng trao ban, đó là tim đứng và toàn thân phải chết.
Hai lá phổi của chúng ta cũng không ngừng trao ban. Chúng liên tục tiếp nhận khí trời rồi chuyển đến cho toàn thân được sống. Ngày nào phổi ngừng trao ban là ngày phổi bệnh và toàn thân phải chết.
Bao tử, ruột non, ruột già trong con người chúng ta cũng không ngừng trao ban. Mỗi khi nhận được thức ăn từ ngoài đưa vào, nó ra công chuyển hoá thành chất dinh dưỡng rồi chuyển đi nuôi toàn thân, nhờ đó toàn thân được lớn lên và mạnh sức. Ngày nào chúng ngừng trao ban, là ngày hệ tiêu hoá lâm trọng bệnh và toàn thân phải chết.
Các tế bào cần trao đổi chất dinh dưỡng cho nhau để duy trì sự sống cho mình. Các cơ quan như tim, phổi, ruột gan.. cũng phải trao đổi những gì chúng nhận được để duy trì sự sống cho mình và cho toàn thân.
Cuộc sống của các thành viên trong gia đình được phát huy và tồn tại cũng hệ tại ở việc nhận và trao.
Cuộc sống của cộng đồng quốc gia được phát huy và tồn tại cũng nhờ tinh thần tương thân tương ái.
Cuộc sống của cả nhân loại cũng đặt nền trên nguyên tắc mình sống cho mọi người và rồi mọi người sống cho mình.
Mỗi cá nhân là một tế bào làm nên một Thân Thể lớn lao là nhân loại nên nó phải trao đổi với tha nhân. Nhận và trao là quy luật sinh tồn.
* * *
Ở Israen có hai biển hồ lớn: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê nằm phía bắc nước Do-thái, nó luôn luôn tiếp nhận nước từ sông Jordanô và sau đó cho chảy thoát ra phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, dòng nước luôn luôn trong lành, trở nên môi trường sống lành mạnh cho bao loài tôm cá, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, nhiều người đến dựng nhà lập nghiệp quanh bờ của nó, thuyền bè tấp nập trên các bến cảng của nó. Nó đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại ấm no, hạnh phúc và nguồn vui cho bao triệu người qua các thời đại. Chính Chúa Giêsu cũng thường lui tới rao giảng Tin Mừng nơi đây.
Nhưng cách đó không bao xa, về phía nam nước Do-thái cũng có một biển hồ lớn được gọi tên là Biển Chết. Nó là biển chết vì nó cũng nhận nước từ dòng sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó cứ khư khư giữ lại cho mình, không ban phát cho ai, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước độc, nó mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
(dựa vào tập sách Lẽ Sống)
* * *
Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận được tất cả từ nơi Chúa và tha nhân, vậy mà con muốn nắm ghì thật chặt cho riêng mình.
Nếu ai cũng ích kỷ như con, chỉ biết khư khư giữ chặt mọi thứ cho mình mà không biết mở tay chia sẻ, thì nhân loại sẽ như ra sao?
Xin cho con nhận ra rằng: Sống là sống với, sống là trao đổi, là nhận và trao. Dù có nghèo tiền, con cũng còn nhiều thứ khác để cống hiến, trao ban.
Xin đừng để con trở thành biển chết.
32. Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu quan sát những người bỏ tiền dâng cúng cho đền thờ. Người thấy có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào hòm tiền hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân. Lễ vật của bà tuy bé mọn nhưng gói ghém rất nhiều tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giêsu cho rằng bà goá nầy đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn tất cả những người khác, vì tuy họ bỏ nhiều tiền nhưng không nhiều tình yêu.
Giá trị của một món quà
Đối với Chúa Giêsu, giá trị của món quà không tuỳ vào giá mua của món quà đó nhưng tuỳ vào mức độ yêu thương mà người cho đặt vào trong món quà.
Nếu có ai đó nài xin ta một số tiền mà lòng ta chẳng muốn cho. Nhưng vì người ấy cứ nài nỉ mãi khiến ta bực mình nên cuối cùng, để tống cổ người đó đi, ta đem cả cọc tiền lớn, bực bội ném cho người ấy và nói: "Tiền đây! Lải nhải hoài!" Chắc chắn người kia, dù nghèo thiếu đến mức nào đi nữa, sẽ quay mặt bỏ đi, mang theo một mối căm hờn.
Trái lại, khi đứa con nhỏ trong nhà muốn mừng kỷ niệm hôn phối ba mẹ mà chẳng có gì để dâng. Em lặn lội vào rừng ngắt một bông hoa dại nhỏ bé, đem về dâng lên ba mẹ với tất cả tình yêu thương. Chắc chắn ba mẹ em rất cảm động vì cảm nhận được nhiều yêu thương chứa đựng trong món quà bé nhỏ nầy.
Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa không phải là dâng cho Người nhiều món quà lớn nhưng là dâng tình yêu lớn. Dâng cho Thiên Chúa những món quà lớn hay những thành quả to lớn mà thiếu vắng tình yêu, thì lễ vật đó sẽ trở thành rỗng không và chẳng có giá trị gì.
Thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, từng khẳng định cách mạnh mẽ điều nầy: "Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi." (I Cr 13, 1-3)
Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn
Mẹ Tê-rê-xa Calcutta cảm nhận sâu sắc bài học trên đây của Thánh Phao-lô nên Mẹ không chủ trương làm những công việc lớn, nhưng chỉ làm những việc nhỏ với tình yêu lớn. Trong bức thư gửi cho Đức Cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Mẹ Têrêxa viết: "Điều đáng kể không phải là số lượng công tác ta làm, nhưng là mức độ tình yêu mà ta đặt vào trong mỗi công tác." Thế nên, khi tiếp xúc với bất cứ ai, Mẹ đem lòng yêu thương người ấy như thể đó là người duy nhất trên đời trong giây phút đó.
Cảm hứng từ bức thư trên đây của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận viết: “Kinh nghiệm đó đã củng cố trong tôi ý niệm là phải sống mỗi ngày, mỗi phút giây của cuộc đời ta như là phút giây cuối cùng…”
Và ngài quyết tâm thực hiện từng công việc nhỏ bé hằng ngày, từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với tình yêu lớn và biến những phút sống hiện tại thành những giây phút đẹp nhất cuộc đời, như ngài đã viết: “Mỗi chữ, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định… phải là những phút giây đẹp nhất đời ta. Chúng ta phải thương yêu mọi người, chúng ta phải tươi cười với mọi người mà đừng đánh mất một giây phút nào.” (Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận)
Trong tinh thần đó, chúng ta hãy cố gắng thực hiện từng công việc bé nhỏ và từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với một tình yêu lớn.
Hy vọng khi những hy lễ bé nhỏ nầy được dâng lên cho Thiên Chúa mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng sẽ rất hài lòng với lễ vật của chúng ta như Ngài đã đánh giá cao lễ mọn của bà góa nghèo năm xưa trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
***
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu ban đầu cũng muốn dâng cho Thiên Chúa những món quà vĩ đại. Chị ước mơ "làm linh mục, phó tế, tông đồ, tiến sĩ Hội Thánh và chết vì đạo thánh" để làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi các linh hồn; nhưng về sau, Chị khám phá được ơn gọi của mình là làm những việc bổn phận nhỏ nhặt hằng ngày với tất cả lòng yêu thương. Châm ngôn của Chị là: "sống mỗi phút giây hiện tại với tất cả lòng yêu thương." Khi thực hiện châm ngôn nầy, Chị Thánh có vô vàn món quà cao đẹp dâng lên Thiên Chúa trong từng phút giây đời mình.
Thánh Phaolô dạy: "Dù anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự vì Danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha."
Trong tinh thần đó, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu để làm các công việc bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến Chúa.
Rồi chúng ta hãy đem những lễ vật đó đặt lên đĩa thánh và trong chén rượu, để cùng dâng lên Thiên Chúa trong thánh lễ hằng ngày hiệp với Mình Máu thánh Chúa Giêsu. Chắc chắn Thiên Chúa Cha sẽ rất vui lòng đón nhận và ban ơn cứu độ cho chúng ta cũng như cho các linh hồn.
33. Tình yêu lớn lao
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Bạn thân mến!
Có bao giờ bạn dám nghĩ là bạn có thể góp phần rất tích cực vào việc làm cho thế giới này trở nên tươi đẹp, dễ thương và hấp dẫn hơn không?- Nếu bạn đã từng nghĩ và đang thực hiện như thế, thì xin bạn cứ hân hoan tiếp tục mỗi ngày một ngoạn mục hơn, bạn nhé! - Còn nếu vì một sự khiêm tốn tế nhị nào đó mà bạn chưa dám nghĩ tới, thì ngay hôm nay, tôi xin mạo muội đề nghị với bạn là bạn hãy can đảm bắt tay ngay vào việc đại nghĩa này, đừng chần chừ mà lại bỏ mất cơ hội, uổng phí thời gian, lấy lý do là từ từ để dịp khác, vì tất cả, từ Thiên Chúa đổ xuống cho tới người rốt bét trên trần gian này đang tha thiết mong đợi bạn ra tay đấy!
Vâng, đơn giản lắm bạn ạ! Nó nằm ngay trong tầm tay, trong khả năng của bạn và của tôi. Nhiều khi chỉ một nụ cười thân thiện, bạn cũng đã có thể làm được bao điều tốt lành cho thế giới.
Tôi nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Một hôm có người thanh niên đến thăm, và tận mắt chứng kiến các việc Mẹ cùng với các nữ tu của Mẹ làm tốt đẹp quá, anh tự cảm thấy dấy lên trong lòng mình một nhiệt huyết xây đắp cho thế giới này thêm những điều tốt lành, anh mạnh dạn hỏi Mẹ:
- Thưa Mẹ, xin Mẹ vui lòng cho con biết con có thể cộng tác vào công trình của Mẹ, để làm cho thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn bằng cách nào?
Mẹ Têrêsa nở nụ cười sung sướng và trả lời:
- Con hãy cố gắng mỉm cười với người khác, có thế thôi con ạ!
Thưa bạn,
Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện có thật, Chúa Giêsu ngồi quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào Đền Thờ, và Chúa đã bật mí cho các môn đệ một sự thật mà người ta không biết, một sự thật khiến các môn đệ cũng phải ngạc nhiên. Hóa ra các môn đệ từ trước đến giờ cũng chỉ đánh giá người ta theo những dáng vẻ bề ngoài nhiều khi rất dễ sai lầm; còn Chúa Giêsu đánh giá theo tận đáy lòng của con người, điều đó nhắc nhở và dậy chúng ta đừng bao giờ dựa hoàn toàn vào những cái bề ngoài để mà đánh giá một con người mang hình ảnh Thiên Chúa, dù họ là ai và ở tình trạng nào đi nữa.
Hiểu và nhận ra Thiên Chúa là Đấng luôn để ý đến tận thâm sâu cõi lòng ta, Ngài chỉ quan tâm tới tất cả những gì mang tính chân thành tấm lòng của chúng ta, và Ngài đánh giá hay hoặc không hay, lớn hay nhỏ tất cả những gì chúng ta dâng cho Ngài trực tiếp, hay dâng cho Ngài qua tha nhân mà Chúa luôn nhận là ta dâng cho chính Ngài, tùy theo mức độ tấm lòng to hay nhỏ, nhiều hay ít ta đặt để vào của ta dâng đó. Như vậy thì có dễ không thưa các bạn, trong việc làm tôi thờ phượng Thiên Chúa? Chính Chị Thánh Têrêsa là một sao sáng gần gũi và là gương mẫu cho ta trong lãnh vực này đấy, bởi vì ngài đã chẳng nói với chúng ta về chủ trương nên thánh của ngài là ‘làm việc thường, nhưng tình yêu phi thường’ đó sao!
Quả thế, vì tình yêu đối với Chúa Kitô mà mỗi khi chúng ta trao tặng người khác một nụ cười với một sự quí mến họ, thì chúng ta không những đã làm cho cuộc đời họ tươi thắm hơn, vui vẻ hơn, lạc quan hơn, đỡ bị stress hơn, mà đồng thời, bạn cũng đang làm cho đời bạn thêm tươi hơn, hấp dẫn hơn, đáng sống hơn, khỏe hơn, và còn hơn thế nữa, bạn đang góp phần tích cực vào việc làm cho thế giới nhân sinh này trở nên đẹp hơn,dễ thương hơn, và nhân bản hơn, như Mẹ Têrêra đã đề nghị anh thanh niên thiện chí trên đây muốn làm một gì đó để gọi là đóng góp vào việc phát triển thế giới. Và nếu nụ cười này lại được trải dài tới cả những người chúng ta không ưa không thích, thậm chí tới cả những người thù của chúng ta nữa, thì bạn ơi, đó thật là tuyệt vời, thật vĩ đại trước ánh nhìn quan sát của Thiên Chúa, và phải chăng, đó cũng chính là lúc Chúa đánh giá, Chúa tuyên bố là ta đã bỏ tiền vào hòm dâng cúng Đền Thờ nhiều hơn cả?
Vâng, thưa bạn! Hẳn bạn và tôi còn nhớ câu chuyện thật hay, thật đẹp, thật cảm động, câu chuyện mang tính giáo dục cao của em bé người Nhật 9 tuổi, em là một trong những nạn nhân trận động đất ngày 11.3.2011.
Như bạn đã biết, trận động đất cường độ 9,0 và sóng thần cao 9 thước thuộc miền Đông Bắc nước Nhật Bản, đã giết chết khoảng 8.133 người, làm mất tích 12.272 người, và đưa đến khủng hoảng phóng xạ nguyên tử từ các lò nguyên tử trong ảnh hưởng của thảm hoạ. Tuy nhiên, trước thảm hoạ khốc liệt đó, tinh thần người Nhật là một tấm gương sáng ngời cho thế giới...Không than khóc, và không thừa cơ cướp giật. Thí dụ ở vùng cách tỉnh Fukushima khoảng 25 cây số, dân chúng địa phương tự động thành lập các đội tự quản, tương trợ lẫn nhau khiến việc an ninh không là một vấn đề. Bên ngoài một ngôi nhà bị sập, tiền giấy trôi ra từ ngôi nhà nằm tứ tán có đến hàng triệu Yen, nhưng chẳng ai thèm nhặt. Đây là một đoạn trích từ thư của Tiến Sĩ Hà Minh Thành viết từ Nhật:
"Tối hôm kia, tôi được phái tới một trường tiểu học, phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến phiên của em thì chắc chẳng còn thức ăn, nên mới lại hỏi thăm. Em kể là: con đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần ập đến, cha của con làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường, con nhìn thấy chiếc xe và cha con bị nước cuốn trôi, 100% khả năng là cha con đã chết rồi. Tôi hỏi thêm: còn mẹ con đâu? Em nói: nhà con nằm ngay bờ biển, mẹ và em của con chắc cũng không chạy kịp. Em nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe tôi hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy em lạnh run lập cập tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát, trùm lên người em. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói".
Em bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi nghĩ bình thường, tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Tôi sửng sốt và ngạc nhiên vô cùng, mới hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời:
"Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ."
Tôi nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để em và mọi người đang xếp hàng không nhìn thấy. Thật cảm động! Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi, mới học lớp 3 đã có thể dạy một thằng có ăn học, từng có bằng tiến sĩ như tôi một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh."
Hay không, thưa bạn?
Qua câu chuyện cảm động trên, chúng ta thấy cái quí nhất, đó là thấy cả một tấm lòng. Vì cái quí nhất đối với họ không phải là ở chỗ hàng triệu Yen trôi ra biển uổng phí, mà là cả một tấm lòng giữa những con người với nhau, những người đó đã đánh giá và coi trọng người khác còn hơn cả tiền bạc… Cũng như em bé 9 tuổi, cái quí không phải là bao lương khô em cho vào làm của chung, mà là tấm lòng của em biết nghĩ đến người khác, biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác, mặc dầu em cũng đang đau khổ cùng cực, mặc dầu với hoàn cảnh và nỗi đau của một em bé mất cha, mất mẹ cùng một lúc, em có quyền được hưởng sự ưu tiên chính đáng; nhưng trái lại, em biết coi cái khổ của người khác hơn cái khổ của mình, sẵn sàng nhường quyền lợi của mình cho người khác. Cái vĩ đại, cái đáng nể, đáng cảm phục nhất, và Chúa bảo là dâng cúng bỏ tiền vào Đền Thờ nhiều hơn cả có lẽ không sai đâu, là ở chỗ đó đấy, các bạn ạ!
Câu chuyện bà góa thành Sarepta mà chúng ta vừa nghe, bà đã quảng đại dâng cho vị tiên tri Elia của Chúa chiếc bánh cuối cùng, và chúng ta thấy Thiên Chúa đã đánh giá rất cao; đồng thời đáp trả lại tấm lòng tin, lòng bác ái lớn lao của bà bằng phép lạ hũ bột không vơi cho đến khi hạn hán chấm dứt.
Bạn ơi, nếu tất cả chúng ta đều có những nghĩa cử đẹp với nhau như thế, mà nhất là những nghĩa cử đó lại được thực hiện vì lòng kính mến Chúa và thương yêu anh chị em mình vì lòng yêu Chúa, thì thật đáng quí vô cùng, và thế giới này chắc chắn sẽ được Thiên Chúa chúc phúc, phủ phê ngập tràn các ân huệ, và thế giới chúng ta đang sống đây, sẽ trở nên tốt đẹp, hạnh phúc, ấm cúng biết bao!
Xin các bạn cùng tôi, ngay bây giờ dâng một lời cầu xin Ơn Trên cho mọi người luôn đối xử tử tế với nhau như những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời, các bạn nhé!
34. Cho bằng tấm lòng -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi ở miền quê tôi rât thích hình ảnh một bà cụ khệ nệ ôm nải chuối đến biếu cha. Đó là hình ảnh bà ôm cả tấm lòng dành cho cha. Rất đáng quý, rất đáng trân trọng. Nói là ôm cả tấm lòng vì khi gia đình có cây chuối ra hoa, ra buồng, họ đã nghĩ đến để dành cho ai. Khi ra bẹ chuối họ cũng nghĩ phải chọn bẹ chuối nào dành cho cha. Và rồi nâng niu nải chuối ngon nhất để mang biếu cha, đó là ôm trọn một tấm lòng chân thành thật quý giá!
Hình ảnh ấy khiến tôi cũng nhớ tới một bà cụ rất đơn sơ. Ngày tết bà ra chúc tuổi tôi. Bà nói: Nhà con có cây xoài ra trái. Con để dành trái xoài to nhất để mang tết cha. Thế mà đến ngày 28 tết trộm nó hái mất rồi! Con chẳng còn gì để biếu cha. Nghe cũng vui nên tôi nói với bà cụ: Bà đã dành cho cha cả tấm lòng rồi. Xin cám ơn bà.
Quả thực, người ta nói “của cho không bằng cách cho”. Giá trị của món quà không nằm ở giá trị đồng tiền mà quan yếu là ở tấm lòng dành cho nhau. Những người cần công việc họ biếu quà cho cấp trên hàng triệu nhưng không có tấm lòng. Quà họ biếu có toan tính lợi nhuận. Quà của họ không có tình yêu.
Quà tặng chỉ có giá trị khi nó mang cả tấm lòng yêu mến tri ân. Đó mới là món quà vô giá. Món quà nồng thắm tình yêu. Món quà không dựa trên giá trị đồng tiền mà hệ tại ở tấm lòng. Thế nên, đừng bao giờ nghĩ mình có thật nhiều tiền mới giúp cha giúp mẹ, mới mua quà bánh cho ông bà... Đừng cầu mong trúng số mới làm việc bác ái, mới đóng góp xây dựng giáo xứ...
Nếu như vậy, có lẽ chúng ta sẽ khó có cơ hội giúp đỡ tha nhân. Hãy thi ân trong khả năng của mình. Hãy làm việc thiện khi có cơ hội, đừng đợi chờ những chuyện ngoài tầm tay. Chúng ta không nên hứa hẹn hay chờ đợi ngày mai, mà ngay hôm nay hãy làm những việc tầm thường như: giúp một người già qua đường, lượm một cây đinh sét vương vãi trên đường, thăm viếng kẻ yếu đau...
Thiên Chúa sẽ nhìn tấm lòng chúng ta như Chúa đã nhìn thấy tấm lòng thành của Abel. Ngài đã vui nhận lễ vật của Abel, vì Ngài thấy ở đó có lòng thành tri ân. Thiên Chúa đã khinh dể lễ vật của Cain vì lễ dâng của ông không có lòng thành. Vì Ngài là Đấng thấu suốt tâm can. Ngài sẽ chúc phúc cho những lễ vật đơn hèn nhưng gói trọn tình yêu.
Hôm nay trong đền thờ khi mà nhiều người bỏ tiền dâng cúng, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy nơi bà góa tấm lòng thành. Bà bỏ tiền ít nhưng nồng ép vào đó cả tấm lòng thành. Bà không giầu của cải nhưng bà giầu tấm lòng. Bà biết tất cả là của Chúa ban, thế nên phải dâng lại cho Chúa là lẽ thường tình. Lễ vật của bà không giầu tiền bạc nhưng lại rộng lượng tấm lòng.
Xin cho chúng ta hiểu rằng tất cả là của Chúa. Cuộc sống của chúng ta là do Chúa ban. Hãy dâng tặng cho Chúa trong những công việc chung của Giáo hội, nhất là chia sẻ cho những người bất hạnh cơ hàn. Xin đừng đóng cửa lòng mình trong ích kỷ tham lam. Amen.
35. Ảnh hưởng mạng xã hội hôm nay -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày hôm nay rất nhiều người sống không thể thiếu mạng xã hội. Đây là cách mà con người thời đại tiếp cận với xã hội và nhất là những vấn đề nóng của xã hội. Tuy nhiên, với bản tính của con người thích soi xétchuyện người khác và thích thỏi phồng những tin nóng, thì mạng xã hội nhiều khi trở thành một "pháp trường" nơi đám đông mặc nhiên thể hiện sự tàn nhẫn. Họ ném đá những người họ không thích, bất kể đúng sai. Họ cười nhạo kẻ khác biệt mình không một giây suy nghĩ. Họ soi mói đời sống riêng tư, thậm chí thích thú trước nỗi khổ của người khác. Họ coi thế giới ảo như một trò chơi, phủi tay tắt máy là câu chuyện kết thúc. Nhưng mạng xã hội không phải là trò chơi. Hậu quả của những việc tưởng như vô bổ trên mạng tàn khốc hơn nhiều. Nó đã cướp đi rất nhiều sinh mạng chỉ vì con người thích xét đoán người khác.
Mới đây thôi, một em gái ở Đồng Nai tự vẫn khi bị người yêu đăng clip nhạy cảm lên mạng. Gia đình chạy đến hết chỗ này nơi khác để cứu em, nhưng vô vọng. Cô bé mới 16 tuổi, không thể chống đỡ áp lực từ cơn bão mạng. Kẻ đăng clip đã gián tiếp giết em và cả những người lan truyền nó nữa.
Cũng có những trường hợp chỉ là vô tình trong lúc làm việc có những cử chỉ thái độ thiếu nghiêm túc liền bị ném đá tập thể một cách không thương tiếc như trường hợp của một bác sĩ Bệnh viện đa khoa Lâm Thao, Phú Thọ. Trong lúc khám cho bệnh nhân, anh gác một chân lên giường bệnh. Một chiếc smartphone giơ lên, hình ảnh được tung lên mạng.
Cộng đồng phẫn nộ về y đức của anh, đòi phải xử lý thật nghiêm. Anh bị miễn nhiệm và sau đó thì tự nguyện xin từ chức. Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng lẽ một cái chân đặt sai tư thế lại là vi phạm nghiêm trọng đến vậy?
Tôi không cho rằng, việc bác sĩ đặt chân lên giường bệnh là đúng, nhưng cái tôi cần biết hơn: anh chăm sóc người bệnh ra sao, hoàn thành công việc như thế nào,...Tiếc thay, nhiều người chỉ phán xét quanh cái chân để nhầm chỗ.
Hôm nay Chúa Giê-su dạy cho chúng ta cách đánh giá về một con người. Tư cách của họ và tấm lòng của họ không dựa trên thế giá. Không dựa trên cách ăn mặc đi đứng. Điều quan yếu là nhìn vào hành động của họ. Cách sống của họ sẽ thể hiện tấm lòng của họ chứ không phải chỉ nói hay là làm giỏi.
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra hai nhận định khác nhau về hai loại người. Nhận định thứ nhất về nhóm biệt phái, đại diện cho thành phần có chức có quyền. Nhận định thứ hai về bà goá nghèo, đại diện cho những con người thấp hèn, nghèo đói. Cả hai đều lên đền thờ với hai thái độ khác nhau. Bà goá nghèo khiêm tốn. Nhóm biệt phái giầu có lại kiêu căng. Bà goá nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Chúa. Người biệt phái chỉ có lòng tự cao tự đại.
Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng lại tham lam chỉ tìm cách lấy của chung thành của riêng. Họ là những người có chức, có quyền nhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.
Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.
Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.
Thế nên đánh giá hay xét đoán một con người đừng chỉ nhìn vào một phút sơ hở của họ để rồi vội kết án họ xấu xa. Nhất là trong thời đại thông tin công nghệ 4.0 thì một lời kết án thiếu chân thực của chúng ta sẽ giết chết một con người, hay ít ra cũng huỷ hoại nhân cách một con người, một khi lời đó được lan tải trên mạng xã hội. Và nhất là một sự chia sẻ thiếu hiểu biết của chúng ta sẽ gây nên những cơn bão đau khổ cho một con người.
Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương mới gọi chúng ta chỉ nói và làm những điều gì có lợi cho tha nhân. Đừng cố tình đẩy anh em vào đau khổ. Hãy sống nhân đạo với nhau thi châm ngôn: ”điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy”.
Xin Chúa giúp chúng ta có một tấm lòng chân thành để sống với tha nhân như bà goá giầu lòng quảng đại chân thành. Và xin cho chúng ta cũng có tấm lòng nhân hậu để đừng xét đoán anh em một cách thiếu suy nghĩ, nhưng luôn lấy lòng từ bi để nói tốt, nghĩ tốt cho anh em. Amen.
36. Ai nghèo hơn ai? -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
BÀ GOÁ NGHÈO TIỀN, NGHÈO CỦA NHƯNG LẠI GIẦU TẤM LÒNG
Nếu hỏi rằng ai là người có giá trị trong cuộc đời của bạn? Có lẽ không phải là người có tiền, có địa vị mà là người đã từng hy sinh cho bạn. Nếu hỏi rằng ai là người có ích với bạn? Có lẽ không phải là người có quyền lực, có danh giá mà là người tận tuỵ dìu dắt bạn. Vậy theo bạn ai là người nghèo đáng thương nhất trong cuộc đời? Có lẽ người nghèo đáng thương nhất là người không có tấm lòng để cho. Sự ích kỷ đã đẩy họ đến bần cùng đến nỗi không mua được bạn bè, không mua được niềm vui của sự trao ban. Sự tham lam đã khiến họ chơi bần với anh em, dẫn đến sự xa cách lạnh lùng.
Có một gia đình kia rất giầu có. Một hôm ông bố dẫn con về quê với ý định cho con thấy người nghèo sống ra sao. Hai bố con ở chơi mấy ngày với một gia đình nông dân mà người ta vẫn coi là rất nghèo trong làng. Lúc trở về, ông bố hỏi con: Con đã thấy người nghèo sống ra sao? Đứa con trả lời: Cám ơn bố đã cho con thấy mình nghèo như thế nào. Còn họ thật giầu có. Ông bố hỏi lại: Tại sao con lại nghĩ thế? Đứa con trả lời: Con thấy chúng ta chỉ có một con chó, họ có tới 4 con. Chúng ta chỉ có một cái hồ cỏn con ở giữa vườn, còn họ có dòng sông dài đến vô tận. Chúng ta chỉ có mấy cái đèn ngoài vườn, còn ban đêm họ có bao nhiêu là sao sáng. Trước nhà chúng ta chỉ giới hạn ở trước sân vườn, còn trước nhà họ là không gian mênh mông đến tận chân trời. Chúng ta chỉ sống trên mảnh đất bé nhỏ, còn họ có ruộng đồng bao la thẳng cánh cò bay. Chúng ta có gia nhân phục vụ nhưng họ chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta phải mua thực phẩm nhưng họ tự tay trồng lấy lúa rau. Chúng ta có tường rào vây quanh bảo vệ, nhưng họ có bạn hữu bảo vệ... Ông bố nghe mà cứ ngẩn ngơ người, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước nhận xét thật đơn sơ của đứa con.
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra hai nhận định khác nhau về hai loại người. Nhận định thứ nhất về nhóm biệt phái, đại diện cho thành phần có chức có quyền. Nhận định thứ hai về bà goá nghèo, đại diện cho những con người thấp hèn, nghèo đói. Cả hai đều lên đền thờ với hai thái độ khác nhau. Bà goá nghèo khiêm tốn. Nhóm biệt phái giầu có lại kiêu căng. Bà goá nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Chúa. Người biệt phái chỉ có lòng tự cao tự đại.
Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng không đóng góp của chung mà chỉ lợi dụng để lấy của chung thành của riêng. Họ là những người giầu có nhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.
Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.
Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.
Thực vậy, sự giầu có về vật chất đôi khi làm con người nghèo khó về tinh thần. Sự nghèo khó vật chất đôi khi lại thảnh thơi tâm hồn. Kẻ tham lam thường nghèo đói về lòng nhân ái. Kẻ biết sống khó nghèo thường chứa chan tình yêu. Kẻ có chức có quyền dễ mất tính bao dung và thương xót. Kẻ khốn cùng dễ cảm thông với bất hạnh bần cùng của tha nhân.
Xét cho cùng, sự giầu có không hệ tại ở đồng tiền hay chức vị. Sự giầu có hệ tại ở những tương quan với đồng loại. Do vậy, điều mà con người cần tích lũy không phải là của cải trần gian mà là tình yêu đối với tha nhân. Điều mà con người thu gom không phải là hàng hoá xa sỉ phẩm mà là từng nghĩa cử cao đẹp chúng ta dành cho đồng loại.
Kẻ có chức có quyền càng bị kết án nặng hơn nếu họ không biết dùng địa vị của mình để phục vụ một cách vô vị lợi. Chính họ không những phải trả lẽ trước mặt Chúa về sự ích kỷ của mình, mà còn mất đi cơ hội mua lấy bạn hữu Nước Trời bằng tấm lòng rộng lượng của mình.
Mỗi người chúng ta chỉ là những quản lý của Chúa, hãy biết đón nhận trong sự khiêm tốn và biết trao ban cho anh em theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Xét cho cùng, tất cả những gì chúng ta có, đều nhận lãnh do lòng quảng đại của Chúa. Do đó, những gì chúng ta cho, không phải chúng ta cho của riêng mình, nhưng là giao lại cho người khác những gì thuộc về Chúa. Dù vậy Chúa vẫn thưởng công cho chúng ta. Vì Chúa đã từng nói: "Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu." Amen.
37. Tình góa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Phải thú nhận rằng có hậu ý khi đặt tựa đề cho bài viết là “tình góa”. Dĩ nhiên ít nhiều cũng có ngụ ý “tiếp thị”. Đã là góa bụa mà còn tình tứ gì nữa! Đã nói đến tình thì ít ai nói đến cảnh góa bụa. Sự đời, người ta thường tránh những điều xúi quẩy. Thế nhưng nhiều hình ảnh người góa bụa lại được Thánh Kinh không chỉ tô hồng mà còn xác nhận là một trong những đối tượng được Thiên Chúa ưu ái và bảo vệ cách đặc biệt bằng những luật lệ cụ thể trong Cựu Ước (x.Xh 22,21; Ed 22,7). Đến thời Tân Ước, chính Chúa Giêsu cũng đã ưu ái bà góa thành Naim có đứa con trai duy nhất bị chết, nên dù không được khẩn xin, Người vẫn ra tay uy quyền cho cậu ta sống lại (x.Lc 7,11-17). Trong ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật XXXII TN B thì bài đọc thứ nhất trích sách các Vua và bài Tin mừng tường thuật và ca tụng nghĩa cử cao đẹp của bà góa thành Xarépta và bà góa tại Giêrusalem. Cả hai đều là những bà góa nghèo nhưng sẵn sàng hiến dâng “phần nuôi sống” mình, cũng là chính sự sống của mình cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Thầm hiểu ngụ ý của Hội Thánh khi cho trích đọc các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật này, chúng ta cùng xét suy đôi điều qua cái tâm, cái lòng và cuộc sống của người góa bụa.
1. Một mối tình thủy chung: Trước hết cần phân biệt người góa bụa với các bà mẹ độc thân. Hẳn nhiên có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan hình thành tình trạng hay kiểu sống của những bà mẹ độc thân. Chúng ta không thể tiên thiên “đánh giá - xếp hạng” cho tình trạng sống này vì hình như mỗi hoàn cảnh đều mỗi vẻ khác nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế nhưng phải nhìn nhận rằng đây là tình trạng “không bình thường” theo lẽ tự nhiên mặc dù đã từng có khi, có nơi trở thành một phong trào, một kiểu cách chọn lựa của nhiều phụ nữ thời hiện đại. Trái lại tình cảnh của người góa bụa dù là đàn ông hay đàn bà là chuyện thường tình của kiếp nhân sinh. Đã thề non hẹn biển trong duyên vợ chồng thì luôn mong được song hành cho đến khi đầu bạc răng long. Mong thì vẫn mong, nhưng được chết cùng ngày là điều thật hy hữu. Chuyện tái giá hay đi bước nữa khi người phối ngẫu đã qua đời là chuyện chẳng có gì sai trái, dù phía nữ giới có thể bị dị nghị cách nào đó, đặc biệt trong nhiều xã hội trước đây vốn đề cao đạo “tam tòng – tứ đức”. Dù xưa hay nay thì người ta vẫn trân trọng những mẫu đời “thờ chồng, nuôi con” hay tín trung với người bạn quá cố mà nguyện làm cảnh gà trống nuôi con. Chúng ta đừng quên đây là một trong những tiêu chí để chọn người vào hàng Giám Quản hay bậc trợ tá của Giáo Hội thời sơ khai (x.1Tim 3,1-13)
Thủy chung với người bạn đời đang còn sống quả là một nỗ lực bền bỉ không chỉ trong tình yêu mà cả trong sự tiết chế.
Chuyện “chả - nem” không riêng gì là chuyện của thời hôm nay mà đã có từ xưa, chỉ khác một điều là mức độ phổ biến, cho dù ai cũng thấy sự sai trái của nó và những hậu quả xấu xa mà nó di hại cho gia đình, cho con cái và cho cả xã hội. Chính vì thế, việc chung thủy với người bạn đời đã khuất càng được trân trọng gấp bội khi tự nguyện từ bỏ quyền lợi chính đáng của mình vì yêu thương và muốn tín trung trọn vẹn với chỉ một người.
2. Một tình yêu trao hiến đến cùng: Các nhà tâm lý cũng như các nhà đạo đức vốn đồng thuận với nhau về khái niệm yêu thương là một quá trình trao ban và đón nhận nhau. Yêu thương cách đích thực là tự nguyện trao ban điều tốt, điều tốt nhất của mình cho người mình yêu cách vô điều kiện và không tính toán, đồng thời cũng sẵn sàng đón nhận người mình yêu với tất những gì người ấy “là và có” một cách quảng đại, không so đo. Người ta thấy rõ hai động thái này trong đời hôn nhân. Đức Bênêđíctô XVI đã gọi đó là Eros và Agapê, hai chiều kích của tình yêu này xem ra phản ánh Tình Yêu Thiên Chúa cách rõ nét nhất (TĐ Thiên Chúa là Tình Yêu số 2). Với thời gian, qua các hình thức “mại dâm thánh” cùng với sự ích kỷ hưởng thụ của con người theo sự cám dỗ thần dữ thì chiều kích Eros (đón nhận) đã bị biến dạng, tha hóa. Từ đó chiều kích trao hiến (Agapê) đóng vai trò chủ yếu trong việc biểu lộ tình yêu đích thực.
Với người góa bụa thì cái chiều kích đón nhận xem ra vẫn còn đó qua người con. Nhưng nó sẽ vơi dần theo thời gian khi đứa con đến lúc phải lìa cha mẹ mà luyến ái với người bạn đời (x.Mc 10,7). Cuộc đời của người góa bụa là một chuỗi trao ban, hiến dâng không ngơi nghỉ và ngày càng đến cùng. Chỉ còn chút bột và chút dầu để ăn bữa cuối cùng với đứa con, thế mà bà góa thành Xarépta đã không ngại ngần dâng trao cho ngôn sứ Êlia (x.1 V 17,7-16). Chúa Giêsu đã ngợi khen lòng quảng đại của một bà góa tại đền thờ Giêrusalem khi đã không ngại ngần dâng cúng vào Đền Thờ “tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân bà” (Mc 12,44; Lc 21,4).
3. Một tâm hồn nghèo khó thực sự: Lời tung hô tin mừng trong Chúa Nhật này, Giáo Hội cho trích câu tin mừng của thánh Matthêu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Người góa bụa là một trong những người nghèo của Thiên Chúa, được Người ưu ái chăm sóc và bảo vệ. Xin đừng quên số người góa bụa trong các xã hội trước đây thì phụ nữ chiếm tuyệt đại đa số. Vì thế khi nói đến người góa bụa là người ta nghĩ ngay đến các bà góa. Một mình nuôi con mà bôn ba cuộc sống thì khó bì được với người ta vẹn đủa cả đôi, nhất là khi sinh kế thời bấy giờ dựa vào sức lao động của cơ bắp là chủ yếu. Do dó người ta không lạ gì khi hạn từ “góa” thường đi đôi với hạn từ “nghèo”. Những người góa bụa, cách riêng các phụ nữ góa chồng không chỉ nghèo về vật chất, của cải, bạc tiền mà họ còn nghèo khó cả về mặt tinh thần. Ngay cả trong thời kỳ gọi là hoàng kim của Giáo hội là thời Giáo hội sơ khai, khi mà những người trong tôn giáo mới này “không ai lấy sự gì làm của riêng, mọi sự đều là của chung” (x.Cvtđ 2,44; 4,32) thế mà các bà góa vẫn đã từng bị đối xử thiếu công bằng, bị bỏ quên (x.Cvtđ 6,1).
Hồng ân Nước Trời là một ân ban trọng đại và nhưng không của Thiên Chúa. Không một ai có thể tự mình chiếm hữu ân ban ấy dựa vào khả năng và công trạng của mình. Chúa Giêsu đã mặc nhiên nói đến chân lý này khi khẳng định rằng người giàu có khó vào Nước Trời, khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim. Những gì mà người giàu cho rằng có thể mua được bằng tiền bạc thì chắc chắn không phải là Nước Trời (x.Lc 18,24-27). Một tâm hồn nghèo khó thực sự thì sẽ có được sự tự do với các thực tại đời này để rồi biết gắn bó mật thiết với Thiên Chúa trong niềm tin. Và họ đã biết mở lòng để đón nhận Nước Trời như là ân ban.
Qua một vài nghĩ suy về “tình góa”, không gì hơn, chỉ thầm mong số phận những người góa bụa được xã hội cũng như Giáo hội quan tâm chăm sóc bằng sự trân trọng như những người nghèo của Thiên Chúa, những con người rực sáng trong tình yêu thủy chung, tình yêu dâng hiến đến cùng. Có thể nói không sợ sai lầm rằng cuộc đời của nhiều người góa bụa là một dẫn chứng cụ thể, giúp chúng ta biết thế nào là yêu, thế nào là tin.
38. Bà góa nghèo
(Suy niệm của Lm. Lêo M. Nguyễn Kim Lân, CRM)
Chuyên mục "những câu chuyện về cuộc sống" đăng ngày 25.10.2012, kể một câu chuyện về "Bà lão ăn mày và đứa bé"
Bà lão chống gậy, tay cầm mảnh gáo dừa đi xin của bố thí. Dừng chân trước một ngôi nhà. Tiếng chó sủa trong nhà ầm ĩ, khác thường. Một chú bé chừng năm tuổi đứng gần đó, trên tay cầm chiếc kẹo đứng nhìn bà chăm chú.
Có lẽ lần đầu gặp bà lão như thế? Hay vì nó không có bà, khiến nó nhìn bà chăm chú đến thế. Trong sân tiếng một phụ nữ vọng ra:
- Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!
Lời nói ấy như một thông điệp quen thuộc, mà bà vẫn thường nghe. Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh gáo ra đi. Cái lưng còng trên thân bà, mảnh quần áo cũ rách, đôi tay gầy gò nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.
Thằng bé cứ ngơ ngác nhìn theo bà lão và cũng lặng lẽ theo bà ra đầu ngõ. Chợt nó chạy thật nhanh tới gần bà, nó đưa cho bà chiếc kẹo trên tay.
Bà lão ngơ ngác như chính khi thằng bé ào tới:
- Ôi! cảm ơn con. Tiếng bà lí nhí vì ngỡ ngàng, thằng bé chạy ào đi mất.
Hẳn nhiên là cuộc đời này còn nhiều trái tim như thế, cho những gì mình có, dù ít ỏi, đó hình ảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền, các nhà chú giải nói, thùng đó gồm mười ba thùng nhỏ, dùng để đựng tiền dân cúng và mỗi thùng đều có ghi rõ mục đích quyên góp: "dâng cúng đền thờ, mua lễ vật, mua hương…" Đức Kitô nhìn thấy những người giầu có bỏ vào đó rất nhiều tiền, nhưng Ngài không có chút cảm động nào, dù hẳn nhiên họ không có gì sai trái. Rồi bỗng một bà góa nghèo bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, là một phần tư xu. Ngài liền nói với các môn đệ: "Thầy nói thật với các con, trong những người bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn hết" (Mc 12,43). Nhiều hơn hết không phải là số lượng tiền, nhưng nhiều hơn hết vì bà bỏ tất cả những gì bà có. Một đóng góp vô giá, sự đóng góp của tấm lòng, của hy sinh, hy sinh cả những gì mình có để sinh sống. Đức Giêsu có cái nhìn vượt trên của cải dâng cúng, nhìn thấu suốt tâm hồn như lời Ngài, "những người kia bỏ của mình dư thừa, bà này bỏ những gì mình có để nuôi sống mình" (Mc 12,44). Ngài đánh giá không phải số lượng được dâng cúng, mà là tỉ lệ tài sản mỗi người dâng cúng. Không phải tiền dâng cúng, mà là tấm lòng dâng cúng. Chúa thấu suốt tâm hồn bà. Sự hy sinh của bà nói lên việc bà dâng cúng với lòng tin mạnh mẽ, với sự hy sinh lớn lao và với sự tín thác vào Chúa về tương lai đời sống của mình.
Tin Mừng hôm nay mời gọi người kitô hữu nhìn lại tấm lòng mình đối với Chúa, và lối đánh giá của mình về người khác.
Có thể mỗi ngày chúng ta dâng Chúa một vài kinh nguyện, hay một ít thời gian thì đã nghĩ "là quá nhiều", hết cả thời gian làm ăn.
Hay mỗi tuần chúng ta dành cho Chúa một thời gian đi tham dự thánh lễ, làm việc lành thì cho rằng đã quá hy sinh, vì mình nghèo và rất bận rộn.
Nếu chúng ta dâng cho Chúa một cách máy móc, hay tính toán chi ly thời gian thì có thể là chẳng cho Chúa bao nhiêu, hoặc rảnh rỗi mới nhớ đến Ngài thì cũng là cho Chúa "của dừ thừa". Điều Ngài cần là tấm lòng yêu mến, sự hy sinh tự nguyện "Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ".
Nhìn lại lối đánh giá mình về người khác, khi chê bai khinh khi những người cùng khổ, hoặc thấy nhiều người hào phóng "chỉ cần thông báo trên nhà thờ, trên bảng thông tin", đó mới là cho nhiều. Tất cả không hẳn như thế, vì đối với Chúa, bỏ nhiều là bỏ những gì mình có, bỏ với tấm lòng yêu mến hy sinh.
Lạy Chúa trong cuộc sống hằng ngày, mỗi lần chúng con dâng gì cho Chúa, mỗi lần giúp đỡ cho anh chị em mình. Xin cho chúng con biết dâng tặng với lòng hy sinh và yêu mến.
39. Tấm lòng người nghèo – Cố Lm. Hồng Phúc
Phụng vụ hôm nay đề cập đến hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. Họ là những người giữa đường đứt gánh, một mình gánh vác giang sơn nhà chồng. Nhưng trong Giáo hội tiên khởi, họ được cộng đoàn săn sóc, có chỗ đứng (1Tm. 5, 9-16) và là những người nhân đức được trọng vọng.
Trong Cựu ước cũng có nhiều đoạn kêu gọi sự chú ý săn sóc đến người cô nhi góa phụ. Họ là hạng người nghèo khó hơn cả. Nhưng các bài đọc hôm nay nhắc đến họ dưới một phương diện khác: Họ là những người đạo đức, có đức tin, biết hy sinh cả những điều cần thiết và trở nên những người mẫu. Bà góa ở Sarepta (giữa Tyr và Sidon) là một gương sáng đức tin, biết đặt tất cả trông cậy vào Chúa và được Chúa thưởng công.
Bài Phúc Âm nói về đồng tiền của một bà góa dâng cúng. Nhưng cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh khác, là sự chú ý của Chúa đến những sự kiện xảy ra xung quanh. Ngài đang ở trên sân đình đền thờ, ngồi trên cấp thang hình bán nguyệt dẫn vào sân nam giới và đưa mắt nhìn về phía trái, nơi có đặt 13 hòm cúng. Ngài chú ý đến bộ điệu khiêm tốn của một bà góa nghèo khổ, đến cả số tiền hèn mọn của bà dâng cúng: hai đồng tiền (một 1/4 xu). Ngài nhìn thấy nhất là tấm lòng của Bà. Nhưng không chú trọng đến cái vỏ bên ngoài mà đi thẳng vào thâm tâm. Người Pharisêu đọc kinh rào rào cho mọi người chú ý, người Biệt phải bỏ tiền lẻng kẻng vào hòm cúng cho mọi người nghe thấy. Ngài không lưu tâm đến những hạng ấy, nhưng Ngài khen ngợi bà góa khiêm tốn đang lẩn vào giữa đám đông.
Chúa liền gọi các môn đệ và bảo: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ tiền vào hòm cúng nhiều hơn cả!” Chúa không nói về phương diện số tiền dâng cúng, mà thật ra cũng cần phải có một số lượng khá để lo việc phụng tự. Nhưng Chúa chú trọng đến tấm lòng của bà. Trong khi các người khác cho một phần của cải dư thừa thì “Bà cho cả những gì bà cần để nuôi sống.” Tình yêu không tính toán, tình yêu không mức độ. Bà ra đi, vui mừng hớn hở vì đã làm được một việc lành.
Câu chuyện bà góa gợi cho chúng ta vài suy niệm sau đây:
Một là các việc tầm thường có một giá trị phi thường, nếu chúng ta biết làm vì yêu mến Chúa. Đời chúng ta phần lớn gồm những việc nhỏ mọn, chúng ta phải biết thánh hoá, biết làm cách khác thường, làm vì yêu mến. Bà Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux là một gương mẫu. Bà đã tìm ra một con đường nên thánh mà Đức Gioan-Phaolô II gọi là “Con đường dựa trên thực tại Phúc Âm”; “Con đường nên thánh của thời đại” (Piô XI). Con đường thơ ấu ấy gồm trong hai yếu tố căn bản: Nhìn nhận sự yếu đuối của mình và hoàn toàn trông cậy phó thác; làm mọi việc bé nhỏ, chịu đau khổ vì yêu mến Chúa.
Hai là việc bà góa bỏ ít tiền vào đền thờ, chúng ta đi lễ cũng bỏ ít nhiều giúp vào công việc nhà Chúa. Trong Cựu ước, Chúa dạy các chị họ Israel phải để ra thập phân để lo việc phụng tự (Lv. 27, 30-32). Trong Tân ước, Thánh Phaolô nói: Người lo việc Chúa có quyền sống nhờ bàn thờ. Tuy Giáo hội từ đầu đã bãi bỏ tục lệ thập phân, nhưng giáo dân đi dự lễ thường mang theo của lễ vật chất: có Thầy Phó tế để lo việc phân phát chia sẻ. Khi số người quá đông, tục lệ biến thành dâng cúng ít tiền. Giáo hội là một tổ chức hữu hình, cần có nơi thờ phượng, đồ thờ và người trách nhiệm.
Của dâng cho Chúa là “của đầu tư thiêng liêng”. Văn hào Louis Veuillot khi chết, có để lại một bao thơ dầy cộm với mấy giòng chữ ghi: “Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp các người nghèo” – “kho tàng của Giáo hội” (Thánh Laurenrô Phó tế).
40. Từ thiện - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Từ thiện là việc làm công đức. Người có lòng nhân ái thường hay bố thí, làm từ thiện và thi hành bác ái. Sống bác ái là sống yêu thương chia sẻ cả tình, nhân và nghĩa. Đức ái hay đức mến là một nhân đức cao đẹp của con người. Mỗi người được sinh ra đời trong một hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống có người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn và người thành kẻ bại. Đời người mong manh như hạt sương dễ tan. Không có ai sống mãi trên đời. Cuộc sống của chúng ta giống như những lượn sóng nhấp nhô trồi lên rồi hạ xuống. Không ai là một hòn đảo, chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Mọi người cần nương tựa, cần hỗ tương nhau và sống nương nhờ nhau. Lòng từ thiện trở thành mối giây liên kết giữa người với muôn loài.
Câu truyện của tiên tri Êlia chạy trốn vào thành giữa cơn đói kém, ông đã gặp bà góa nghèo đang đi lượm củi và ông gọi bà ấy và nói: "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.”(Cv 10, 10). Người đàn bà rất tử tế và có lòng bao dung: Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (Cv 17, 11). Tuy gia đình bà nghèo túng, bánh bột sắp cạn hết nhưng bà cũng sẵn sàng cung cấp bánh cho người xin ăn. Không phải ai cũng có thể cử xử tốt lành như bà. Nếu chúng ta ở trong trường hợp này, có lẽ chúng ta đã chần chừ và có khi chối quanh. Tự nghĩ rằng gia đình con cái của tôi còn chưa đủ ăn, làm sao có thể giúp cho người khác. Thế là chúng ta đóng kín cửa tâm hồn trước nhu cầu cần thiếu của tha nhân. Bà góa có thái độ rộng lượng và quảng đại, nên lòng từ của bà đã sinh trổ hoa trái: Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Hồi sinh đứa con của bà goá (Cv 17, 16).
Chúng ta có cơ hội suy nghĩ về việc bác ái và lòng từ của mình. Ai trong chúng ta cũng lãnh nhận rất nhiều ơn. Ơn cha nghĩa mẹ qua công sinh thành dưỡng dục, ơn thầy cô đã truyền thụ kiến thức văn hóa và nghề nghiệp. Ơn sống trong quốc gia có an bình trật tự và xã hội tiện nghi. Ơn làm con Chúa được sống trong một Hội Thánh Công Giáo. Các ơn huệ liên đới trùng trùng điệp điệp trong một kiếp người. Chúng ta đã chịu ơn của biết bao nhiêu người qua bao nhiêu thế hệ. Chúng ta đã nhận lãnh nhiều, nên cũng cần phải chia sẻ. Vì cho thì quí hơn nhận. Ai trong chúng ta cũng có cơ hội để cống hiến cho đời những hoa trái của khả năng, thời giờ và của cải. Biết rằng bất cứ ai gieo hạt, trồng cây thì cũng mong cây sinh hoa kết trái. Cha mẹ sinh con vào đời cũng mong con cái thành đạt và sinh ích cho gia đình, xã hội.
