Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
03/11 Dứt khoát đi theo Chúa
- Viết bởi Lc 14, 25-33
Dứt khoát đi theo Chúa.
Thứ Tư tuần 31 thường niên.
"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Lời Chúa: Lc 14, 25-33
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Từ bỏ hết
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Suy niệm 2: Mặc lấy Chúa Kitô
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Suy niệm 3: Từ Bỏ Ðể Theo Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết có rất nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu. Tuy cùng hướng đi trên con đường dẫn đến Giêrusalem, nhưng đám đông không mang cùng một mục đích với Ngài. Trong khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết khổ nhục trên Thập giá, thì đám đông lại tưởng rằng Ngài lên Giêrusalem lần này để đánh đuổi ngoại xâm và tái lập vương quốc Israel.
Ðể đánh tan sự chờ đợi sai lầm này, Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi những kẻ theo Ngài hãy suy nghĩ đắn đo, tính toán kỹ lưỡng để xem có đủ nghị lực theo Ngài hay không: Ngài đòi buộc những kẻ muốn theo Ngài, hãy để cho Ngài chiếm chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc sống của mình: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được".
Việc theo Chúa là một việc khó nhọc, tiêu tốn nhiều sức lực như khi xây cất hay đánh giặc, do đó người môn đệ phải sẵn sàng dấn thân. Việc theo Chúa không thể tính toán bao nhiêu, bao lâu, hay bằng những việc gì, nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, nghĩa là đi xây dựng Nước Trời, đi giao chiến với sự dữ và và cái chết để được chiến thắng hiển vinh. Người đi theo Chúa phải từ bỏ mọi của cải mình có. Từ bỏ ở đây không có nghĩa là chôn dấu đi hay sử dụng nó theo sở thích của mình, nhưng là làm ích cho người khác, nhất là cho những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được lòng can đảm, dứt khoát với tất cả những gì cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa. Xin cho chúng ta được thực tâm đi xây dựng Nước Trời và làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Hy Sinh Từ Bỏ
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và Suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Muốn có huy chương vàng
Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi được.
“Quả thế ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua ấy đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc. 14, 27-33)
Một đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, Người muốn họ biết phải làm gì để đi theo Người. Nên Người quay lại giải thích cho họ về nước trời. Không phải là tòa nhà xổ số, nhưng là sân vận động Ô-lim-pic trao huy chương vàng cho vận động viên vô địch.
Phải hoàn toàn cố gắng hy sinh
Ai không sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thì không thể làm môn đệ Người. Đức Giêsu vượt trên mọi sự, trên cả mối giây gia đình. Gia đình là chỗ an toàn, ở đó người ta yêu và được yêu. Đức Giêsu không bảo họ quay về chống đối gia đình, nhưng phải sẵn sàng phục vụ người không bị vướng mắc trở ngại gì, dù là người thân nhất. Lòng trung thành với Đức Giêsu phải đặt lên hàng đầu, trên cả mạng sống mình, Người đòi phải từ bỏ hoàn toàn. Do thái coi kẻ bị treo trên thập giá là kẻ bị chúc dữ. Để nên môn đệ Đức Giêsu, phải chấp nhận bị chúc dữ đó, từ bỏ tất cả, dù là gia đình mình, phải theo Người tới cùng; không thể hòa hoãn; đó là giá của vinh quang.
Phải nhận biết khả năng mình
Cần xem xét sáng suốt những khả năng của mình để biết có thể đi tới đích không. Trước cuộc mạo hiểm như xây tháp hay trận chiến, Đức Giêsu gợi ý cần ngồi lại suy nghĩ tính toán, phải trả giá bao nhiêu. Điều đó muốn nói rằng người ta phải xem xét chắc chắn và cần quyết tâm với hết sức mình để tới đích. Phải có thiện chí và đức tin giúp cho các phương tiện đạt tới đích.
Cũng cần xem xét đánh giá những khuynh hướng và tính tình của mình. Ta có phải chiến đấu sát cánh với Đức Giêsu không? Và đòi phải có quyết định sáng suốt sau khi đã xem xét cân nhắc tương quan về phương tiện, hoàn cảnh và thiện chí của mình.
Nhiều người không thể làm môn đệ của Người vì không sẵn sàng từ bỏ những mối giây ràng buộc và của cải để theo Người. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở về với Người, người ta có thể theo Người bằng nhiều cách khác nhau. Cách làm môn đệ đòi hỏi rất gắt gao và muốn được chọn, cần chính mình phải thực hiện lời khuyên trước và phải cân nhắc cẩn thận những điều thuận nghịch. Tốt hơn đừng thử đi theo rồi lại từ chối giữa đường.
RC
Suy niệm 6: Điều kiện để làm môn đệ
Xem CN 23 TN C
“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”; hay: “Bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta được”; và: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được".
Thoạt nghe, không ai trong chúng ta lại không cảm thấy “sốc” vì lời mời gọi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ngược đời và không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của mặc khải, chúng ta mới hiểu được thật chí lý khi Đức Giêsu đưa ra lời đề nghị này:
Trước tiên, Ngài muốn nói đến sự dứt khoát để đặt ý Thiên Chúa lên trên hết. Nếu vì lý do tình cảm mà mất ơn nghĩa hay hạnh phúc Nước Trời thì phải lựa chọn Chúa trước, còn mọi sự khác tính sau. Khi đã có tình yêu và được tình yêu của Chúa chi phối, hẳn sẽ bao trùm và định hướng tình cảm gia đình cũng như người thân...
Thứ hai, là sự thanh thoát. Đức Giêsu mời gọi những người muốn đi theo và làm môn đệ của Ngài, khi cần thiết phải từ bỏ ngay cả những gì là của mình, do mình làm ra và có khi phải từ bỏ ngay chính bản thân mình nữa... Bởi nếu không từ bỏ chính mình thì kể như những thứ ta bỏ trước trở thành vô ích, đây là điều khó khăn nhất đối với chúng ta!
Thứ ba, là phải vác thập giá mình mà theo. Đức Giêsu không bảo chúng ta vác thánh giá của Ngài, nhưng là thập giá của chính mình. Thập giá của chính mình là gì? Thưa có thể là người vợ lắm lời, ông chồng xay xỉn, bổn phận phải chu toàn... vác thập giá còn là từ bỏ ý riêng, là sống theo ý Chúa, tuân giữ luật Ngài trong lòng mến... Những thứ đó làm nên chất liệu quý và giá trị của người Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa trong vai trò là người môn đệ. Tức là từ bỏ mọi sự, kể cả thứ tình cảm riêng tư, và ngay cả bản thân của mình để theo Chúa cho trọn vẹn...
Sống siêu thoát là giúp mình khỏi vướng bận vào của cải trần gian để tâm hồn được thanh thản hầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng được tốt hơn.
Sẵn sàng vác thập giá của mình cách yêu mến, chứ không chỉ tôn thờ thánh giá của Chúa mà thôi. Luôn chu toàn bổn phận hằng ngày cách trung thành. Tránh tình trạng vác thập giá cả làng nhưng thập giá của mình thì lại đè đầu cưỡi cổ người khác và bắt họ vác thay. Bởi vì chính Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, vì thế, đời môn đệ mà thiếu vắng thập giá, thì hẳn sẽ mất hương vị và không phải cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát, biết đặt ý Chúa và sứ vụ của Ngài lên trên ý riêng cũng như tình cảm tự nhiên, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Từ bỏ tất cả để theo Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Phải từ bỏ tất cả để theo Chúa. Người tín hữu phải ý thức điều ấy cho thật rõ và chọn lựa dứt khoát, bởi vì đây là việc dấn thân suốt cuộc đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con theo Chúa và chọn Chúa. Đó phải là ưu tiên hàng đầu, không có điều gì trên đời này có thể hơn được, dù đó là tình máu mủ ruột thịt, dù đó là chính bản thân con.
Lạy Chúa, thực sự con vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của Lời Chúa, con chưa hiểu tại sao con phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, để làm môn đệ Chúa. Thế nhưng chân lý quan trọng này Chúa luôn nhắc đi nhắc lại cho con. Chúa dạy con tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người. Chúa dạy con: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì không được ích gì”. Chúa dạy người thanh niên giàu có rằng: để được sự sống đời đời thì về bán hết của cải rồi theo Chúa.
Lạy Chúa, dù con không hiểu, nhưng con tin Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Xin cho con tin vào Lời Chúa dạy để con vững bước theo Chúa, để con xác tín mãi mãi rằng chính Chúa là con đường đưa đến sự sống. Bước đi theo Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con. Vì thế xin giúp con sẵn sàng từ bỏ những lợi ích khác. Xin cho con nhận ra rằng từ bỏ mọi sự vì Chúa không phải là dại khờ, thua lỗ, nhưng là một mối lợi và khôn ngoan. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Suy niệm 8: Thập giá là cái phải mang để đi theo Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một đoàn người hành hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn ngoan.
Cuộc hành trình gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…
Suy niệm
Trên đường lên Giêrusalem, bằng một động tác mang tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường”, Ngài dạy cho tất cả những ai muốn theo Ngài bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Vác thập giá theo chân Chúa như R. Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trở bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Ngài” (Theo L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique, tập 2, Cerf, trg 157).
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi môn đệ vác thập giá, nhưng chính Ngài đã vác thập giá trước, Ngài vác thập giá, thập giá gánh nặng tội của cả nhân loại. Thập giá mà Ngài vác là từ bỏ chính mình và chấp nhận Thiên ý của Chúa Cha (x. Mt 26,39.42.44; Mc 14,36; Lc 22,42). Người môn đệ của Chúa mang thập giá là chấp nhận con người mình, là mang thập giá niềm tin vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày bằng sự cố gắng không rên rỉ. Như tông đồ Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (x. 2Cr 12,7-9). Và Phaolô vẫn tiếp bước hành trình thập giá của người môn đệ rao giảng tình yêu: “Chúng tôi luôn mang trên mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu” (2Cr 4,10).
Thập giá được vác trên vai của mỗi người cũng là ánh sáng cứu độ soi đường như thánh Gioan Kim khẩu Suy niệm và xác tín: “Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kìm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành luỹ cho những kẻ bị vây hãm”.
Ước chi tôi và bạn mang tâm tình của thánh Phaolô mỗi ngày khi vác thập giá: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống
“Thập giá trở nên tiếng kêu tình yêu vô bến bờ của Thiên Chúa” (Maurice Zuldel).
Suy niệm 9: Điều kiện để theo Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Lúc này Đức Giêsu không còn ở nhà ông biệt phái nữa, nhưng trên đường đi Giêrusalem, có dân chúng theo Người rất đông. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Đức Giêsu nói với họ: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải yêu mến Ngài hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Như vậy, để trở nên môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta cũng phải cùng đi con đường của Ngài và đường của Ngài là từ bỏ, là đón nhận Thập giá.
Trên đường đi Giêrusalem, có rất đông người cùng đi, có người đi cho vui, có người có thiện cảm với Chúa muốn là môn đệ của Ngài, nên Đức Giêsu đã quay lại cho họ biết những điều kiện để làm môn đệ của Ngài: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định: nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Thực ra, việc từ bỏ, vác thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt tới mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Đức Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài với hết mọi sự và với sức lực của mình trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài đến hết mọi sự để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa (R.Veritas).
Theo những điều kiện Đức Giêsu nói, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa đen hoặc theo nghĩa bóng. Có nhiều người đã hiểu theo nghĩa đen, nên đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo, có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền để theo Chúa. Có những vị khác đã bước qua con cái hay sẵn sàng chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình, để ra đi dâng mình cho Chúa; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt, để khỏi trở thành dịp tội cho kẻ khác. Đó là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Nhưng những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa trên đây: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận cộng đoàn mình sống làm gia đình, và nhận những người cùng chí hướng làm anh chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn: vâng lời, khó nghèo và trong sạch (Theo Lm. Phạm Văn Phượng).
Trong xu thế của thời đại hưởng thụ và tích luỹ này, nói đến “từ bỏ hết những gì mình có” xem ra là một thứ “cung đàn lạc điệu”. Tuy nhiên, đối với những người con cái Chúa”, đó là hai điều kiện tất yếu và tiên quyết, vì không từ bỏ cũng đồng nghĩa là không thể trở nên môn đệ của Chúa Kitô được. Ơn gọi làm “con cái Chúa” là chấp nhận sự điên rồ của Thập giá, cớ vấp phạm cho người đời. Có “từ bỏ hết những gì mình có”, là biết “nói không” với thế gian, ma quỷ và xác thịt mới có thể là “sen” mọc “giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là đèn để “gần mực” mà chẳng “đen”, nhưng chiếu sáng cho cả nhà. Vì thế, đòi hỏi trước tiên đối với người môn đệ của thời đại hôm nay là từ bỏ lối sống hưởng thụ tích lũy, điều mà người thời đại hôm nay đang theo đuổi (5 phút Lời Chúa).
Sống trọn những cam kết của bí tích Thánh tẩy, sống trọn danh Kitô hữu, điều đó đôi khi đòi hỏi nhiều hy sinh. Thế nhưng chỉ thái độ dứt khoát chọn lựa và quyết tâm theo đuổi đến cùng mới thực sự làm chúng ta xứng danh Kitô. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại lối sống đạo xem chúng ta có đặt Chúa và giá trị Tin mừng vào địa vị ưu tiên trong cuộc sống hay chưa.
Truyện: Giới Tử Thôi và công tử Trùng Nhĩ
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đời Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chặn lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại, nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn, thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
Suy niệm 10: Theo Chúa đòi hỏi những gì?
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu" (Lc 14,25). Họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Jêrusalem". Có lẽ họ nghĩ rằng, đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói rõ ra: "Những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo") thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa và phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì mới xứng đáng với Chúa.
Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành.
Thế nhưng, trong thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác Thập Giá.
Ngược lại nếu biết từ bỏ, phần thưởng sẽ thật lớn:
Bob Ernst kể lại cuộc đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người, năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để thực hiện.
Tôi mong muốn được trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ. Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi.
Đó là vào mùa hè giữa năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.
Song, tôi cũng nhận ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó".
Khi nghe tôi xin phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:
- Em còn cả cuộc đời phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi bóng. Đừng hoài phí nó.
Tôi cúi gằm mặt, cố tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.
- Em kiếm được bao nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.
- 5 đô la một giờ, thưa thầy. - Tôi đáp.
- Thế thì 5 đô la là cái giá cho ước mơ của em phải không?
Câu hỏi bất ngờ và thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó, tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.
2. Chúa bảo: "Hãy vác Thập Giá hằng ngày" (Lc 14,27)
Newton nói: "Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng, ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!" (Newton).
Người ta kể rằng, có một đoàn người kia vác Thập Giá của mình, bước đi cực nhọc dưới sức nặng của cây Thập Giá đè trên vai, trong đó có một người vác một cây Thập Giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc.
Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đi đến bên bờ một vực thẳm: Bên bờ bên kia Chúa đang đợi sẵn, nhưng ngặt một nỗi là không có một cây cầu nào bác qua để sang bên đó.
Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây Thập Giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây Thập Giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên này với sự tuyệt vọng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vác Thập giá mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
Suy niệm 11: Điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
2. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
3. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
B.... nẩy mầm.
1. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành Chúa Giêsu nói rõ với “rất đông người” đang đi theo Ngài. Người ta theo đạo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với mọi người rằng theo Ngài thì phải từ bỏ (bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống), và lại còn phải vác thập giá. Dĩ nhiên, sự từ bỏ và vác thập giá không phải luôn là hiện thực, nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy khi hoàn cảnh xảy đến thì mới xứng đáng làm môn đệ Ngài. Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác thập giá.
2. Có người thờ thập giá nhưng không vác thập giá. Có người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu nhưng không quý chuộng thập giá mình. Những người đó không xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
3. “Hãy vác thập giá hằng ngày”: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !” (John Newton).
4. “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Có người đàn ông kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy ?
- Bác nhìn lên đỉnh Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt nó vào đó.
Ông gật gù ngẫm nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước mắt hạnh phúc.
Lạy Chúa, mấy hôm nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa. (Hosanna)
02/11 Bên kia sự chết
- Viết bởi Ga 6, 51-59
Bên kia sự chết.
Thứ Ba tuần 31 thường niên – CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
* Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915, hôm nay mọi linh mục được phép cử hành hoặc đồng tế ba thánh lễ, miễn là cử hành vào những giờ khác nhau; có thể chỉ một ý lễ cho bất cứ ai và nhận bổng lễ, còn ngoài ra phải dành một lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng (không có bổng lễ đối với hai lễ này).
Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.
Lễ Nhất
LỜI CHÚA: Ga 6, 51-59
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?”
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Lễ Nhì
LỜI CHÚA: Lc 23, 33. 39-43
“Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Lễ Ba
LỜI CHÚA: Ga 17, 24-26
“Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con”.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59
*Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43;
*Rm 5,4-11; Ga 17,24-26
Suy niệm 1: Sao Ngài bỏ rơi con? -- Mc 15, 33-39
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, CGS kêu lớn tiếng: “Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không.” CGS lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với CGS, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta
cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối.
Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng
sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá.
Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng.
Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh.
“Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình
vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết.
Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu.
Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình.
Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm.
Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn,
chết anh hùng hơn và chết lành hơn.
Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại,
đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa.
Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con,
một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời.
Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi.
Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất.
Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu,
vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn...
Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo,
điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã,
mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ.
Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi,
nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa.
Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta,
vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì họ cũng vào thiên đàng.
Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc,
và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa.
Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công.
Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế.
Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ.
Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể.
Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang
để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời.
Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được.
Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo,
nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn.
Cái chết được chia đều cho mọi người.
Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không?
Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất?
Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở.
Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống.
Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi,
sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều.
Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết.
Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống
nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý
nhưng như một hành trình
trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.
Suy niệm 2: Bánh mang Sự Sống từ Trời xuống--Ga 6, 51-59
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chết không phải là hết, nhưng là ngưỡng cửa đi vào đời sau vĩnh hằng. Sự sống đời đời bắt đầu từ hôm nay khi ta tin Chúa và đón nhận Bánh Hằng Sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chỉ khi bước qua ngưỡng cửa sự chết, con mới hiểu trọn vẹn được ý nghĩa của sự sống đời đời mà Chúa hé mở cho con trong Tin Mừng. Đây không còn là sự sống thể lý mà con có thể kinh nghiệm bằng cảm giác. Sự sống đây là chính sự hiện hữu với Chúa và trong Chúa. Chúa là Bánh mang Sự Sống từ Trời xuống. Do vậy, con hiểu rằng sự sống mai sau có được là nhờ sự sống mà con người đã bắt đầu ngay bây giờ nhờ ơn Chúa.
Hôm nay là ngày cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục. Các Ngài là những người khi sống trên trần gian này đã bắt đầu được sự sống đời đời nhờ kết hiệp với Chúa, sống với Chúa và sống trong Chúa.
Con là kẻ đi sau, đang được Chúa mời gọi bước vào sự sống của Chúa, sự sống mà các định luật tự nhiên không thể chi phối. Cái chết khi đó chỉ còn là cởi bỏ thân xác biến dịch và hữu hạn để tiếp tục bằng một sự sống trường tồn trong một thân thể vinh quang bất diệt.
Hôm nay, Chúa đang ban cho con Lời Chúa, Lời ban Sự Sống đời đời. Đồng thời Chúa đang ban cho con Thánh Thể Chúa là Bánh ban Sự Sống đời đời. Đó là những mầm sống đời đời Chúa gieo vào cuộc đời con. Con sẽ được hưởng nếm sự sống đời đời ngay tại trần gian nhờ được sống với Chúa và trong Chúa bằng cách thực thi Lời Chúa và lãnh nhận bí tích Thánh Thể.
Xin Chúa thêm đức tin cho con để con luôn biết tận hưởng sự sống Chúa ban và phát triển sự sống đời đời đó ngay trong cuộc sống hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Suy niệm 3: Lễ Các Linh Hồn (Ga 6,37-40)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Kinh nghiệm hằng ngày cho chúng ta thấy mọi người giàu nghèo sang hèn, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều gì, thì rồi cũng có ngày phải rời bỏ cõi đời này để trở về với thế giới bên kia, vì đây là án lệnh của Thiên Chúa đã ra cho loài người sau khi nguyên tổ Adong Evà sa ngã phạm tội: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” (St 4,19).
Thánh Phaolô cũng triển khai tư tưởng ấy trong thư gửi cho tín hữu Côrintô: “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người đều liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (1Cr 15,21-22).
Không ai có thể phủ nhận được cái chết vì chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu người chết trong những hoàn cảnh khác nhau. Người ta cố níu lấy sự sống mà không được, vì thần chết luôn rình rập chung quanh, như “thợ gặt không có ngủ trưa” (Cervantes). Mọi người đều phải chết, chỉ khác nhau ở chỗ là vui lòng đón nhận cái chết hay chấp nhận một cách miễn cưỡng.
Đứng trước thực tế của cái chết, trước cuộc đời vắn vỏi như bóng câu, nhiều người từ xưa đến nay đã nỗ lực tìm phương thế để kéo dài cuộc sống, thậm chí có thể đạt tới trường sinh bất tử. Nhưng cho đến nay mọi nỗ lực đã thất bại. Con người dù có sống đến ngàn năm rồi cũng chết. Không ai có thể chống lại được án lệnh của Thiên Chúa.
Truyện: Không tin sự sống lại
Tại một nghĩa trang bên Đức, có một ngôi mộ rất được chú ý, đó là mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới xây bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý, vì đó là một ngôi mộ của một người đàn bà giàu có nhưng không tin có Chúa, cũng chẳng tin có sự sống lại. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mồ. Trên mộ, bà xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ cậy mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố, thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nảy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ, để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Suy niệm 4: Cầu cho các tín hữu đã qua đời
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Ngày hôm qua chúng ta đã mừng các thánh. Hôm nay chúng ta nhớ đến Giáo Hội đau khổ nơi những người anh chị em chúng ta đang cần được thanh luyện để được xứng đáng một phần nào với sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa. Hôm nay và cả trong tháng này chúng ta hãy dành tất cả những công phúc và những lời cầu nguyện để giúp các Ngài. Chắc là khi được về cõi vĩnh hằng các ngài sẽ không quên ơn chúng ta.
Giáo Hội tạo dịp để cho chúng ta nhớ đến những người đã ra đi, ra đi trong chiến thắng trọn vẹn như các thánh, hay ra đi mà chưa đạt được đích cùng như các đẳng linh hồn nơi luyện tội không phải Giáo Hội chỉ nhắc nhớ chúng ta nhớ đến bổn phận của chúng ta đối với những người đã chết nhưng Giáo Hội còn muốn chúng ta qua đó mà nhớ đến chính chúng ta nữa.
Nhớ cái gì?
1. Nhớ rằng cuộc sống này là cuộc sống có cùng có tận, và đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tiếp tục.
Bằng một câu chuyện rất đễ hiểu trong Tin Mừng của thánh Luca, câu chuyện về người phú hộ giầu có và Lagiarô khó nghèo, Chúa đã muốn bảo cho chúng ta rằng đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tồn tại.
Như vậy chết là một sự thật mà con người không thể không nghĩ tới.
Trong cái khoảng mênh mông vô vùng của thời gian và không gian chúng ta chẳng là cái gì cả.
Trong một bài Suy niệm về sự chết Đức Cha Bossuet đã nói: “Tôi sống được 80 năm hay có thể hơn nữa thí dụ 100 năm. Trở về với quá khứ, đã có lúc tôi không có. Nhìn về tương lai sẽ có lúc không còn tôi. Thời gian tôi sống chỉ là một khoảng thời gian rất hẹp trong cái khoảng mênh mông của thời gian. Tôi không là gì hết. Cái khoảng nhỏ hẹp không thể phân biệt tôi với hư vô và với nơi tôi phải đi tới”
Theo thống kê thì trung bình mỗi ngày có khoảng hơn 200.000 chết. Mỗi giờ hơn 8000 người. Mỗi phút hơn 130 và mỗi giây từ 2-3 người.
Quan Homidas người Ba tư, hồi đế quốc Ba tư còn giầu có vào hàng nhất nhì trên thế giới, một lần đi viếng Roma. Quan được chính vua Constantinô hướng dẫn đi tham quan một vòng kinh thành Roma. Nhà vua chỉ cho quan thấy những cảnh lộng lẫy và hy hoàng rực rỡ của kinh thành. Quả thực là Roma rất đẹp.
Sau cuộc tham quan Vua Constantinô muốn biết về cảm tưởng của quan, quan mỉm cười nói: “Điều tôi rất lấy làm lạ là ở một kinh thành lớn lao, đẹp đẽ và giầu có như thế này mà người ta cũng phải chết như ở những nơi khác”
Vâng chẳng có chỗ nào mà người ta không phải sự chết.
2. Nếu sự chết là như thế thì thái độ của chúng ta sẽ phải như thế nào?
a. Có nhiều người bi quan, bi quan đến mức độ muốn đầu hàng cái chết. Từ thái độ đó người ta bị dẫn đến một thái độ khác đó là người ta cho cuộc đời này là phi lý. Dù có sống như thế nào đi nữa rồi cũng kết cùng rồi cũng phải chết. Cuộc sống trở thành một thực tại phi lý hơn bất cứ một thực tại nào khác ở cõi đời này. Kết quả là một cuộc sống buông thả, muốn ra sao thì ra.
Đây quả là một thái độ nguy hiểm. Và chắc chắn đó không phải là thái độ của những người tin. Sống cuộc đời buông thả không những không thể đạt đến hạnh phúc đời đời như lời thánh Phaolô cảnh cáo mà ngay tại đời này cuộc sống như thế cũng đáng bị lên án một cách nặng lời.
b. Có người lại có thái độ khác. Họ dửng dưng trước sự chết. Họ không muốn nhìn vào sự chết như là một sự thật. Họ thản nhiên để cho cuộc đời của họ chìm sâu vào sự tận hưởng những giây phút của hiện tại mà không cần biết đến tương lai.
Đây cũng không phải là thái độ của những người tin như chúng ta.
Trên mộ của một người giầu có người ta đọc thấy một câu như thế này: “Đây là mộ của một người dại dột đã sống mà không biết tại sao mình sống”
Một trong những câu chuyện hay người ta thường kể để răn dạy người đời là câu chuyện ông vua giầu có với chú hề. Truyện như thế này: “Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như là không hề biết đến tương lai. Ông cũng chẳng màng đến thế giới mai sau. Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho ông mỗi khi ông cần tới. Theo nhà vua thì tên hề này là một người biết đem lại niềm vui cho những người khác nhưng lại là một người rất ngu đần. Một ngày kia không hiểu vì tức giận với anh ta truyện gì mà nhà vua cho gọi anh hề tới rồi trao cho anh ta một cây gậy gọi là thanh trượng quyền của nhà vua và nói với anh ta: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một người ngu hơn ngươi - trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.” Chú hề nhận cây gậy và cố gắng đi tìm nhưng tìm mãi cũng không ra.
Thời gian qua đi. Tuổi già đến lúc nào nhà vua cũng không biết. Đến khi lực đã cạn, sức đã kiệt ông cảm thấy ngày ông gần đất xa trời không còn bao xa, ông cho gọi chú hề đến và tâm sự với anh ta:
- Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật xa.
- Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu cơ ạ.
- Ta cũng không biết nữa.
- Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua trở về?
- Không bao giờ, không bao giờ con ạ.
Anh hề là một người ngu nhưng trong trường hợp này anh lại có một phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy mà trước kia nhà vua đã trao cho anh vào ngay bàn tay Đức Vua rồi thinh lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng và vui sướng vì đã tìm thấy được một người còn ngu hơn mình mà người đó lại là chính ông vua trước kia đã tự hào là mình thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần anh ta.
c. Vậy thì đâu là thái độ của chúng ta. Đây là thái độ mà chính Chúa Giêsu đã dậy: Hãy tỉnh thức.
Chúng ta không đầu hàng sự chết.
Chúng ta không lẩn trốn sự chết, coi nó như không có trong cuộc đời, nhưng chúng ta cam đảm đối diện với nó bằng tất cả lòng tin yêu và phó thác của chúng ta nơi Tình yêu của Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu đã quả quyết với chúng ta: “Thiên Chúa không phải là Chúa của người chết nhưng là Thiên Chúa của người sống”(Mt 22,32).
Cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII để lại cho chúng ta nhiều câu chuyện rất cảm động. Một trong những câu chuyện đó là câu chuyện lúc Ngài sắp lìa đời. Theo lời kể của cha thư ký riêng của Ngài thì hôm đó trước khi Ngài nhắm mắt từ giã cuộc đời Ngài còn đủ nghị lực để nói với những anh em của ngài: Ông Xavier, Joseph. Alfred và bà Assunta:
“Đừng lo sợ cho tôi,
Tôi sãn sàng, rất sẵn sàng.
Ở trên trời chúng ta vẫn tiếp tục yêu thương nhau.
Bây giờ không phải là lúc khóc.
Đây là phút vui mừng và vinh quang.
Tôi theo sát sự chết từng phút.
Nó từ từ đang tới.
Tôi rất bình an, ao ước được thoát ly khỏi xác thịt này và về cùng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu
Chúa ưa thích đến với con
Như chân lý để dạy cho con biết tin
Như sự sống để dạy cho con biết sống
Như Ánh sáng để dạy con biết chiếu tỏa
Như Tình yêu để dạy con biết yêu thương
Như Niềm vui để dạy con biết ban phát
Như Bình an dạy con biết sống chan hòa
*Nhưng lạy Chúa Giêsu
Có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề
Có những lúc con muốn buông xuôi
Để mặc cho dòng đời đưa đẩy
Có những khoảng thời gian
Con như mảnh đất khô khan cằn cỗi
* Xin cho con ánh sáng của Chúa
Để con biết lối mà đi
Xin cho con tấm bánh của Chúa
Để con đủ sức mà dấn bước
Xin cho con Lời của Chúa
Để con luôn vững một niềm tin
Xin cho con sự sống của Chúa
Để con lấy lại niềm hăng say, sự tươi tắn
Niềm vui và sáng tạo
*Lạy Chúa Giêsu
Con thấy con cần Chúa
Trong mọi giây phút của cuộc đời
Ước gì cuộc đời của con
Được rập khuôn cuộc đời của Chúa
Để con biết sống như lòng Chúa ước mong
Và sau cuộc đời này
Con được hợp hoan
Cùng với anh chị em con
Trong Nhà Cha trên trời.
Amen.
Suy niệm 5: Các tín hữu đã qua đời
(Lm Giuse Hồ Bạc Xái)
* Lịch sử
Lễ cầu cho cát tín hữu đã qua đời được cử hành vào ngày 2 tháng 11 hằng năm, được thánh đan viện phụ Odilô của tu viện Cluny (994-1048) khai sáng.
Trong ngày đó, ngài ra lệnh các linh mục thuộc dòng Cluny phải dâng thánh lễ để cầu nguyện cho tất cả những người trong dòng và các ân nhân của dòng đã qua đời. Ngài ra lệnh cho các đan viện trực thuộc Cluny cũng thực hành như thế. Chúng ta còn giữ được văn kiện của thánh Odilô ghi vào năm 998.