Trong bài phúc âm, kể câu truyện Chúa Giêsu đến giảng dạy trong hội đường. Chúa quan sát những hành vi cử chỉ của những thầy Luật sĩ, Biệt phái, Tư tế và mọi người đến cầu kinh. Chúa đã rút ra những bài học thực tiễn để áp dụng cuộc sống đạo. Con người chúng ta thường đánh giá con người và sự việc theo hình thức dáng vẻ bề ngoài, hơn là quan tâm đến nội tâm. Chúa Giêsu dẫn mọi người đi vào tâm ý của mình và vạch ra cách thế tế nhị, Ngài nói rằng: Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma (Mc 12, 42). Hai đồng tiền kẽm chẳng có là bao so với khối tiền trong thùng dâng cúng. Số lượng qúa nhỏ để nêu danh và ghi công. Chúa Giêsu đã nhìn tận đáy tâm hồn chân chính của người đàn bà góa và Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết (Mc 12, 43).
Với chút ít tiền cúng nhưng đó là số tiền bà đang cần. Bà đã bỏ vào thùng tất cả những gì bà có. Bà không lo lắng cho ngày mai sẽ ăn gì, uống gì và mặc gì. Có nghĩa là bà đã phó thác hoàn toàn trong bàn tay Chúa quan phòng. Bà đã buông xả tất cả cái đang có, bán nghèo mua giầu. Chúa Giêsu đã khen bà: Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.(Mc 12, 44). Không sai, Chúa Giêsu nhắm trúng vào tim đen của mọi người. Nghe thế, có lẽ ai trong chúng ta cũng giật mình. Có rất nhiều lần chúng ta đã làm từ thiện, bác ái và bố thí. Nhiều việc từ thiện của chúng ta đã được ghi công bảng vàng. Chúng ta làm việc bác ái nhưng lại đòi hỏi nhiều điều kiện. Nói thật, so với những gì chúng ta đang sở hữu, tất cả việc từ thiện và bố thí của chúng ta mới chỉ là một góc nhỏ. Biết rằng đồng tiền nào cũng do công lao mồ hôi nước mắt kiếm tìm nên rất quí. Đôi khi tính toán rằng chúng ta có nhiều tiền nhưng chưa đủ, làm sao có dư. Đợi khi nào chúng ta có dư đủ, sẽ giúp người.
Phước báo cuộc đời hệ tại ở việc biết dâng hiến và chia sẻ. Càng cho đi nhiều, chúng ta càng nhận thêm nhiều. Cái tâm từ bi được cởi mở và phát khởi sự tốt lành nơi chính nội tâm. Chúng ta đừng quá quan tâm vào món quà bố thí sẽ đi về đâu. Thường thì ai cũng muốn đồng tiền cho đi được xử dụng đúng chỗ, đến đúng người và dùng đúng mục đích. Đôi khi chúng ta sẽ không hài lòng và không vui khi qùa biếu bị lạc hướng. Số qùa tặng có đến tận tay của người nghèo hay không, còn tùy thuộc qua nhiều trung gian. Cho đi nhiều hay ít thì không quan trọng bằng tâm thiện mở rộng. Điều quan trọng là tâm ý của chúng ta được an lạc vì đã làm một việc thiện. Một việc từ thiện dù nhỏ, chớ khinh. Việc thiện dù nhỏ, không nên bỏ. Làm từ thiện, bác ái và bố thí là chúng ta đang bỏ vào kho tiết kiệm phúc báo của chính mình.
Tác giả của thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét (Dt 9, 27). Mỗi người chỉ có một đời để sống. Sống dài hay sống ngắn không quan trọng cho bằng sống có ý nghĩa. Sống ý nghĩa nhất là sự hiến thân và cho đi. Cho đi như Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hiến dâng thân mình làm hy tế trọn vẹn để tẩy xóa tội lỗi nhân loại. Ngài đã dâng hiến tất cả đến giọt máu cuối cùng. Không phải máu chiên bò hay của cải thế thân, mà chính là sự sống con người toàn vẹn: Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người (Dt 9, 28). Chúa đã thể hiện một tình yêu cao vời tuyệt đỉnh và vô điều kiện là cho tất cả.
Chúng ta được mời gọi thực thi bác ái trong việc hành đạo. Dù là một việc nhỏ giúp người, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Vào ngày phán xét sau cùng, Chúa Giêsu đáp nghĩa: Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25, 35-36). Chúa kể rằng tất cả những gì chúng ta đã làm cho những người nghèo, kẻ bé mọn và người khổ đau là chúng ta đang làm cho chính Chúa. Vậy mà đôi khi chúng ta quá lo lắng cho bản thân và gia đình riêng tư mà quên đi nghĩa vụ phải có đối với tha nhân, giáo hội và xã hội. Chúng ta sợ mất thời giờ phục vụ công ích. Chúng ta ngại ngùng tham gia phục vụ trong các đoàn thể của cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta không dám xả thân giúp đỡ vì sợ phải hy sinh, liên lụy, tốn kém, mất mát và thua lỗ. Nhiều khi chúng ta chỉ muốn thu gom cho cuộc sống mình vì sự ích kỷ hẹp hòi. Chúng ta chỉ thích làm tính cộng mà không muốn làm tính trừ.
Lạy Chúa, tất cả chúng con đang được ngụp lặn trong ân tình của Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con biết rộng lòng chia sẻ cuộc đời với anh chị em chung quanh. Bất cứ điều gì chúng con đã lãnh nhận một cách nhưng không, xin cho chúng con cũng biết cho đi cách nhưng không.
41. Ý nghĩa dâng hiến - Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta giới luật trọng nhất là luật mến Chúa yêu người. Vì Chúa là Đức Chúa duy nhất, là Đấng tốt lành và đáng yêu mến vô cùng, là Đấng tạo thành, cứu chuộc và thánh hóa chúng ta, nên chúng ta phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực; và vì Chúa, chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Như một thi sĩ đã định nghĩa: “Tình yêu là một đóa hoa, sắc là dâng hiến hương là hy sinh”. Tình yêu nào cũng đòi hỏi hy sinh và dâng hiến. Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa cũng vậy.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào Đền Thờ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy bà góa dâng cúng hai đồng tiền nhỏ, có lẽ là số tiền nhỏ nhất trong số những người dâng cúng, như mẫu gương của một người thực sự yêu mến Thiên Chúa qua việc dâng hiến trọn hảo nhất. Chúa nói: “Thầy bảo thật các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình đang có để nuôi sống mình” (Mc 12:)
Ở đây, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một bài học thật quý giá về tình yêu. Đó là bài học về ý nghĩa của việc dâng hiến, một đòi hỏi tất yếu trong tình yêu như người Mỹ thường nói: “Bạn có thể cho mà không thương, nhưng bạn không thể thương mà không cho”.
Điều trước hết, chúng ta phải dâng cúng hay làm việc bác ái từ những gì của chính mình có được cách chính đáng, không phải của người khác. Thật vậy, bà goá nghèo trong Tin Mừng hôm nay dâng cúng tuy chỉ có hai đồng tiền nhỏ. Số tiền tuy rất nhỏ bé, nhưng là của chính bà, không phải bà lấy của người khác mà cho. Nhiều người thích làm việc từ thiện, thích kêu gọi người nọ người kia đóng góp cho các công việc từ thiện, kể cả lập hội từ thiện nữa, nhưng lại vẫn sống trưởng giả và không bỏ của mình ra mà vẫn được tiếng là người bác ái. Đúng là “của người phúc ta”! Tệ hơn, có người dâng cúng làm việc bác ái bằng những của cải kiếm được cách bất chính như bóc lột người làm công, gian lận trong công việc làm ăn, buôn bán ma tuý. Tốt hơn, họ phải lo thay đổi lối sống của họ và đền bù lại sự bất công của họ trước! Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận dí dỏm căn dặn chúng ta: “Hy sinh chính con, đừng hy sinh kẻ khác” (Đường Hy Vọng # 158).
Điều kế đến, việc dâng hiến của chúng ta phải phát xuất từ lòng mến thực sự đối với Chúa và tha nhân, bất chấp dư luận người đời. Bà goá nghèo trong Tin Mừng hôm nay đơn sơ dâng hiến hai đồng tiền nhỏ mà không sợ người ta chê cười vì số tiền nhỏ bé của bà. Bà làm với lòng tin yêu chân thành của mình, vì bà biết rằng Thiên Chúa thấu suốt mọi sự và thấu hiểu lòng bà. Thật vậy, Thiên Chúa không nhìn lễ vật hay công việc bề ngoài mà nhìn đến ý hướng bên trong. Thiên Chúa chỉ muốn tấm lòng chứa đầy tình yêu: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần của lễ” (Mt 9:13). Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô tuyên bố: “Giả như tôi có đem hết gia tài sản nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cor 13:3). Và tác giả sách Gương Chúa Giêsu xác quyết: “Không có bác ái, công việc bên ngoài là việc chết.
Nhưng một công việc dầu nhỏ bé, dầu tầm thường mấy mà làm vì một nguyên do bác ái, lại lợi hết chỗ nói. Vì Chúa không xét việc ta làm bằng xét lý do xui ta làm. Bác ái nhiều là làm nhiều rồi đấy” (Q. I, Ch. 15). Và tình yêu đích thực thì không giới hạn, nên sự quảng đại phải là đặc nét của việc dâng hiến.
Cuối cùng, việc dâng hiến của chúng ta, vì là việc của yêu thương, phải có dấu ấn thập giá, có dấu ấn của việc tự hiến, nghĩa là của lễ chúng ta dâng phải chứa đựng chính mình qua chiều kích hy sinh, mất mát, hay từ bỏ nơi chính mình. Tác giả sách Gương Chúa Giêsu thác lời Chúa Giêsu về việc hiến dâng như sau: “Cha có đòi con cái gì khác, ngoài việc con phải tự hiến cho Cha đâu? Dầu con dâng gì, nếu cái đó không phải là chính thân con, Cha cũng không kể. Vì Cha không đòi gì khác một đòi bản thân con kia!” (Q. III, Ch # 8). Đây chính là định nghĩa tình yêu của Mẹ Têrêsa Calcutta: “Yêu thương là trao ban cho đến đau đớn.” Hai đồng tiền nhỏ của bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu đánh giá là to lớn nhất vì nó là tất cả những gì bà có để nuôi sống chính bà!
Vì vậy, người ta thường nói người giàu trao tặng những gì họ có, còn người nghèo trao tặng những gì họ là. Việc dâng cúng tiền của có giá trị không những vì góp phần trợ giúp Hội Thánh hay người túng nghèo, mà nó còn bao gồm sự hy sinh nơi chính người dâng cúng, vì “đồng tiền liền khúc ruột”. Chính trong chiều kích thập giá này, việc dâng hiến của chúng ta dâng lên Thiên Chúa không chỉ giới hạn ở việc dâng cúng tiền của, nhưng còn bao gồm cả việc dùng thời giờ để thờ lạy Chúa hay phục vụ tha nhân, việc hy sinh hãm mình, việc vui lòng đón nhận và thánh hóa mọi đau khổ, trái ý, bệnh tật trong cuộc sống hàng ngày.
Việc dâng hiến của bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu ghi nhận và khen ngợi vì nó có nét quảng đại được thể hiện nơi chính Thiên Chúa và nơi chính Chúa Giêsu. Thực vậy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Thánh Phaolô nhận định: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cor 8:9). Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận diễn tả việc thực hành đức quảng đại qua một câu ngắn gọn: “Chúa đòi gì con cũng dâng, Chúa cho ban gì con cũng nhận”.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu mến Chúa như Mẹ đã yêu mến Chúa, biết quảng đại như Mẹ đã quảng đại khi dâng hiến Chúa Giêsu trong Đền Thờ cho Đức Chúa Cha và trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Amen.
42. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
“Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… Có một bà góa nghèo, đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.” (Mc. 12,38-44)
Con người khác với các loài vật nhờ có lý trí và ý chí. Trong hoàn cảnh đói khát chỉ có con người mới có thể làm chủ được bản năng sinh tồn của mình để hy sinh phần lương thực cho người khác. Jack Kelly, biên tập viên hải ngoại của báo USA Today, đã tường thuật câu chuyện thật đầy xúc động xảy ra trong cuộc chiến tranh ở miền Đông Phi Châu như sau:
“Chúng tôi đang ở Mogadishu, thủ đô nước Somalia, trong suốt thời gian nạn đói. Hôm đó thật không may khi chúng tôi bước vào một ngôi làng mà mọi người đã chết sạch cả. Chúng tôi đã phát hiện ra thằng nhỏ này còn sống. Bạn có thể hình dung ra hình dáng gầy ốm tong teo của nó vì suy dinh dưỡng và cái bụng ỏng đầy giun sán. Khi một đưa nhỏ bị suy dinh dưỡng đến cực điểm thì tóc của nó trở nên dỏ hoe, và da giẻ trở nên nhăn nheo giống như một ông già 100 tuổi. Người nhiếp ảnh của chúng tôi có mang theo một trái bưởi bèn đưa cho em. Tội nghiệp thằng bé, nó quá yếu ớt tới độ không còn đủ sức lực để nắm giữ lấy quả bưởi nữa. Do đó chúng tôi phải cắt ra làm hai cho nó. Thằng bé đưa hai tay đón nhận, nhìn lại chúng tôi như thể muốn nói lời cám ơn, rồi bắt đầu bước đi trở lại ngôi làng của nó.
Chúng tôi bước đằng sau thằng bé để nó không thể nhìn thấy chúng tôi. Khi nó về đến làng, có một thằng bé nhỏ hơn nó đang nằm dưới đất mà chúng tôi nghĩ nó đã chết rồi. Đoi mắt của nó đã hoàn toàn trở nên đờ đẫn và mất sinh khí. Hóa ra đó là em nó.Về đến nơi, thằng anh quỳ xuống bên cạnh đứa em, móc từng miếng bưởi đưa lên miệng nhai tóp tép, rồi lấy tay mở miệng em nó ra, đặt miếng bưởi vào, dùng tay đẩy nhẹ cái cằm của em nó nhai lên nhai xuống. Về sau, chúng tôi biết được thằng anh đã làm như thế cho em nó khoảng hai tuần. Vài ngày sau đó, thằng anh đã chết vì quá suy dinh dưỡng, nhưng đứa em lại sống sót. Trên đường lái xe trở về nhà đêm hôm đó, tôi tự nghĩ, đây chính là điều mà chúa Giêsu muốn ám chỉ khi Ngài nói rằng không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu.”
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nói đến sự hy sinh cao cả vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tình thần chia sẻ rộng rãi của hai bà quả phụ:
Bà quả phụ trong bài đọc thứ nhất, trích từ sách các vua quyển thứ nhất 17:10-16, đã nhận được một phép lạ từ tiên tri Êlia ban nhân danh Thiên Chúa, vì đã can đảm chia sẻ cho tiên tri chiếc bánh cuối cùng, nguồn sống còn lai sau cùng của bà và con trai. Với lòng bác ái thương người, bà đã làm theo như lời tiên tri Êlia dạy bảo, và đấu bột cuối cùng đã không vơi cạn đi cho đến vụ mùa tới.
Bà góa nghèo trong phúc âm, Mc 12:38-44, đã sẵn sàng cho đi tất cả những gì bà có để dâng cúng vào đền thờ. Mặc dù đó chỉ là hai đồng tiền kẽm, nhưng lại là toàn bộ gia sản của bà. Bà không dâng cúng của dự thừa cho đền thờ, mà là tất cả gia sản bà có. Một sự hy sinh lớn lao như lời Chúa Giêsu đã nhận xét: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12:44).
Cuộc nghiên cứu do Patrick Carney thực hiện trong Tổng Giáo Phận New York cho thấy tỉ lệ dâng cúng, đóng góp cao nhất trong toàn địa phận là do những người Mỹ da đen sinh sống trong vùng Central Harlem của thành phố New York. Hầu hết những người da trắng (được gọi là Caucasians) đã có lợi tức cao hơn đa số những người da đen. Những người Mỹ da đen gốc Phi Châu này đã có những điểm chung gần giống với người đàn bà góa trong bài Phúc Âm hôm nay.
Thống kê gần đây cho thấy những người Công Giáo Mỹ đã dâng cúng 1.3% lợi tức hằng năm của họ cho nhà thờ và những cơ quan từ thiện. Trong khi đó những người Tin Lành, rộng lượng hơn, đã đóng góp 2.4% lợi tức và người Do Thái đã đóng góp cao nhất cho cộng đồng của họ với tỉ số 3.8%.
Từ sự đóng góp hai đồng tiền kẽm của bà góa nghèo, William Barclay đã rút ra những bài học tinh thần về sự hy sinh qua của dâng cúng vào đền thờ như sau:
1. “Của dâng cúng, hay sự hiến dâng thực sự phải là của lễ hy sinh. Đối với người cho, giá trị tiền bạc của món quà không thành vấn đề. Điều đáng kể không phải là món quà to hay nhỏ, nhưng là sự hy sinh. Một câu hỏi đặt ra cho nhiều người là sự hiến dâng của chúng ta cho công việc của Thiên Chúa có bao gồm một chút hy sinh nào không. Rất ít người dám hy sinh thêm cho công việc của Thiên Chúa nếu họ không có sự khoái cảm. Đây có thể là dấu hiệu suy thoái của giáo hội và là một thất bại của Kitô giáo khi những của dâng cúng của giáo dân phải được khắc ghi trên bảng vàng, bảng khen. Thói thường họ sẽ không cho hay dâng cúng trừ phi họ lấy lại được một cái gì đó, giải trí hay hiện vật. Có thể có một số người đọc câu chuyện này mà không biết xấu hổ.”
2. “Của dâng cúng, cho đi thực sự phải là một điều không quản ngại, e dè, đắn đo. Bà góa có thể giữ lại một xu. Nó không đáng là bao nhưng nó cũng là một cái gì đó. Tuy nhiên, bà đã cho tất cả những gì bà có. Điều này mang một ý nghĩa thật sâu xa. Điều đáng buồn là chúng ta thường giữ lại một phần nào đó của cuộc sống, một phần hoạt động nào đó, một phần nào đó thuộc con người riêng tư của mình mà không dâng hiến ban tặng cho Chúa Kitô. Không nhiều thì ít, chúng ta còn muốn giữ lại một cái gì. Họa hiếm lắm chúng ta mới dám hy sinh đến cùng và cho đi hoàn toàn.”
3. “Điều lạ lùng và đáng yêu là con người mà Tân Ước và Chúa Giêsu đưa ra như là một mẫu mực của lòng quảng đlai lại là một con người khiêm tốn, đã dâng cúng một món quà chẳng là gì. Có lẽ chúng ta cũng cảm thấy rằng chúng ta chẳng có gì nhiều về vật chất hay sự đóng góp cá nhân để dâng hiến, ban tặng cho Chúa Kitô, nhưng nếu chúng ta đặt tất cả những gì chúng ta có và trao toàn quyền cho Ngài. Ngài có thể làm nên những sự việc vượt ra ngoài trí tưởng tượng của chúng ta.”
Không phải số lượng cho đi nhiều hay ít sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, nhưng là cách chúng ta cho Ngài (2Cr 8:9-12). Cách tốt nhất để cho, là cho từ trái tim. Sự quảng đại thực sự của đôi bàn tay biết cho di phát xuất từ tấm lòng khiêm nhường và phục vụ chân tình. Thiếu sự chân thành của trái tim làm cho đôi tay mở rộng dễ trở nên khoe khoang như Chúa Giêsu đã nhận xét: “Có lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền.” (12:41).
Bằng những hành động cụ thể, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta một gương mẫu để theo Ngài. Ngài đã hy sinh chính bản thân như một sự hiến dâng, một lần cho tất cả, bằng việc cho đi chính thịt và máu Ngài để cứu toàn thể nhân loại. Vì tình yêu thương vô bờ bến mà Ngài đã cho đi tất cả. Đó là sứ điệp Thánh Phaolô gửi cho chúng ta trong bài đọc thứ hai: “Đức Kitô chỉ tế lễ chính mình một lần để hủy diệt nhiều tội lỗi.” (Dt 9:24-28).
Theo gương Chúa Giêsu, trong vai trò mục tử của mình, ĐGH Gioan Phao lô II đã kêu gọi chúng ta: “Chưa bao giờ trái đất có nhiều sản phẩm như ngày nay, nhưng cũng chưa bao giờ có nhiều người đói khổ như bây giờ. Kết quả của sự phát triển vẫn tiếp tục được phân phát không công bằng. Thêm vào đó sự cách biệt càng ngày càng tăng giữa Bắc và Nam. Tôi muốn xin các người thiện tâm lưu ý đến vấn đề này: “Nỗi khốn cùng là một đe dọa, còn tiềm tang nhưng có thực, cho hòa bình”…
Jean Jacques Rousseau cũng đã khuyên chúng ta: “Khi một người chết đi, trong những bàn tay nắm lại, sẽ mang theo những cái mà người ấy đã cho đi.” Vì cảm giác không an toàn, con người thường muốn giữ lại cho mình của cải vật chất hơn là muốn chia sẻ phân phát cho người khác.
Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta trước khi tự mình mở đôi bàn tay ra để chia sẻ với tha nhân thay vì cứ muốn nắm chặt lại cho mình. Xin Chúa thánh hóa của lễ chúng ta dâng lên Chúa và sự chia sẻ của chúng ta đôi với các anh chị em trở nên của lễ hy sinh đẹp lòng Ngài.
43. Tấm lòng quảng đại
Câu chuyện về hai bà goá được nhắc đến trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu thế nào về lòng quảng đại của con người. Quảng đại là dám cho đi: cho đi những gì mình đang rất cần đến; cho đi những gì mình đang quý đang yêu...
Chúa Giêsu đã từng dạy các tông đồ: "cho thì có phúc hơn là nhận". Nói đến việc cho đi thì ta phải nghĩ đến "của cho" và "cách cho". "Của cho" xét cho cùng không quan trọng bằng "cách cho". Cho thế nào để nói lên tấm lòng chân thành của mình và nhất là làm cho người nhận cảm thấy vui lòng. Đặc biệt đối với Chúa, tấm lòng chân thành dâng hiến luôn được Chúa coi trọng: "Ta muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ".
Gần đây báo chí có đăng tin có một anh chàng Việt Kiều đại gia nào đó thích "chơi nổi". Anh ta đừng trên lầu 1 của một khách sạn sang trọng, cầm trong tay một xấp tiền đủ loại mệnh giá, ngoắc tay gọi những người ăn xin, bán vé số lại, rồi tung xấp tiền ấy lên không cho tiền bay tung toé để những người dân nghèo chen chút nhau lụm tiền giữa tiếng kêu la và chen lấn nhau. Và anh ta cảm thấy vui với cách cho tiền của mình như thế. Nhưng những người có lương tri thì cảm thấy ái ngại và xót xa trước việc làm ngông nghênh của kẻ giàu có này, và nhất là Chúa sẽ buồn lắm khi thấy con người hành động theo kiểu "bất nhân" như thế. Cho như thế chắc không đẹp lòng Chúa chút nào!
Cách cho là quan trọng. Tấm lòng là quan trọng. "Ai vui vẻ dâng hiến sẽ được Chúa nhận lời". Bà goá ở Xarepta được nhắc đến trong bài đọc 1 hôm nay có vẻ miễn cưỡng, ngập ngừng và lúng túng trước khi cho, vì hoàn cảnh khốn khổ làm cho bà khó giải quyết vấn đề. Nhưng rồi cuối cùng bà cũng dám cho đi cái bà đang rất cần với tấm lòng tin tưởng phó thác và đầy tôn trọng đối với người xin bà. Còn bà goá nghèo được Tin mừng nhắc đến hôm nay có một thái độ rất anh hùng. Chúa Giêsu đã đề cao bà, coi bà như một kiểu mẫu của việc cho đi cách chân thành và không tính toán. Chúa Giêsu muốn các tông đồ nhìn vào đó đẻ học hỏi. Bà goá nghèo ấy đã dám bỏ vào thùng tiền dâng cúng "tất cả những gì bà có để nuôi sống bà", dù số tiền ấy chẳng đáng vào đâu (1/4 xu). Đó là thái độ chân thành và rất anh hùng của người có tấm lòng quảng đại. Chúa Giêsu đã nhìn thấy tấm lòng của bà đối với công việc nhà Chúa mà bà thấy mình phải có trách nhiệm đóng góp vào đó. Cách cho đi của hai bà goá được Kinh thánh nhắc đến hôm nay thật đẹp, thật cao quí.; rất đáng đề cao và rất đáng cho chúng ta học hỏi.
Cho đi cách thật lòng chính là cách khôn ngoan nhất và chắc chắn nhất để ta giữ lại những gì mình có ở trần gian này. Thánh Phanxicô Assisi nói rằng: "chính lúc cho đi là khi được nhận lấy; chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân". Đây không phải là chuyện nghịch lý nhưng là chuyện siêu lý của những người hiểu biết và khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
Có chuyện kể rằng: có một ông nhà giàu nọ căn dặn người nhà của ông bỏ vào quan tài thật nhiều vàng bạc để khi ông chết đi, ông sẽ có cái mà tiêu xài. Rồi ngày chết của ông cũng đến. Người ta làm đúng theo những gì ông căn dặn. Sang thế giới bên kia, ông nhìn thấy cái gì đựơc bày bán cũng hấp dẫn, nhất là các món ăn. Ông nghĩ rằng phen này tha hồ mà mua sắm và ăn uống thoả thích. Nhưng lạ thay, những người bán ở đây trả lời với ông rằng: tiền của ông ở đây không sử dụng được vì ở đây chỉ sử dụng đồng tiền cho đi chứ không xài tiền thu vào!
Chúng ta đang có đồng tiền loại nào? Chúng ta có dự định sẽ làm gì để có đồng tiền cho đi. Có một nhà tu đức đã nhắc nhở chúng ta rằng:
Những gì chúng ta tiêu xài sẽ tiêu tán mất,
Những gì chúng ta mua sắm thì người khác sẽ dùng,
Những gì chúng ta tích luỹ rồi sẽ phải để lại cho người khác,
Chỉ có những gì chúng ta cho đi là tồn tại mãi.
Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn và tấm lòng của mỗi người chúng ta. Chúa đang xem cách thức chúng ta hành động trong việc cho đi: chúng ta có cho đi những thứ mình đang cần không? Chúng ta có dám cho đi những thứ mình đang yêu thích để chia sẻ cho anh chị em của mình chưa? Hay chúng ta chỉ cho đi những cái dư thừa, những cái bỏ đi vì không ai xài tới...? chúng ta có thấy trách nhiệm của mình phải đóng góp vào việc chung vủa Giáo hội không hay chúng ta chỉ là những người đứng ngoài lề, chỉ chờ Giáo hội ban phát cho mình thôi! Chúng ta hãy nhìn lại và tự kiểm điểm của cho, cách cho và trách nhiệm của mình trong thời gian qua như thế nào?!
Ước gì chúng ta hiểu được rằng: cho đi là một hạnh phúc, biết cho đi sẽ làm cho hạnh phúc của mình được nhân lên và tồn tại mãi. Hơn nữa, món quà cho đi sẽ trở nên vĩ đại ở nơi một người có trái tim quảng đại. Hãy học nơi Chúa tấm lòng quảng đại để chúng ta biết cách cho đi đẹp lòng Thiên Chúa. Xin Chúa giúp cho chúng ta hiểu rõ giá trị của những việc làm hy sinh và cho đi với con tim rộng mở và tấm lòng quảng đại theo gương Chúa. Hãy quảng đại đối với Chúa và mọi người để được hưởng tấm lòng quảng đại của Chúa dành cho chúng ta. Amen.
44. Suy niệm của Lm. Ignatiô M. Hải Dương, CRM
“Bà goá nghèo dâng tất cả những gì bà có” (Mc 12:38-44)
Phụng vụ Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta hai mẫu gương của hai người đàn bà góa, những người mà trong Thánh Kinh kể là những người nghèo nhất trong những người nghèo. Họ được xếp vào những thành phần yếu ớt, không có tiếng nói trong xã hội bên cạnh những trẻ em bé bỏng.
Bà góa trong bài đọc thứ nhất từ sách Các Vua không phải là người Do Thái. Bà có một người con trai. Hai mẹ con sống trong thời kỳ hạn hán, cầm hơi với chút bột và dầu ô liu trong nhà để rồi sau đó hai mẹ con sẽ chết đói. Nhưng với lòng quảng đại , bà đã làm một chiếc bánh cho vị tiên tri của Thiên Chúa, rồi mới làm bánh cho bà và con bà. Và vì sự rộng lượng đó, hũ bột đã không với đi và bình dầu không cạn cho tới ngày Chúa cho mưa xuống. Và như vậy, khi chia sẻ phần lương thực cuối cùng của bà cho tiên tri Êlia, bà không mất gì mà còn được cho thêm rất nhiều. Bà là mẫu người đại diện cho những người nghèo khó, nhưng đã biết đặt trót niềm tin vào Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm Thánh Marcô chúng ta đọc trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Kitô đã khen ngợi một bà góa dâng cúng vào đền thờ một số tiền rất nhỏ. Ngài khen bà, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ tất cả những gì bà có. Chúa Kitô đã không nhìn tới số lượng, nhưng nhìn tới tấm lòng. Sự rộng lượng của bà góa dẫn đưa bà tới sự tin tưởng vào Chúa. Và trong con mắt người khác, số tiền bà dâng cúng vào đền thờ thật nhỏ nhoi, nhưng trong con mắt của Chúa Kitô nó lại là lớn nhất, vì “Những người khác dâng những gì là dư thừa, còn bà dâng hết những gì bà có”.
Câu truyện Phúc âm đã làm nổi bật việc Chúa Kitô tố giác những thái độ kiêu căng, phô trương của các kinh sư trong cộng đoàn Do Thái thời bất giờ, đã tạo nên một hình ảnh đẹp qua gương lành của một bà goá. Lòng quảng đlai và nhiệt thành của bà đã là một sự tương phản gay gắt với sự giả hình, nếu không muốn nói là giả dối của các kinh sư. Bà goá nghèo trong Tin Mừng này đã không nghĩ tới sự an toàn nhỏ nhoi nào, nhưng phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Thực vậy, lòng quảng đại của bà goá xuất phát từ sự tín thác trọn vẹn cuộc sống củya mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Tiên và hãy tìm Nước Thiên Chúa trước, rồi mọi các ngài sẽ ban cho sau.” Đây chính là câu chuyện vừa nói lên sự tín thác vào Thiên Chúa, vừa là câu chuyện nói lên về lòng quảng đại của con người.
Chúng ta tự hỏi tại sao bà goá nghèo trong Phúc Âm lại có được một sự tốt lành bộc phát như vậy? Câu trả lời là do lòng yêu mến. Để được như bà, chúng ta cũng phải trung thành thực thi lòng rộng lượng nhiều lần trong đời, không phải ơ nơi những việclớn, nhưng là những việc nhỏ mọn với một tình yêu lớn lao.
Mẹ Têrêxa Calcuta đã từng nói: “Thiên Chúa không nhìn xem những công việc lớn lao, nhưng nhìn xem tình yêu trong những công việc chúng ta làm”.
Khi còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcuta đã kể một câu chuyện: Ngày kia mẹ xuống phố, gặp một người hành khất đã cao niên nói với Mẹ: “Thưa mẹ, mọi người gặp Mẹ đều giúp Mẹ tiền bạc.Tôi cũng muốn, nhưng tôi nghèo quá, cả ngày nay xin được có 30 xu. Tôi xin biếu mẹ số tiền nhỏ nhoi này”. Mẹ nói: “Nếu tôi lấy 30 xu này thì tối nay ông sẽ phải nhịn ăn. Nếu tôi không lấy, ông sẽ bị tổn thương, mặt cảm. Thế là tôi đưa tay ra, nhận số tiền 30 xua đó. Liền đó, tôi nhận ra sự rạng ngời trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông hành khất này, vì ông đã cho đi dược cái gì ông có”.Và Mẹ kết luận: “Một người ngồi ăn xin cả ngày được 30 xu. Một món tiền quá nhỏ, ông và tôi chả mua được cái gì! Nhưng nó đã được cho đi, và đã trở nên gấp ngàn lần, vì nó được cho đi trong sự quảng đại và yêu thương. Thiên Chúa nhìn việc dâng hiến của mội người không phải vì sự to tát của việc làm, mà vào tình yêu thương mà qua đó công việc được hoàn thành”.
Hãy nhớ rằng dâng cúng “Hai đồng tiên nhỏ” sẽ làm vui lòng Thiên Chúa, nếu việc dâng cúng đó được làm vì tình yêu và sự quảng đại.
45. Chân thành giữ đạo
Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh được rao truyền, được giảng giải trong các bài giáo lý và trong mỗi Thánh lễ. Thế nhưng có người đọc rồi bỏ qua, có người nghe nhưng không thi hành bởi vì lòng trí đang lệ thuộc vào thế gian, đang đặt danh, lợi, thú làm trung tâm của đời sống, không dành chỗ cho lời Chúa tác động trong tâm hồn mình. Đó là một trong những lý do chính khiến nhiều người chưa theo đạo hoặc theo đạo lấy có, giữ đạo hình thức, giả hình như một số luật sĩ Chúa Giêsu trách cứ hôm nay.
Trong cuộc sống này, tiền bạc, quyền lợi tự nó không tốt cũng không xấu nhưng vấn đề là ở con người. Con người đặt mục tiêu cuộc đời mình ở nơi Chúa hay ở những thứ đó.
Nhiều luật sĩ biệt phái muốn được quyền lợi, được kính trọng nên sinh ra giả hình. Họ đọc kinh dài không vì lòng yêu mến Chúa mà vì lợi lộc trần gian, để "nuốt hết tài sản của các bà góa". Họ là những người học Kinh Thánh và có điều kiện hiểu Lời Chúa hơn những người khác nhưng họ lại sống không đúng lời Chúa dạy. Họ không nhớ rằng: Chúa cần tấm lòng chứ không phải những bản kinh dài mà tâm hồn rỗng tuếch, Chúa lòng chân thành thờ phượng chứ không phải ở kiến thức suông mà thôi.
Đối lại bọn họ, một bà góa nghèo, kiến thức không bao nhiêu nhưng có tấm lòng yêu kính Chúa. Tuy số tiền bà bỏ vào thùng chưa tới 1 xu! Nhưng là người bỏ nhiều nhất, rộng rãi và chân thành nhất: Bà bỏ vào thùng tất cả những gì mình có, bà đã hy sinh cả phần mình đang cần sử dụng để đóng góp cho nhà Chúa. Trong khi đa số những người kia, tuy số tiền nhiều gấp mấy lần nhưng là bỏ phần dư của mình.
Đây là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Chúa chấm công chúng ta không phải ở số lượng và hình thức bên ngoài nhưng ở lòng chân thành của chúng ta khi thi hành những việc đạo đức. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ nhất là lễ Chúa Nhật, chúng ta có đến vì lòng mến Chúa hay vì luật buộc. Nếu chúng ta miễn cưỡng đến vì luật buộc thì chúng ta chẳng khác gì các luật sĩ mà Chúa Giêsu trách cứ hôm nay. Vì Chúa muốn chúng ta giữ đạo vì lòng yêu mến chứ không vì miễn cưỡng. Và để giúp chúng ta giữ đạo vì lòng yêu mến, Ngài đã nêu gương cho chúng ta trước. Sống đạo hết mình, yêu mến Chúa Cha hết linh hồn hết sức lực cho đến hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Đó là lời dạy có giá trị nhất chúng ta cũng hãy noi gương Ngài, bước theo chân Ngài trên con đường về Nước Trời. Chắc chắn, ai giữ đạo thật tình thì Chúa Cha sẽ đón nhận vào Nước Ngài hiển trị.
46. Ba loại người cho -- Lm. Mark Link, SJ.
Một đêm kia, trận bão tuyết đã làm cho đôi vợ chồng mới cưới bị kẹt ở một con đường quê hẻo lánh. Vì không thể đi thêm được nữa, họ xuống xe và đi bộ về hướng ngôi nhà có ánh đèn leo lét.
Khi đến nơi, đôi vợ chồng già, tay cầm chiếc đèn dầu ra mở cửa. Sau khi giải thích tình cảnh khó khăn, anh chồng hỏi: "Xin hai cụ giúp chúng cháu qua đêm nay được không? Chỉ cần một chỗ trên sàn nhà hoặc một vài cái ghế cũng đủ."
Ngay lúc ấy, một vài hạt gạo từ mái tóc bồng bềnh của người vợ trẻ rơi xuống đất. Hai vợ chồng già liếc mắt trông thấy và họ nhìn nhau có vẻ thông cảm cho đôi tân hôn đang trên đường đi tuần trăng mật ngay sau đám cưới.
Bà lão lên tiếng, "Không sao. Chúng tôi cũng vừa mới có một phòng trống. Hai cháu ra xe lấy đồ đem vào đây. Để vợ chồng chúng tôi sửa soạn đôi chút."
Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị lên đường để khỏi làm phiền hai chủ nhà, họ lặng lẽ mặc quần áo và đặt tờ giấy mười đô la lên bàn rồi nhón chân đi xuống cầu thang.
Khi mở cửa phòng khách, họ thấy hai ông bà cụ ngủ trên bộ ghế sa lông. Thì ra hai ông bà đã nhường căn phòng ngủ duy nhất của họ cho đôi tân hôn.
Anh chồng trẻ ra dấu cho cô vợ rồi nhón gón đi trở lại lên lầu và để thêm năm đô la nữa lên trên bàn.
Câu chuyện này là một minh họa điển hình cho câu chuyện trong bài phúc âm hôm nay.
Cũng như bà goá trong Phúc Âm, đôi vợ chồng già đã không cho đi những gì dư thừa. Nhưng họ đã cho đi từ nhu cầu thiết thực của mình.
Hơn thế nữa, trong cả hai trường hợp, họ không chỉ độ lượng cho đi mà còn cho đi một cách vui vẻ, thật lòng.
Người ta thường nói có ba loại người cho đi: người cho cách miễn cưỡng, người cho vì bổn phận, và người cho vì muốn cảm tạ.
Người cho miễn cưỡng nói rằng, "Tôi không muốn cho"; người cho vì bổn phận nói rằng, "Tôi phải cho đi"; và người cho vì cảm tạ thì nói, "Tôi muốn cho đi."
Nói cách khác người cho miễn cưỡng thì cho đi một cách do dự và với ít nhiều oán giận.
Người cho đi vì bổn phận cũng do dự cho đi nhưng với một cảm nhận đúng đắn về bổn phận.
Người cho vì cảm tạ, ngược lại, họ cho một cách thoải mái và thật lòng.
Câu chuyện của bà goá trong Phúc Âm hôm nay và câu chuyện của hai vợ chồng già trong nông trại là những thí dụ tuyệt vời của sự tạ ơn.
Không ai cho đi với sự ép buộc. Không ai cho đi vì bổn phận. Cả hai đã cho đi từ tấm lòng.
Hai câu chuyện này mời chúng ta tự hỏi về cách chúng ta cho. Chúng ta cho đi cách miễn cưỡng? Chúng ta cho vì bổn phận? Hoặc chúng ta cho chỉ vì đó là điều chúng ta muốn?
Và ở đây, chúng ta không chỉ nói về cho tiền. Chúng ta còn nói về việc cho đi chính mình và thời giờ của mình.
Thí dụ, chúng ta cho đi chính mình và thời giờ như thế nào cho Thiên Chúa vào ngày Chúa Nhật và trong sự cầu nguyện hàng ngày?
Chúng ta cho đi chính mình và thời giờ như thế nào cho người thân trong gia đình, để hỗ trợ và yêu mến họ?
Chúng ta cho đi chính mình và thời giờ như thế nào cho người lân cận, để nói lên sự lưu tâm và phục vụ họ?
Chúng ta có cho miễn cưỡng không, vì chúng ta phải cho, vì nếu không cho chúng ta sẽ bị chỉ trích và bị hình phạt cách nào đó?
Chúng ta có cho vì bổn phận không? Đó là, lẽ ra chúng ta không cho nhưng cảm thấy bó buộc phải làm như vậy?
Hay chúng ta cho đi một cách hân hoan vì chúng ta muốn cho? Đó là, chúng ta cho đi với sự quảng đại và hết lòng như bà goá trong phúc âm và như đôi vợ chồng già trong câu chuyện trên?
Còn một điểm nữa về việc cho đi chính mình mà chúng ta cần suy nghĩ.
Đó là chúng ta có thể cho đi chính mình trong nhiều phương cách khác nhau cho nhiều người khác nhau. Chúng ta có thể nói như thế này: "Quà tặng tốt nhất cho kẻ thù là sự tha thứ, cho người bạn là sự trung thành, cho một đứa trẻ là tấm gương sáng, cho một người cha là niềm vinh dự, cho một người mẹ là tâm hồn, và cho người lân cận là bàn tay của chúng ta".
Nếu sự cho đi của chúng ta ít hơn là phải có--nếu ít hơn của bà goá trong phúc âm, hoặc nếu ít hơn đôi vợ chồng già trong câu chuyện--thì Chúa Giêsu đang nói với chúng ta trong một phương cách đặc biệt, trực tiếp và cá biệt, trong bài phúc âm hôm nay. Vì Người đã nhắc nhở chúng ta đâu đó trong Phúc Âm: "Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Luca 6:38).
Chúng ta hãy kết thúc với sự suy nghĩ về việc Thiên Chúa đã rộng lượng ban cho chúng ta:
Chúng ta xin một bông hoa; Người cho cả một bó.
Chúng ta xin một giọt nước; Người ban cho cả đại dương.
Chúng ta xin một hạt cát; Người ban cho cả bãi biển.
Chúng ta xin một nhánh lúa; Người ban cho cả cánh đồng.
Chúng ta xin chút gì để ăn; Người đã ban chính Mình và Máu Người.
47. Cho.
Có một cặp vợ chồng trở về quê thăm họ hàng. Họ xuống xe, đi bộ được một quãng thì trời đổ mưa tầm tã. Đêm đã khuya mà họ thì lại không quen thuộc đường lối. Thế là họ bèn gõ cửa một căn nhà có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống.
Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ đặt mấy chục ngàn lên bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà. Thì ra hai ông bà già này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ. Còn mình thì phải nằm ngủ dưới đất.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, và chúng ta nhận thấy: giống như bà góa, đôi vợ chồng già không phải cho đi phần thừa thãi, mà cho đi chính nguồn sống ít ỏi của mình. Họ cho đi một cách quảng đại, vui vẻ và thực lòng. Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy có ba cách cho đi.
Cách thứ nhất là cho đi một cách bất đắc dĩ. Những người này thường nói: Tôi bực bội vì phải cho đi. Tôi miễn cưỡng phải cho đi.
Cách thứ hai là cho đi vì bổn phận. Những người này thường bảo: Tôi buộc phải cho. Họ cho đi mà lòng nặng trĩu vì bổn phận trói buộc.
Sau cùng cách thứ ba đó là cho đi với tình yêu thương. Những người này thường vui vẻ nói: Tôi muốn cho đi. Họ cho đi với tất cả tấm lòng chân thành của mình. Không phải vì ép buộc, cũng không phải vì bổn phận thúc đẩy.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã cho đi như thế nào? Chúng ta thường nói: của cho không quan trọng bằng cách cho. Vậy chúng ta sẽ cho đi những gì? Chúng ta không chỉ nói đến tiền bạc mà còn nói đến việc ban tặng chính bản thân và thời giờ của mình.
Chẳng hạn chúng ta đã dâng cho Chúa bản thân và thời gian của chúng ta vào việc thờ phượng Chúa trong ngày Chúa nhật như thế nào? Chúng ta đã trao tặng chính bản thân và thời giờ của chúng ta cho những người thân yêu trong gia đình, cũng như cho bà con lối xóm ra làm sao?
Chúng ta có biết cho đi với cõi lòng đầy hân hoan, với trái tim đầy quảng đại như bà góa trong Phúc âm hay không? Với một chút tế nhị và nhạy cảm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Chúng ta có rất nhiều thứ để mà cho đi, như một bài thơ đã diễn tả: Quà tặng đẹp nhất cho kẻ thù, chính là sự tha thứ. Cho bạn bè chính là sự trung thành. Cho các em nhỏ chính là gương sáng. Cho người cha chính là lòng tôn kính. Cho người mẹ chính là tình yêu. Và cho người chung quanh chính là đôi tay của chúng ta.
Hãy cứ cho đi một cách quảng đại, chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ chịu thua trước sự rộng rãi của chúng ta. Bởi vì, khi tôi xin một bông hoa, thì Ngài cho cả bó. Khi tôi xin một giọt nước, thì Ngài cho cả đại dương. Khi tôi xin một hạt cát, thì Ngài cho cả sa mạc. Và khi tôi xin ăn, thì Ngài ban cho cả thịt máu Ngài.
48. Tấm lòng.
Bà goá ở Sarepta thật nghèo khó nhưng đồng thời lại thật rộng lượng. Bà không còn gì ngoài một chút bột và một chút dầu đủ cho một bữa ăn đạm bạc cuối cùng, rồi cả hai mẹ con cùng chết. Thế mà bà đã sẵn lòng nhường cho vị tiên tri chiếc bánh nhỏ bé nhưng vô cùng quý giá ấy. Cử chỉ quảng đại của bà đã gặp được lòng quảng đại của Thiên Chúa: Trong suốt cơn hạn hán, bột trong hũ không bao giờ cạn và dầu trong bình không bao giờ vơi. Còn bà goá trong đoạn Tin Mừng vừa nghe cũng thế. Bà nghèo tiền của nhưng giàu lòng quảng đại. Chính lòng quảng đại giữa cảnh túng thiếu đó, trước mặt Thiên Chúa, có giá trị hơn cả vàng bạc của những kẻ dư giả. Người nghèo của thường giàu lòng và Thiên Chúa thì chú trọng đến cõi lòng mỗi người hơn là đến tiền của.
Từ hai câu chuyện trên, chúng ta thấy: Để đánh giá một ai, nhiều lúc chúng ta chỉ dựa vào tiền của. Tiền của trở nên như một thứ thước đo thông dụng, như một thú tiêu chuẩn để xác định ngôi thứ. Kẻ càng có nhiều tiền của thì càng được vị nể và càng có thế lực. Tuy nhiên, cũng có những cái không thể định giá được bằng tiền của, đó là những giá trị tinh thần và trị đạo đức, đó là phẩm chất và cõi lòng con người. Những giá trị này không tuỳ thuộc vào những gì ở bên ngoài, nhưng hệ tại những gì ở trong chính con người.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu không chú trọng đến giá trị kinh tế của hai đồng tiền nhỏ mà bà goá đã bỏ vào hòm. Chúng không là gì cả bên cạnh những đồng tiền lớn của những kẻ giàu sang. Nhưng Ngài đã chú trọng tới tấm lòng của bà, đến giá trị chủ quan của hai đồng tiền nhỏ đối với tình cảnh nghèo túng của bà và đến cách âm thầm khiêm tốn bà dâng tiền vào hòm. Chúa Giêsu không quan tâm đến của dâng cho bằng đến cách dâng và tấm lòng của người dâng. Bởi vì chính tấm lòng chúng ta mới định đoạt giá trị của những việc chúng ta làm.
Thiện căn ở tại lòng ta. Một việc làm tốt rất có thể trở nên xấu vì lòng chúng ta không ngay thẳng, ý chúng ta không trong sáng, chẳng hạn như chúng ta làm để phô trương, để trình diễn, để lấy tiếng, để kiếm chút lợi lộc cá nhân. Trong những trường hợp ấy, chúng ta không làm việc thiện vì chính việc thiện, nhưng vì lợi ích bản thân nhân danh việc thiện mà thôi. Đó là một hình thức ích kỷ rất tinh vi, chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy: Đừng để cho tay trái biết việc tay phải làm. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận giá trị thực tiễn của lễ vật hay tặng phẩm. Giá trị kinh tế cũng đáng kể nhưng chưa phải là điểm chính. Nếu được thì của nhiều, lòng nhiều là điều tốt nhất. Còn nếu không được như thế, hoàn cảnh đòi phải chọn lựa, thì của ít lòng nhiều vẫn là điều quý giá hơn. Thực ra khi lòng đã nhiều thì người ta không ngần ngại hiến dâng tối đa những gì mình có. Lòng người đi trước, tiền của theo sau.
49. Chúa Nhật 32 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Chúng ta cùng nhau quan sát sự vật chung quanh, những thứ gần mình nhất, xem có những gì tốt đẹp. Nếu nhìn một cái bong bóng được chứa đầy hơi, căng tròn, nó trôi lơ lững nhẹ nhàn, nó dường như muốn bay lên, không chịu bị chôn vùi xuống, nó còn tạo niềm vui cho những đứa trẻ. Nhưng nếu có một bất trắc nào, hay có vật gì chạm đến mà nó không chịu được, nó sẽ vở tan và không còn gì hết, bên trong nó chẵng có gì, nó cũng không còn gì để lưu lại.
Nếu chúng ta nhìn một hòn đá, nó nặng nề nằm sát đất, vị trí rất ổn định không lay chuyển, nó dường như cũng không đèo bồng vươn cao. Có ai đó muốn làm cho nó phải tách ra, việc đó không phải dể, vì thân thể nó không có một chỗ trống nào. Nó không cần vươn cao, nhưng những gì muốn vươn cao cách vững chắc, đều nhờ đến nó. Nó cũng không tạo niềm vui chóng qua, nhưng nó tạo một sự vui mừng vững bền cho những ai biết xử dụng nó cách chính đáng. Những hòn đá nặng nề yên lặng, không vươn cao, nhưng có giá trị vững bền.
Chúng ta vừa nhìn qua hai hình ảnh của con người mà Chúa Giêsu cho chúng ta thấy qua bài phúc âm:
Một hình ảnh hào nhoáng, sang trọng được bao nhiêu người kính phục, bái chào. Hình ảnh cao ngất ngưởng, dường như chỉ biết vươn lên giống như chiếc bong bóng đang lúc căng đầy hơi. Đó là hình ảnh giả tạo, nhở một khi không còn giử được chút hơi nào thì cái dáng vẽ bên ngoài sẽ ra sao, còn con người đó sẽ như thế nào? Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc, vì họ hoàn toàn trống rỗng.
Một hình ảnh đơn sơ nhẹ nhàng, không ai nhìn thấy, nhưng Thiên Chúa nhìn thấy tận trong tâm hồn. Việc làm thầm kín, nhỏ bé, nhưng bằng cả một tâm hồn vĩ đại và chân thành. Tâm hồn đó khó có thể lay chuyển nỗi. Đây là một việc làm có giá trị.
Hai hình ảnh tương phản nhau. Đặt biệt lối nhận xét của Chúa Giêsu, cách nào đó cũng không bình thường như cách của loài người.
Những người bình thường vị nể và kính phục sự hào nhoáng bên ngoài, con người chỉ nhìn thấy những gì hiện ra trước mắt và thường chạy theo nó. Chúng ta những người ngồi trong nhà thờ nầy, hoàn toàn là những con người bình thường, nhưng chúng ta có để cho nó trở nên tầm thường như những con người của ngày xưa không? Suốt cả cuộc đời, và cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn sống, vẫn nhìn, vẫn hành động. Nhưng cái sống, cái nhìn, cái hành động của mình có những lúc nó giống như chiếc bong bóng được căng đầy hơi, nó trương phình lên và bay lơ lững. Nó cũng tự hào vì mình to lớn, nhưng lại quên đi sự trống rỗng của mình, và càng không biết đến một ngày nào đó, nó sẽ nỗ tung, khi đó không có gì tồn tại, vì nó hoàn toàn trống rỗng.
Mỗi người nhìn vào chính mình. Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta ngở mình cao sang, tài giỏi, uy quyền hơn bao nhiêu người khác, để rồi tự mãn kiêu căng, đòi hỏi điều nầy điều nọ. Nhưng thật ra, nếu nhìn kỷ lại, những gì mình hiểu biết, những gì mình đang có, so sánh với những gì mà chúng ta đòi hỏi, nó còn tệ hơn chiếc bong bóng căng đầy hơi. Nó hoàn toàn rỗng tuết và chẵng có chút gì có giá trị. Vậy mà vẫn tự hào. Có những việc làm, chúng ta ngở nó không giá trị gì: Như một chút thương cảm đối với người bên cạnh, trước sự đau khổ, chúng ta tìm cách tạo niềm vui cho họ. Có những lần chúng ta nhín chút thời gian, vì có người cần đến, cũng có những lần chúng ta cố gắng nhường nhịn một câu nói, kềm chế một hành động trả thù, cho hả cơn giận. Có lần chúng ta cố gắng vượt qua được con người yếu hèn của mình, không chìu theo những dục vọng, ước muốn bất chính để sống ngay thẳng trung thực. Đó là những lần chúng ta sống thực sự, bằng hết tâm tình của mình. Khi đó chúng ta giống như người đàn bà nghèo, đã cho tất cả, nhưng không ai nhìn thấy gì hết. Khi đó chúng ta biết tạo cho mình một nền móng vững chắc như những hòn đá và không gì có thể phá vỡ được.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết sống ngay thẳng, trung thực trước mặt Chúa, để những việc làm của chúng ta có giá trị trước Mặt Chúa vì được phát xuất bởi tình yêu.
50. Đức Tin hạt cải Đức Mến cổ thụ
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Nếu để ý đến tiến trình của bài Phúc Âm được Giáo Hội sắp xếp cho chu kỳ Phụng Vụ Năm B ở Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, chúng ta thấy, kể từ sau khi Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các tông đồ biết Mầu Nhiệm Thánh Thể của Người ở những Chúa Nhật từ 17 đến 22, rồi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người ở Chúa Nhật 24, xuất hiện một loạt bài Phúc Âm về những gương mù gương xấu phản đức tin, rồi sau đó là một loạt bài về gương sống đức tin là yếu tố cần thiết để nghênh đón Chúa Kitô tái giáng, một biến cố được Giáo Hội cử hành vào Lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Phụng Vụ của Giáo Hội.
Về loạt bài Phúc Âm liên quan đến các thứ gương mù gương xấu phản đức tin, trước nhất là gương mù gương xấu của các môn đệ tỏ ra tranh giành địa vị, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25; tiếp đến là gương mù gương xấu của các vị về việc tranh chấp quyền năng phe nhóm, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 26; sau đó là gương mù gương xấu của việc vợ chồng ly dị nhau, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27; và đến nay là gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28.
Về loạt bài Phúc Âm liên quan đến gương sống đức tin gồm có, ở Chúa Nhật 29, gương sống đức tin bất chấp thử thách của anh em tông đồ Giacôbê và Gioan muốn được cùng với Thày uống cạn chén khổ nạn; ở Chúa Nhật 30, gương sống đức tin bất chấp áp lực thế gian của người mù ăn xin bên vệ đường ở Giêrichô không sợ đám đông vẫn khinh thường anh ta; ở Chúa Nhật 31, gương sống đức tin của người luật sĩ vốn thuộc về thành phần vốn bị Chúa nặng lời trách móc là giả hình (x Mt đoạn 23) song vì thành tâm tìm kiếm chân thiện nên vẫn nhận ra được tất cả những gì chí lý như ông ta vốn nghĩ nơi câu trả lời của Chúa Giêsu về giới răn trọng nhất; và ở Chúa Nhật 32 tuần này, gương sống đức tin đến hoàn toàn cậy trông phó thác của một bà góa nghèo khó nhưng hết lòng quảng đạo đã dâng cúng cho Chúa tất cả những gì mình có vào công qũi của đền thờ, dù chẳng là bao nhiêu và giá trị gì so với mọi người bấy giờ.
Có thể nói, nếu để ý kỹ, loạt bài Phúc Âm về gương lành gương sáng này là những gì hoàn toàn tương phản với loạt bài Phúc Âm về gương mù gương xấu trước đó. Chẳng hạn, gương sống đức tin đến chấp nhận đau khổ và cùng Thày phục vụ hơn hưởng thụ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đã soi sáng cho gương mù gương xấu tranh chấp nội bộ cũng như tranh chấp phái nhóm của các tông đồ, như được Thánh Ký Marcô ghi lại ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25 và 26. Rồi gương sống đức tin bất khuất của người mù ăn xin bên vệ đường đã là những gì soi sáng cho tình trạng cứng lòng đến mù quáng của con người “yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19) nói chung, một tình trạng cứng lòng đến mù quáng được thể hiện điển hình nhất nơi việc vợ chồng ly dị nhau trong đời sống hôn nhân, như được kể đến ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27. Sau hết là gương sống đức tin nghèo khó mà hết sức quảng đại của bà góa dâng cúng cho đền thờ Chúa cũng đã là những gì soi sáng cho gương mù gương xấu của lòng tham vô đáy nơi thành phần giầu có khó vào nước thiên đàng, như được thấy ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28.
Giới răn trọng nhất ở bài Phúc Âm tuần trước đã hoàn toàn nên trọn nơi trường hợp bà góa dâng cúng tất cả những gì mình có này vào công quĩ đền thờ Chúa. Nếu bà không tin tưởng “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, bà sẽ không thể nào dám liều lĩnh dâng cùng tất cả những gì bà có như vậy cho Ngài. Ở đây không phải là số tiền nhỏ bé ấy của bà, mà là chính mạng sống của bà. Vì số bạc nhỏ bé ấy là tượng trưng cho chính mạng sống của bà, đúng như trường hợp của bá góa trong bài đọc thứ nhất của cùng Chúa Nhật tuần này. Nếu bà góa này đã dâng cho vị Chúa là Thiên Chúa, là Chúa duy nhất của bà, tất cả mọi sự bà có, liên quan đến mạng sống của bà như thế, không phải là bà đã thật sự “yêu Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” của bà hay sao? Nếu thật sự không có Chúa, không có Đấng quan phòng toàn năng đầy yêu thương chăm sóc cho cả chim trên trời là loài động vật lẫn cỏ đồng nội là loài thực vật (x Mt 6:26,28) hoàn toàn thấp kém hơn con người là loài “nhân linh ư vạn vật”, thì việc làm của bà góa này, thay vì là một việc làm của một đức ái trọn hảo, một đức tin tuyệt đối, lại là một việc vô cùng ngu xuẩn và điên khùng, là một việc làm hoàn toàn mê tín dị đoan. Thế nhưng, bà góa mạnh tin ấy có ngờ đâu rằng, việc làm nhỏ mọn bằng tất cả lòng thành trước mắt thế gian ấy, một việc làm đáng hổ ngươi trước mắt thế gian ấy, lại được lọt vào mắt thần của Thiên Chúa, ở chỗ, chẳng những việc ấy được Ngài chứng giám qua con mắt loài người của Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu bấy giờ, mà còn được Ngài khen tặng qua môi miệng của Con Thiên Chúa trước mặt thành phần là nền tảng Giáo Hội của Người Con này nữa.
Nếu Nước Thiên Chúa giống như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống đã mọc lên trở thành cây to lớn, đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó (x Mt 13:31-32), thì việc làm đáng xấu hổ của bá góa trước mắt thế gian bấy giờ, hay mấy đồng bạc cắc chẳng là gì của bà, chẳng khác gì như một hạt cải nhỏ bé nhất, so với các hạt giống đóng góp khác to bự hơn của bà rất nhiều, đã trở thành một cây vĩ đại đến làm gương cho cả loài chim trời có mặt bấy giờ là các tông đồ, thành phần vốn còn tham vọng tranh ngôi thứ, nhất là có cả kẻ tham lam tiền của sắp sửa tới lúc bán thày lấy bạc (x Jn 12:4-6; Mt 27:3).
Trường hợp bà góa mạnh tin trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXII tuần này cho thấy, nếu người giầu có khó vào Nước Trời hơn lạc đà chui qua lỗ kim, như lời Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28, thì người nghèo, như thực tế cho thấy, thường quảng đại hơn người giầu trong việc từ thiện bác ái, đóng góp làm việc chung. Sau đây là mấy trường hợp cụ thể đã được Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta kể lại (xem dongcong.net) trong cuộc đời Mẹ đã phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo.
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông.
Hôm ấy, sau khi nhận được 15 Mỹ kim do một người bị bất toại 20 năm gửi tặng, một con người sống cô đơn, chỉ có điếu thuốc lá là người bạn duy nhất của ông, Mẹ Têrêsa đã đến thăm ông và an ủi ông, người đã chân thành nói với Mẹ rằng:
- Thưa Mẹ, con đã hết hút thuốc cả tuần nay rồi, và đó là số tiền con dành dụm được để biếu Mẹ hầu Mẹ có thể dùng nó mua cơm bánh cho các người nghèo khổ.
Câu truyện cảm động khác xẩy ra vào thời điểm thành phố Calcutta thiếu đường. Bấy giờ có một cậu bé độ khoảng 4 tuổi đã đến đưa cho tôi một bát đường mà nói với tôi rằng:
- Thưa Mẹ, con đã nhịn không ăn đường suốt cả tuần nay. Đây là chút đường để Mẹ có thể dùng cho các em mồ côi của Mẹ.
Chưa hết, ở một trường hợp khác, có một em nhỏ muốn đem rá gạo tôi mang tới ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng bấy giờ có một người đàn ông đến gặp và nói với tôi rằng:
- Thưa Mẹ, ở gần đây có một gia đình người Ân giáo có 8 đứa con, song cả tuần nay họ chẳng có một thứ gì cho vào bụng.
Nghe thế tôi liên bưng rá gạo theo người đàn ông ấy đến nhà người Ấn giáo ấy. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi thấy những khuôn mặt xanh xao và đang bị quằn quại vì đói. Không thể cầm lòng, tôi đã trao tất cả rá gạo cho người đàn bà ấy. Bà ta cảm động nhận lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia ra làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi . . . một lúc sau mới trở về... Lấy làm ngạc nhiên tôi mới lên tiếng hỏi bà:
- Bà đi đâu thế? Đem gạo cho ai vậy?
Bà ta liền trả lời:
- Người ta cũng đói lắm cơ!
- Nhưng họ là ai?
- Những ngưới ấy là những gia đình theo Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con đây. Họ ở bên kia đường mà cả tuần nay, họ cũng chẳng có gì để ăn hết.
Chúa Nhật tuần này, Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B (ngày 9/11/2003), trùng với Lễ Cung Hiến Đền Thờ Gioan Latêranô. Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật tuần này cũng hợp với ý nghĩa về đền thờ. Ở chỗ, như lời nguyện mở đầu cho thấy, Thiên Chúa là Thần Linh ở với Kitô hữu chúng ta nơi tâm hồn hay tấm lòng của chúng ta. Và tâm hồn hay tấm lòng của Kitô hữu chúng ta thực sự là đền thờ của Chúa một khi chúng ta tin tưởng nhận biết Ngài và kính mến Ngài hết mình và trên hết mọi sự. Việc bà góa trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này đã dâng cúng vào ngân qũi của đền thờ tất cả những gì bà có để dâng lên cho Chúa, đã không nói lên việc bà kính mến Thiên Chúa hết mình hay sao, và tấm lòng của bà không phải là đền thờ xứng đáng Chúa ngự trị hay sao? Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho chúng ta thấy cái nhiều nhất, lớn nhất trước mặt Chúa không phải là những gì về vật chất mà là tấm lòng. Bà góa dâng cúng vào đền thờ Chúa ít nhất mà lại đẹp lòng Chúa nhất, vì bà đã quảng đại nhất, yêu mến nhất, dâng lên cho Chúa tất cả những gì mình có.
Lạy Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, thấu suốt lòng của mỗi người chúng con. Vì Chúa ngự trong lòng chúng con như ngự trong đền thờ của Chúa. Xin Mẹ Maria giúp tâm hồn chúng con trở nên đền thờ của Chúa, bằng việc kính mến Chúa hết mình, không tiếc Ngài một điều gì. Amen.
51. Cõi lòng góa phụ – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Cuộc sống có những giá trị khác nhau. Nhiều giá trị lớn lao được tạo lập trong những hoàn cảnh tầm thường. Không dễ gì nhìn thấy kim cương trong những đống cát. Thế mà Đức Giêsu đã nhìn thấy một giá trị vô cùng lớn lao nơi cử chỉ của một góa phụ tầm thường. Cái nhìn đó đã đảo lộn mọi giá trị và gây nhức nhối cho những người sống dựa trên những tiêu chuẩn bên ngoài. Chúng ta thử tìm lại giá trị và ý nghĩa đích thực của cuộc sống nơi bài học lịch sử sống động đó.
Giá trị đích thực
"Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc." (Mc 12:38-39) Đó là những giá trị bên ngoài nhưng đầy hấp dẫn đối với những người có chức vị trong xã hội như các kinh sư. Suốt đời họ chỉ tìm kiếm những cái bên ngoài đó để bù lấp khoảng trống lớn lao trong tâm hồn. Những giá trị hời hợt đó chỉ dừng lại ở đầu môi chót lưỡi, bộ áo thùng thình, chiếc ghế danh dự và mâm cao cỗ đầy. Không những thế ngay cả đời sống đạo đức cũng trở thành một trò hề. Họ "làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ" (Mc 12,40) để khoe khoang sự đạo đức của mình. Vì nếu không có những kinh nguyện đó, làm cách nào trốn được bổn phận ngoài xã hội? Việc đạo đức trở thành bức màn che dấu tính hèn nhát, lười biếng, thích ăn bám xã hội. Nhờ thế họ mới có lý do để "nuốt hết tài sản của các bà góa." (Mc 12,40) Từ những hào nhoáng thế gian đến những việc thánh thiêng đạo đức, họ đều đóng kịch. Còn gì là sự thật nơi những nét kịch nghệ đó chăng?
Hình ảnh vị kinh sư cao ngạo đó chẳng khác những "người giàu bỏ thật nhiều tiền" (Mc 12,41) với một thái độ ngông nghênh, khinh thế ngạo vật. Đồng tiền trở thành một phương tiện để họ khoe cái tôi của mình. Tất cả những nét thời đại đó trở thành một vấn đề lớn trước cái nhìn của Đức Giêsu. Nếu Giáo Hội của Người cũng chỉ toàn những hạng người như thế, hỏi nhân loại còn mong chờ gì nơi Giáo Hội? Thế nên, Người phải hết sức chú ý để moi lên từ đám đông quần chúng một gương mẫu cho các môn đệ và cả Giáo Hội sau này. Giữa một rừng người đang thi nhau bỏ vào "thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ" những đống tiền kếch sù, "cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma." (Mc 12,42) So với số tiền của người giàu, hai đồng tiền kẽm có nghĩa lý gì? Mua được mấy viên gạch? Thế mà bà lại được Đức Giêsu đề cao: "Thầy bảo thật anh em: bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết." (Mc 12,43) Giá trị không căn cứ trên số lượng. Cái không đáng kể mới đáng kể!
Phải có một cái nhìn thật sâu sắc, một quan tâm rất lớn mới thấy được vấn đề quá lớn trong một hành vi nhỏ mọn như vậy! Chính hành vi nhỏ mọn đó đã lột tả tất cả những hy sinh thật lớn lao vì "bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân." (Mc 12,44) Tại sao bà có thể làm được như thế, nếu không phải vì bà đã cảm nhận được hồng ân cao cả và tin vào Thiên Chúa. Cõi lòng bà đã mở ra để hồng ân tràn trề qua việc hy sinh lớn lao bằng một số lượng rất hạn hẹp. Cả Tân lẫn Cựu Ước đều nêu lên mẫu gương bà góa thật cảm động. Lúc ngôn sứ Eâlia lên tiếng cầu cứu, bà góa Xarépta đã trả lời: "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò." (1 V 17,12) Vì tin tưởng nơi lời Thiên Chúa hứa, "bà đi và làm như ông Eâlia nói." (1 V 17,15) Hai bà đều có một lòng tin như nhau. Nhưng khác với bà góa Tân Ước không được đền bù rõ ràng, bà góa Xarépta được chứng kiến cảnh "hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Eâlia mà phán." (1 V 17,16)
Phải có một đức tin mạnh mẽ vô cùng mới có thể hy sinh tất cả như thế. Cả hai bà góa chỉ là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, Đấng "đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người." (Dt 9,28) Sự hy sinh của Người lớn lao tới mức nào mà có thể xóa bỏ tội lỗi muôn người? Chắc chắn hy sinh đó không thể thua kém hai bà góa trên. Hy sinh của hai bà chỉ là hình bóng so với hy sinh thật sự của Đức Giêsu trên thập giá. Đúng hơn, hai bà xuất hiện vào những thời kỳ khác nhau, với những hy sinh khác nhau, tuy cùng một mức độ, để chuẩn bị cho một cao điểm, một hy sinh tột cùng. Quả thực, "vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến thân chính mình." (Dt 9,26) Dầu sao, hũ bột và dầu hay hai đồng tiền kẽm vẫn chỉ là những thứ vật chất bên ngoài, chứ chưa phải là chính mạng sống. Còn Đức Giêsu hy sinh chính mạng sống mình. Không còn hy sinh nào lớn hơn!
Những hy sinh hôm nay
Đức Giêsu đã hy sinh để giải thoát nhân loại và đem lại vinh dự làm con Chúa cho đàn em đông đúc. Đàn em đông đúc đó đã làm thành Giáo Hội tiếp tục sứ mạng cứu độ qua muôn ngàn thế hệ. Anh cả Giêsu đang nhìn đàn em tiến lên tiếp nối sứ mệnh hòa bình cho toàn thể nhân loại. Sứ mệnh hòa bình cũng là một mối phúc lớn nhất trong tám mối phúc. Lớn nhất vì chỉ có mối phúc này mới đem lại hồng ân làm "con Thiên Chúa" (Mt 5:9). Lớn nhất vì đòi hỏi nhiều nhất và đụng chạm tới tất cả các mối phúc khác. Muốn trở nên kẻ xây dựng hòa bình, không thể nào không sống công chính (Mt 5:6,10). Muốn sống công chính, chắc chắn phải có "tâm hồn nghèo khó." (Mt 5:3), phải cố tạo một mọi điều kiện cho công lý ngự trị trên trái đất. Vì theo công đồng Vatican II, công lý là danh hiệu mới của hòa bình. Bà góa Xarépta đã biết thương đến người đói khát hơn mình, đã biết chia sẻ với người đói khát hơn mình. Chỉ biết hưởng một mình, sống chết mặc bay, chắc chắn sẽ tạo ra một hố sâu ngăn cách giàu nghèo vùi lấp tất cả trong cảnh hòa bình nghĩa trang. Muốn tránh khỏi thảm trạng đó, Kitô hữu phải noi gương "hiền lành" (Mt 5:4) của Đức Kitô. Hiền lành và bình an như bóng với hình.
Nhưng trên hết, muốn xây dựng hòa bình, tâm hồn Kitô hữu phải đầy ắp tình yêu thương. Làm sao yêu thương người khác được, nếu chúng ta không sống coi người khác là anh em? Làm sao có thể nhìn người khác như anh em, nếu mình không thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi tha nhân? Thực tế, chỉ có những "tâm hồn trong sạch" mới "nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt 5:8) nơi tâm hồn người khác mà thôi. Bà góa tại Xarépta hay tại cửa đền Giêrusalem đều có tâm hồn trong sạch, vì đã nhìn thấy Thiên Chúa trong tâm hồn Eâlia hay nơi công trình Thiên Chúa. Thời đại hôm nay cũng có thể kiếm thấy những chứng tá hòa bình rất chói sáng. Chẳng hạn Tổng thống Nam Hàn, ông Kim Đại Trọng là một người Công giáo rất nhiệt thành. Theo giáo sư Han Hong Soon, "Kim tổng thống đã làm chứng cho đức tin Công giáo của ông trong các hoạt dộng chính trị mà tiêu biểu nhất là hành vi ân xá cho hai công Chun Doo Hwan và Roh Tanh em Woo, những người đã nhiều lần âm mưu giết ông." (VietCatholic 10.11.2000) Oâng đã kéo chú ý của toàn thể thế giới khi sang thăm viếng Bắc Hàn và nhất là khi lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình. Kim Đại Trọng là niềm hãnh diện chung cho người Công giáo Á châu nói chung, chứ không phải riêng cho dân Đại Hàn vì đã sống theo đúng Tin Mừng.
Nơi phần đất Á Châu đó, hôm nay còn cần rất nhiều chứng tá Phúc Aâm như Kim Đại Trọng. Có thể nói, không lục địa nào trên thế giới cần đến công lý hơn Á Châu. Tranh đấu cho công bình cần thiết hơn làm công tác bác ái. Xoa dịu nỗi khổ đau bên ngoài không bằng tiêu diệt mầm mống bất công nằm sẵn trong tâm hồn con người và cơ chế xã hội. Hơn nơi nào và bất cứ lúc nào, Á Châu đang cần đến những bước chân người rao giảng Tin Mừng hòa bình. Nhưng Tin Mừng hòa bình chỉ được rao giảng bằng sức mạnh tình yêu và chứng từ công lý nơi đời sống Kitô hữu.
52. Cho tất cả – Jean Yves Garneau.
Hai nhân vật được lưu ý trong các bài sách thánh hôm nay là hai phụ nữ. Hai bà goá. Tình hình tài chánh của họ rất khó khăn. Không việc làm. Không nơi nương tựa. Họ sống trong cơ cực. Họ dễ trở nên mồi cho những kẻ khai thác. Họ thuộc thành phần những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Vì họ mà Chúa Giêsu đã đến. Không lạ gì Ngài quan tâm đặc biệt đến bà goá mà Ngài thấy trong Đền Thờ.
Cho những gì ta có … Cho những gì ta là …
Hai người phụ nữ làm một cử chỉ rất quảng đại, họ cho những gì có thể nuôi sống họ. Chính cuộc sống của họ mà họ cho đi, khi cho cái ít ỏi mà họ có.
Bà goá ở Sarepta nói: “Tôi chỉ có trong hũ một nắm bột, và trong bình một chút dầu thôi”. Bà thêm: “Tôi và con tôi ăn, rồi chúng tôi chết”. Một sự hiến dâng dẫn đến cái chết. Hiến dâng những gì mình có tức là cho đi con người của mình, sự sống của mình. Đó thực sự là vấn đề.
Cũng một vấn đề như vậy nơi bà goá lên Đền Thờ, trước mặt những kẻ bỏ bớt những món tiền dư thừa, bà đã cho đi số tiền ít ỏi nhưng cần thiết cho mình. Chúa Giêsu rất sáng suốt, Ngài thấy rất rõ những gì đã xẩy ra. Ngài nói: “Bà đã cho đi hết số tiền bà có để sống”. Nơi đây nữa, hiến dâng những gì mình có là hiến dâng chính mình. Khi dâng cúng số tiền mình có bà goá đã dâng hiến chính cuộc sống của bà.
Khi nhìn lại cử chỉ của những người phụ nữ này, làm sao có thể không nhớ đến Chúa Giêsu. Những gì các bà goá này đã làm, Chúa Giêsu sẽ làm. Chính Ngài cũng sẽ cho đi những gì Ngài có; Ngài cũng sẽ hiến dâng mạng sống mình. Cách tự do! “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Việc hiến dâng của các bà goá loan báo việc hiến dâng của Con Thiên Chúa.
Mạo hiểm khi cho.
Những người giàu có lên Đền Thờ đã dâng những số tiền lớn, nhưng của cải họ dâng hiến vẫn là nhỏ bé, dè xẻn. Khi dâng hiến như vậy, họ không phải đánh liều về bất cứ điều gì cả, nhất là mạng sống của họ! Khi bỏ những số tiền lớn vào hòm cúng, họ không quên giữ lại những số tiền lớn hơn nhiều để bảo đảm cuộc sống và một cuộc sống dư dả. Chúa Giêsu không bị đánh động chút nào cả trước việc dâng cúng này. “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
Hai bà goá đã liều mạng sống mình, các bà đã dám tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Bà thứ nhất đã được thưởng: Hũ bột của bà không bao giờ vơi, bình dầu của bà không bao giờ cạn. Bà thứ hai cũng được thưởng: Bà được Chúa Giêsu khen ngợi và Thiên Chúa chúc lành.
Tiền bạc dư thừa của chúng ta ở đâu? Cái cần thiết cho chúng ta ở đâu? Phải nêu lên câu hỏi này, vì trước mặt Thiên Chúa phẩm chất cuộc sống chúng ta được đo lường bằng phẩm chất của những điều ta hiến dâng. Cho của dư thừa, tức là không cho gì cả. Một của hiến dâng như thế không đánh động Thiên Chúa chút nào. Mọi sự trở thành nghiêm túc và đẹp lòng Thiên Chúa, khi ta cho đi chính cái cần thiết, khi ta cho đi chính cái hầu như không thể thiếu được trong cuộc sống của mình, khi cho đi một chút bản thân mình. Lúc đó Thiên Chúa sẽ xem xét đoái nhìn.
Ở đây ta phải xét đến những cử chỉ cụ thể chứ không phải những ý tưởng tốt. Ta cũng phải hiểu rõ Tin Mừng nữa. Vấn đề không phải là bỏ công ăn việc làm hoặc rút hết trương mục của mình trong ngân hàng chẳng hạn, nhất là khi ta có trách nhiệm đối với những người khác nữa. Nhưng, mặc dù có trách nhiệm, ta vẫn phải nhận định những gì là cần thiết, những gì là dư thừa trong cuộc sống.
Đối diện với thân xác bị phó nộp.
Chúng ta đang cử hành Thánh lễ. Nếu được sống cách tích cực, Thánh lễ sẽ lôi cuốn chúng ta bước theo Chúa Kitô. Lát nữa đây linh mục chủ tế sẽ nói: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”. Những lời này không chỉ nhắc lại một thực tại thuộc quá khứ, chúng còn diễn tả một thực tại luôn luôn hiện có. Chúa Giêsu tự hiến, Chúa Giêsu phó nộp mạng sống Ngài vì chúng ta! Những gì Ngài nói về bà goá được áp dụng cho Ngài: “Ngài đã cho hết … Ngài đang cho hết … Ngài tự hiến …”
Chúng ta sắp rước Mình Thánh Chúa. Giây phút hạnh phúc! Nhưng đáp lại, chúng ta có sẵn sàng hiến dâng mạng sống của chúng ta không? Chúng ta có sẵn sàng cho đi chẳng những cái dư thừa trong cuộc sống của chúng ta, mà cả chính cuộc sống chúng ta nữa không?
53. Một góa phụ đã chỉ cho chúng ta con đường.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Chúng ta có thể xem trên tivi một trong những thí nghiệm, người ta đặt đầy những đồng xu trên lề đường đông người rồi nhìn xem có ai bỏ chút thời giờ cúi nhặt nó không. Thường thường là không có một người nào, bởi vì một xu ngày hôm nay chả có giá trị gì.
Hai đồng bạc nhỏ trị giá một xu, đó là tất cả những gì mà bà góa trong Phúc Âm ngày hôm nay có và đóng góp vào trong Đền Thờ. Vào thời hiện tại, người đàn bà này chắc thì không trẻ, một góa phụ mảnh khảnh và thấp, đi như chạy qua những vùng lân cận với đôi giày vận động viên Nike. Bà ta thì giống với một bà già, nhỏ bé trên đôi giày Nike của hãng K-mart, có lẽ giống như một người không nhà hoặc một người đàn bà xấu xí, một người đáng tức cười và không được kính trọng trong xã hội của chúng ta.
Chúa Giêsu không hề lơ là với người đàn bà nhỏ bé trong Phúc Âm này. Ngài đã xúc động bởi cử chỉ của bà góa này. Người đã nhận ra được món quà giá trị mặc dù giá trị của nó chẳng bao nhiêu, chúng được chọn để góp phần vào xây dựng Đền Thờ, chính điều đó đã làm cho Người chú ý đặc biệt tới bà góa này. Hai đồng bạc nhỏ của bà thật đáng giá, trong đôi mắt cảu Chúa Giêsu bởi vì nó đã giới thiệu một sự quảng đại lạ lùng. Nó là tất cả những gì mà người đàn bà có để sống.
Tôi hy vọng rằng người đàn bà quảng đại này nghe thấy những gì mà Chúa Giêsu đã nói về bà. Nhiều người ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không nói trực tiếp với bà và ngợi khen bà về sự tốt lành của bà. Có lẽ, Chúa Giêsu đã nhìn thấy lòng của bà và nhận biết rằng ân sủng của Thiên Chúa nơi đàn bà này đã thấu hiểu được ý nghĩa gương mẫu trong sách các Vua mà chúng ta đọc trong bài đọc thứ nhất chúa nhật hôm nay. Góa phụ ở Zarephath đã được Thiên Chúa chúc phúc vì sự quảng đại của bà trong việc nuôi nấng tiên tri Êlia, mặc dù có nạn đói xảy ra trong vùng, bà và con trai bà có thể ăn suốt một năm từ hũ bột và bình dầu mà bà đã chia sẻ cho vị tiên tri của Thiên Chúa.
Chúng ta thường được kêu gọi hãy trở nên quảng đại. Một Thánh Lễ Công giáo có vẻ giống như là bất toàn nếu không chú ý tới một khía cạnh đặc biệt, là chúng ta cần phải giúp đỡ những người đang có những nhu cầu khác nhau. Bởi vì một số nhà lãnh đạo đã muốn mở ra nhiều cuộc trợ cấp để thay đổi những số phận, cần cho chúng ta trở nên từ thiện ngay cả khi bị bắt buộc nữa. Mỗi thành phố đều có những người không nhà, người đói, thật không dễ để bỏ đi những sự lười biếng hoặc vô trách nhiệm, nhưng một người Công giáo nhìn họ như là Đức Kitô đang cần giúp đỡ. Mọi người Công giáo phải chống lại sự phá thai, và duy trì sự sống, nhưng chúng ta cũng phải ra tay trợ giúp phụ nữ lỡ thời, phụ nữ trẻ mang thai có đám cưới hoặc không có đám cưới, để cho họ can đảm cho những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ có cơ hội để sinh ra.
Khi chúng ta quảng đại thì đó không phải là điều sai khi chúng ta nghe Chúa Giêsu nói với Cha Ngài về những điều tốt lành chúng ta làm, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải giữ cho đôi mắt của mình gắn chặt vào Chúa Giêsu. Gương mẫu của Chúa Giêsu là tuôn đổ tình yêu quảng đại dành cho chúng ta mà Ngài đã ban cho chúng ta ở trên thánh giá, Ngài đã vươn mình ra thu góp hết mọi người trong hố sâu tội lỗi để kéo chúng ta đến với Ngài. Không một người nào là không có ý nghĩa đối với Ngài, giống như là một đồng xu của không hề có giá trị của bà góa Ngài đã đánh giá cao. Tất cả chúng ta đều quý giá trong đôi mắt Ngài.
Khi chúng ta đến tham dự Thánh Lễ, chúng ta cảm nghiệm được Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Ngài đã nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Ngài. Bí tích Thánh Thể là một món quà lớn lao và vĩ đại hơn món quà được ban cho bà góa ở Zarephath như chính Chúa Giêsu thì lớn hơn Êlia.
Với món quà của bí tích Thánh Thể như là động cơ thúc đẩy và thêm sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta có thể bắt đầu thực hiện sự quảng đại của bà già nhỏ bé, người góa phụ đã cho tất cả những gì mình có để sống.
54. Coi chừng hàng giả!
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Theo một thống kê mới đây, Việt Nam mỗi năm tiêu thụ hơn 200 triệu lít nước mắm, 98% số hộ gia đình sử dụng nước mắm trong các bữa ăn. Tuy nhiên, rất ít người có thể phân biệt được nước mắm pha chế công nghiệp với sản phẩm được sản xuất theo cách truyền thống, do các chương trình quảng cáo, cũng như trên bao bì các sản phẩm, hầu như không thể hiện điều này.
Mặc dù xuất hiện sau, nhưng dòng sản phẩm nước mắm pha chế công nghiệp đang chiếm từ 60-70% thị phần trong nước. Các làng nghề nước mắm truyền thống đang phải vất vả cạnh tranh để tồn tại và ngày càng trở nên yếu thế.
Nước mắm pha chế công nghiệp là loại nước mắm không có vi sinh. Khi nước mắm không có vi sinh là nước mắm giả. Vì theo định nghĩa nước mắm là: Cá ướp với muối trong thùng gỗ, hay chum sành sau một thời gian, nhờ vi sinh kích thích lên men, cho ra một loại nước cốt (juice) gọi là nước mắm. Theo quy trình đặc biệt này, nước mắm là sản phẩm độc nhất vô nhị trên thế giới của Việt Nam. (SGTT)
Tuy nhiên hiện nay nước mắm pha chế công nghiệp đang lên ngôi, dù chẳng cần trang bị thùng chượp, hay chum vại, khiến cho nước mắn chánh hiệu Phan Thiết, Phú Quốc đang phải đối diện nguy cơ phá sản và bị xóa sổ ngay chính trên quê nhà.
Bài tường thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng tha thiết cảnh báo cái thiệt giả về lòng đạo đức. Hôm nay, cũng có thể Người sẽ cảnh báo: “Coi chừng hàng giả!”
Hàng giả lên ngôi
Tuy bề ngoài mẫu mã bắt mắt, quần áo à la mode, cũng tiếp thị phô trương rộng rãi, cũng được chào đón trang trọng, luôn xếp đầu bảng, luôn được thiên hạ ngưỡng mộ, nhưng trang bị toàn đổ giả từ trong đến ngoài, các vị kinh sư đã không thể dễ dàng lọt qua cặp mắt sắc sảo của Chúa Giêsu. Người phải cất tiếng cảnh báo mọi người phải coi chừng, kẻo bị lừa.
"Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Mc 12, 38 -39)
Hàng giả, hàng gian, hàng nhái đó không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm vơ vét hầu bao, vốn đã lép kẹp, của người nghèo khó, bần cùng, Không những tham lam vô độ, mà còn chuộng thói giả hình đạo đức. “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. (Mc 12, 38-40)
Hàng thật quý hiếm
Dẫu vậy, vẫn còn hàng thật quý hiếm khiêm tốn ẩn khuất đâu đó, cũng đang có nguy cơ biến mất trong cái xã hội đảo điên, chuộng đồ giả hơn đồ thiệt. Đó là người sống trung thành với Tin Mừng, nghèo khó, khiêm nhường, vâng phục, nhân ái, nhẫn nhục, tha thứ, hy sinh, tận hiến cho Chúa. Vì số lượng hạn chế, nên hàng thật càng trở nên quý hiếm!
“Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.”(Mc 12, 42-44)
Chúa Giêsu luôn lội ngược dòng đời, không a dua theo thói đời, không bao giờ chấp nhận trò ma mãnh, lọc lừa, dối gian, cũng không chịu khôn ngoan im lặng trước bất công, dù Người biết sẽ phải trả giá cho lời trung ngôn nghịch nhĩ, vì đã sẵn sàng hy sinh làm giá cứu chuộc con người.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì Người không khen ngợi bà góa nghèo này, mà chính là ngậm ngùi, thương xót cho thân phận bọt bèo bị áp bức, bị bóc lột thậm tệ bới lớp người lãnh đạo, nhân danh bảo vệ Lề Luật. Các đấng bậc đã dạy bà phải "hy sinh hết mình" và đó là điều đáng tội nghiệp cho người nghèo khổ.
Thưởng phạt công minh
Không ngần ngại, Chúa Giêsu lên án đích đáng hàng giả.“Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn". Một thái độ dứt khoát, không tính toán hơn thiệt, đúng theo sự thật và công lý.
Trong khi thiên hạ cứ mãi khún núm, kính nể những người khoác bên ngoài cái mã hào nhoáng, bóng bẩy, se sua lụa là, cao sang quyền quý, thì Chúa Giêsu lại phớt lờ họ, không hề tỏ ra gần gũi, hay trọng vọng, vì Người không xem xét hời hợt bên ngoài, mà nhìn thấu suốt tâm can, tình cảm, tư tưởng và hành động, đủ biết họ thế nào.
Ngược lại, Người đặc biệt quan tâm đến những thân phận bần cùng, cơ hàn, thất thế, bịnh hoạn, đui mù, câm điếc, què quặt, xoàng xĩnh, bị rẻ rúng, bị đẩy ra bên ngoài lề xã hội, như bà góa bụa này, như anh mù Batimê, như bà cụ loạn huyết kinh niên, người phung củi, người quỷ ám..
Chúa Giêsu lý giải minh bạch công đức của bà góa nghèo nàn. Vì bà đã dám từ bỏ hoàn toàn, dám hy sinh cả vốn liếng nhỏ nhoi nuôi thân, chứ không phải của cải dư thừa như người giàu có: “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống". (Mc 12, 44)
Người xác nhận việc công đức của bà góa có gía trị gấp ngàn, gấp vạn lần người dư giả: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.(Mc 12, 43)
Như vậy số lượng không thể so sánh với chất lượng, hình thức không thể sánh với nội dung. Những giá trị thế gian không thể sánh nổi giá trị thánh thiêng. Điều mà ngay người Kitô thời nay dễ quên, hay dễ lộng giả thành chân, dễ lẫn lộn giữa giá trị thế gian phù vân với giá trị Nước Trời viên mãn.
“Xin nước bà Samaritana, mượn lừa cỡi vào thành Giêrusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn phòng lập Phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng, chủ nhân đâu ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế!” (Đường Hy Vọng, số 825)
Lạy Chúa, xin cho con luôn sống thật thà, không giả hình, và mở rộng lòng con để trao ban quên mình, không chút do dự tính toán, như Chúa Giêsu đã hy sinh cả mạng sống cứu chuộc loài người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp đỡ con đừng vội phán đoán người khác qua vẻ bên ngoài, mà biết nhìn vào tâm hồn tha nhân, để thông cảm, tha thứ, chia sẻ và giúp đỡ trong tình bác ái của Chúa Giêsu Kitô. Amen.
55. Đồng xu bà góa
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Chúng ta hãy cho đi, hãy ban phát tình yêu chúng ta đã lãnh nhận cho những người xung quanh. Hãy cho đi, cho đến khi nó trở thành một việc hy sinh, vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi hy sinh. Đó là lý do vì sao các bạn phải yêu cho đến khi chính tình yêu đó làm các bạn đau khổ.
Các bạn hãy yêu với thời gian, với đôi bàn tay, với con tim của các bạn. Các bạn cần phải cho đi hết tất cả những gì các bạn có. Trước đây, đường rất hiếm ở Calcutta. Ngày kia, một cậu bé Ấn Độ, chừng bốn tuổi, cùng với bố mẹ, đem đến cho tôi một tách đường. Cậu bé nói: “Em đã nhịn đường trong ba ngày. Bà hãy lấy phần đường của em cho các em nhỏ của bà.” Cậu bé đã yêu đến độ phải hy sinh.
Lần khác, một người thanh niên đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình người Ấn với 3 đứa con, đã khá lâu họ không có gì ăn.” Tôi vớ ngay túi gạo dành nấu bữa tối, đi với người thanh niên tìm đến gia đình này. Tới nơi, tôi thấy ngay bóng dáng của thần chết hiện rõ trên khuôn mặt những đứa trẻ. Thân hình chúng chỉ còn da bọc xương. Tuy bị cơn đói hành hạ, người mẹ cầm lấy túi gạo chúng tôi đem đến, chia làm hai phần, ra khỏi nhà, đem theo một phần gạo.
Lúc trở về nhà, tôi hỏi bà: “Bà vừa đi đâu về? Bà đã làm gì?” Bà trả lời tôi: “Họ cũng rất đói.” Tôi hỏi: “Họ là ai?” Hình như đó là một gia đình Hồi giáo cùng 8 đứa con, đang sống bên kia đường. Bà ấy thừa biết họ cũng rất đói. Bà ấy biết, nên bà cho đi đến độ phải hy sinh. Đó là điều đánh động tôi. Một nghĩa cử quá cao đẹp phải không các bạn? Đó chính là tình yêu đang hành động. Người mẹ ấy đã chia sẻ cho người khác đến phải rướm máu trong lòng. Tối hôm đó, tôi đã không đem thêm gạo cho gia đình bà, vì tôi muốn họ cảm nghiệm được niềm vui của một tình yêu chia sẻ. Ước gì các bạn thấy được nét mặt của những đứa con bà! Chúng chỉ hiểu rất sơ sài những gì mẹ chúng đã làm, tuy nhiên nét mặt sáng lên trong nụ cười. Khi tôi đến trở lại, chúng trông vẫn rất đói và buồn. Nhưng mẹ chúng đã dạy cho chúng hiểu thế nào là yêu thương. Người nghèo khổ của chúng tôi đã là như vậy đó thưa các bạn. (Thiên Phúc biên dịch, Têrêsa Calcutta, Con Tim Tràn Đầy Yêu Thương)
Trong Tin Mừng Thánh Máccô trong Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu chỉ cho các môn đệ thấy hành động dũng cảm của một bà góa làm công quả. Người ca ngợi bà đã dâng hai đồng tiền là một phần tư xu vào thùng công phúc. Chắc chắn hai đồng tiến bà góa giá trị không kém túi gạo bà mẹ kia chia sẻ cho láng giềng đồng cảnh ngộ, vì bà góa cho đi cả tấm lòng và cả mạng sống.
Cho đi cả tấm lòng
Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết.” Giữa những thầy kinh sư, thầy tư tế, thầy Biệt Phái giàu sụ, rủng rỉnh tiền bạc, xênh sang mũ áo, rổn rảng ném những đồng tiền vào thùng công quả, bỗng dưng xuất hiện một bà góa nghèo nàn, lôi thôi, lếch thếch, tiều tụy, rón rén bỏ vào thùng hai đồng kẽm, chỉ bằng một phần tư xu của đế quốc La Mã. Nếu Đức Giêsu không chỉ cho các môn đệ thấy, có lẽ chẳng ai kịp nhận ra bà góa gầy gò, nhỏ thó, thầm lặng đó.
Thiên Chúa luôn nhìn thấu suốt mọi sự, dù nhỏ bé, tầm thường, thô kệch, quê mùa, nhếch nhác, xác xơ, giữa những cái lớn lao, vĩ đại, hào nhoáng. Hơn nữa, Ngài còn rất quan tâm, ưu ái và yêu thương những thân phận bị quẳng ra bên ngoài lề xã hội, những kẻ nghèo nàn, côi cút, góa bụa, đau khổ, bệnh hoạn, tật nguyền,...
Đức Giêsu ca ngợi bà góa quảng đại dâng cúng, vì hai đồng tiền ít ỏi đó là cả một tài sản rất lớn so với thu nhập quá bèo của bà. Như thế bà góa đã cho đi với tất cả tấm lòng chân thành. Chẳng mảy may khoa trương, chẳng chút kiêu căng, chẳng háo danh, mà chỉ vì lòng mến Chúa, đóng góp hết sức vào xây dựng Nhà Chúa.
Mặt khác, bà góa đó còn phản ảnh phần nào chính dung mạo của Đấng Cứu Thế, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2 Cr 8, 9). Đức Giêsu nhập thế đã từ bỏ vinh quang, để mặc lấy thân phận nghèo khó, thấp kém, xoàng xĩnh, bị từ chối, bị xua đuổi ngay từ khi còn chưa được sinh ra, rồi chịu đố kỵ, ganh ghét, miệt thị, còn bị vu oan cáo vạ đủ điều.
“Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng.” (Đường Hy Vọng, số 414)
Cho đi cả mạng sống
“Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình." Đức Giêsu không chỉ thấy chân dung thảm thương, hành vi quảng đại của bà góa, mà còn thấu suốt cuộc đời khó khăn, chật vật, vất vả mưu sinh, chạy gạo từng ngày. Bà góa can đảm cho đi hai đồng xu, nhờ trung kiên đức Tin, nồng nàn đức Mến, dám cho đi ngay chén cơm, miếng bánh độ nhật, vì mãnh liệt đức Cậy. Như thế bà góa đã hoàn toàn phó thác vào Lòng Thương Xót vô bờ, vô tận của Chúa. Đấng không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người.
Mặc dù thiếu thốn, bà góa nghèo khổ vẫn thầm lặng hy sinh, sẵn lòng chịu đói khát để dâng lên Thiên Chúa của cải cần thiết để nuôi sống mình. Tấm gương bà góa hiến dâng dẫn dắt người Kitô hữu hướng đến cuộc hy tế vô cùng trọng đại: Đó là “Đức Giêsu đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn, dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.”(Dt 9, 14)
“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: là Đấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em.” (1Ga 3,16) Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân?” Hãy làm như Chúa Giêsu: “Thí mạng.” (Đường Hy Vọng, số 612)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tự nguyện từ bỏ Thiên Quốc xuống trần, trở nên tặng phẩm cho nhân loại, cho đi từ cuộc đời rao giảng đến cả cuộc sống, để cứu chuộc con người khỏi phải chết đời đời. Xin dạy chúng con noi gương Người, yêu thương tha nhân biết cho đi, biết dâng hiến cuộc đời cho Chúa và mọi người.
Mẹ Maria ơi, Mẹ đã tận hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân, xin hướng dẫn, chỉ dạy, nhắc nhủ chúng con luôn biết sống cho tha nhân, luôn chia sẻ từ vật chất đến tinh thần, luôn trao nụ cười cùng dấn thân phục vụ mọi người khốn khó chung quanh. Amen.
56. Suy niệm của Achille Degeest
NGƯỜI TA CHỈ HIẾN TẤT CẢ KHI NÀO HIẾN CHÍNH BẢN THÂN.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm này là kết thúc một cuộc tranh luận dài giữa Chúa Giêsu và đám ký lục, biệt phái. Với mục đích giáo huấn môn đệ Chúa tố giác điều khiến những đối thủ của Ngừơi ra như mù lòa, và Chúa lấy ví dụ một chuyện nhỏ để giảng cho môn đệ biết lòng thành thật về tôn giáo là gì.
1) Những quyền lực làm cho mù lòa trước Phúc Âm là gì? Là chuộng hư danh, tham lam và giả đạo đức. Ba tật xấu đó, xét theo tâm lý chúng cấu kết với nhau. Ở căn bản, có một nhu cầu muốn tự đề cao trong con mắt kẻ khác, hơn là nhớ đến vị trí của mình trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn rõ tâm khảm bản thể con người; loài người chỉ nhìn thấy dáng vẻ bề ngoài. Người ta không thể đánh lừa Thiên Chúa, mà chỉ có thể đánh lừa kẻ khác. Nếu lơ là không nghĩ đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa, tất bị cám dỗ muốn tự suy tôn trước mặt tha nhân. Những ký lục và biệt phái ngả theo chước cám dỗ ấy và để được người đời trọng nể, họ làm ra vẻ đạo đức, thông thái hơn nữa.
Chúa tố giác rất mạnh việc đưa ra những hành vi đạo đức bề ngoài hòng thu nút sự nể vì của người đời. Tật xấu đó tuy mất dạng trong xã hội chúng ta, nhưng rễ nó vẫn sống dai. Ngày nay có một thái độ tân biệt phái cũng giả dối như thái độ biệt phái thời Phúc Âm. Thái độ giả hình lối mới này chủ trương tự cao bằng những kiểu cách khoa trương cho người khác thấy mình bắt kịp trào lưu, mình theo đúng thị hiếu, trong những lãnh vực liên quan đến học thuật tư tưởng tôn giáo, đến vấn đề thời trang và những dư luận hằng ngày. Đào sâu để cố hiểu thái độ ấy, thường chỉ bắt gặp sự rỗng tuếch, sự thiếu vắng một liên hệ sống động với Thiên Chúa, sự thiếu sót một độ lượng thiêng liêng đích thật. Như vậy người ta đứng trước những dáng vẻ chẳng che đậy một thực chất nào, chỉ thấy bộ mặt của sự giả nhân giả nghĩa.
2) Một ví dụ về lòng thành thật đạo đức sâu xa: đồng tiền bố thí của bà góa. Chúa lưu ý đến thái độ người giàu có bỏ vào quỹ đền thờ cái thăng dư của cải họ có, trong khi bà góa dâng tất cả số tiền cần thiết để sinh sống. Ta tự hỏi cái gì nấp sau sự khác biệt lớn giữa việc đem cho cái mình có và việc hiến dâng chính bản thân mình.
Đem cho cái mình có, là một điều tốt. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng phải cho cách thanh khiết. Kẻ giàu nào ném một cách khoa trương hàng nắm tiền vào quỹ đền thờ, kẻ ấy muốn thu hút sự trầm trồ khen ngợi của công chúng. Đó là lối cư xử của kẻ giàu mà xấu. Cũng có những người giàu rộng tay làm phúc trong âm thầm lặng lẽ. Và nếu trong Phúc Âm không thấy những từ ngữ ‘kẻ giàu tốt’ cũng như ‘kẻ nghèo tốt’, Phúc Âm cũng thuật lại tấm gương của mấy người tư sản súc tích tới được rất gần Chúa nhờ một sự vận dụng rộng rãi thành tâm. Bằng cách nào? Họ không những chỉ phân phát của cải, lại còn hiến dâng một sự gì từ chính con người họ. Có thể ông Giuse quê xứ Arimathia ở trong số người này.
Tới đây, chúng ta nhìn rõ cái nền sâu ở dưới tấm lòng rộng rãi của bà góa phụ. Bà đem dâng tất cả số tiền cần thiết để sinh sống, nghĩa là bà ấy hoàn toàn trông cậy Thiên Chúa về miếng ăn manh áo hằng ngày. Bà phó thác mình trong tay Thiên Chúa bằng hành vi lột bỏ, thành tay không, đểt trở nên hoàn toàn khó nghèo trước Đấng Tối Cao, hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa. Tự hiến mình, bà đã dâng cúng nhiều hơn cả tài sản nào to lớn nhất.
Chúng ta hiến dâng Thiên Chúa sự gì? Lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Người sự gì? Phải chăng là những tư tưởng cao đẹp, những tình cảm cao đẹp, những ý nghĩ cao đẹp, để cầu nguyện xong là chúng ta vẫn giữ lại tâm hồn chúng ta? Chúng ta đem phân phát cái phần nào trong tài sản chúng ta? Phải chăng sự vận dụng của chúng ta để tiến đến gần Thiên Chúa là toàn hiến mình ta cho Người, cho dù chúng ta chẳng đáng giá hơn một đồng xu?
57. Những tấm lòng vàng. -- ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Đế Quốc Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.
Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị Tổng Thống. Thế nhưng không hiểu làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình. Cậu bé kia thấy buồn thiu, vì em không có gì để dâng lên tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả trang trọng...
Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay tức khắc đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật. Một Thiên Chúa giàu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh phục vụ quên mình của chúng ta. Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy được cái nhìn trang trọng của Chúa đối với lòng thành của con người.
Tin Mừng hôm nay kể lại, lần kia, Đức Giêsu vào Đền Thờ và quan sát những người đang dâng cúng tiền của. Ai ai cũng bỏ tiền vào thùng tiền. Chợt có người đàn bà góa nọ chỉ bỏ có một đồng xu nhỏ. Thế mà Đức Giêsu đã tuyên bố: “Người đàn bà này đã dâng cúng nhiều hơn ai hết, bởi vì trong khi mọi người bố thí những gì dư thừa của mình, người đàn bà nghèo này dâng tất cả những gì bà có để sống qua ngày”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa luôn trân trọng và quí mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng cho Ngài. Những lễ vật càng đơn sơ nhỏ bé dưới mắt người đời thì lại càng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của những âm thầm đau khổ, của những hy sinh quên mình từng ngày, của những việc làm vô danh.
Một đứa bé vẫn có thể trao tặng cho người khác một quà tặng quí giá, quí giá không phải ở giá trị của món quà, mà ở giá trị của tấm lòng ngưỡng mộ, yêu mến. Nghĩa cử yêu thương, cảm thông thật có giá trị hơn tặng vật. “Cách cho quí hơn của cho”.
Trong một tháng cứu trợ đồng bào bị lũ lụt ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhân dân thành phố ta đã đóng góp hơn 6 tỷ đồng (?)... Có những em bé nhịn ăn quà, những cậu học sinh đập con heo đất đã dành dụm để chia sẻ những nỗi đau thương của đồng bào ruột thịt. Đó là những người đã đóng góp nhiều hơn hết, vì đó là những tấm lòng vàng hơn là những đồng tiền vàng.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa kêu gọi lòng yêu mến quảng đại của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa lại cao sang tuyệt đối. Ngài là chủ tể mọi loài mọi vật. Mọi sự chúng ta có đều bởi Chúa và thuộc về Chúa. Vì thế, chúng ta có gì đáng để dâng Chúa đâu! Chúng ta quá bé bỏng, nghèo nàn trước Thiên Chúa cao sang. Chúng ta có thể nghèo tiền của, thiếu thốn nhiều thứ, nhưng không ai trong chúng ta có thể sống mà không có trái tim với những khả năng yêu thương. Đó là cốt lõi, là cái làm cho chúng nên giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng sống trong cộng đồng nhân loại. Lễ dâng của chúng ta chỉ đáng Chúa chấp nhận khi nói lên lòng mến và là chính lòng mến của chúng ta.