Sau đó, lễ cầu cho các linh hồn phát triển rất nhanh và bung ra khỏi dòng tu. Từ thế kỷ XIV chúng ta đã gặp thánh lễ này trong phụng vụ Rôma. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Cựu Ước mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người bằng hình ảnh bữa tiệc (Cn 9,1-5). Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu cũng dùng ngôn ngữ của bữa tiệc như “ăn” và “uống”. Tuy nhiên bữa tiệc này rất đặc biệt vì thức ăn thức uống không phải là thực phẩm thông thường cho dù là cao lương mỹ vị đi nữa, mà là chính thịt máu Chúa Giêsu. Bởi đó hiệu quả của bữa tiệc này không phải chỉ là bồi dưỡng sức khoẻ tạm thời cho thể xác mà là cho con người được sống thật, sống muôn đời.
2. Các ngôn sứ Cựu Ước diễn tả ơn gọi của họ bằng hình ảnh “nuốt” lấy Lời Chúa (x. Gr 15,15-21; Êd 3). Nghĩa là các vị ấy rất thèm khát Lời Chúa, muốn tiêu hóa Lời Chúa, cho Lời ấy thấm nhập vào thân thể mình. Hiểu theo bối cảnh ấy, “Ăn” thịt Chúa Giêsu và “uống” máu Ngài nghĩa là khao khát được kết hợp rất thân thiết với Chúa đến nỗi có thể nói là đã trở nên một thịt một máu với Ngài.
3. Khi ghi lại những dòng này, thánh Gioan cũng nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Đó chính là bữa tiệc thịnh soạn mà Thiên Chúa dọn cho loài người, và đó cũng chính là nguồn sức sống cho loài người.
B.... nẩy mầm.
1. Hôm qua lễ Các Thánh, chúng ta nhớ đến những tín hữu ở thiên đàng. Hôm nay lễ các linh hồn, chúng ta nhớ đến các tín hữu trong luyện ngục. Còn chúng ta là những tín hữu hiện còn tại thế. Bài Tin Mừng Gioan về bữa tiệc sum họp cho chúng ta biết hạnh phúc tuyệt vời và tối hậu sau một đời sống ở trần gian là được kết hợp thân thiết với Chúa trong bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên đàng. Ngoài thứ hạnh phúc đó ra, không có gì là hạnh phúc thật cả.
2. Thánh Lễ là dịp chúng ta nếm trước hạnh phúc sum họp ấy. Trong thánh lễ chúng ta kết hợp với Chúa, chúng ta kết hợp với các thánh trên trời và những tín hữu trong luyện ngục, chúng ta cầu nguyện để cuối cùng chúng ta và tất cả những người thân của chúng ta đều được sum họp với Chúa và các thánh trong bàn tiệc vĩnh cửu.
3. Hãy hỏi các linh hồn. Họ sẽ cho chúng ta biết đâu là những giá trị thật của cuộc đời mà ta cần theo đuổi.
4. Khi Mẹ Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin lập một chi nhánh của Dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
5. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
Hằng đêm, mỗi khi thành phố lên đèn, mọi người hối hả trở về công sở, trường học...
Những bước chân hối hả qua lại...
Bên vệ đường, một bà lão khô quắt, nằm cong queo như cố thu mình trốn cái không khí se lạnh. Bà kiệt sức vì đói. Những bước chân vẫn đi qua, đi qua...
Và rồi, đôi chân con bước tới, ngập ngừng... rồi lại bước đi
Trên ti vi, người ta nói đến lũ lụt. Cảm động, con dự định... rồi lại thôi!
Con là thế! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại.
Lạy Chúa, trên thánh giá Ngài đã giang rộng đôi tay và khi phục sinh, Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại được sống.
Xin cho con luôn biết cho đi, cho đi mãi
không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân. (Epphata)
6. Đoạn kết của câu truyện người phú hộ giàu có và kẻ ăn xin nghèo khổ Ladarô khiến tôi phải suy nghĩ. Hai con người, hai cách sống, hai kết cộc khác nhau: người được ân thưởng, kẻ bị luận phạt. Thiên Chúa đã tách biệt họ ra như tách biệt người lành khỏi kẻ dữ, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Là chiên hay dê, tôi có quyền chọn lựa. Hôm nay tôi sống thế nào thì ngày đó tôi sẽ bị xét xử như vậy. Thiên Chúa là vị thẩm phán uy quyền nhưng cũng đầy tình thương. Ngài cho tôi thời gian để sống, để chọn lựa, để thực hiện vận mệnh đời mình. Để khỏi bị kết án như người phú hộ, tôi phải sống cho Chúa và cho anh em tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mỗi ngày như là ngày cuối đời con, để con luôn biết yêu thương giúp đỡ mọi người với những gì con có thể. (Hosanna)
Suy niệm 6: Nguồn nước mắt
(GM. Gioan B. Bùi Tuần)
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
Suy niệm 7: Nghĩ về sự chết
(GM. Gioan B. Bùi Tuần)
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).
“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Suy niệm 8: Lễ Các Linh Hồn
(TGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn)
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi Suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
Suy niệm 9: Lễ Các Linh Hồn (Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
(GM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”.
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành”.
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
Suy niệm 10: Thanh luyện chờ ngày sum họp bên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tháng 11 là đang giữa mùa thu, nếu bạn ở châu Âu hay ở miền Bắc Việt Nam, bạn sẽ thấy được toàn khung cảnh lá vàng rực mọi nơi, nhà thơ Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu đã diễn tả mùa thu:
“Em không nghe mùa thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
Một cơn gió thổi đến những chiếc lá vàng rơi tung bay, lá vàng rơi tung bay trong gió giữa thu trong tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu - Nguyễn Khuyến).
Lá thu rơi xuống làm trơ trụi lá cành, không còn sức sống trong băng giá của mùa đông (ở châu Âu), biểu tượng của thân phận các tín hữu đã qua đời đang thanh luyện cho ngày sum họp bên Chúa.
Mong trở về bên Chúa như cây cối đợi xuân sang: Tất cả đều trổ bông tươi nở với một sức sống mới như các thánh Nam Nữ đang được hưởng Nhan Thánh Chúa, nơi Chúa Giêsu hứa và dọn sẵn (x. Ga 14,2-4), Ngài xin cùng Chúa Cha cho chúng ta (x. Ga 17,24).
Suy niệm
Chúng ta thường tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính của các thánh tông đồ: ”Tôi tin các thánh cùng thông công”. Bởi lẽ đó, tin tưởng như vậy, ngày 1/11, đức tin chúng ta hướng về trời, chiêm ngưỡng các thánh Nam Nữ trên trời để tạ ơn, với tâm hồn quyết tâm noi gương các ngài - những người đã chiến thắng trên Thiên quốc được gọi là Giáo hội Chiến Thắng, xin các ngài phù trợ cho những người đang sống trên đường lữ thứ trần gian được gọi là Giáo hội Chiến Đấu, để được về trời gia nhập Giáo hội Chiến Thắng khi “nhắm mắt lìa đời”. Nhưng chúng ta cũng không thể quên hiệp thông với các linh hồn nơi luyện hình là Giáo hội Đau Khổ - “Các thánh đang còn lữ thứ”.
Việc cầu nguyện cho các tín hữu qua đời có nguồn gốc từ thời rất xa xưa: Bắt đầu ở thời Cựu ước xuyên qua Tân ước và là niềm tin của Giáo hội trải qua thời gian:
Trong Cựu ước, Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do Thái, đã dâng lễ tế đền tội cho những tử sĩ (x. 2Mc 12,38-46), ông xác tín rõ: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (2Mc 12,45).
Chúa Giêsu đề cập đến một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào vì một số tội: Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (x. Mt 5,26).
Theo thánh Phaolô, những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (x. 1Cr 3,13).
Chính vì thế Giáo hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” (DS 856/464). Cho nên, Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về mầu nhiệm Giáo hội nói lên niềm xác tín: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh.”...
Thật thế, bằng lời cầu nguyện và hy sinh của anh chị em đang sống, các linh hồn được gia nhập vào hàng ngũ Giáo hội Chiến Thắng và bầu cử lại cho anh chị em đang ở Giáo hội Chiến Đấu như thánh Công đồng tuyên tín: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha.”...
Giữa ba Giáo hội: Chiến Thắng - các thánh Nam Nữ, Chiến Đấu - chúng ta, những người đang sống lữ hành trần gian và Giáo hội Đau Khổ là các tín hữu đang thanh luyện, liên đới hiệp thông bằng tình yêu, tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính tình yêu thúc đẩy làm cho những người đang sống nhớ đến những người đã khuất, làm những hy sinh và cầu nguyện cho các đấng đang thanh luyện, được vào cõi hằng sống gia nhập Giáo hội Chiến Thắng, và cũng chính tình yêu, các thánh Nam Nữ nơi Giáo hội Chiến Thắng cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta những người đang sống chiến đấu. Chỉ có tình yêu mới làm cho con người được bất tử khi nhớ tới nhau qua sự hy sinh với lời cầu nguyện hàng ngày.
Ý lực sống
“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời (Ga 11,25-26)
Suy niệm 11: Sống Tháng Các Linh Hồn
(Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
Suy niệm 12: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
Suy niệm 13: Bốn bà vợ
(Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kìa! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng quá mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thứ ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì quá chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)
Suy niệm 14: Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Hiền Lâm)
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Suy niệm 15: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: “Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!”.
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. “Làm sao các anh biết được tôi ở đây?” - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: “Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh”.
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: “Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời” (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn”.
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
“Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
“Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con”.
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen.
Suy niệm 16: Tưởng nhớ người đã ra đi
(Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Suy niệm 17: Tri ân tình cha, tình mẹ
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: “Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!”.
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...”.
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
“Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ”.
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
“Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình”.
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: “con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.
Suy niệm 18: Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.
Suy niệm 19: Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(vietcatholic.net - LM. Nguyễn Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả “một thời gian ngắn của hỏa ngục.” Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng “lửa” luyện tội là tình yêu Thiên Chúa “nung nấu” trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn” (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
Suy niệm 20: Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Suy niệm 21: Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là “một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người.”
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: “Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết.” Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: “Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời.” (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: “Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: “Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội.”
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: “Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế.” Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa.” (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và “còn lại một mình tôi” trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: “Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi.” (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng.” (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: “Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa”. Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: “Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết.” (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: “Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời.”
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: “Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua.” (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: “Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua.” (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: “Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi.”
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: “Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?” Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo: “Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?” (Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
“Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' “
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: “Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi.” Cyrus cũng đồng ý-kiến: “Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết.” Chính Emerson cũng nói: “Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược.” Mark Twain đã viết: “Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó.”
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah: “Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu.” (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: “Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi.” (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn “Thiên-lộ lịch-trình”, đã nói lúc ông gần qua đời: “Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời đời.”
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: “Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).
“Sinh ký tử qui” (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh “Dâng Mình” của Cha Charles de Foucauld như sau:
“Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen.”
Suy niệm 22: Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các con”.
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy niệm 23: Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...”.Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.
Suy niệm 24: Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
Suy niệm 25: Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Suy niệm 26: Chết không phải là xa cách vĩnh viễn
Hằng ngày người ta chứng kiến hoặc nghe nói hoặc đọc trên báo chí về những cái chết do già yếu, bệnh tật, tai nạn, thiên tai, chiến tranh, bạo động... gây ra. Và người ta nghĩ chết chóc là chuyện xẩy ra cho người khác, chứ chưa xẩy ra cho chính mình. Đa số loài người có thể đương đầu với cuộc sống dù có vất vả khổ cực đi nữa. Tuy nhiên ít ai muốn đương đầu với cái chết. Người ta cũng cảm thấy khó chấp nhận cái chết của người còn trẻ tuổi và người thân yêu. Tâm trạng đó có nghĩa là người đời sợ chết hay chưa muốn chết vì người ta sợ đối diện với những gì xẩy ra ở đời sau mà người ta không biết trước được. Có những người sợ chết đến nỗi dặn những người thân yêu phải nắm chặt tay chân mình trong lúc hấp hối.
Trong thực tế, chết có thể xẩy đến cho bất cứ ai: già trẻ, lớn bé, hoặc bất cứ lúc nào: ngày cũng như đêm, hay bất kì ở đâu, ngay cả tại những nơi mà người ta tưởng là an toàn nhất, người ta vẫn có thể chết. Như vậy, chết không kiêng nể một ai. Khi nào thiên thần Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn, gọi linh hồn ra khỏi xác, là một điều bí mật. Như vậy sống và chết gắn liền với nhau. Có thể nói được là người ta sinh ra để mà chết. Và tất cả cuộc sống là một tiến trình đi về cái chết.
Đối với người tin tưởng vào ơn cứu độ của Chúa Kitô, Đấng cứu độ trần gian, thì chết không phải là hết, cũng không phải là xa cách vĩnh viễn. Chết chỉ là một biến đổi từ đời này qua đời khác. Người thân nhân còn sống cần đem sự hiện của người khuất bóng vào đời sống gia đình bằng hình ảnh của người quá cố, bằng công nghiệp của người quá cố để lại, bằng những kỉ niệm có được với người quá cố và nhất là bằng lời cầu nguyện và lễ dâng cho người quá cố.
Phụng vụ lễ các linh hồn nhắc nhở cho người tín hữu là người lữ hành trên cuộc hành trình đi về nhà Chúa, họ không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với toàn thể dân Chúa, cùng với Mẹ Maria và các thánh, cùng với người tín hữu tại thế và các linh hồn nơi luyện ngục.
Theo tín điều Các Thánh cùng Thông công, thì Mẹ Maria và các thánh trên trời có thể cầu bầu cho người tín hữu tại thế. Người tín hữu tại thế có thể cầu nguyện cho nhau, ủng hộ tinh thần cho nhau và cầu nguyện các linh hồn nơi luyện ngục. Giáo lí về việc người tín hữu tại thế cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục được các Công Đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô gọi là Tín Điều Các Thánh cùng Thông Công thì Công Đồng Vaticanô II gọi là sự hiệp thông sống động (GH #51).
Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng lời cầu bầu của Mẹ Maria và các thánh và lời cầu nguyện, hi sinh và gương sáng của người khác. Và ngay cả khi nằm xuống vĩnh viễn, người quá cố vẫn còn được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện của họ hàng, thân nhân và bạn hữu và của toàn thể Giáo hội và bằng ý chỉ của thánh lễ dâng. Biết được như vậy, nghĩa là biết được rằng sau khi chết mà còn có những người thân yêu, bạn bè nhớ đến mình trong lời cầu nguyện và thánh lễ, là điều sưởi ấm tâm hồn biết bao.
Ngay trong thời Cựu ước ngôn sứ Isaia đã có thể nhìn đến một viễn tượng khi Đấng cứu độ trần gian sẽ đến: tiêu diệt tử thần (Is 25:8). Còn thánh Phaolô thì bảo tín hữu Rôma phải cậy trông vào ngày mà họ: sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (Rm 8:21). Kinh Tiền tụng I trong Thánh lễ cầu cho những người đã qua đời nhắc nhở cho người tín hữu: Sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị huỷ diệt tiêu tan, thì được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Chết là một biến đổi vì Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh của Người. Bằng việc sống lại Chúa đã xoá bỏ tội lỗi và toàn thắng sự chết.
Trước khi về trời, chính Chúa Giêsu cũng hứa với ta qua các tông đồ: Thầy đi dọn chỗ cho chúng con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho chúng con thì Thầy sẽ trở lại và đón chúng con về với Thầy, để Thầy ở đâu, chúng con cũng được ở đó (Ga 14:2-3). Lời hứa đó đã được thực hiện cho người gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Kitô mà có lòng ăn năn sám hối: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng (Lc 23:43).
Hôm nay vì lòng hiếu thảo và tình bác ái Kitô, ta đến nhà thờ dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, những linh hồn tổ tiên, ông bà cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân quyến và bạn hữu đã khuất bóng. Xin Chúa vì lòng nhân hậu, khoan dung và hay tha thứ xét nhử nhân hậu với các linh hồn, đưa các linh hồn về hưởng ơn nghĩa trong nước Chúa.
Lời cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời:
Lạy Chúa cả nhân lành hay thương xót.
Chúa không muốn cho loài người phải chết đời đời,
nhưng được sống.
Xin Chúa dủ lòng thương xót các linh hồn đã qua đời.
Xin dùng máu thánh Con Chúa đã đổ ra vì tội lỗi loài người
mà tẩy sạch vết nhơ tội lỗi cho các linh hồn
cho được hưởng phúc trường sinh. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ - Lm Trần Bình Trọng)
Suy niệm 27: Cầu cho các tín hữu đã qua đời
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi.
Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi.
Để nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.
Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.
Đức Thánh Cha viết như sau:
“Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: “Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối”. Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta”.
Đức Thánh Cha giải thích:
“Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa”. Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình”.
Đức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Đức Phaolô VI như sau:
“Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy”.
Chính vì thế mà Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác.
Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:
“Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: “Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta”.
Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.
Suy niệm 28: Báo hiếu mẹ cha
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau:
Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị vứt lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo: Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời...
Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay. Thế nên, điều gì đáng bỏ công, đáng làm, hãy làm từ ngày hôm nay. Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài mà người ta yêu đã nằm bất động chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương.
Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta. Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ. Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta. Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người. Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ. Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta. Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ. Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta?
Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.
Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi. Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi. Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Lửa” luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống.
Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta lời cầu nguyện, cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ, cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội. Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng. Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ. Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời. Khi sống quan tâm, chăm sóc. Khi chết dâng lễ, cầu nguyện.
Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài. Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời. Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam.
Trước tiên là ân nghĩa sinh thành:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách:
“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha:
“Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi”.
Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ. Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội. Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha. Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài “Ơn nghĩa sinh thành” để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta.
“Uống nước nhớ nguồn
Làm con phải hiếu
Anh ơi hãy nhớ năm xưa
Những ngày còn thơ
Công ai nuôi dưỡng.
Công đức sinh thành
Người hỡi đừng quên
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Người ơi, làm người ở trên đời
Nhớ công người sinh dưỡng
Đó mới là hiền nhân
Vì ai ta nên người tài ba
Hãy nhớ công sinh thành
Vì ai mà có ta. Uống nước...
(Lm. Tạ duy Tuyền)
Suy niệm 29: Hãy nhớ đến công đức của các ngài
(Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tại đất nước của chúng ta hay trên thế giới, có lẽ không ai lại không biết đến cây chuối. Có nhiều loại chuối, nhưng các loại chuối đều giống nhau ở một điểm là: chúng chỉ sản sinh ra một buồng chuối duy nhất, không bao giờ có buồng thứ hai. Lúc mới lớn, chúng to cao, thân vạm vỡ, lá xanh tươi. Nhưng khi chúng bắt đầu có buồng, thì cũng là lúc chúng chuẩn bị héo tàn xơ xác với thời gian, và, khi buồng chuẩn bị chín, cây chuối mẹ sẽ ủ rũ, héo úa như muốn dồn hết sức lực còn sót lại để nuôi chúng. Sự sống của nó kết thúc khi buồng chuối đã chín hẳn.
Như vậy, trong quá trình sinh trưởng của buồng, cây chuối mẹ phải hy sinh những tinh túy nhất của mình cho buồng chuối. Có thế, chúng ta mới được tận hưởng những trái chuối to, thơm ngon và bổ dưỡng….
Cây chuối là biểu tượng cho một tình yêu cao thượng. Nhìn cây chuối đang mang buồng, chúng ta suy nghĩ đến sự quảng đại, hy sinh đến quên mình của những bậc tiền nhân chúng ta.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta cử hành thánh lễ Cầu Hồn để cầu nguyện cho các linh hồn là những ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những người thân yêu, ân nhân, thân nhân, bạn hữu…. của chúng ta đã ra đi về với Chúa.
1. Lý do cần cầu nguyện cho các linh hồn
Cầu nguyện cho các ngài là bổn phận, là sống tinh thần hiệp thông, là thể hiện đức ái và nhất là biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Như vậy, tháng 11 đối với đạo Công Giáo được gọi là tháng báo hiếu tổ tiên. Vì thế, những người con, cháu, chắt hãy nhớ công ơn trời bể, nhất là những lời dạy dỗ, bảo ban của các ngài mà khắc cốt nghi tâm: “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai […], vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (x. Cn 6,20.23).
Thật vậy, cả cuộc đời của các ngài đã sống hết mình vì con cái. Đôi khi vì hạnh phúc của con mà người mẹ phải chấp nhận tần tảo ngược xuôi, ăn bữa nay, lo bữa mai, nhưng nhất quyết không để con mình phải đói, phải rách, hay bị thất học…. Có những người mẹ đã cống hiến luôn cả một phần cơ phận của mình để có tiền lo cho con cái ăn học hay chữa bệnh…:
“Nuôi con buôn tảo bán tần, chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, con đau làm mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên, chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Hoặc có những người cha đã phải thức khua dạy sớm, làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình và lo cho con cái bằng bạn bằng bè:
“Cha tôi tuy đã già rồi, nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà. Sớm hôm vừa dấy tiếng gà, cha tôi đã dạy để ra đi làm”.
Đó là về vật chất, còn về tinh thần thì sao? Chắc hẳn không có người cha, người mẹ nào lại muốn con cái mình sinh ra hư hỏng, trái lại, các ngài luôn mong muốn cho chúng càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, đạo hạnh…. Tuy nhiên, vì sự lêu lổng, tính ham chơi và tuổi đời bồng bột, nên đã biết bao lần con cái làm cho cha mẹ phải tủi nhục đắng cay! Đấy là chưa kể đến những đứa con bất hiếu đến độ đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, chửi mắng các ngài chỉ vì không đáp ứng những nhu cầu bất chính của chúng! Quả đúng là: “Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nhiều khi con cái đâu có hiểu được rằng: chúng được thành đạt, nên người; được cơm no áo ấm; được nở mặt nở mày với những nụ cười rạng rỡ; được nhiều người thương mến, kính trọng…. Có bằng này chức kia lại là kết quả của cha mẹ một nắng hai xương, dầm mưa dãi nắng; cầy sâu cuốc bẫm; suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để dành dụm được chút ít dư dật, hầu lo cho con cái được ấm no, hạnh phúc.
Nói chung: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đây là gia tài quý báu mà các ngài truyền lại cho con cháu.
Thật vậy, công đức, gương sáng của các ngài đã để lại cho chúng ta là cả một gia tài vô giá, vì thế, “Uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, vì: “Mẹ cha vất vả nuôi mình. từ khi trứng nước công trình biết bao. Làm con phải nhớ công lao, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nhưng có lẽ món quà quý giá nhất giờ đây mà các ngài mong muốn nơi chúng ta, đó là dâng thánh lễ và lời cầu nguyện.
2. Cầu nguyện là món quà quý giá nhất dành cho các linh hồn
Vì thế, niềm tin Kitô Giáo cho chúng ta một niềm hy vọng rằng: chết không phải là hết, nhưng là một cuộc đi về Quê Thật, vì: “Sinh ký, tử quy”. Chính trong niềm tin này mà chúng ta có một sự liên hệ mật thiết giữa người sống và người chết cách nhiệm mầu, nhưng sống động. Thế nên, khi đứng trước hay nhìn thấy các nấm mồ của người thân yêu đã quá cố, chúng ta không thể quên công ơn của các ngài, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ). Sự sống và tinh thần của các bậc tổ tiên được lưu truyền hậu thế mãi mãi nơi những khuôn mặt, trái tim của hậu sinh là chúng ta.
Vì thế, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tưởng nhớ công ơn của các ngài để noi gương và nhất là dâng lời cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn. Đây là cách báo hiếu tốt nhất dành cho người quá cố và đây cũng là niềm tin của mỗi chúng ta. Trong Kinh Thánh, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-26). Xác tín này cũng chính là niềm tin của Mattha trước cái chết của Lazarô, vì thế, cô được Đức Giêsu mặc khải về sự sống sau cái chết nơi những người tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Lời hứa về sự sống đời đời còn được Đức Giêsu mặc khải nhiều lần khác nhau: “Ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). Lúc khác Ngài khẳng định mạnh mẽ hơn: Ai “tin vào người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40). Hay: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
3. Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi tháng 11 đến, ngoài việc cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: “Nay người, mai ta”. Sự ra đi của tiền nhân là dấu chỉ báo trước cho chúng ta biết, một mai chúng ta cũng sẽ lần lượt ra đi như các ngài để trở về thế giới bên kia, vì: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến” (thánh Augúttinô).
Tuy nhiên, thông điệp được sáng lên từ những nấm mồ tưởng chừng như bất động kia lại rất sống động khi nó chuyển tải cho chúng ta những chân lý như: cuộc đời này thật hữu hạn. Sẽ có ngày tôi cũng phải từ giã mọi người để ra đi về với Chúa và được chôn cất trong ba tấc đất nhỏ bé kia. Thân xác chúng ta sẽ trở về với cát bụi, và mọi cố gắng đến đây chấm dứt, chỉ còn biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng nhân ái của mọi người bằng đời sống hy sinh và cầu nguyện mà thôi.
Bên cạnh đó, từ nơi nấm mồ toát lên lời mời gọi chúng ta: hãy sống lành để được chết thánh; hãy yêu thương để được yêu thương; hãy tha thứ để được thứ tha; hãy sống như ngày mai sẽ chết, để ngay từ giây phút này sám hối ăn năn, đây chính là tinh thần tỉnh thức trong ân sủng.
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là sự sống đời đời, xin ban cho các linh hồn được an nghỉ trong tình thương của Chúa và xin cho chúng con sống tốt trong cuộc sóng hiện tại, để mai ngày được cùng tổ tiên chúng con ca tụng Chúa trên Nước Trời. Amen.
Suy niệm 30: Thân xác và linh hồn
(John W. Martens //Chuyển ngữ: Văn Hào SDB)
“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy đến? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy đến? Sau khi giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ về sự phục sinh mai sau và cho rằng sau khi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời cùng với tất cả những ai đã được quyền năng Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên, nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới điều đó cách rời rạc và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống sau khi chết, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai hậu, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, có dư dật của cải, cụ thể có nhiều hoa màu ruộng đất và đàn gia súc phong phú. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước nói rất ít về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan niệm về số phận muôn đời của những người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta cả xác lẫn hồn sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi có khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến ‘linh hồn những người công chính’ đã chết. Tác giả viết: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu cũng nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết: “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, là những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga. 6,39).
Khi còn sống trong thân xác nơi trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc Nước Trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005 cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: ‘Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa’. Sự chia lìa tạm thời này chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với linh hồn những người công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó mọi sự được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
Suy niệm 31: Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
TIN MỪNG: Lc 23,33-34.39-43
Câu hỏi gợi ý:
Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một “nơi” hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là “nơi” chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là “nơi” thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về “nơi” lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là “luyện ngục”.
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: ‘‘Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo’’ (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.
01/11 Phúc thay!!!!.
- Viết bởi Mt 5, 1-12a
Phúc thay!!!!.
Thứ Hai tuần 31 thường niên – CÁC THÁNH NAM NỮ. Lễ trọng. Lễ Họ. Cầu cho giáo dân.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
* Đại lễ kính toàn thể các thánh nam nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng ha sa số những người đã được Chúa Kitô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
* Từ trưa ngày Lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày Cầu cho các tín hữu đã qua đời, ai viếng nhà thờ, nhà nguyện, đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính, thì được hưởng một ơn đại xá, với những điều kiện theo thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng), nhưng phải nhường lại cho các linh hồn. Mỗi ngày được hưởng một lần mà thôi. Ai bị ngăn trở, có thể viếng nhà thờ, nhà nguyện, lãnh ơn đại xá vào Chúa nhật trước hay Chúa nhật sau.
Lời Chúa: Mt 5, 1-12a
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài Suy niệm * LỄ CÁC THÁNH
Lời Chúa: Kh 7,2-4. 9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12
1. Nước Trời là của họ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình...
Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh.
Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.”
Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện.
Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình
để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo, với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Chân phước Charles de Foucauld)
2. Nẻo đường đi đến cõi phúc muôn đời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những ai sống đời chứng nhân cho Nước Trời theo tinh thần của Chúa Giêsu, sẽ được hạnh phúc thực.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã trình bày cho con nẻo đường đi đến cõi phúc muôn đời. Chúa đã đi trước để con bước theo Chúa. Chúa đã sống khó nghèo, khiêm nhu, hiền hòa, nhân hậu… Chúa đã hiến trọn cuộc đời cho Nước Trời. Cuộc đời của Chúa vẫn sáng ngời thuần khiết trước mặt con.
Bước chân Chúa đi đã có biết bao người theo. Lời kêu gọi của Chúa đã được bao người đáp lại. Cuộc sống của những người theo Chúa bị người đời cho là càn dở, là ngu dại, nhưng đó lại là con đường sống đời đời và dẫn đến hạnh phúc chân thực.
Con tin vào Lời Chúa, con muốn sống theo tiếng Chúa gọi mời. Xin cho con biết chọn lựa, chọn lựa dứt khoát cho suốt cả đời con. Xin cho con biết chấp nhận những thua thiệt trước mắt người đời để sống cho Chúa và vì Chúa. Xin cho con can đảm bước theo Chúa trên con đường gồ ghề chông gai của ơn cứu độ với thập giá trên vai, với những khuyết điểm và giới hạn trong cuộc sống.
Xin cho con biết nhận ra khuôn mặt cứu độ của Chúa trong cuộc sống con, biết lắng nghe tiếng gọi yêu thương của Chúa và can đảm bước theo tiếng Chúa.
Khi con hiện diện giữa đời và bước đi trên con đường của Chúa, lúc đó con đã là chứng nhân cho Chúa, con đã làm cho Chúa hiện diện trong con, và làm cho Nước Trời hiện diện trên thế giới này. Con ao ước trở nên một điểm hiện diện nhỏ bé của Nước Chúa. Xin Chúa chúc lành cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
3. Lễ các thánh nam nữ
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Hôm nay Mẹ Hội thánh hân hoan mừng các người con của mình đã chiến thắng vẻ vang trong cuộc chiến ở trần gian nay đã được vinh hiển trên thiên đàng. Hội thánh mừng chung tất cả các người con của mình trong một ngày, vì trong lịch Phụng vụ, chúng ta mới mừng một số thánh được tôn phong trên bàn thờ, trong khi đó còn biết bao vị thánh âm thần khác không được nhắc tới mà sách Khải huyền mô tả: “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc và ngôn ngữ” (Kh 7,9).
I. CÁC THÁNH TRÊN THIÊN ĐÀNG?
Đọc Thánh kinh chúng ta thấy Thiên Chúa đã cao giọng hứa cùng ông Abraham và ông Mai sen rằng: “Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông đúc như sao trên trời” (St 22,17; Xh 27,13). Lời hứa ấy cũng trùng hợp với thị kiến của thánh Gioan tông đồ: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm ngành lá thiên tuế” (Kh 7.9)
Họ là những người đã được nghĩa cùng Chúa, gồm đủ mọi dân nước trên thế giới, đủ mọi hạng người già trẻ lớn bé, màu da, sang hèn, trong đó có cả những người thân yêu trong gia đình, trong họ hàng chúng ta.
Họ đã làm gì?
Họ không phải là những con người hoàn hảo, toàn thiện, không vướng mắc lầm lỗi, thiếu sót hay tật xấu nào. Họ không phải là những siêu nhân, họ chỉ là những con người bình thường như mọi người, nhưng nhờ ơn Chúa trợ lực, họ cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Đức Kitô, mỗi người theo những điều kiện riêng của mình.
Họ đã trải qua những cuộc chiến đấu nội tâm trường kỳ, những bước tiến đầy cam go thử thách. Có những thành công rực rỡ, mà cũng có những thất bại ê chề. Họ cố gắng sống tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Cuối cùng họ đã đạt tới đích là nhờ đã cố gắng liên lỉ và đã biết hợp tác với ơn Chúa một cách kiên cường. Họ đã trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng và họ đã được hưởng nhan thánh Chúa trên thiên đàng.