Ở bài đọc 1, bà góa ở Sarepta cũng đã dâng cho Ngôn Sứ Êlia một chút còn sót lại trong hũ, là khẩu phần cuối cùng của bà và đứa con côi cút của bà. Đối với bà, trong lúc cả nước đói kém và nắng hạn, thì một chút bột này là cả một tài sản đắt giá có thể cứu được mạng sống của bà và con bà. Thế nhưng bà đã nhường lại khẩu phần cuối cùng của mẹ con bà cho Ngôn Sứ Êlia ăn trước. Và Chúa đã trả ơn bà bằng cách cho hũ bột và bình dầu ăn của bà không bao giờ vơi cạn cho đến khi trời hết hạn và mưa lại đổ xuống. Lòng quảng đại dâng hiến sẽ được Thiên Chúa đền bù gấp bội.
Ước gì mẫu gương những tấm lòng vàng và nhất là món quà lớn nhất mà Chúa Cha ban tặng cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Người Con Chí Ái của Ngài, giúp chúng ta được thêm can đảm và quảng đại theo gương Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu không ngừng dâng lên Thiên Chúa và trao tặng mọi người của lễ tình yêu cao đẹp nhất của chúng ta.
58. Ca tụng bà góa - Gm. Arthur Tonne.
Tôi muốn kể cho các bạn nghe một bà góa đẹp và nổi tiếng. Nàng sinh tại thành phố New York năm 1774. Năm 20 tuổi nàng kết hôn với một người New York danh tiếng. Cả hai thuộc phái tân giáo. Khi chồng nàng mắc bệnh phổi. Hai vợ chồng và 5 đứa con chuyển về Ý, hy vọng khí hậu mát mẻ sẽ giúp chồng nàng. Nhưng chỉ ít năm sau chồng nàng qua đời. Một gia đình hào hiệp người Ý đã giúp góa phụ này và các con của nàng ở chung và giúp trở vế Mỹ. Lòng tốt của gia đình người Ý đã dẫn người góa phụ trẻ này tìm hiểu và trở lại Công giáo năm 1805. Việc này khiến bà con và bạn bè từ bỏ nàng. Nàng kiếm sống cho các con bằng nghề dạy học. Năm 1810 nàng sáng lập chi nhánh các chị em Bác ái Hoa Kỳ, họ bắt đầu mở trường miễn phí cho con em Công giáo mở đường cho hệ thống học đường giáo xứ Hoa Kỳ. Người phụ nữ phi thường này qua đời ngày 4 tháng giêng năm 1321, thọ 46 tuổi. Ngày nay nhiều người các bạn đã biết Elisabeth Bayley Seton, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ghi tên nàng vào sổ bộ các Thánh năm 1975. Một vị Thánh đầu tiên sinh tại Hoa Kỳ nổi danh với tên Mẹ Seton.
Trong Tin Mừng hôm nay, một góa phụ, bỏ tất cả số tiền dành được vào hòm của Đền Thờ, Chúa Giêsu khen bà.
Elisabeth Bayley Seton dâng chính mình để làm vinh danh Chúa. Đã đến lúc chúng ta phải tỏ lòng tôn kính các góa phụ cách chung. Và đặc biệt, với những bà đã hy sinh thời giờ, sức lực, tài năng và tiền bạc để giúp gia đình Chúa Giáo Hội Công giáo.
Có nhiều lớp góa bụa: già, trẻ, giàu, nghèo, khỏe, mạnh, yếu đau. Có bà vững mạnh, có bà yếu đức tin. Có bà tự thích hợp với hoàn cảnh mới, có bà chưa. Chúng ta hãy thông cảm với các bà. Xin Chúa xoa dịu nỗi buồn khổ và cô đơn của các bà. Xin Chúa soi sáng các bà trong nỗi lo âu, thêm sức mạnh cho các bà trong cơn thử thách. Các bà đừng quên những lời khích lệ trong ca vịnh xướng đáp: “Chúa nâng đỡ các cô nhi, quả phụ”. Trong suốt cuốn Kinh Thánh, Chúa cho chúng ta thấy Người săn sóc và quan tâm đến các quả phụ.
Hãy cảm tạ Chúa vì nhiều quả phụ (và chúng ta cũng nói được như vậy với những người đàn ông góa vợ) họ được kéo đến gần Chúa hơn vì họ cô đơn. Nhiều người tham dự Thánh Lễ trong tuần. Nhiều người tham gia tích cực trong tổ chức họ đạo. Nhiều người thăm viếng bệnh nhân, người tù tội. Nhiều người hy sinh lớn lao giữ nhà cho con cái họ. Nhiều người quảng đại nâng đỡ gia đình Chúa. Hơn hết các bạn đã cầu nguyện cho người thân yêu, cho họ đạo, cho cha sở, cho Đức Thánh Cha, cho việc truyền giáo, cho mọi sự gần trái tim Chúa Kitô.
Như bà quả phụ trong bài Tin Mừng, như Elisabeth Bayley Seton, bạn hãy quảng đại dâng mình, trong và qua hy lễ của Chúa Giêsu trong Thánh Lễ này. Ước chi Chúa Giêsu mỉm cười nhìn bạn và khen thưởng bạn đời đời.
Xin Chúa chúc lành bạn.
59. Suy niệm của Noel Quesson.
BÀ GÓA NGHÈO ĐÃ BỎ THÙNG NHIỀU HƠN MỌI NGƯỜI
Bé Tôma (Thomas Carlyle) sáu tuổi ở nhà một mình, bỗng thấy một cụ già gõ cửa ăn xin. Xúc động vì lời van nài của cụ hành khất. Tôma đem con heo đất đập ra và đổ hết tiền cắc cho cụ già. Cụ run rung xòe tay đón nhận, và rơm rớm nước mắt cám ơn. Về sau Tôma trở nên một nhà văn nổi tiếng của nước Anh, có lần ông kể lại câu chuyện nhỏ này và nói: Chưa bao giờ tôi cảm thấy sung sướng như lần đó.
Khi chúng ta chia sẻ cho người khác, nhất là khi chia sẻ cho người nghèo, chúng ta sẽ cảm thấy vui. Đặc biệt là khi sự chia sẻ đòi chúng ta cố gắng nhiều, chắc chắn chúng ta càng cảm thấy vui hơn. Và niềm vui đó chính là phần thưởng Chúa ban. Vì Chúa không bao giờ bỏ quên những cử chỉ bác ái của chúng ta dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa.
Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu ngồi trước thùng tiền của Đền Thờ coi người ta dâng cúng. Bao nhiêu người giàu có bỏ những đồng tiền lớn, nhưng Chúa bảo các môn đệ: Người dân cúng nhiều nhất là bà góa nghèo bỏ vào thùng hai xu nhỏ. Những người khác quyên góp phần dư thừa, còn bà góa nghèo đã dâng cúng cả số tiền nuôi sống bà.
Chúng ta đã biết Thiên Chúa nhìn nơi tâm hồn chư không như con người chỉ nhìn vào hiện tượng bên ngoài. Một quà tặng quý không phải chỉ ở trị giá món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa. Người ta không thể che mắt Chúa, Chúa nhìn thấu mọi két sắt, và tài khoản ngân hàng. Chúa biết những toan tính trong tâm tư và quý trọng việc chia sẻ ngay những thứ cần thiết cho cuộc sống mỗi người.
Nếu chỉ quan tâm tới những con số thì chúng ta thấy nhiều hiện tượng cay đắng. Mức sống trên thế giới còn bao nhiêu chênh lệch, một đồng ở chỗ này hoàn toàn khác với một đồng ở chỗ kia. Số tiền một nhà giàu xài cho một bữa ăn ở khách sạn, đủ nuôi một gia đình nghèo cả tháng, chưa kể đồng tiền của nước này so với nước kia.
Con người còn thấy được chuyện đó, huống chi Thiên Chúa, Đấng nhìn thấu lòng người. Đối lập với sự dâng cúng của những người nghèo là thói keo kiệt của các luật sĩ và Biệt phái, những người chỉ hám danh, hám lợi và thu quén vào mình. Nếp sống của họ thiên về trình diễn, mũ áo xênh xang, ăn trên ngồi trước, kinh kệ rậm ran, dài dòng, nhưng thực chất lại vơ vét hưởng thụ, bòn rút của người nghèo đói góa bụa.
Câu chuyện bà góa nghèo này được kể ngay trước khi Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, đó cũng là một dấu chỉ, Chúa Cứu Thế là Đấng đã cống hiến tất cả cho chúng ta, kể cả mạng sống của Người để làm giá cứu chuộc nhân loại.
Chúa muốn chúng ta bắt chước bà góa nghèo ấy. Dù ở địa vị nào, chúng ta cũng phải thờ Chúa trong tin yêu, chân thành và quảng đại, tránh phô trương và trục lợi cho cá nhân hay phe nhóm của mình. Nên ghi nhớ lời Chúa: “Khi chia sẻ cho người nghèo khó, đừng phô trương như quân giả hình quen làm giữa hội đường hay ngoài phố xá… để việc con chia sẻ âm thầm kín đáo, được Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho con” (Mt 6,4).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến và trao tặng với lòng quảng đại vì tin vào Cha trên trời luôn đoái nhìn chúng con.
60. Cho con tim
Chuyện kể rằng có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị một cơn mưa dữ dội không thể đi xa hơn được nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ đến hướng một ngôi nhà có ánh đèn leo lét. Trong nhà có đôi vợ chồng già. Người thanh niên trình bày tình trạng khó khăn đoạn yêu cầu: "Quý ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được?" Đôi vợ chồng già đưa mắt nhìn thông cảm và nói: "Được chứ các cháu. Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe, để tôi và chồng tôi dọn dẹp căn phòng cho tươm tất một chút".
Sáng hôm sau đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi, vì không muốn quấy rối hai vợ chồng già. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng nằm trên chiếc ghế dựa, còn giường của họ thì đã nhường cho khách ngủ.
Cách cư xử của hai vợ chồng giá cũng tương tự như bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ cho phần thừa thải mà cho tất cả những gì mình có. Như vậy trong cả hai trường hợp cho đều có điểm tương đồng là cho một cách quảng đại, cho một cách vui vẻ và tận đáy lòng. Trong cuộc sống có rất nhiều cách cho; có người cho vì bất đắc dĩ thì phải miễn cưỡng bực mình để mà cho. Người cho vì bổn phận thì cũng cho một cách miễn cưỡng vì bị bổn phận trói buộc. Còn người cho vì tình thương thì mới thật lòng. Hình ảnh hai vợ chồng già và bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay là hình ảnh tuyệt hảo về sự trao tặng. Cả hai đều cho mà không phải bị ép buộc, hay bị bổn phận thúc đẩy, cả hai đều cho với tất cả tấm lòng.
Khi người ta đã cho vì tấm lòng thì không nghĩ thiệt hơn, không tính toán. Cho nên hành động của họ cũng không còn lố bịch nữa. Khác hẳn với bộ dạng của các luật sĩ vì họ làm việc này việc kia chỉ nhằm cho người ta thấy. Điều đó đã tố cáo họ làm việc chỉ nhằm cho bản thân chứ không phải cho Thiên Chúa... hơn nữa họ làm việc đó một cách khôn khéo do lòng vị kỷ thúc đẩy như: lễ phục lượt thượt, giả bộ đạo đức, thích được người ta đón chào... Họ ích kỷ một cách trắng trợn, thay vì phải nhắm đến giá trị cao siêu bên trong, thì họ lại lo những điều thuần túy bên ngoài.
Tấm gương và lối cư xử của các biệt phái tương phản với hành động khiêm nhường thật lòng của bà góa hôm nay. Bà góa tuy chỉ dâng cúng hai đồng tiền kẽm, nhưng việc làm của bà có giá trị hơn các việc kia gấp bội. Tính về giá trị vật chất thì không thấm vào đâu so với người khác, nhưng đối với bà thì là cả một gia tài. Còn những người khác giàu có cho dù có bố thí nhiều hơn bà thì cũng là của dư bạc thừa. Bà góa đã dâng hiến tất cả vì lòng kính phục Thiên Chúa, thế mà người ta khinh khi bà, chỉ có một mình Đức Giêsu biểu dương và tôn trọng bà.
Sự trao ban thật ra không chỉ nằm ở giá trị vật chất tiền bạc mà còn cho đi chính bản thân và thời gian nữa. Chẳng hạn như chúng ta dám hy sinh công việc nhà để đến với Chúa trong ngày Chúa Nhật. Dám hy sinh thời gian để thắm viếng người nghèo bệnh tật.... Đặc biệt là những người dám hy sinh bản thân qua việc giúp các bệnh nhân phong, họ ăn chung ở, tắm rửa cho các bệnh nhân phong mà họ không hề tính toán e dè họ đã cho đi tường lai và con người họ một cách đích thực. Họ đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho đền thờ cả con người của họ. Ôi! Quý biết bao những con người cao thượng, những tâm hồn đẹp đẽ, có thể nói không còn mỹ từ nào có thể diễn tả về ho được.
Những tấm gương ấy như ngọn đèn soi cho ta bước, họ đã cho chúng ta tất cả những gì họ có. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta chưa biết cho, chưa biết trao tặng bằng con tim như bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta hãy nghe lời Chúa Giêsu nhắn nhủ như một động lực thúc đẩy ta: "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại, Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong lại cho enh em bằng đấu ấy.
Lạy Chúa, xin cho con biết hành động bằng tình yêu. Vì chỉ khi nào biết yêu thì con mới dám cho đi bằng cả con tim và bản thân con. Amen.
61. Đồng tiền của bà góa.
Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy nổi bật khuôn mặt của hai bà góa.
Khuôn mặt thứ nhất, đó là bà góa tại Sarepta.
Thực vậy, năm đó trời hạn hán, khiến cho mùa màng bị thất thu và nạn đói đe dọa ở nhiều nơi. Gia đình bà góa này cũng chỉ còn lại có một chút dầu và bột, đủ cho một bữa ăn mà thôi. Thế nhưng, trước lời yêu cầu của Êlia. Bà đã hy sinh phần bột cuối cùng để làm một bánh cho nhà tiên tri. Nhờ đó, bà và con bà đã được cứu thoát, đúng như lời tiên tri Êlia đã nói:
- Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi cho đến ngày Chúa làm mưa xuống trên mặt đất.
Khuôn mặt thứ hai là bà góa dâng tiền vào đền thờ.
Chúa Giêsu lúc bấy giờ đứng trong đền thờ và quan sát. Những người Do Thái giàu có thường tỏ ra rộng rãi trong việc dâng cúng. Họ bỏ vào hòm những đồng tiền vàng sáng chói. Thế nhưng điều đáng trách nơi họ, đó là họ muốn cho mọi người biết đến và lên tiếng ca tụng họ.
Trong khi đó, một bà góa nghèo tiến đến, gương mặt thì già nua, áo quần thì cũ kỹ, tất cả đều nói lên thân phận túng cực của bà. Bà bỏ vào hòm hai đồng xu nhỏ. Có lẽ chính bà cũng cảm thấy xấu hổ, vì số tiền không đáng là bao nhiêu, thế nhưng bà tin tưởng rằng Chúa sẽ biết, bởi vì cái chẳng là bao nhiêu ấy lại là tất cả những gì bà thu quén được.
Trước cảnh tượng trái ngược ấy, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại và nói cho các ông hay, chính bà góa này mới là người bỏ nhiều nhất, bởi vì tất cả những người kia chỉ bỏ phần nào cái dư thừa của mình. Còn bà góa này đang cơn túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta dễ dàng thấy được điểm giống nhau giữa hai bà góa. Đó là các bà đã dâng hiến cả những cái cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta thì dâng nắm bột cuối cùng. Còn bà góa tại đền thờ thì dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.
Sở dĩ như vậy là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa hay đối với nhà của Chúa. Nói cách khác, các bà hành động như vậy vì lòng yêu mến Chúa.
Chính yếu tố lòng yêu mến này đã làm cho những hành động của các bà có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa, và rồi chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Các bà đã hành động đúng như câu tục ngữ chúng ta thường nghe nói:
- Của ít lòng nhiều.
Hay nói đúng hơn, các bà đã hành động với hết khả năng của mình.
Đó cũng chính là điều tôi mong muốn tất cả mọi người chúng ta hãy noi gương bắt chước. Dù gặp phải những chuyện bực bội buồn phiền, dù gặp phải những chuyện trái ý, chúng ta cũng hãy chấp nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng hãy làm tất cả những công việc nhỏ bé và tầm thường nhất vì lòng yêu mến Chúa.
Bởi vì lòng yêu mến sẽ là như cây đũa thần, biến những hy sinh nhỏ bé và những công việc tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có được một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.
62. Can đảm cho đi
"Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống" (Mc 12, 44).
Khi tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả những gì mình đang sở hữu và những thứ làm cho mình tồn tại.
Sách các Vua quyển thứ nhất kể câu chuyện nạn đói xảy ra thời tiên tri Êlia, đời vua Akháp, tại Xarépta thuộc xứ Xiđôn và đối với dân Israel nó làø vùng đất của dân ngoại. Nạn đói hoành hành đến mức nguy hiểm, mọi người trong vùng sẽ phải chết đói. Tiên tri Êlia cũng không ngoại lệ nhưng Thiên Chúa đã cho ông ta gặp một bà goá mà hủ bột trong nhà bà này chỉ còn duy nhất một phần ăn, ăn xong rồi chờ chết. Êlia đến xin bà ta một phần ăn để cho qua cơn đói, một yêu cầu thật sự khó khăn cho bà goá nghèo này nhưng vì niềm tin vào Thiên Chúa và sự can đảm cho đi phép lạ đã xảy ra, hủ bột và dầu trong nhà không hề vơi. Êlia và cả gia đình bà goá được cứu sống.
Trong Tin Mừng Maccô cũng thuật lại hai thái độ trái ngược trong một việc làm. Đó là việc bố thí và thái độ của những người giàu với một người đàn bà nghèo. Một bên phô trương và cho đi những của dư thừa, một bên trong âm thầm và cho đi tất cả những gì mình có để sống. Chúa Giêsu đã đề cao việc làm và thái độ bà goá nghèo.
So sánh hai thái độ, hành động của bà goá trong Cựu Ước và Tân Ước, họ có chung một điểm đó là tinh thần can đảm cho đi và tâm hồn hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Kết quả là họ không mất gì cả mà được tất cả. Bà goá ở Xarépta được một hủ bột và dầu không hề vơi, đời sống của bà được bảo đảm và an toàn, còn bà goá nghèo trong Tin Mừng Máccô tuy chúng ta không biết kết quả sau này của bà ta như thế nào nhưng việc làm của bà lại đẹp lòng Thiên Chúa, như vậy đã đủ đối với một con người tin tưởng vào Chúa. Đây cũng là lời mời gọi cho cách sống của mỗi người chúng ta ngày hôm nay vì đời sống của người kitô hữu không phải sống là để đẹp lòng Thiên Chúa hay sao? Đó là cách sống người kitô hữu phải sốâng và thực hành tinh thần này trong mỗi ngày sống của chúng ta. Cách sống mà Chúa Giêsu đề cao như đối với bà goá nghèo.
Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức của chúng ta, điều cần thiết không phải là cho đi bao nhiêu và cái gì. Vì cho đi bao nhiêu là đủ và làm sao đáp ứng mọi nhu cầu của người khác nhưng quan trọng là chúng ta có can đảm cho đi và cách cho của chúng ta như thế nào. Khiêm tốn, dám cho đi tất cả những gì mình có thể cho, không giữ lại cho mình điều gì, dù chúng ta đang thiếu thốn.
Đây là một bài học và tinh thần sống đòi hỏi chúng ta phải sống, rèn luyện và thực hành hằng ngày. Dù chúng ta có thể hiểu và xác tín lời mời gọi này, cho đi tất cả để được tất cả nhưng xem ra rất mạo hiểm, mất mát. Chúa không bao giờ phụ người có lòng, Ngài luôn công bằng và sẽ đền bù gấp bội những gì chúng ta dám cho đi, ngay cả những thứ chúng ta không cho.
Nhiều lúc chúng ta tưởng, chúng ta cho rất nhiều, cho cả những thứ quý giá và quan trọng nhất đời mình nhưng thật sự đối với Chúa và nhu cầu của tha nhân thì nó thật nhỏ bé.
Chúng ta vẫn biết rằng những gì chúng ta có đều là của Chúa, Ngài chỉ mời gọi chúng có chia sẻ cho những người xung quanh mà thôi. Đời sống chúng ta có Chúa thì chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả, không nệ hà, so đo và tính toán.
Ước gì mỗi người chúng ta dám cho đi những gì mình có, sức khoẻ, thời gian, của cải và ngay cả mạng sống mình vì lợi ích tha nhân và đó là điều mong muốn của Chúa.
63. Thái độ sống của người môn đệ đích thực -- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trong việc giảng dạy, Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một nhà sư phạm tuyệt vời. Phương pháp Ngài sử dụng rất sống động, và bài học cũng rất thiết thực. Hôm nay, bài học mà Ngài muốn dạy những kẻ đi theo Ngài, đó là thái độ sống đích thực của người môn đệ Chúa Kitô. Vậy cụ thể đó là thái độ nào?
Chắc chắn đó không phải thái độ sống của những người Biệt Phái: thái độ háo danh, hám lợi: "Thích được người ta chào hỏi nơi phố chợ, ưa chiếm chỗ nhất trong các hội đường..."; thái độ tham lam tiền bạc: "Muốn nuốt hết tài sản của các bà goá..."; thái độ giả hình giả bộ: "Làm ra vẻ đọc kinh dài dòng...". Đây là thái độ mà Chúa Giêsu cho biết sẽ bị kết án nặng nề. Chắc chắn đó cũng không phải là thái độ sống của những người giàu có, keo kiệt. Họ chỉ dâng cúng tiền dư bạc thừa. Và nếu có dâng cúng nhiều đi chăng nữa cũng chỉ vì họ thích phô trương công đức hơn là vì lòng yêu mến Chúa.
Nhưng đó là thái độ sống của bà goá nghèo: dám sống bằng cả tấm lòng của mình. Một tấm lòng quảng đại: bà đã cho đi tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Hai đồng xu chính là sự sống của bà. Một tấm lòng tín thác: tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và đặt trọn sự sống của mình cho Thiên Chúa định đoạt. Đức Giêsu đã khen ngợi tấm lòng của bà và Ngài đã nêu lên cho các môn đệ thấy để bắt chước thái độ của bà, thái độ sống của người môn đệ đích thực.
Đây chính là thái độ sống phản chiếu hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng đã trao ban tất cả mạng sống của mình và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa Cha trong tâm tình xin vâng.
Chúng ta đang sống thái độ nào của người môn đệ Đức Kitô? Phải chăng là thái độ háo danh, ham lợi, chuộng hình thức như những người Luật sĩ và Biệt phái? Phải chăng là thái độ tính toán hẹp hòi của những người giàu có ích kỉ?
Ước gì trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta luôn có thái độ quảng đại biết cho đi với tất cả lòng yêu mến và tín thác trọn vẹn như bà goá nghèo trong Tin mừng hôm nay.
64. Trao ban.
Giáo hội luôn mời gọi con cái mình sống bác ái. Chúng ta luôn luôn được mời gọi quan tâm đến tha nhân và chia sẻ với họ. Đề tài hôm nay mở rộng thách đố này qua việc đòi hỏi những hy sinh. Chúa Giêsu không chỉ trông đợi nơi chúng ta một sự trao ban một cách đơn giản. Việc trao ban của chúng ta thật sự phải là một sự hy sinh. Người ta vẫn nói: “Trao ban chưa phải là trao ban thật sự nếu nó chưa làm người trao ban bị tổn thương”.
Bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay đã dâng hiến tất cả những gì bà có. Của bà dâng cúng hầu như không có gì đáng kể, nhưng hai đồng xu đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân.
Khi Chúa Kitô hiến dâng chính mạng sống mình làm của lễ chuộc tội cho nhiều người, Người đã dâng hiến trọn vẹn cuộc sống của Người. Thánh Phaolô đã viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.
Những người theo Chúa Kitô cũng phải noi theo gương tự hiến của Người. William Barclay đã kể lại câu chuyện sau đây: “Có một anh lính kia bị trọng thương ngoài chiến trường. Vị tuyên úy bò tới bên anh và làm tất cả những gì có thể làm được. Ngài ở lại với anh khi mà đội quân đã rút lui hết. Trong cái nóng nực của ban trưa, ngài đã cho anh tất cả số nước trong bình của ngài, trong khi chính ngài cũng đang bị nung nấu bởi cái khát. Đêm đến, khi sương giá lạnh lẽo ập xuống, ngài lấy chiếc áo khoác của mình mà đắp cho anh lính. Cuối cùng, anh lính ngước nhìn lên vị tuyên úy và hỏi: “Thưa tuyên úy, ông là Kitô hữu phải không?” Vị tuyên úy trả lời: “Tôi cố gắng để là người Kitô hữu”. Anh lính nói: “Nếu Kitô giáo dạy người ta làm cho người khác những việc mà ông đã làm cho tôi, thì ông hãy dạy cho tôi biết đạo Kitô giáo đi. Vì tôi cũng muốn trở thành kitô hữu”.
Người ta thường nói, muốn biết lòng quảng đại của một người nào thì đừng xét xem người đó đã cho đi những gì, nhưng hãy xem người ấy còn lại những gì sau khi đã cho đi. Vị tuyên úy đã dám liều mất mạng sống mình khi cho đi tất cả. Hành động của ngài và của bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ nhất về ý nghĩa của việc trao ban đến hy sinh. Nếu chúng ta không trao ban chính bản thân mình, nghĩa là chỉ cho đi những gì dư thừa, thì Thiên Chúa còn tiếp tục đòi hỏi chúng ta nhiều hơn nữa. Người muốn chúng ta dấn thân nhiều hơn. Người muốn chúng ta dâng hiến cả chính bản thân mình một cách trọn vẹn. Người muốn một sự dâng hiến đến mức hy sinh. Lạy Chúa, con đã nhiều lần không dám dấn thân cho đi trọn vẹn, con còn sợ mất mát quá nhiều. Xin Chúa giúp con biết can đảm trao đến hy sinh chính mình để đáp lại tình yêu của Chúa đã trao ban đến chết cho con trên thập giá.
65. Dám cho đi tất cả
Dường như một trong những nỗi lo lớn của con người là phòng thân. Ai cũng tranh thủ lo tích trữ chút đỉnh tiền bạc của cải để lo cho bản thân mình phòng khi có chuyện bất trắc xảy ra. Khi cần giúp đỡ ai người ta cũng dành lại chút ít chứ khó có trường hợp nào mà người ta dám cho đi tất cả. Ðó là cái nhìn bình thường và tự nhiên ai cũng công nhận.
Ðoạn tin mừng hôm nay cho ta thấy một người dám sống ngược lại với cái nhìn và suy nghĩ bình thường này. Người này đã dám cho đi tất cả. Một người đàn góa nghèo đã dám bỏ vào hòm tiền dâng cúng trong Ðền Thờ một phần tư xu. Số tiền tuy ít ỏi nhưng là cả tấm lòng của bà.
Chúng ta biết người đàn bà theo xã hội Á Ðông phải chu toàn Tam tòng Tứ đức. Người đàn bà này có thể không còn chỗ nương tựa. Bởi lẽ, bà đã xuất giá theo chồng mà chồng lại chết. Và có lẽ bà cũng không có con trai để nương tựa. Do đó, cuộc sống của bà trở nên nghèo khó.
Dầu vậy, chúng ta thấy bà nghèo tiền của vật chất nhưng tấm lòng của bà lại không nghèo. Chúa Giêsu đã ngồi quan sát những người bỏ tiền vào thùng. Ðã có nhiều người bỏ vào thùng này nhưng Người không nói câu gì. Ðến lượt bà Chúa Giêsu đã vội lên tiếng: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12, 43b - 44)
Chúa Giêsu nhìn thấu cõi lòng con người. Chúa không đánh giá con người theo dáng vẻ bên ngoài. Chúa Giêsu không dựa vào tiêu chuẩn những gì con người có mà Người dựa vào tận thâm sâu tâm hồn mỗi người. Chắc chắn người đàn bà góa nghèo này có lòng tin tưởng thật sự vào Chúa nên bà mới dám cho đi tất cả. Dù rằng một phần tư xu đó là phần nuôi sống bà ngày hôm đó nhưng bà vẫn không giữ lại cho riêng mình.
Mối thứ ba trong cải tội bảy đức dạy chúng ta rộng rãi chớ hà tiện. Rộng rãi với Chúa, rộng rãi với anh chị em. Thế nhưng thực tế chúng ta thấy có nhiều người lại không dám cho đi dù là phần dư thừa. Với Chúa thì họ không dám cho Chúa thời giờ đi dự lễ ngày Chúa nhật cũng như giờ kinh hôm, kinh mai mỗi ngày. Với anh chị em thì họ sống theo châm ngôn "mọi người phải vì mình".
Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết dám cho đi tất cả vì Chúa và vì anh chị em. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thua sự rộng rãi quảng đại của chúng ta.
66. Tấm lòng.
Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta tấm gương đạo đức chân thành của hai người phụ nữ nghèo của nhưng giàu lòng: một người thời ngôn sứ Êlia và một người thời Chúa Giêsu.
Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarépta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa, bà đã liều chết đói, hy sinh chút bột và dầu còn lại làm bánh nuôi ngôn sứ, nhưng Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Câu chuyện này đã được Chúa Giêsu nhắc tới rõ rệt một lần và lần khác Ngài ám chỉ đến.
Một phụ nữ khác thời Chúa Giêsu, đang sống trong cảnh túng thiếu, thế mà bà đã đem cả số tiền lương công nhật, tức là những gì bà có để nuôi sống mình, bỏ vào hòm tiền dâng cúng cho nhà thờ, và Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác, tại sao vậy? Bởi vì trước mặt Chúa, những công việc từ thiện, và cả những việc đạo đức mà những người giàu có, cụ thể là giới kinh sư và Pharisêu, chỉ là những phương tiện trục lợi, hay xây dựng danh giá và địa vị cho họ, chứ không phải do lòng kính mến Chúa hay thương yêu người mà phát xuất. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở nơi nào cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình lớn thì động lực chính có khi không phải là đức ái, mến Chúa yêu người, mà chỉ là giá mua danh vọng. Không nên chờ đợi những người như thế hành động một cách âm thầm, ẩn danh. Thành thử số tiền hay công lao khó nhọc họ bỏ ra có thể là nhiều nhưng thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là cuộc đầu tư một vốn bốn lời, đó là sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải là phục vụ.
Trái lại, người đàn bà góa trong Tin Mừng tỏ ra biết phục vụ tôn giáo hết mình: hòm tiền ở hành lang nhà thờ, chắc là thu góp để xây cất hoặc bảo trì bảo quản đền thờ, vì thời Chúa Giêsu đền thờ vẫn chưa hoàn thành. Bà không cần biết ai đóng góp bao nhiêu, bà chỉ thấy có bổn phận đóng góp để tỏ lòng tôn thờ kính mến Chúa theo khả năng của mình. Cho nên, bà có bao nhiêu thì dâng cúng bấy nhiêu mà không hề lo đến tương lai, đến ban chiều, đến ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay Thiên Chúa.
Chính vì thế Chúa Giêsu khen bà đã dâng cúng nhiều hơn những người khác: xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, đáng tức cười. Nhưng vì căn cứ trên ý hướng để đánh giá trị công việc, cho nên Chúa thấy hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh này nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng: người đàn bà này đang túng thiếu, nhưng bà đã thực sự quên mình để chỉ nghĩ đến Chúa, tới ích lợi chung, trong khi đó những người dâng cúng nhiều lại chỉ đi tìm mình, tìm danh tiếng vẻ vang cho mình mà quên Chúa. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng họ có mất mát gì đâu, trái lại còn được lời về danh giá và tiếng khen. Chính vì những lý do đó mà Chúa Giêsu đã cho rằng bà ta dâng cúng nhiều hơn những người khác.
Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với cả tấm lòng. Đúng vậy, của cải thì có hạn, người nhiều người ít, công sức cũng có hạn, kẻ nhiều khả năng, kẻ ít khả năng, nhưng tấm lòng thì kể như vô biên giới, và Chúa nhìn vào nơi thẳm sâu của cõi lòng từng người, cõi lòng vô biên giới ấy cân đo những gì là trong sáng, những gì là u tối, những gì là thẳng thắn, những gì là cong queo, để rồi Chúa đánh giá và thưởng công. Vì thế, số lượng nhiều ít của cải vật chất đem ra để chia sẻ không có giá trị nhiều, chính tấm lòng yêu thương quảng đại bên trong mới quan trọng và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người ta nhìn bên ngoài, còn Thiên Chúa nhìn bên trong, đó là trường hợp bà góa, bà dâng của và dâng cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.
Như vậy, bài học chúng ta cần ghi nhớ và suy nghĩ là cách chúng ta làm việc bác ái từ thiện thế nào. Thường thường ai cũng muốn làm việc để được người khác đề cao khen thưởng, nhưng trong việc bác ái, cụ thể là việc bố thí, thì Tin Mừng nói rõ: “Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín nhiệm sẽ thưởng công cho ngươi”, nghĩa là làm phúc bố thí để cho Chúa biết, Chúa thấy, đó mới là mục đích, đó mới là quan trọng. Điều quan trọng ở đây là chính Chúa thấy trong sự kín nhiệm, kín đáo, loài người không thấy, không biết, nhưng Chúa thấy và Chúa biết tất cả và Chúa có phần thưởng của Ngài. Ở đời, ai làm gì cho chúng ta, chúng ta cũng dành một phần thưởng tương xứng cho họ, huống chi Thiên Chúa. Nhưng có điều chắc chắn là Chúa sẽ thưởng đời sau, cũng có khi Chúa thưởng ngay đời này. Như vậy, rõ ràng làm việc lành để ca tụng Chúa chứ không phải để ca tụng mình, nếu được người ta ca tụng là đã lãnh phần thưởng rồi, và như thế có thể sẽ không còn công phúc trước Thiên Chúa nữa.
Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta thường làm những việc đạo đức, những việc bác ái, chia sẻ, những cách đối xử với người khác như thế nào? Có phải với tấm lòng chân thực hay vì những lý do gì khác? Chúng ta hãy nhớ: Chúa căn cứ vào tấm lòng chúng ta mà thưởng công cho chúng ta.
67. Nghèo túng.
Dưới mắt người đời, thì nghèo túng là một điều bất hạnh. Chẳng đặng thì đừng mới phải cúi đầu chấp nhận tình cảnh hẩm hiu ấy.
Hình ảnh bà góa trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một tiêu biểu cho thân phận nghèo túng. Thế nhưng, theo Kinh thánn, người nghèo túng thường được Chúa ca tụng và chúc phúc.
Đúng thế, trong những ngày hạn hán, chỉ riêng bà góa thành Sarepta được Chúa sai tiên tri Êlia tới ban phúc lành. Rồi trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa khen ngợi bà góa đã bỏ vào hòm tiền có hai đồng xèng, là đã bỏ nhiều nhất, vì bà dám hy sinh cả những cái cần thiết cho cuộc sống của mình. Lần khác Chúa đã làm phép lạ, cứu sống cậu thanh niên con trai của một bà góa thành Naim.
Sở dĩ Chúa ca ngợi và chúc phúc như thế là vì họ đã rộng rãi với Chúa. Thực vậy, dù phải cho đi đến miếng bánh cuối cùng, dù phải dâng cúng ngay cả những đồng xu cần thiết…họ cũng không tiếc xót.
Nghèo túng tự nó chẳng bao giờ là điều đáng ước mong, nhưng Chúa đã ca ngợi và chúc phúc cho họ không phải vì họ nghèo túng, nhưng vì người nghèo túng thường có tâm hồn độ lượng, biết chia sẻ và cảm thông với những người cùng sống trong một cảnh ngộ như mình.
Trong cơn hoạn nạn, kinh nghiệm cho thấy, họ là những người có mặt đầu tiên và ra tay giúp đỡ nhiều hơn cả.
Hơn thế nữa, họ còn biết tin tưởng vào Chúa, sẵn sàng chịu đựng cảnh nghèo túng trong niềm kính sợ Chúa như người ăn xin tên là Lagiarô, không than thân trách phận như ông Giob, vì họ tin tưởng rằng sau những gian nguy thử thách ấy, Chúa sẽ ân thưởng bội hậu cho họ như lời Ngài đã phán:
- Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ.
Chúa Giêsu đã không những đã ca ngợi và chúc phúc cho những người nghèo túng, mà hơn thế nữa, Ngài đã chọn con đường nghèo túng để đến với chúng ta và cứu độ chúng ta. Sinh ra tại Bêlem không nhà không cửa. Lớn lên tại Nagiarét với những công việc cực nhọc. Lang thang rao giảng Tin Mừng:
- Con cáo có hang chim trời có tổ nhưng Con Người thì không có chỗ tựa đầu.
Và sau cùng, đã chết đi một cách trần trụi và tủi nhục trên thập giá.
Chúng ta có thể tóm kết về cuộc đời Ngài như thế này:
- Sinh ra nghèo túng, lớn lên nghèo túng hơn và chết đi một cách vô cùng nghèo túng.
Sở dĩ như vậy vì Ngài là một vị Thiên Chúa giàu sang, đã mặc lấy thân phận nghèo hèn để biến chúng ta, những tạo vật nghèo hèn, được trở nên giàu sang.
Có một câu chuyện kể lại rằng:
Ngày kia, gặp một anh ăn mày, Chúa đã xin anh ta một chút gì đó. Miễn cưỡng anh ta phải vét bị đưa cho Chúa một nắm gạo. Chúa nhận lấy, nhưng rồi sau đó đã trả lại ngay. Tuy nhiên, lạ lùng thay, trên bàn tay anh ta không phải là những hạt gạo gẫy nát mà là những hạt vàng sáng chói. Anh ta tiếc rẻ vì đã không đưa cả bị cho Chúa.
Trong đời sống đạo đức, chúng ta chỉ để ý xin Chúa, mà ít để ý đến những điều chúng ta có thể làm cho Ngài. Tuy nhiên, cũng có những người đã hiểu và họ đã dâng cho Chúa: có thể là một vài đồng xu hay một nắm gạo, có thể là tất cả bị gạo và ngay cả mạng sống của chính mình. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dâng gì cho Chúa? Chúa sẽ chẳng bao giờ chịu thua lòng rộng rãi và quảng đại của chúng ta đâu.
68. Hôn nhân trên Thiên Đàng
(Bài giải thích của cha giảng Phủ Giáo Hoàng, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, về các bài đọc từ phụng vụ Chúa nhật 32 thường niên - Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách)
Ngày kia, Chúa Giêsu đứng trước thùng tiền đền thờ, quan sát xem đám đông dâng cúng tiền. Người thấy một bà góa đến và bỏ vào thùng tất cả những gì bà có, hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Roma. Người quay về các môn đệ của Người và nói, "Thầy bảo thật anh em, bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó, còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống."
Chúng ta có thể gọi Chúa Nhật này là "Chúa Nhật những bà góa." Truyện một bà góa cũng được tường thuật trong bài đọc thứ nhất, bà góa thành Zarephath, kẻ đã cho tất cả những gì bà có để ăn (một nắm bột và một giọt dầu) đễ dọn một bữa ăn cho tiên tri Elia.
Đây là một dịp tốt để lưu ý đến hai bà goá đó và những ông goá vợ ngày nay. Nếu Kinh Thánh thường nói về những bà góa và không bao giờ nói về các ông góa, là vì trong xã hội ngày xưa người phụ nữ bị bỏ lại một mình là một sự bất lợi lớn hơn người nam bị bỏ lại một mình. Ngày nay không còn sự khác biệt này nữa. Thực sự, nói chung thì bây giờ xem ra những người nữ ở một mình xoay sở tốt hơn người nam.
Trong dịp này tôi muốn đề cập một chủ đề đáng quan tâm dứt khoát không những cho các bà goá và ông góa, nhưng cũng cho tất cả những ai đã kết hôn, cách riêng trong tháng này tháng chúng ta nhớ đến người chết. Có phải sự chết của một người chồng hay bà vợ, đem lại sự chấm dứt hợp pháp của một cuộc hôn nhân, cũng mang theo nó sự chấm dứt hoàn toàn hiệp thông giữa hai người? Có phải một sự gì của dây ràn buộc này đã hiệp nhất rất mãnh liệt hai người trên mặt đất, vẫn tồn tại trên trời, hay là tất cả bỉ lãng quên một khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa vào sự sống đời đời?
Ngày kia, một số người Sadducé trình bày với Chúa Giêsu trường hợp hi hữu về một người nữ vợ liên tiếp của bảy anh em, hỏi Chúa bà ấy sẽ là vợ của ai sau ngày sống lại. Chúa Giêsu trả lời: "Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời" (Mc 12:25).
Vì giải thích sai lạc lời nói này của Chúa Giêsu, nên một số người chủ trương rằng hôn nhân sẽ không có tiếp tục trên trời. Nhưng với sự đáp trả này Chúa Giêsu loại trừ tranh biếm họa những người Sadducé trình bày về thiên đàng, dường như trên thiên đàng sẽ tiếp tục quan hệ trần tục của vợ chồng. Chúa Giêsu không loại bỏ khả năng họ có thể tái khám phá trong Thiên Chúa dây ràn buộc đã liên kết họ dưới thế.
Theo quan niệm nầy, hôn nhân không chấm dứt hẳn lúc chết nhưng được biến đổi, thiêng liêng hóa, giải phóng khỏi những giới hạn đánh dấu sự sống trên mặt đất, cũng như những sự ràn buộc giữa cha mẹ và con cái hay là giữa bạn hữu sẽ không bị bỏ quên. Trong một kinh tiền tụng cho người chết phụng vụ công bố: "Sự sống được thay đổi chớ không mất đi." Cả hôn nhân, là thành phần của sự sống, sẽ được thay đổi, chớ không bị hủy bỏ.
Nhưng cái gì xảy ra cho những kẻ đã có một kinh nghiệm tiêu cực vế hôn nhân trần tục, một kinh nghiệm về sự hiểu lầm và đau khổ? Ý niệm giây hôn nhân không dứt cho họ lúc chết, có phải thay cho một niềm an ủi, lại là một lý do làm cho họ sợ chăng? Tình yêu đã liên kết họ, có lẽ chỉ một thời gian ngắn, vẫn tồn tại; những khuyết điểm, những hiểu lầm, sự đau khổ mà họ giáng cho nhau, sẽ tiêu tan.
Thật sự, chính sự đau khổ này, chấp nhận với đức tin, sẽ được biến đổi thành vinh quang. Nhiều vợ chồng sẽ cảm nghiệm tình yêu thật cho nhau chỉ khi họ sẽ được tái hiệp nhất "trong Thiên Chúa," và với tình yêu này sẽ có niềm vui và sự hiệp nhất trọn vẹn mà họ không biết được dưới đất. Trong Thiên Chúa mọi sự sẽ được hiểu, mọi sự sẽ được tha thứ, mọi sự sẽ được bỏ qua.
Dĩ nhiên nhiều người sẽ hỏi về những kẻ đã kết hôn hợp pháp với những người khác nhau, những ông goá và những bà góa đã tái kết hôn. (Đây là trường hợp được trình bày cho Chúa Giêsu về bảy anh em lần lượt cưới cũng một người nữ làm vợ). Cả đối với họ chúng ta phải lập lại cũng một sự: tình yêu và sự trao thân cho nhau thực sự giữa mỗi người chồng và vợ, vì khách quan là một sự lành đến từ Thiên Chúa, sẽ không bị phá hủy. Trên thiên đàng sẽ không có sự tranh đua trong tình yêu hay sự ganh tị. Những sự này không thuộc về tình yêu thật nhưng thuộc về những giới hạn nội tại của tạo vật.
69. Đồng tiền.
Có một ông già giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền”. Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông, tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác”. Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử”. Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc”. Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.
Cuộc đàm thoại giữa ông nhà giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận những điều mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết và công nhận như vậy. Bởi vì tự nó tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ. Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng giống như tờ 1 đồng, chỉ là một tờ giấy có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền giấy và công in. Nhưng theo giá trị định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần tờ 1 đồng. Chính vì giá trị định ước này mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó vẫn được quí trọng, dù đẹp dù xấu, dù mới dù cũ, nó vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình. Nó được chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.
Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó. Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại cũng như được dùng vào những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.
Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế theo như định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng. Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu?
Xét về số lượng thì chắc chắn hai đồng tiền của bà góa thua kém xa số tiền lớn của những người khác. Nhưng xét theo tỷ lệ tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do, về mục đích thì người đàn bà này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư thừa mà dâng những cái rất cần thiết để nuôi sống. Có thể số tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Nhưng không, bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay lợi dụng Thiên Chúa. Trái lại, những người dâng cúng nhiều chỉ khoe khoang để tìm danh vọng tiếng khen. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng so với cơ nghiệp và gia tài của họ thì có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc nhưng lại được lời về danh giá và tiếng khen. Cho nên, thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là một cuộc đầu tư một vốn bốn lời. Đó là một sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải phục vụ. Chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu đã đánh giá bà góa nghèo dâng cúng nhiều hơn mọi người.
Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.
Qua bài Tin Mừng với việc làm của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc đối với người sử dụng nó và qua đó chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha. Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên cao quí như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành…
70. Cho đi.
Người ta trắc nghiệm một quà tặng không phải bằng số lượng của nó, nhưng bằng sự mất mát mà người cho phải chịu.
Chúng ta phải cho điều gì thật sự có một giá trị đối với chúng ta. Đó không phải là cho cái nếu không có chúng ta vẫn sống được mà là cho cái nếu không có, chúng ta không thể sống được hoặc chúng ta không muốn thiếu nó trong cuộc sống: Loại cho này làm chúng ta bị tổn thương. Nhưng đó chính là tình yêu đang hành động. Khi người cho cũng rất cần của cho như người nhận. Đó mới là sự cho thật. Và lúc đó, sự cho thành một sự hy sinh.
Mẹ Têrêxa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêxa, mọi người đều cho mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho mẹ số tiền ấy”.
Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêxa”.
Mẹ Têrêxa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao: ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.
Các bài đọc hôm nay kể lại những câu chuyện tương tự về lòng quảng đại. Hai bài nói về hai con người rất nghèo: hai bà góa. Chúng ta tự hỏi làm thế nào mà một người nghèo như bà góa trong Tin Mừng lại có thể làm được một hành động tốt lành tự phát đến như thế. Người ta cần phải trung tín thực hành lòng quảng đại trong nhiều năm để có được tấm lòng nhân hậu như bà. Nó được hình thành không phải bằng một ít công việc lớn lao mà bằng nhiều công việc nhỏ bé.
Nếu bạn chiếm được một địa vị cao trong đời sống, bạn có một cái danh phải giữ. Bạn ý thức sự hiện hữu của mình trong con mắt của quần chúng. Vì thế khi bạn làm một điều tốt bạn phải làm thế nào để nó gây ấn tượng cho những người khác hơn là để cho điều tốt ấy xuất phát từ lòng nhân hậu của tâm hồn bạn. Điều này đưa vào một yếu tố cho việc hoàn thành – bạn hoàn thành cho một số khán giả.
Có một địa vị thấp (như bà góa) có thể có lợi ích. Nó có nghĩa bạn không bị để ý nhiều. Bằng cách đó, những gì bạn làm hoặc cho có cơ may là những sự việc vô danh. Công việc bạn làm càng dễ dàng xuất phát từ tâm hồn của bạn.
Mặc dù không ai khác nhận ra việc bà góa đã làm, Đức Giêsu nhận ra nó và ca ngợi bà. Biết rằng một việc làm yêu thương dù nhỏ không thoát khỏi ánh mắt dõi theo của Người là một điều thích thú. Chúng ta tốt biết bao khi nhận ra công việc những người khác làm và khẳng định chúng! Đáng buồn là thật ra chúng ta quá chú tâm về mình đến nỗi chúng ta không còn nhận ra cũng không quan tâm đến những công việc ấy.
Bà góa trong câu chuyện Tin Mừng đã cho tất cả những gì thuộc về bà. Bà cho đi mọi sự an toàn nhỏ nhặt nhất và phó thác hoàn toàn chính mình cho Thiên Chúa. Vì thế, câu chuyện ấy vừa là câu chuyện về sự tín thác vào Thiên Chúa, vừa là câu chuyện về lòng quảng đại.
71. Tinh thần người đàn bà góa nghèo
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Trọng tâm của biến cố là chính Ðức Giêsu. Người đã gọi các môn đệ lại và nói cho họ điều Người vừa quan sát thấy. Người nói cho họ về một người đàn bà góa nghèo. Bà đã đi qua gần chỗ Người đang đứng và bà đã làm một việc, mà Ðức Giêsu lấy làm tâm đắc và cho là rất đáng đề cao. Ðó là bà đã bỏ vào một trong mười ba hòm tiền quyên góp của đền thờ để gần đó hai đồng xu nhỏ. Những đồng xu được đúc bằng đồng đỏ này là những đồng tiền nhỏ nhất ở Do-thái vào lúc bấy giờ và được gọi là Pê-ru-ta. Nhưng vì thánh sử Mác-cô viết Phúc Âm này cho một cộng đoàn tín hữu không hiểu tiếng Do-thái, nên ngài đã gọi đồng tiền đó bằng tiếng Hy-lạp là Lép-ta, để khi họ nghe câu chuyện, có thể tưởng tượng được số tiền bà góa dâng cúng là bao nhiêu!
Thuộc về khung cảnh của câu chuyện còn có một điều gây thắc mắc. Ðó là câu: “Ðức Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền dâng cúng cho đền thờ” (Mc 12,41). Nhưng trên thực tế, ở trong đền thờ Giê-ru-sa-lem không hề thiết kế chỗ ngồi. Ðiều đó có thể giải thích là sau thời Ðức Giêsu việc ngồi trong đền thờ mới bị cấm, hay cũng rất có thể là thánh sử Mác-cô, một người ngoại giáo mới trở lại đạo, đã không biết rõ được tất cả những tục lệ và thói quen trong đền thờ chăng!
Một câu hỏi khác nữa, là làm thế nào Ðức Giêsu có thể biết được người ta đã bỏ bao nhiêu tiền vào hòm tiền đền thờ? - Nhưng điều này đã tìm được sự giải thích: Trong việc dâng cúng ở đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa kia, người ta không trực tiếp bỏ tiền vào hòm tiền đền thờ, nhưng họ trao số tiền cho vị Thầy cả đứng gần đó, vị này sẽ kiểm soát giá trị của tiền dâng cúng và nêu lên mục đích xử dụng. Sau đó số tiền mới được bỏ vào hòm tiền. Một việc làm quá quen thuộc như thế hầu như ai cũng đều có thể nhìn thấy, chứ không thể che mắt quần chúng đang đứng chung quanh được. Vì thế, khi có một người giàu có nào đến dâng cúng một số lượng tiền to lớn, thì đều được hô to lên và đương nhiên gây được sự ngạc nhiên và khâm phục của đại chúng. Còn đối với trường hợp của người đàn bà góa nghèo là cả một việc thật tế nhị! Nếu vị Thầy cả khi nhận hai đồng xu quá ít ỏi của bà, mà biết thông cảm hoàn cảnh của bà, không rao lên mục đích xử dụng hay chỉ nói nho nhỏ, thì mới hy vọng là những người đứng đầy chung quanh không nghe biết được.
Bây giờ chúng ta quay về người đàn bà: Bà là một người góa chồng và được nói đến như là một người nghèo đói. Vâng, khác với ngày nay, xưa kia ở Do-thái những người đàn bà góa và các trẻ con mồ côi là những thành phần xã hội bất hạnh và bị mất mát thua thiệt nhất.