II. CHÚNG TA CÓ THỂ NÊN THÁNH KHÔNG?
Nhiệm vụ phải nên thánh
Chúa kêu gọi mọi người nên thánh. Ngay từ đạo cũ, quen gọi là đạo ông Maisen, Thiên Chúa đã truyền cho họ phải nên thánh: “Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh” (Lv 20,26). Thế rồi trong đạo mới, Chúa Giêsu cũng căn dặn chúng ta: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”(Mt 5,48). Còn thánh Phaolô tóm tắt tất cả trong câu: “Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho anh em nên thánh” (Ep 1,4). Ngài con khuyên bảo thêm: “Anh em phải sống xứng đáng là các vị thánh” (Ep 5,3)
Nên thánh là điều có thể
Chúa đã kêu gọi chúng ta phải nên thánh, việc mời gọi đó chứng tỏ nên thánh là điều có thể. Trong phạm vi triết học, chúng ta có nguyên tắc bất hủ này: “Nemo ad impossibile tenetur”: không ai bị buộc làm điều không có thể làm.
Theo nguyên tắc này, nếu ta không nên thánh được, thời hoặc là Chúa không buộc, điều đó không đúng; hoặc là Chúa buộc vào cổ ta một ách không thể vác được, điều đó trái với lòng lân mẫn và nhân hậu của Chúa, Đấng đã phán: “Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Điều đó còn trái với luân lý và phá huỷ trách nhiệm, vì ta chỉ có trách nhiệm khi nào điều ta có thể làm mà lại không làm.
Nói tới việc nên thánh, nhiều người có thái độ hoài nghi hoặc an phận, họ cho rằng: nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ, có nhiều điều kiện để nên thánh, còn giáo dân chúng tôi phải lo trăm công ngàn việc không có thời giờ để lo việc nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ phát xuất từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa lánh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp gì tới cuộc đời. Không phải thế, kinh Tiền tụng Thánh lễ hôm nay đã trả lời cho họ: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ân huệ của Chúa.
Vì thế, “nên thánh” là điều có thể đối với hết mọi người, không trừ ai. Chính vì vậy thánh Augustinô dám nói: “Sao ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi thì lại không”.
III. NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO?
Phải biết ước muốn mãnh liệt
Nên thánh là việc rất dễ nhưng cũng rất khó, vì nó đòi hỏi chúng ta phải cố gắng liên tục, giống như con thuyền lội ngược dòng nước, ngơi tay chèo thì con thuyền sẽ lui. Nên thánh là một cuộc chiến đấu trường kỳ, một ước muốn mãnh liệt, một ý chí cao. Tây phương có câu ngạn ngữ: “Vouloir c’est pouvoir”: muốn là được, thì trong việc nên thánh, với ơn Chúa giúp nếu chúng ta muốn là chúng ta có thể nên thánh.
Chúng ta phải ước muốn mãnh liệt chứ không phải chỉ là mơ ước. Muốn nghĩa là phải tiến tới hành động, phải thành công mới thôi. Thánh Phanxicô Salê nghe tin phong thánh cho Phanxicô Xaviê, liền nói: “Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn”. Quả vậy, bây giờ trong danh sách các hiển thánh, ngài là thánh Phanxicô thứ bốn.
Phải thắng được chính mình
Muốn nên thánh thì phải thắng chính con người mình, phải làm chủ được nó, bắt nó phải theo một kỷ luật và hướng nó vào một mục đích cao đẹp. Nhưng muốn thắng được mình thì trước tiên phải biết mình, biết sở trường sở đoản của mình để tiến tới sự thánh thiện.
Như vậy, muốn nên thánh là phải làm chủ được mình. Muốn làm chủ được mình là phải thắng bản thân mình với tất cả những khuyết điểm, những thiếu sót của nó. Thắng được mình là một chuyện rất khó. Chính hoàng đế Napoléon đã có kinh nghiệm này khi ông nói: “Thắng được cả Âu châu còn dễ hơn thắng được chính bản thân mình”. Nên thánh thì phải biết những nết xấu để sửa, biết những cái hay, cái tốt để tập luyện hay dinh dưỡng.
Thánh Phaolô thúc giục tín hữu Êphêsô nên thánh bằng cách làm một cuộc cách mạng bản thân. Ngài nói: “Anh em hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22-24).
Theo ý thánh Phaolô, chúng ta cần gột bỏ con người cũ tội lỗi mang đầy những tính hư nết xấu đang chi phối con người ta, làm cản bước tiến của ta, bắt ta làm nô lệ chúng, để chúng ta có thể tiến tới con người mới thánh thiện hơn.
Truyện: Thầy dòng dạy mãnh thú
Một buổi chiều, Bề trên nhà dòng kia hỏi một tu sĩ:
- Hôm nay con đã làm gì?
Cũng như các ngày khác, tu sĩ trả lời:
- Thưa cha, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm hãm hai con diều hâu để rèn ý chí, thắng một con sấu, trị được con gấu và săn sóc cho một bệnh nhân.
Bề trên cười hỏi lại:
- Con nói gì thế? Những việc như thế làm gì có trong nhà Dòng?
- Thưa cha, thật đúng như thế! Hai con chim ưng tức là hai mắt của con, mà con phải giữ gìn luôn để khỏi nhìn những vật cấm. Hai con nai tức là hai chân mà con phải trông coi từng bước đi, để nó khỏi đi vào con đường xấu. Hai con diều hâu tức là hai bàn tay, con phải luôn luôn bắt nó làm điều phải. Con sấu tức là cái lưỡi, con phải kìm hãm hằng ngày, để khỏi nói những lời vô ích và thô bỉ. Con gấu tức là trái tim con, con phải trừng trị, để khỏi phải ích kỷ và khoe khoang. Còn bệnh nhân chính là thân thể con, con phải canh phòng ráo riết, để cho nhục dục khỏi phải xâm nhập vào (Gm. T. Toth, Chí khí người thanh niên, 1957, tr 53).
Nên thánh bằng cách nào?
Nên thánh là một điều cần thiết và có thể, nhưng cách nên thánh thì không ai giống ai, mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người có một đường lối riêng. Nhưng dù sao, đường lối nên thánh của ta là đường lối thông thường của nhiều người, không cầu kỳ khó khăn.
Tránh kiểu nên thánh đặc biệt
Thời trước đây có một số người nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt, mà có lẽ chúng ta không học đòi được vì nó vượt quá sức ta. Ví dụ:
- Có người tự giam mình trong một nơi kín hằng mấy chục năm, chỉ sống nhờ vào lòng hảo tâm của dân chúng cung cấp cho ăn qua một lỗ hổng.
- Có người ẩn tu trong một ngôi mả hoang đào trên sườn núi, cạnh con sông hoặc mạch suối.
- Có một kiểu tu đặc độc đáo: Simong Cột leo lên cột đá cao dựng trên đỉnh chót vót, để chiêm nghiệm huyền nhiệm thần linh và giảng dạy cho dân chúng suốt 37 năm trường. Vì thế người ta mới gọi là thánh Simong Cột.
- Ngoài ra, có một số người sống một đời khắc khổ như mang trên mình xiềng xích nặng làm cho khó đi đứng, mặc áo nhặm thường xuyên, hoặc đứng yên một chỗ không xê dịch, hoặc chỉ ăn hoa quả, không hề động đến thịt, cá, trứng; hoặc đặc biệt hơn chuyên ăn thịt ươn, cá thối.
Nên thánh theo cách thông thường
* Theo thuyết Chính danh
Trong chương trình giáo dục thời xưa, chúng ta thấy Đức Khổng Tử có thuyết “Chính danh” và thuyết này có thể áp dụng vào đường lối nên thánh của chúng ta. Thuyết ấy là: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải xứng với bầy tôi, cha phải sống cho ra cha và con phải sống xứng phận làm con. Nếu ai cũng làm tròn trách nhiệm của mình trước mặt Chúa một cách trọn hảo thì có thể là thánh rồi.
Ngoài ra, thuyết chính danh cũng cần kèm theo với chương trình giáo dục theo từng bậc: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nhưng căn bản nhất vẫn là tu thân. Tu thân là sửa mình cho nên tốt, mà tu thân cần nhất phải được thực hiện ngay trong nhà mình, chứ không cần phải ở trong nhà Dòng, vào tu viện để tu thân:
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Phải chăng tu tại gia, làm thánh ở trong nhà, trong gia đình thì khó lắm? Tại sao? Vì có những người đi ra khỏi nhà, ai cũng phải cảm phục về cách sống, về lối cư xử, về lời ăn tiếng nói của những người ấy. Thế nhưng khi về đến nhà thì những người trong nhà không sao chịu nổi lối sống của những người đó. Bởi ở trong gia đình mọi chân tướng đều được để lộ ra hết.
Nên thánh ở trong gia đình là một điều khó, nhưng đó là điều có thể và lại còn bắt buộc. Chúng ta có thể và còn phải trở thành một vị thánh, và trước hết là thánh nhân trong gia đình, không cần phải đi đâu.
Người giáo dân có thể nên thánh trong gia đình, nếu vợ chồng biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau, chu toàn mọi nhiệm vụ của mình, cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho gia đình và con cái, biết dưỡng dục con cái cho nên tốt… Chúng ta đã có gương sáng của một vài gia đình, trong đó cả vợ chồng được Giáo hội phong thánh.
Truyện: Vợ chồng được phong thánh
Chúa nhật, ngày 28/10/2001, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho đôi vợ chồng đầu tiên là Luigi Maria Beltrane Quattrochi thành Rôma kết hôn được 50 năm và có 4 người con, một người con qua đời và 3 người còn sống. Hai con trai là linh mục Philipphê và Césare đồng tế với Đức Giáo hoàng trong lễ phong chân phước cho cha mẹ họ, và còn một người con gái là Eurichetla. Đức Giáo hoàng đã ca tụng họ sống một đời thường rất phi thường. Ngài muốn nói rằng: sống trong đời đôi bạn gặp biết bao đau khổ, bao gian nan thử thách, họ cũng có thể làm thánh và giúp nhau làm thánh nữa.
Vào ngày 19/10/2008, Giáo hội phong chân phước cho cha mẹ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và phong thánh 18/10/2015 do ĐGH Phanxicô. Đó là ông Louis Martin và bà Zélie Guérin người Pháp. Cả hai đã từng có ý định đi tu, nhưng nhận thấy không có ơn gọi tu trì nên trở về và do sự quan phòng của Thiên Chúa họ đã kết hôn với nhau. Ông bà sống với nhau thật hạnh phúc và có 9 người con. Chết mất 4 và còn 5 người con gái đều dâng mình cho Chúa và cô con gái út đã làm thánh lớn, đó là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Phong thánh cho cả hai ông bà, Giáo hội muốn đề cao ơn gọi nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình. Dù gặp nhiều đau khổ và thử thách, nhất là giáo dục con cái, nhưng họ vẫn có thể làm thánh, nếu họ trông cậy vào ơn Chúa và chu toàn bổn phận hôn nhân vì mến Chúa.
* Đường thơ ấu thiêng liêng
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh, có lẽ vì thánh nữ đã khám phá ra một con đường nên thánh phù hợp với mọi người, nhất là trong thời đại chúng ta, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
Theo con đường này, nên thánh không cần phải làm những việc đại sự, phi thường hay kỳ diệu mà chỉ cần làm những việc nhỏ với một lòng mến lớn lao “Communia non communiter” (bình thường mà không tầm thường).
Con đường thơ ấu thiêng liêng này không cần những việc hãm mình khác thường, không đặc sủng siêu nhiên, không có phương pháp cầu nguyện riêng, không bận rộn nhiều công việc… nhưng có những điểm tích cực là làm việc với lòng mến cao độ, tín thác hoàn toàn trong tay Chúa, sống đơn sơ khiêm nhường như trẻ thơ và trung thành với các việc nhỏ mọn.
Nhờ con đường thơ ấu thiêng liêng này mà Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trở nên vĩ đại và trở nên phi thường trong những cái bình thường.
Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta mẫu gương sáng ngời của các thánh để khích lệ chúng ta trong việc nên thánh. Chúng ta quyết tâm phải nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện toả rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
4. Noi gương các thánh
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay là ngày đầu tiên của tháng 11. Có lẽ trong suốt cả năm Phụng vụ không có thời điểm nào mà mầu nhiệm hiệp thông được Giáo Hội đề cao một cách sống động khác thường như là thời gian đầu tháng 11 này. Hôm nay Giáo hội cho chúng ta hướng nhìn về các thánh - tức là nhìn vào Giáo Hội chiến thắng. Ngày mai Giáo Hội hướng chúng ta về các đẳng linh hồn - hay là Giáo Hội đang đau khổ. Nhìn vào như thế để cho chúng ta đang sống trong Giáo hội tại thế mà tức là đang sống trong Giáo Hội chiến đấu biết tìm ra cho mình một hướng đi, đi thế nào để cho mai sau chúng ta cũng đạt được vinh quang như các thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay.
A. Các thánh là những người đã sống cuộc sống như thế nào?
Nhìn vào cuộc sống của các ngài, những con người - nói theo kiểu của Chúa Giêsu - đã “cướp được Nước trời” chúng ta thấy có các Ngài là những người có những nét đặc trưng sau đây:
1. Trước hết: Các Ngài là những người đã biết đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lời mời gọi này được nói lên một cách đơn sơ qua tiếng nói của lương tâm ngay lành - được biểu lộ một cách cụ thể qua 10 giới luật của Chúa trong Cựu Ước và nhất là được thúc bách cách triệt để hơn qua con đường Tám mối Phúc thật của Tin Mừng.
Một thí dụ trong muôn ngàn thí dụ.
Vào khoảng năm 271 một thanh niên giàu có tới nhà thờ vào một buổi sáng Chúa nhật. Hôm đó vị Bài Tin Mừng được trích trong Mathêô 19,16-22: “Xảy ra là có một người thanh niên đến thưa với Chúa rằng: Lạy Thầy, tôi phải làm gì tốt để được sống đời đời?- Chúa đáp: “Nếu ngươi muốn vào cõi hằng sống, hãy giữ các giới răn” Người đó thưa: “Những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ, tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?” Chúa nói tiếp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”
Đó là một trong những lời mời gọi của Chúa. Người thanh niên đó bắt đầu suy nghĩ nhưng anh chưa thấy được con đường mà Chúa muốn cho anh đi là con đường nào.
Chúa nhật sau cũng trong khung cảnh của ngôi thánh đường quen thuộc đó, Lời Chúa lại vang lên: “Các người đừng lo cho ngày mai. Việc ngày mai để cho ngày mai lo. Khó khăn ngày nào có đủ cho ngày đó”(Mt 6,34)
Thế là con đường đã rõ, anh về bán tất cả tài sản do bố mẹ để lại, chia phần của cô em nhờ ông bác quản lý để lo cho em, còn của anh, anh bán tất cả và làm như lời Chúa dạy rồi anh vào trong rừng vắng sống cuộc đời tu trì ở trong đó. Đó là Thánh Antôn tu rừng, ông tổ của dòng tu chiêm niệm.
2. Đặc trưng thứ hai: Đó là những người đã cố gắng đem Lời Chúa áp dụng vào đời sống của mình.
- Đáp lại Lời Chúa mới chỉ là bước đầu. Việc quan trọng là phải sống Lời của Chúa một một cách đơn sơ, chân thành, không cầu kỳ, không gò bó.
Đức Cha Arthur Tone kể lại một câu chuyện rất cụ thể như sau.
Một gia đình ngài quen biết có hai vợ chồng và một đứa con. Một ngày kia không hiểu vì chuyện gì mà hai vợ chồng to tiếng với nhau. Hai người tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự phải lý của mình. Vì quá hung hăng trong việc lời qua tiếng lại mà hai vợ chồng không để ý đến cậu con trai tên là Bobbie con của hai người mới đi học về.
Bobbie thấy vậy liền nhảy lên bàn giơ hai tay lên và nói thật lớn: “Bình an - Hãy im lặng”
Cả hai vợ chồng nhìn con rồi phá lên cười. Sau đó người mẹ ôm con vào lòng vào âu yếm hỏi: “Con học được cái đó ở đâu thế?”
Cậu thưa: “Thưa con học ở trong sách Giáo lý - Chúng con đã học câu chuyện Chúa Giêsu dẹp yên bão tố - Chúa đã đưa tay ra và truyền cho sóng gió phải yên lặng”
Câu chuyện nhỏ nhưng nó cũng cho chúng ta thấy một trong những cách vận dụng đem lời Chúa vào cuộc sống hay như thế nào.
3. Cuối cùng đó là những người biết kiên trì, trung thành với sự chọn lựa của mình một cách đáng khâm phục.
Chúa đã từng khẳng định: Con đường của Chúa là con đường hẹp, nhiều khi hẹp đến kinh khủng. Nó đòi hỏi những ai đi trên con đường đó một sự cố gắng hầu như là liên lỉ và nhiều khi rất anh hùng. Chỉ có những ai kiên trì và can đảm mới có thể đi trên con đường đó.
Một Antôn tu rừng mà tôi vừa mới nói ở trên chẳng hạn. Đọc tiểu sử của Ngài chúng ta mới thấy. Bán hết mọi sự để theo tiếng Chúa gọi đó đã là khó. Nhưng sống theo Chúa còn khó hơn. Sau khi đã bán mọi sự, Antôn đi vào trong rừng vắng. Ma quỉ đã không để anh được yên. Chúng thi nhau tấn công anh, tấn công bằng mọi thủ đoạn kể cả những thủ đoạn tầm thường nhất. Chúng dùng đến cả những hình ảnh bẩn thỉu nhất để cám dỗ anh. Suốt cả cuộc đời là một cuộc chiến đấu. Nhờ kiên trì mà Antôn đã đã chiến thắng.
Một trong những bà thánh mà chúng ta hay nhắc tới như bà thánh Monica chẳng hạn. Chúng ta tưởng là bà đã nên thánh một cách dễ dàng sao? Không, hoàn toàn không! Không dễ dàng chút nào cả mà là đầy những cố gắng. Hơn 30 năm trời cầu nguyện hãm mình hy sinh mà mới thành công đem được người con của bà về với Chúa. Hơn 30 năm trời kiên trì trong âm thầm lặng lẽ mới đạt tới vinh quang. Đó không phải là một cái giá đã cao. Còn nhiều sự trả giá còn cao hơn nữa. Chỉ có những ai biết nhẫn nại kiên trì, những người ấy mới xứng đáng với vinh quang Nước Trời. Chúa Giêsu đã nói: “Nước trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy”(Mt 11,12).
B. Bây giờ về phần chúng ta. Đứng trước những tấm gương của các Ngài chúng ta phải có thái độ như thế nào?
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta mà lại không muốn làm thánh. Nên thánh là mục đích mà mọi người chúng ta nhắm tới. Thế nhưng con người của chúng ta thường yếu đuối. Nói như lời thánh Phaolô: “Điều tôi muốn tôi lại không làm, còn điều tôi không muốn tôi lại cứ làm”(Rm 7,19) Thân phận con người của chúng ta là thế. Chính vì vậy mà chúng ta phải xin với Chúa ơn can đảm.
* Một chàng thanh niên thuở xưa có tên là Salésio. Anh có tên thánh là Phanxicô. Một lần kia anh đọc lịch sử Giáo Hội, anh thấy trong Giáo Hội đã có 3 người mang tên Phanxicô đã làm thánh: Đó là thánh Phanxicô khó khăn, thánh Phanxicô đệ Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê, tự nhiên anh cảm thấy mình cũng phải làm gì để được nên thánh. Thế là anh đi tới một quyết định: Tôi sẽ là Phanxicô thứ 4. Anh đã giữ được quyết định đó và anh đã làm thánh. Đó là thánh Phanxicô Salésio.
* Gần đây chúng ta hay nhắc đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Tôi chắc chắn Mẹ đã biết trong lịch sử của Giáo Hội đã có hai vị thánh mang tên Têrêsa: Đó là thánh Têrêsa Avila, Têrêsa Hài đồng Giêsu. Tuy không nói ra nhưng tôi tin Mẹ cũng đã nguyện ước Mẹ cũng là một thánh Têrêsa khác. Và hôm nay, mẹ đã thành công. Giáo Hội đã tôn phong mẹ lên hàng chân phước. Chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ lên đến đỉnh vinh quang!
Xin Chúa giúp cho chúng ta biết can đảm. Trên con đường nên thánh, Thánh Augustinô đã gặp rất nhiều thử thách. Ngài đã dùng câu nói này như câu châm ngôn để vươn lên: “Ông kia bà nọ làm được tại sao tôi lại không?” Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn chúng ta cần. Người nọ kia nên thánh được tại sao tôi lại không? Hãy cố gắng. Chúa sẽ phù trợ cho chúng ta. Amen.
5. Phúc thay ai ,,,
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Trong Tông huấn về ơn gọi nên thánh Gaudete et Exsultate
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về các Mối Phúc (số 63-94).
Ngài viết: “Từ ‘hạnh phúc’ hay ‘được chúc phúc’
trở thành từ đồng nghĩa với “thánh thiện” (số 64).
Người được chúc phúc là người thánh thiện trước mặt Chúa.
Vào lễ Các Thánh, ta luôn được nghe đọc về các Mối Phúc.
Các Mối Phúc là những con đường nên thánh.
Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa,
đã sống tận căn từng Mối Phúc này trong đời Ngài.
Con Thiên Chúa đã thực sự sống đời nghèo khó.
Khi xuống thế làm người, Ngài được quấn tã như bao trẻ thơ,
lao động như một người thợ, và đi rao giảng không chỗ tựa đầu.
Ngài hoàn toàn tay trắng khi bị treo trên thập giá.
Đức Giêsu đã sống tinh thần nghèo khó suốt đời,
khi phó thác đời mình cho Cha, và chỉ nương tựa vào Cha.
Cuộc đời Ngài có những thử thách khiến Ngài phải sầu khổ.
Nỗi đau lớn của Ngài là sự khép lòng của dân trước ơn cứu độ.
Đức Giêsu đã mời người ta sống hiền lành như Ngài (Mt 11,29)
Ngài hiền lành ngồi trên lưng lừa đi vào chỗ chết (Mt 21,5),
và lặng lẽ khi bị tố cáo trước tòa án đạo đời (Mt 27,12).
Đức Giêsu đói khát sự công chính của Thiên Chúa,
khi luôn khát mong làm theo ý Cha, vâng phục cho đến chết.
Ngài là Con yêu dấu, khiến Cha hài lòng (Mt 3,17;17,5).
Đức Giêsu là hiện thân của lòng Chúa Cha thương xót nhân loại.
Tinh thương của Ngài vượt trên mọi bức tường cách ngăn,
để đến với những người bị xã hội ruồng rẫy, và tôn giáo xa lánh.
Tình thương ấy xin tha cho cả kẻ đóng đinh Ngài (Lc 23,34).
Đức Giêsu có trái tim trong sạch, trái tim không quy về mình,
nhưng mở ra để dành trọn cho Cha và cho con người.
Ngài đem lại bình an và hòa giải giữa con người với Thiên Chúa,
giữa các tín hữu với nhau, và giữa Hội Thánh với thế giới.
Nhờ Máu Ngài đã đổ ra trên thập tự, đất trời giao hòa (Cl 1,20).
Đức Giêsu đã sống triệt để mối phúc thứ tám và thứ chín.
Bị bách hại và vu khống, Ngài đã trở thành vị tử đạo tuyệt vời.
Đức Giêsu mời chúng ta sống các Mối Phúc như Ngài đã sống.
Nhưng không phải chỉ có tám hay chín Mối Phúc trong Tin Mừng.
Các mối phúc nằm giữa bao cảnh ngộ mỗi ngày của cuộc sống.
Mẹ Maria được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (Lc 1,42)
và còn có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói (Lc 1,45).
“Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,27).
“Nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em!” (Ga 13,17).
“Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách…”(Gc 1,12).
“Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).
“Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Mỗi người chúng ta đều có cảm nghiệm sâu về hạnh phúc
khi quên mình, bỏ mình, để người khác được hạnh phúc,
khi không coi mình là trung tâm, khi vượt qua cái tôi tính toán.
Nhờ đó chúng ta tiến dần đến sự thánh thiện Chúa mời gọi.
Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,16),
nên con người mang nơi mình khả năng nên thánh.
Thiên Chúa ba lần thánh, mời chúng ta: “Hãy nên thánh,
vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các người, Ta là thánh” (Lv 19,2).
Đức Giêsu là mẫu mực tuyệt vời của Thiên Chúa siêu việt.
Nhờ nên một với Con mà ta nên thánh giống Cha trên trời.
Khi mừng lễ các Thánh nam nữ trên trời,
chúng ta nhớ mình được kêu gọi nên thánh (Rm 1,7; 1 Cr 1,2),
được kêu gọi sống các mối phúc của Bài Giảng trên Núi.
Như thế là được nếm hạnh phúc của trời cao ngay từ đời này.
Với cuộc đời rất riêng của mình,
mỗi người còn phải tìm ra và sống những mối phúc rất riêng,
từ đó đi vào con đường rất riêng để nên thánh.
CẦU NGUYỆN
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
Đến với Người trong mọi sự,
Và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
Nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
Và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
R. Tagore
6. Niềm hy vọng hạnh phúc
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
7. Nên hình bóng Ngài
(TGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
(Bài giảng Lễ các Thánh nam nữ trên trời – năm 2014)
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.
Chúng ta hãy Suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
8. Các thánh chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa
(TGM Giuse Vũ Văn Thiên)
Một câu chuyện vui kể lại rằng, trong một lớp giáo lý, khi nữ tu hỏi một em nhỏ: con hãy nói cho sơ biết các thánh là ai? Em bé suy nghĩ một chút rồi trả lời: các thánh là những người được ánh sáng chiếu xuyên qua. Sự hiểu biết ngây thơ này đến từ việc có lần theo mẹ vào nhà thờ dự lễ, khi nhìn thấy những tấm hình người trên những cửa kính nhà thờ. Em đã hỏi mẹ đó là hình của ai, và mẹ em trả lời: đó là các thánh. Trong suy nghĩ đơn sơ của em, nhờ ánh sáng mặt trời chiếu qua mà làm hiện rõ nét những con người trên tranh kính. Đó là các thánh. Câu trả lời ấy cũng giúp chúng ta khám phá ra một trong những định nghĩa đơn sơ mà chân thực về các thánh: các ngài là những người để cho sự thánh thiện của Thiên Chúa chiếu toả. Nói cách khác các ngài đã đón nhận hào quang của Thiên Chúa rồi làm cho hào quang ấy lan toả mọi môi trường xung quanh, để rồi người khác nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi các ngài.
Ngôn sứ Isaia đã được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Ngài ngự trong vinh quang. Các thiên thần và kỳ lão không ngừng tung hô: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh. Lời tung hô được lặp lại ba lần có nghĩa Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Thị kiến mà ngôn sứ Isaia được nhìn thấy chính là phụng vụ thiên quốc, là vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa và cũng là khung cảnh thiên đàng. Nơi đây, niềm vui bất tận và hạnh phúc khôn cùng.
Khi sáng tạo, Thiên Chúa san sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Ngài cho mọi tạo vật. Sự thánh thiện ấy lan toả trong thiên nhiên, thể hiện nơi khuôn mặt và cuộc đời của những người sống tốt lành trong tư tưởng, lời nói cũng như hành động. "Hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh!". Đó là lời mời gọi trong Cựu ước. "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện". Đức Giêsu đã tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, mời gọi con người hãy nên hoàn thiện. Làm sao hoàn thiện như Cha trên trời, vì Chúa Cha là Đấng vô hình, không ai có thể hiểu thấu? Đừng lo, nếu Chúa Cha là Đấng chí thánh và vô hình, thì Ngài đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để ở cùng chúng ta và làm gương mẫu cho chúng ta noi theo. Nhờ Chúa Giêsu, con người ở bất kỳ bậc sống nào cũng có thể nên thánh. Nên thánh là nên giống Chúa Giêsu. Các tác giả Tin Mừng kể lại cuộc sống của Chúa rất đơn sơ gần gũi mọi người. Mọi hành động, lời nói đều nhằm đem cho con người tình thương của Chúa Cha. Đức Giêsu cũng nỗ lực cố gắng để xây tình huynh đệ giữa con người với nhau, không phân biệt sang hèn, tuổi tác địa vị. Trong cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta làm những việc Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ nên giống Người và đang từng bước đạt tới sự trọn lành.
Giáo Hội là Dân Chúa đang lữ hành. Dân này không phải chỉ bao gồm một quốc gia, một dân tộc, nhưng là tất cả những ai đã được bí tích Rửa tội thanh tẩy. Tuy vậy, nói đến một dân tộc, tức là cũng nói đến một lịch sử hào hùng của dân tộc ấy. Dân Chúa, tức là Giáo Hội, suốt bề dày lịch sử đã sản sinh ra biết bao phần tử ưu tú. Họ là những người viết lên trang sử uy hùng của Giáo Hội, kể cả những lúc đen tối của lịch sử. Khởi đi từ Đức Maria, thánh cả Giuse, các thánh tông đồ và tất cả các thánh được Giáo Hội chính thức mừng kính hằng năm, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của một cộng đoàn đông đảo các thánh. Họ là những người cha, người mẹ. Họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ. Họ là những vua quan trong triều đình hoặc quân nhân ngoài chiến trận. Họ là những người giàu và những người nghèo khó. Họ là những người nam người nữ, người già người trẻ. Những người này là niềm tự hào của Giáo Hội. Họ cũng là hy vọng của các tín hữu, vì họ khẳng định với những ai tin Chúa rằng, Đức tin sẽ chiến thắng ba thù, lòng mến sẽ làm nên tất cả. Họ là những Đấng Thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Cũng giống như ngôn sứ Isaia, thánh Gioan, trong Sách Khải huyền (Bài đọc I) đã được nhìn thấy nghi thức phụng vụ thiên quốc: xung quanh ngai tòa của Chiên Con tức là Đức Giêsu, để cùng với Đức Giêsu dâng lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Tôn vinh Thiên Chúa, đó là hạnh phúc viên mãn tròn đầy của các thánh.
Hôm nay chúng ta cũng mừng kính đông đảo các tín hữu đã khải hoàn vinh thăng. Có thể họ là những người chúng ta đã quen biết và gặp gỡ và hôm nay họ đang chiêmn ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Bởi lẽ, tất cả những ai sống ngay chính và thánh thiện thì xứng đáng hưởng vinh quang nước trời. Đức tin vào phần thưởng và hạnh phúc của những người công chính sẽ đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Bởi lẽ, nếu ông bà, anh chị em thân thuộc của chúng ta đã được vinh quang Nước Trời, thì chúng ta cũng có thể hưởng vinh quang ấy và được gặp gỡ những người thân của chúng ta.
"Anh em hãy nên trọn lành, như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48). Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đã trở nên lý tưởng phấn đấu cho biết bao tín hữu. Họ đã chiến thắng gian khổ, vượt lên những khó khăn để sống một cuộc đời thanh tao giữa vũng lầy tội lỗi. Phụng vụ cho chúng ta nghe bài giảng trên núi của Chúa Giêsu, mà nội dung là tám mối chúc phúc của Người. Con đường nên thánh rất đa dạng và phong phú. Mỗi "mối phúc" là mỗi phương pháp ta có thể chọn để nên giống Chúa Giêsu. Những mối phúc này xem ra không hợp với những quan niệm của cuộc sống thông thường. Tuy nhiên, nếu chúng ta thực thi với cái nhìn đức tin thì chúng ta sẽ tìm thấy hiệu quả đích thực trong cuộc sống. Nội dung của các mối phúc hướng chúng ta đến với Thiên Chúa và tha nhân, chứ không phải chỉ sống ích kỷ cho riêng mình. Nhờ sống vì Chúa, sống cho người khác mà chúng ta cảm nhận hạnh phúc thiêng liếng và đích thực, vì "Hạnh phúc lớn lao nhất mà ta cảm nhận là khi ta đem niềm vui cho tha nhân" (ngạn ngữ phương Tây).