Trước hết, qua cách ăn mặc người ta nhận ra ngay bà là một người góa; Còn hai đồng Lép-ta thực ra chỉ có một giá trị tối thiểu. Ðó là điều không lấy gì làm ngạc nhiên cả. Bởi vì người đàn bà goá không hề có lương thưởng lợi nhuận riêng. Khi chồng bà chết, bà phải trở về nhà cha mẹ đẻ của mình. Nếu người cha đẻ của bà cũng không còn nữa, thì còn lại một cách là đi ăn mày của bố thí. Và dĩ nhiên, cuộc đời của một người đành phải ngửa tay đi ăn mày kẻ khác như thế, éo le và nhục nhã như thế nào, những người đương thời ai cũng đều biết.
Vì thế, Ðức Giêsu đã can thiệp. Người giải thích cho các môn đệ điều Người vừa quan sát thấy. Nhưng Ðức Giêsu lại không đưa ra một lời kết luận rõ rệt về câu chuyện này. Cả đến một hướng dẫn thực dụng về đạo đức cũng không. Chúng ta còn nhớ trong câu chuyện người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu, Người đã nói: “Ngươi hãy đi và cũng hãy hành động như vậy” (Lc 10,37). Còn ở đây, Ðức Giêsu lại không hề khuyên các môn đệ của Người hãy hành động giống như bà góa nghèo kia, tức đem trút hết số tiên bạc họ có vào trong hòm tiền đền thờ! Hơn nữa, Người cũng không hề phê bình những người giàu có dâng cúng tiền cho đền thờ, trái lại chúng ta còn có cảm tưởng là Người cũng coi việc những người giàu đổ tiền vào đền thờ là một việc chính đáng!
Vậy, chúng ta phải nghĩ gì về sự việc đó? Sự việc là có kẻ thì tiền bạc dư thừa, còn có kẻ khác lại hầu như chẳng có gì cả! Phải chăng những số tiền to lớn được dâng cúng cho đền thờ là không nhất thiết quan trọng? - Ở đây, câu trả lời đã quá rõ ràng: Mục đích được xử dụng đã được ghi rõ rệt; tất cả mười ba hòm tiền chứa đựng tiền bạc dâng cúng của khách thập phương là cốt để phục vụ đền thờ và để trang trải những tốn kém trong việc thờ phượng trong đền thờ. Nói cách khác, việc dâng cúng tiền của cho đền thờ là một việc chính đáng, cần thiết và rất đáng khuyến khích. Vậy, chỉ còn lại sự khác biệt thuộc lãnh vực tinh thần. Ðức Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Người không nêu danh ra. Ðó là ý nghĩ và tâm tình của người dâng cúng.
Nhưng nếu bảo người đàn bà góa nghèo đã dâng cúng nhiều hơn những người giàu có, thì người ta phải hiểu điều đó như thế nào? Rất có thể Ðức Giêsu cho rằng trước mặt Thiên Chúa, giá trị thực sự của một lễ vật không nằm trong số lượng hay giá trị tiền bạc do người đời thiết định, nhưng ở một chỗ khác!
Nếu người ta không thể căn cứ vào tiền bạc để phân biệt giữa giàu nghèo, thì có lẽ tư cách và phẩm chất của người dâng cúng mới đáng được đánh giá? Trong câu chuyện chúng ta đề cập tới ở đây, có lẽ nhà triết học Erich Fromm đã phẩm định rất đúng, là: Một người có một cái gì đó, còn một người khác là một cái gì đó! Chắc chắn Ðức Giêsu cũng có một ý nghĩ tương tự. Trên thực tế, Người đã không đòi hỏi các môn đệ của Người: Các con cũng hãy hành động như bà góa nghèo! Nếu không, điều đó sẽ có nghĩa là: Khi các con đã dâng cúng mọi sự cho đền thờ, bấy giờ các con mới là môn đệ đích thực của Thầy! Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng Ðức Giêsu có thể kết luận câu chuyện: Các con hãy trở nên giống như bà góa! Bà đã chứng tỏ cuộc sống của bà hoàn toàn thuộc về một mình Thiên Chúa. Bà không có của cải gì cả để có thể dâng cúng cho đền thờ Thiên Chúa. Thực ra, bà không cần phải lo dâng cúng gì cho Thiên Chúa nữa cả, bởi lẽ bà đã thuộc về Người hoàn toàn rồi. Bà cho đi một cách thảnh thơi và trọn vẹn, không san sẻ, vì bà không lo sợ trước cuộc sống, v,v...! Ðúng vậy, Ðức Giêsu có thể lý luận một cách tương tự. Nhưng trên thực tế, Người đã không nói gì cả!
Chúng ta đã từng đọc thấy trong Phúc Âm là trong mỗi giờ giáo huấn Ðức Giêsu thường nêu lên một đòi hỏi gì đó về việc đạo đức hay đưa ra một hướng dẫn cụ thể về luân lý, để giúp con người định hướng được đời mình một cách đúng đắn! Thế nhưng, trong câu chuyện người đàn bà góa nghèo này, người ta không cần phải áy náy lương tâm, không cần phải nóng nảy thúc bách gì cả. Chỉ cần phải bình tĩnh kiểm điểm lại tư cách và trạng thái của tâm hồn mình trước mặt Thiên Chúa.
Câu chuyện người đàn bà góa dâng cúng tiền vào hòm tiền đền thờ này được kết thúc không bằng một lời dạy luân lý, cũng không bằng một lời khuyên cụ thể về phương thức hành xử nào cả. Tuy nhiên qua câu chuyện, người ta có thể tự đoán biết Ðức Kitô muốn nhắc bảo ta điều gì: Con hãy sống và hành động chân thành, nhiệt tâm và bền vững. Nếu con giúp đỡ ai, con hãy giúp đỡ cách thành tâm và hết lòng, theo khả năng con cho phép. Nếu dâng cúng tiền của hay bất cứ điều gì cho Thiên Chúa và Giáo Hội Người, con hãy dâng cúng theo khả năng của con, nhưng phải dâng một cách thành tâm. Bởi vì trước mặt Thiên Chúa, của lễ cũng như số lượng của lễ hoàn toàn không quan trọng. Chính tâm tình con thảo và tấm lòng trung hậu của con người mới là điều Thiên Chúa muốn và vì thế mới là yếu tố có tính cách quyết định.
72. Cho mà không mất.
Trên một bình diện nào đó, câu chuyện của bài đọc một có vẻ như vô nghĩa. Xem ra nó có vẻ khôi hài và không thể có. Thật thế, nếu chúng ta hiểu nó theo nghĩa đen. Dĩ nhiên chúng ta có thể hiểu nó theo nghĩa đen – tức là nghĩa của một phép lạ. Nhưng nó có thể có một ý nghĩa khác. Lúc đó nó trở nên rất thật và mở ra toàn bộ chân trời ý nghĩa và áp dụng.
Bà góa không còn gì ngoài một ít lương thực sau cùng. Mọi thứ bà còn là một nắm bột trong hũ và một ít dầu trong bình. Tuy nhiên, khi chia sẻ lương thực ấy với vị ngôn sứ, nó còn mãi không hết. Điểm quan trọng ở đây là có thể cho mà không mất. Thật vậy, cho là một cách để có được chắc chắn, cho không phải là để mất.
Hãy lấy ví dụ một hạt lúa mì. Nếu cứ để trong kho thóc nó vẫn chỉ là hạt lúa mì, trong thời gian đó, nó sẽ bị mốc meo và thối mục, và rồi không để lại gì. Nhưng nếu nó được đưa ra ngoài và đem gieo trồng, nó sẽ chết, nhưng như thế, nó sẽ sinh ra rất nhiều hạt khác.
Một ví dụ khác. Nếu bạn đốt một ngọn nến, bạn có thể thắp sáng hàng trăm ngọn nến từ ngọn nến ban đầu mà không làm cho nó giảm đi ánh sáng. Nó có thể chia sẻ ánh sáng mà không mất đi ánh sáng của mình.
Như thế, có một ý nghĩa là chúng ta có thể chia sẻ những gì mình có mà không làm mình nghèo đi. Thật vậy, dường như chúng ta còn giàu có thêm khi làm thế. Dĩ nhiên, ở đây chúng ta không nói về của cải vật chất. Một người thầy không mất gì trong kiến thức của mình khi chia sẻ kiến thức cho học sinh. Một người mẹ không mất gì trong tình yêu của mình khi chia sẻ tình yêu với con cái.
Vậy, chúng ta có thể chia sẻ những thứ như kiến thức, tình yêu và hòa bình với những người khác mà nguồn dự trữ những thứ ấy không hề bị giảm bớt. Sự cho sẽ giải phóng tâm hồn của người cho. Người cho được phong phú như là người nhận. Chúng ta thấy điều này trong trường hợp của bà góa trong bài đọc 1. Khi chúng ta cho một cách vui vẻ, phấn khởi, và nhận với lòng biết ơn thì mỗi người đều được chúc lành.
Brian Keénan, người bị bắt làm con tin trong nhiều năm ở Libăng cho chúng ta một ví dụ sâu xa. Ông nói rằng nếu một người bám víu vào chính mình, tỏ ra bực dọc không nghĩ đến những người cùng bị bắt làm con tin, hoặc không chăm sóc đến họ, hoặc không chia sẻ với họ… đó là một cách dẫn đến tai họa. Nó đưa người ta vào chính mình và trở thành u sầu và chỉ nghĩ đến mình. Ông nói: “Chúng ta sống còn qua những gì chúng ta cho”.
“Tình yêu giống như một cái rổ quyên tiền: Bạn sẽ không bao giờ có đủ cho tới khi bạn bắt đầu cho đi” (Anon).
73. Phẩm giá đời sống
(Suy niệm của Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân)
Bài Phúc Âm hôm nay có thể chia hai phần:
Phần 1: Chúa Giêsu chê những người luật sĩ kênh kiệu, giả hình và ham danh. Trong xã hội Do Thái bấy giờ đang bị thống trị bởi ách đô hộ ngoại bang Roma có ba lập trường khác nhau:
a. Lập trường cộng tác với chính phủ ngoại bang của các gia đình quý phái tư tế, giữ các chức vị Thượng tế, cai quản đền thờ và bè Sadoc.
b. Lập trường chống đối của các nhà ái quốc tự mệnh danh là nhiệt thành như Yuda người Galilê đã cầm đầu nổi loạn và bị đàn áp cách tàn nhẫn hồi Chúa Giêsu còn bé, hay Baraba được dân xin Philatô cho phóng thích (Mt 27,21).
c. Lập trường hàng phục thụ động của biệt phái, ký lục và luật sĩ. Đám dân đen còn lại thì bị hoang mang bơ vơ như "đàn chiên không người chăn dẫn" (Mc 6,34). Đám luật sĩ bị Chúa Giêsu chỉ trích trong bài Phúc âm hôm nay thuộc phe hàng phục thụ động ngoại bang để vớt vát những tư lợi của cá nhân mình. Đồng thời họ lại là những kênh kiệu ham danh, giả hình. Họ giống như "những mồ mả tô vôi mã ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt thây ma xú uế" (Mt 23,27).
Phần 2: Chúa Giêsu khen sự dâng cúng quảng đại của một bà góa nghèo vì tuy chỉ bỏ có hai đồng tiền nhưng thực sự đã dâng cúng nhiều hơn hết vì "những người khác bỏ của mình dư thừa còn bà này đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống" (Mc 12,44).
Như thế phẩm tính đời sống con người và nhất là lòng đạo đức không thể được thẩm định bằng cách sống hình thức bên ngoài nhưng chính là bằng sự cố gắng và thành tâm bên trong. Chính Chúa Giêsu đã dạy: "Không phải kẻ chỉ kêu lạy Chúa mà vào được nước thiên đàng, nhưng là kẻ thực thi Thánh ý Chúa" (Mt 7,21). Vì thực thi Thánh ý Chúa mới là yêu mến Chúa thật: "Ai yêu mến Ta thì tuân giữ giới luật Ta" (Ga 14,05).
Nhân đọc bài Phúc âm này chúng ta phải xét lại việc sống đạo của chúng ta: giả hình bên ngoài hay thực tâm bên trong.
Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm xa tránh cách sống phô trương giả hình bên ngoài.
74. Kết quả.
Một con cáo mẹ có ba con cáo con. Một lần kia, nó ngã bệnh, vì thế nó đã sai các con cáo con ra ngoài tìm thức ăn ban đêm. Nó nói với chúng chia ra và đi theo nhiều hướng khác nhau. Chúng không được đi về hướng Nam bởi vì thị trấn nằm ở hướng này.
Con cáo con đầu tiên mạnh khỏe nhưng rất lười biếng. Nó chọn con đường dễ nhất. Nó đi theo hướng đông qua một mảnh đất bằng phẳng. Nó không phải đi xa đã thấy mình ở trong một cánh đồng bị những con thỏ quậy phá. Nó giết chết một con, và ăn. Rồi nó bắt một con khác để đem về nhà.
Nó trở về nhà trong nửa giờ, không có vết trầy xước nào trên mình. “Ồ về rồi đấy ư?” Cáo mẹ nói. “Và có cả một con thỏ đẹp làm sao. Con làm tốt thật!” Và cáo mẹ liếm lên má nó một cái.
Con cáo con thứ hai rất thông minh. Nó đi theo hướng tây băng qua những cánh đồng lồi lõm. Nhìn thấy ánh sáng của một nông trại phía trước, nó đến gần một cách thận trọng. Nó thấy có một cái lỗ trống trong hàng rào mà nó có thể lọt vào nhà đầy những gà tây. Nhà không có nuôi chó giữ nhà. Con cáo con lẻn vào, giết chết hai con gà tơ và lôi ra ngoài. Khi thấy đã an toàn, nó ăn một nửa con. Nó chôn một nửa kia định hôm sau quay lại ăn nốt.
Nó trở về nhà đúng một giờ sau với con gà kia, sau khi cẩn thận rửa sạch máu dính vào mình nó trong một dòng suối. “Làm tốt đấy!” Mẹ cáo nói. “Con đã đem về một con gà tây tuyệt vời” và mẹ cáo liếm lên má nó hai cái.
Con cáo con thứ ba yếu ớt và có vẻ bị bệnh. Nó không có chọn lựa nào khác là đi theo hướng bắc vào trong vùng có nhiều đồi. Ở đây có ít nông trại mà lại cách xa nhau. Các nông trại mà nó gặp đều có chó dữ canh gác. Một con chó làm nó rách mặt qua lưới thép. Một người chủ trại tức giận đã nổ súng, và viên đạn chỉ trượt đi trong gang tấc.
Đêm trôi qua nhanh. Nó không biết làm gì ngoài việc quay đầu về nhà. Trên đường về nhà, nó cũng xoay xở bắt được một con chim sẻ. Mặc dù bị cơn đói thúc giục nó ăn con chim, nhưng nó quyết định đem con chim về cho mẹ nó. Nó về đến nhà lúc bình minh, mình dính đầy bùn, thân thể bầm xước. Khi nhìn thấy nó, cáo mẹ nói: “Con thế nào rồi? Sao trông con thảm hại thế!”
“Con đã vào nơi khó khăn”, cáo con nhỏ nhẹ đáp.
“Mẹ đã chẳng báo trước cho con phải cẩn thận sao” cáo mẹ ngắt lời. “Và con mang gì về cho mẹ sau một đêm đi lang thang?”
Với một đêm mà nó chỉ đem về một con chim sẻ. Hai cáo con kia phải bật cười.
“Cái gì? Một con chim sẻ ư? Đó là tất cả những gì mày đem về sao? Một con chim sẻ!”
“Đó là điều tốt nhất con có thể làm được!” Con cáo con nói.
“Lấy nó đi cho khuất mắt ta. Rõ ràng là tao đã uổng công nuôi dưỡng và chăm sóc mày”.
Sau khi đuổi cáo con ra khỏi hang. Cáo mẹ bày bàn tiệc, thực đơn gồm thỏ và gà tây. Cáo mẹ đặt cáo con khỏe mạnh ngồi ở bên phải, còn cáo con thông minh ngồi ở bên trái. Nhưng không có chỗ ở bàn tiệc cho cáo con nhỏ bé, bởi vì trong con mắt của cáo mẹ chỉ có kết quả mới là quan trọng.
Trong một chiều hướng nào đó, cáo mẹ có lý. Nếu dựa vào kết quả để phán đoán, thì cáo con nhỏ bé đã đi một đoạn đường dài sau hai con cáo kia. Nhưng trong một chiều hướng khác cáo mẹ không có gì sai lầm hơn. Nếu căn cứ vào nỗ lực thực hiện và tinh thần hy sinh thì con cáo con yếu ớt dẫn đầu hai con kia.
Câu chuyện cáo con nhỏ bé nhắc chúng ta nhớ đến bà góa trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đang sống trong một thế giới trong đó kết quả là điều duy nhất quan trọng. Phần thưởng và bằng cấp trao cho những kết quả, không bao giờ trao cho nỗ lực. Nhưng Đức Giêsu có một tiêu chuẩn so sánh khác, như chúng ta thấy trong câu chuyện bà góa nghèo. Đối với Người, không phải tầm mức của việc trao ban mới đáng kể, nhưng là cái giá phải trả cho việc trao ban ấy. Nói cách khác, không phải kết quả đáng kể mà là nỗ lực thực hiện và tinh thần thể hiện.
Với quan điểm đó, chúng ta có thể kết thúc câu chuyện của các con cáo như sau: Con cáo con ốm yếu về nhà vào lúc bình minh, mình dính đầy bùn, với các vết trầy xước và tím bầm. Đưa con chim sẻ cho cáo mẹ và nói: “Mẹ ơi, tiếc thật, nhưng con đã làm hết sức mình”. Khi nhìn con chim sẻ hai người anh của nó bật cười. Nhưng cáo mẹ không nhìn con chim sẻ mà nhìn vào vết thương của cáo con: “Tốt rồi”, cáo mẹ nói to “Con là con cáo nhỏ bé nhưng vĩ đại. Mẹ tự hào về con”. Rồi bà ôm chặt lấy nó, lấy lưỡi mà lau sạch vết thương cho nó, rồi bà cho nó ngồi ở chính giữa bàn tiệc.
75. Tâm tình hiến dâng - Lm. Anmai.
Người ta vẫn thường bé cái lầm với nhau là những người khá giả, giàu có thì dễ dâng hiến, dễ trao tặng hơn người nghèo nhưng không, thực tế hoàn toàn trái ngược. Những người nghèo, những người hơi kha khá một chút thì lại dễ biết chia sẻ, biết dâng hiến hơn những người giàu. Chuyện thực tế ấy ngày hôm nay được vẽ nên bởi hai bức tranh của hai bà goá: một bà thời Cựu Ước và một bà của thời Tân Ước. Hai bức tranh, hai hình ảnh, hai bà goá ấy nhưng tựu trung chỉ có một đó là tâm tình dâng hiến của một con người nghèo, một con người mà thường thì bị xã hội xếp vào hàng thứ yếu.
Bà goá ở cái thành Xarepta ngày xưa thật là hay. Có sao nói vậy, bà đã nói với "kẻ xin ăn" là Êlia rằng bà chỉ còn có một nắm bột trong hũ và một chút dầu trong vò. Dầu và bột đó có chăng chỉ đủ cho một bữa cho hai mẹ con thôi. Bi đát nhất cái câu của bà là "chúng tôi sẽ ăn rồi sẽ chết". Quá bi đát bởi vì thời đó đang bị hạn hán, chẳng có gì mà ăn hết. Mẹ goá con côi chỉ có chút bột, chút dầu ấy vậy mà một chàng thanh niên đến để xin ăn. Sức khoẻ của chàng thanh niên ấy mà ăn mớ bột và dầu được làm thành bánh thì chắc hai mẹ con chẳng còn gì để mà ăn nữa.
Sau khi nghe lời trần tình của chàng thanh niên, bà goá đã chia sẻ bánh cho chàng thanh niên và rồi hũ bột không vơi và bình dầu không cạn như lời Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ Êlia.
Với trang Tin mừng theo Thánh Maccô hôm nay thật là hay. Nơi trình thuật này, Maccô đã khéo léo vẽ lên một hình ảnh đẹp của bà goá nghèo ở đền thờ.
Trình thuật nhỏ này cũng được ghi lại nơi Luca 21,1-4, song không thấy nơi Matthêu. Điều này cũng dễ hiểu, vì đối với Thánh Matthêu, những cuộc tranh luận của Chúa Giêsu về phe ký lục giữ một tầm vóc quan trọng. Nên chi, thánh ký bỏ đi câu chuyện về bà goá nghèo này. Đang khi đó, Tin Mừng Luca lưu ý nhiều đến góc cạnh xã hội. Như vậy, câu chuyện này sẽ luôn là một thứ chủ đề hấp dẫn.
Trở lại với Maccô, câu chuyện hấp dẫn này được phác hoạ như một hình ảnh đối chọi lại với cuộc sống ích kỷ và giả tạo của ký lục mà Chúa Giêsu vừa phác họa.
Xét về nguồn tài liệu, câu chuyện đại loại như thế khá quen thuộc trong truyền thống Do Thái và cả thế giới ngoại giáo. Khiến chúng ta nhớ lại câu chăm ngôn quen thuộc mà các bậc khôn ngoan thởi đó ưa sử dụng: "Hai con chim câu được hiến dâng bởi một kẻ nghèo khó có giá trị hơn 1.000 hy lễ của vua Agrippa"
Có một câu chuyện rất phù hợp với bản văn Maccô như sau: ngày kia có một người đàn bà nghèo đến dâng một nắm bột bé nhỏ. Vị tư tế nhận lễ vật với thái độ khinh bỉ và sau đó ông ta đã ném đi. Ban đêm trong giấc ngủ, ông nghe có tiếng quở trách: "Đừng khinh bỉ bà ta. Đó dường thể bà ấy đã dâng hiến cả cuộc sống mình".
Ngồi đối diện với hòm tiền. Người xin dân chúng bỏ tiền vào hòm tiền như thế nào. Lắm người giàu có bõ nhiều. Bà góa nghèo khó nọ cũng đến và bỏ vào hai trinh, tức một xu (c. 41-42).
Hòm tiền: Hồi đó ở khu tiền đường phụ nữ, người ta xây một "phòng Hòm tiền" gồm 13 hộc, như thể thứ hộc bỏ thư ở bưu điện. Đây là nơi dành cho việc dâng cúng của các tín hữu Do Thái.
Cũng theo thông lệ thời đó, các khách hành hương Đền thờ sẽ không tự ý bỏ vào đó tiền bạc hay lễ vật. Họ trao của dâng cúng cho vị tư tế phụ trách và vị tư tế này sẽ đặt lễ dâng vào một trong các hòm tiền, tùy theo ý lễ.
Bởi thế, Chúa Giêsu có thể ngồi đó và quan sát được số tiền hay lễ vật dâng cúng. Người thấy bà góa nghèo đến bỏ vào hai trinh, tức một xu (c. 42).
Hai trinh, tức một xu.
Thời đó 1 lepton là đồng tiền nhỏ nhất được lưu hành. Nó bằng ½ kodrantes.
Hạn từ kodrantes dịch từ La ngữ quadrans. Như vậy 2 lepta khoảng 1 quadrantes. Lương công nhật của người thợ trung bình là 64 quadrans tức là 128 lepta.
Như vậy, hai trinh của bà góa là một số tiền quá ít oi bé nhỏ.
Người gọi môn đệ lại mà nói: Quả thật, Ta bảo các ngươi, bà góa nghèo khó ấy đã bỏ vào nhiều hơn hết thảy. Vì mọi người đều lấy của dư bỏ vào, còn bà ấy lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có, tất cả của độ thân (c. 43-44)
Hơn... hết thảy Người phụ nữ góa và nghèo này được Chúa Giêsu đánh giá cao nhất: Bà đã dâng cúng hơn mọi người khác, đang khi mà nếu xét theo cái nhìn của người đời, thì 2 trinh của bà là ít nhất. Vì chưng, bà đã "lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có"; Bà dã dâng hiến tất cả của độ thân.
Lồng kết vào trong nhãn quan thần học Maccô, sự dâng hiến đó của người góa phụ là biểu tượng của một thứ lòng đạo hạnh đích thực, khác hẳn với phe ký lục và các thành phần Do Thái tự mãn khác. Vì bởi, sự đạo đức đúng nghĩa là một sự phó thác toàn vẹn cho Thiên Chúa, một thái độ mà qua đó người ta để cho Thiên Chú hoàn toàn thu xếp, không giữ lại sự tính toán nào.
Y hệt như hình ảnh người phụ nữ lấy ngay cả sự túng thiếu của mình mà hiến dâng.
Cách diễn tả đó gợi nhắc đến giới luật trọng nhất mà Chúa Giêsu nêu lên ở trước: yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Và yêu đồng loại như chính mình (Mc 12,29-31).
Trong truyền thống Do Thái, thành ngữ hết sức lực ám chỉ tới mọi nguồn lợi vật chất mà kẻ ấy có.
Bà góa chỉ có 2 lepton. Nếu bà muốn giữ lại 1 lepton chẳng hạn, chẳng ai trách cứ gì bà. Song le, bà đã cho đi tất cả, cho đi chính mình. Một con người như thế ắt sẽ dễ dàng nhìn thấy khổ đau và thiều thốn của đồng loại và cũng sẽ yêu thương đồng loại như chính mình.
Đến đây, chúng ta có thể hiểu rằng: bà góa còn là một thứ biểu tượng của kẻ dám hiến dâng tất cả, dám hy sinh cả mạng sống cho Thiên Chúa cho đồng loại.
Trong bối cảnh kết thúc sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu với viễn tượng tử nạn cận kề, hình ảnh của bà góa phải chăng là sự gợi nhắc trước đến sự hiến dâng mạng sống của Người cho Thiên Chúa ngõ hầu cứu độ nhân loại.
Trong đời sống thường ngày, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi con người biết cho đi, biết trao tặng và cũng phải nói rằng có quá nhiều quá nhiều cơ hội để cho đi, để trao tặng. Khi cuộc sống đầy đủ, dư giả mà trao tặng ắt hẳn sẽ không có ý nghĩa cho bằng khi cuộc sống vẫn còn đó trong cái cảnh thiếu trước hụt sau.
Một anh chàng nghèo, vợ mới sinh con đầu lòng được vài tháng cầm 200.000 đồng vào biếu cha để phụ Cha sửa chữa trường cho các em khuyết tật trong giáo điểm của anh. Ngày hôm nay, 200.000 ấy chẳng thấm là bao so với công trình sửa chữa nhưng tấm lòng của anh chàng ấy quá lớn. Chàng thanh niên ấy sống đắp đổi qua ngày với cái nghề buôn bán quần áo sida. Vì hoàn cảnh sinh nhai, chàng thanh niên phải lội ngược lội xuôi về Sài Gòn mua quần áo rồi chạy mãi ra các khu công nghiệp như Nhơn Trạch, Bình Dương để bán. Do đi lại như vậy chàng ít có thời gian ở nhà nhưng ngày nào có ở nhà là ngày ấy chàng đi dự lễ.
Hôm ấy, chàng về đúng cái ngày mà cha đang sửa nhà cho các em khuyết tật, thế là chàng ghé nhỏ vào tai cha: Cha cho vợ chồng con phụ với cha một ít để cha lo cho các em!
Không nỡ cầm 200.000 của chàng thanh niên nghèo nên đã từ chối nhưng không thể nào từ chối được trước cái lòng thành của anh.
Hình ảnh của anh chàng bán quần áo si-da phải chăng là hình ảnh của bà goá nghèo hôm nay trong Tin mừng? Anh chàng đã cho số tiền thật sự chẳng là bao so với xã hội bây giờ nhưng anh cho với hết cả tấm lòng của anh.
Trong cuộc sống đời thường, có thể nói tâm tình hiến dâng là một tâm tình hết sức là đẹp. Chưa nói đến chuyện dâng hiến cho Chúa mà chỉ cần nói đến chuyện dâng hiến cho nhau. Vợ có dám dâng hiến tất cả những gì mình có cho chồng cho con hay không? Chồng có dám dâng hiến tất cả những gì mình có cho vợ cho con hay không? Con cái có dám dâng hết tất cả những gì mình có cho cha mẹ không?
Khi nói đến dâng hiến, người ta sẽ bảo là người ta đâu có gì để mà dâng hiến để biện luận, để bào chữa cho thái độ ích kỷ của người ta. Có đấy chứ nhưng không chịu dâng hiến đấy thôi. Chẳng lẽ ai trong chúng ta không có sức khoẻ, không có thời gian và không có tiền bạc. Chúng ta có cả một cái quỹ về thời gian, về sức khoẻ, về tiền bạc nhưng chúng ta cứ khư khư giữ cho mình mà chúng ta không dám mở lòng ra để mà dâng hiến, để mà chia sẻ đấy thôi.
Gọi là không có cũng được nhưng chẳng lẽ chúng ta không có tấm lòng? Chúng ta cứ dâng hiến, chúng ta cứ cho đi tấm lòng của chúng ta cho những người sống chung quanh chúng ta. Mỗi khi chúng ta dốc hết "hầu bao" để dâng hiến cho anh chị em đồng loại chính là lúc chúng ta dâng hiến cho Chúa vậy. Chúng ta cứ quảng đại mở lòng ra dâng hiến cho Chúa như hai bà goá hôm nay trong bài đọc cũng như trong Tin mừng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa sẽ ghi nhận cũng như sẽ ban những ơn lành cần thiết cho mỗi người chúng ta.
Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái đến và ở lại với mỗi người chúng ta, mở lòng chúng ta ra để chúng ta cũng biết quảng đại để dâng hiến, để trao dâng tất cả những gì mình có cho Chúa như bà goá ngày hôm nay trong Tin mừng vậy.
76. Tâm tình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy hai mẫu người:
. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ: bề ngoài họ rất đạo đức: họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế họ được người ta kính trọng: ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào: họ chỉ làm ra bộ đạo đức như thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.
. Mẫu người thứ hai là người đàn bà góa: bề ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quí: mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.
Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề hình thức và tâm tình. Đó là hai mặt của một thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn? Theo cách đánh giá của Chúa Giêsu thì mặt tâm tình trọng hơn mặt hình thức: Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà góa và nhận xét: “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.
Cách đánh giá của Chúa Giêsu thật là đúng: bởi vì nếu có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống như có một cái xác mà không có hồn… tất cả sẽ vô ích, vô dụng.
. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp, ngày nào cũng dự lễ rước lễ… nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người… thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.
. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện, giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu… nhưng làm việc thì lờ đờ, biếng nhác… thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.
Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong thì quan trọng và quí giá hơn cái hình thức, cái dáng vẻ bề ngoài. Trong việc sống đạo cũng vậy: đọc kinh, dự lễ… không quí giá, không quan trọng bằng tâm tình mến Chúa yêu người.
Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên, có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng: “Đạo tại tâm”: sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tội gì hết.
. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Ông bảo “tôi thờ Chúa trong lòng”.
. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo “chẳng cần đến hình thức bên ngoài”.
Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự. Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao:
. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện: quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc… đó là chưa kể đến phấn son, sơn móng tay móng chân nữa… Như thế có phải là chúng ta bất cần hình thức bên ngoài không?
. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu: nếu thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì phải âu yếm nhau?
Hai trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính hình thức biểu lộ tâm tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu giữa hai người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mặc dù coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần hình thức. Vì thế, bà góa trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.
Ngày nay không ít người chủ trương “Đạo tại tâm” và coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, dự lễ, dự các bí tích…Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ là một thứ ngụy biện: ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo; ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức. Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo đức của chúng ta.
77. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu nói rằng: "Anh em phải coi chừng những ông kinh sư
“Kinh Sư” là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời gian dài học tập vào khoảng 40 tuổi, họ được công nhận thi hành chức vụ của họ và trở nên những người cố vấn chính thức trong những quyết định tư pháp. Đức Giêsu và các tông đồ đã không được đào tạo như thế.
Ngay từ đầu, các "Kinh Sư” luôn tỏ ra chống đối Đức Giêsu. Chỉ trong Tin Mừng Maccô, chúng ta đã thấy nhiều cuộc xung đột (Mc 2,6; 3,22; 7,1; 11,18). Ở đây, Đức Giêsu nghiêm chỉnh cảnh giác chúng ta. Đây là lần cuối cùng Người nói trước công chúng, khoảng vài tuần lễ trước khi Người bước vào cuộc thương khó và bị kết án bởi Thượng Hội đồng mà các Kinh sư thường chủ trì xét xử.
Matthêu đã quy tụ lại thành một diễn từ của Đức Giêsu về đề tài này: "Khốn cho các Kinh sư" (Mt 23). Sự hiểu biết không nhất thiết mang lại cho ta đức hạnh... và than ôi, kể cả sự hiểu biết tôn giáo cũng thế.
Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.
Vẫn còn những Kitô hữu bực tức vì Giáo Hội đang cố gắng gột bỏ mọi vẻ huy hoàng. Tuy vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng sự cố gắng đó dù chưa hoàn tất, nhưng hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu. Giáo Hội trong mọi thời đại; có nguy cơ rơi vào cám dỗ khủng khiếp của uy thế, đặc quyền những "vẻ bề ngoài sang trọng" những tước vị và những chỗ ngồi danh dự. Lạy Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng làm quen với một Giáo Hội, biết gột bỏ những danh dự, chấp nhận nghèo khó. Với các linh mục, biết sống như mọi người, không dành đặc quyền đặc lợi nào cả.
Tính cách Pharisêu mà Đức Giêsu lên án, đó là việc sử dụng những "dấu hiệu bề ngoài" để làm cho người khác nể trọng mình và được hưởng những đặc quyền. Ngày nay, có một phong trào tân Pharisêu cũng giả dối như thế, cốt làm tăng giá trị của mình bằng cách làm ra vẻ "thông thạo thời sự", "giữ đúng thời trang" bằng cách theo nhưng "quan điểm tiến bộ nhất", dù là những quan điểm rỗng tuếch.
Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ
Điều mà Đức Giêsu quở trách kinh sư thời ấy, đó là thái độ "khoa trương", lòng "tham lam", nếp sống "giả hình" của họ. Có lẽ họ đã đòi hỏi những khoản thù lao rất cao đối với những người đến hỏi ý kiến họ, và điều này rất nghiêm trọng vì họ được coi như những người đạo đức, cầu nguyện lâu giờ. Kẻ nào muốn loan truyền những đòi hỏi của Lời Chúa, cũng phải tỏ ra rất khắt khe với chính mình. Khi các Kitô hữu, hay phẩm trật Giáo Hội phạm những bất công xã hội thì đó là điều đặc biệt nghiêm trọng. Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu của những người nghèo khổ bất hạnh, Người ban "công lý" cho kẻ bị áp bức, nâng đỡ góa phụ và cô nhi (Tv 1,45).
Kẻ nào muốn thuộc phe Chúa, thì nhờ cầu nguyện, phải đặc biệt trở nên liêm khiết và công bằng.
Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn
Cộng đoàn của Đức Kitô là Giáo Hội phải nghe lời cảnh cáo này: Người sẽ càng khắt khe hơn với chúng ta, khi chúng ta càng được nhận lãnh nhiều. Chúng ta không thể lừa dối Thiên Chúa! Người thấy tận đáy các sự việc và những sự giả dối của chúng ta sẽ bị lột trần trước mắt Người.
Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao
Maccô là một nhà quay phim tài tình. Chúng ta hãy thưởng thức sự chính xác của thiên phóng sự này. Đức Giêsu đã chọn một điểm quan sát tốt, ngồi trên các bậc thềm, đối diện với các hòm tiền. Người nhìn xem. Đám đông những người hành hương diễn qua trước mặt Người. Chúng ta hãy ghi nhận lòng nhân ái của Đức Giêsu: Người chú ý đến những đám đông, chú ý đến những gì xảy ra chung quanh Người. Chúng ta có biết chú ý không? Chúng ta có biết ngắm nhìn không?
Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.
Vào thời Đức Giêsu cũng như ngày nay các tầng lớp xã hội luôn có những mức lợi tức rất chênh lệch. Điền chủ, thương gia, luật gia, giới tư tế thường là giàu có và là sở hữu chủ tại Giê-ru-sa-lem những dinh thự với tất cả tiện nghi và xa hoa: Nhiều gian phòng, hồ tắm, sân vườn, cột nhà cẩm thạch... Trong khu ở riêng của các người quyền quý một khu đẹp và sang trọng! Còn những người nghèo thì chạy sống từng ngày và ở trong “khu vực thấp hèn" tại Giêrusalem.
Nếu lưu ý đến bản văn của Maccô, chúng ta sẽ thấy ông đã viết "một số" người giàu... nhiều người giàu, đã cống hiến ‘những số tiền lớn’ như vậy, họ cũng thiết thân làm nghĩa vụ đối với Đền Thánh.
Ở đây Maccô không chú thích gì cả, nhưng ông vẫn không thể không so sánh:
Cũng có một bà góa nghèo đến.
Bây giờ nhà quay phim cống hiến cho ta một cận cảnh:
Người đàn bà nghèo khó bước tới gương mặt khiêm tốn giữa các khuôn mặt khác. Không có một chỗ danh dự, không danh tiếng gì. Một người không quen biết. Đó là một người đàn bà, trong thế giới mà người đàn ông thống trị, một góa phụ trong thế giới mà chỉ có người đàn ông mới có quyền được luật pháp công nhận. Một người đàn bà nghèo, không lợi tức. Đức Giêsu đưa mắt nhìn bà.
Bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.
Thật là trái ngược với "số tiền lớn” của những kẻ khác!
Tôi muốn nhìn ngắm hai đồng tiền nhỏ này, hai đồng xu đút giấu kín trong lòng bàn tay bà.
Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.
Cách tính tiền thật là kỳ cục? Bà này đã cho "nhiều hơn" tất cả mọi người. Đức Giêsu đã nói thế. Người làm đảo lộn mọi hệ thống xã hội của chúng ta. Người coi thường hệ thống phân loại, những giai cấp xã hội của chúng ta, với những bậc thang phân biệt rõ ràng mà người ta phải leo lên để "thăng tiến". Ở bậc thang xã hội "cao", thì giàu có được người khác trọng nể; mặc y phục lộng lẫy, được người ta chào hỏi công cộng, có chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc, tất cả những điều này không làm Chúa Giêsu quan tâm đến. Còn chúng ta thì sao?
Phản ứng của chúng ta trước trang Tin Mừng này như thế nào? Hay nó vẫn làm chúng ta thản nhiên, không chút bận tâm?
Trong một xã hội dồi dào của cải mà chúng ta đang sống chúng ta có thái độ nào đối với một số nghề nghiệp dành cho người nghèo? Có những người nào mà tôi khinh khi vì chủng tộc, vì môi trường xã hội, nghề nghiệp hay sự nghèo khó của họ không?
Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản
Người ta không thể đánh lừa Chúa được. Người thấy tận đáy lòng chúng ta. Bà này đã cho "nhiều hơn", vì bà đã cho "tất cả". Muốn biết giá trị của một quà tặng, ta không nên chỉ nhìn vào đồ vật đó, mà còn, phải để ý đến người cho. Thiên Chúa đã nhìn như thế. Người nhìn thấy những gì còn lại trong két sắt hay trong trương mục ngân hàng.
Chúng ta cần suy niệm hai từ mà Đức Giêsu đã dùng. Đó là hai ý niệm đơn giản: ‘Sự túng nghèo’ là tình trạng của người không có đủ yếu tố cần thiết để sống; ‘Điều cần thiết’ là những gì tương xứng cho đời sống bình thường. ‘Của cải thừa’ là những gì chúng ta có nhiều hơn cái cần thiết.
Chắc chắn đó không phải là những giá trị toán học cố định. Vì ta có thể thắc mắc: "Sự cần thiết sẽ dừng lại ở mức nào?". "Sự dư thừa" bắt đầu từ đâu? Nhưng thực tế khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng có quá nhiều khác biệt giữa điều kiện sống của con người trong cùng một xứ sở nhất là giữa quốc gia này với quốc gia khác. Với những đồ vứt bỏ trong thùng rác ở New York, người ta cũng có thể cứu sống cho một thành phố với số dân tương đương thuộc thế giới thứ ba. Những phí phạm của chúng ta kêu lên tới Thiên Chúa, và trước mặt người nghèo. Vào thời đó, Đức Giêsu đã dám tố cáo một số người sống quá ‘dư thừa’, còn ngày nay Người sẽ phải nói sao đây?
Tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.
Đức Giêsu không nhìn sự việc như chúng ta. Chính Người cũng là một kẻ nghèo.
Người đã nhìn ngắm và thấy tâm hồn cho đi tất cả. Chúa để mắt trên người nghèo. Họ đang làm vui lòng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã ca ngợi người đàn bà góa nghèo, cống hiến hai đồng tiền nhỏ. Lạy Chúa, Chúa nghĩ gì về lòng quảng đại của con? Tôi có "cho đi" không? Bao nhiêu? Như thế nào? Ngày nay ta có thể cho rằng người đàn bà này có lý do chính đáng để giữ lại số tiền đó và để cho kẻ khác “cống hiến" thôi! Nhưng Thánh Vinh Sơn đã nói: May thay cho những người nghèo, vì vẫn còn có những người nghèo ‘biết cho’.
Trước khi khởi sự bước vào cuộc thụ khổ, Đức Giêsu cho chúng ta biết bí mật cái chết của Người sắp đến gần: Người đàn bà này là "hình tượng" của Thiên Chúa, Đấng trao ban tất cả, tất cả những gì Người có để sống! "Thiên Chúa dù giàu có, đã trở nên khó nghèo để làm giàu cho chúng ta". Thánh Phaolô đã dám nói như vậy (2 Cr 8,9). Tình yêu không biết tính toán. Chúa là tình yêu. Người đã không tính toán, Người đã cho đi tất cả. Nếu Giáo Hội nguyên thủy đã ghi lại đoạn này bề ngoài xem ra không quan trọng ngay trước cuộc thương khó, là vì Giáo Hội đã tự nhủ: Vâng, Đức Giêsu đã tự nhận ra chính Người nơi người đàn bà này, vì bà đã "cho đi tất cả".
78. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI THỰC
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Nếu phải tránh lối mị dân dễ dãi, cho rằng những người có thân phận khiêm tốn đương nhiên sẵn sàng đối với Vương Quốc Thiên Chúa, thì cũng không nên quả quyết rằng bao người giàu có là bấy nhiêu công dân của vương quốc ma quy. Có những kẻ nghèo nàn nhưng lòng đầy ham hố, tham lam keo kiệt, cũng như có lắm kẻ giàu sang nhưng rộng rãi, biết thi ân và lòng chẳng dính bén. Sự "nghèo khó Tin mừng" không tất nhiên nằm nơi chỗ thiếu thốn của cải, nhưng nằm nơi thái độ từ bỏ, không xem của cải làm cùng đích để lao lực lao tâm, nhưng coi như là phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và kẻ khác, và sẵn sàng chịu mất khi cần. Tuy nhiên, sự từ bỏ nơi kẻ giàu vẫn khó hơn nơi người ít của. Hãy cám ơn Chúa vì đã cho xảy đến bao nhiêu hoàn cảnh khiến của cải chúng ta ít đi để ta dễ hướng tâm về của đích thật, sự bảo đảm đích thật là Người.
2. Đoạn Tin Mừng nói về việc bà góa dâng hiến tất cả tài sản của bà tuy ngắn gọn nhưng rất thâm thúy, thật đáng chúng ta lưu tâm. Qua cử chỉ này, như người ta thường nói, bà đã đặt mình vào tình trạng hoàn toàn khó nghèo trước mặt Thiên Chúa. Bà hết mình phó thác cho Thiên Chúa. Những người giàu có cho một phần gia sản của họ; còn bà góa này, bà cho tất cả gia sản của bà và từ đó bà đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Điều đó có nghĩa là bà đặt tất cả trong niềm hy vọng vào Chúa, cơm ăn cũng như cuộc sống của bà.
3. Thâm sâu hơn nữa, cử chỉ của bà nói rằng bà đi tới Thiên Chúa như tới một kẻ mà bà hết lòng yêu mến và bà tin chắc Ngài có dư khả năng lo lắng cho bà. Bà không chỉ đi thi hành bổn phận tầm thường là đóng góp vào quỹ Đền thờ. Bà không chỉ muốn thi hành một nhiệm vụ. Bà đi quá cả phạm vi bổn phận, phạm vi chu toàn Lề luật. Bà không nghĩ tới vấn đề chu toàn Lề luật, nhưng nghĩ rằng Thiên Chúa rất xứng để bà dâng cho Ngài tất cả và đồng thời chờ đợi nơi Ngài tất cả.
79. Chú giải mục vụ của William Barclay.
LUẬT TÔN GIÁO SAI LẦM (12,37-40)
Có thể câu đầu của đoạn sách này cùng đi với đoạn này chứ không phải với đoạn trước như bản Kinh Thánh của chúng ta. Cách phân chia câu trong Tân Ước chỉ bắt đầu vào thế kỷ thứ 16 do Stephanus. Người ta kể rằng ông ta đã làm công việc ấy trong khi cỡi ngựa đi từ nhà đến xưởng in của mình. Do đó, cách phân chia không phải luôn thích đáng và dường như đây là một trong nhiều phân đoạn cần phải điều chỉnh lại. Nói cách đúng hơn là dân chúng thích nghe Chúa Giêsu tố giác các Kinh sư hơn là thích nghe một đoạn lý luận thần học. Có nhiều người vẫn bị thu hút bởi những lời công kích.
Trong đoạn này, Chúa Giêsu nêu một loạt nhiều lời tố cáo các Kinh sư. Họ thích mặc áo dài để đi dạo. Bên phương Đông, mặc áo dài quét đất là dấu hiệu của một người khả kính. Và đây là loại áo mà kẻ mặc nó không thể tỏ ra hấp tấp, cũng không thể mặc để làm việc, nên đó là dấu hiệu của kẻ nhàn nhã, khả kính. Có thể câu này cũng có một nghĩa khác. Theo sách Dân số 15,38, người Do Thái mang thêm tua áo ở vạt áo ngoài của họ. Các tua áo ấy nhắc cho họ nhớ rằng họ là dân Chúa. Rất có thể các Kinh sư này mặc những tua áo quá khổ để chứng tỏ địa vị cao trọng đặc biệt của họ. Dầu sao, thì họ cũng thích ăn mặc như vậy để tự hào về vinh dự mà thiên hạ dành cho mình.
Họ thích được người ta chào mình giữa chợ cách kính trọng. Chính danh hiệu Rabbi có nghĩa là “Đại nhân của tôi”. Được chào như vậy thì lòng cao ngạo khoe khoang của họ được thỏa mãn.
Họ thích ngồi chỗ cao nhất trong hội đường. Trong hội đường có một chiếc ghế danh dự đặt trước cái rương nơi đựng các sách kinh, đối diện với dân chúng là chỗ ngồi dành cho những người đặc biệt ngồi. Lợi điểm của chỗ này là ai ngồi đây thì không bao giờ bị khuất cả, mọi người trong cộng đoàn đều nhìn thấy.
Họ thích ngồi chỗ cao trong các đám tiệc. Trong đám tiệc vị trí chỗ ngồi được sắp xếp kỹ lưỡng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải chủ nhà, chỗ thứ hai là bên trái và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra ngay thứ bậc của một người căn cứ vào chỗ ngồi sắp xếp cho họ trong một bữa tiệc.
Họ nuốt tài sản của các bà góa. Đây là một tố cáo nặng lời. Josephus vốn là một người Pharisêu, nói về một số lần âm mưu trong lịch sử dân Do Thái rằng “Người Pharisêu tự đánh giá rất cao về sự hiểu biết chính xác luật lệ tổ tiên họ và phô trương cho người ta thấy họ (người Pharisêu) được Thiên Chúa mến chuộng. Họ dụ dỗ “Nhiều phụ nữ trong các âm mưu tạo phản” của họ. Ý niệm ẩn sâu việc này là, theo quy định, một Kinh sư không hề nhận tiền công khi giảng dạy. Ông ta phải dạy dỗ miễn phí và vẫn làm một nghề bằng lao động chân tay để mưu sinh. Nhưng các Kinh sư có ý giàn cảnh để mọi người hiểu rằng không có bổn phận nào được kể là cao quý, được ưu đãi hơn bổn phận cung cấp nhu cầu cho một Rabbi, việc cung cấp ấy chắc chắn sẽ đem lại cho người làm việc đó một chỗ cao trên thiên đàng. Trong các vấn đề liên hệ đến tôn giáo, có một sự kiện đáng buồn là phụ nữ vẫn thường bị các tay lang băm tôn giáo bắt nạt và dường như các Kinh sư và người Pharisêu ở đây cũng lợi dụng những người chất phác để được cung cấp mọi sự như vậy.
Việc các Kinh sư và người Pharisêu hay cầu nguyện dài dòng thì ai ai cũng rõ. Người ta bảo rằng những bài cầu nguyện ấy không nhắm dâng lên cho Chúa mà nhằm phô trương trước mặt người ta. Họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách mà ai cũng thấy rằng họ là những người ngoan đạo.
Đây là một trong những đoạn sách cho thấy Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm khắc, cảnh cáo chúng ta về ba điểm:
1/ Cảnh cáo việc muốn được chức vị cao. Ngày nay điều này hãy còn đúng, nhiều những nhận một chức vụ trong Hội Thánh, vì nghĩ nhờ có công lao mà mình xứng đáng được chức vị ấy chứ không phải vì muốn phục vụ Chúa và anh em trong Chúa một cách bất vị kỷ. Người ta vẫn còn xem chức vụ trong Hội Thánh như một đặc quyền chứ không phải như một trọng trách.
2/ Cảnh cáo việc muốn được coi trọng. Hầu hết mọi người đều muốn được người khác kính trọng mình. Thế nhưng sự kiện căn bản trong Kitô giáo, là người ta phải tự giấu mình đi, chứ không phải tự tôn mình lên.có chuyện kể rằng ngày xưa có một tu sĩ nhân đức, thánh thiện, được giao cho chức tu viện trưởng một tu viện nọ. Ông ta khiêm hạ đến nỗi khi mới đến, người ta sai ông đi rửa chén trong nhà bếp và chẳng có ai nhận ra ông. Chẳng phản đối nửa lời, ông ta đi làm bổn phận rửa chén đĩa và nhiều việc tay chân khác. Sau một thời gian rất lâu, khi vị Giám Mục Giáo Phận đến, người ta mới phát giác ra sự sai lầm của mình, và người tu sĩ khiêm hạ nọ được đặt làm địa vị thật sự của ông ta. Một người bước vào chức vụ, đòi sự kính trọng dành cho mình thì đã bắt đầu sai lầm, và nếu không chịu thay đổi, sẽ chẳng bao giờ trở thành tôi tớ của Chúa và của anh em mình theo đúng nghĩa.
3/ Cảnh cáo việc buôn thần bán thánh. Ngày nay, thiên hạ vẫn có thể lợi dụng tôn giáo để tìm tư lợi, để được thăng quan tiến chức. Câu chuyện trên đây là một lời cảnh cáo những ai trong Hội Thánh về những gì họ mong có thể lợi dụng chứ không nhằm đầu tư công sức, tài sản nào đó.
CỦA DÂNG NHIỀU NHẤT (12,41-44)
Giữa sân dành cho người ngoại và sân dành cho phụ nữ có Cửa Đẹp. Chúa Giêsu đã đến ngồi yên lặng tại đó sau khi đã tranh luận gay gắt trong sân dành cho người ngoại và các hành lang. trong sân dành cho phụ nữ, có 13 thùng thu tiền mà theo hình dạng của chúng, người ta gọi là “kèn đồng”. Mỗi thùng nhằm một việc phục vụ riêng, chẳng hạn để nhận tiền mua lúa mì, rượu hoặc dầu cho việc tế lễ. Những thùng này đựng của đóng góp cho chi phí tế lễ hàng ngày và chi phí của Đền Thờ. Nhiều người dâng vào đó những số tiền rất lớn. Bấy giờ, có một bà góa nghèo đến, bà ta bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là Lépton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Vậy mà Chúa Giêsu nói bà đã đóng góp nhiều hơn tất cả mọi người khác, vì những người khác chỉ bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi quả phụ này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Đây là bài học về việc dâng cúng.
1/ Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực, thì phải là một của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Lòng hào hiệp chân chính là dâng hiến cho đến khi nào chính mình phải chịu tổn thiệt. Phải xét lại xem việc dâng hiến cho công việc của Chúa, chúng ta có chút hy sinh nào không. Có rất ít người muốn sẵn sàng dâng nhiều hơn nữa cho công việc của Chúa. Có thể dấu hiệu về sự suy thoái của Hội Thánh và về sự thất bại của Kitô giáo, là của dâng không còn là tự nguyện nữa và tín hữu sẽ không dâng gì cả nếu không được lại một điều gì. Nhiều người trong chúng ta khi đọc chuyện này không khỏi cảm thấy xấu hổ!
2/ Dâng hiến trọn vẹn. Bà góa này có thể giữ lại một đồng tiền. Một đồng tiền nhỏ thì cũng chẳng bao nhiêu, nhưng dầu sao nó cùng còn một chút gì, dù vậy bà ta đã dâng hết những gì bà ta có. Ở đây có một chân lý biểu tượng quan trọng. Có một điều bi thảm trong đời sống chúng ta là thường vẫn còn một phần nào đó trong đời sống không được chúng ta dâng cho Chúa. Dù sao chúng ta vẫn còn giữ lại một chút gì đó. Chúng ta ít khi chịu tiến đến chỗ thực hiện hy sinh và vâng phục trọn vẹn.
3/ Điều vô cùng lạ lùng và đẹp đẽ, ấy là người được Tân Ước và Chúa Giêsu nêu lên cho lịch sử như một gương mẫu về lòng hào hiệp, lại là một người chỉ dâng có hai đồng tiền nhỏ, bằng một phần tư xu. Chúng ta có thể cảm nhận chúng ta không có gì nhiều trong lãnh vực của dâng vật chất. Nhưng nếu chúng ta sẵn lòng dâng hết những gì mình có cho Chúa, Ngài sẽ dùng làm được nhiều việc quá sức tưởng tượng của chúng ta.
80. Hai bà goá - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.
Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ.
Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nghèo nàn nhưng bà đem tất cả số tiền mình có, hai đồng tiền kẽm là những gì bà có để nuôi sống mình. Bà dâng vào đền thờ giữa đám đông nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác.
Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.
Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.
Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì. Cho cái mình đang cần mới là quý. Và cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất.
Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Chúa khen bà góa đã cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.
Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào đền thờ, nhưng Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.
Lối đánh giá của Chúa Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác.
Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng.
Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm.
Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy.
Điều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa. (Mana).
Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.
Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.
Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng.Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. MẹTêrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”. Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận. Câu chuyện “Một ly sữa” như một chứng từ minh họa cho chân lý ấy.
Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.
Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy thế thì… tôi hết lòng cám ơn cô.”
Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên. Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.
Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh đã thua cuộc.
Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.
Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả tim và bàn tay của con người.”
Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895 chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology (Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại Baltimore, Maryland.
Bạn, có bao giờ trong cơn đói bạn đã nhận được một hành vi tử tế, và bạn đã đền đáp thế nào với cuộc đời và con người đã tử tế với bạn? Hoặc bạn đã và sẽ làm gì cho một ai đó trong nỗi đói khát tinh thần hay vật chất của một người thân thương hoặc tha nhân Chúa đang gửi đến trong đời?
81. Bà già bán rau - Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi!
Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng vọng của bà cụ vẫn con đó.
Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô.
Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: cho tôi gửi, khi về sẽ ghé lấy.
Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang bàn tán về bà.
Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi?
Họ trả lời: Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời. (sưu tầm).
Câu truyện thật cảm động về cảnh nghèo của cụ bà. Tuổi già, đáng lẽ bà được nghỉ ngơi sống an nhàn bên đoàn con cháu. Vậy mà bà vẫn phải tần tảo bán rau kiếm sống qua ngày. Cảnh nghèo của bà thật cảm thương.
Đọc chuyện ai cũng cảm phục thái độ sống của bà. Bà không thất hứa cho dù mưa gió bà vẫn chờ đợi để trao tận tay những bó rau đã bán. Có lẽ đây cũng là một bà góa quá nghèo. Bà sống nghèo và chân thành. Bà giữ chữ tín nên đã chết trong mưa rét.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay kể chuyện hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.
Thời Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, vị ngôn sứ được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó, Êlia gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Bà góa có tấm lòng quảng đại nên Chúa đã chúc phúc cho bà: “Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán”.
Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, nghèo nàn. Bà đem hai đồng tiền kẽm là tất cả những gì bà có và dâng vào Đền thờ. Rất nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa quan sát và khen bà góa đã bỏ nhiều hơn ai hết.
Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng tất cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.
Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.
Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng đáng quý. Cho cái mình đang cần mới là thật quý. Cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều.
Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào Đền thờ, thế mà Chúa chẳng khen ai. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Của dâng cúng của bà góa, xét về số lượng chẳng có là bao, nhưng về chất lượng lại đong đầy đức tin, đức cậy và đức mến.Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.
Lối đánh giá của Chúa Giêsu giúp ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Lắm khi ta cứ theo hình dáng bề ngoài, theo y phục, theo tiền của mà đánh giá. Chuộng hình thức hơn nội dung. Thích thành tích hơn thực chất.
Thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là chất lượng sản phẩm. Hàng hóa thực phẩm giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa.
Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Nhiều khi làm điều tốt cho ai, ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân. Ta cảm thấy buồn, đau khổ khi bị chê, tự mãn khi được người khác khen.
Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với trọn tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là quà tặng quý hóa nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Theo số lượng thì một phần tư đồng xu là quá ít ỏi. Có thể hai đồng đồng kẽm mua được một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Bà góa cũng không sợ bị chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận mình thấp hèn thua kém người khác. Nhưng với Chúa Giêsu, hai đồng tiền nhỏ của bà lại nhiều hơn hết. Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.
Thánh Maccô mô tả sự tương phản: các Kinh sư xúng xính trong bộ áo thụng, bà goá đơn sơ nghèo nàn. Bà góa không lo lắng cho chính mình mà chỉ hướng về Thiên Chúa. Bà dâng cúng tất cả những gì đang có vào đền thờ. Bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự. Bà thật là người thành tâm, thiện chí. Các Kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì muốn có danh lợi và địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu mong được kính trọng chào hỏi, muốn ngồi chỗ danh dự nhất, lo kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Các Kinh sư chỉ nghĩ đến mình và tận dụng mọi sự, mọi người và ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa để làm giàu cho riêng mình.
Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.
Lắm người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp. Có những người nghèo khó nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khổ nhưng rất quảng đại.
Nhiều người giàu tiền giàu của nhưng lại rất nghèo vì họ không có gì để cho người khác. Họ nghèo lòng nhân ái, nghèo sự cảm thông và nghèo lòng trắc ẩn. Ngược lại, có những người rất nghèo vật chất nhưng lại thật giàu có vì họ luôn có gì đó để sẻ chia. Họ giàu lòng nhân ái, giàu lòng vị tha, giàu tình thương mến.
Mẹ Têrêxa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêxa, mọi người đều cho mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho mẹ số tiền ấy”.
Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêxa”.
Mẹ Têrêxa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao, ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.
Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.Mẹ Têrêxa nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống quảng đại với Chúa và với tha nhân. Amen.
82. Chuyện sang, hèn – Trầm Thiên Thu
Người Việt thường dùng cách nói: Giàu sang và nghèo hèn. “Giàu” thường kèm theo “sang”, còn “nghèo” thường kèm theo “hèn”. Nhưng thực ra có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”.
Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!
Người ta nói vui: “Đi xe lẹ hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng:
Chớ thấy áo rách mà cười
Những giống gà nòi lông nó lơ thơ
Ở đời, người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi”.
Một hôm, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1V17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).
Bà góa ấy đi và làm như ông Êlia nói, không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn trọn lòng yêu thương và bác ái.
Cấp độ yêu thương đó mới là bác ái – bình thường thì chúng ta chỉ ở mức bố thí (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc công bằng (dư thì cho, thậm chí chỉ là đồ thừa). Bác ái cho cái mà mình vẫn cần, đó là cấp độ yêu thương cao nhất. Những người sống bác ái thực sự mới đúng là thánh nhân!
Thiên Chúa là nguồn sống và nguồn yêu thương: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Thế còn chúng ta thì sao?
Tình yêu của Ngài là thế đấy, Thánh Tâm Chúa Giêsu là vậy đó, theo cách gọi mới của ngày nay là Lòng Chúa Thương Xót. Tất cả vẫn chỉ là một. Vâng, chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10), cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài.
Thánh Phaolô minh định: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Chẳng vậy, “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a).
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).
Những người trông đợi Đức Kitô giáng lâm là ai? Đó là những người tín thác vào Chúa, ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, mà người có đức tin thì phải yêu thương tha nhân, nhưng yêu tha nhân không phải yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, yêu bằng hành động thực tế chứ không yêu bằng lời nói suông. Đó là thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội Công giáo!
Trong một lần giảng dạy, Đức Giêsu nói: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Đọc câu này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không liên quan. Lầm to. Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa? Chúng ta không có vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, người ngoài khó có thể nhận ra.
Người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì?
Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-vạt-trước-ngắn. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,... Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-vạt-sau-ngắn. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, thị uy, truyền lệnh, hét ra lửa,...
Mỗi chúng ta cũng thường có hai loại áo ấy để… “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!
Vào Đền Thờ hôm đó, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma.
Thấy vậy, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó lọt tai! Nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12:44).
Có nhiều người trong chúng ta vẫn ảo tưỏng đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động.
Đáng lưu ý là website CWN ngày 29-10-2012 đưa một tin ngắn về việc Đức TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, các bí tích không được cử hành để lấy tiền. Thương mại hóa sự thánh thiêng là buôn thần bán thánh (practice of simony). Đó là tội lỗi”. Giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Chúa, vì lợi ích cho Chúa và dân Chúa.
Đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “xét mình” nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử!
Lạy Thiên Chúa, chúng con cúi đầu và đấm ngực mà xin lỗi Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau những con người nhỏ bé nhất hằng ngày ở bên cạnh chúng con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay để sáng danh Chúa chứ không vì danh tiếng của chúng con, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
83. Đồng tiền bà góa nghèo
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện về lòng quảng đại của người ăn xin. Vào một ngày nọ, mẹ đi bộ xuống các con đường thăm sóc những người vô gia cư thì gặp được một người ăn xin chạy đến nói với mẹ rằng: "Thưa mẹ Têrêsa, nhiều người đưa tiền cho mẹ để giúp đỡ những người nghèo đói, và con cũng muốn đưa cho mẹ số tiền này. Cả ngày hôm nay, con chỉ xin được 30 cents, con xin đưa cho mẹ". Mẹ suy nghĩ trong giây lát, rồi nói: "Nếu tôi nhận 30 cents của ông thì ông có gì để ăn tối nay, và nếu tôi từ chối thì ông rất buồn”. Sau đó, mẹ Têrêsa đón nhận món quà của ông, mẹ nhìn thấy gương mặt của ông ta rất vui vẻ và phấn khởi chưa bao giờ mẹ gặp một người nào có thái độ vui mừng như vậy.
Người ăn xin này rất vui khi được góp một phần nhỏ bé của mình khi trao món tiền nhỏ bé của ông ta cho mẹ Têrêsa, điều này có lẽ khác với cách suy nghĩ của nhiều người hôm nay. Một người ăn xin lại cho đi cái mình xin từ người khác. Với cuộc sống cơm áo gạo tiền, chúng ta hiếm thấy có những người cho đi chính cái mình đang cần để nuôi thân. Xã hội ngày nay đang biến con người ta chạy theo đồng tiền, hưởng thụ và danh vọng thì đâu đó cũng có những con người cao thượng và lòng quảng đại với những người kém may mắn hơn mình. Trong thời đại nào cũng có kẻ giàu người nghèo; người tốt kẻ xấu, người lương thiện kẻ bất lương; người thật kẻ giả dối. Câu chuyện của bà góa là đại diện cho tầng lớp nghèo nhưng lại có một tấm lòng quảng đại. Bà được Chúa Giêsu khen ngợi là người dâng cúng nhiều nhất trong số đám đông người giàu bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ, bởi vì bà cho đi tất cả những gì bà có, bà đang cần. Chúa Giêsu nhìn đến tấm lòng của bà hơn là số tiền bà bỏ vào.
Có lẽ, điều này đi ngược lại với con mắt của đám đông, họ coi việc bà góa bỏ hai đồng tiền có đáng là bao so với họ, họ nghĩ việc làm của họ có công đức trước mặt Chúa, nhưng trong con mắt của Chúa Giêsu thì bà là người bỏ nhiều nhất. Ngài gọi các tông đồ đến để giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của việc dâng cúng và việc làm bác ái của dân chúng. Trong số đám đông đó có cả các kinh sư, họ là người bị Chúa Giêsu lên án bởi cách sống giả tạo, họ mặc bộ áo thụng xúng xính, thích người ta chào hỏi nơi công cộng, chiếm chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt tiền của các bà góa nhẹ dạ, làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ sẽ bị kết án nghiêm trọng hơn.
Đối chiếu với những gì Chúa Giêsu lên án các kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhìn thấy bóng dáng mình trong số đám đông này chăng! Và đây có phải là điều nghịch lý với cách suy nghĩ của chúng ta hiện nay không? Chúng ta có cảm thấy đau khi bị Chúa đụng chạm nơi thẳm sâu của lòng tham lam tiền bạc, chức quyền, và của hố sâu của tội lỗi bởi dục vọng, ích kỷ, mưu mô và tính toán của chúng ta không?
Tôi thường sống theo cách đánh giá bởi người chung hơn là kính sợ Chúa nhìn về mình. Theo cách đáng giá con người của người đời bảo tôi là người có công đức trước mặt Chúa, vì tôi dâng cúng cho nhà Chúa nhiều, tôi làm việc bác cho người nghèo, đọc kinh dự lễ đầy đủ và biết bao nhiêu công trạng khác, tôi đã và đang làm, tôi được ghi tên đứng đầu trong hàng ghế danh dự trong nhà thờ, được khắc tên trên tường, được mọi người tôn vinh công đức trước công đoàn. Điều này không có gì sai, đó là cách đánh giá theo số lượng về tiền cải, công sức và vật chất, nhưng tất cả những điều đó chưa đủ, bởi vì cách tôi ban tặng chỉ là cái dư thừa, tôi làm để được người khác đánh giá và nhìn nhận, chứ không phải vì lòng mến, thì nó chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, mà nhiều lần Chúa đã cảnh cáo bọn biệt phái:" Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng lại xa Ta." Chúa nói những người giàu có chỉ cho cái dư thừa, mà họ đem bỏ vào vào đó, còn người đàn bà góa bỏ vào đó tất cả những gì bà có, ngay cả khi bà đang túng thiếu, bà cần cái để nuôi thân. Tiêu chuẩn đánh giá của Giêsu dường như đại diện cho tiêu chuẩn của Thiên Chúa, đó là, không phải qua số lượng tiền mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Giêsu nói rằng, bà đã "bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" như là cách ám chỉ việc tích trữ kho tàng trên trời. Một người ăn xin cho mẹ Têsêsa 30 cent, mà ông ta xin được cả ngày giữa trời năng so với một nhà giàu cho 300 đô. Chắc chắn mẹ Têrêsa vẫn quý và trân trọng với 30 cent của người ăn xin này.
Đối với Chúa Giêsu, Ngài cần tấm lòng hơn của lễ. Vì của lễ chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng tấm lòng đó để biết chia sẻ với anh em đồng loại. Đó là giới luật yêu thương. "Kính Chúa yêu người." Ngài cần chúng ta làm điều đó với con mắt thánh thiện thì mới có thể nhìn ra giá trị của lòng bác ái khi ta cho đi, chính là sự trân trọng và tình yêu thương. Việc làm nhỏ bé của bà góa nghèo hôm nay có thể là một bài học cao quý cho mọi người chúng ta biết cho đi mà không tính toán, biết làm việc mà không cần đền đáp.
Tóm lại, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bà góa này, để dạy chúng ta cách đánh giá và nhìn nhận về việc dâng cúng tiền của cho Giáo hội cũng như trong công việc bác ái chúng ta làm. Hãy làm vì danh Chúa, chứ đừng làm vì sáng danh mình, muốn được ghi danh và người đời ca tụng, nó giống như vỏ chấu cuốn đi và chẳng mang lại lợi ích cho phần rỗi linh hồn. Lòng bác ái chỉ có giá trị đích thực khi con tim ta thuộc về Trái Tim của Chúa. Amen.
84. Giá trị thực
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Nhiều người dâng cúng tiền vào trong đền thờ. Đức Kitô ngồi đó quan sát họ. Trong số đó nhiều người giầu có cho những món tiền to; còn bà nghèo này cho gì mà khiến Đức Kitô vừa suy nghĩ lại lên tiếng làm đề tài giáo huấn cho các môn đệ. Rất khiếm có hành động của con người Đức Kitô mượn làm đề tài hướng dẫn, giáo dục, các tông đồ nhưng bà nghèo này đã làm được việc quan trọng đó. Bà đã dâng cúng thứ gì vào Đền thờ khiến Đức Kitô cho đó là quan trọng? Thưa bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm có giá trị một xu bạc.
Xã hội chúng ta thường quan niệm người dâng cúng nhiều tiền vào đền thờ là người hảo tâm vì đã cho nhiều và kẻ cho ít hơn thì ít hảo tâm hơn. Đại đa số định giá trị trên số lượng tiền bạc dâng cúng mà ít quan tâm đến phẩm chất của tấm lòng chân thành người dâng cúng. Điều này không có gì sai trái vì xã hội chúng ta sống ảnh hưởng, lệ thuộc rất nhiều vào đồng tiền. Không có nó mọi sinh hoạt trong xã hội bị đình trệ và cuộc sống hàng ngày cũng gặp khó khăn. Đức Kitô không ngụ í chê trách nghĩa cử bác ái cao đẹp của người giầu có dâng cúng tiền vào đền thờ Ngài đưa ra nhận xét về tấm lòng của những người làm công việc bác ái. Chúng ta chú trọng vào số lượng vật chất dâng cúng, Ngài chú trọng vào tấm lòng của người dâng cúng. Bởi vì không phải tất cả mọi hành động, cử chỉ bác ái đều đến từ con tim yêu mến, đầy tình thương. Nhiều hành động bác ái thúc đẩy bởi hoàn cảnh và ảnh hưởng bởi suy tính của khối óc hơn là đến từ con tim yêu mến.
Đối với Đức Kitô chân giá trị của việc bác ái không được đo lường bằng số lượng vật chất dâng cúng mà đo bằng tấm lòng chân thành phát xuất tự con tim. Vật chất có giá trị vì con người tạo giá trị cho nó trong khi hành động bác ái thúc đẩy bởi con tim chân thành luôn phảng phất tình thương và lòng mến. Hành động đến từ con tim chân thành luôn mang hai giá trị tuyệt vởi thương và mến. Đức Kitô ca ngợi hành động bác ái của bà nghèo khó vì hành động đó đến từ con tim yêu mến, chân thành. Bà dâng cúng chỉ trị giá một xu nhưng đó là tất cả những gì bà có thể cho. Dù có muốn cho hơn nữa cũng không thể vì bà không còn gì để cho. Thực ra bà đã cho tất cả những gì bà có trong khi những người giầu có kia chỉ cho một phần của để dành được. Điều khác biệt nằm ở chỗ cho tất cả, không sót lại và cho một phần của dư để dành. Như thế hành động của bà đến từ tận trong con tim sâu thẳm vả cho tận tình; trong khi hành động của những người giầu có kia rất có thể đến từ con tim nhưng họ không cho tận tình. Nói cách khác người giầu có cho nhưng vẫn còn tính toán lo cho ngày mai, bà nghèo khó cho luôn cả ngày mai, những gì nuôi sống tương lai không được giữ lại nhưng mang cho. Có thể nói bả cho cả tương lai đời mình.
Bà không mặc cảm vì sống nghèo. Bà cũng không lo lắng về phẩn thưởng nhận lại từ việc bác ái. Bà chi biết cho mà không mong nhận trong khi người giầu có cho món tiền lớn nhận tiếng khen của đại chúng. Vì cho đi tất cả những gì mình có bả trở nên dại khùng trước cách lí luận của xã hội nhưng trước mắt Đức Kitô bà là người khôn ngoan biết đặt tương lai mình vào tình yêu Thiên Chúa.
Cách định giá việc làm của Đức Kitô không đặt nặng vào cho nhiều hay ít và cho thứ gì nhưng Ngài chú trọng vào việc làm thúc đẩy bởi con tim. Việc làm đến từ con tim luôn được Ngài cổ võ, khuyến khích. Bà nghèo được ngợi khen vì việc làm của bà thúc đẩy bởi con tim và làm với tâm lòng khiêm nhu.
85. Vay dầu – Lm. Vũ Đình Tường
Vay dầu là việc rất thường trong giới nông dân. Dầu dùng đốt đèn không mua nhiều. Một năm đi chợ vài lần, mỗi lần mua một lít, dùng hết lần sau đi chợ mua tiếp. Nhà mua hai lít vừa có dầu dùng quanh năm lại có dầu dư dự trữ coi như là giầu, thuộc giới trung lưu.
Gia đình nghèo thường tối thắp đèn mới biết là hết dầu. Trường hợp khẩn cấp như thế mẹ sai con mang cái chai vay mượn dầu, đốt tạm, qua đêm, khi nào ra phố chợ mua dầu về trả lại. Không may nhà kia cũng hết dầu, đành phải sang nhà khác mượn tạm. Dân quê không phải chỉ vay dầu mà đôi khi còn vay cả mỡ, nước mắm, muối. Sau này tình trạng nghèo đói khổ sở hơn nên có thêm tình trạng vay gạo. Không mấy ai vay đường, cafe hay rượu vì chúng thuộc vào hàng xa xỉ, hàng ăn chơi. Thiếu thì chịu khó nhịn, đi vay sợ thiên hạ chê cười. Thiếu ăn uống đã thấy khổ; thiếu ánh sáng, sống trong tối tăm, xem ra khổ sở hơn.
Dầu đốt đèn mang lại ánh sáng cho cả nhà, mặc dù lu mờ nhưng đủ soi sáng trong một vùng giới hạn nào đó. Ánh sáng đèn dầu mang lại tượng trưng cho sự khôn ngoan, ánh sáng trong tâm hồn. Gọi là ơn khôn ngoan vì ơn đó dẫn tâm hồn đến với Chúa. Ơn khôn ngoan soi sáng cho biết tâm hồn ta khao khát Chúa và chỉ trong Chúa linh hồn mới no thoả. Để tâm hồn no thoả không gì bằng sống vâng phục thánh ý Chúa vì thánh ý luôn hướng dẫn ta tới điều thiện hảo. Có thiện hảo là có niềm vui. Niềm vui có được vì tâm hồn bình an, hoan lạc. Tâm hồn an vui no thoả vì được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, không còn đói khát chi.
Ơn khôn ngoan cần cho cả xã hội lẫn Giáo Hội. Ngoài xã hội ơn khôn ngoan giúp ta sống công chính, việc phải làm, điều phải tránh. Ơn khôn ngoan giúp suy tính hơn thiệt và biết chọn lựa điều tốt lành, ngay cả việc bảo vệ công lí.
Ơn khôn ngoan trong Giáo Hội giúp ta tiến trên đàng nhân đức, đàng lành thánh. Ơn khôn ngoan còn giúp ta biết vững lòng cậy trông vào Chúa khi hoạn nạn, tìm ủi an trong đau yếu bệnh tật, phó thác khi đối diện với gian nan, thất bại trên trường đời. Quan trọng nhất là ơn khôn ngoan giúp ta biết dâng lời cảm tạ khi thành công, mạnh khoẻ, cũng như khi gian nan, khốn khó. Nên nhớ mọi ơn đều do Chúa ban, ngay cả sức khoẻ, sự sống. Không dâng lời cảm tạ là sống vô ơn. Gặp gian khó luôn phó thác, không than phiền, phàn nàn nhưng kết hợp đau khổ đời ta với đau khổ thập giá Đức Kitô để cùng chia sẻ chén đắng với Ngài.
Phúc âm nhắc đến hai nhóm người cùng có chung mục đích là dự tiệc cưới, cùng chịu chung hoàn cảnh, chờ chàng rể đến trễ. Năm cô được liệt vào sổ khôn ngoan vì khi đi mang đèn có dầu kèm theo; năm cô liệt vào số khờ dại vì khi đi chuẩn bị mang đèn mà không mang dầu. Dầu cạn, các cô không biết tìm đâu ra nên bị loại, không được tham dự tiệc cưới. Hình ảnh đèn sáng trong tay trái nghịch hình ảnh cầm đèn hết dầu, u mê, tối tăm. Phải chăng hình ảnh đêm tối gắn liền với thất bại. Lấy gì sưởi ấm, soi sáng lúc mây mù che phủ cuộc đời. Thiếu ánh sáng sao biết đường thoát nạn khi cuộc đời gặp hoạn nạn, lúc gian nan. Mặc dù đèn hết dầu vô dựng mà vẫn phải cầm đèn không thể quẳng nó đi. Đèn hết dầu không giúp ích chi còn trở nên tai vạ, mang kè kè bên mình.
Họ chạy đến kêu cầu cứu, chị em bạn xin lỗi không thể giúp. Hãy lo liệu cách khác thì tốt hơn. Không tin tưởng vào Chúa lúc loài người lắc đầu, bó tay chạy vào đâu. Rơi vào tình trạng của các cô khờ dại, nửa đêm hết dầu. Người có ơn khôn ngoan chạy đến cùng Thiên Chúa nhận ơn trợ lực. Nhờ soi sáng, hướng dẫn, đong đầy dầu vào tâm hồn.
Mọi tư tưởng hành động dẫn ta xa Chúa đều không phải do ơn khôn ngoan soi sáng. Bởi vì tư tưởng đó dẫn đến đường cụt, đường cùng, không lối thoát khi gặp nguy biết kêu cầu, chạy đâu tìm nơi nương tựa. Ai cũng có ngày phải chết, tránh không được. Ngày buồn phiền đó sớm muộn gì cũng tới nhưng kẻ tin vào Chúa được Chúa biến ngày đó thành ngày vui hội ngộ. Ngày niềm tin sáng tỏ, ngày hy vọng được toại nguyện.
Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người (1Tx 4,14).
Vậy anh em hãy dùng lời đó mà an ủi nhau khi người thân ra đi. Chúng ta cũng xin ơn khôn ngoan, biết chuẩn bị cho tương lai như năm cô khôn ngoan, mang đèn có kèm theo dầu, vì chúng ta không biết ngày giờ nào đèn của mình sẽ tắt.
06/11 Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn
- Viết bởi Lc 16, 9-15
Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối,
thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".
Lời Chúa: Lc 16, 9-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.
Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn.
Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ.
Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Làm tôi tiền của
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền
người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật…
Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa:
đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi.
Ngay cả các Kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa,
và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài,
cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay.
Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của,
nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này.
Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13).
Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai.
Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của?
Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi.
Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ.
Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do thái cổ
có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa.
Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi,
nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa,
thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13),
nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa.
Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha.
Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin.
Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân
thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất.
Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo.
Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn
cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời.
Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại.
Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta,
để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời?
Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô.
Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái,
để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện.
Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi,
và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi.
Dù không phải là một Kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật,
nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải.
Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm,
nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc.
Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân,
đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường.
Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy niệm 2: Chúa là tất cả
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau cùng chỉ còn một cuộc chiến. Chỉ còn một đối thủ. Chỉ còn một lựa chọn. Thiên Chúa hay Tiền Tài. Với khẳng định này Chúa tóm tắt những gì cần phải nói về tiền bạc. Tiền bạc vốn chỉ là một phần trong đời sống. Chỉ là một tôi tớ. Một phương tiện phục vụ con người. Thường hay phản loạn. Cạnh tranh với Chúa. Chiếm vị thế của Chúa. Đó là điều rõ nét trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiền bạc chi phối tất cả sinh hoạt của con người. Tiền bạc thống trị thế giới. Tiền bạc lên tiếng mọi tiếng nói khác phải lặng im. Kể cả lương tâm. Kể cả đạo đức. Thật là đáng báo động,
Với khẳng định này Chúa cho biết Chúa là trên hết. Chúa là tất cả. Thực vậy có gì tôi có mà không phải do Chúa ban. Từ sự sống đến linh hồn. Từ thân xác đến trí khôn. Từ thời giờ đến sức khoẻ. Từ gia đình đến bạn hữu. Tất cả phải dâng lại cho Chúa. Tất cả là phương tiện Chúa ban giúp tôi đạt đến sự sống đời đời. Giúp tôi trở về với Chúa. “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè. Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Thánh Phao-lô làm gương cho ta về điều này. Sau khi được biết Chúa, ngài đã dùng tất cả cuộc đời để phục vụ Chúa. Phục vụ Tin Mừng. Kể cả những mối quen biết của ngài. Cuối bức thư Rô-ma ta thấy ngài gửi lời chào thăm rất nhiều người. Nhưng không phải vì cá nhân ngài. Chỉ vì Nước Trời. Chỉ vì lợi ích thiêng liêng. Và cuối cùng qui về Chúa: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Amen” (năm lẻ).
Biết dùng mọi phương tiện trần gian. Đặc biệt tiền của. Để tôn vinh Thiên Chúa. Tạo hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài còn khích lệ các tín hữu hãy biết dùng tiền của vì Chúa và vì lợi ích thiêng liêng. Khi nhận được trợ giúp của giáo đoàn Phi-líp-phê, ngài cám ơn họ. Không phải vì ngài cần vật chất. Nhưng vì họ đã biết sống đức tin. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho họ. Ngài viết: “Bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em.... Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Tôi sử dụng tiền của hay để tiền của thống trị tôi?
Suy niệm 3: Sử dụng tốt tiền của
Tham nhũng là cám dỗ xưa như cõi lòng tội lỗi của con người. Người tham nhũng là người chỉ nghĩ đến mình, bất chấp thiệt hại có thể gây ra cho người khác. Xúc phạm đến con người, tham nhũng rốt cuộc cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chính vì tính cách trầm trọng của tham nhũng, nên Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đưa ra một đòi hỏi: "Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của", bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự hủy, chối bỏ cùng đích của cuộc sống.
Tham nhũng và lừa đảo ở mọi qui mô trong xã hội chúng ta, đó là một kết luận hiển nhiên. Thế nhưng "thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối". Chúng ta hãy bắt đầu chống tham nhũng, lừa đảo, ích kỷ ngay trong con người của chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu các con không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm và giao phó của cải chân thật cho các con?". Nếu chúng ta chưa loại được tham lam, lừa đảo trong những sinh hoạt hằng ngày, liệu chúng ta có thể chống tham nhũng ở qui mô lớn hơn không?
Tham nhũng đối với mỗi người chúng ta có thể mang nhiều tên gọi: ích kỷ, khước từ chia sẻ, liên đới, cảm thông. Xét cho cùng, của cải là đển mọi người cùng hưởng dùng; nếu tham nhũng, lừa đảo là chỉ muốn lấy của người để dành riêng cho mình, thì bất cứ hành động ích kỷ nào, bất cứ khước từ san sẻ nào cũng là một hình thức tham nhũng. "Không ai có thể làm tôi hai chủ": của cải vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta thờ phượng người chủ duy nhất và đích thực là Thiên Chúa.
Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời. Xin cho chúng ta biết nhìn xa hơn về của cải vật chất, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông đối với tha nhân.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Giáo Huấn Của Chúa Giêsu
Có thể nói toàn chương thứ 16 Phúc Âm theo thánh Luca qui góp những lời dạy của Chúa Giêsu về việc sử dụng tốt những của cải cũng như về sự nô lệ cho tiền bạc. Ðoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây và muốn Suy niệm hôm nay tiếp liền và bổ túc cho những gì Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn về những khách được mời dự tiệc nhưng từ chối không đến, vì lòng họ còn quá bám víu vào những lợi lộc riêng tư.
Chúng ta cũng nên lưu ý nơi đây trước khi Suy niệm những lời Phúc Âm trên rằng Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt giầu nghèo. Việc sử dụng tốt tiền của hay việc lạm dụng sử dụng xấu tiền của không tùy thuộc vào số lượng ít nhiều, giầu nghèo nhưng tùy thuộc vào chính tâm hồn con người có thái độ như thế nào đối với tiền của. Nói cách khác, mọi người bất luận giàu hay nghèo đều có thể có thái độ sai lạc trước tiền của vật chất. Chúa Giêsu không lên án tiền của từ nơi chính nó nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta về thái độ phải có trước tiền của.
Chúng ta hãy lưu ý đến câu nói của Chúa Giêsu: "Không ai có thể làm tôi cho hai chủ một lượt. Không thể nào phục vụ Chúa và làm tôi cho tiền của". Từ ngữ được dùng trong nguyên văn mà chúng ta dùng từ "làm tôi cho" hay "phục vụ" trong khung cảnh Kinh Thánh, có mang thêm một chút ý nghĩa của hành động phụng vụ tôn thờ. Như vậy, câu nói được hiểu như sau: "Không ai có thể tôn thờ hai chủ được. Các con không thể cúi mình thờ lạy Thiên Chúa và thờ lạy thần tiền tài một lượt được. Con người chúng ta chỉ tôn thờ, chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ai tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình thật sự, thì không thể nào tôn thờ tiền của, đặt tiền của như là mục đích cuối cùng của đời mình". Nếu tiền của không phục vụ cho chúng ta để có được những người bạn mới trong nước Trời, hay nói cách khác, nếu chúng ta không đặt tiền của vào việc phục vụ cho anh chị em thì tiền của sẽ trở nên thần tượng không thể nào dung hòa được với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Ðấng đã nhập thể làm người, sống khó nghèo, đã làm cho chúng con được giàu có sự sống của Chúa.
Xin giúp chúng con sống trung thành với ơn gọi trong cuộc sống hàng ngày, để chúng con đừng rơi vào cám dỗ, thờ lạy tiền của mà bỏ quên Chúa và anh chị em. Xin cho chúng con biết sử dụng đúng tiền của, làm vinh danh Chúa và tạo ra phúc lợi cho anh chị em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Tích trữ tiền của thế nào?
Phần Thầy, Thầy bảo thật cho anh em biết: hãy dùng của cải bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc. 16, 9-10)
Lúc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã thấy mọi thứ đều tốt để phục vụ con người, Đức Giêsu không kết án chống lại của cải bản chất, nhưng chỉ chống lại thói dùng của cải bất chính của con người. Người nói tiền của bất chính như một quyền lực nô lệ hóa con người, cám dỗ con người làm điều bất lương để kiếm hay tiêu xài tiền của và bắt con người phục dịch tiền của. Nhưng người ta có thể dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê đã khuyên những người giàu ở trần gian này như sau: “Họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân … Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy, họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm. 6, 17a. 18. 19).
Thực hiện trung tín
Tiền của đời này phải phục tùng quyền quản lý của con người, yếu tố chính của người quản lý là trung tín. Tiền của đời này không phải là việc quan trọng mà Thiên Chúa trao phó cho con người. Đức Giêsu nói: “Đó là việc nhỏ. Nếu con người biết trung tín, tốt lành trong việc dùng tiền của, Thiên Chúa sẽ ủy thác cho họ quản lý việc lớn hơn là sự sống đời đời.
Để được quản lý việc quan trọng hơn
Sự sống đời đời là của chân thật, là sản vật ưu tiên hơn tất cả mọi vật. Chính khi quản lý tiền của bất chính, người ta tỏ ra trung tín vâng theo thánh ý Thiên Chúa, Ngài sẽ nói với họ: “Mọi sự của Cha là của con”. Nhưng Ngài chỉ có thể trao phó mọi sự của Ngài cho người quản lý nào đã được thử thách mà tỏ ra trung tín và công bằng.
Thực ra, tiền của chỉ là khách lạ đối với bản chất con người có tâm hồn cao thượng, có trí óc thông minh và thánh thiện.
Nếu con người chống cự lại sức cám dỗ của tiền của đã trao cho mình và không biến nó thành thần tượng, thì chứng tỏ mình có lòng trung thành với Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
Biệt phái mang tiếng tham lam tiền bạc vì họ coi nghèo khổ là sự chúc dữ. Họ tỏ vẻ ngạo mạn khinh bỉ Đức Giêsu, Đấng đã phá đổ sự an toàn dựa vào giàu có của họ, đồng thời Người tỏ cho thấy chỉ có lòng tin vững chắc được nên công chính trước mặt Thiên Chúa mới thực sự an toàn. Vinh quang trước mặt người đời là thứ gớm ghiếc trước mặt Thiên Chúa.
RC
Suy niệm 6: Không được làm tôi hai chủ
Xem lại CN 25 TN C
Tham nhũng trong xã hội hôm nay đang là cái tật khó cắt bỏ. Nó được ví như căn bệnh ung thư hay Sida của thời đại này! Tham nhũng cũng là đầu mối gây nên những điều bất chính khác. Có thể nói: tham nhũng như là nguyên nhân đệ nhất trong mọi nguyên nhân tiêu cực.
Tại sao lại xảy ra như vậy? Thưa điều đơn giản là con người ngày nay chỉ biết nghĩ đến mình mà không biết cảm thương người khác. Chúa của họ là cái bụng, là đồng tiền, vì thế, họ tìm mọi cách để vươn lên chức nọ việc kia, hầu có cơ hội kiếm trác...
Hôm nay, Đức Giêsu thấy được sự nguy hại của đồng tiền trong tiến trình theo Chúa của người môn đệ, vì thế, Ngài đã nói: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Thật là nguy hiểm cho đời môn đệ! Nếu vì tiền, hẳn người môn đệ sẽ không chu toàn bổn phận trong lòng mến; sẽ thượng tôn điều bất chính và tận dụng mọi cơ hội để khai thác nguồn lợi cho mình...; sẽ bất nhân với anh chị em; ích kỷ, kiêu ngạo và chối bỏ cùng đích của chính mình, thay vì tìm Nước Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cho người khác. Đồng tiền nó cũng rất dễ làm cho Lương Tâm bị chết nghẹt và đôi khi uốn nắn Thánh Ý của Thiên Chúa theo chủ đích của chính mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khởi đi từ chính mình để biết sống ngay thẳng, biết đặt cùng đích của chúng ta là Nước Trời để hướng tới. Có thế, chúng ta mới trở thành người trung tín trong việc quản lý gia sản của Thiên Chúa qua vai trò là tôi tớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khám phá ra giá trị của Nước Trời để biết sử dụng của cải theo ý Chúa, ngõ hầu chúng con sẽ trở thành những người tôi tớ trung tín và khôn ngoan. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Không đặt bất cứ sự gì thay thế vị trí của Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chỉ mình Ngài đáng được tôn thờ. Ta không được đặt bất cứ sự gì thay thế vị trí của Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, và Chúa muốn con biết sử dụng đúng ý Chúa. Của cải vật chất tự nó là tốt vì là kết quả của lòng Chúa thương. Nhưng Chúa dạy con phải làm chủ nó, để phục vụ Thánh Ý Chúa và phục vụ anh em.
Cám dỗ lớn nhất của loài người chúng con là trở nên tôi tớ cho tiền bạc và của cải trần gian. Con dễ say sưa làm giàu, thu vén bạc tiền mà quên đồng loại. Con dễ trở nên ích kỷ: “Ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi”. Con vô tình coi tiền bạc trên hết, trở thành nô lệ cho ông chủ tiền bạc. Trong cuộc sống của con, đã có lần con phế bỏ Chúa khỏi lòng con. Con để tiền của thay thế vị trí của Chúa nơi lòng con khi con dùng phương tiện bất chính để làm giàu.
Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con để suốt đời con luôn biết làm tôi Chúa. Xin cho con đừng vì tham việc mà bỏ lễ Chúa Nhật, xin cho con đừng vì tham lời mà làm hại anh em.
Đặc biệt, xin cho con biết khôn ngoan như người tôi tớ trong
Tin mừng: biết dùng của cải là ân huệ Chúa ban mà sinh lợi thiêng liêng cho linh hồn con. Xin cho con luôn quảng đại mở rộng đôi tay chia sẻ những của cải Chúa ban, để giúp đỡ những anh em đang khốn khó hơn con. Xin cho con nhận ra rằng: một hạt gạo cho đi vì yêu mến Chúa sẽ trở thành một hạt vàng ân phúc tô điểm cho linh hồn con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con”.
Suy niệm 8: Người quản lý tín trung của Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đức cha Tihamer Toth đã kể lại cho chúng ta câu chuyện về nhà điêu khắc Michel Ange làm việc như thế nào.
Một lần, có một người bạn của Michel Ange đến thăm ông. Người bạn đó ngạc nhiên vì thấy ông vẫn hí hoáy mãi trước một pho tượng: “Tôi thấy công việc của anh không khác hơn hôm trước tí nào”.
Nhà nghệ sĩ trả lời: “Trái lại, tôi đã sửa chữa được nhiều lắm. Đây tôi bớt đi một ít đất sét, làm nổi bật vết nhăn này, uốn mềm lại nét khác, làm cho cái miệng tươi hơn lên”.
Bạn ông cãi lại: “Những cái đó nhỏ nhặt quá”.
Michel Ange mỉm cười trả lời lại: “Đúng, nhưng chính những cái nhỏ nhặt này làm cho pho tượng được hoàn mỹ hơn và sự hoàn mỹ lại không phải là sự nhỏ nhặt”.
Suy niệm
Chúng ta cùng được Chúa mời gọi vào việc quản lý chung tùy theo nhiệm vụ được trao phó. Chúa Giêsu khẳng định tư cách của người quản lý là phải hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Cho nên, người quản lý theo Tin Mừng đòi hỏi không đặt mình quỵ lụy dưới sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vốn làm điên đảo bao nhà quản lý như thực tế mà chúng ta đã thấy nơi xã hội hôm nay. Người quản lý mà Chúa mời gọi tôi và bạn trở nên là sự tận tụy công vụ cho anh em đồng loại, đó là thể hiện sự tín trung của người làm tôi Thiên Chúa, cho nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Hơn lúc nào hết, đất nước và xã hội chúng ta cần những nhà quản lý theo ý muốn của Thiên Chúa: Người quản lý vì dân vì nước, những kẻ làm tôi cho tiền bạc, sẵn sàng vì “chủ tiền” mà phản bội hay thỏa hiệp cần phải loại trừ ra khỏi hàng ngũ những người quản lý.
Thật thế, trong việc quản lý đời mình và nhiệm vụ được giao, chúng ta cùng suy tư tâm tình của thánh Phaolô: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy” (Gl 6,7). Người gieo sự công chính trong cuộc đời sẽ gặt hoa trái công chính như người có năm nén làm lời năm nén, anh đã có lãi mà còn được cho thêm (x. Mt 25,29).
Người gieo sự tín trung sẽ gặt hái được niềm tin…
Ý lực sống
“Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,27).
Suy niệm 9: Dùng tiền của mua Nước trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi người phải biết lo cho tương lai vĩnh cửu, khi biết dùng những của cải đời này sao cho ích lợi cho kho tàng mai sau trong nơi vĩnh cửu, để không bị nô lệ cho những của cải thế gian, nhưng biết chọn Chúa là chủ của đời mình. Vì thế Chúa bảo chúng ta phải biết lựa chọn: chọn Chúa hay của cải, bởi vì Chúa đã nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13).
Vào lúc khởi nguyên thế giới, Thiên Chúa đã thấy rằng: tất cả những gì Ngài làm để phục vụ con người đều tốt cả. Vậy Đức Giêsu không lên án những của cải vật chất nhưng chỉ lên án việc con người sử dụng của cải cách bất chính thôi. Vì vậy, Ngài nói đến “tiền của bất chính” như một sức mạnh nô lệ hoá con người, khi khiến họ trở thành bất lương trong việc chiếm đoạt và sử dụng nó, và đặt con người dưới quyền thống trị của nó. Nhưng người ta cũng có thể dùng tiền bạc mà làm giàu cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết cho Timôthêô nên khuyên người giàu có đời này “làm giàu về việc lành, ban phát rộng rãi và nghĩ đến kẻ khác, để thu góp một kho tàng sẽ làm vốn cho tương lai và để đạt được sự sống thật”.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra đòi hỏi: “Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của”, bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự huỷ, chối bỏ cùng đích của cuộc sống (Mỗi ngày một tin vui).
Vì thế, Tin mừng hôm nay trước hết mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm về thái độ của chúng ta đối với của cải trần thế mà Thiên Chúa đã tạo dựng và ban phát cho chúng ta, để chúng ta hưởng dùng và phụng sự Ngài. Bao lâu của cải trần thế là phương tiện giúp con người đạt tới cùng đích, thì bấy lâu chúng ta còn là người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Trái lại, khi tiền của đã trở thành cùng đích của cuộc sống, thì dĩ nhiên con người hiến tế cho nó không chỉ mạng sống của mình, mà còn hy sinh những gì quý giá và cao cả nhất trong trong cuộc sống, như nhân nghĩa, tình người, công bình, cũng như bác ái yêu thương.
Con người ai mà không thích tiền, ai mà không ham có nhiều tiền để tiêu dùng. Chúa dạy cho các môn đệ bài học về việc sử dụng tiền của. Tiền bạc là “đầy tớ tốt”, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách hữu hiệu cho mình và cho người khác; nhưng nó lại là “ông chủ xấu”, nếu ta để tiền bạc lôi cuốn chúng ta vào chuyện bất chính, khi bất chấp mọi thủ đoạn để kiếm tiền hoặc khi sử dụng đồng tiền cho mục đích xấu. Người môn đệ Chúa hãy sử dụng tiền của cách khôn ngoan, dùng tiền để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi linh hồn của mình và tha nhân (5 phút Lời Chúa).
Gần đây ở nước Anh, bác sĩ Roger Henerson đã đặt ra cụm từ “Hội chứng ám ảnh về tiền bạc”, để nói đến những triệu chứng tâm sinh lý của người quá ham mê tiền của. Ông nhận xét: “Lo lắng thái quá về tiền bạc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tâm trạng căng thẳng”.
Hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ về cám dỗ của đồng tiền. Việc đi theo Chúa đòi hỏi ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa hay tiền của, chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta phải biết sử dụng tiền bạc như phương thế, để mưu ích cho chính mình trên hành trình tìm kiếm Nước trời.
Truyện: Đồng tiền trên trời
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình, nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
Suy niệm 10: Thái độ đối với tiền bạc
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu muốn ta phải có một thái độ đối với tiền bạc. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
Tiền bạc là con dao hai lưỡi nên rất nguy hiểm.
Đây là những tư tưởng được loan truyền đó đây trong xã hội hôm nay.
Tiền trước tiên, tôn ta thành thần thánh, thành tiên thành thánh thượng.
Tiền tạo thành tích, thành tiên tiến, thành... tài, thành thân thế – tất thảy trân trọng.
Tay thủ tập tiền, trên tất thảy- tôn ti trật tự tiêu tán - tòa tù tội thảy tiêu tan - tội thành trong trắng, thất thu thành thành tựu - thấy tiền tựa thấy tiên - thấy trước tất thảy, thua thành thắng, tiền trợ thủ ta trên tất tật!
Túng tiền, tư tưởng, tinh thần tiêu tán, trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Thiếu tiền tất thua thiệt, tình tan tác, trong trắng thành tối tăm .
Thiếu tiền, thâm thủng, tủi thân, thành tham tàn, tù tội, thân thế tựa tre tàn, tất thảy thiếu tôn trọng, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. . .! (Tầm Vông, Gò Dầu-Tây Ninh)
“Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao.
Bẻ cong chân lý lật nhào công minh
“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế” hiển linh
Có bây, “pháp luật nghiêm minh” trò đùa
Buồn thay! “Vật chất” làm vua
“Đức” “Trí” “Lễ” “Nghĩa” phải thua đồng tiền! (NT2-Vũng Tàu)
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn!
Tiền nhiều: mặc kệ. . .vẫn hơn
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhè gì ông? (Tuổi trẻ cười –Xuân Canh Ngọ)
Tiền bạc có thể làm cho người ta ra mù quáng, không còn phân biệt được thật giả.
Xưa kia, có người nước Tề thích vàng. Sáng sớm, thay xiêm y đi ra chợ, đến hàng người đổi tiền, chộp một khối vàng, rồi đi.
Người ta bắt anh và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông người, mà anh dám đoạt vàng của người ta như thế?
Anh ta đáp lại:
- Lúc tôi thấy vàng, đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa đâu, tôi chỉ thấy vàng thôi.
Vì tiền bạc, nhiều người đã đánh mất cả lương tâm, cả tình người.
Như vậy, có phải có tiền là có tất cả hay không? Một con người bình thường với một bộ óc lành mạnh, không bệnh tất cũng có thể trả lời là không mà không sợ sai lầm.
2. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9)
Đây là những lời khuyên của một người mẹ giành cho đứa con bé nhỏ yêu quí của mình:
Thứ ba, ngày 29
Enricô của mẹ,
Sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:
- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!
Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó nào mà không cho gì”.
Mẹ con. (Edmond de Amicis, trong Tâm Hồn Cao Thượng).
Suy niệm 11: Chúa Giêsu dạy về tiền của
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của:
- Ngài đánh giá tiền của là “gian dối”.
- Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau.
- Phải coi tiền của là đầy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ.
- Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”: Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
a/ Tiền của có thể biến người sở hữu nó trở thành nô lệ cho nó;
b/ tiền của có thể được người ta tôn lên ngang hàng với Thiên Chúa, thậm chí cao hơn Thiên Chúa nữa!
2. Tôi thử xét lại liên hệ của tôi với tiền của xem tôi đang làm chủ nó hay làm nô lệ nó:
- Tôi vẫn còn làm chủ nó: khi tôi dám đem nó đi cho người khác, dám đưa nó cho người khác mượn, dám bỏ nó, khi tôi mất nó mà không đến nỗi như mất hồn…
- Tôi đã thành nô lệ nó khi ngày đêm tôi nghĩ tới nó, khi tôi trọng nó hơn tất cả mọi người khác, khi tôi sợ mất nó, khi vì nó mà tôi dám làm điều xấu…
3. Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước (Góp nhặt).
05/11 Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
- Viết bởi Lc 16, 1-8
Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Lời Chúa: Lc 16, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".
"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hành động khôn khéo
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta câu chuyện về Mạnh Thường Quân.
Ông là tướng quân của nước Tề vào thời Chiến Quốc.
Khi ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ về cho mình,
Phùng Huyên lại đốt giấy nợ của nhiều người và tha luôn nợ cho họ.
Mạnh Thường Quân không hiểu hết được ý nghĩa việc làm này.
Một năm sau, khi không được vua Tề tin dùng nữa,
Mạnh Thường Quân phải lui về đất Tiết để cư ngụ.
Dân chúng đổ xô ra đón ông như một vị ân nhân đáng kính.
Bấy giờ ông mới hiểu việc làm khôn ngoan trước đây của Phùng Huyên.
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bối rối.
Người quản gia bị mang tiếng là phung phí tài sản của chủ.
Anh phải nghỉ việc, dù không rõ tiếng tiếng đồn ấy có đúng không.
Anh không được bào chữa gì cho chính mình.
Bây giờ anh chỉ lo chuyện tương lai, sau khi thất nghiệp.
Anh suy nghĩ như một độc thoại: “Mình sẽ làm gì đây?”
Và anh nhận ra những hạn chế của mình về thân xác và tâm lý.
“Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” (c. 3).
Dường như một ý nghĩ đã lóe lên trong anh.
“Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia,
sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (c. 4).
Anh quản gia chỉ có một thời gian ngắn để thu xếp trước khi ra đi.
Anh đã gọi các con nợ của chủ đến,
và trong tư cách là người còn có quyền, anh cho họ tự tay viết lại giấy nợ.
Họ đều là người nợ ông chủ những số nợ lớn.
Số nợ này được giảm đáng kể, dưới sự gợi ý của anh quản gia.
Một trăm thùng dầu ôliu, nay chỉ còn nợ năm mươi thôi.
Một ngàn giạ lúa, bây giờ chỉ còn nợ năm trăm.