Con đường nên thánh là con đường chung của mỗi chúng ta. Tuy vậy, cũng như mỗi vận động viên phải luôn luôn luyện tập gian khổ để hy vọng thành tài, người tín hữu muốn nên thánh cũng phải chấp nhận rèn luyện bản thân và sống theo lời dạy của Chúa. Các thánh là những người "đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Bài đọc I). "Lửa thử vàng, gian nan thử đức". Những khó khăn ta gặp phải trên đường đời chính là cơ hội để tôi luyện lòng trung thành trong đức tin.
Các Thánh không phải những nhân vật xa xưa như trong chuyện cổ tích. Cuộc đời của các Ngài gắn liền với ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Mỗi chúng ta đang được mời gọi cố gắng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu như các Ngài. Nên thánh là một điều có thể làm được, trong tầm tay của mỗi người. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã quả quyết với chúng ta: "Việc nên thánh là khả thi cho hết mọi người, mọi lứa tuổi và mọi lúc, vì mỗi người trong chúng ta đã lãnh nhận phần ân huệ thần linh của mình. Thiên Chúa yêu cầu chúng đón nhận ân huệ này và sống những đòi hỏi của nó. Chúng ta hãy để cho hoạt động của Thánh Thần của Ngài biến đổi chúng ta, để tuân theo thánh ý của Ngài. Theo chân các thánh nhân, chúng ta cũng hãy trở nên một phần của một bức tranh ghép thánh thiện vĩ đại mà Thiên Chúa tạo nên trong lịch sử". (Trích bài giáo lý trong cuộc tiếp kiến chung ngày 13-4-2011).
Trở lại với câu chuyện trên đây, chúng ta có thể kết luận: nên thánh đơn giản chỉ là để cho hào quang của Chúa chiếu soi. "Hào quang" ở đây chính là Lời Chúa, là lòng từ tâm bao dung bác ái. Khi chúng ta thực hiện những điều này, như Chúa nói trong sách ngôn sứ Isaia: "Ánh sáng" ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ được chữa lành, đức công chính của ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhậm lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: có Ta đây (x. Is 58,8,9). Những lời diễn tả hạnh phúc và niềm vui của người công chính mà chúng ta vừa nghe, chính là sự thánh thiện mà chúng ta đạt được qua lòng bác ái bao dung và tình huynh đệ đối với tha nhân.
Ngày lễ Các Thánh trước hết giúp chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa, đồng thời tôn vinh các tín hữu đã được Thiên Chúa ban thưởng vinh quang quê trời, trong đó có những người thân của chúng ta. Ngày lễ này cũng khích lệ chúng ta về ơn gọi nên thánh của người Kitô hữu, đồng thời nhận ra xung quanh chúng ta có nhiều người tốt lành. Họ sẵn sàng chấp nhận cuộc sống bình dị, đơn sơ, nhưng thấm đượm nghĩa tình. Đức Thánh Cha Phanxicô gọi họ là các “vị thánh ở kề bên ta”. Qua những con người đơn sơ này, Thiên Chúa, Đấng chí thánh, đang hiện diện giữa chúng ta. Khi tôn thờ và yêu mến Chúa, chúng ta được chia sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Ngài.
Vâng, mỗi ngày sống trên đời, tôi đang cố gắng để làm cho ánh hào quang của Chúa chiếu toả và bao bọc trọn vẹn cuộc đời của tôi. Như thế, tôi sẽ được nên giống Chúa ngay khi còn sống ở đời này. Thiên đàng sẽ khởi đầu ở dưới thế và vương quốc tình yêu mà Chúa Giêsu loan báo sẽ được thực hiện.
9. Các thánh là những ai? (Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a)
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Trong màu nhiệm các thánh cùng thông công, hôm nay Giáo hội lữ hành trần thế hướng về Giáo hội khải hoàn thiên quốc là cùng đích và là quê hương vĩnh cửu của mỗi người ki-tô hữu, để mừng kính tất cả các vị thánh, những người đã biết chắc mình được cứu độ, được hưởng sự sống đời đời và hạnh phúc viên mãn bên Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Các thánh mà hôm nay Giáo hội lữ hành mừng kính, các ngài là những ai? Các ngài là những người nam người nữ, ‘con cái Thiên Chúa’ (x.1Ga 3.1) và là môn đệ Đức Ki-tô công khai cũng như ‘thầm kín’, ‘sống rải rác khắp nơi trên địa cầu, ở mọi nơi mọi thời, thuộc đủ mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngôn ngữ’ (Kh 7,9).
Các ngài từ đâu mà đến? Các ngài đến từ trần thế này, ‘sau khi trải qua những cơn thử thách lớn lao, đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên’ (Kh 7,14).
Các thánh thật đông đảo! ‘đông không tài nào đếm nổi’! Ngoài những vị thánh đã được ghi tên trong sổ bộ và được mừng kính theo niên lịch phụng vụ của Hội thánh, các ngài còn là những vị thánh ‘vô danh’, nhưng đã từng:
Là những người sống ‘tinh thần trẻ thơ’ trước Thiên Chúa là Cha (x. Mc 10,15).
Là những người luôn sống theo ‘khuôn vàng thước ngọc’ của Đức Giê-su khi đối nhân xử thế: ‘Điều gì ngươi thích kẻ khác làm cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy’ (Mt 7,12).
Là những người dành cả đời phấn đấu, để mang lại hòa bình và công lý cho nhân loại theo đường lối bất bạo động, nói không với bạo lực chiến tranh và hận thù (x. Mt 5, 38-44).
Là những người sống triệt để các mối phúc Tin mừng trong cuộc đời giữa thế gian đầy đảo điên (x. Mt 5,1-12).
Là những người hàng ngày sống tinh thần ‘Kinh Lạy Cha’ của Chúa Giê-su (x. Mt 6,9-15).
Là những người phó thác đời mình cho sự quan phòng của Thiên Chúa như ‘chim trời, hoa huệ ngoài đồng’ và luôn ưu tiên ‘tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người’ trong đời sống của mình (x. Mt 6,25-33).
Là những người biết nhìn nhận sự công chính vô tội của Đức Giê-su và sự tội lỗi của mình như ‘tên trộm lành’ (x. Lc 23,40-42).
Là những người nghĩ rằng ‘mình chỉ là đầy tớ vô dụng, chu toàn bổn phận Chúa trao’ (Lc 17,10), ‘đời mình có là gì đều là hồng ân Chúa ban’ (x. 1Cr 15,10).
Là những người ‘quản gia, quản lý trung thành và khôn ngoan của Thiên Chúa, để cứ đến thời đến buổi phân phối thóc gạo cho gia nhân’ (Lc 12,42).
Là những người nghiệm ra được Thiên Chúa là ‘Cha nhân từ, giàu lòng xót thương’ mà mau mắn lên đường trở về như ‘người con hoang đàng’ mỗi khi sa ngã phạm tội (x. Lc 15,11tt).
Là những người sẵn sàng ‘từ bỏ mình và vác thập giá mình hàng ngày mà theo Chúa’ (x. Mt 10,38).
Là những người con hiếu thảo, luôn biết vâng lời Thiên Chúa và cha mẹ trong đời sống (x. Mc 12,29-31).
Là những người cha người mẹ mẫu mực, hết lòng yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ con cái, sống theo lương tâm, lề luật Chúa Ki-tô và Hội Thánh (Ep 6,4).
Là những người vợ người chồng sống trung thành, chung thủy với nhau theo tinh thần của Chúa ‘sự gì Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly’ (x. Mt 19,6).
Là những người luôn biết bảo vệ và tôn trọng sự sống của mình cũng như của người khác, luôn "nói không" với nạo phá thai, giết người dưới bất kỳ hình thức nào.
Là những người trong cuộc sống luôn ‘biết mình’ và ‘biết Chúa’. ‘Biết mình’ là kẻ tội lỗi, ‘biết Chúa’ là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót và hay tha thứ như người thu thuế (x. Lc 18,13).
Là những người nghèo khó, mẹ góa con côi, bị xã hội loại trừ, bỏ rơi... nhưng không một lời than thân trách phận, oán ghét hận thù...chỉ ước mơ một cuộc sống no đủ, hạnh phúc như ông La-da-rô ‘thèm được những thứ rơi vãi từ bàn ăn của ông nhà giàu mà ăn cho no’ (x. Lc 16,20-21).
Là những người luôn ‘chạnh lòng thương xót’ trước nỗi đau của người đồng loại như người Samaritano nhân hậu (x. Lc 10, 33-35), ‘vui với người vui, khóc với người khóc’ (x. Rm 12,15).
Tóm lại: Các thánh mà hôm nay chúng ta mừng kính là những con người như chúng ta. Không ai trong các ngài khi sinh ra đã là thánh. Các ngài là thánh, bởi các ngài đã cộng tác với Chúa Thánh Thần, làm sáng rõ ‘hình ảnh của Thiên Chúa’ và phác họa lại dung mạo của Đức Ki-tô trong cuộc đời mình bằng nhiều thể nhiều cách, nhất là cách sống yêu thương và chu toàn bổn phận.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: ‘Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con là Đấng hoàn thiện ở trên trời’. Các thánh là những người đã sống theo lời Chúa dạy. Xin cho chúng con biết noi gương các ngài mà lo sao cho mình cũng được nên hoàn thiện, nên thánh, để chúng con cùng được sum họp với các thánh ở trên trời với Chúa.
Lạy các thánh nam nữ, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
10. Nên thánh
Có bao giờ chúng ta đi tham dự một chương trình diễn nhạc trẻ hay chưa? Những âm thanh vang dội như kích thích hàng ngàn bạn trẻ, hò hát, nhảy nhót, có khi lăng quay xuống đất như những nhạc sĩ trình diễn. Có thể nói được rằng họ say sưa trong tiếng nhạc. Phải chăng đó là một hình ảnh đặc thù cho thời đại chúng ta đang sống. Thời đại của âm thanh, ánh sáng và vận tốc. Trái đất dường như chỉ còn là một trạm dừng chân, để rồi từ đó người ta khởi đầu chinh phụ vũ trụ.
Hằng ngày chúng ta ghi nhận biết bao nhiêu âm thanh hỗn độn. Từ những lời nói thương yêu đến những lời chửi bới. Từ tiếng nhạc êm dịu đến tiếng động cơ chát chúa. Từ những âm thành ồn ào ngoài phố chợ đến những lời quảng cáo, tuyên truyền trên truyền thanh truyền hình. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiếng động vang lên tựa hồ như vô tận.
Thế nhưng, giữa một môi trường như vậy, liệu con người có còn nghe thấy được tiếng nói từ trời cao hay không? Chính vì thế mà thánh Phaolô đã xác định để chúng ta được thấy rõ ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta hãy nên thánh. Ý muốn ấy phải chiếm một địa vị ưu tiên, phải là nỗi ưu tư số 1 trong cuộc đời chúng ta.
Tuy nhiên, con người thời nay lại nhún vai coi thường, vì nên thánh là một cái gì quá lạ lẫm đối với họ. Vậy nên thánh là như thế nào? Trước hết tôi xin thưa: Nên thánh không phải là chạy trốn trần gian vì trần gian có nhiều tội lỗi xấu xa. Nên thánh cũng không phải là quỳ gối chăm chỉ cầu nguyện, siêng năng xưng tội một cách máy móc, và tham dự những thánh lễ ngày Chúa nhật. Sự thánh thiện hệ tại việc chúng ta chấp nhận Chúa là mục đích của đời sống, là trọng tâm của mọi tư tưởng, lời nói và việc làm. Đó là điều chính yếu, còn những sự khác chỉ là phụ thuộc.
May thay thời buổi chúng ta vẫn còn có những vị thánh. Đời sống của họ là một rao giảng quý giá. Họ như muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa là mục đích duy nhất của cuộc đời. Còn tất cả chỉ là mờ nhạt và vô nghĩa. Đối với họ Thiên Chúa là tất cả. Nỗi ưu tư của họ là tìm biết thánh ý Chúa mà thôi. Mặc dù chúng ta không có ơn gọi vào dòng tu, nhưng tất cả chúng ta đều được kêu mời trở nên thánh. Nên thánh không phải là một bổn phận làm cho chúng ta sợ hãi. Nó không cấm cản chúng ta hưởng thụ những niềm vui chính đáng, vì Thiên Chúa không phải là kẻ thù, nhưng là suối nguồn của những niềm vui trong lành. Tuy nhiên, Thiên Chúa phải trổi vượt trên mọi thứ đó, Ngài chính là cùng đích của chúng ta. Cho dù bên ngoài có những âm thanh ồn ào, thì trong thẳm sâu cõi lòng, chúng ta vẫn phải lắng nghe tiếng Chúa, vì tiếng nói ấy sẽ chỉ cho chúng ta thấy con đường nên thánh. Bởi vì: Ai tuân giữ những giới luật của Ta thì người đó sẽ được Ta yêu mến. Thực vậy, con đường nên thánh là con đường nhỏ hẹp, nhưng chính con đường ấy sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu.
11. Hoa đời dâng Chúa
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát sinh hoạt được hát như sau: "mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa muôn màu muôn sắc tươi xinh. Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa, vườn hoa, vườn hoa chúng mình". Bài hát đơn sơ nhưng nói lên ý nghĩa cuộc đời thật thi vi. Cuộc đời của chúng ta là một cành hoa: Hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa hồng... Hoa nào cũng đẹp. Hoa nào cũng có cách thể hiện mình giữa đời thật nên thơ và hữu ích. Nụ hoa muôn màu như con người với những thể xác, cá tính, nhân cách khác nhau. Nụ hoa muôn vẻ như con người mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Hôm nay, Hội thánh mừng kính các thánh nam nữ như là những bông hoa đầu mùa trong vườn hoa mà Thiên Chúa vun trồng. Hội thánh là vườn ươm. Thiên Chúa đã ra công vun trồng cho cây hoa lớn lên trong ân sủng, trong sự chăm sóc tận tụy của Ngài. Các thánh là những bông hoa luôn quy về hướng mặt trời để nhờ mặt trời ban sức sống, chăm sóc, dưỡng nuôi nên vẹn tuyền. Các thánh luôn cần lòng từ bi, ân sủng của Chúa chữa lành những thương tích do mối mọt tội lỗi gây ra. Các thánh cũng như những bông hoa luôn được chăm sóc tỉ mỉ khỏi những cám dỗ tội lỗi, những vương vấn bụi trần.
Như vậy, sẽ có bao nhiêu vị thánh hôm nay chúng ta mừng kính? Thưa, có rất đông. Bởi vì ai cũng có thể nên thánh. Ai cũng được mời gọi nên thánh. Nên thánh là ơn gọi mà Thiên Chúa đã tiền định: "Anh em hãy hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện". Nên thánh không khó. Nên thánh là làm theo ý Chúa, là sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Nên thánh không phụ thuộc vào giai cấp, không tính theo năng lực. Nên thánh tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh của mình. Như những bông hoa muôn sắc, dù là hoa nhỏ bé hay to lớn, dù là loài hoa không hương không sắc nhưng vẫn là đóa hoa đáng yêu, đáng quý và đáng được nâng niu. Các thánh nam nữ cũng thuộc mọi tầng mọi lớp xã hội. Có thể các ngài thuộc hàng giáo sĩ nhưng cũng có thể là hàng giáo dân. Các ngài có thể là cha mẹ, là anh em, là bè bạn của chúng ta. Các ngài là những người đã nỗ lực hoàn thiện mình trong ân thánh Chúa. Các ngài không vương vấn tội lỗi. Các ngài không để những đam mê làm chủ. Các ngài luôn chọn Chúa hơn là những tạo vật trần gian. Các ngài cũng có thể là những tội nhân được ơn trở lại như kẻ trộm trên cây thập giá. Các ngài cũng có thể từng có những lầm lỡ nhưng biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Điểm chung của các ngài là đã được chết trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu, với ba mươi ba năm dương thế, Chúa Giêsu đã lôi kéo bên Ngài những bông hoa đầu mùa của Hội thánh thật giản dị, âm thầm, và đơn sơ. Một bác thợ mộc thành Nagiaret, luôn tận tụy với công việc và gia đình. Một Maria đơn sơ chân thành, dám nói lời xin vâng ngay cả khi chẳng biết điều gì sẽ đến trong ngày mai. Một Phê-rô, Simon... những ngư phủ chất phác, đầu hôm sớm mai trên biển cả đã bỏ thuyền chài mà đi theo Chúa. Một Gia-kêu, Madalena, là những tội nhân đã được ơn hoán cải trở về. Một người trộm lành đã ra đi bình an trong lời tha thứ đón nhận của Đấng tạo thành ...
Và hôm nay, những khuôn mặt phản chiếu hình ảnh của các thánh dường như vẫn tiếp tục tỏ hiện trong dòng đời dương thế hôm nay. Họ có thể là cha, là mẹ chúng ta, những con người đang khổ sở vì chúng ta, đang hy sinh từng ngày cho chúng ta. Họ có thể là những người lao công đang dệt đời mình trên công trường hay trên nương đồng với hy sinh, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Họ có thể là những người bất hạnh bởi tai nạn, bởi nghèo đói, hay những bệnh nhân đang đón nhận thập giá Chúa gửi với lời xin vâng thẳm sâu. Vâng, những vị thánh đó vẫn đang sống, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Họ đang hiến tế đời mình trong những đau khổ trần gian, trong những hy sinh từ bỏ, trong quảng đại dấn thân hết mình vì anh em đồng loại. Họ có thể chưa hát bài ca chiến thắng như các thánh nam nữ trên trời nhưng cuộc đời họ đáng là thánh vì họ luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đã dám sống một cuộc đời mà người ta bảo rằng: "Người trồng cây phúc người chơi - Ta trồng cây hạnh để đời về sau".
Nguyện xin các thánh nam nữ đã được sống trong ân nghĩa cùng Chúa cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để biết sống đền đáp ân tình Chúa ban. Xin giúp cho mỗi người chúng ta biết gìn giữ ân sủng cao quý là con cái của Chúa bằng việc sống thanh sạch, và can đảm dũ bỏ bụi trần mê muội. Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận ý Chúa qua việc vui với phận mình và chu toàn bổn phận làm người và làm con Chúa. Amen.
12. Ánh sáng của các thánh trên trời
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một buổi tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn thuyết trước khoảng 100,000 người.
Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các vị đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho tôi biết.
Ánh lửa nhỏ bé từ que diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang: 'tôi đã thấy'.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc, hàng ngàn đốm sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.
Ông John Keller kết luận:
- Nếu tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta... (trích từ Nghệ thuật sống)
Ánh sáng của một que diêm nhỏ cũng có thể xoá đi một mảng tối và người ta có thể nhìn thấy nó từ đằng xa. Ánh sáng của hàng ngàn que diêm nhỏ bé có thể đẩy lui bóng tối bao trùm cả một quảng trường và chiếu soi cho nhiều người trong đêm tối.
Ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời, tức là những gương sáng của các ngài, toả sáng như những vì tinh tú, chiếu soi cho nhân loại đang đắm chìm trong bóng đêm lầm lạc và tội lỗi.
Trong ngày lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời được lan tỏa vào tâm hồn chúng ta, tiếp tục cháy lên trong chúng ta và qua chúng ta toả ra cho mọi người.
Lời Chúa vẫn thúc giục mỗi người: "Anh em là ánh sáng cho thế gian" (Mt 5, 14). Thế gian tăm tối đang rất cần ánh sáng.
Trong khi bao gia đình trên thế giới đổ vỡ vì bất hoà và ly dị thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng chung thuỷ trong đời sống vợ chồng.
Đang khi trong một số gia đình con cái khinh dể cha mẹ, bất hiếu với ông bà thì chúng ta hãy chiếu toả ánh sáng của lòng hiếu thảo đối với tổ tiên.
Đang khi trong xã hội hôm nay đầy dẫy dối trá lọc lừa thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng của lòng chân thật.
Đang khi nhân loại sống hận thù, oán ghét thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa yêu thương.
Đang khi người ta coi thường nhân phẩm, khinh miệt kẻ bần cùng thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa của lòng tôn trọng mọi người, vì tất cả những người chung quanh chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu.
Đang khi nhiều người sống bon chen ích kỷ, thì chúng ta hãy thắp lên ánh sáng của lòng quảng đại vị tha.
Phải toả sáng là bổn phận của mỗi người, không ai được miễn trừ.
Không có người nào hoàn toàn xấu, không có mảnh đời nào hoàn toàn tối tăm. Một con người dù bên ngoài có vẻ xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa thì nơi người ấy vẫn tiềm tàng những sáng và điểm tốt.
Sở dĩ người ta không nhận ra điểm sáng, điểm tốt của một người nào đó chỉ vì ánh sáng nơi họ còn bị che chắn bởi một số thói hư, như ánh sáng của chiếc đèn dầu (đèn hột vịt) bị che khuất bởi bóng đèn bám đầy muội khói. Chỉ cần lau chùi bóng đèn cho sạch, chỉ cần khêu bấc cho cao lên và cho thêm dầu vào, thì ánh sáng lại lan toả. Cần giúp nhau lau chùi lại bóng đèn, cần khêu bấc, thêm dầu cho nhau bằng những lời động viên thân ái.
Dù bạn là ai, bạn đều có ánh sáng trong người, bạn hãy khêu bấc, thêm dầu và lau sạch bóng đèn cho đèn bạn toả sáng. Lời Chúa Giêsu đang thúc giục chúng ta: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt mọi người..." ( Mt 5, 14. 16).
Không trì hoãn nữa, ta hãy bắt đầu khêu bấc cho đèn mình sáng lên ngay hôm nay.
13. Chân dung các vị thánh
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói thánh là người làm theo ý Chúa, không theo bọn ác nhân. Thánh là người hoàn toàn thuộc về Chúa từ trí óc tới con người. Họ là những con người luôn sống thanh sạch "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ có tâm hồn thanh khiết, nhờ đó mà họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật, nơi tha nhân và một cách trọn vẹn nơi thiên quốc. Như vậy sự thánh thiện hệ tại ở tâm hồn luôn ở trong Thiên Chúa. Họ thuộc về Chúa. Họ sống cho Chúa. Họ sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Họ đã nên thánh ngay từ cuộc đời dương thế này. Họ biết dệt đời mình trong hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những đam mê lầm lạc, những xa hoa ích kỷ để thể hiện lòng mến Chúa trên hết mọi sự. Họ là những người can trường chiến đấu với phận đời oan trái, cay nghiệt của nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị hiểu lầm, bị phản bội, bị bách hại . . .nhưng vẫn trung thành với đức tin. Dẫu phận đời có oan nghiệt họ vẫn cảm thấy an bình, vì được sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Họ đã chiến thắng số phận đầy oan khiên khi tìm được niềm an vui vì chọn Chúa là gia nghiệp trọn đời.
Chân dung của các vị thánh được Chúa Giêsu phác hoạ qua tám nét chính mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Họ sống giữa cuộc đời đầy sóng gió của sự dữ, của những vòng xoáy cuộc đời đầy đam mê truỵ lạc, của những thói đời hưởng thụ nhưng họ vẫn giữ mình luôn thanh khiết không hoen ố tội nhơ, không thoả hiệp sự dữ, không lao vào vòng xoáy của danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa. Họ có mặt trong mọi nơi, mọi chốn. Họ thuộc đủ mọi màu da, sắc tộc. Họ thuộc mọi thành phần trong xã hội.
Có thể họ là những người mẹ đang bươn chải "một nắng hai sương", với quang gánh trên lưng còng cho con cái niềm vui tiếng cười. Bà chấp nhận đánh mất cuộc đời cho gia đình chén cơm, chén gạo mỗi ngày.
Có thể họ là những người cha đang chịu nhiều oan khiên, chồng chất của thói đời bất công, áp bức, bóc lột đang đè nén cuộc đời của họ, nhưng họ không chịu đánh mất nhân cách, nhân phẩm, lương tri con người để đổi lấy chút bổng lộc trần gian mau qua.
Có thể họ là một ai đó đang bị bỏ rơi, đang bị bóc lộc, đang bị chà đạp, nhưng họ không bán rẻ nhân phẩm của mình. Họ sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu thiếu thốn mà lòng thanh sạch hơn là hoen ố tâm hồn để đổi lấy niềm vui giả tạo mau qua.
Có thể họ là những người già neo đơn, những người bệnh đau lâu ốm dài đang vò võ từng ngày chờ đợi tân lang đến đón vào dự tiệc thiên quốc. Họ không nản lòng. Họ không để tim đèn vụt tắt. Họ vẫn cầm đèn cháy sáng chờ đón chủ trở về và mau mắn ra nghinh đón chủ.
Có thể họ là những người trong quá khứ đã lầm đường lạc lối, đã từng buông thả đời mình trong đam mê sắc dục, đã từng sống hại người hại đời, nhưng nay họ đã được ơn trở về. Họ đang sám sối từng ngày. Họ đang dành trọn cuộc đời của mình để đền bù những lầm lỗi của quá khứ bằng những việc lành phúc đức.
Có thể họ là chính chúng ta, những con người đang khao khát sống đời trọn lành. Có thể vì sự khao khát nên trọn lành mà chúng ta đang đi ngược dòng với trào lưu tục hoá của thế gian. Chúng ta trở thành kẻ thù nghịch của thế gian. Chúng ta không đồng thuận với mưu đồ đen tối. Chúng ta không thoả hiệp với sự gian dối giả tạo. Chúng ta đang phải chiến đấu từng ngày để nói không với tội và trung thành với tin mừng nước Chúa.
Như vậy, các thánh không ở đâu xa. Ở ngay trong cuộc đời chúng ta. Họ đang sống với chúng ta. Họ đang dâng những hy sinh hằng ngày cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Theo đức tin ky-tô giáo dạy chúng ta: Giáo hội thiên quốc gồm những con người đã vượt qua cuộc đời trong ơn nghĩa với Chúa. Họ đã trung thành phụng sự Chúa trong cuộc đời dương thế. Và hôm nay, họ tiếp tục phụng sự Chúa trên thiên quốc. Còn chúng ta là Giáo hội lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng được gọi là giáo hội thánh thiện vì chúng ta đang gột rửa đời mình mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Chúng ta đang nỗ lực trở nên thánh. Chúng ta đang chiến đấu từng ngày nên hoàn thiện hơn.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính các thánh nam nữ ở trên trời. Các ngài đã đi qua bụi trần này với một tâm hồn thanh khiết. Thế nên, họ đã được nhìn xem Thiên Chúa vì Phúc thay ai có tâm hồn thanh khiết, họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa qua lời bầu cử của các ngài ban cho chúng ta lòng tin mạnh mẽ để chúng ta biết phó thác trọn cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng ta lòng mến sắt son để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng ta đức cậy kiên vững để chúng ta trông cậy vào ơn Chúa mà hoàn thiện đời mình mỗi ngày nên thánh thiện hơn. Amen.
14. Các thánh
Nói tới việc nên thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm như thế nào về sự thánh thiện? Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ơn huệ của Chúa.
Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng thế, với người trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta. Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa thì không.
Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
15. Bài học của sinh tồn
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một người đã hỏi một chuyên gia leo núi như sau:
- Nếu chúng ta ở lưng chừng núi đột nhiên gặp mưa lớn thì phải làm sao?
- Anh phải cố leo lên đỉnh núi!
- Tại sao không chạy xuống dưới? Gió mưa ở đỉnh núi chẳng phải lớn hơn sao?
- Đi lên đỉnh núi, cố nhiên mưa gió có thể lớn hơn, nhưng không đủ uy hiếp mạng sống của người. Còn chạy xuống dưới núi, xem ra khá an toàn, nhưng có thể gặp tuyết trượt bộc phát chôn sống.
Anh nói thêm: -... đối với mưa gió, chạy trốn nó, thì anh sẽ bị lũ cuốn trôi; đương đầu với nó, thì anh lại có cơ may sống sót!
Xem ra để sống sót trước khó khăn không phải là an phận“sống chung với lũ” mà phải “chiến đấu với lũ” để tồn tại. Và như vậy, quy luật chung để tồn tại là phải đối diện với khó khăn, với thử thách để vươn lên. Không lẩn tránh khó khăn. Không trốn chạy sự dữ. Nhưng phải tìm cách tồn tại trong những hoàn cảnh đầy khó khăn nhất.
Trong đời sống luân lý, lẽ thường cũng rất nhiều cám dỗ bủa vây. Cám dỗ như những cơn lũ muốn nhậm chìm chúng ta. An phận sống chung với chúng e rằng sẽ có ngày “mưa lâu thấm đất” khiến chúng ta cũng sa vào cám dỗ. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải chiến đấu với cám dỗ, phải chiến thắng cám dỗ và xua tan cám dỗ. Điều này chính Chúa Giêsu đã làm và đã chiến thắng trong cuộc cám dỗ 40 đêm ngày. Ma quỷ cũng đã bầy ra trước mặt Chúa những nhu cầu hưởng thụ rất đỗi bình thường của con người, nhưng chỉ với điều kiện là quay lưng lại với Thiên Chúa. Chúa đã Giêsu nhắc ma quỷ quy tắc là phải vâng lời Thiên Chúa, và điều quan yếu trong cuộc sống, không phải là sự đói khát thể xác mà còn tìm kiếm thỏa mãn cái đói của tâm hồn là chính Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh nam nữ, họ là những người con ưu tú của Giáo hội. Họ đã chiến thắng cám dỗ. Họ đã vượt qua thử thách để hôm nay cùng nhau cầm cành lá vạn tuế tung hô Chúa cửu trùng chí thánh. Họ đã đi qua những dòng đời vấn đục khác nhau nhưng lòng họ giống nhau ở chỗ luôn giữ lòng thanh khiết không chiều theo cám dỗ xác thịt. Họ sống giữa dòng đời đầy thị phi cùa sự bất công gian dối nhưng họ vẫn tỏa lan hương thơm của lòng bác ái, vị tha dấn thân phục vụ mọi người. Họ không để lòng tham trỗi dậy để rồi sống tham lam bất chính. Họ không để dục vọng thống trị để sống đam mê trụy lạc. Họ đã sống một đời yêu và yêu cho đến cùng, một tình yêu không toan tính thiệt hơn. Một tình yêu cho đi và cho đi mãi. Họ đã đối đầu với nghi nan, bách hại, tù đầy, tra tấn... nhưng vẫn một lòng trung thành sống theo thánh ý Chúa.
Điều quan yếu là họ đã chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những nghịch cảnh đời sống không bằng sức mình mà bằng cách cậy dựa vào ơn Chúa. Chỉ với ơn Chúa mới đủ sức cho họ vượt thắng nghi nan. Chỉ với ơn Chúa họ mới chiến thắng được những cám dỗ nằm sâu trong bản tính con người như tính kiêu căng, thói hưởng thụ... Họ đã biết cậy dựa vào ơn Chúa để làm chủ chính mình, để chiến thắng cám dỗ và dấn thân xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Hôm nay họ đang được ân thưởng hạnh phúc Nước trời nhờ một đời sống để ý Chúa thể hiện trong cuộc đời họ. Họ đã đạt được hạnh phúc viên mãn vì đã chiến thắng thế gian đầy cám dỗ bon chen này.