Dĩ nhiên đối với anh, tất cả đều phải theo nguyên tắc có qua có lại.
Anh đã cho họ được hưởng lợi vào lúc này,
thì hẳn họ sẽ phải nhớ đến anh lúc anh sa cơ lỡ vận (c. 4).
Ông chủ chắc đã biết trò gian xảo của anh.
Những lời đồn đãi trước đây quả không hoàn toàn vô căn cứ (c.1).
Đúng anh là một tên quản gia bất lương.
Vậy mà ông chủ đã khen anh, điều này làm chúng ta bị sốc.
Nhưng chủ không hề khen sự bất lương của anh.
Ông chỉ khen anh về cách hành động khôn khéo (c. 8).
Anh khôn khéo vì anh biết nghĩ ra cách để tìm được bảo đảm cho mình,
dù đó chỉ là thứ bảo đảm vật chất ở đời này có tính tạm bợ.
Đức Giêsu lấy làm tiếc vì con cái ánh sáng là chúng ta
lại không có được sự khôn ngoan như con cái đời này.
Người ngoài đời có nhiều bí quyết để làm giàu, để thành đạt.
Họ có đủ khôn khéo để công việc kinh doanh được trôi chảy.
Họ dám có sáng kiến và dám liều để đem ra thực hiện.
Ước gì chúng ta có sự khôn ngoan đích thực và ngay thẳng,
nghĩa là biết khéo tận dụng mọi sự mình có,
để được gặp Chúa ở đời này và được hạnh phúc ở đời sau.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Suy niệm 2: quản gia khôn ngoan
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người quản gia được ông chủ khen là khôn ngoan. Vì ông không có của cải nhưng đã biết lợi dụng của cải của chủ để làm lợi cho mình. Vì ông biết thời hạn làm quản gia của ông sắp hết nhưng ông biết chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Vì ông biết mua chuộc bạn hữu để sau này họ đón tiếp khi ông hết thời. Ông đã làm ơn cho những người mắc nợ chủ. “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy’? Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’….Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo”. Và Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Chúng ta cũng là quản gia của Chúa. Thời hạn quản gia của chúng ta cũng có hạn. Hãy biết noi gương người quản gia kia. Biết dùng của Chúa mà mua lấy bạn hữu. Biết chuẩn bị để khi hết thời làm quản gia họ sẽ đón tiếp chúng ta.
Thánh Phao-lô là người quản gia khôn ngoan. Vì Thiên Chúa ban cho ngài ân sủng chuyên rao giảng Tin Mừng. Ngài đã sinh lợi là đưa nhiều người về cho Thiên Chúa. “Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Theien Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài đã biết dùng ân sủng Thiên Chúa ban. Và ngài tự hào về điều đó. Những người nhận biết Thiên Chúa làm lợi cho Nước Chúa. Nhưng cũng là niềm tự hào của ngài. “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, việc làm, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần…Tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô” (năm lẻ).
Ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương bắt chước ngài. Hãy lo làm giàu ở trên trời. Vì cuối cùng Chúa sẽ biến đổi chúng ta. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Ngài yêu mến họ và mong họ cùng ngài kết hợp với Chúa để cùng được hưởng niềm vui và hạnh phúc: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (năm chẵn).
Suy niệm 3: Hành xử khôn khéo
Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: "Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện".
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Kẻ bất lương
Ðể nói về mầu nhiệm của nước Trời, Chúa Giêsu không những dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Chúa còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Chúa Giêsu không cố ý cho các đồ đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy. Chẳng hạn nơi Mt 10,16 Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Chúa Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.
Ðể hiểu thêm về dụ ngôn người quản lý gian ngoan này, chúng ta hãy nhớ rằng vào thời Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giầu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Do đó, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể trên đây, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. Ðó là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Và câu cuối cùng của dụ ngôn: "Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng" nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Chúa Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.
Áp dụng cho các đồ đệ của Chúa Giêsu, những con cái của sự sáng, Chúa Giêsu muốn sao cho các đồ đệ của Ngài cố gắng vận dụng hết khả năng trí khôn của mình để làm cho những nén bạc tài năng Chúa ban cho được trổ sinh những hoa trái tốt đẹp. Những kẻ xấu, những người ác mà còn biết ra sức vận dụng hết khả năng trí khôn của họ để làm chuyện xấu, nghịch luật Chúa, hại anh em. Trong khi đó, tại sao những người đồ đệ đích thực của Chúa Giêsu, những con cái sự sáng lại không dấn thân hết sức mình, không sử dụng hết khả năng trí tuệ của mình để làm điều tốt, bổ ích cho chính mình cũng như cho anh chị em chung quanh.
Người đồ đệ đích thực của Chúa không thể nào có một thái độ ỷ lại, lười biếng trong việc tốt và phải dấn thân tích cực hết sức lực mình. Con hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng cũng phải hết sức lực, với hết khả năng trí khôn Chúa ban cho.
Lạy Chúa
Xin thức tỉnh mỗi người chúng con khỏi sự ù lì, lười biếng tinh thần. Nước Chúa dành cho những kẻ mạnh, cho những ai dấn thân hết mình cho điều tốt. Xin thương ban cho chúng con nghị lực kiên trì trong việc tốt, đẹp lòng Chúa, bổ ích cho anh chị em chung quanh. Xin cho chúng con biết hăng say làm việc tốt mà không cần phần thưởng nào khác hơn là biết chúng con đang làm tròn ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Quản lý bất trung
Mình biết phải làm gì rồi! để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ! Anh ta cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai này của bác đây ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: Một ngàn thùng lúa. Anh ta bảo: Bác cần lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế! Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc. 16, 4-8)
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu khi thì nói với biệt phái, lúc nói với dân chúng hay các môn đệ, Người muốn giáo huấn họ đặc biệt về trách nhiệm của họ như người quản lý của Thiên Chúa.
Người xảo quyệt của thế giới đen
Người quản lý bất lương thấy thế giới của hắn bỗng chốc sụp đổ. Ngày phán xét đến cũng bỗng chốc thế. Hắn mất địa vị và danh tiếng. Đời sống hiện tại vật chất cũng lâm nguy, nhưng chủ còn để hắn một ít lâu để tính sổ. Hắn tự nhủ và nhận thấy phải hành động mau chóng và liều lĩnh để bảo đảm nuôi thân sau này. Hắn tha cho những con nợ của chủ một số nợ bằng năm trăm ngày công. Như thế, hắn có thể bảo đảm đời sống sau khi mất chức quản lý. Đức Giêsu khen tên quản lý trộm cắp này vì đã hành động khôn khéo biết lo cho đời sống.
Sự khôn khéo đó đáng làm gương cho con cái ánh sáng
Đức Giêsu không ca ngợi tên quản lý quỷ quyệt hỗn láo đó. Nhưng sự khôn khéo của hắn đúng là dấu chỉ của thời đại. Hắn đã hết thời vào ngày chủ đòi hắn tính sổ. Điều Đức Giêsu muốn rút ra bài học là sự táo bạo của hắn, khiến hắn khai thác tối đa một ít thời giờ còn lại, đã giúp bảo đảm tương lai của hắn.
Cũng thế, môn đệ không biết khôn khéo khi Chúa đến và đòi tính sổ, các ông phải biết tha thứ tất cả những ai mắc nợ với mình để Chúa cũng tha nợ cho các ông. Các ông còn phải chăm sóc mọi gia nhân trong nhà chủ đã trao phó cho các ông. “Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ về thấy nó đang làm việc chu đáo”.
Đối với những công việc ở thế giới này, những người muốn bảo đảm được tương lai vật chất, phải tỏ ra rất khôn khéo. Họ đã khôn khéo xử đối với đồng loại mình, nhưng lại không khôn khéo với những công việc nước trời. Trái lại con cái ánh sáng, những người tin vào Đức Giêsu, Đấng là ánh sáng, lại không biết khôn ngoan để bảo đảm được ơn cứu độ. Họ phải cố gắng thực hiện được sự táo bạo và khôn khéo, và hành động khi còn thời giờ, như con cái của xã hội đen.
RC
Suy niệm 6: Hãy khôn ngoan theo tin mừng
Xem thêm CN 25 TN C
Khi nói đến Đức Giêsu, chúng ta biết Ngài là Đấng Chân Thật, vì thế, Ngài luôn bênh vực sự thật và tố cáo bất công, gian tham... Ấy vậy mà bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa cho chúng ta ngỡ ngàng khi Đức Giêsu đề cao thái độ gian lận, giả dối của tên quản lý bất trung!
Tin Mừng kể lại: khi hắn biết chắc mình không còn được trọng dụng nữa vì những thất thoát mà hắn gây nên. Người quản gia này đã sử dụng mánh khóe theo kiểu: “Dùng phương tiện xấu để đạt được mục đích tốt”. Vì thế, anh ta đã gọi từng con nợ của chủ đến hỏi về số nợ, rồi lấy văn tự ra, viết giảm số nợ đi. Đây là một hình thức biển lận của chủ mà tên quản lý bất lương gỡ gạc vào những giờ phút chót trước khi bị xa thải.
Sau khi kể dụ ngôn này, nhiều người chưng hửng khi thấy ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó khôn ngoan, nhanh nhạy khi hành động cách khôn khéo!
Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề có thái độ tôn vinh hay chấp nhận hành vi bất chính của người quản gia này, nhưng ngang qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ và cho mỗi chúng ta rằng: phải khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, biết tận dụng mọi cơ hội và biến cố để loan báo Tin Mừng, biết chuẩn bị cho tương lai, biến chúng thành những cơ may để gặp gỡ Chúa, ngõ hầu đạt được Nước Trời làm gia nghiệp.
Nếu người quản gia kia đã khôn khéo và mánh khóe thì mỗi chúng ta hôm nay cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích chúng ta đang theo đuổi trong cuộc sống.
Vậy đâu là mục đích và lẽ sống của chúng ta? Hẳn không phải là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú... Những thứ đó không phải là mục đích, điểm đến của người Kitô hữu. Nhưng mục đích tối hậu của chúng ta chính là Nước Trời. Vì thế, ngay giây phút này, mỗi chúng ta hãy biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu mai ngày trên Thiên Quốc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Khẩn cấp sáng suốt chuẩn bị cho đời sống mai sau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Người quản lý “bất lương” phải chạy đua với thời gian bằng cách sáng suốt có những hành động kịp thời, để giúp anh ta có cơ hội sống còn sau này. Chúng ta cũng cần phải khẩn cấp với thái độ sáng suốt chuẩn bị cho đời sống mai sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, các trang Tin Mừng thường nhắc đến tính khẩn cấp và bất ngờ của việc Chúa tái xuất hiện. Chúa sẽ đến với từng người trong các biến cố cuộc sống, nhưng nhất là Chúa sẽ đến trong giờ phút kết thúc cuộc đời tại thế.
Vâng, lạy Chúa, con sẽ phải tính sổ cuộc đời mình. Đó là việc khẩn cấp, vì con không thể biết chắc chắn, con sẽ giã từ cuộc đời vào lúc nào. Vì khẩn cấp, con phải điều chỉnh ngay thái độ sống của con đối với Chúa và đối với anh em. Vì khẩn cấp, con cần thực hiện ngay những lời Chúa dạy và thực hành ngay những điều được học biết về giáo lý của Chúa. Vì khẩn cấp, con cần sử dụng thời gian cách hữu ích và lợi dụng từng cơ hội, từng biến cố để biến thành những cơ may gặp Chúa, gặp anh em, và để làm việc thiện chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu.
Lạy Chúa, hành trình về vĩnh cửu là lối đường con phải đi một mình, và những ngày chuẩn bị cũng không ai thay thế con được. Con chỉ biết cậy dựa nơi Chúa, và tìm thấy sức mạnh nơi sự trợ giúp của Chúa mà thôi. Cuộc hành trình về vĩnh cửu đã bắt đầu. Từng ngày con sống là từng phút giây hướng về Chúa. Từng ngày qua đi là từng bước con rút ngắn khoảng cách tiến về đời sống vĩnh cửu. Xin Chúa giúp con luôn đặt mình trước mặt Chúa, sống vì Chúa và cho Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”.
Suy niệm 8: Hãy là người quản lý sống theo Tin Mừng
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mạnh Thường Quân là người giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết Thành đòi nợ. Khi đi, Phùng Huyên hỏi:
Ngài có định mua gì về không?
Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết Thành, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân:
Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết Thành cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết Thành. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
Đó là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước...
Suy niệm
Trọng tâm câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý. Thánh Luca không nói mọi chi tiết về người quản lý này bất lương ở chỗ nào. Không biết ông có tham nhũng ăn chặn của được giao trách nhiệm, vơ vét vào túi riêng như các tham quan hôm nay hay không, chỉ biết rõ là ông bị chủ bãi chức vì phung phá của nhà chủ. Như thế, cái tối thiểu của người quản lý là anh đã không chu toàn bổn phận: Bảo toàn và sinh lợi trên gia sản mà anh có trách nhiệm được giao
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thời đó ở Palestine, người quản gia thay thế gia chủ quản lý tất cả tài sản và làm một cách tốt nhất để tài sản đó được sinh lợi. Người quản gia không có lương nên có quyền cho người khác vay tài sản của chủ mình vừa làm lợi cho chủ vừa làm lợi cho chính mình. Cho nên, trong lúc thỏa thuận, ông có thể ghi số lượng lời trội hơn, vì phần lời cho chủ và phần lời cho chính ông như là lương của ông. Nhờ đó, khi thu số vốn cho vay ngoài phần lời phải có cho chủ, ông được phép thu số dư làm của riêng mình. Cho nên, khi biết mình sắp bị bãi nhiệm, người quản gia trong dụ ngôn tính lại cho những người vay mượn phần của mình, chỉ ghi lại số lượng ông chủ phải thu hồi. Do đó, người chủ không bị thiệt mà người nợ lại biết ơn người quản gia. Người quản gia sửa đổi số lượng ít đi, không phải vì ông đã làm hại cho chủ, mà ông chịu thiệt thòi phần của chính ông để khôn khéo xếp đặt dự tính cho tương lai chính mình. Như vậy, người quản gia này trước đó không chỉ hoang phí tài sản của chủ không biết vào mục đích gì (có thể vào túi riêng: Tham nhũng) nhưng lợi dụng chức vụ bóc lột người nghèo quá mức. Tuy nhiên, ông đã biết “sửa sai” trong giờ chót, biết “nhả ra chút ít của bất chính” để mong tìm được con đường hậu vận khi bị bãi chức. Dưới góc độ tính toán, ông được khen vì xử lý kịp hoàn cảnh lúc “không ổn” của mình để tìm bãi đáp và hạ cánh an toàn.
Giữa những thực tế hoang tàn vì tham nhũng trong xã hội, Lời Chúa đang văng vẳng bên tai chúng ta về tư cách người quản lý: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10). Ngài mời gọi chúng ta trở nên người quản lý theo Tin Mừng: Quản lý của cuộc sống riêng mình; quản lý tốt với những gì chúng ta có: tài năng, khuyết điểm... như người chủ biết tận dụng cái cũ, cái mới trong kho cuộc đời (x. Mt 13,52) để làm cho cuộc đời thêm phong phú và quản lý việc công nếu được giao trách nhiệm gánh vác: Hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Ý lực sống
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Suy niệm 9: Phải lo tìm hạnh phúc đời sau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại dụ ngôn người quản lý bất lương, để trình bày bài học phải biết khôn ngoan sử dụng tiền của đời này để mưu ích cho phần rỗi đời đời. Thật thế, con người ngày nay rất khôn khéo khi tính toán để tìm hạnh phúc đời này. Nhưng sự khôn ngoan đích thực thì ít có ai tìm được, hay cố gắng đi tìm. Cũng như người quản lý trong Tin mừng hôm nay, ông đã dùng sự khôn khéo gian manh để tìm hạnh phúc cho đời sống của ông. Qua đó, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta phải biết dùng sự khôn ngoan của mình để sử dụng gia tài Chúa ban: sức khỏe, thời gian, tiền của... mà tìm lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý: Đức Giêsu không khen việc lỗi đức công bằng này, vì việc làm này là gian lận của chủ, đây là cái lỗi. Tuy nhiên, Chúa khen anh vì biết tận dụng tất cả những khả năng và điều kiện, địa vị sẵn có, để có lợi cho về sau của mình. Anh khôn khéo vì biết tận dụng những ngày cuối cùng còn lại trong nhiệm vụ, để lấy lòng người khác, để tạo một ảnh hưởng và chỗ dựa sau này, biết tận dụng thời gian và những điều kiện có sẵn để lo cho số phận tương lai của mình. Dụ ngôn chỉ dừng lại với ý nghĩa là, tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban và là của Chúa, điều quan trọng là chúng ta biết dùng những ân huệ Chúa ban để giúp đỡ tha nhân, và chính điều này sinh lợi cho chúng ta khi chúng ta không còn được quản lý thân xác và những ân huệ đó nữa.
Mặc dầu người quản lý trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Đức Giêsu đã rất khéo lấy hình ảnh người quản lý đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình, nên họ đã sử dụng chúng không theo ý của Chúa. Hãy biết noi gương người quản lý này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Mọi sự trần thế không theo chúng ta về đời sau! Chính vì thế, Đức Giêsu dạy chúng ta một điều vô cùng khôn ngoan, là hãy “dùng tiền bạc và những giá trị trần thế để mua lấy bạn hữu để sau này họ sẽ đưa chúng ta về nơi an nghỉ đời đời”.
Kho tàng Nước trời của mỗi người chúng ta tuỳ thuộc việc chúng ta sử dụng kho tàng trần thế của mỗi người chúng ta như thế nào. Khi chúng ta tiêu xài cho riêng mình thì kho tàng Nước trời của chúng ta trống rỗng! Trái lại, khi chúng ta cho đi, cho những người bất hạnh, tàn tật, khổ đau là kho tàng Nước trời của chúng ta tăng gấp bội! Tất cả mọi người đều là những người thủ quỹ của Thiên Chúa! Mọi khả năng, sức khoẻ, thời giờ, địa vị... tất cả đều của Chúa trao ban, chúng ta hãy trở thành người quản lý tốt, để đời sống chúng ta đem lại vinh quang.
Qua câu chuyện trên đây, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: nếu người đời có sự khôn ngoan và mánh khoé, thì các môn đệ cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích họ theo đuổi trong cuộc sống. Đâu là mục đích và lẽ sống của người Kitô hữu? Nếu mục đích của cuộc sống chỉ là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú và những gì sẽ qua đi, thì điều đó có đáng cho con người đầu tư cả cuộc đời không?
Với người môn đệ Chúa Kitô, sự khôn ngoan ấy cũng được tỏ lộ qua thái độ của họ đối với của cải trần thế. Họ là những người khôn ngoan thực sự, khi họ luôn ý thức rằng: của cải trần thế này không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để đạt tới cùng đích. Sống như thế nào để của cải trần thế không trở thành một chủ nhân sai khiến và biến mình thành nô lệ. Sống như thế nào để xuyên qua mọi thực tại chóng qua của đời này biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, sống như thế mới thực sự là sống khôn ngoan (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Ông Mạnh Thường Quân
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân đến bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.
Suy niệm 10: Sử dụng của cải theo đúng ý Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Mặc dù người quản gia trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản gia này để làm nên một dụ ngôn dạy đời. Chúa muốn nhắc rằng, đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình nên họ đã sử dụng chúng không theo đúng ý Chúa.
Hãy biết noi gương người quản gia này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi vào cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chúng tọi chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Thế tiền-cho-đi là tiền khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi ấy ở đây.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
2. Chúa nói: "Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại." (Lc 16, 8b)
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử:
- Người khôn có sống lâu không?
Khổng Tử đáp:
- Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được!
Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chứ không phải số mạng đáng chết mà chết.
+ Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế, thì phải chết về bệnh tật
+ Phận là người dưới, mà xúc phạm người trên, lòng tham muốn không ngừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
+ Mình ngu, mà mình kịch người khôn, mình yếu mà khinh bỉ người mạnh; không biết lượng sức mạnh, mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết vì binh đao.
Ba thứ chết ấy thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi.
Phần chúng ta, chắc chắn là chúng ta đều muốn sống và sống lâu, nhất là sống đời đời. Muốn thế chúng ta biết sống cho thật khôn ngoan.
Đức Giáo Hoàng Innocentê II có một chiếc hộp, Ngài thường mở ra coi; người thì cho là trong đó để một di vật quý của gia đình Ngài, người thì cho là tượng Chúa hoặc ảnh một vị thánh, người thì cho là hài cốt của vị thánh Ngài tôn sùng.
Một hôm, cha Claudius Aquavina Bề Trên dòng Tên, bạn thân của Đức Giáo Hoàng, vào yết kiến, gặp lúc Đức Giáo Hoàng đang mở hộp xem, Ngài bảo cha Claudius đoán xem, hộp đó đựng gì? Cha Claudius không đoán được.
Lúc đó, Đức Thánh Cha mới mở hộp ra, trong hộp này có một quan tài nhỏ, và trong quan tài có để chân dung Đức Thánh Cha. Rồi Đức Thánh Cha nói: "Vào lúc khởi đầu điểu khiển Giáo Hội, ta phải quyết định nhiều việc quan trọng. Thường thì dân chúng cố áp lực với ta, không chỉ bằng tranh luận, mà cả bằng tiền tài và danh dự nữa. Nhưng trước khi quyết định bất cứ vấn đề trọng đại nào, ta cũng mở hộp này ra, nhìn vào quan tài đựng chân dung của ta, và tự nhủ: "Hỡi Innocentê, ngày kia ngươi sẽ chết, khi ngươi nằm vào quan tài, thì ngươi liệu còn làm được gì nữa không? Lúc ấy ngươi nghĩ phải làm sao, thì bây giờ ngươi hãy làm đi!
Vì thế ta đã hành động theo đúng những quyết toán được định đoạt ở đây, bên chiếc hộp đựng quan tài này."
Vâng! Phải chọn cho mình một con đường để thể hiện cuộc sống của mình. Thành công hay thất bại đều lệ thuộc vào sự chọn lựa căn bản này.
Đây là những lời được viết trên tường của căn nhà dành cho các trẻ em ở Calcutta:
Hãy dành thì giờ suy nghĩ
Ðó là nguồn sức mạnh
Hãy dành thì giờ để cầu nguyện
Ðó là sức mạnh toàn năng
Hãy dành thì giờ cất tiếng cười
Ðó là tiếng nhạc của tâm hồn
Hãy dành thì giờ chơi đùa
Ðó là bí mật để trẻ mãi không già
Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu
Ðó là ưu tiên Thiên Chúa ban cho
Hãy dành thì giờ để cho đi
Vì một ngày quá ngắn để ích kỷ
Hãy dành thì giờ cho bác ái
Ðó là chìa khóa cửa thiên đàng. Amen.
Suy niệm 11: Chuẩn bị tương lai đời đời
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Phong tục do thái: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
2. Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là “bất lương”. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự “bất lương” này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?...).
3. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Mặc dù người quản lý trong dụ ngôn này không tốt cho lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản lý làm dụ ngôn. Chúa muốn nhắc rằng đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải xử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình.
2. Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
3. “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại.” (Lc 16, 8b)
Ở đời, “biết mình biết người trăm trận trăm thắng.” Người quản gia bất lương trong dụ ngôn xưa, hơn ai hết, biết rõ thực trạng tội lỗi của mình, và biết chắc nguy cơ bị sa thải là không tránh khỏi. Điều hơn người là y dám nhìn thẳng vào sự thật và dùng hết khả năng còn lại của mình để đổi lấy tình thân hữu, dự phòng cho tương lai. Y đã thành công do biết nhìn xa trông rộng.
Ở đây Thiên Chúa không có ý định ủng hộ những hành động mưu lợi bản thân, mà qua đó Ngài muốn nhắc nhở chúng ta về một chân lý: dự phòng cho tương lai. Đời này đã có thể an tâm, còn dự phòng cho cuộc sống đời sau, hẳn hạnh phúc hơn nhiều.
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng cuộc sống đời này để mua lấy cuộc sống đích thực nơi quê trời. (Hosanna)
04/11 Lòng thương xót vô biên của Chúa
- Viết bởi Lc 15, 1-10
Lòng thương xót vô biên của Chúa.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 31 thường niên. – Thánh Carôlô Borômêô, giám mục. Lễ nhớ.
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
* Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên.
Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.
Lời Chúa: Lc 15, 1-10
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng".
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xin chung vui với tôi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.
Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn:
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).
Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.
Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.Amen
Suy niệm 2: Tình yêu là lề luật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đối với người Do thái Lề Luật là tất cả. Là lẽ sống. Là danh dự. Là trật tự. Là ơn cứu độ. Tất cả là Lề Luật. Nên khô cứng. Và không có tình người. Họ không giao du với người thu thuế. Vì người thu thuế không giữ Lề Luật. Giao du với họ là ô uế cũng lỗi Lề Luật. Chúa Giê-su dùng hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất” để cho họ biết rằng nếu Lề Luật là tất cả thì Tình Yêu chính là Lề Luật. Tình Yêu mới là tất cả.
Tình Yêu là Lề Luật vì chỉ có một luật quan trọng nhất là luật yêu thương. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau”.
Tình Yêu thì không tính toán. Một con chiên lạc cũng quan trọng như 99 con không lạc. Nên người chăn chiên thao thức đi tìm cho đến khi tìm thấy. Một đồng bạc cũng quan trọng bằng 9 đồng không mất. Nên người phụ nữ phải quét nhà moi móc tìm cho ra. Cũng thế một người tội lỗi cũng quan trọng như tất cả mọi người. Cần cứu chữa đưa về.
Tình Yêu thì không loại trừ. Trái lại vì yêu thương nên những gì bé nhỏ, yếu ớt, kém cỏi lại càng cần được yêu thương hơn. Những tội nhân, những người xa lạc, giống như những người mang thương tích càng cần được chăm sóc, băng bó, chữa lành hơn. Cũng như trong một thân thể, chi thể nào càng đau yếu càng được nâng niu chăm sóc hơn.
Tình Yêu thì không xét đoán. Nếu có xét đoán cũng là trong tình yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán về tình yêu. Chỉ mình Chúa có quyền xét đoán. Vì thế ta đừng xét đoán anh em. Vì chính ta sẽ bị Chúa xét đoán. “Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em. Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa…mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (năm lẻ).
Tình Yêu là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô là tất cả. Là Tình Yêu. Là Lề Luật. Còn hơn thế nữa. Là Sự Sống. Là Hạnh Phúc. Là Tất Cả Ý Nghĩa Cuộc Đời. Vì thế thánh Phao-lô xưa kia cũng có địa vị trổi vượt, cũng hay xét đoán và tự cho mình quyền xét xử người khác, có nhiều ưu thế trong xã hội. Nhưng từ khi được biết Chúa Ki-tô ngài từ bỏ tất cả. Vì Chúa Ki-tô là tất cả. “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đứuc Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi” (năm chẵn).
Suy niệm 3: Con Chiên Lạc
Có một câu chuyện về cuộc đời của một thiếu nữ tên Liker với nội dung như sau:
Liker phục vụ trong quân đội Anh, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cô trở thành gái mãi dâm. Lúc thành phố Paris được giải phóng sau thế chiến thứ hai, không lâu sau đó, Liker phục vụ những khách hạng sang tại một trong những nơi ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris do Patric làm chủ. Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác để khỏi rơi vào hoàn cảnh éo le của mình, Liker đã bắn chết Patric. Cô bị tống giam, nhưng trong cảnh ngục tù, Liker đã gặp các Nữ tu có tên gọi là các chị Bêtania, là Dòng chuyên nâng đỡ những cô gái sa cơ lỡ bước, những người nghiện ngập, những người sống đầu đường xó chợ. Vài nữ tu này trước kia cũng là nạn nhân của xã hội như những người họ đang phục vụ. Mãn hạn tù, Liker xin gia nhập dòng và trở thành một trong các chị Bêtania.
Nữ tu Liker trong câu truyện trên đây là tiêu biểu cho con chiên lạc mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến. Nàng đã sa cơ lỡ bước, nhưng Thiên Chúa qua cử chỉ của các chị Bêtania đã đi tìm gặp chị và mời gọi chị trở nên bạn chí thiết của Ngài trong đời sống hiến dâng.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay rất đơn sơ, nhưng mang đầy ý nghĩa. Vai chính là người chăn chiên và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt, vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa.
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Một Thiên Chúa sung sướng khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Ngài. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, vì tình thương vô biên của Ngài. Nữ tu Liker trong câu truyện trên đã cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, còn chúng ta, cho đến bao giờ mới có một kinh nghiệm như thế?
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Khía Cạnh Sâu Xa Của Tình Yêu
Trọng tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay nêu bật khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói trọn trong tình yêu khoan dung vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngục tù của lỗi lầm, của quá khứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ làm ơn trong hiện tại đen tối của người ấy mà còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tốt hơn trong tương lai.
Trong cách hành xử của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sẵn sàng tha thứ để biểu lộ một tình yêu chân thành qua việc Ngài tiếp xúc với những người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội thời bấy giờ gán cho là kẻ tội lỗi. Ngài không ngăn cấm họ năng lui tới nơi Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài còn cùng ăn uống đồng bàn với họ. Những cuộc gặp gỡ giao tế này minh chứng rằng Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: trạng thái hiện tại của họ và trạng thái họ có thể trở nên tốt lành hơn trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dù đang sống trong tình trạng tội lỗi nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải, và những điều họ có thể trở nên minh chứng qua những hành động cụ thể sau đó. Thí dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa của ông Mátthêu. Là một người thu thuế, khi được Chúa gọi, ông đã bỏ bàn thu thuế đứng dậy và đi theo làm môn đệ Chúa. Hay qua sự hoán cải của một người thu thuế khác sau khi gặp gỡ Chúa và nghe Ngài dự định tới trọ nhà mình, ông Zakêu đã hứa là sẽ lấy nửa gia tài của mình mà phân phát cho những người nghèo và bồi thường gấp bốn cho những ai ông đã làm thiệt hại.
Chúa Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: "Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc". Như thế, đối với Chúa Giêsu, Ðấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi và rồi bị xếp loại vào những người bị kết án muôn đời.
Vậy, chúng ta đây còn chần chờ gì nữa. Hãy chỗi dậy kíp hoán cải để thống hối ăn năn thực lòng, để được Ngài âu yếm vỗ về và để cho các thánh trên trời đều reo vui như lời kết thúc của câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu: "Thật vậy, Ta bảo cho các ngươi rõ, các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại".
Lạy Chúa
Xin cho con được ý thức tình thương của Chúa trong đời sống con và luôn luôn quay trở về mỗi lần lầm lỗi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Thiên Chúa lo cứu kẻ lạc
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác chiên lên vai.” Cũng thế tôi nói cho các ông hay: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai lấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 4-5.10)
Trong đám đông dân chúng có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Họ đã thấy việc Đức Giêsu làm và mau mắn đến nghe lời Người. Biệt phái và luật sĩ cậy mình là người công chính, họ rình xét Người và lẩm bẩm kêu: Ôi gương mù quá! Người nói nhân danh Thiên Chúa, lại đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với bọn ô uế.
Sáng kiến tìm chiên lạc:
Luôn luôn Thiên Chúa được giới thiệu như mục tử yêu mọi con chiên. Nếu lạc mất một con, mục tử để lại cả đoàn và đi tìm con chiên lạc với bất cứ giá nào và vác lên vai đưa về. Anh vui mừng biết bao và chia sẻ vui mừng với tất cả mọi người. Cũng vậy, một bà đánh mất một đồng bạc và hết sức quét nhà tìm cho được.
Đức Giêsu muốn chỉ cho thấy Thiên Chúa sáng kiến tìm đưa người tội lỗi về với Ngài trước, khi tìm được, Ngài tỏ lòng rất dịu dàng và thương xót an ủi họ. Trái lại, biệt phái loại họ khỏi cộng đồng hội thánh của Ít-ra-en, còn Thiên Chúa rất cảm động trước sự thống hối và tha thứ cho tội nhân, dẫn đưa họ về gia đình trong vui mừng.
Vui mừng tìm được chiên lạc
Niềm vui này, Thiên Chúa chia sẻ với mọi người, để họ nhận ra lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Ô-sê: “Tim Ta rạo rực trong Ta, cùng với lòng từ bi rung động … Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải là người, Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi; Ta không đến với ngươi trong cơn thịnh nộ”. Chính vì Thiên Chúa không vứt bỏ những tội nhân, nhưng còn cảm thấy vui mừng lớn lao khi tha thứ cho họ, nên Đức Giêsu chăm lo cho họ và đồng bàn với họ. Những kẻ giả hình công chính phải lo ăn năn trở về, thay vì lẩm bẩm kêu trách. Như thế, họ sẽ không được chia sẻ sự vui mừng do lòng thương xót Chúa ban.
Dù ăn uống với những người tội lỗi, Người luôn luôn kêu gọi phải từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối trở về, Người chỉ cho thấy ai đáp lại lời kêu gọi này thì không bị cơn giận của Thiên Chúa đổ xuống, nhưng được vui mừng hưởng lòng thương xót và ân phúc cứu độ của Ngài.
RC
Suy niệm 6: Thiên Chúa luôn hướng tới tương lai
Xem CN 24 TN C - Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm C - thứ Ba tuần 2 MV và thứ Ba tuần 19 TN
Toàn bộ Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy từ hành động đến lời rao giảng, Ngài luôn nhấn mạnh đến sự tha thứ và tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Hai dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc bị đánh mất hôm nay là điển hình của đặc tính ấy.
Thật vậy, bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì thế, Người không chấp tội của chúng ta, Người cũng không để ý, hay đóng khung trong quá khứ, nhưng luôn mở ra và hướng tới tương lai.
Với một lối nhìn nhân từ, bao dung, tha thứ, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại xếp những người tội lỗi như thu thuế, gái điếm thành bạn hữu của Ngài, trong khi những hạng người này dưới con mắt của người thời đó là đáng bị khinh bỉ và nguyền rủa!
Điều quan trọng mà chúng ta cần khám phá ra và cũng là hành trình đức tin của mỗi người, đó là: khi được Chúa yêu thương, tha thứ và tạo cơ hội cho mình thì điều đầu tiên cần có là tâm tình tạ ơn, rồi đến sám hối, hoán cải và cuối cùng là thực thi Lời Chúa cách trung thành.
Qua hình ảnh vị Mục Tử nhân lành vác con chiên đã đi lạc lên vai sau khi tìm được và niềm vui của bà chủ khi tìm thấy đồng bạc bị đánh mất cho chúng ta thấy rõ ràng một Thiên Chúa luôn hướng tới tương lai, không hề có ý định đóng dấu tội lỗi trong quá khứ cho bất cứ ai, nhưng không ngừng đi tìm kiếm người tội lỗi và mong họ trở về.
Đây là niềm tự hào và an ủi cho người Kitô hữu, bởi chúng ta được thuộc về Thiên Chúa tình thương, đồng thời an ủi là vì mỗi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, nhưng được Ngài yêu thương.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hãy biết tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, can đảm quay trở về với Người để được Người yêu thương. Đồng thời, noi gương Chúa, chúng ta không được coi thường, khinh bỉ người tội lỗi, bởi vì thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai. Thế nên, xin cho chúng ta hãy biết tha thứ và đối xử nhân hậu đối với những người tội lỗi như chính Chúa đã đối xử nhân hậu với chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Lòng thương xót của Thiên Chúa với tội nhân
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Dụ ngôn tìm chiên lạc và tìm đồng bạc bị đánh mất nói lên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với mọi tội nhân. Qua đó Chúa mời gọi ta trở về với Chúa để nhận ơn tha thứ và để ta cũng biết tha thứ cho anh em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua dụ ngôn tìm chiên lạc và tìm đồng bạc bị đánh mất, con cảm thấy lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân thật bao la vô ngần. Cái nhìn yêu thương cảm thông của Chúa thật khác xa với cái nhìn hằn học ghen tị của những người biệt phái và luật sĩ.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ bỏ rơi con, cho dù con là một kẻ đốn mạt tội lỗi. Người chăn chiên quên đi chín mươi chín con chiên đang ở với mình để đi tìm một con chiên lạc, hình ảnh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân thật lạ thường biết bao. Chúa vẫn luôn nghĩ đến con cho dù trong trái tim con không hề có hình ảnh Chúa. Chúa vẫn yêu thương con cho dù bao lần con đã xúc phạm đến Chúa. Và Chúa sẵn sàng ra đi tìm kiếm con cho dù con luôn tìm cách trốn chạy, muốn xa lìa Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để con quyết tâm trở về với Chúa. Xin cho con xác tín rằng: Chúa sẽ vui mừng biết bao khi thấy con thật lòng ăn năn thống hối tội lỗi, vì chính tình yêu thương tha thứ của Chúa sẽ mang đến cho con niềm hạnh phúc bình an. Và xin Chúa ban cho con trái tim nhân ái của Chúa, để con cũng biết yêu thương tha thứ cho những anh em lầm lỡ và giúp đỡ họ trở về với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Suy niệm 8: Thiên Chúa yêu thương chúng ta
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó.
Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: “Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nhận ra chân dung của Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và nhân hậu, Ngài hiện thân qua người con yêu, Ðức Giêsu Kitô, Đấng luôn kiếm tìm chúng ta. Ngài sẵn sàng đón nhận chúng ta đang khi chúng ta còn là tội nhân.
Khi con người yếu đuối vì tội lỗi, con người đi hoang, đánh mất tình cha con đã được Thiên Chúa Cha, chuộc lại qua Chúa Kitô, thánh Phaolô đã xác tín: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Cho nên, con trở về, Cha tha thứ vui mừng như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ tâm tình của Thiên Chúa Cha, trước người con quay về mà ngôn sứ Mikha đã tiên tri về tình Chúa, tình Cha “có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, trở về cùng Chúa kết hợp với Ðức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phaolô dạy: “Phàm ai kết hợp với Ðức Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5,17).
Trở về bên Chúa, sau những quãng đời hoang tàn, con lại khám phá và sống lại trong tình Chúa, tình thâm sâu nghĩa nặng của Cha luôn bao la:
Con nguyền giữ đạo Trung Cang
Tình cha con nguyện nặng mang trọn đời. (Võ Duy Khánh, Tình Cha).
Ý lực sống
“Sự hối cải là một lời cầu nguyện (...) những người ăn năn sám hối sẽ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ những thực tại tuyệt vời” (Thánh Gioan Kim khẩu chú giải Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32).
Suy niệm 9: Lòng thương xót và thứ tha của Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thấy Đức Giêsu hay gần gũi những người tội lỗi lại còn đồng bàn với họ, nhóm biệt phái và luật sĩ trách cứ Chúa. Do đó, Đức Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ. Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài xót xa khi một người rơi vào tình trạng tội lỗi, do đó, Ngài thiết tha cứu người tội lỗi. Hai dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị mất nói lên tấm lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng đón nhận chúng ta và Ngài vô cùng sung sướng khi chúng ta biết mở lòng đón nhận sự tha thứ và tình thương của Ngài.
Hình ảnh con chiên bị lạc vì nó lạc bước không có chủ ý, mà do đam mê cỏ ngọn suối ngọt mà nó bị lạc, nên nó vẫn muốn tìm về, nhưng nó không tìm được đường về, hoặc bị sa xuống hố, hay đang bị cầm giữ, nên chủ nó mới đi tìm về, cho nó được nhập lại đàn và băng bó chữa trị cho nó. Cũng thế, không ít người trong chúng ta cũng lạc lối bơ vơ trong những đam mê, sa lầy trong tội lỗi, bị mọi thứ thế gian che khuất không tìm thấy lối về nẻo chính đường ngay. Chúa vẫn đã, đang và sẽ mãi đi tìm chúng ta để chữa lành và đưa về với Hội thánh. Đó là điều làm chúng ta an tâm và ngoan ngoãn cho Chúa đưa về.
Thật cảm động trước thái độ ân cần của người chủ chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó lên vai mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh thiên đàng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân (Lm. Carôlô).
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Cách nói phóng đại trong dụ ngôn “con chiên lạc” và “đồng bạc bị mất” diễn tả niềm vui của Thiên Chúa lớn lao dường nào khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải. Quả thật, Thiên Chúa đã phải buồn lòng bao nhiêu khi con cái mình lạc đường, thì Ngài sẽ vui mừng hơn gấp bội khi thấy dù chỉ là một người con trở về chính lộ. Lòng thương xót của Thiên Chúa dạt dào đến mức khiến Ngài cũng trở nên “yếu đuối, mềm lòng” luôn sẵn sàng tha thứ một khi tội nhân tỏ lòng sám hối ăn năn. Thiên Chúa muốn cho người tội lỗi hối cải đến mức như Ngài không còn e ngại gì nữa, mà còn chấp nhận để cho lòng tốt và tình yêu của mình bị lợi dụng (5 phút Lời Chúa).
Đức Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Đức Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: “Hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc”. Như thế, đối với Đức Giêsu, Đấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi mà xếp loại vào những người bị kết án suốt đời (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Thiền sư Sengai
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thoả thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền rời cái ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó.
Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám phá ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: “Sáng sớm trời lạnh lắm, con phải cẩn thận kẻo bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Suy niệm 10: Thiên Chúa không ngừng theo đuổi và tha thứ cho con người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Thật là cảm động trước thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con, mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui.
Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy.
Một con chiên không có giá trị là bao so với cả đàn chiên. Một đồng bạc cũng thế so với số còn lại, thế nhưng, đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Chính vì giá trị đặc biệt đó mà người chăn chiên không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, đã lặn lội đi tìm con chiên lạc và người phụ nữ cũng thế, bà đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất.
Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Một cha sở kia nằm mơ thấy Chúa Giêsu đến thăm giáo dân đang tụ họp nhau trong nhà thờ, rồi khi Chúa Giêsu từ giã họ ra đi, vẻ mặt Chúa thật hớn hở sung sướng. Tò mò, cha chạy theo hỏi Chúa:
- Lạy Chúa, tại sao Chúa ra đi sung sướng như vậy.
Chúa đáp:
- Vì có nhiều người nói những lời hết sức đẹp ý Ta.
- Thưa Chúa, những lời nào vậy? Những lời chúc tụng ngợi khen Chúa ư?
Chúa lắc đầu. Cha sở vội nói tiếp:
- À con biết rồi, họ nói những lời cảm tạ tri ân Chúa phải không?
- Cũng không đúng nữa.
Không chịu thua, cha sở hỏi tiếp:
- Hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn nọ cho họ.
Chúa Giêsu lắc đầu:
- Con đoán sai cả rồi. Ta nghĩ là con dư sức biết họ nói gì với Ta chớ.
Bấy giờ cha sở với dịu giọng:
- Thưa Chúa, con đành chịu thua thôi. Xin Chúa vui lòng cho con biết, giáo dân của con đã nói gì với Chúa mà làm cho Chúa vui lòng sung sướng như vậy.
Chúa Giêsu nhìn cha sở mỉm cười và nói:
- Họ đã nói với Ta: "Lạy Chúa, xin thương tha thứ tội lỗi chúng con."
Vâng! Nếu người chăn chiên vui vì đã tìm được con chiên lạc. Người đàn bà vui vì đã tìm thấy đồng bạc bị mất thì cũng thế, cả Thiên Đàng cũng sẽ vui vì một người tội lỗi ăn năn trở lại: "Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10). Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ thêm nữa, im lặng để chiêm ngưỡng, biết ơn và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân.
2. Hãy chiêm ngưỡng tình thương của Chúa và điều này mới thật là điều quan trọng đối với chúng ta. Chúng ta không bao giờ được thất vọng trước những yếu đuối và lầm lỗi của mình.
Trong quyển tiểu thuyết có tựa đề: "Mạo hiểm", tác giả người Mỹ là Relly đã kể lại cuộc đời đầy sóng gió của một Linh Mục Công giáo
Sau 12 năm thi hành chức vụ, linh mục đã xin hồi tục để cưới một người đàn bà mà ông tưởng mình đã yêu thương thực sự và sẽ là người mang lại hạnh phúc cho ông. Về phần mình, người đàn bà cũng đã từng sống lâu năm trong đời tu trì.
Nhưng rồi hạnh phúc đâu chẳng thấy mà chỉ thấy toàn là bất hạnh. Cuộc sống mỗi người một tính khí, mỗi người một quan điểm, mỗi người một thói quen, miết rồi đâm ra xung khắc nhau đến độ không thể dung hoà. Cuối cùng sau khi đã có với nhau được được hai mặt con, họ đã ly dị nhau.
Sau một thời gian lăn lộn giữa đời, với biết bao thăng trầm trong việc làm ăn cũng như trong sinh hoạt tình cảm, vị linh mục hồi tục đã xin trở lại với chức vụ.
Tác giả kết thúc câu chuyện một cách hết sức cảm động:
Vị linh mục vừa trở lại chức vụ của mình thì liền có dịp cử hành bí tích xức dầu cho một người đàn bà trên 80 tuổi đang hấp hối. Trên giường bệnh, người đàn bà đã khước từ mọi lời cầu nguyện vì nghĩ rằng, Chúa sẽ trừng phạt và không bao giờ tha lỗi cho biết bao tội lỗi của bà.
Vị Linh mục đã dùng tất cả sự chân thành và nhiệt tâm của mình để an ủi bà và đã thuyết phục được bà tin vào lòng nhân từ và tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Người đàn bà đã thực sự an giấc trong tình yêu của Thiên Chúa.
Kết thúc câu chuyện với hình ảnh ấy, có lẽ tác giả muốn nhắn gửi độc giả thông điệp của tình yêu Thiên Chúa: Dù con người có yếu hèn bội bạc đến đâu, Thiên Chúa vẫn không ngừng theo đuổi và tha thứ cho con người.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình mà chạy đến với ân sủng và sự tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa, xin thương tha thứ tội lỗi của chúng con. Amen.
Suy niệm 11: Thiên Chúa giàu lòng thương xót
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Khung cảnh: thầy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ. Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
B.... nẩy mầm.
1. Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân.
2. “... hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn”: Những kẻ thấy mình “không cần phải sám hối ăn năn” là những người nghĩ rằng mình “công chính”, nhưng thực ra họ không phải là người “công chính” thật. 99 người như thế không đáng là gì cả so với chỉ một người biết mình tội lỗi nên ăn năn sám hối.
3. “Một trong những hiện tượng tiêu cực rất phổ biến, đó là: ... ở đâu và thời nào tâm lý con người cũng giống nhau: ai cũng tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Chúa Giêsu cảm thông tha thứ mọi yếu hèn của con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình thánh thiện tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa: chỉ một mình Ngài mới có quyền xét xử” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất”. (Lc 15, 6)
Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong mắt tôi.
Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của người. (Hosanna)
03/11 Dứt khoát đi theo Chúa
- Viết bởi Lc 14, 25-33
Dứt khoát đi theo Chúa.
Thứ Tư tuần 31 thường niên.
"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Lời Chúa: Lc 14, 25-33
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Từ bỏ hết
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Suy niệm 2: Mặc lấy Chúa Kitô
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Suy niệm 3: Từ Bỏ Ðể Theo Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết có rất nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu. Tuy cùng hướng đi trên con đường dẫn đến Giêrusalem, nhưng đám đông không mang cùng một mục đích với Ngài. Trong khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết khổ nhục trên Thập giá, thì đám đông lại tưởng rằng Ngài lên Giêrusalem lần này để đánh đuổi ngoại xâm và tái lập vương quốc Israel.
Ðể đánh tan sự chờ đợi sai lầm này, Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi những kẻ theo Ngài hãy suy nghĩ đắn đo, tính toán kỹ lưỡng để xem có đủ nghị lực theo Ngài hay không: Ngài đòi buộc những kẻ muốn theo Ngài, hãy để cho Ngài chiếm chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc sống của mình: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được".
Việc theo Chúa là một việc khó nhọc, tiêu tốn nhiều sức lực như khi xây cất hay đánh giặc, do đó người môn đệ phải sẵn sàng dấn thân. Việc theo Chúa không thể tính toán bao nhiêu, bao lâu, hay bằng những việc gì, nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, nghĩa là đi xây dựng Nước Trời, đi giao chiến với sự dữ và và cái chết để được chiến thắng hiển vinh. Người đi theo Chúa phải từ bỏ mọi của cải mình có. Từ bỏ ở đây không có nghĩa là chôn dấu đi hay sử dụng nó theo sở thích của mình, nhưng là làm ích cho người khác, nhất là cho những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được lòng can đảm, dứt khoát với tất cả những gì cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa. Xin cho chúng ta được thực tâm đi xây dựng Nước Trời và làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Hy Sinh Từ Bỏ
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và Suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Muốn có huy chương vàng
Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi được.
“Quả thế ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua ấy đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc. 14, 27-33)
Một đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, Người muốn họ biết phải làm gì để đi theo Người. Nên Người quay lại giải thích cho họ về nước trời. Không phải là tòa nhà xổ số, nhưng là sân vận động Ô-lim-pic trao huy chương vàng cho vận động viên vô địch.
Phải hoàn toàn cố gắng hy sinh
Ai không sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thì không thể làm môn đệ Người. Đức Giêsu vượt trên mọi sự, trên cả mối giây gia đình. Gia đình là chỗ an toàn, ở đó người ta yêu và được yêu. Đức Giêsu không bảo họ quay về chống đối gia đình, nhưng phải sẵn sàng phục vụ người không bị vướng mắc trở ngại gì, dù là người thân nhất. Lòng trung thành với Đức Giêsu phải đặt lên hàng đầu, trên cả mạng sống mình, Người đòi phải từ bỏ hoàn toàn. Do thái coi kẻ bị treo trên thập giá là kẻ bị chúc dữ. Để nên môn đệ Đức Giêsu, phải chấp nhận bị chúc dữ đó, từ bỏ tất cả, dù là gia đình mình, phải theo Người tới cùng; không thể hòa hoãn; đó là giá của vinh quang.
Phải nhận biết khả năng mình
Cần xem xét sáng suốt những khả năng của mình để biết có thể đi tới đích không. Trước cuộc mạo hiểm như xây tháp hay trận chiến, Đức Giêsu gợi ý cần ngồi lại suy nghĩ tính toán, phải trả giá bao nhiêu. Điều đó muốn nói rằng người ta phải xem xét chắc chắn và cần quyết tâm với hết sức mình để tới đích. Phải có thiện chí và đức tin giúp cho các phương tiện đạt tới đích.
Cũng cần xem xét đánh giá những khuynh hướng và tính tình của mình. Ta có phải chiến đấu sát cánh với Đức Giêsu không? Và đòi phải có quyết định sáng suốt sau khi đã xem xét cân nhắc tương quan về phương tiện, hoàn cảnh và thiện chí của mình.
Nhiều người không thể làm môn đệ của Người vì không sẵn sàng từ bỏ những mối giây ràng buộc và của cải để theo Người. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở về với Người, người ta có thể theo Người bằng nhiều cách khác nhau. Cách làm môn đệ đòi hỏi rất gắt gao và muốn được chọn, cần chính mình phải thực hiện lời khuyên trước và phải cân nhắc cẩn thận những điều thuận nghịch. Tốt hơn đừng thử đi theo rồi lại từ chối giữa đường.
RC
Suy niệm 6: Điều kiện để làm môn đệ
Xem CN 23 TN C
“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”; hay: “Bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta được”; và: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được".
Thoạt nghe, không ai trong chúng ta lại không cảm thấy “sốc” vì lời mời gọi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ngược đời và không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của mặc khải, chúng ta mới hiểu được thật chí lý khi Đức Giêsu đưa ra lời đề nghị này:
Trước tiên, Ngài muốn nói đến sự dứt khoát để đặt ý Thiên Chúa lên trên hết. Nếu vì lý do tình cảm mà mất ơn nghĩa hay hạnh phúc Nước Trời thì phải lựa chọn Chúa trước, còn mọi sự khác tính sau. Khi đã có tình yêu và được tình yêu của Chúa chi phối, hẳn sẽ bao trùm và định hướng tình cảm gia đình cũng như người thân...