Cuộc sống luôn có rất nhiều cám dỗ. Cám dỗ hưởng thụ vật chất, hưởng thụ xác thịt. Cám dỗ ở ngay trong lòng mình khi tìm kiếm sự dễ dãi bản thân, tìm kiếm sự đồng lõa của dục vọng, của tính tham lam... Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực trước biết bao cám dỗ lôi kéo. Chúng ta cũng từng đứng dậy sau rất nhiều lần vấp ngã nhưng rồi vẫn ngã quỵ trước cám dỗ.
Mừng kính các thánh nam nữ là một dịp khơi lên trong chúng ta một niềm hy vọng về cuộc sống. Dầu cuộc sống có cám dỗ nhưng không đánh gục chúng ta nếu biết cậy dựa vào ơn Chúa. Dầu có những lần thất bại trước cám dỗ nhưng vẫn có thể đứng dậy để canh tân, để sửa đổi nhờ ơn Chúa. Chính nhờ sức mạnh và quyền năng của Chúa chúng ta sẽ mãi đứng vững và chiến thắng trong trận chiến nhiều cam go cám dỗ này.
Ước gì chúng ta luôn biết noi gương các thánh biết bám vào Chúa như cành liền cây để sức sống của Chúa mãi tuôn chảy trên chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ thất vọng về mình nhưng luôn biết đứng dậy làm lại cuộc đời nhờ ơn Chúa. Và xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn trong ơn thánh của Chúa. Amen.
16. Chiều rộng của Ơn cứu độ
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.
Các ngày lễ này có hai cao điểm:
- Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ. Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
- Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel. Bài đọc 2 trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “đã nghe nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”. 144 ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 166 ngàn giáo dân. Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được thương mời mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói”. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion “Vui ca lên nào thiếu nữ Sion… Hãy đưa mắt tư bề, muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi. Con cháu người đang từ đàng xa đổ về”. Các Thánh đông đảo trong Nhà Cha. Vì vậy, mừng lễ Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ (Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời. Giáo hội vẫn mừng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, các linh hồn đang ở luyện ngục. Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Nói cách khác, luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên đàng mới là bờ bến. Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, dâng thánh lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn, nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá, thăng hoa con cái Chúa trở về Nhà Cha, không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Trong muôn loài, có loài hoa, trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại, muôn giống khác nhau. Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng. Có nhiều vị thánh rao giảng tin mừng. Có thánh tử đạo, có thánh lo bác ái từ thiện, có thánh lo dạy học, có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh… Nhưng có một điểm chung nơi Các Thánh, đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác, it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã “sống những điều tầm thường một cách phi thường”. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám mối phúc thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là những người bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và cố gắng vươn lên giống như các Ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên Thánh được, còn tôi, tại sao lại không?
17. Các thánh
Một viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta?
Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụ thể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.
18. Những bậc thang của giá trị
Hôm nay lễ Các Thánh Nam Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu hỏi như sau:
"Nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh?"
Ngài giải thích như sau:
"Chúng ta chứng kiến những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia".
Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính và danh vọng.
Lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.
Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở để nhìn lên những con người ấy, họ - tức các thánh không phải là những con người phi thường. Các ngài cũng chỉ là những con người bình thường như mọi người bình thường khác, nhưng đã sống đời thường một cách phi thường. Chính vì thế mà các ngài mới có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo, chúng ta ngước mắt nhìn lên các thánh trên trời đã đành, mà cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc sống tại thế này. Ở đây, hàng ngày chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu vị thánh sống. Họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng những kỳ công hay nhân đức phi thường. Họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi ngày phấn đấu không ngừng để luôn đặt những giá trị tinh thần và luân lý vào chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị. Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm thầm vô danh kia và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh thiện đời thường ấy, bởi vì thánh thiện như Công Đồng Vatican II đã khẳng định là ơn gọi chung của mọi người tín hữu.
Nguyện xin các thánh cầu thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.
Lạy Chúa,
Chúng con phải lao đao vất vả vì cuộc sống mỗi ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao, để biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ này chúng con được về hưởng nhan Chúa cùng với các thánh của Chúa.
19. Phúc thay ai hiền lành
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khát vọng lớn nhất, sâu xa nhất của con người là được hạnh phúc. Vì thế, người ta thường cầu chúc cho nhau được dồi dào phúc, lộc, thọ. Trong bộ ba đó, phúc đứng hàng đầu. Nhưng điều quan trọng là phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thật?
Qua bài Tin Mừng Lễ Các Thánh (Mat-thêu 5, 1-12), Chúa Giêsu nêu lên tám đối tượng được chúc phúc và một trong những đối tượng đó là người hiền lành: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp".
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Người có đầy đủ những phẩm tính cao đẹp nhất, thế nhưng Người lại chú trọng đến đức tính hiền lành hơn hết và kêu mời chúng ta: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11, 29), "phúc cho những ai hiền lành", "hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu" (Mt 10, 16).
Vậy giờ đây, xin cùng nhìn lại những phẩm chất của người hiền lành.
Người hiền lành mềm dẻo như tre.
Trong cơn bão tố cuồng phong, nhiều cây cổ thụ cao lớn bị xô ngã, trốc gốc, gãy cành; nhưng tre và trúc thì an bình vô sự nhờ tính mềm dẻo của mình. Tương tự như thế, người hiền lành luôn mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế, nên họ không hề bị ngã gục đau thương.
Người hiền lành mềm mại như nước.
Người ta có thể đập vỡ đá cứng, nhưng không bao giờ đập vỡ được nước. Khi ta giáng búa tạ vào đá, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình kháng cự lại búa và như thế đá sẽ bị vỡ tan; còn khi giáng búa tạ vào nước, nước dùng sự mềm mại của mình mà nuốt trửng búa và nhận chìm búa xuống bùn!
Nước tuy mềm mại nhưng có thể bào mòn đá cứng: "nước chảy đá mòn." Người hiền lành tuy mềm mỏng nhưng có thể làm xiêu lòng những tâm hồn chai đá nhất.
Người hiền lành lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường.
Họ hiểu được chân lý Chúa Giêsu dạy: "Ai dùng gươm thì sẽ phải chết vì gươm" nên họ không dùng bạo lực với bất cứ ai. Họ không ăn miếng trả miếng như bao nhiêu người khác, không theo luật "mắt đổi mắt răng đền răng" nhưng biết chế ngự tính nóng nảy, hãm dẹp tính tự ái, biết lấy thiện báo ác, biết lấy tình thương xoá bỏ hận thù.
Vì thế, rốt cuộc, người hiền lành mới là người chiến thắng. Họ thu phục được nhân tâm và tình yêu của mọi người chung quanh.
Ngày nọ, thánh Vinh-sơn bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có hơi men hất hàm hỏi ngài: "Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!"
Thế rồi anh ta hớp một ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.
Vinh-sơn từ từ cho tay vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: "Cám ơn anh. Phần anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?"
Mọi người trong quán hết sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho những kẻ nghèo.
* * *
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng,
Chúa kêu mời "hãy học cùng Tôi vì Tôi dịu hiền". Xin cho đoàn con biết học sống hiền lành như Chúa để đáng được hồng phúc Chúa hứa ban.
20. Các Thánh
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường: “Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cũng như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng: “Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
21. Lễ các Thánh nam nữ
(Lm. Nhân Tài)
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi Suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
22. Ơn gọi nên thánh
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số "một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn mươn bốn ngàn" trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad... không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: "tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản "Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chỗ cho mọi dân tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết: "Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13). Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên". Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực. Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi "qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
23. Các Thánh nam nữ
Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
24. Người khổng lồ thiêng liêng
Ít năm trước đây, một triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm này. Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.
Hai ngàn năm trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta. Điều gì làm các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải không phải là cái các ngài quan tâm.
* Các ngài hiền lành, hòa nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.
* Các ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.
* Lòng tốt của các ngài đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.
Mỗi lần chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành bạn.
25. Ơn gọi Kitô hữu
Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:
- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết: - Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm, không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…
Là Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
- Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc… Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?.
26. Nên thánh
Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối cao.
27. Thánh thiện
Linh mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:
- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”.
Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta”. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô: “Ngài là Đấng thánh”.
“Ngài là Đấng thánh”, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá”. Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được”. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
28. Bản tuyên ngôn đẹp: Tám mối phúc thật
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giàu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông thích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi rất thích bài của thánh Matthêu”. Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả lời: “Không, tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giàu”. Khi thánh Matthêu nói: “Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giàu. Còn Luca thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng nước Trời mà thôi, còn người giàu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giàu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giàu là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu (Nguyễn Văn Thái, op, cit, tr 86-87).
Suy niệm
Niềm vui mà trong một thị kiến thánh Gioan thấy: Một đoàn người khác đông đảo không đếm được thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng: Tất cả những người đó đều “mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế chiến thắng” (x. Kh 7,2-9). Đó là hình ảnh loan báo các Thánh Nam Nữ trong nước Thiên Chúa. Các Ngài đã theo Chúa Giêsu - vì “Ngài là Đấng Thánh” và “giặt và tẩy áo trắng mình trong máu Con Chiên” (x. Kh 7,14).
Dù có cuộc sống khác nhau trên trần thế, nhưng các ngài đã đi theo tinh thần hiến chương của nước Thiên Chúa, tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,1-12), đó là bước đi trọn lành trong lời mời gọi của Thầy: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc: Hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình. Hơn nữa, lại là những khổ đau mà con người luôn tránh: tâm hồn nghèo khó, sầu khổ, bị bách hại. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: Họ hạnh phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian để trao cho con người chìa khóa để mở cửa hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Khi nghe giáo huấn về bát phúc, Ghandi - vị thánh và là cha già của dân tộc Ấn Độ đã tuyên bố: Không có bản tuyên ngôn nào trên trái đất đẹp bằng tám phúc của Chúa Giêsu, và ông nói: “Chính bài giảng trên núi này làm cho tôi yêu mến Đức Kitô”.
Hãy yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn và đi theo con đường bát phúc. Yêu mến Thiên Chúa, noi gương các thánh như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium (Hiến chế Ánh sáng muôn dân). có viết: “Các ngài tạo nên một toàn cảnh huy hoàng về những con người nam nữ, qua việc không mệt mỏi thực thi những công việc hằng ngày trong vườn nho của Chúa. Sau khi đã sống một cuộc đời âm thầm, chẳng ai biết đến, và có khi những người quyền cao mạnh thế hiểu lầm, các ngài đã được Thiên Chúa đón nhận. Các ngài là những người thợ khiêm tốn, nhưng vĩ đại đối với công việc phát triển nước Chúa.”.. (LG 40).
Mừng lễ các thánh, người tín hữu lắng nghe lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Chúng ta vui mừng lễ để tôn kính các Thánh. Kinh nghiệm ấy tương tự như những điều chúng ta cảm nghiệm trong gia đình đông đúc, nơi đó chúng ta cảm thấy tình thân thương như ở nhà”.
Ý lực sống
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau”. (Tv 133,1)
29. Tôi phải nên thánh
(Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP)
Khi tôi còn ở quê, lúc đó là một chú giúp lễ trong nhà thờ. Vào một buổi chiều, tôi đang ngồi chuẩn bị cho chương trình rước kiệu các thánh tử đạo Việt Nam. Có một ông trùm ở giáo xứ bên cạnh, là người đã quen biết tôi trước đó đến để gặp cha xứ. Trong lúc chờ đợi cha xứ đi kẻ liệt về, ông trùm kể cho tôi nghe chuyện giáo dân của làng ông bị bách hại trong thời kỳ cấm đạo, ông nói: lúc đó, quân lính bao vây làng, sau đó quan quân bắt hết mọi người ra đình làng trình diện và bắt phải bỏ đạo. Giáo dân trung thành với Chúa đã cương quyết không bỏ đạo, vì thế, họ bắt đi đầy, một số thì bị ghép sống với những người ngoài Công Giáo (phân sáp), số còn lại họ chôn tập thể, nhà của dân thì bị đốt sạch... Tôi nghe đến đây thì rất cảm phục. Điều mà tôi nghĩ trong đầu lúc này là những người giáo dân can trường đó, các ngài chấp nhận chết vì đạo Chúa cách trung thành như vậy, họ cũng là các thánh tử đạo. Thế nhưng, nếu rà soát trong danh sách 118 thánh tử đạo Việt Nam được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh chính thức vào ngày 19/6/1988 thì hoàn toàn không có các ngài.
1. Các Thánh là ai?
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể các thánh Nam Nữ. Lý do có ngày lễ này là vì trong Giáo Hội có rất nhiều những vị thánh không được phong và có ngày lễ mừng. Các ngày trong năm phụng vụ, Giáo Hội chỉ mừng những vị thánh đã được tôn phong cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có biết bao vị thánh vô danh, nhưng thực sự các ngài cũng là những vị thánh như các đấng được mừng trong lịch phụng vụ. Vì thế, Giáo Hội dành riêng một ngày để mừng kính chung các ngài.
Việc mừng kính các thánh hay không thì cũng chẳng thêm gì cho các ngài, bởi vì các ngài đã là thánh. Nhưng việc mừng kính các ngài là để tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi cuộc sống của các ngài. Đồng thời, tôn kính các ngài như là những mẫu gương cho chúng ta noi theo. Vậy con đường nên thánh của các ngài là gì? Cuộc sống của các ngài có phải là siêu quần bạt chúng, là phi thường không? Thưa là không! Con đường nên thánh của các ngài là một con đường hướng thiện, yêu thương, tha thứ và rất bình dân. Cuộc sống của các ngài cũng bình thường như ai, các ngài chính là những người cha, người mẹ gương mẫu, là người hàng xóm tốt bụng, là người chủ nhà sẵn sàng cho khách trú chân khi lỡ đường, các ngài là những người thợ mộc, thợ nề, thợ thủ công, là công nhân, nông dân, cũng có thể các ngài là những kỹ sư, bác sĩ.... lại có những vị thánh xuất thân từ một hoàng tộc, lại có những đấng sinh ra không ai biết, chết không ai hay, có những vị thánh trong hàng ngũ Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ. Tất cả họ là những bậc tổ tiên, cô bác, anh chị em với chúng ta lúc còn tại thế.
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng đều chung một mẫu số là các ngài làm mọi việc bình thường cách phi thường vì lòng mến Chúa và yêu người. Tất cả cuộc sống của các thánh được trở nên tốt lành và đẹp lòng Chúa là vì các ngài sống những giá trị Tin Mừng cách trung thành. Các ngài đã rập đời sống của mình theo gương mẫu Chúa Giêsu, đã để cuộc đời của mình cho ánh sáng Mặt Trời Công Chính chiếu qua. Các ngài thật giống chúng ta ở điểm khởi đầu, nhưng khác ở chỗ là đi đến cùng. Các ngài sống tinh thần thánh cách trọn vẹn chứ không như kiểu làm thánh “lâm thời” như chúng ta. Thật vậy, thánh “lâm thời” là khi phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện nguyên hình quỉ. (x. ĐHV, số 44). Các ngài là những người đã dám sống triệt để chân lý đã tin thay vì nửa vời. Và các ngài là những người: " từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên". Các ngài chính là những người tin vào Đức Kitô Giêsu, và là những người sống tinh thần bản “Hiến Chương Nước Trời” cách trọn vẹn và suất sắc.
Thật vậy, các ngài là những người thuộc nằm lòng và sống trọn vẹn lời mời gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường vì ách của Tôi thì êm ái, gánh của Tôi thì nhẹ nhàng”; hay: “Hãy nên hoàn thiện như Cha Trên Trời” (Mt 5, 48), rồi cả cuộc đời của các ngài là những người đi theo Chúa trên con đường khổ giá vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương con người tha thiết. Đây chính là con đường Chân Phúc.
Có nhiều con đường để nên thánh, và có nhiều cách nên thánh. Hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Chân Phúc để như một lời mời gọi những ai muốn trở nên giống Chúa cách trọn vẹn hơn... Con đường đó được gọi là con đường hoàn thiện, hay một bản “Hiến Chương Nước Trời”.
Quả thật, các ngài là những người yêu mến tinh thần nghèo khó, sống hiền lành, biết thương cảm, vui với người vui, khóc với người khóc, luôn thương xót những người cơ bần, khao khát sống công chính, trong sạch, luôn xây dựng hòa bình, kiến tạo sự hiệp nhất và, các ngài là những người sẵn sàng vì Chúa mà quên thân mình. Sẵn sàng noi gương Chúa để sống và chết vì yêu. Các ngài là những người xứng đáng được Chúa ghi sổ vàng và hưởng lời chúc phúc của Chúa: “ Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" (Mt 25, 35).
2. Sống thánh trong đời thường
Khi mừng lễ các thánh Nam Nữ như vậy, trước tiên, Mẹ Giáo Hội muốn nhắc nhở cho con cái biết rằng có một sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội: Giáo Hội Lữ Hành, Giáo Hội Thanh Luyện và Giáo Hội Chiến Thắng. Nói cách khác, có một mối liên hệ thiêng liêng hỗ tương giữa những người còn đang sống ở trên dương thế này với những linh hồn đang chịu thanh luyện trong Luyện Tội và với các thánh đang hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng (x. GLTYGHCG, số 195 & Lumen Gentium, số 49).
Thứ đến, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì ân sủng của Chúa tràn ngập trên cuộc đời các thánh, để từ ân sủng của Chúa, các ngài đón nhận và tỏa hương nhân đức trong cuộc sống, đồng thời lưu truyền lại cho con cháu hôm nay. Thật vậy, khi nói về sự ảnh hưởng của các thánh Tử Đạo, Tertuliano nhận xét: "Máu các vị Tử Ðạo là hạt giống trổ sinh nhiều tín hữu".Chúng ta có được đời sống đức tin như ngày hôm nay là do ơn Chúa ban và biết bao hy sinh của các bậc tiền nhân.
Tiếp theo là: noi gương các ngài để ngày càng tiến tới sự trọn lành. Thánh Augustino đã nói một câu thời danh: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?”. Sống thánh và làm thánh là bổn phận, trách nhiệm của chúng ta. Thánh Giêrađô đã nhất quyết phải làm thánh khi từ giã người mẹ của mình để lên đường theo các cha dòng Chúa Cứu Thế đi tu, ngài đã viết một mảnh giấy để lại rằng: "Mẹ ở lại, con đi làm thánh!”. Như vậy, việc nên thánh là trách nhiệm của chúng ta, và cũng là đòi hỏi của Thiên Chúa: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” ( Lêvi 19,2; 1 Tx 4,3; 1 Pr 1, 16…).
Cuối cùng, trong một xã hội đang chạy đua với kinh tế thị trường, coi thường đạo lý; một xã hội bất công lan tràn; thượng tôn hưởng thụ và khoái lạc dẫn đến tình trạng vô cảm, vô tâm, vô tình... Nên thánh trong thời đại của chúng ta ngày hôm nay chính là khẳng khái triệt để không sống theo lối sống sa hoa hưởng thụ, lối sống dẫm đạp lên nhau, lối sống nín thở qua cầu, nói chung lối sống chỉ biết lo cho cái bụng mà quên đi trái tim. Các thánh khi xưa là những người hoàn toàn khước từ những gì là mau qua chóng hết để tìm cho mình một kho tàng vĩnh cửu trên Trời là niềm vui, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Mừng lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy xin với các thánh là những bậc tổ tiên của chúng ta, xin các ngài nâng đỡ, bầu cử cho chúng ta để chúng ta cũng được hạnh phúc như các ngài trên Thiên Quốc. Và có lẽ không gì làm cho các ngài vui và Chúa được tôn vinh cho bằng chúng ta noi gương các ngài để nên thánh. Vì thế, trong việc giáo dục con em của mình, mong thay trong mỗi giáo xứ hay gia đình nên có những sách truyện, cuốn phim, tranh ảnh của các thánh, đây là những phương tiện bổ trợ rất hữu ích cho việc giáo dục Kitô giáo và cho đời sống đức tin nơi thế hệ mai sau.
Mong thay lời dốc quyết của thánh Giêrađô khi xưa: “Mẹ ở lại, con đi làm thánh!” cũng là sự quyết tâm của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không ngừng xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta vượt qua được những cám dỗ hầu tiến tới sự trọn lành như các thánh trên Trời.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì quyền năng và tình thương của Chúa trên các thánh. Vì lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, chúng con xin Chúa ban cho chúng con cũng được dồi dào ân sủng như các thánh mà hôm nay chúng con mừng kính, hầu mai ngày, chúng con được cùng các ngài xum họp để tôn vinh, thờ lạy và chúc tụng Chúa không ngừng. Amen.
30. Nên thánh
Ngày kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:
– Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:
– Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?
Bác thợ giày liền giải thích:
– Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:
– Còn về đức khó nghèo thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
– Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:
– Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc gia đình của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực vậy, Thánh Phaolô đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng, mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua vang.
Không có đức ái, không có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
– Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố thí tất cả của cải, xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.
Hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta. Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài. Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
31. Hạnh phúc thay
Một người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.
Chúa Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng, giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì Nước Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa hứa ban.
32. Hạnh phúc Nước Trời
Làm sao có thể diễn tả được nỗi vui mừng của Giáo hội khi nhìn thấy những người con đã đạt tới mục đích, đã bước vào quê hương Nước Trời, đã được hưởng niềm hạnh phúc với Thiên Chúa.
Đã nhiều lúc Giáo hội như một người mẹ băn khoăn lo lắng cho con cái mình đang vất vả chiến đấu với một thân phận giòn mỏng, với một bản tính yếu đuối, thì giờ đây Giáo hội có thể thở phào nhẹ nhõm và dâng lên Chúa tâm tình biết ơn, tâm tình cảm tạ, vì những người con ấy đã chiến thắng và lãnh nhận triều thiên sự sống. Trong bầu khí của ngày lễ Các Thánh hôm nay, tôi xin chia sẻ ba ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất là về quê trời. Giáo hội cầm tay chúng ta mà dẫn vào quê trời, nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy gì ở đó? Thánh Gioan sách Khải huyền đã diễn tả:
- Thiên Chúa ngồi trên ngai có các thiên thần Kêrubim vây quanh, trước ngai là bàn thờ, trên bàn thờ có con chiên bị sát tế, tức là Đức Kitô, Đấng Cứu độ. Chung quanh bàn thờ là 80 vị bô lão, tượng trưng cho Cựu ước và Tân ước. Sau đó là một đám đông vô kể những người được lựa chọn thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi màu da. Họ mặc áo trắng dài, tay cầm cành lá thắng trận và miệng hát vang khúc ca mới: Chúng tôi là những người đã được cứu chuộc bằng máu châu báu, chúng tôi đến từ khắp mọi dân nước. Và mọi người thờ lạy chúc tụng Thiên Chúa và Con chiên.
Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh thánh Gioan nhìn thấy trong một thị kiến, còn về hạnh phúc Nước Trời, có lẽ chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô:
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được điều Thiên Chúa dành để cho những người yêu mến Ngài.
Bởi đó hãy dứt bỏ những sợi dây níu kéo và cột chặt chúng ta lại với mặt đất, hầu nhờ đó chúng ta hướng tâm hồn lên trời là quê hương đích thực của chúng ta, mà một ngày kia chúng ta sẽ được gia nhập vào cộng đoàn các thánh.
Ý tưởng thứ hai là về các Thánh. Giáo hội hướng dẫn chúng ta nơi trần gian và thúc đẩy chúng ta trở nên thánh qua việc thực hiện hiến chương Nước Trời, tức là tám mối phúc thật của Chúa.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy có những người đói khổ, không đủ cơm ăn áo mặc, những người nô lệ bị bạc đãi, những bệnh nhân anh dũng chấp nhận khổ đau. Họ vui lòng chấp nhận và coi đó như là những thập giá được Chúa gửi đến và họ đã trở nên thánh thiện.
Bên cạnh những người bước đi trên con đường thập giá, chúng ta còn thấy có những tâm hồn quảng đại, trong trắng và yêu chuộng hòa bình. Họ là những người thật âm thầm và vô danh trước mặt người đời, nhưng lại có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta có muốn bước vào con đường của các ngài hay không?
Ý tưởng thứ ba đó là về chúng ta. Giáo hội mong muốn chúng ta trở nên những vị thánh. Lý tưởng nên thánh không phải là một cái gì được dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà là một bổn phận chung của mỗi người con cái, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay như Chúa Giêsu đã phán:
- Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành.
Sự thánh thiện không phải là một đỉnh cao mà chỉ một vài người đạt tới. Cũng không phải là một bông hoa chúng ta phải lặn lội vào tận rừng sâu mới hái được. Trái lại, ai trong chúng ta cũng có thể và phải trở nên thánh.
Nhìn vào các thánh trên trời chúng ta thấy: Không phải chỉ có các đấng được ghi trong niên lịch phụng vụ, mà còn là một số rất đông thuộc mọi dân mọi nước. Tất cả các ngài không phải là những người làm phép lạ, sống trong tu viện hay nổi tiếng về một phương diện nào đó. Trái lại, có những vị cũng tầm thường như chúng ta, cũng sa ngã như chúng ta, cũng sống giữa lòng cuộc đời đầy bon chen và cám dỗ như chúng ta, bởi đó chúng ta thêm phấn khởi mà nói lên như thánh Augustinô: Ông nọ bà kia lên thánh được, còn tôi tại sao không.
Trong ngày hôm nay, chúng ta hãy dốc quyết uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, để trong ngày sau hết chúng ta được gia nhập cộng đoàn các thánh và vui hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
33. Các Thánh và bổn phận nên thánh
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
– Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta. Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng:
– Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:
– Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói: – Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.
Trở nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối… Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.
Cũng vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:
– Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà, tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.
Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen: – Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: – Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
31/10 Giới răn trọng nhất
- Viết bởi Mc 12, 28b-34
Giới răn trọng nhất.
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất".
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu".
Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34
1. Điều răn đứng đầu -- Manna
Suy Niệm
Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó.
Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau.
Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật.
Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn.
Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân,
là hy sinh chính mình để sống cho người khác.
Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng.
Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu
về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật.
Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính:
yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình.
Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.
Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.
Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.
“Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn.
Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.
Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi,
với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi...”,
ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa.
Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.
Cụm từ “với trọn cả” được lặp lại nhiều lần
như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.
Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết,
là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên.
Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa.
Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.
Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất:
yêu người thân cận như chính mình.
Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai.
Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng.
Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha,
là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ.
Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người,
dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em.
Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa
để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao.
Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu,
cứ đong đưa giữa hai tình yêu.
Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu:
tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy.
Ngài sống để yêu và chết vì yêu.
Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu
để thấy mình còn yêu quá ít.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đâu là chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo nào?
Bạn thấy yêu tha nhân có dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa,
Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa,
Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa,
Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
2. Luật tối thượng – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:
Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?
3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?
3. Yêu Chúa yêu người -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Mười điều răn của Chúa được tóm lại trong hai điều: mến Chúa và yêu người. Cũng còn có thể nói mười điều răn của Chúa được tóm lại trong một chữ yêu mà thôi.
Yêu Chúa
Môsê đã truyền cho dân chúng giới luật của Chúa, và nếu dân chúng vâng theo thì sẽ được sống lâu trong đất nước Thiên Chúa đã hứa với cha ông họ. Giới luật của Chúa rất đơn sơ: “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Dnl.6, 5).
Yêu nhau là muốn gần nhau, dành thời gian cho nhau, chọn nhau là nhất trên những người khác, tin tưởng và sẵn sàng cho người kia tất cả. Cũng tương tự vậy nếu con người yêu Chúa,
tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, tin rằng Ngài muốn điều tốt cho mình;
sẵn sàng dành thời gian cho Chúa, cụ thể dành thời gian cầu nguyện;
chọn Thiên Chúa trên những thực tại khác, trên những tà thần như tiền bạc danh vọng chức quyền. Chẳng hạn trọng lịch sử, người Do Thái từ bỏ tà thần để chỉ được thờ một Thiên Chúa mà thôi.
Tình yêu không chỉ bằng lời nói nhưng chính yếu bằng hành động. Yêu thương, là phải chọn. Chọn ai, là yêu thương người đó. Tình yêu được diễn tả qua những gì rất là cụ thể. Yêu Thiên Chúa, là chọn Thiên Chúa trên tất cả.
Yêu người
Cựu ước trong sách Đệ Nhị Luật đòi người ta phải yêu Chúa trên hết mọi sự: hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực. Tin Mừng theo thánh Marcô cho thấy Đức Yêsu đã đặt giới răn “yêu người” ngay sau giới răn “mến Chúa”.
“Phải yêu thương người chung quanh như chính mình”, đó là giới răn thời Cựu Ước. Trước khi dâng hiến đời mình cho con người, Đức Yêsu đã truyền cho các môn đồ: “hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Tiêu chuẩn yêu thương, không còn là “như chính mình” nữa, nhưng là “như Đức Yêsu yêu”. Yêu thương, là hy sinh cho người mình yêu, sẵn sàng chịu thiệt thòi vì lợi ích của người mình yêu. Đức Yêsu đã làm tất cả, để con người được sống và được sống hạnh phúc; cũng tương tự vậy những ai yêu thương theo gương Đức Yêsu.
Thư của thánh Gioan còn liên kết hai giới răn “mến Chúa” và “yêu người” với nhau đến độ không thể tách rời hai giới răn này: “ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là người nói dối” (1Ga.4, 20). “Ai sống yêu thương, thì biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8). Chính thái độ sống yêu thương con người, là dấu chỉ và thước đo cho thấy người đó có yêu mến Thiên Chúa thật hay không.
Yêu thương anh em, là phải giúp đỡ anh em mình một cách cụ thể: “nếu có người anh em thiếu thốn không có áo che thân và không đủ ăn hằng ngày, mà có người trong anh em nói với họ: “hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì?” (Gc.2, 15-16).
Yêu người, là muốn điều tốt cho người mình yêu, giúp đỡ cụ thể từ vật chất đến tinh thần, và sẵn sàng chia sẻ cho họ những gì mình có, ngay cả hy sinh chính thân mình.
Yêu thương làm con người sống hạnh phúc
Thù ghét oán hờn, hủy diệt con người. Ai sống trong thù hận, nét cau có hằn trên nét mặt, trở nên già và xấu. Nét “không đẹp” trong tâm hồn sẽ biểu lộ ra trên thân xác, trên gương mặt. Sống yêu thương, nụ cười luôn nở trên môi, làm cho đời đẹp hơn tươi hơn và đáng sống hơn.
Người ta luôn thích người đẹp, luôn muốn ngắm nhìn và sống với người đẹp. Nếu ai mà người khác không muốn sống với, sợ hãi, e rằng người đó không đẹp dù nhan sắc có “nghiêng nước nghiêng thành” hay “chim sa cá lặn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nét đẹp tinh thần vượt xa nét đẹp thể lý. Nét đẹp thể lý có thể lôi kéo con người tức thời nhưng không giữ con người lại với mình lâu được; nét đẹp tinh thần sẽ làm những ai sống với mình được bình an và hạnh phúc.
Xin cho mỗi người chúng ta yêu Chúa yêu người, để chúng ta mang bình an và hạnh phúc cho mọi người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Sống trong thù ghét, người ta được gì và mất gì?
2. Yêu thương, người ta được gì và mất gì?
3. Thế nào là yêu thương? (Khía cạnh tiêu cực, khía cạnh tích cực)
4. Người ta có muốn sống gần bạn không? Đâu là ngăn cản lớn nhất làm bạn khó sống yêu thương?
4. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình”. Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.
1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng
Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em”. Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: “Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này”.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.
Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
2. Con người tự do chọn lựa
Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.
Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: “giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?
Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.
3. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn
Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình” sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng “mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình”. Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.
5. Điều răn trọng nhất -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc: một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống ; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự.
- Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em.
- Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 6,2-6)
Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ “hết” được lặp đi lặp lại nhiều lần: “Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em”.
Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.
Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.
2. Đáp ca (Tv 130)
Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.
3. Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
a. Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
b. Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
4. Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu: (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất ; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi ; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi ; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội ; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần ; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “là Yêu Thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau ; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương ; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ: 1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo ; 2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.
1. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói “Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước” và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.
Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau: thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.
2/ Nhưng thương người là thương ai? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra: Nhưng thương người là thương ai? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là: ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.
Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.
3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc:
. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái... Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v... Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
* 2. Hai giới răn đi đôi
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.
Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: “Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được”. Nhưng vua chuột đáp: “Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi”.
Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: “Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?” Nhưng vua chuột đáp: “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai”.
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Mến Chúa yêu người (Mc 12,28B-34)
Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau:
Bà Ann thân mến
…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: “Mẹ ơi! Con thương Mẹ!” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: “Những cái hôn của mẹ đâu?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: “Mẹ thương con. Con biết mà phải không?”
****
Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20).
Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.
Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau”.
Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”. Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Rosalie còn khẳng định: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
****
Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.
Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?” Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”
Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.
Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót ; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.
Đức Giêsu nói với người kinh sư “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Các bậc thang yêu thương
Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:
. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.
. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.
. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.
. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.
. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.
. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.
. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.
. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.
* 6. Chuyện minh họa
Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.
Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.
Trở về nhà, người ấy nói với vợ: “Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân!”
Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình ; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa:
1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng: người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
3. Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu “Và tha nợ chúng con”, chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
VII. GIẢI TÁN
Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.
6. Giới răn Mến Chúa Yêu Người -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Khi nói tới điều răn mến Chúa yêu người thì ai cũng cho là một đề tài quá quen và cũ kỹ rồi, nhưng nếu biết cầu nguyện, suy gẫm, tìm hiểu và nghiên cứu thì đây là một đề tài phong phú, nó sẽ gợi mở ra một chân trời rộng rãi và còn nhiều điều mới lạ. Hầu hết chúng ta mới học thuộc lòng điều răn ấy chứ chưa hiểu hết nội dung, nên chưa thực hành đầy đủ điều răn ấy.
Cốt yếu của đạo Công giáo của chúng ta là Đức ái “Mến Chúa yêu người” vì Đức Giêsu đã khẳng định: “Ngoài ra không còn điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó” (Mc 12,31).
Thánh Phaolô nói: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,13). Thánh Tông Đồ còn khẳng định thêm: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người… được ơn nói tiên tri… đem hết gia tài ra bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13,1-3). Thế mới biết tầm quan trọng của Đức Ai.
Điểm đặc biệt trong đạo chúng ta là Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người lên ngang tầm với giới răn mến Chúa và gắn liền hai giới răn đó chặt chẽ với nhau đến nỗi mến Chúa mà không yêu người thì chưa giữ trọn luật Chúa, và ngược lại cũng vậy. Hôm nay chúng ta suy niệm về luật mến Chúa yêu người nhưng chúng ta chú trọng hơn đến luật yêu người để thúc giục chúng ta thi hành luật Chúa cho đầy đủ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đnl 6,2-6
Ông Maisen nhắc nhở cho dân Do thái phải thi hành luật cao trọng nhất là: “Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức”. Lòng yêu mến Chúa trong Đệ nhị luật truyền dạy bao hàm trong sự trung thành thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ các giáo huấn của Ngài.
Dân Do thái tuân giữ giới răn này qua bao thế hệ. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Cựu ước còn thiếu sót vì chỉ chú trọng tới việc yêu mến Giavê, Thiên Chúa duy nhất, mà chưa nói đến việc yêu thương tha nhân.
Sự thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2: Dt 7,23-28
Thư gửi tín hữu Do thái ca ngợi chức Tư Tế của Đức Giêsu. Chức Tư tế của Đức Giêsu Kitô ưu việt trên chức tư tế của dòng họ Lêvi. Nếu so sánh hai chức tư tế ấy chúng ta sẽ thấy:
- Chức tư tế của Do thái chỉ có một đời người, khi chết thì hết; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu thì vĩnh viễn.
- Các tư tế Do thái là những người phàm, vướng mắc nhiều tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn.
- Các tư tế Do thái phải dâng lễ nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
+ Bài Tin mừng: Mc 12,28b-34
Một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Câu hỏi xem ra bình thường nhưng là câu hỏi hóc búa. Lý do vì trong 613 khoản luật không nói đến điều răn nào trọng nhất, tùy theo ý chủ quan của mỗi luật sĩ, thích điều răn nào thì cho là điều răn ấy trọng nhất.
Nhưng Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật ở Đệ nhị luật và ở sách Lêvi trả lời rõ ràng cho luật sĩ đó là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hai giới răn trọng nhất
I. GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.
1. Giới răn trong Cựu ước.
Ông Maisen là nhà lập quốc và lập pháp đã truyền lại cho dân Do thái mười điều răn của Thiên Chúa. Qua bao thế hệ người ta vẫn trung thành giữ các điều răn ấy.
Hằng ngày người Do thái sốt sắng cầu nguyện với kinh Shema tựa như kinh Lạy Cha của chúng ta. Trong đó có câu: “Hãy nghe, hỡi Israel, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi”.
Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Tuy mọi người tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất nhưng chưa đồng ý với nhau trong một rừng luật như vậy, giới răn nào là quan trọng nhất. Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ trong Tân ước.
Nhân dịp này chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào là sách Đệ nhị luật hay Thứ luật. Ông Maisen đã ra luật cho dân nhưng còn tổng quát và ngắn gọn, sau này luật được diễn dịch rồi tổng hợp thành bộ luật Thorab. Sách Đệ nhị luật không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó cũng không phải là tác phẩm trong thời Maisen. Nó lấy lại luật Maisen, suy đi nghĩ lại và cùng với lịch sử của dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của sách này. Thế nên nó được gọi là Đệ nhị luật hay Thứ luật, tức là luật đến sau luật trước, luật bổ khuyết và diễn giải luật pháp Sinai.
2. Giới răn trong Tân ước.
Trong thời Đức Giêsu, các luật sĩ là những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh và luật pháp. Chắc chắn họ phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh vì đó là lãnh vực chuyên môn của họ. Thế mà có một luật sĩ nêu ra cho Đức Giêsu một câu hỏi kể cũng hơi lạ!
Nhưng thực ra, vào thời ấy, các luật sĩ đều sôi nổi tranh luận xem giới răn này hay giới răn nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê ra một rừng giới răn, cả một cánh rừng mù mịt đối với người Do thái. Như vậy, luật Do thái có 613 khoản luật, chia ra 248 việc phải làm và 365 việc không được làm. Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng: khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới. Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới răn nào trọng nhất. Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều răn nào là trọng nhất.
Đức Giêsu đã trả lời cho ông bằng cách đọc lại những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do thái. Đó là kinh Shema “Hỡi Isrel, hãy lắng nghe” trích trong Đệ nhị luật 6,4-5: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.
Nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai là phải yêu mến anh em: “Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”(Lv 19,18-34).
Trong văn chương Do thái thời ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu quả là bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Marcô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó”(J. Hervieux)
* Hãy yêu tha nhân. Tha nhân là ai? Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân” mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù.
* Như chính mình ngươi. Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.
II. NÓI VỀ HAI GIỚI RĂN ĐÓ
1. Liên hệ giữa hai giới răn.
Điều mới lạ mà Đức Giêsu làm là ghép chung hai giới răn này lại với nhau. Từ trước cho đến thời Đức Giêsu chưa có ai nhập chung hai giới răn ấy thành một. Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng chẳng gặp được người kia.
Nhưng cần phải phân biệt rõ hai giới răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai giới răn này làm một, như thể “yêu Thiên Chúa là đủ” hay “yêu thương anh em” cũng đủ. Giới răn thứ hai không thể thay thế cho giới răn thứ nhất được. Hai giới răn này chỉ là hợp nhất và song hành thôi, chứ giới răn thứ hai không đồng nhất với giới răn thứ nhất được.
Nếu so sánh tình yêu đối với Chúa và anh em thì có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm cho chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục, hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai (Phạm văn Phượng).
2. Tình yêu và hành động.
Nếu thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”, thì chúng ta cũng có thể nói: “Tình yêu không được thể hiện bằng hành động là thứ tình yêu giả dối, chỉ có trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói:
Thương thương nhớ nhớ thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào
a) Mến yêu Chúa.
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Chúng ta hãy nghe những lời Chúa dạy:
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy… Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23).
b) Yêu tha nhân.
Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy”(Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa; vậy yêu người thì cũng phải làm như vậy cho người.
Có lần một người mới gia nhập Do thái giáo yêu cầu thầy Hillel dạy ông ta toàn thể thông điệp của luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của thầy Hillel là “Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích, hãy đi và học lấy”.
Ngay bên Đông phương, trước Đức Giêsu, Đức Khổng Tử đã để lại một câu nói để đời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Sau này ngài cũng nói một câu khác tương tự nhưng với khía cạnh tích cực: “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Tư tưởng của ngài cũng giống như ở trên.
c) Tình yêu tha nhân bắt đầu từ đâu?
Tình yêu tha nhân phải bắt đầu từ gần đến xa. Nhưng bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho mình: Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Chúa nồng nạn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm, và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, Thomas Merton đã nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”.
3. Thành quả của hai giới răn đó.
Nhờ hai tình yêu đó mà con người có thể tìm lại được chính mình. Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa. Hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không thương yêu anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Có một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu,
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu.
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài,
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi,
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.
Chúng ta có thể quả quyết: Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
III. THỰC HÀNH GIỚI RĂN CHÚA.
Chúng ta không còn thắc mắc gì nữa. Lệnh truyền của Chúa thật rõ ràng. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng đồng thời cũng phải thương yêu anh em như chính mình. Yêu anh em như mình là chuyện khó vì anh em là những con người cụ thể với biết bao những khuyết điểm, dễ va chạm, nhiều khi tha nhân bị coi như kẻ thù của ta.
Nhìn rõ thực tế đó nên thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Nếu anh em cụ thể mà không yêu được thì làm sao có thể yêu mến Chúa được”(1Ga 4,20)..
Theo lời thánh Giêrônimô khi Thánh Tông Đồ về già, ngài nguyên giảng về bác ái: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Giáo hữu thưa với thánh nhân: “Sao cha giảng điều ấy hoài”? Thánh Tông Đồ đã trả lời: “Vì đó là điều luật Chúa dạy, và nếu thi hành được duy một điều đó là đủ rồi”.
Đức Giêsu đã phán: “Các con muốn được người ta làm cho các con thế nào thì các con hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). Ngài còn phán thêm: “Hãy cho đi thì các con sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào thì cũng sẽ đong trả bằng đấu ấy”.
Napoléon tuyên bố không thèm thân với ai, thì ông đã chết đơn độc trong đảo Sainte Hélène Hitler, con hùm xám Đức quốc xã, chủ trương dùng bạo lực thì đã chết trong khói lửa đúng theo lời Thánh Kinh “cái ác giết ác nhân”(Tv 33,22).
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, nghe Đức Giêsu trả lời, vị luật sĩ rất tâm đắc với ý kiến rất khôn ngoan của Ngài và diễn tả tâm tình thiện cảm và xác tín của ông đối với tuyên phán của Đức Giêsu về giới răn trọng nhất: “Mến Chúa và yêu người thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và lễ vật hy sinh”. Việc mến Chúa yêu người có giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn những lễ hiến dâng có tính cách hy lễ và vật chất.
Lời phát biểu của vị luật sĩ phát xuất từ sách 1 Samuel 15,22 (bản văn này kêu gọi sự vâng lời). Lời ấy được lấy lại trong Ôsê 6,6 (Ta thích lòng nhân từ chứ không thích lễ tế). Người ta có thể nhận biết trong lời đó sự quở trách mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, đã ngỏ với dân Ngài: dân chỉ thực hiện những nghi thức nhưng kèm theo bóc lột và những bất công.
Truyện: Bỏ tội thiếu tình thương
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm”? Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”?
Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor McCarthy).
Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay: Hỏi: “Ta sống ở đời này để làm gì”? Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”.
Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới mong được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
7. Tiêu chuẩn để đạt hạnh phúc Nước Trời -- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Tám Mối Phúc Thật.
Mát-thêu gom nhiều điều Chúa Giê-su nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay là “Hiến Chương Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay là phần đầu của Bài Giảng Trên Núi, trong đó nêu ra 8 điều kiện mà ai muốn gia nhập vào Nước Trời của Chúa Giê-su đều phải có, được gọi là Tám Mối Phúc Thật. Chẳng hạn: Tinh thần nghèo khó, nhân đức hiền lành, tâm hồn sám hối, luôn khao khát sống công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, biết ăn ở hòa thuận, bị bách hại vì đức Tin. Ai sống theo 8 tinh thần này thì thật diễm phúc, vì sẽ được làm thành viên của Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau.
CHÚ THÍCH:
- C 1-3: +Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông Đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê-a, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính cách phổ quát của sứ điệp của Chúa Giê-su. + Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một ngọn đồi ở gần Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng núi để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước cũ và ban Lề Luật cho Ít-ra-en. + Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị Thầy khi giáo huấn các môn đồ (x. Mt 13,1). + Phúc thay: Đây là kiểu nói hay được dùng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giê-su sử dụng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ... sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai..., còn Lu-ca (6,20-26) thì viết: Phúc cho anh em... + Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là thái độ của người khiêm tốn, hóa nên như trẻ em (x. Mt 18,1-11). Tinh thần nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng từ bỏ của cải vật chất để trở thành môn đệ Chúa và được vào Nước Trời do Chúa thiết lập (x. Mt 6,19-21). Đức Giê-su không coi nghèo khó là điều tốt, vì nghèo thường đi đôi với dốt nát, thất bại và bất hạnh. Người dạy môn đệ không được tham lam tiền của bất chính và không cậy dựa vào thế lực của tiền tài, phải coi đồng tiền là đầy tớ thay vì là ông ông chủ của mình. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su nói: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vìu Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Đức Giê-su không mị dân chúc lành cho sự nghèo khó. Người muốn tái lập một trật tự mới công bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-53).
- C 4-5: + Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với sự nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và bị thiếu thốn. + Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11). + sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong đợi ơn cứu rỗi như lời ông Si-mê-on (x. Lc 2,25). + Được Thiên Chúa ủi an: Họ sẽ đượcThiên Chúa an ủi và ban ơn tha thứ trong giờ phán xét sau này.
- C 6-8: + Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy (1,19; 5,20). + Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước Trời sẽ là phần thưởng dành cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện. + Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa như lời tuyên sấm của ngôn sứ Hô-sê: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri nhân hậu đã giúp đỡ kẻ gặp nạn (x. Lc 10,33-37). + Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Thương xót và tha thứ cho kẻ khác thì sẽ được Thiên Chúa xót thương tha tội nợ cho mình (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “Hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). + Lòng trong sạch: Trong sạch là ngay thẳng trong lương tâm. Người có lòng trong sạch hết mình phục vụ Chúa và tha nhân, không màng tư lợi, không đạo đức giả. Sự trong sạch không những nói về đức khiết tịnh, mà còn về nhiều phương diện khác nữa. + Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được về trời gặp mặt Người ở đời sau (x. Dt 12,14).
- C 9-10: + Xây dựng hòa bình: Sứ mệnh của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Cần hòa giải những tranh chấp, để của lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24). + Được gọi là con Thiên Chúa: Vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ai yêu thương thì mới được ở trong Thiên Chúa và nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn họ sẽ được bình an (x 2 Cr 13,11). + Bị bách hại: Bị bách hại là một đặc điểm của Chúa Giê-su, Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn để vào vinh quang phục sinh. Đây là một điều khó hiểu, điên rồ đối với người Do thái và khó chấp nhận ngay cả với các môn đệ (x. Mt 16,22). + Vì sống công chính: Nghĩa là sống phù hợp với giáo huấn của Chúa Giê-su (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc!” (1 Pr 3,14).
- C 11-12a: + Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời sơ khai đang bị bách hại. + Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14). + Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa, sẽ được nên giống Chúa và sau này được vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc với Người
HỎI: 1-Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trơi do Chúa Giê-su thiết lập. Trong đó, mối phúc nào là quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác? 2-So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca khác nhau thế nào? Phải chăng Đức Giê-su đề cao sự nghèo khó, thường là nguyên nhân gây ra tội lỗi như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”? 3-Tại sao Chúa Giê-su lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi lẽ ra Người phải giúp đỡ người nghèo vượt qua sự nghèo đói bất hạnh ấy để cuộc sống của họ được ấm no hạnh phúc hơn? 4-Ý nghĩa của các mối phúc khác như thế nào: hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì Thầy?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).
2. CÂU CHUYỆN: Gương sống nghèo khó:
PHAN-XI-CÔ THÀNH AT-SI (Phanxico Assise) là con một người giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ, tình cờ nghe một vị linh mục gảng một bài về Tám Mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Từ hôm ấy, Phan-xi-cô thường suy nghĩ phải sống thế nào để thực thi ý Chúa, và trở thành một người nghèo thực sự? Rồi một ngày nọ, anh quyết định sống siêu thoát và từ bỏ để hoàn toàn tin cậy vào Chúa quan phòng. Anh bán tất cả gia sản của cha, rồi đem phân phát cho người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đến tai người cha làm ông nổi giận. Ông đã đến thu hồi tất cả những gì còn lại và không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Hôm ấy anh đã cởi bỏ các thứ quần áo giầy dép quí giá đang mang trên người và ra đi với hai bàn tay trắng. Anh viết trong nhật ký: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ hôm đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã lựa chọn, là từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày anh mặc quần áo vải thô, chân không giày dép đi qua các đường phố và làng mạc để khất thực. Tối đến, anh lại thức khuya để đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng dây da tự đánh vào người hãm mình phạt xác. Anh đã được Chúa Giê-su cho in năm dấu thánh trên hai bàn tay bàn chân và cạnh sườn để nên giống Người. Anh đã thực hành theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Lối tu luyện khổ hạnh của anh đã được Giáo Hội công nhận và dòng “Anh em hèn mọn” do anh sáng lập đã được nhiều người đến xin gia nhập và trở thành một dòng tu lớn trong Giáo Hội. Sau khi qua đời, anh được Hội Thánh phong hiển thánh tức là thánh Phan-xi-cô Át-si, hoặc Phan-xi-cô khó khăn hay Phan-xi-cô Năm Dấu.
3. SUY NIỆM:
1) Hạnh phúc là gì?
Hầu như không ai trong chúng ta đạt được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc xem ra hạnh phúc nhất như vừa thi đậu, vừa được thăng chức, gặp được người thân, được xuất ngọai, được trúng số... nhưng vẫn có những điều làm chúng ta không thỏa mãn. Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su đã chỉ cho chúng ta bí quyết để có hạnh phúc đích thực trọn vẹn. Thiên Chúa ban hạnh phúc, nhưng chúng ta chỉ nhận được khi có khả năng và mở lòng đón nhận. Hạnh phúc thật chỉ có khi chúng ta có Chúa là lẽ sống, được gia nhập vào Nước Trời, được sống trong ơn nghĩa Chúa và được vui hưởng hạnh phúc viên mãn. Tóm lại, người được chúc phúc là người biết mở cửa lòng đón nhận Thiên Chúa và tha nhân: mở trí khôn để hiểu rõ thánh ý Thiên Chúa và thi hành, mở mắt mở tai để nhìn xem và nghe biết những nhu cầu của tha nhân và mau mắn đáp ứng; mở trái tim để yêu thương mọi người; mở miệng để nói lời động viên an ủi và mở đôi tay để chia sẻ cơm áo vẫt chất và phục vụ tha nhân...
2) Phúc thay!: Đây là tám điều kiện phải có để đạt được hạnh phúc Nước Trời:
+ Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó: Đó là những người nghèo của cải vật chất, nghèo địa vị chức quyền, những người ý thức thân phận tội lỗi bất lực của mình để khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Người, biết khiêm hạ phục vụ cho người dưới noi gương Đức Giê-su.
+ Phúc thay ai hiền lành: Là người có lòng nhân từ, không lấy oán báo oán, nhẫn nhịn chịu đựng và tha thứ những xúc phạm của kẻ khác đối với mình.
+ Phúc thay ai sầu khổ: Là người gặp sự đau khổ mà không óan than, nhưng biết nhìn lên Chúa Giê-su trên thập giá để nhận biết giá trị thanh luyện và cứu độ của đau khổ, sẵn sàng chịu đựng những sự trái ý cực lòng để đền tội mình và tha nhân.
+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: Là người luôn hướng thượng, muốn nên hoàn thiện giống Chúa Cha trên trời như Đức Giê-su đã dạy: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
+ Phúc thay ai xót thương người: Là người biết mở rộng lòng để cảm thông với nỗi đau của người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc”. Có lòng quảng đại để chia sẻ tình thương và cơm áo cho những người đau khổ bất hạnh. Họ sẽ được Chúa đền đáp cân xứng sau này. “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng chính cái đấu ấy”.
+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Là người không tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, biết ăn ở ngay thẳng, thật thà, không giả dối, luôn hành động trong sáng. Chính nhờ sự trong sạch nơi thân xác và tâm hồn mà họ sẽ được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa trong Nước Trời mai sau.
+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Là người luôn gieo rắc sự an vui hòa thuận mọi lúc và mọi nơi. Nhờ họ mà gia đình, xã hội và thế giới sẽ có hòa bình. Họ giải tỏa những hiểu lầm, giải gỡ những bất hòa tranh chấp, luôn nhìn mọi người bằng cặp mắt yêu thương và chan chứa tình người. Nhờ đó, họ xứng đáng mang danh hiệu là con của Thiên Chúa.
+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Là người chấp nhận bị sỉ nhục và chịu bách hại vì đức tin. Khi ấy họ sẽ được nên giống Chúa Giê-su. Những ai chấp nhận bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa Giê-su, cùng chịu đau khổ với Người, thì sẽ được tham phần vào sự phục sinh vinh quang của Người sau này.
4. THẢO LUẬN: 1-Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh? 2-Khi gặp một điều rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do kẻ khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào? 3-Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến rủi ro thành may mắn có Chúa, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Trong tám mối phúc Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa và cầu nguyện không ngừng ; Là người ý thức sự nghèo khó bất lực của mình, nên không xem thường tha nhân và luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa ; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng noi gương Chúa khi xưa.
- Lạy Chúa. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh lên cao thì lại càng ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
8. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” -- Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
ROME - Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải “yêu người thân cận như chính mình.”
Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.
Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.
Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.
Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện: “ cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?” và họ trả lời “Phải!” Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: “Các anh chắc không?”
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: “ Lần này cái bình có đầy không?”
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: “Có lẽ chưa.” Rất tốt!” vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: “Bây giờ cái bình đầy không?” Và tất cả mọi người trả lời không do dự: “Không!” “Chắc chắn là thế,” vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: “ “Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?” Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động--sự quản lý thời gian-- trả lời: “ Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm.”
“Không,” giáo sư trả lời, “Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau.”
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: “Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?
“Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
“Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: 'Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?' hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh.”
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.
Với 'những viên đá lớn” do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.
9. Mến Chúa Yêu Người -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm lại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Ki-tô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: Tạ ơn Đức Ki-tô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Ki-tô và mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Ki-tô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Ki-tô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy lụân của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
10. Mến Chúa yêu người
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Mến Chúa – Yêu Người là cốt lõi của đạo Công Giáo chúng ta. Từ thời Cựu Ước, sách Đệ Nhị Luật cho chúng ta thấy, ông Môsê đã dạy cho dân biết điều răn trọng nhất là yêu mến Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)” (x. Đnl 6,5). Từ điều luật quan trọng đó, trải qua dòng thời gian, các luật sĩ, biệt phái đã chú giải thêm thắt thành 613 điều luật khác Vì thế, người Do Thái không biết điều nào là chính điều nào là phụ. Chính vì vậy, hôm nay một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” (Mc 12,28)
Mặc dầu biết ông ta hỏi như vậy là để thử Ngài, nhưng Chúa Giêsu không chấp mà còn dạy cho ông và mọi người biết: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31). Chúa Giêsu xác nhận cách rõ rằng rằng điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Giống như cây thập giá có chiều ngang và chiều dọc: chiều dọc hướng về Thiên Chúa, chiều ngang vươn tới tha nhân. Cũng vậy, mến Chúa yêu người là hai chiều kích của tình yêu, phải luôn đi đôi với nhau. Không thể giữ điều này mà bỏ điều kia, như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.”(1Ga 2,9). “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Và Ngài khẳng định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21).
1. Yêu mến Thiên Chúa
Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu thương nên Ngài tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong đó có con người là hình ảnh của Ngài. Tình yêu đó còn được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu. Vì yêu thương nên Ngài đã ban chính Con Một để ai tin vào Người Con ấy thì được sống muôn đời (x. Ga 3,6). Tình yêu đó còn được thể hiện trong công trình cứu chuộc. Tột đỉnh của tình yêu là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Người đời thường nói: Có đi có lại mới toại lòng nhau. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài đó là lẽ thường tình. Chúng ta có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng nhiếu cách thế khác nhau: Tuân giữ mười giới răn của Chúa; Đọc và suy gẫm Lời Chúa; Cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích...Thực hành những việc đó với cả tấm lòng: Yêu mến hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức chúng ta. Có nghĩa là chúng ta phải luôn đặt Chúa lên chỗ nhất: Trên cha mẹ, trên vợ chồng, trên anh chị em, trên của cải, chức quyền danh vọng và mọi thứ khác.
Rất có thể chúng ta đã yêu mến Chúa nhưng có nhiều lúc chúng ta vẫn chưa yêu mến hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Đó là khi chúng ta chỉ dành cho Chúa một chỗ trong tâm hồn như những thứ khác, thậm chí là kém hơn những thứ khác. Đó là khi chúng ta chỉ yêu mến Chúa lúc bình an hạnh phúc. Đó là khi chúng ta chỉ yêu mến Chúa, chạy đến kêu xin Ngài lúc chúng ta gặp thử thách, đau khổ. Rồi, chúng ta sẵn sàng bỏ Chúa vì chức quyền, danh vọng, vì thú vui trần thế, vì lợi lộc thấp hèn, vì của cải vật chất, giống như Giuđa đã bán Chúa 30 đồng bạc. Hãy can đảm xét mình để thấy được tình yêu của chúng ta dành cho Chúa lâu nay như thế nào? Hãy quyết tâm yêu Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, để có thể nói được như Thánh Phaolô tông đồ “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”(Rm 8,35). Đừng để như thánh Augustinô, hối tiếc vì đã yêu Chúa quá muộn màng.
2. Yêu thương anh em
Về mặt tiêu cực, chúng ta yêu thương tha nhân là không làm cho tha nhân những gì chúng ta không muốn họ làm cho mình. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Về mặt tích cực, chúng ta làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình. Đây cũng là lời dạy của Chúa Giêsu: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Để thực hiện giới răn Yêu Người, trước hết, cần phải yêu thương những thành viên trong gia đình: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt, chú bác, cô dì. Sau đó, phải yêu thương những người thân cận: Bạn bè, làng xóm láng giềng, những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Từ đó, chúng ta mới có thể yêu thương những người khác, những người xa lạ, những kẻ làm hại chúng ta. Bởi vì, nếu không yêu thương những người có liên hệ với chúng ta thì làm sao chúng ta có thể yêu thương những người xa lạ, làm sao chúng ta có thể yêu thương kẻ thù của chúng ta? Vì Chúa Giêsu đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em mình (x. Lc 6,27). Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta khi Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34). Noi gương Chúa, nhiều vị thánh đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Chẳng hạn, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tù thăm kẻ ám sát mình; thánh Maria Goretti đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình.
Yêu thương là phải hy sinh, trao hiến: Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã hy sinh vì nhân loại. Cao điểm của sự hy sinh đó là trao hiến chính mạng sống mình trên thập giá vì nhân loại. Noi gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã hy sinh, trao hiến đời mình để phục vụ tha nhân như Mẹ Têrêxa Cacutta, thậm chí đã chết thay cho người mình yêu như Thánh Maximilianô Kolbe.
Yêu thương phải bằng những việc làm cụ thể qua cử chỉ thăm viếng, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho những kẻ bé mọn. Đến ngày chung thẩm, Chúa Giêsu dựa vào tiêu chuẩn này để phán xét chúng ta. Ai thương yêu giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25, 35-36). Ngược lại, ai không giúp đỡ những kẻ bé mọn là không giúp Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (x. Mt 25, 42-43).
Xét mình lại, có lẽ không ai trong chúng ta đã chu toàn trọn vẹn luật yêu thương. Cách này cách khác, chúng ta lỗi đức yêu thương đối với tha nhân trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Ước mong rằng, mỗi chúng ta luôn cố gắng thể hiện bổn phận yêu thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhờ đó người khác sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa. Câu chuyện sau đây dạy chung ta bài học yêu thương hết sức thiết thực:
Một hôm trên đường trở về nhà xứ, vị linh mục già của thị trấn Picardie, vừa đi vừa đọc thầm kinh nhật tụng. Có hai viên sĩ quan trẻ cũng về chung đường. Khi rảo bước ngang qua, cả hai đều tỏ ý mỉa mai chế nhạo ông cha đạo vì từ lâu họ đã mất niềm tin nơi Giáo Hội Công giáo. Sẵn đang vui chuyện, họ tiếp tục chủ đề chỉ trích các tu sĩ, mặc kệ ông cha xứ già bị bỏ rơi lại phía sau một đoạn khá xa.
Chợt có một người hành khất ngồi bên vệ đường lên tiếng: “Các anh ơi, xin giúp kẻ nghèo này với.” Nghe vậy, một trong hai sĩ quan trẻ lục túi tìm cho người ăn mày mấy đồng bạc, trong khi anh kia cũng chợt nẩy ra một ý. Anh nói với bạn: “Ông cha già hồi nãy thế nào cũng sẽ đi ngang qua đây. Tôi dám cá độ với anh là ông ta sẽ chẳng thí cho lão ăn mày này đến một xu! Cái bọn tu sĩ đạo đức giả ấy chỉ thích làm phúc trước đám đông mà thôi. Không tin thì ta cứ rình ở đây mà xem!” Cả hai nhất trí trốn vào một bụi cây gần đó.
Ít phút sau, quả nhiên vị linh mục già chậm rãi đi tới. Ngài đứng lại nhìn người hành khất, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi hết sức ái ngại nói với ông ta: “Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc là ta chẳng có lấy một xu dính túi để chia sẻ cho ông bạn.”
Anh lính trong bụi nghe thế thì rúc rích cười: “Đấy, anh thấy chưa? Tôi nói có sai đâu!” Trong khi ấy, người ăn mày lại tiếp tục nài van, xin vị linh mục rộng lượng bố thí, còn ngài thì tỏ ra áy náy bứt rứt vì bó tay. Chợt, ngài nhìn kỹ bộ quần áo rách tả tơi của người ăn mày, động lòng trắc ẩn, suy nghĩ một thoáng rồi ngài bảo ông ta, giọng vui hẳn lên: “Ông bạn đợi ta một chút nhé, ta sẽ trở lại ngay!”