Thứ hai, là sự thanh thoát. Đức Giêsu mời gọi những người muốn đi theo và làm môn đệ của Ngài, khi cần thiết phải từ bỏ ngay cả những gì là của mình, do mình làm ra và có khi phải từ bỏ ngay chính bản thân mình nữa... Bởi nếu không từ bỏ chính mình thì kể như những thứ ta bỏ trước trở thành vô ích, đây là điều khó khăn nhất đối với chúng ta!
Thứ ba, là phải vác thập giá mình mà theo. Đức Giêsu không bảo chúng ta vác thánh giá của Ngài, nhưng là thập giá của chính mình. Thập giá của chính mình là gì? Thưa có thể là người vợ lắm lời, ông chồng xay xỉn, bổn phận phải chu toàn... vác thập giá còn là từ bỏ ý riêng, là sống theo ý Chúa, tuân giữ luật Ngài trong lòng mến... Những thứ đó làm nên chất liệu quý và giá trị của người Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa trong vai trò là người môn đệ. Tức là từ bỏ mọi sự, kể cả thứ tình cảm riêng tư, và ngay cả bản thân của mình để theo Chúa cho trọn vẹn...
Sống siêu thoát là giúp mình khỏi vướng bận vào của cải trần gian để tâm hồn được thanh thản hầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng được tốt hơn.
Sẵn sàng vác thập giá của mình cách yêu mến, chứ không chỉ tôn thờ thánh giá của Chúa mà thôi. Luôn chu toàn bổn phận hằng ngày cách trung thành. Tránh tình trạng vác thập giá cả làng nhưng thập giá của mình thì lại đè đầu cưỡi cổ người khác và bắt họ vác thay. Bởi vì chính Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, vì thế, đời môn đệ mà thiếu vắng thập giá, thì hẳn sẽ mất hương vị và không phải cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát, biết đặt ý Chúa và sứ vụ của Ngài lên trên ý riêng cũng như tình cảm tự nhiên, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Từ bỏ tất cả để theo Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Phải từ bỏ tất cả để theo Chúa. Người tín hữu phải ý thức điều ấy cho thật rõ và chọn lựa dứt khoát, bởi vì đây là việc dấn thân suốt cuộc đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con theo Chúa và chọn Chúa. Đó phải là ưu tiên hàng đầu, không có điều gì trên đời này có thể hơn được, dù đó là tình máu mủ ruột thịt, dù đó là chính bản thân con.
Lạy Chúa, thực sự con vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của Lời Chúa, con chưa hiểu tại sao con phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, để làm môn đệ Chúa. Thế nhưng chân lý quan trọng này Chúa luôn nhắc đi nhắc lại cho con. Chúa dạy con tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người. Chúa dạy con: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì không được ích gì”. Chúa dạy người thanh niên giàu có rằng: để được sự sống đời đời thì về bán hết của cải rồi theo Chúa.
Lạy Chúa, dù con không hiểu, nhưng con tin Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Xin cho con tin vào Lời Chúa dạy để con vững bước theo Chúa, để con xác tín mãi mãi rằng chính Chúa là con đường đưa đến sự sống. Bước đi theo Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con. Vì thế xin giúp con sẵn sàng từ bỏ những lợi ích khác. Xin cho con nhận ra rằng từ bỏ mọi sự vì Chúa không phải là dại khờ, thua lỗ, nhưng là một mối lợi và khôn ngoan. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Suy niệm 8: Thập giá là cái phải mang để đi theo Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một đoàn người hành hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn ngoan.
Cuộc hành trình gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…
Suy niệm
Trên đường lên Giêrusalem, bằng một động tác mang tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường”, Ngài dạy cho tất cả những ai muốn theo Ngài bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Vác thập giá theo chân Chúa như R. Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trở bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Ngài” (Theo L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique, tập 2, Cerf, trg 157).
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi môn đệ vác thập giá, nhưng chính Ngài đã vác thập giá trước, Ngài vác thập giá, thập giá gánh nặng tội của cả nhân loại. Thập giá mà Ngài vác là từ bỏ chính mình và chấp nhận Thiên ý của Chúa Cha (x. Mt 26,39.42.44; Mc 14,36; Lc 22,42). Người môn đệ của Chúa mang thập giá là chấp nhận con người mình, là mang thập giá niềm tin vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày bằng sự cố gắng không rên rỉ. Như tông đồ Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (x. 2Cr 12,7-9). Và Phaolô vẫn tiếp bước hành trình thập giá của người môn đệ rao giảng tình yêu: “Chúng tôi luôn mang trên mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu” (2Cr 4,10).
Thập giá được vác trên vai của mỗi người cũng là ánh sáng cứu độ soi đường như thánh Gioan Kim khẩu Suy niệm và xác tín: “Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kìm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành luỹ cho những kẻ bị vây hãm”.
Ước chi tôi và bạn mang tâm tình của thánh Phaolô mỗi ngày khi vác thập giá: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống
“Thập giá trở nên tiếng kêu tình yêu vô bến bờ của Thiên Chúa” (Maurice Zuldel).
Suy niệm 9: Điều kiện để theo Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Lúc này Đức Giêsu không còn ở nhà ông biệt phái nữa, nhưng trên đường đi Giêrusalem, có dân chúng theo Người rất đông. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Đức Giêsu nói với họ: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải yêu mến Ngài hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Như vậy, để trở nên môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta cũng phải cùng đi con đường của Ngài và đường của Ngài là từ bỏ, là đón nhận Thập giá.
Trên đường đi Giêrusalem, có rất đông người cùng đi, có người đi cho vui, có người có thiện cảm với Chúa muốn là môn đệ của Ngài, nên Đức Giêsu đã quay lại cho họ biết những điều kiện để làm môn đệ của Ngài: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định: nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Thực ra, việc từ bỏ, vác thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt tới mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Đức Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài với hết mọi sự và với sức lực của mình trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài đến hết mọi sự để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa (R.Veritas).
Theo những điều kiện Đức Giêsu nói, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa đen hoặc theo nghĩa bóng. Có nhiều người đã hiểu theo nghĩa đen, nên đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo, có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền để theo Chúa. Có những vị khác đã bước qua con cái hay sẵn sàng chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình, để ra đi dâng mình cho Chúa; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt, để khỏi trở thành dịp tội cho kẻ khác. Đó là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Nhưng những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa trên đây: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận cộng đoàn mình sống làm gia đình, và nhận những người cùng chí hướng làm anh chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn: vâng lời, khó nghèo và trong sạch (Theo Lm. Phạm Văn Phượng).
Trong xu thế của thời đại hưởng thụ và tích luỹ này, nói đến “từ bỏ hết những gì mình có” xem ra là một thứ “cung đàn lạc điệu”. Tuy nhiên, đối với những người con cái Chúa”, đó là hai điều kiện tất yếu và tiên quyết, vì không từ bỏ cũng đồng nghĩa là không thể trở nên môn đệ của Chúa Kitô được. Ơn gọi làm “con cái Chúa” là chấp nhận sự điên rồ của Thập giá, cớ vấp phạm cho người đời. Có “từ bỏ hết những gì mình có”, là biết “nói không” với thế gian, ma quỷ và xác thịt mới có thể là “sen” mọc “giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là đèn để “gần mực” mà chẳng “đen”, nhưng chiếu sáng cho cả nhà. Vì thế, đòi hỏi trước tiên đối với người môn đệ của thời đại hôm nay là từ bỏ lối sống hưởng thụ tích lũy, điều mà người thời đại hôm nay đang theo đuổi (5 phút Lời Chúa).
Sống trọn những cam kết của bí tích Thánh tẩy, sống trọn danh Kitô hữu, điều đó đôi khi đòi hỏi nhiều hy sinh. Thế nhưng chỉ thái độ dứt khoát chọn lựa và quyết tâm theo đuổi đến cùng mới thực sự làm chúng ta xứng danh Kitô. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại lối sống đạo xem chúng ta có đặt Chúa và giá trị Tin mừng vào địa vị ưu tiên trong cuộc sống hay chưa.
Truyện: Giới Tử Thôi và công tử Trùng Nhĩ
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đời Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chặn lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại, nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn, thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
Suy niệm 10: Theo Chúa đòi hỏi những gì?
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu" (Lc 14,25). Họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Jêrusalem". Có lẽ họ nghĩ rằng, đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói rõ ra: "Những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo") thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa và phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì mới xứng đáng với Chúa.
Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành.
Thế nhưng, trong thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác Thập Giá.
Ngược lại nếu biết từ bỏ, phần thưởng sẽ thật lớn:
Bob Ernst kể lại cuộc đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người, năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để thực hiện.
Tôi mong muốn được trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ. Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi.
Đó là vào mùa hè giữa năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.
Song, tôi cũng nhận ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó".
Khi nghe tôi xin phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:
- Em còn cả cuộc đời phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi bóng. Đừng hoài phí nó.
Tôi cúi gằm mặt, cố tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.
- Em kiếm được bao nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.
- 5 đô la một giờ, thưa thầy. - Tôi đáp.
- Thế thì 5 đô la là cái giá cho ước mơ của em phải không?
Câu hỏi bất ngờ và thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó, tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.
2. Chúa bảo: "Hãy vác Thập Giá hằng ngày" (Lc 14,27)
Newton nói: "Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng, ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!" (Newton).
Người ta kể rằng, có một đoàn người kia vác Thập Giá của mình, bước đi cực nhọc dưới sức nặng của cây Thập Giá đè trên vai, trong đó có một người vác một cây Thập Giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc.
Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đi đến bên bờ một vực thẳm: Bên bờ bên kia Chúa đang đợi sẵn, nhưng ngặt một nỗi là không có một cây cầu nào bác qua để sang bên đó.
Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây Thập Giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây Thập Giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên này với sự tuyệt vọng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vác Thập giá mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
Suy niệm 11: Điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
2. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
3. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
B.... nẩy mầm.
1. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành Chúa Giêsu nói rõ với “rất đông người” đang đi theo Ngài. Người ta theo đạo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với mọi người rằng theo Ngài thì phải từ bỏ (bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống), và lại còn phải vác thập giá. Dĩ nhiên, sự từ bỏ và vác thập giá không phải luôn là hiện thực, nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy khi hoàn cảnh xảy đến thì mới xứng đáng làm môn đệ Ngài. Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác thập giá.
2. Có người thờ thập giá nhưng không vác thập giá. Có người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu nhưng không quý chuộng thập giá mình. Những người đó không xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
3. “Hãy vác thập giá hằng ngày”: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !” (John Newton).
4. “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Có người đàn ông kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy ?
- Bác nhìn lên đỉnh Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt nó vào đó.
Ông gật gù ngẫm nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước mắt hạnh phúc.
Lạy Chúa, mấy hôm nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa. (Hosanna)
02/11 Bên kia sự chết
- Viết bởi Ga 6, 51-59
Bên kia sự chết.
Thứ Ba tuần 31 thường niên – CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
* Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915, hôm nay mọi linh mục được phép cử hành hoặc đồng tế ba thánh lễ, miễn là cử hành vào những giờ khác nhau; có thể chỉ một ý lễ cho bất cứ ai và nhận bổng lễ, còn ngoài ra phải dành một lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng (không có bổng lễ đối với hai lễ này).
Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.
Lễ Nhất
LỜI CHÚA: Ga 6, 51-59
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?”
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Lễ Nhì
LỜI CHÚA: Lc 23, 33. 39-43
“Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Lễ Ba
LỜI CHÚA: Ga 17, 24-26
“Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con”.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59
*Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43;
*Rm 5,4-11; Ga 17,24-26
Suy niệm 1: Sao Ngài bỏ rơi con? -- Mc 15, 33-39
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, CGS kêu lớn tiếng: “Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không.” CGS lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với CGS, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta
cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối.
Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng
sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá.
Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng.
Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh.
“Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình
vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết.
Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu.
Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình.
Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm.
Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn,
chết anh hùng hơn và chết lành hơn.
Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại,
đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa.
Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con,
một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời.
Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi.
Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất.
Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu,
vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn...
Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo,
điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã,
mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ.
Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi,
nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa.
Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta,
vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì họ cũng vào thiên đàng.
Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc,
và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa.
Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công.
Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế.
Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ.
Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể.
Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang
để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời.
Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được.
Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo,
nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn.
Cái chết được chia đều cho mọi người.
Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không?
Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất?
Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở.
Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống.
Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi,
sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều.
Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết.
Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống
nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý
nhưng như một hành trình
trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.
Suy niệm 2: Bánh mang Sự Sống từ Trời xuống--Ga 6, 51-59
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chết không phải là hết, nhưng là ngưỡng cửa đi vào đời sau vĩnh hằng. Sự sống đời đời bắt đầu từ hôm nay khi ta tin Chúa và đón nhận Bánh Hằng Sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chỉ khi bước qua ngưỡng cửa sự chết, con mới hiểu trọn vẹn được ý nghĩa của sự sống đời đời mà Chúa hé mở cho con trong Tin Mừng. Đây không còn là sự sống thể lý mà con có thể kinh nghiệm bằng cảm giác. Sự sống đây là chính sự hiện hữu với Chúa và trong Chúa. Chúa là Bánh mang Sự Sống từ Trời xuống. Do vậy, con hiểu rằng sự sống mai sau có được là nhờ sự sống mà con người đã bắt đầu ngay bây giờ nhờ ơn Chúa.
Hôm nay là ngày cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục. Các Ngài là những người khi sống trên trần gian này đã bắt đầu được sự sống đời đời nhờ kết hiệp với Chúa, sống với Chúa và sống trong Chúa.
Con là kẻ đi sau, đang được Chúa mời gọi bước vào sự sống của Chúa, sự sống mà các định luật tự nhiên không thể chi phối. Cái chết khi đó chỉ còn là cởi bỏ thân xác biến dịch và hữu hạn để tiếp tục bằng một sự sống trường tồn trong một thân thể vinh quang bất diệt.
Hôm nay, Chúa đang ban cho con Lời Chúa, Lời ban Sự Sống đời đời. Đồng thời Chúa đang ban cho con Thánh Thể Chúa là Bánh ban Sự Sống đời đời. Đó là những mầm sống đời đời Chúa gieo vào cuộc đời con. Con sẽ được hưởng nếm sự sống đời đời ngay tại trần gian nhờ được sống với Chúa và trong Chúa bằng cách thực thi Lời Chúa và lãnh nhận bí tích Thánh Thể.
Xin Chúa thêm đức tin cho con để con luôn biết tận hưởng sự sống Chúa ban và phát triển sự sống đời đời đó ngay trong cuộc sống hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Suy niệm 3: Lễ Các Linh Hồn (Ga 6,37-40)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Kinh nghiệm hằng ngày cho chúng ta thấy mọi người giàu nghèo sang hèn, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều gì, thì rồi cũng có ngày phải rời bỏ cõi đời này để trở về với thế giới bên kia, vì đây là án lệnh của Thiên Chúa đã ra cho loài người sau khi nguyên tổ Adong Evà sa ngã phạm tội: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” (St 4,19).
Thánh Phaolô cũng triển khai tư tưởng ấy trong thư gửi cho tín hữu Côrintô: “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người đều liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (1Cr 15,21-22).
Không ai có thể phủ nhận được cái chết vì chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu người chết trong những hoàn cảnh khác nhau. Người ta cố níu lấy sự sống mà không được, vì thần chết luôn rình rập chung quanh, như “thợ gặt không có ngủ trưa” (Cervantes). Mọi người đều phải chết, chỉ khác nhau ở chỗ là vui lòng đón nhận cái chết hay chấp nhận một cách miễn cưỡng.
Đứng trước thực tế của cái chết, trước cuộc đời vắn vỏi như bóng câu, nhiều người từ xưa đến nay đã nỗ lực tìm phương thế để kéo dài cuộc sống, thậm chí có thể đạt tới trường sinh bất tử. Nhưng cho đến nay mọi nỗ lực đã thất bại. Con người dù có sống đến ngàn năm rồi cũng chết. Không ai có thể chống lại được án lệnh của Thiên Chúa.
Truyện: Không tin sự sống lại
Tại một nghĩa trang bên Đức, có một ngôi mộ rất được chú ý, đó là mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới xây bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý, vì đó là một ngôi mộ của một người đàn bà giàu có nhưng không tin có Chúa, cũng chẳng tin có sự sống lại. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mồ. Trên mộ, bà xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ cậy mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố, thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nảy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ, để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Suy niệm 4: Cầu cho các tín hữu đã qua đời
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Ngày hôm qua chúng ta đã mừng các thánh. Hôm nay chúng ta nhớ đến Giáo Hội đau khổ nơi những người anh chị em chúng ta đang cần được thanh luyện để được xứng đáng một phần nào với sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa. Hôm nay và cả trong tháng này chúng ta hãy dành tất cả những công phúc và những lời cầu nguyện để giúp các Ngài. Chắc là khi được về cõi vĩnh hằng các ngài sẽ không quên ơn chúng ta.
Giáo Hội tạo dịp để cho chúng ta nhớ đến những người đã ra đi, ra đi trong chiến thắng trọn vẹn như các thánh, hay ra đi mà chưa đạt được đích cùng như các đẳng linh hồn nơi luyện tội không phải Giáo Hội chỉ nhắc nhớ chúng ta nhớ đến bổn phận của chúng ta đối với những người đã chết nhưng Giáo Hội còn muốn chúng ta qua đó mà nhớ đến chính chúng ta nữa.
Nhớ cái gì?
1. Nhớ rằng cuộc sống này là cuộc sống có cùng có tận, và đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tiếp tục.
Bằng một câu chuyện rất đễ hiểu trong Tin Mừng của thánh Luca, câu chuyện về người phú hộ giầu có và Lagiarô khó nghèo, Chúa đã muốn bảo cho chúng ta rằng đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tồn tại.
Như vậy chết là một sự thật mà con người không thể không nghĩ tới.
Trong cái khoảng mênh mông vô vùng của thời gian và không gian chúng ta chẳng là cái gì cả.
Trong một bài Suy niệm về sự chết Đức Cha Bossuet đã nói: “Tôi sống được 80 năm hay có thể hơn nữa thí dụ 100 năm. Trở về với quá khứ, đã có lúc tôi không có. Nhìn về tương lai sẽ có lúc không còn tôi. Thời gian tôi sống chỉ là một khoảng thời gian rất hẹp trong cái khoảng mênh mông của thời gian. Tôi không là gì hết. Cái khoảng nhỏ hẹp không thể phân biệt tôi với hư vô và với nơi tôi phải đi tới”
Theo thống kê thì trung bình mỗi ngày có khoảng hơn 200.000 chết. Mỗi giờ hơn 8000 người. Mỗi phút hơn 130 và mỗi giây từ 2-3 người.
Quan Homidas người Ba tư, hồi đế quốc Ba tư còn giầu có vào hàng nhất nhì trên thế giới, một lần đi viếng Roma. Quan được chính vua Constantinô hướng dẫn đi tham quan một vòng kinh thành Roma. Nhà vua chỉ cho quan thấy những cảnh lộng lẫy và hy hoàng rực rỡ của kinh thành. Quả thực là Roma rất đẹp.
Sau cuộc tham quan Vua Constantinô muốn biết về cảm tưởng của quan, quan mỉm cười nói: “Điều tôi rất lấy làm lạ là ở một kinh thành lớn lao, đẹp đẽ và giầu có như thế này mà người ta cũng phải chết như ở những nơi khác”
Vâng chẳng có chỗ nào mà người ta không phải sự chết.
2. Nếu sự chết là như thế thì thái độ của chúng ta sẽ phải như thế nào?
a. Có nhiều người bi quan, bi quan đến mức độ muốn đầu hàng cái chết. Từ thái độ đó người ta bị dẫn đến một thái độ khác đó là người ta cho cuộc đời này là phi lý. Dù có sống như thế nào đi nữa rồi cũng kết cùng rồi cũng phải chết. Cuộc sống trở thành một thực tại phi lý hơn bất cứ một thực tại nào khác ở cõi đời này. Kết quả là một cuộc sống buông thả, muốn ra sao thì ra.
Đây quả là một thái độ nguy hiểm. Và chắc chắn đó không phải là thái độ của những người tin. Sống cuộc đời buông thả không những không thể đạt đến hạnh phúc đời đời như lời thánh Phaolô cảnh cáo mà ngay tại đời này cuộc sống như thế cũng đáng bị lên án một cách nặng lời.
b. Có người lại có thái độ khác. Họ dửng dưng trước sự chết. Họ không muốn nhìn vào sự chết như là một sự thật. Họ thản nhiên để cho cuộc đời của họ chìm sâu vào sự tận hưởng những giây phút của hiện tại mà không cần biết đến tương lai.
Đây cũng không phải là thái độ của những người tin như chúng ta.
Trên mộ của một người giầu có người ta đọc thấy một câu như thế này: “Đây là mộ của một người dại dột đã sống mà không biết tại sao mình sống”
Một trong những câu chuyện hay người ta thường kể để răn dạy người đời là câu chuyện ông vua giầu có với chú hề. Truyện như thế này: “Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như là không hề biết đến tương lai. Ông cũng chẳng màng đến thế giới mai sau. Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho ông mỗi khi ông cần tới. Theo nhà vua thì tên hề này là một người biết đem lại niềm vui cho những người khác nhưng lại là một người rất ngu đần. Một ngày kia không hiểu vì tức giận với anh ta truyện gì mà nhà vua cho gọi anh hề tới rồi trao cho anh ta một cây gậy gọi là thanh trượng quyền của nhà vua và nói với anh ta: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một người ngu hơn ngươi - trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.” Chú hề nhận cây gậy và cố gắng đi tìm nhưng tìm mãi cũng không ra.
Thời gian qua đi. Tuổi già đến lúc nào nhà vua cũng không biết. Đến khi lực đã cạn, sức đã kiệt ông cảm thấy ngày ông gần đất xa trời không còn bao xa, ông cho gọi chú hề đến và tâm sự với anh ta:
- Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật xa.
- Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu cơ ạ.
- Ta cũng không biết nữa.
- Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua trở về?
- Không bao giờ, không bao giờ con ạ.
Anh hề là một người ngu nhưng trong trường hợp này anh lại có một phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy mà trước kia nhà vua đã trao cho anh vào ngay bàn tay Đức Vua rồi thinh lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng và vui sướng vì đã tìm thấy được một người còn ngu hơn mình mà người đó lại là chính ông vua trước kia đã tự hào là mình thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần anh ta.
c. Vậy thì đâu là thái độ của chúng ta. Đây là thái độ mà chính Chúa Giêsu đã dậy: Hãy tỉnh thức.
Chúng ta không đầu hàng sự chết.
Chúng ta không lẩn trốn sự chết, coi nó như không có trong cuộc đời, nhưng chúng ta cam đảm đối diện với nó bằng tất cả lòng tin yêu và phó thác của chúng ta nơi Tình yêu của Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu đã quả quyết với chúng ta: “Thiên Chúa không phải là Chúa của người chết nhưng là Thiên Chúa của người sống”(Mt 22,32).
Cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII để lại cho chúng ta nhiều câu chuyện rất cảm động. Một trong những câu chuyện đó là câu chuyện lúc Ngài sắp lìa đời. Theo lời kể của cha thư ký riêng của Ngài thì hôm đó trước khi Ngài nhắm mắt từ giã cuộc đời Ngài còn đủ nghị lực để nói với những anh em của ngài: Ông Xavier, Joseph. Alfred và bà Assunta:
“Đừng lo sợ cho tôi,
Tôi sãn sàng, rất sẵn sàng.
Ở trên trời chúng ta vẫn tiếp tục yêu thương nhau.
Bây giờ không phải là lúc khóc.
Đây là phút vui mừng và vinh quang.
Tôi theo sát sự chết từng phút.
Nó từ từ đang tới.
Tôi rất bình an, ao ước được thoát ly khỏi xác thịt này và về cùng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu
Chúa ưa thích đến với con
Như chân lý để dạy cho con biết tin
Như sự sống để dạy cho con biết sống
Như Ánh sáng để dạy con biết chiếu tỏa
Như Tình yêu để dạy con biết yêu thương
Như Niềm vui để dạy con biết ban phát
Như Bình an dạy con biết sống chan hòa
*Nhưng lạy Chúa Giêsu
Có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề
Có những lúc con muốn buông xuôi
Để mặc cho dòng đời đưa đẩy
Có những khoảng thời gian
Con như mảnh đất khô khan cằn cỗi
* Xin cho con ánh sáng của Chúa
Để con biết lối mà đi
Xin cho con tấm bánh của Chúa
Để con đủ sức mà dấn bước
Xin cho con Lời của Chúa
Để con luôn vững một niềm tin
Xin cho con sự sống của Chúa
Để con lấy lại niềm hăng say, sự tươi tắn
Niềm vui và sáng tạo
*Lạy Chúa Giêsu
Con thấy con cần Chúa
Trong mọi giây phút của cuộc đời
Ước gì cuộc đời của con
Được rập khuôn cuộc đời của Chúa
Để con biết sống như lòng Chúa ước mong
Và sau cuộc đời này
Con được hợp hoan
Cùng với anh chị em con
Trong Nhà Cha trên trời.
Amen.
Suy niệm 5: Các tín hữu đã qua đời
(Lm Giuse Hồ Bạc Xái)
* Lịch sử
Lễ cầu cho cát tín hữu đã qua đời được cử hành vào ngày 2 tháng 11 hằng năm, được thánh đan viện phụ Odilô của tu viện Cluny (994-1048) khai sáng.
Trong ngày đó, ngài ra lệnh các linh mục thuộc dòng Cluny phải dâng thánh lễ để cầu nguyện cho tất cả những người trong dòng và các ân nhân của dòng đã qua đời. Ngài ra lệnh cho các đan viện trực thuộc Cluny cũng thực hành như thế. Chúng ta còn giữ được văn kiện của thánh Odilô ghi vào năm 998.
Sau đó, lễ cầu cho các linh hồn phát triển rất nhanh và bung ra khỏi dòng tu. Từ thế kỷ XIV chúng ta đã gặp thánh lễ này trong phụng vụ Rôma. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Cựu Ước mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người bằng hình ảnh bữa tiệc (Cn 9,1-5). Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu cũng dùng ngôn ngữ của bữa tiệc như “ăn” và “uống”. Tuy nhiên bữa tiệc này rất đặc biệt vì thức ăn thức uống không phải là thực phẩm thông thường cho dù là cao lương mỹ vị đi nữa, mà là chính thịt máu Chúa Giêsu. Bởi đó hiệu quả của bữa tiệc này không phải chỉ là bồi dưỡng sức khoẻ tạm thời cho thể xác mà là cho con người được sống thật, sống muôn đời.
2. Các ngôn sứ Cựu Ước diễn tả ơn gọi của họ bằng hình ảnh “nuốt” lấy Lời Chúa (x. Gr 15,15-21; Êd 3). Nghĩa là các vị ấy rất thèm khát Lời Chúa, muốn tiêu hóa Lời Chúa, cho Lời ấy thấm nhập vào thân thể mình. Hiểu theo bối cảnh ấy, “Ăn” thịt Chúa Giêsu và “uống” máu Ngài nghĩa là khao khát được kết hợp rất thân thiết với Chúa đến nỗi có thể nói là đã trở nên một thịt một máu với Ngài.
3. Khi ghi lại những dòng này, thánh Gioan cũng nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Đó chính là bữa tiệc thịnh soạn mà Thiên Chúa dọn cho loài người, và đó cũng chính là nguồn sức sống cho loài người.
B.... nẩy mầm.
1. Hôm qua lễ Các Thánh, chúng ta nhớ đến những tín hữu ở thiên đàng. Hôm nay lễ các linh hồn, chúng ta nhớ đến các tín hữu trong luyện ngục. Còn chúng ta là những tín hữu hiện còn tại thế. Bài Tin Mừng Gioan về bữa tiệc sum họp cho chúng ta biết hạnh phúc tuyệt vời và tối hậu sau một đời sống ở trần gian là được kết hợp thân thiết với Chúa trong bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên đàng. Ngoài thứ hạnh phúc đó ra, không có gì là hạnh phúc thật cả.
2. Thánh Lễ là dịp chúng ta nếm trước hạnh phúc sum họp ấy. Trong thánh lễ chúng ta kết hợp với Chúa, chúng ta kết hợp với các thánh trên trời và những tín hữu trong luyện ngục, chúng ta cầu nguyện để cuối cùng chúng ta và tất cả những người thân của chúng ta đều được sum họp với Chúa và các thánh trong bàn tiệc vĩnh cửu.
3. Hãy hỏi các linh hồn. Họ sẽ cho chúng ta biết đâu là những giá trị thật của cuộc đời mà ta cần theo đuổi.
4. Khi Mẹ Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin lập một chi nhánh của Dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
5. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
Hằng đêm, mỗi khi thành phố lên đèn, mọi người hối hả trở về công sở, trường học...
Những bước chân hối hả qua lại...
Bên vệ đường, một bà lão khô quắt, nằm cong queo như cố thu mình trốn cái không khí se lạnh. Bà kiệt sức vì đói. Những bước chân vẫn đi qua, đi qua...
Và rồi, đôi chân con bước tới, ngập ngừng... rồi lại bước đi
Trên ti vi, người ta nói đến lũ lụt. Cảm động, con dự định... rồi lại thôi!
Con là thế! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại.
Lạy Chúa, trên thánh giá Ngài đã giang rộng đôi tay và khi phục sinh, Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại được sống.
Xin cho con luôn biết cho đi, cho đi mãi
không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân. (Epphata)
6. Đoạn kết của câu truyện người phú hộ giàu có và kẻ ăn xin nghèo khổ Ladarô khiến tôi phải suy nghĩ. Hai con người, hai cách sống, hai kết cộc khác nhau: người được ân thưởng, kẻ bị luận phạt. Thiên Chúa đã tách biệt họ ra như tách biệt người lành khỏi kẻ dữ, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Là chiên hay dê, tôi có quyền chọn lựa. Hôm nay tôi sống thế nào thì ngày đó tôi sẽ bị xét xử như vậy. Thiên Chúa là vị thẩm phán uy quyền nhưng cũng đầy tình thương. Ngài cho tôi thời gian để sống, để chọn lựa, để thực hiện vận mệnh đời mình. Để khỏi bị kết án như người phú hộ, tôi phải sống cho Chúa và cho anh em tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mỗi ngày như là ngày cuối đời con, để con luôn biết yêu thương giúp đỡ mọi người với những gì con có thể. (Hosanna)
Suy niệm 6: Nguồn nước mắt
(GM. Gioan B. Bùi Tuần)
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
Suy niệm 7: Nghĩ về sự chết
(GM. Gioan B. Bùi Tuần)
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).
“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Suy niệm 8: Lễ Các Linh Hồn
(TGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn)
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi Suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
Suy niệm 9: Lễ Các Linh Hồn (Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
(GM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”.
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành”.
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
Suy niệm 10: Thanh luyện chờ ngày sum họp bên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tháng 11 là đang giữa mùa thu, nếu bạn ở châu Âu hay ở miền Bắc Việt Nam, bạn sẽ thấy được toàn khung cảnh lá vàng rực mọi nơi, nhà thơ Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu đã diễn tả mùa thu:
“Em không nghe mùa thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
Một cơn gió thổi đến những chiếc lá vàng rơi tung bay, lá vàng rơi tung bay trong gió giữa thu trong tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu - Nguyễn Khuyến).
Lá thu rơi xuống làm trơ trụi lá cành, không còn sức sống trong băng giá của mùa đông (ở châu Âu), biểu tượng của thân phận các tín hữu đã qua đời đang thanh luyện cho ngày sum họp bên Chúa.
Mong trở về bên Chúa như cây cối đợi xuân sang: Tất cả đều trổ bông tươi nở với một sức sống mới như các thánh Nam Nữ đang được hưởng Nhan Thánh Chúa, nơi Chúa Giêsu hứa và dọn sẵn (x. Ga 14,2-4), Ngài xin cùng Chúa Cha cho chúng ta (x. Ga 17,24).
Suy niệm
Chúng ta thường tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính của các thánh tông đồ: ”Tôi tin các thánh cùng thông công”. Bởi lẽ đó, tin tưởng như vậy, ngày 1/11, đức tin chúng ta hướng về trời, chiêm ngưỡng các thánh Nam Nữ trên trời để tạ ơn, với tâm hồn quyết tâm noi gương các ngài - những người đã chiến thắng trên Thiên quốc được gọi là Giáo hội Chiến Thắng, xin các ngài phù trợ cho những người đang sống trên đường lữ thứ trần gian được gọi là Giáo hội Chiến Đấu, để được về trời gia nhập Giáo hội Chiến Thắng khi “nhắm mắt lìa đời”. Nhưng chúng ta cũng không thể quên hiệp thông với các linh hồn nơi luyện hình là Giáo hội Đau Khổ - “Các thánh đang còn lữ thứ”.
Việc cầu nguyện cho các tín hữu qua đời có nguồn gốc từ thời rất xa xưa: Bắt đầu ở thời Cựu ước xuyên qua Tân ước và là niềm tin của Giáo hội trải qua thời gian:
Trong Cựu ước, Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do Thái, đã dâng lễ tế đền tội cho những tử sĩ (x. 2Mc 12,38-46), ông xác tín rõ: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (2Mc 12,45).
Chúa Giêsu đề cập đến một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào vì một số tội: Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (x. Mt 5,26).
Theo thánh Phaolô, những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (x. 1Cr 3,13).
Chính vì thế Giáo hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” (DS 856/464). Cho nên, Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về mầu nhiệm Giáo hội nói lên niềm xác tín: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh.”...
Thật thế, bằng lời cầu nguyện và hy sinh của anh chị em đang sống, các linh hồn được gia nhập vào hàng ngũ Giáo hội Chiến Thắng và bầu cử lại cho anh chị em đang ở Giáo hội Chiến Đấu như thánh Công đồng tuyên tín: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha.”...
Giữa ba Giáo hội: Chiến Thắng - các thánh Nam Nữ, Chiến Đấu - chúng ta, những người đang sống lữ hành trần gian và Giáo hội Đau Khổ là các tín hữu đang thanh luyện, liên đới hiệp thông bằng tình yêu, tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính tình yêu thúc đẩy làm cho những người đang sống nhớ đến những người đã khuất, làm những hy sinh và cầu nguyện cho các đấng đang thanh luyện, được vào cõi hằng sống gia nhập Giáo hội Chiến Thắng, và cũng chính tình yêu, các thánh Nam Nữ nơi Giáo hội Chiến Thắng cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta những người đang sống chiến đấu. Chỉ có tình yêu mới làm cho con người được bất tử khi nhớ tới nhau qua sự hy sinh với lời cầu nguyện hàng ngày.
Ý lực sống
“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời (Ga 11,25-26)
Suy niệm 11: Sống Tháng Các Linh Hồn
(Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
Suy niệm 12: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
Suy niệm 13: Bốn bà vợ
(Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kìa! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng quá mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thứ ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì quá chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)
Suy niệm 14: Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Hiền Lâm)
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Suy niệm 15: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: “Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!”.
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. “Làm sao các anh biết được tôi ở đây?” - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: “Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh”.
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: “Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời” (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn”.
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
“Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
“Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con”.
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen.
Suy niệm 16: Tưởng nhớ người đã ra đi
(Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Suy niệm 17: Tri ân tình cha, tình mẹ
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: “Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!”.
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...”.
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
“Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ”.
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
“Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình”.
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: “con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.
Suy niệm 18: Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.
Suy niệm 19: Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(vietcatholic.net - LM. Nguyễn Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả “một thời gian ngắn của hỏa ngục.” Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng “lửa” luyện tội là tình yêu Thiên Chúa “nung nấu” trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn” (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
Suy niệm 20: Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Suy niệm 21: Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là “một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người.”
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: “Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết.” Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: “Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời.” (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: “Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: “Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội.”
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: “Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế.” Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa.” (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và “còn lại một mình tôi” trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: “Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi.” (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng.” (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: “Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa”. Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: “Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết.” (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: “Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời.”
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: “Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua.” (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: “Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua.” (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: “Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi.”
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: “Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?” Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo: “Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?” (Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
“Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' “
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: “Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi.” Cyrus cũng đồng ý-kiến: “Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết.” Chính Emerson cũng nói: “Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược.” Mark Twain đã viết: “Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó.”
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah: “Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu.” (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: “Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi.” (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn “Thiên-lộ lịch-trình”, đã nói lúc ông gần qua đời: “Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời đời.”
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: “Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).
“Sinh ký tử qui” (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh “Dâng Mình” của Cha Charles de Foucauld như sau:
“Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen.”
Suy niệm 22: Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các con”.
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy niệm 23: Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...”.Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.
Suy niệm 24: Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
Suy niệm 25: Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Suy niệm 26: Chết không phải là xa cách vĩnh viễn
Hằng ngày người ta chứng kiến hoặc nghe nói hoặc đọc trên báo chí về những cái chết do già yếu, bệnh tật, tai nạn, thiên tai, chiến tranh, bạo động... gây ra. Và người ta nghĩ chết chóc là chuyện xẩy ra cho người khác, chứ chưa xẩy ra cho chính mình. Đa số loài người có thể đương đầu với cuộc sống dù có vất vả khổ cực đi nữa. Tuy nhiên ít ai muốn đương đầu với cái chết. Người ta cũng cảm thấy khó chấp nhận cái chết của người còn trẻ tuổi và người thân yêu. Tâm trạng đó có nghĩa là người đời sợ chết hay chưa muốn chết vì người ta sợ đối diện với những gì xẩy ra ở đời sau mà người ta không biết trước được. Có những người sợ chết đến nỗi dặn những người thân yêu phải nắm chặt tay chân mình trong lúc hấp hối.
Trong thực tế, chết có thể xẩy đến cho bất cứ ai: già trẻ, lớn bé, hoặc bất cứ lúc nào: ngày cũng như đêm, hay bất kì ở đâu, ngay cả tại những nơi mà người ta tưởng là an toàn nhất, người ta vẫn có thể chết. Như vậy, chết không kiêng nể một ai. Khi nào thiên thần Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn, gọi linh hồn ra khỏi xác, là một điều bí mật. Như vậy sống và chết gắn liền với nhau. Có thể nói được là người ta sinh ra để mà chết. Và tất cả cuộc sống là một tiến trình đi về cái chết.
Đối với người tin tưởng vào ơn cứu độ của Chúa Kitô, Đấng cứu độ trần gian, thì chết không phải là hết, cũng không phải là xa cách vĩnh viễn. Chết chỉ là một biến đổi từ đời này qua đời khác. Người thân nhân còn sống cần đem sự hiện của người khuất bóng vào đời sống gia đình bằng hình ảnh của người quá cố, bằng công nghiệp của người quá cố để lại, bằng những kỉ niệm có được với người quá cố và nhất là bằng lời cầu nguyện và lễ dâng cho người quá cố.
Phụng vụ lễ các linh hồn nhắc nhở cho người tín hữu là người lữ hành trên cuộc hành trình đi về nhà Chúa, họ không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với toàn thể dân Chúa, cùng với Mẹ Maria và các thánh, cùng với người tín hữu tại thế và các linh hồn nơi luyện ngục.
Theo tín điều Các Thánh cùng Thông công, thì Mẹ Maria và các thánh trên trời có thể cầu bầu cho người tín hữu tại thế. Người tín hữu tại thế có thể cầu nguyện cho nhau, ủng hộ tinh thần cho nhau và cầu nguyện các linh hồn nơi luyện ngục. Giáo lí về việc người tín hữu tại thế cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục được các Công Đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô gọi là Tín Điều Các Thánh cùng Thông Công thì Công Đồng Vaticanô II gọi là sự hiệp thông sống động (GH #51).
Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng lời cầu bầu của Mẹ Maria và các thánh và lời cầu nguyện, hi sinh và gương sáng của người khác. Và ngay cả khi nằm xuống vĩnh viễn, người quá cố vẫn còn được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện của họ hàng, thân nhân và bạn hữu và của toàn thể Giáo hội và bằng ý chỉ của thánh lễ dâng. Biết được như vậy, nghĩa là biết được rằng sau khi chết mà còn có những người thân yêu, bạn bè nhớ đến mình trong lời cầu nguyện và thánh lễ, là điều sưởi ấm tâm hồn biết bao.
Ngay trong thời Cựu ước ngôn sứ Isaia đã có thể nhìn đến một viễn tượng khi Đấng cứu độ trần gian sẽ đến: tiêu diệt tử thần (Is 25:8). Còn thánh Phaolô thì bảo tín hữu Rôma phải cậy trông vào ngày mà họ: sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (Rm 8:21). Kinh Tiền tụng I trong Thánh lễ cầu cho những người đã qua đời nhắc nhở cho người tín hữu: Sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị huỷ diệt tiêu tan, thì được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Chết là một biến đổi vì Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh của Người. Bằng việc sống lại Chúa đã xoá bỏ tội lỗi và toàn thắng sự chết.
Trước khi về trời, chính Chúa Giêsu cũng hứa với ta qua các tông đồ: Thầy đi dọn chỗ cho chúng con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho chúng con thì Thầy sẽ trở lại và đón chúng con về với Thầy, để Thầy ở đâu, chúng con cũng được ở đó (Ga 14:2-3). Lời hứa đó đã được thực hiện cho người gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Kitô mà có lòng ăn năn sám hối: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng (Lc 23:43).
Hôm nay vì lòng hiếu thảo và tình bác ái Kitô, ta đến nhà thờ dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, những linh hồn tổ tiên, ông bà cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân quyến và bạn hữu đã khuất bóng. Xin Chúa vì lòng nhân hậu, khoan dung và hay tha thứ xét nhử nhân hậu với các linh hồn, đưa các linh hồn về hưởng ơn nghĩa trong nước Chúa.
Lời cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời:
Lạy Chúa cả nhân lành hay thương xót.
Chúa không muốn cho loài người phải chết đời đời,
nhưng được sống.
Xin Chúa dủ lòng thương xót các linh hồn đã qua đời.
Xin dùng máu thánh Con Chúa đã đổ ra vì tội lỗi loài người
mà tẩy sạch vết nhơ tội lỗi cho các linh hồn
cho được hưởng phúc trường sinh. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ - Lm Trần Bình Trọng)
Suy niệm 27: Cầu cho các tín hữu đã qua đời
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi.
Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi.
Để nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.
Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.
Đức Thánh Cha viết như sau:
“Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: “Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối”. Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta”.
Đức Thánh Cha giải thích:
“Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa”. Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình”.
Đức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Đức Phaolô VI như sau:
“Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy”.
Chính vì thế mà Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác.
Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:
“Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: “Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta”.
Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.
Suy niệm 28: Báo hiếu mẹ cha
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau:
Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị vứt lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo: Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời...
Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay. Thế nên, điều gì đáng bỏ công, đáng làm, hãy làm từ ngày hôm nay. Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài mà người ta yêu đã nằm bất động chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương.
Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta. Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ. Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta. Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người. Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ. Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta. Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ. Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta?
Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.
Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi. Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi. Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Lửa” luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống.
Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta lời cầu nguyện, cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ, cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội. Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng. Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ. Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời. Khi sống quan tâm, chăm sóc. Khi chết dâng lễ, cầu nguyện.
Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài. Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời. Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam.
Trước tiên là ân nghĩa sinh thành:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách:
“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha:
“Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi”.
Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ. Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội. Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha. Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài “Ơn nghĩa sinh thành” để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta.
“Uống nước nhớ nguồn
Làm con phải hiếu
Anh ơi hãy nhớ năm xưa
Những ngày còn thơ
Công ai nuôi dưỡng.
Công đức sinh thành
Người hỡi đừng quên
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Người ơi, làm người ở trên đời
Nhớ công người sinh dưỡng
Đó mới là hiền nhân
Vì ai ta nên người tài ba
Hãy nhớ công sinh thành
Vì ai mà có ta. Uống nước...
(Lm. Tạ duy Tuyền)
Suy niệm 29: Hãy nhớ đến công đức của các ngài
(Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tại đất nước của chúng ta hay trên thế giới, có lẽ không ai lại không biết đến cây chuối. Có nhiều loại chuối, nhưng các loại chuối đều giống nhau ở một điểm là: chúng chỉ sản sinh ra một buồng chuối duy nhất, không bao giờ có buồng thứ hai. Lúc mới lớn, chúng to cao, thân vạm vỡ, lá xanh tươi. Nhưng khi chúng bắt đầu có buồng, thì cũng là lúc chúng chuẩn bị héo tàn xơ xác với thời gian, và, khi buồng chuẩn bị chín, cây chuối mẹ sẽ ủ rũ, héo úa như muốn dồn hết sức lực còn sót lại để nuôi chúng. Sự sống của nó kết thúc khi buồng chuối đã chín hẳn.
Như vậy, trong quá trình sinh trưởng của buồng, cây chuối mẹ phải hy sinh những tinh túy nhất của mình cho buồng chuối. Có thế, chúng ta mới được tận hưởng những trái chuối to, thơm ngon và bổ dưỡng….
Cây chuối là biểu tượng cho một tình yêu cao thượng. Nhìn cây chuối đang mang buồng, chúng ta suy nghĩ đến sự quảng đại, hy sinh đến quên mình của những bậc tiền nhân chúng ta.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta cử hành thánh lễ Cầu Hồn để cầu nguyện cho các linh hồn là những ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những người thân yêu, ân nhân, thân nhân, bạn hữu…. của chúng ta đã ra đi về với Chúa.
1. Lý do cần cầu nguyện cho các linh hồn
Cầu nguyện cho các ngài là bổn phận, là sống tinh thần hiệp thông, là thể hiện đức ái và nhất là biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Như vậy, tháng 11 đối với đạo Công Giáo được gọi là tháng báo hiếu tổ tiên. Vì thế, những người con, cháu, chắt hãy nhớ công ơn trời bể, nhất là những lời dạy dỗ, bảo ban của các ngài mà khắc cốt nghi tâm: “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai […], vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (x. Cn 6,20.23).
Thật vậy, cả cuộc đời của các ngài đã sống hết mình vì con cái. Đôi khi vì hạnh phúc của con mà người mẹ phải chấp nhận tần tảo ngược xuôi, ăn bữa nay, lo bữa mai, nhưng nhất quyết không để con mình phải đói, phải rách, hay bị thất học…. Có những người mẹ đã cống hiến luôn cả một phần cơ phận của mình để có tiền lo cho con cái ăn học hay chữa bệnh…:
“Nuôi con buôn tảo bán tần, chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, con đau làm mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên, chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Hoặc có những người cha đã phải thức khua dạy sớm, làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình và lo cho con cái bằng bạn bằng bè:
“Cha tôi tuy đã già rồi, nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà. Sớm hôm vừa dấy tiếng gà, cha tôi đã dạy để ra đi làm”.
Đó là về vật chất, còn về tinh thần thì sao? Chắc hẳn không có người cha, người mẹ nào lại muốn con cái mình sinh ra hư hỏng, trái lại, các ngài luôn mong muốn cho chúng càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, đạo hạnh…. Tuy nhiên, vì sự lêu lổng, tính ham chơi và tuổi đời bồng bột, nên đã biết bao lần con cái làm cho cha mẹ phải tủi nhục đắng cay! Đấy là chưa kể đến những đứa con bất hiếu đến độ đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, chửi mắng các ngài chỉ vì không đáp ứng những nhu cầu bất chính của chúng! Quả đúng là: “Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nhiều khi con cái đâu có hiểu được rằng: chúng được thành đạt, nên người; được cơm no áo ấm; được nở mặt nở mày với những nụ cười rạng rỡ; được nhiều người thương mến, kính trọng…. Có bằng này chức kia lại là kết quả của cha mẹ một nắng hai xương, dầm mưa dãi nắng; cầy sâu cuốc bẫm; suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để dành dụm được chút ít dư dật, hầu lo cho con cái được ấm no, hạnh phúc.
Nói chung: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đây là gia tài quý báu mà các ngài truyền lại cho con cháu.
Thật vậy, công đức, gương sáng của các ngài đã để lại cho chúng ta là cả một gia tài vô giá, vì thế, “Uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, vì: “Mẹ cha vất vả nuôi mình. từ khi trứng nước công trình biết bao. Làm con phải nhớ công lao, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nhưng có lẽ món quà quý giá nhất giờ đây mà các ngài mong muốn nơi chúng ta, đó là dâng thánh lễ và lời cầu nguyện.
2. Cầu nguyện là món quà quý giá nhất dành cho các linh hồn
Vì thế, niềm tin Kitô Giáo cho chúng ta một niềm hy vọng rằng: chết không phải là hết, nhưng là một cuộc đi về Quê Thật, vì: “Sinh ký, tử quy”. Chính trong niềm tin này mà chúng ta có một sự liên hệ mật thiết giữa người sống và người chết cách nhiệm mầu, nhưng sống động. Thế nên, khi đứng trước hay nhìn thấy các nấm mồ của người thân yêu đã quá cố, chúng ta không thể quên công ơn của các ngài, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ). Sự sống và tinh thần của các bậc tổ tiên được lưu truyền hậu thế mãi mãi nơi những khuôn mặt, trái tim của hậu sinh là chúng ta.
Vì thế, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tưởng nhớ công ơn của các ngài để noi gương và nhất là dâng lời cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn. Đây là cách báo hiếu tốt nhất dành cho người quá cố và đây cũng là niềm tin của mỗi chúng ta. Trong Kinh Thánh, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-26). Xác tín này cũng chính là niềm tin của Mattha trước cái chết của Lazarô, vì thế, cô được Đức Giêsu mặc khải về sự sống sau cái chết nơi những người tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Lời hứa về sự sống đời đời còn được Đức Giêsu mặc khải nhiều lần khác nhau: “Ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). Lúc khác Ngài khẳng định mạnh mẽ hơn: Ai “tin vào người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40). Hay: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
3. Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi tháng 11 đến, ngoài việc cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: “Nay người, mai ta”. Sự ra đi của tiền nhân là dấu chỉ báo trước cho chúng ta biết, một mai chúng ta cũng sẽ lần lượt ra đi như các ngài để trở về thế giới bên kia, vì: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến” (thánh Augúttinô).
Tuy nhiên, thông điệp được sáng lên từ những nấm mồ tưởng chừng như bất động kia lại rất sống động khi nó chuyển tải cho chúng ta những chân lý như: cuộc đời này thật hữu hạn. Sẽ có ngày tôi cũng phải từ giã mọi người để ra đi về với Chúa và được chôn cất trong ba tấc đất nhỏ bé kia. Thân xác chúng ta sẽ trở về với cát bụi, và mọi cố gắng đến đây chấm dứt, chỉ còn biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng nhân ái của mọi người bằng đời sống hy sinh và cầu nguyện mà thôi.
Bên cạnh đó, từ nơi nấm mồ toát lên lời mời gọi chúng ta: hãy sống lành để được chết thánh; hãy yêu thương để được yêu thương; hãy tha thứ để được thứ tha; hãy sống như ngày mai sẽ chết, để ngay từ giây phút này sám hối ăn năn, đây chính là tinh thần tỉnh thức trong ân sủng.
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là sự sống đời đời, xin ban cho các linh hồn được an nghỉ trong tình thương của Chúa và xin cho chúng con sống tốt trong cuộc sóng hiện tại, để mai ngày được cùng tổ tiên chúng con ca tụng Chúa trên Nước Trời. Amen.
Suy niệm 30: Thân xác và linh hồn
(John W. Martens //Chuyển ngữ: Văn Hào SDB)
“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy đến? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy đến? Sau khi giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ về sự phục sinh mai sau và cho rằng sau khi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời cùng với tất cả những ai đã được quyền năng Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên, nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới điều đó cách rời rạc và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống sau khi chết, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai hậu, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, có dư dật của cải, cụ thể có nhiều hoa màu ruộng đất và đàn gia súc phong phú. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước nói rất ít về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan niệm về số phận muôn đời của những người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta cả xác lẫn hồn sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi có khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến ‘linh hồn những người công chính’ đã chết. Tác giả viết: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu cũng nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết: “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, là những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga. 6,39).
Khi còn sống trong thân xác nơi trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc Nước Trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005 cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: ‘Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa’. Sự chia lìa tạm thời này chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với linh hồn những người công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó mọi sự được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
Suy niệm 31: Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
TIN MỪNG: Lc 23,33-34.39-43
Câu hỏi gợi ý:
Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một “nơi” hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là “nơi” chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là “nơi” thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về “nơi” lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là “luyện ngục”.
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: ‘‘Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo’’ (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.