Dứt lời, ngài nhìn trước trông sau rồi chui tọt vào bụi cây ngay cạnh chỗ hai anh sĩ quan đang núp. Loay hoay một hồi rồi ngài lại bước ra, ngài ân cần đưa cho người ăn xin chiếc quần dài đã cuốn gọn lại: “Đây, ông bạn hãy cầm đỡ chiếc quần của ta nhé, tuy nó hơi cũ, lại đang mặc dở, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng có kể cho ai nghe. Nếu có định cám ơn ta thì ông bạn cứ cầu nguyện với Chúa cho ta một điều tốt lành gì đó cũng được. Thôi ta đi nhé.” Vị linh mục quản xứ già xốc lại chiếc áo chùng thâm cho ngay ngắn, tay lại mở trang sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ đang đọc dở dang rồi tiếp tục đoạn đường.
Hôm sau, có hai người khách lạ tìm đến bấm chuông nhà xứ rất sớm. Vị linh mục già nhận lời ra ngồi tòa giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được lần lượt thuật lại từ miệng hai anh sĩ quan trẻ tuổi ngày hôm qua, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Cha xứ ngẩn ngơ thốt lên: “Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ của con mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn sao?” (Theo lời kể của Đức Ông DE SÉGUR).
11. Hãy mến Chúa yêu người thật lòng
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúng ta luôn nói và khẳng định rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Đó là một chân lý, sự thât. Nhưng còn chúng ta có yêu Chúa hay không? Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa có thực sự là trên hết mọi sự, hết linh hồn hết trí khôn không hay vẫn còn đó sự “bắt cá hai tay”? Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta vô bờ bến còn tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và tha nhân vẫn còn đó những toan tính thiệt hơn?
Chúng ta thử quan sát thái độ sống Đạo của chính mình và các tín hữu chung quanh chúng ta sẽ thấy: nhiều khi chúng ta theo Đạo nhưng chỉ dừng lại ở việc tham dự lễ ngày Chúa nhật đầy đủ là yên tâm vì đã chu toàn bổn phận với Chúa. Nhưng đa phần là chúng ta chỉ đi xem chứ không dự vì xác ở nhà thờ còn tâm hồn của ta ở bên ngoài đủ mọi lo toan sự đời nhân tình thế thái. Có những người đi lễ còn cố tình đi muộn để đứng ở ngoài, để tìm chỗ khuất để vừa dự lễ vừa điều khiển công việc qua điện thoại. Có những người đi nhà thờ, tham gia các đoàn thể xem ra rất tốt nhưng ở đời họ vẫn còn đó những đam mê tội lỗi, những mê tín dị đoan. Họ sống thiếu công bình bác ái. Họ vẫn chồng nọ vợ kia, vẫn ngoại tình, vẫn cờ bạc, vẫn rượu chè bê tha, tham sân si. Có những người cho rằng theo Đạo là Đạo tại tâm nên chẳng chịu lãnh nhận các bí tích. Thực ra Đạo Công Giáo vừa bên trong vừa bên ngoài, tức là tin Chúa, yêu Chúa thì phải sống Lời Chúa dạy cho nên kính mến thờ phượng Thiên Chúa hết lòng hết sức thì phải yêu người như Chúa yêu ta thể hiện qua đời sống đức tin: sống thánh thiện, công bình và bác ái.
Cho nên Chúa Giêsu dạy: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. Yêu mến Chúa trên hết mọi có nghĩa rằng siêng năng tìm hiểu lời Chúa và thực hành Lời ấy trong cuộc sống. Vì chưng, Chúa Giê-su đã từng nói không phải những ai kêu “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Thiên đàng đâu! Mà là những ai thực hành lời Chúa mới được vào Thiên đàng”. Tựa như hai người yêu nhau thì luôn lắng nghe nhau, lắng nghe những nhu cầu của nhau và luôn làm điều gì đó cho người mình yêu hài lòng. Vì thế, nếu chúng ta yêu mến Chúa thực sự thì chúng ta cũng phải lắng nghe Lời Chúa và sống điều Chúa truyền để làm vui lòng Chúa. Điều mà chúng ta có thể làm vui lòng Chúa là sự trung thành với Chúa và sống thương mến nhau. Sự trung thành với Chúa đòi hỏi chúng ta phải để cho Chúa vị trí số 1 trong tâm trí, trong cuộc sống của chúng ta. Sự trung thành đó được thể hiện qua việc chúng ta luôn chọn Chúa hơn là những danh lợi thú trần gian vì chưng Thánh vịnh chúng ta vừa đáp ca rằng: “Con yêu mến Ngài, lạy CHÚA là sức mạnh của con; lạy CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ”.
Tại sao yêu mến Chúa cũng đòi phải yêu mến tha nhân? Bởi tha nhân là hình ảnh của Chúa, con cái Thiên Chúa và anh em với nhau. Thánh Gioan nói rằng ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em là kẻ dối gian. Sở dĩ chúng ta phải yêu mến tha nhân vì chúng ta đều là con một Cha trên trời, là anh em với nhau, và chính Chúa Giê-su đã từng đồng hóa mình với những mảnh đời bất hạnh để những ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Vì thế giới răn yêu người cũng là giới răn quan trọng mà Chúa đã để lại cho các môn đệ như một chúc thư phải thi hành: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.
Để được như thế, mỗi người tín hữu phải là một Kitô khác để có thể hiểu và cảm thông với tha nhân. Một Kitô khác có nghĩa rằng chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống thiếu vắng tình yêu trong lời nói và việc làm của chúng ta. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống thiếu sự quan tâm với những anh em nghèo đói, với những mảnh đời bất hạnh bên đường. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống trong bùn nhơ của tội lỗi, của sự thiếu trong sạch, thiếu công bình và bác ái với tha nhân. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta hà khắc, kết án anh em một cách đoạn tuyệt và thiếu lòng bao dung. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô khi chúng ta hiện diện với ai, là chúng ta đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô để chúng ta có thể gieo vãi yêu thương, hạnh phúc vào cho nhân thế qua việc phục vụ và dấn thân quảng đại của chúng ta. Chúng ta hãy nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô để có thể tha cho kẻ làm hại chúng ta, để có thể quên đi lỗi lầm của anh em và dám hy sinh quên mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Chẳng hạn, Thánh nữ Têrêxa Calcutta là Nhà Truyền Giáo của Tình Thương Bác Ái, đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời, để phục vụ những anh chị em nghèo cùng nhất, với sức mạnh múc lấy từ tình thương đối với Chúa Kitô. Sứ mạng của Mẹ Têrêsa bắt đầu mỗi ngày, trước lúc rạng đông, trước Bí Tích Thánh Thể. Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, Mẹ đã lắng nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: Ta khát. Lời Kêu Vang nầy, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố Calcutta và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người nghèo, người khuyệt bệnh bệnh hoạn, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay trong tháng Các đẳng linh hồn này, xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu người một cách chân tình và thật lòng. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa một cách trân quý nhật và khi chúng ta trao ban bình an cho nhau một cách chân tình nhất. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống việc sống thánh thiện và thương yêu hết mọi người khi còn sống hay đã qua đời bằng hành động cụ thể hằng ngày của chúng ta. Amen.
12. Giới răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 12:28-34: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm Biệt Phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề Luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu Ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật vì trong Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật phải làm.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Người, vì nếu Người trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ Nhị Luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Chỉ có một điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: «Nếu ai nói: “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21)
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “mến Chúa” và nhất là “yêu người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một hòn đá vào cánh cửa chiếc xe.
Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
“Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?”.
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: “Em xin lỗi! Nhưng em... em... không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng”.
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
“Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá”. Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ: “Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà.
Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc nhở anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé. Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có một ai đó ném một hòn đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
13. Mến Chúa – Yêu người
Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.
Đối với giới luật thứ nhất là kính mến Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng, như một bổn phận đường nhiên. Còn đối với giới luật thứ hai là yêu thương anh em, những con người cụ thể với những giới hạn và khuyết điểm, thì quả thực có nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Giới luật này chẳng những là một điều rất khó thực hiện, mà nhiều lúc còn là một thử thách rất lớn cho chính đức tin của chúng ta. Thế mà Chúa Giêsu lại nâng giới luật này lên hàng đầu, ngang bằng với lòng kính mến Thiên Chúa, và còn gọi tình yêu tha nhân là giới luật mới, là dấu chỉ của người môn đệ Ngài.
Sở dĩ được gọi là mới là do ý nghĩa thâm sâu mà Chúa Giêsu đã mang lại cho nó, khi Ngài liên kết con người với Thiên Chúa trong một tình yêu chung. Hai tình yêu ấy hòa nhập làm một hay trở nên hai mặt không thể tách rời của một tình yêu duy nhất. Con người, bất kể là ai, sang hay hèn, tốt hay xấu, đều có phẩm giá và phẩm giá này cần phải được tôn trọng. Phẩm giá ấy không phải do của cải hay địa vị xã hội tạo nên, nhưng nó đã được chôn sâu trong chính con người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là con cái của Ngài.
Bởi thế, yêu thương con người là yêu thương chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi họ, là yêu thương chính người cha đang ở với mỗi người con. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với con người. Ngài ẩn hình nơi mỗi con người. Vì thế, Ngài buộc các môn đễ của Ngài phải trọng kính và yêu thương mỗi con người: Ai cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ mình trần được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được thăm viếng, thì đó là người ấy đã làm cho chính Chúa được ăn, được uống, được mặc và được thăm viếng vậy. Như thế, tình yêu thương con người đòi hỏi một thái độ đức tin, đó là phải nhìn thấy Chúa trong những người anh em.
Và cũng chỉ có thái độ đức tin mới giúp chúng ta vượt lên trên những ác cảm, những khác biệt, những thù hằn để thương người như chính mình ta vậy. Và hơn thế nữa, với thánh Gioan, thì lòng thương người trở nên như một trắc nghiệm cho tình mến Thiên Chúa, nó chính là thước đo cho tình mến Chúa, bởi vì ai nhận mình kính mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em, thì kẻ đó chỉ là kẻ nói dối mà thôi.
14. Mến Chúa yêu người.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.
Trước hết là lòng mến Chúa.
Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.
Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.
Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.
Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.
Tiếp đến là tình thương người.
Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.
Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.
Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.
Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.
15. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người (Th. Augustinô).
Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.
Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.
Giới răn quan trọng nhất
Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.
Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.
Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.
Yêu như Chúa yêu
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.
Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”
Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).
16. Hai mặt bàn tay
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Công ty địa ốc MKB Fastighets AB - trực thuộc Hội đồng Malmo, thành phố lớn thứ ba của Vương quốc Thụy Điển, đã bỏ ra 1,3 triệu kronor (197.000 USD) cho một chiến dịch khuyến khích những người thuê nhà của họ, chào hỏi hàng xóm láng giềng, như trong câu hát “khi mỗi hàng xóm là một người bạn” trong nhạc phẩm bất hủ Happy New Year của ban ABBA.
Chiến dịch “Lời chào đến hang xóm bạn” (Sag hej till din granne) được MKB thực hiện từ ngày 7-7-2012, dựa trên kết quả khảo sát vào đầu năm nay: 70% muốn nhờ vả hàng xóm khi cần thiết, 70% tin mối giao hảo với hàng xóm tốt cho mọi người và 80% muốn nói chuyện với hàng xóm.
Từ 15 năm nay số người nhập cư tăng cao, chủ yếu đến từ các nước Hồi giáo. Nhiều người chọn Malmo vì nằm ở cực nam, khí hậu ấm áp hơn thủ đô Stockholm. Tuy Malmo rộng chỉ hơn 280.000km2, chỉ có 293.900 người, nhưng có tới 170 quốc tịch và 150 tiếng nói khác nhau!
Điều đáng chú ý là cùng với sự lớn mạnh của các cộng đồng nhập cư thì tình trạng bạo lực, tội phạm có vũ trang, buôn lậu ma túy cũng gia tăng. Đó là chưa kể tình trạng bạo lực gia đình, phổ biến nhất là trong những gia đình gốc nhập cư Hồi giáo, đến từ Trung Đông và Pakistan.
Chiến dịch chào hỏi của MKB như vậy có thể được xem như một sáng kiến mới của thành phố “nhiều màu sắc” này, làm mọi người xích lại gần nhau hơn, nhất là trong bối cảnh Malmo sẽ là thành phố chủ nhà cho Eurovision 2013, cuộc thi hát uy tín nhất tại châu Âu. (Tuổi Trẻ 12/10/2012)
Theo tạp chí The Economist, Thụy Điển đứng đầu về chỉ số dân chủ trên thế giới và đứng thứ bảy trong Liên Hiệp Quốc, về chỉ số phát triển con người. Tuy nhiên theo thống kê, Thụy Điển là một trong những nước vô thần nhất thế giới, vì 85% người dân không tin vào tôn giáo. (Wikipedia)
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến thái độ đối với tha nhân. Thánh Marcô tường thuật một kinh sư cảm phục Chúa Giêsu đối đáp hay, bèn đến hỏi Người: “Thưa Thầy trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12, 28). Nhưng trong Tin Mừng Thánh Matthêu và Luca, lại nói rõ là vị kinh sư đó, đại diện cho nhóm Pharisiêu đển thử thách Người, ngay sau khi Người “đã làm cho nhóm Xa Đốc phải câm miệng.” (Mt 22, 34).
Yêu Chúa yêu người
Đức Giêsu trả lời: Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31)
Ngoài Lề Luật trong Sách Thánh, các thầy rabbi còn thêm 248 điều răn và 365 điều cấm. Người ta còn phân biệt khoản lớn với khoản nhỏ, điều nặng với điều nhẹ. Như thế, đâu dễ dàng tìm ngay ra một câu giải đáp vắn gọn và đầy đủ như yêu cầu của vị kinh sư. Nhưng Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức, đã khiến vị kinh sư phải tức khắc khẩu phục, tâm phục.
Hai Mặt Bàn Tay
“Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Ngoài Người ra không có đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12, 32-33)
Nghĩ Chúa Giêsu sẽ sa vào cái bẫy với hàng trăm luật lệ rườm rà, như mớ bong bong, nhưng nghe thấy Người tóm gọn chính xác và vắn tắt điều răn quan trọng, vị kinh sư ngạo mạn phải kính cẩn, chân thành ca ngợi Người và đồng thanh khẳng định lại chân lý đó.
Từ thái độ thách đố, khinh khi, chuyển ngay sang thái độ phục thiện và tôn kính, vị kinh sư đương nhiên hiểu rằng: Yêu Chúa và yêu tha nhân liên kết chặt chẽ như hai mặt của bàn tay, hai mặt của đồng tiền, không thể phủ nhận mặt nào hết, nếu muốn giữ nguyên giá trị.
Cụ thể hóa giới răn hàng đầu
Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: “Ông không còn xa nướcThiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34) Người khen vị kinh sư và muốn ông cụ thể hóa điều vô cùng trọng đại đó, áp dụng ngay vào cuộc sống. Còn khoảng không còn xa kia tùy theo cái tâm mỗi người chân thành hay không.
Trở lại câu chuyện bên trên, sở dĩ Cty địa ốc MKB Fastighets AB, phát động “Lời chào đến hàng xóm bạn”, vì dân cư thiếu quan tâm đến tha nhân, chẳng yêu người, vì đã khước từ Thiên Chúa hiện diện trong đời sống.
Đối với Kitô hữu, không tài nào kính mến Thiên Chúa mà không thương mến nhân loại, thương mến nhân loại mà không yêu thương mọi người, yêu thương mọi người mà không quý mến những người mình biết, với một tình yêu cụ thể và tích cực. (M. Delbrel)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con yêu mến Chúa, bằng chính cuộc sống thương yêu chia sẻ đến với mọi người con quen biết. Cho con biết yêu người như chính bản thân con.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết chấp nhận và yêu mến mọi người, như xưa kia Mẹ hằng thương yêu, chăm lo, săn sóc các Tông đồ cùng toàn thể cộng đồng, từ tiệc cưới Cana đến đồi Golgotha, vì tình yêu Thiên Chúa muôn đời. Amen.
17. Mến Chúa yêu người.
Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh, đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm. Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.
Và cũng từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em, thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em, là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Thế nhưng, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Trái lại, nếu chúng ta yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm, thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu, thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.
18. Mến Chúa và yêu người – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.
Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.
Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?
Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:
1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:
Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).
Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.
Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).
Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).
Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).
2. Yêu người thì ta phải:
Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.
Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).
Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).
Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11 ; 2Cr. 5, 14).
Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.
19. Yêu mến Chúa hết lòng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?
Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”
Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.
Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!
Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).
Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?
Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.
20. Đạo Yêu Thương -- PM. Cao Huy Hoàng
Nhớ lại, chiều ngày 23-11-2009, Tại Sở Kiện, trong dịp khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 350 năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, tôi đặc biệt tâm đắc lời phát biểu bằng cung giọng miền Nam rất đơn sơ chân chất của Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, chủ tịch Ủy Ban Năm Thánh Toàn Quốc: “Người Công giáo Việt Nam hãy viết lại định nghĩa Đạo Công Giáo vào trong cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đoàn nơi chúng ta sống. Ước mong sử sách sẽ ghi nhận lại định nghĩa này vào trong văn hóa và tiềm thức của mỗi người: Đạo Công giáo – Đạo Yêu Thương, người Công giáo là người luôn ý thức rằng Chúa yêu thương mình và do đó ý thức được bổn phận phải yêu thương tất cả mọi người”.
Có thể có nhiều triết gia, nhà thần học, nhà ngôn ngữ học, hoặc những người thông thái cho rằng câu nói tầm thường ấy có gì mà đáng tâm đắc. Nhưng với tôi, tâm đắc chính chỗ tầm thường ấy, giản dị ấy mà chất chứa cả một mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Có người cho rằng việc yêu thương nhau là chuyện hẳn nhiên như “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” hoặc “thương người như thể thương thân”, “máu chảy ruột mềm” … theo cách văn hóa của người Việt vốn có từ ngàn xưa trong cái xã hội đình làng, lũy tre, bờ xe, bến nước…
Nét đẹp văn hóa ấy ở đâu ra? Tự nhiên mà có hay là có cùng thời với Tiếng Việt, cùng thời với việc loan báoTin Mừng cho người Việt bằng Tiếng Việt? Thiết nghĩ, câu trả lời dành cho các nhà sử học.
Phần chúng ta, có thể hiểu rằng, Tin Mừng đến quê hương này là đã có ngay luật điều căn bản cho người công giáo:
“Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Những người công giáo đầu tiên trên đất nước nầy đã sống và giữ luật điều quan trọng ấy đến nỗi người lương có thể nhận thấy và chúc tụng: Đạo Công Giáo chính là Đạo Yêu Thương.
Bởi cách thể hiện tình yêu thương của người công giáo không giống như của người chưa thấm nhập Tin Mừng. Người công giáo yêu thương người vì kính mến Chúa. Người chưa phải công giáo thì yêu thương người để được người khác yêu thương lại, để tạo một tương quan thuận lợi trong cuộc sống. Vì kính mến Chúa, vì lề luật tích cực của Chúa trở thành một bổn phận của lẽ công bằng: yêu người vì Chúa đã yêu ta, yêu người như Chúa đã yêu ta, cho nên, người công giáo yêu thương cả người thân, kẻ sơ, cả người giàu có lẫn kẻ nghèo khó, cả người thương lẫn kẻ ghét, cả người tôn trọng tự do tín ngưỡng lẫn người bức bách cấm cách, bắt bỏ tù, tra tấn, ngục hình chém giết dã man…Nếu không phải yêu người như Chúa dạy, hẳn là người Công Giáo đã nổi loạn lên rồi, thay vì âm thầm chấp nhận làm chứng cho Đức Tin vào sự sống lại và cầu nguyện cho người dám đưa chân đạp mũi nhọn biết đàng ăn ăn trở lại.
Nhìn lại Đạo Yêu Thương của những người Công Giáo Việt Nam đi trước chúng ta, là cha ông chúng ta, hẳn mỗi chúng ta phải đặt lại cách sống đúng với Tin Mừng như Chúa muốn, như cha ông ta đã nêu.
Đạo Yêu Thương bắt đầu nơi các gia đình: vì yêu Chúa, kính sợ lề luật của Thiên Chúa, cha mẹ sốt sắng thờ phượng Chúa qua các giờ kinh chung tối sáng, giờ cầu nguyện chung trong gia đình, nhắc nhớ nhau đời sống bí tích, đời sống giáo hội. Nhờ đó, kín múc ân sủng của Thiên Chúa mà trung thành với nhau trong tình yêu hôn nhân để làm gương sáng cho con bằng một tình yêu tận hiến. Gương sáng Đạo Yêu Thương của gia đình này sẽ là ngọn đèn soi cho gia đình kia, tạo nên một xóm làng sống Đạo Yêu Thương, không kể là lương hay giáo.
Đạo Yêu Thương từ gia đình đến Giáo Xứ. Uy tín của Chúa Giê-su mỗi ngày mỗi lớn lao, được mọi người tôn kính khi họ nhìn thấy cộng đoàn giáo xứ sống chan hòa yêu thương từ mục tử đến đoàn chiên, từ những người giúp việc giáo xứ đến những người nghèo khổ nhất. Không có gì đau khổ cho Chúa Giê-su bằng việc chính những người có Đạo Yêu Thương lại không yêu thương nhau, không đoàn kết với nhau, lại còn hơn thua nhau, ganh tị với nhau, tố cáo lẫn nhau, và tồi tệ hơn nữa là tranh giành nhau có chức có quyền hơn là tranh giành nhau mà phục vụ mọi người.
Đạo Yêu Thương của Cộng Đoàn Giáo Hội Địa Phương, cấp Giáo Phận, hẳn là bằng chứng hùng hồn nhất của Giáo Hội Chúa Ki-tô Toàn Cầu. Nếu các Giáo Xứ chân thành nêu gương đời sống yêu thương, hẳn là Giáo Hội Địa Phương của Chúa Giê-su đang có một sức mạnh thẩm thấu thế giới này, cho dẫu là thế giới của những kẻ không muốn tin vào Thiên Chúa. Sự Hiệp Nhất, Nên Một trong Chúa Ki-tô nguồn mạch Tình Yêu, nguồn mạch Sự Sống, không cho phép các Ki-tô Hữu, các cộng đoàn Giáo Xứ tách lìa nhau cách tự trị, nhưng ngược lại, luôn tương trợ nhau trong đời sống Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Dường như Ông Môi-sê cũng đang nói với các gia đình, các giáo xứ, các giáo phận, với tất cả chúng ta “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài”. (x.Đnl 6, 2-6)
Và Chúa Giê-su đang nhắc lại:
“Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. (Mc 12, 29-31)
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết sống Đạo Yêu Thương để dạy cho con cháu, hậu duệ bằng gương sống “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
21. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard.
Bối cảnh.
Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.
Mở đầu.
Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.
1. Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.
Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?
2. Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.
Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.
Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.
3. Thương yêu đồng loại như chính mình.
Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Câu hỏi.
Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.
22. “Tôi không biết điều tôi không thể”.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp cho cha ông ở nông trại tại Verment, cha của ông là một công chứng ở tòa án. Lúc vẫn còn ở nông trại ông đã chứng nhận lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho con ông. Một người nào đó sau đó đã hỏi ông: “Ông có biết là ông đã chứng nhận lời thề tổng thống cho con ông không?”. Ông trả lời: “Tôi không biết điều tôi không thể”.
Một câu trả lời ngắn gọn đầy ấn tượng của Coolidges, đã diễn tả cảm tính của nhiều người mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta muốn sự tự do. Chúng ta muốn tin rằng bất cứ những gì không bị cấm thì được phép. Có lẽ với sự ngạc nhiên của chúng ta là Chúa Giêsu cũng cảm thấy như thế, Người yêu thích sự tự do.
Câu hỏi và luật sĩ đã đặt cho Chúa Giêsu thì không phải là vô bổ: “Điều gì là quan trọng nhất trong các Lề Luật”. Dĩ nhiên ông ta đã suy nghĩ về những điều luật được tìm thấy trong Cựu Ước. Theo những thầy Rabbi giải thích luật đã quyết định rằng nó có 613 khoản luật, 248 khoản tích cực và 165 khoản tiêu cực. Vị luật sĩ đã chân thành khi ông hỏi: “Điều nào là điều quan trọng nhất”. Bởi điều mà ông ta muốn nói, điều luật nào là điều luật lớn nhất? Chúa Giêsu đã trả lời không do dự, Ngài lập tức trích dẫn sách Đệ nhị luật, bài đọc I mà chúng ta đọc trong ngày chúa nhật hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.
Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.
Chúng ta có thể cũng hỏi Chúa Giêsu: “Có một điều luật lớn nhất hay là hai?” Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ có một điều luật duy nhất, bởi vì các con không thể yêu Thiên Chúa thật nếu các con không yêu mến anh em và các con không thể yêu mến anh em nếu các con không yêu mến Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã vươn ra khỏi sách Đệ nhị luật để đến với sách Lêvi và nối kết hai điều luật riêng biệt thành một.
Một số người Công giáo đã phàn nàn về những cáo thị của Công Đồng Vatican II nói về tình yêu tương quan. Họ muốn chúng ta đi trở lại với cung cách cũ, nhấn mạnh đến những điều luật và những quy tắc. Họ có một quan điểm. Chúng ta không hề coi nhẹ những Lề Luật trong Thánh Kinh và những quy tắc khác của Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu không hề giảm nhẹ hay coi thường những Lề Luật của Cựu Ước. Ngài không hề nói chúng vô ích. Nhưng Người đã tiếp tục duy trì và tóm kết tất cả trong một Lề Luật của tình yêu. Thông thường dễ dàng hơn khi theo một Lề Luật, đó là yêu mến Thiên Chúa cách hoàn toàn và yêu mến tha nhân như chính mình. Tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tính tự mãn, điều đó là nền tảng của mọi tội lỗi. Sự tự do thất không cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn. Đó là sự tự do làm những gì mà chúng ta phải làm để yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.
Theo truyền thuyết khi thánh Gioan đã già, ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại trong bài giảng của mình: “Hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến anh em của mình”. Khi một số môn đồ của ngài cảm thấy bực bội bởi ngài cứ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất, đã hỏi ngài tại sao nhấn mạnh cùng một sứ điệp tình yêu như thế. Ngài trả lời: “Bởi vì nếu chúng ta tuân giữ nó thì điều đó đã đủ rồi”.
23. Chúng ta có hướng về tâm điểm không?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’
1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.
2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.
24. Một tình yêu duy nhất. -- ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa anh chị em,
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.
Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.
Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.
Thưa anh chị em,
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…
Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).
“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.
25. Sống Yêu Thương giữa thế giới hận thù -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hàng ngày đọc tin tức ta sẽ thấy chán ngán thế sự mà thốt lên như Nguyễn Du đã từng than rằng:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
“Vâng”, mạng xã hội chúng ta sẽ thấy gì?
Tôi đã thấy một bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi cũng thấy những nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt, những sinh viên ra trường phải trao thân mới có việc làm. Tôi còn thấy bộ trưởng gíao dục mặc nhiên cho phép sinh viên bán dân 3 lần, nếu lần thứ tư mới bị đuổi học!
Tôi còn thấy những bảo mẫu đánh trẻ không chút nương tay. Những nghịch tử bất hiếu ra tay độc ác với đấng sinh thành.
Tôi không chỉ thấy một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc, mà cả người vợ ân ái lại chặt chồng thành nhiều khúc vất vương vãi trên đường.
Tôithấyngười đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp… Còn rất nhiều tin.
Đây là những hình ảnh đáng buồn của con người Việt Nam hôm nay. Sự hoà khí, hoà hợp giữa con người với nhau đang mất dần mà thay vào đó là bạo động, là tranh chấp, thù hận... Ngày nay, người ta có thể đánh nhau, thậm chí giết người vì những nguyên nhân nhỏ nhặt. Chuyện đi đường va chạm giao thông, va chạm không xin lỗi, nhìn đểu, nói lớn tiếng, nặng lời,... đều dẫn đến ẩu đảgây thương tích cho nhau.
Không chỉ bạo lực trong sinh hoạt thường ngày mà ngay cả những nơi thánh thiêng của lễ hội Chùa chiền vẫn có những thảm án đẫm máu bởi chen lấn, giành giựt... như ở Đền Trần hay Đền Gióng ,...
Các chuyên gia tội phạm cho rằng đây là hệ lụy của sự vô cảm, thái độ sống ích kỷ, chỉ biết mình, tâm lý chụp giật, tôn thờ vật chất, sống thực dụng… dẫn đến thái độ sống thơ ơ trước nỗi đau đồng loại, vô cảm trước việc làm sai trái xảy ra hàng ngày.
Xã hội là vậy nhưng còn người Công giáo thì sao? Liệu chúng ta có thể sống làm chứng cho tình yêu như Thiên Chúa mời gọi hay không?
Trong những dịp bác ái cứu trợ tôi thấy người Công giáo ít ra không vô cảm với khổ đau của tha nhân. Ai cũng rộng lòng của ít lòng nhiều cùng chia sẻ với những người bị thiên tai. Tôi cũng thấy rất nhiều những cá nhân tự nguyện dấn thân để đem tình thương đến cho người nghèo, người tâm thần, người bất hạnh qua những chén cơm, chén cháo đầy tình nghĩa. Tôi cũng thấy nhiều giáo xứ, nhiều đoàn hội bao bọc cho một cô nhi viện hay một nhà dưỡng lão dành cho người vô gia cư.
Đây là nét đẹp của người Công giáo. Đây là điểm son mà chúng ta cần phát huy hơn nữa. Vi chưng “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta là người ky-tô hữu phải biết sống yêu thương. Yêu thương là lẽ sống của người tín hữu. Yêu thương cũng là nét đẹp của người tín hữu. Yêu thương là trở nên giống Thầy Giê-su. Vì Thầy đã từng làm gương về một đời sống yêu thương.
Cuộc đời Chúa Giê-su luôn yêu thương. Ngài yêu thương nhân loại nên luôn xả thân cứu người. Từng hơi thở. Từng bước chân của Ngài luôn là những nhịp cầu yêu thương. Ngài đã trở nên khuôn mẫu cho mọi tình yêu, vì “không có tình yêu nào cao quý hơn, tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”.
Hôm nay Chúa bảo người biệt phái: “ông không còn xa Nước Trời bao nhiêu”. Từ ngữ không còn xa như muốn nói tình trạng của ông hiểu biết luật nhưng chưa thực sự sống yêu thương. Ông hiểu luật. Ông biết luật mến Chúa yêu người. Nhưng cái biết còn phải đi đến thực hành mới vào được Nước Trời.
Là người ky-tô hữu Chúa cũng bảo “không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu”. Điều quan yếu là thực hành những điều Chúa dạy mới được ở bên Chúa trong Nước Trời.
Ước gì chúng ta hãy noi gương Thầy Giê-su để trở thành con người đẹp, con người có nhân cách, có nghĩa khí trước mặt mọi người. Xin cho chúng ta được vào Nước Trời khi sống những điều mình tin bằng việc mang ra thực hành lời Chúa dạy. Amen.
26. Lề luật bóp chết con tim -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.
Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.
Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.
Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.
Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.
Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.
Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.
27. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi
Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.
Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.
Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,
Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.
Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân... Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.
Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.
Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau” (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Amen.
28. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thánh Maccô tường thuật liên tiếp một số những tranh luận giữa giới Pharisêu, Sađốc và Chúa Giêsu về nhiều vấn đề. Thường những tranh luận này có tính cách gay gắt và có lúc họ dùng dịp này để gài bẫy Chúa Giêsu để hại Ngài như vấn đề nộp thuế cho Xêda.
Lần này không là một tranh luận mà là một câu hỏi của một kinh sư về một vấn đề Luật Chúa, có tính cách ôn hòa.
Chúng ta không có thói quen so đo về lề luật. Chúng ta chỉ có mười điều răn Chúa và năm điều răn Hội thánh. Nhưng trong thời Chúa Giêsu, nhóm Pharisêu là những chuyên gia về luật đã rút ra từ Kinh Thánh và kê khai rất nhiều luật lệ và buộc người ta phải giữ, và cũng thêm vào đó nhiều chi tiết rườm rà như rửa tay, rửa bình, rửa chén bát… làm cho việc giữ Luật trở nên phức tạp, và nặng nề.
Chúa Giêsu đã nhiều lần lên tiếng phản đối khuynh hướng duy luật đó: “Các ông chất những gánh nặng lên vai người khác mà chính các ông cũng không động ngón tay vào.” (Mt 23,4)
Có lúc Chúa Giêsu nặng lời quở trách các ông Pharisêu vì họ nại vào Luật, bóp méo bóp tròn Lề Luật để trục lợi. Đọc Tin Mừng, chúng ta có cảm tưởng là nhóm Pharisêu này là phe đối lập triền miên của Chúa Giêsu. Nhưng trong đoạn này, thánh Maccô cho thấy một kinh sư rất thiện chí, ôn hòa và đạo đức. Kinh sư này giống như một kinh sư mà chúng ta đã quen biết là ông Nicôđêmô, ban đêm đến đàm đạo với Chúa để tìm hiểu, là một người đạo đức đích thực.
Ông đặt câu hỏi với Chúa Giêsu vì nhiều lần ông thấy Ngài giải quyết những thắc mắc do các kinh sư nêu lên. Vấn đề ông thắc mắc là một vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát, mặc dù trong nhóm Pharisêu, người ta đã nhiều lần tranh cải với nhau, nhưng không có ai có thẩm quyền giải đáp rõ rệt. Ông mong rằng, Chúa Giêsu, “Đấng rao giảng có uy quyền” sẽ cho ông một câu trả lời chính xác hơn.
“Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”
Chúa Giêsu lấy một câu Kinh Thánh mà mọi người đều biết vì đó là lời kinh mà mọi người Do Thái vẫn đọc hằng ngày: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. (Mc 12,33)
Câu trả lời đến đây cũng đầy đủ rồi, nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đó, Ngài đi xa hơn: “Điều răn thứ hai là ngươi hãy yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó”.
Vị kinh sư đồng ý và tỏ ra hết sức vui mừng: “Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng” và ông lặp lại những gì Chúa nói như một sự xác tín mới.
Ai trong chúng ta cũng biết hai điều răn này, nhưng cần phải xác định lại cho rõ, chúng ta có thực hành chưa? Đến mức độ nào?
Nhiều người, khi hỏi rằng, mến Chúa hết lòng nghĩa là thế nào chắc cũng không thể giải thích rõ được. Nếu con cái chúng ta hỏi chúng ta như thế, chúng ta sẽ giải thích thế nào?
Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào?
Có lẽ những người đã biết yêu có thể hiểu rõ hơn, vì họ kinh nghiệm điều đó trong chính cuộc sống, trong chính bản thân họ. Yêu hết lòng phải chăng là lòng trí chúng ta chỉ còn có một hình ảnh và đi đâu, làm gì cũng nhớ đến người mình yêu. Yêu Chúa hết lòng là lòng trí chúng ta chỉ chứa một mình Chúa, làm gì, lúc nào cũng chỉ làm vì yêu Chúa thôi. Những người yêu nhau, khi xa nhau càng cảm thấy điều này rõ hơn. Họ nhớ nhau đến héo lòng…Làm gì cũng nhớ. Đó là định luật của tình yêu. Yêu mới nhớ và nhớ mới yêu. Yêu Chúa cũng thế thôi. Chúng ta có yêu Chúa đến như thế không? Các thánh đã sống như thế đấy.
Yêu Chúa hết sức là thế nào?
Chúng ta có ai yêu mến Chúa đến nỗi không còn sức lực nữa không? Giải thích chắc cũng khó nhưng trong thực tế, chúng ta thấy các bà mẹ đã yêu con mình đến kiệt sức. Săn sóc một đứa con bệnh nặng, bà mẹ thức đêm thức hôm, đem đi nơi này nơi kia để chữa trị. Sau cùng bà mẹ không còn gì cho mình nữa. Yêu mến Chúa cũng thế thôi. Làm việc Chúa đến kiệt lực, điều này không lạ gì. Nhiều đấng thánh đã sống như thế. Ngay hôm nay cũng có rất nhiều người vì Chúa mà tiêu hao mọi sự kể cả tài sản, sức khỏe, tài năng. Chỉ cho Chúa và cho Chúa thôi. Các thánh tử đạo đã buông bỏ mọi sự và hiến cả mạng sống cho Chúa… Đó là những gương mẫu sống động cho chúng ta.
Chúa Giêsu không chỉ nói đến việc yêu mến Thiên Chúa mà nói đến một điều răn thứ hai: yêu mến người thân cận. Cũng là Luật Chúa, nhưng Ngài liên kết hai điều răn gần như một: yêu mến Chúa thì cũng yêu mến người thân cận như chính mình.
Như chính mình. Đây là một điều không dễ. Yêu tha nhân như chính mình là thế nào? Chúng ta dễ phớt lờ xem như chuyện đã biết rồi, không cần phải nhắc lại. Thực ra trong chúng ta, không mấy người đã thực hiện giới răn này một cách nghiêm chỉnh mà chỉ qua loa, chiếu lệ. Nhìn vào các Kitô hữu thời ban đầu, chúng ta thấy rằng, các tín hữu đã thực sự thi hành việc này một cách hết sức đúng đắn. Đọc lại đoạn đầu của sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy họ đã làm đúng như Chúa dạy: “yêu người thân cận như chính mình”. Chúng ta không mấy người đã đạt đến mức độ trọn hảo đó. Nếu như thế thì giữa giáo xứ chúng ta, không còn có người phải túng bấn.
Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa trong việc yêu thương này. Ngài đi đến mức cuối cùng: “Yêu người như Thầy đã yêu”.
Chúng ta còn quá xa Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống mà là yêu thương đến tận cùng, chết cho bạn hữu mình”. Chúa Giêsu nói và Ngài đã làm. Chúng ta nghe nhưng không làm. Có sự khác biệt lạ lùng đó trong cuộc sống chúng ta. Làm sao Nước Thiên Chúa đến được trong trần gian ích kỷ hèn nhát này? Làm sao Danh Cha cả sáng được? Chúng ta chỉ nói mà không làm. Có làm thì chỉ là sơ sài, ngoài da. Đạo Công giáo chúng ta đang còn ở trong tình trạng một giấc mơ đẹp. Mến Chúa yêu người chỉ là những khẩu hiệu thật kêu, thật đẹp mà rỗng tuếch. Yêu bằng miệng thì ai làm cũng được. Những người không tin Chúa vẫn có thể làm điều đó giỏi hơn chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù thấy chúng ta chưa đi đến đâu trong tình yêu, nhưng Ngài không bao giờ nản chí. Ngài đến với chúng ta hằng ngày để khuyến khích chúng ta yêu thương hơn, bằng cách chính Ngài yêu thương chúng ta trước. Ngài đã trở nên một của ăn để chứng tỏ tình yêu của Ngài. Ngài đợi chờ chúng ta quảng đại hơn, xác tín hơn.
29. Mến Chúa yêu người
(Suy niệm của Lm Phaolo M. Nguyễn Kim Thanh, CRM)
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh Máccô trình thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Luật sĩ về giới răn quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã minh nhiên xác nhận tình yêu là căn bản trong cuộc sống tôn giáo. Là người Kitô hữu, từ lời nói đến hành động, cả đến việc phụng sự cũng thảy đều toát ra từ lòng yêu mến. Tuy nhiên vẫn còn có những người luôn toát ra và thể hiện vẻ lạnh nhạt với tha nhân. Cuộc sống của họ luôn tôn thờ cái tôi và cứ để ai chết mặc ai. Lòng dạ họ luôn cuốc, cào vào cho mình, không hề cảm thông đến người khác. Chúng ta gọi đó là phường giả hiệu.
Qua cuộc đối thoại giữa Chúa và người Luật sĩ cho chúng ta thấy được những gì?
1.- Nhìn vào Chúa Giê su:
a/ Xem việc Người làm:
Nét rõ nhất ở Chúa là cho chúng ta thấy được việc Chúa cảm hóa được người Luật sĩ, với thái độ khôn ngoan và dịu hiền của một vị hướng dẫn đường lành. Ngài tiếp cận với đủ loại, đủ hạng người, từ tội lỗi đến khô khan. Cả những kẻ được mệnh danh là “mất lửa mến”, gần như đã lìa bỏ cả Chúa. Ngài cũng đã đưa họ đổi hướng, quay về đường ngay nẻo chính. Họ thật sự thăng tiến.
Xem việc Ngưới làm, chúng ta cùng mau mắn chạy đến với Chúa trong những giờ cầu nguyện và lắng nghe giáo huấn của Giáo hội. Để hầu sau khi kín múc và đón nhận, chúng ta tiếp tục phát sáng để cảm hóa tha nhân, dù họ là ai, thân hay thù địch, ưa hoặc chẳng thích.
b/ Xem Lời Chúa nói:
- Chúa Giê su khích lệ vị Luật sĩ khi nhận thấy ông có những ý kiến khôn ngoan. Qua sự việc này, chúng ta thấy được Chúa tăng ơn, giúp sức khi ta biết sử dụng ơn Chúa.
- Chúa nói; “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí và hết sức ngươi”. Chúa muốn tình yêu chúng ta dành cho Chúa với toàn diện con người, nghĩa là dùng toàn cuộc sống mình để qui hướng về Chúa, phụng sự Người
2.- Nhìn vào người Luật Sĩ:
a/ Ông đã cảm phục giáo huấn của Chúa, ông đã học hỏi ở Chúa qua những điều mình thắc mắc. Chúng ta cũng còn có nhiều thắc mắc và uẩn khúc trong cuộc sống đời thường và cả tâm linh. Hãy chạy đến với Chúa để gặp gỡ Ngài và bầy tỏ nỗi lòng cho thỏa lòng mong ước qua những giờ phút cầu nguyện, suy niệm, nghe sự hướng dẫn của giáo hội là những đại diện hữu hình của Chúa để được hướng dẫn và giải đáp cho chúng ta.
b/ Với thiện chí đón nhận giáo huấn nơi Chúa của người Luật sĩ. Chúa đã khen ông rằng không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúng ta đang được diễm phúc đón nhận Chúa trong đức tin của Phép rửa. Hãy sống và thực hành theo điều mình tin là đón nhận được Nước Trời.
c/ Đặt mình vào vai trò người Luật sĩ, chúng ta sẽ được ơn soi sáng để nhận biết tình yêu là sức mạnh của tâm hồn. Nếu thực hành tình yêu Chúa qua việc yêu mến tha nhân, những hiện thân của Chúa cách thật tình với tinh thần nhân hậu, không ghen tương, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy và hết lòng kiên nhẫn.
Vì thế, Tin mừng hôm nay là cơ hội tốt để cho mỗi người xét mình xem đã sống giới răn yêu thương đang ở mức độ nào? Những ai đang thờ ơ, tăng tốc để hoàn thiện lại. Những ai đang yêu mến, càng nồng thắm mến yêu hơn nữa để chiếm trọn vẹn được Chúa. Những ai cảm thấy hầu như mất thật sự, đang để tình cảm, của cải, uy quyền chiếm hữu khiến lòng không còn chút gì cảm nghĩ đến tha nhân, cũng vẫn còn kịp, bắt đầu từ bây giờ quay trở lại để hầu lái cuộc sống và linh hồn vào đoạn kết của Thập Giới: “ Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như vậy. Amen.
Câu chuyện minh họa:
Một vị vua không có con để nối dõi ngai vàng, ông đã cho truyền rao khắp nước để mời người đàn ông nào ưu tú đến để tuyển trạch xứng đáng cho lên ngôi thay nhà vua. Nhưng tiêu chuẩn của nhà vua đưa ra là người ấy thật sự phải có lòng “ mến Chúa và yêu người”.
Một thanh niên thấy mình có đều kiện nhưng lại quá nghèo khổ, đến độ ngay cả quần áo mặc đi đường còn rách rưới va con kiếm ra riền mua lương thực trong hành trình để đi lên hoàng cung hầu được tham dự cuộc thi. Anh trước hết ngửa mặt lên trời cầu nguyện cùng Chúa. Kế đến anh đi ăn xin quần áo và tiền bạc để chuẩn bị cho cuộc hành trình.
Trong hành trình tiến đến cung điện, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:
- Tôi đói lạnh quá! Xin cậu thương tơi.
Anh nhìn ông lão lòng vô cuvng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, và trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Thế rồi anh lững thững đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua. Anh cúi đầu su cho ngi. Khi ngước mặt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên:
- Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?
- Đúng vậy. Nhà vua đáp.
Anh ta ngạc nhin hỏi:
- Sao bệ hạ làm thế?
- Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa và yêu người” không.
Câu chuyện trên minh họa Lời Cha trong Tin mừng hôm nay, khi một kinh sư đến hỏi Người điều răn nào đứng đầu. Ngưới đáp: “ Điều răn đứng đầu là ngươi phải yêu mến Đức Cha hết lòng và hết trí khôn ngươi. Điều răn thứ hai: ngươi phải yêu người như chính mình, chẳng có giới răn nào khác hơn 1 các giới răn đó. (Mc 12,29-31).
Xin Cha ban cho mỗi người chúng con chứng minh tỏ tường và răn nhất vế thứ hai để chứng minh tình yêu thể hiện trong vế thứ nhất là yêu mến Cha.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dồn đổ tình yêu v việc lm của Mẹ trong việc Mẹ thăm viếng, tận tình gip đỡ người chị họ của Mẹ l bà Elisabeth trong lúc cần sự trợ giúp nhất. Ước chi mỗi người chng con sẽ nhận Mẹ l bản sao sống động đức i trong hành trình trần thế của chúng con.
30. Suy niệm của Lm Jn M Nguyễn Đức Hùng, CRM
GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG
VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ
Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.
Thưa các bạn,
Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!
Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).
Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.
Các bạn kính ái!
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…
Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!
Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!
Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.
Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?
Các bạn ạ!
Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?
Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!
Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.
31. Lòng kính mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI TUYỆT ĐỐI
Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: “Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.
Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:
* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,
* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,
* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,
* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,
* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em” (Deut 6:4-9).
II. LÝ DO GIỚI LUẬT CHÚA TRUYỀN
Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: “Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc” (Deut 10:13).
Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: “Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,
* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy” (Deut 11:26-28).
III. NHỮNG DẤU CHỈ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG
Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?
Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.
Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.
Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy” (Is 66:12-13).
Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: “Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết” (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.
Thánh Têrêxa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt... Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.
Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh “Lạy Cha”, các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.
Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.
Kết luận
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: “Phải kính mến Chúa”, hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: “Con hãy đọc lời: “CHA YÊU CON” trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng”. Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.
32. Anh chị em
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Trước khi đọc lời nguyện trên lễ vật linh mục thường mời gọi:
Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận.
Anh chị em trong nghĩa này bao gồm tất cả mọi người hiện diện trong thánh đường lúc đó. Trong KinhThánh Đức Kitô dùng chữ anh chị em với nghĩa rộng hơn bội phần. Anh chị em hiểu là tất cả mọi người, bao gồm người chúng ta biết, người ta không biết và ngay cả người không bao giờ có cơ hội gặp. Tất cả đều là anh chị em, không trừ một ai. Nghe thì có vể hơi khác thường làm sao người không quen, không biết có thể là anh chị em của nhau. Thực tế là tất cả mọi người đều là anh chị em của nhau vì cùng là con cái Thiên Chúa, được Ngài tạo dựng nên và do chính Ngài cứu chuộc.
Vì là anh chị em nên Đức Kitô dậy chúng ta phải yêu mến Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu thương người khác như chính mình. Những ai yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ yêu Chúa trên lí thuyết mà thiếu thực hành. Những ai yêu vật thụ tạo mà không yêu mến Thiên Chúa chính là thờ phượng ngẫu thần bởi người đó yêu loài thụ tạo do Chúa tạo thành mà lại không thờ phượng chính Đấng tạo thành loài thụ tạo. Vì thế thờ phượng loài thụ tạo là tự nguyện làm nô lệ cho loài thụ tạo, dù đó là sắc đẹp hay tài trí hay sự thông minh, tất cả đều là loài thụ tạo. Một khi thờ phượng nó chính là làm nô lệ cho nó. Bởi làm nô lệ cho nó nên không còn thời gian cho Đấng tạo thành nó và cho tha nhân. Đức Kitô dậy chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa vì Ngài là nguồn mọi sự yêu thương.
Tình yêu hoạt động hữu hiệu nhất khi tình yêu đó được cho đi đúng lúc, đúng hoàn cảnh, đúng nơi chốn. Còn gì hạnh phúc bằng khi bạn cần người lắng nghe người đó sẵn sàng giúp, bạn thấy hạnh phúc hơn. Bạn đang cô đơn nhận được cú điện thoại của người bạn tốt. Bạn đang buồn sầu, ảm đạm nhận được lời cổ võ chân thành. Bạn đang khát có người cho li nước. Bạn đang lạc đường có người chỉ lối, dẫn đường. Có lẽ bạn thắc mắc khi nào biết người đó cần để mà cho. Nghe có vẻ hợp lí nhưng đôi khi không thực tế vì hầu như khi bạn nghe người bạn cần giúp đỡ thì lúc đó sự việc đã qua mất rồi, hoặc có kẻ khác may mắn hơn. Vì thế không cần phải đợi đến khi biết tin mới cho. Tốt nhất cứ cho để tình bạn được nảy nở, phát triển. Không phải chỉ lúc u sầu mới cần tình bạn mà ngay cả khi vui cũng cần. Bạn có niềm vui cần người chia sẻ. Bạn có tiệc mừng cần người tham dự. Bạn có chuyên vui cần người lắng nghe. Bạn cầu kinh cần người xướng hoạ.
Mọi người đều là anh chị em trong Chúa và mọi người đều được mởi gọi cho đi những gì mình nhận từ Chúa. Kẻ thì cho tài năng, kẻ khác cho vật chất, kẻ khác cho thời gian. Tất cả những món quà đó đều quí, không có món nào cao trọng hơn món nào. Cho đi để thế giới hôm nay tốt đẹp hơn và ngày mai tươi sáng nhiều hy vọng hơn.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta sống với nhau như anh em, Ngài yêu mến chúng ta và sẵn sàng tha thứ lỗi lầm chúng ta. Chúng ta học từ Ngài, tha thứ cho nhau. Chúng ta được mời gọi sống thực hành đức tin, thể hiện bác ái qua tha nhân. Hãy tập cho đi, tập sống rộng lượng từ gia đình rồi từ đó lan ra sở làm và xã hội và cộng đoàn chúng ta đang sống.
Đừng nghĩ rằng cứ cho đi thì lấy gì mà cho, sẽ nghèo đi mất. Thực tế không phải vậy, càng cho càng giầu nhân ái. Càng tồn trữ, cất giữ càng nghèo tình lân ái. Nghèo tình lân ái sẽ sống cô đơn và thiếu hạnh phúc. Cho đi để hưởng hạnh phúc mà vật chất, tiền của, danh vọng không khi nào mua được hạnh phúc ấy.
33. Với cả tâm trí bạn – Gm. Arthur Tonne.
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này”. Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà”. Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này”.
Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?”. Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.
Dĩ nhiên một cách nào đó, chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa trong hình dung của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người. Hôm nay nói lại cho chúng ta rằng: Chúng ta phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và hết sức lực. Sẽ giúp chúng ta hiểu và giữ luật này nếu hôm nay chúng ta chỉ nhìn một góc cạnh của giới răn: “Yêu Chúa… với tất cả tâm trí.
Để yêu ai, trước tiên chúng ta phải biết người ấy. Để biết ai, chúng ta phải dùng tâm trí. Làm sao chúng ta có thể biết Chúa?
Làm sao tôi biết một người trong các bạn? Tôi phải nói với bạn và lắng nghe khi bạn nói. Đối với Chúa, chúng ta gọi là cầu nguyện. Bạn hãy gọi như thế nếu bạn muốn. Chúng ta không thể biết Chúa, trừ khi chúng ta nói với Người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Chúa, ít nhất là sớm mai và chiều tối. Đó là lý do bạn và tôi cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào trong kinh nhật tụng, và nhất là trong Thánh Lễ.
Chúng ta biết một người do công việc họ làm hoặc họ là thợ mộc, là họa sĩ biếm họa hay một đầu bếp.
Chúng ta biết Chúa qua những việc Chúa đã làm. Cỏ cây, chim chóc, gió mây, sao trời… nói với chúng ta về Chúa. Tất cả những cái đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng lý trí.
Muốn hiểu một người, chúng ta cố gắng gặp người đó càng nhiều càng hay. Chúng ta gặp Chúa trong mỗi ngày, trong mỗi cuộc sống chung quanh, nhất là chúng ta gặp Chúa trong Giáo Hội, trong Thánh Lễ, rước lễ và các bí tích.
Chúng ta cũng biết một người do những điều một người khác biệt về người đó nói lại cho chúng ta. Linh mục của bạn, ngài đã dùng nhiều thì giờ học hỏi về Chúa, nói về Chúa. Các ngài có thể nói nhiều về Cha trên trời, về Thiên Chúa Làm người, về Chúa Thánh Thần cho bạn. Cha mẹ nói cho chúng ta về Chúa. Thực sự các ngài là thầy tốt nhất nói về Chúa. Giáo lý viên, báo chí, tạp chí và sách vở Công giáo nói với chúng ta nhiều sự thật về Chúa.
Sử dụng lý trí để tìm hiểu mọi cái về Chúa. Như thế bạn yêu Chúa với tất cả lý trí của bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
34. Mến Chúa yêu người – Hiếu Nguyễn
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Chọn người kế vị
Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn ông nào ưu tú đến ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người.”
Một thanh niên thấy mình có điều kiện đó, nên định đến cho vua chọn. Nhưng khổ nỗi anh nghèo quá, đến mức không có áo quần tươm tất cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự cuộc thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày quần áo và lương thực cần thiết.
Lúc đi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh, “Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương…” Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên, “Thế là bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?” “Đúng vậy.” Anh ta ngạc nhiên hỏi, “Sao bệ hạ làm thế?” “Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng ‘mến Chúa yêu người’ không.”
2. Tôi đi tìm Chúa
Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính mến Chúa và yêu thương người’.”
Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không, nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”
Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
3. Tình yêu bắt nguồn từ gia đình
Một người ở Sun City, Hoa Kỳ, trình bày với người đảm trách “tâm lý trị liệu” như sau. Ba tôi đi làm suốt tuần, mẹ tôi bận việc nhà cả ngày. Ba mẹ tôi không khi nào bộc lộ tình cảm hay nói lời yêu thương với tôi. Vì thế tôi cảm thấy cô đơn buồn tủi mãi. Một hôm tôi có dịp đến ngủ ở nhà chị bạn tôi. Khi chúng tôi lên giường ngủ, mẹ bạn tôi đến hôn hai chị em chúng tôi. Cử chỉ đó làm tôi cảm động, đến độ tôi không ngủ được. Tôi nghĩ mãi chớ gì ba mẹ tôi đối xử với tôi như thế. Và tôi quyết định sẽ làm như thế đối với ba mẹ tôi.
Từ đó tôi bắt đầu hôn ba mẹ tôi thường xuyên. Khi có dịp, tôi nói với ba mẹ, “Ba ơi, con thương ba! Mẹ ơi, con thương mẹ!” Và mọi sự trong gia đình đều hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi thương yêu nhau, sống vui tươi hạnh phúc. Tôi lập gia đình khi lên 17 tuổi và có hai con lúc chưa đầy 20 tuổi. Tôi thường hôn con tôi đến khi má chúng ửng hồng lên.
4. Hạt giống tình yêu
Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi món hàng mà con người ham thích.”
Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”
5. Lòng mến Chúa bị suy sụp
Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.
Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”
6. Tiếng chiên con
Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia đình...
Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống như thác lũ... Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm chờ tử thần!..
Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một tha thiết khiến anh tự nhủ: “Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và chắc chắn nó đang cần mình”. Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.
Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt. Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó”. Một sức sống mới đang vươn lên trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ hết”.
*****
Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..
“Chính lúc chúng ta có can đảm cởi mở tâm hồn đi đến với người khác đang cần được yêu thương giúp đỡ là lúc chúng ta sẽ được nhận lãnh sinh lực mới, sức sống mới, để sưởi ấm sự lạnh lẽo và giải thoát chúng ta khỏi cơ cực lầm than. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I)
7. Chết vì yêu
Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện “Mùi cọp”.
Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn vâng lời.
Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ làm hòa với nhau.
Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.
*****
Người vợ vì yêu chồng đã gội rửa chính mình và đã phải hy sinh mạng sống. Yêu đích thực không phải là chết đi một ít mà chết đi trọn vẹn. Đó là ý nghĩa của cái chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã yêu và yêu loài người đến cùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, và sống lại vinh hiển để đem lại nguồn sống bất diệt cho mọi người.
Tình yêu mời gọi tình yêu. Chúa Kitô yêu thương chúng ta, hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta. Người mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Người, hy sinh vì Người và vì anh chị em chúng ta.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập IV).
35. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson.
Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu. Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ: Yêu.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một Giao Ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
36. Giới luật yêu thương.
Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị gián đoạn, xen vào đó là những khẩu hiệu của nhà nước, chẳng hạn:
- Thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự.
- Đồng bào hãy tích cực đóng thuế.
Hồi trước năm 1975, người ta tổ chức những chương trình phát thanh thương mại, để quảng cáo các sản phẩm bày ban trên thị trường. Những lời quảng cáo ấy ăn sâu vào đầu óc thính giả đến nỗi ra chợ muốn mua một hộp kem đánh răng là người ta bèn nhớ ngay đến “anh bảy Chà Hynos”, muốn mua mấy viên thuốc bổ cho con, người ta bèn nhớ ngay đến Activit, “thuốc bổ gan bò tươi Hà Lan”. Sự lặp đi lặp lại đã tác động mạnh trên tâm trí và dẫn đến những hành động thích hợp.
Giáo hội là một người mẹ luôn để tâm giáo dục chúng ta, không phải là không biết đến cái định luật tâm lý ấy. Giáo hội đã áp dụng định luật ấy để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta. Giáo hội không ngừng lặp đi lặp lại cho chúng ta biết cái bí quyết tạo hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn nhắc cho chúng ta hai giới luật quan trọng, đó là mến Chúa và yêu người.
Hãy thử xét mình xem chúng ta đã thực hiện như thế nào? Hay chúng ta chỉ là những kẻ giả dối vì việc chúng ta làm không phù hợp với lời kinh chúng ta đọc. Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh kính mến, chúng ta thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng… lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Chúng ta không cảm thấy ngượng ngùng khi đọc như thế hay sao?
Khi kính mến ai hết lòng, chúng ta tránh làm cho họ buồn lòng và cố gắng đem lại hạnh phúc cho họ. Đằng này, chúng ta không vâng lời Chúa, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta kính mến Chúa hết lòng. Chúng ta mong ước cho kẻ khác gặp phải tai ương. Chúng ta giận hờn họ, nói hành nói xấu họ, chúng ta không thèm chào hỏi họ, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta yêu thương họ như chính mình chúng ta.
Chúng ta tưởng rằng mình là kẻ ngoan đạo chỉ vì chúng ta chăm chỉ đi lễ, siêng năng đọc kinh và cảm thấy yên lương tâm. Nhưng nếu tạm gác những hình thức bề ngoài ấy để căn cứ vào tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, thì liệu người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không? Nếu chịu khó đọc lại những bức thư của thánh Gioan, chúng ta thấy ngài luôn luôn lặp đi lặp lại cái chủ đề yêu thương. Chính ngài đã xác quyết:
- Nếu ai bảo rằng mình mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì họ chỉ là phường nói dối, vì ai không yêu thương kẻ khác là người mình trông thấy, thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà mình chẳng nom thấy bao giờ. Phải chăng đó là một lời kết án gay gắt nhất cho những kẻ không yêu thương.
Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì lại khó, vì trong đời sống chúng ta có quá nhiều va chạm. Nào là cạnh tranh nghề nghiệp, củng cố địa vị, giành giật quyền lợi. Nào là những khác biệt về tính tình, tuổi tác và văn hóa… Vì thế, để yêu thương người khác, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, nhất là phải cần đến ơn Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng: Muốn chiếm đoạt nước trời, thì phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Tình Chúa và tình người là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta vào nước trời.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện như sau: Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:
- Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.
Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:
- Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.
Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.
Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là những người môn đệ của Chúa. Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn người khác đến cùng Chúa.
37. Chúa Nhật 31 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy hoàng tráng lệ của nó. Ngôi nhà mà chúng ta đang xử dụng đây cũng thế. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảng tường, những gạch vụn không cùng liên kết với tổng thể, mà lại tách rời ra. Tôi chợt suy nghĩ: Ngôi nhà kia có được vẽ đẹp như thế, là nhờ những thứ dường như chẵng ra gì, nếu nó chỉ ở một mình. Chúng ta thử nghĩ, những viên đá nhỏ kia có thể làm được việc gì, chỉ là những thứ phải bỏ đi. Những hạt cát dơ bẩn kia cũng thế, nhiều khi chỉ làm cho chúng ta khó chịu vì sự hiện diện của nó bên cạnh chúng ta. Vậy mà khi chúng liên kết lại với nhau, nằm cạnh bên nhau, biết yêu thương giúp đỡ nhau, thì điều kỳ lạ đã xảy ra. Nếu có những hạt cát, hay những mãn gạch vụn tự tách lìa khỏi tổng thể đó, thì chính nó đã tự chọn con đường diệt vong, nó không thể tồn tại được. Nếu nó biết yêu thương giúp đở những bạn bên cạnh nó, thì nó cũng nhận sự giúp đở, để có thể vươn cao cùng các bạn. Nếu nó tự tách lìa, chỉ biết yêu thương có chính bản thân mình, không muốn yêu thương giúp đở các bạn ở bên cạnh, thì chẵng những nó không được yêu thương mà còn bị loại trừ ra khỏi cuộc sống.
“Điều răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây. Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi”.
Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.
Chúng ta những con người đang sống, đang nắm vận mạng của vũ trụ, đang tận hưởng những tinh hoa của các bậc tiền bối, đang xây dựng lâu đài để truyền lại cho thế hệ tương lai. Chúa Giêsu nhìn chúng ta, mỉm cười nói rằng: “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Nếu trong đời sống chúng ta có thể sống hòa nhập với mọi người, nhìn thấy được nhu cầu của người khác để sẳn sàng phục vụ với tất cả tấm chân tình. Nếu chúng ta biết lắng nghe những tiếng kêu than, những lời nói chân thực nhưng đôi khi khó nghe, để biết sửa đối chính mình cho tốt hơn. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn thấy những cảnh thương tâm, để biết mở rộng đôi bàn tay mà giúp đở, hành động những gì cần thiết. Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút của cuộc sống, để nhìn thấy những gì cần phải sửa đỗi cho tốt hơn và can đảm sửa đỗi. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta rất xứng đáng nhận câu nói thấm đượm tình yêu thương của Chúa Giêsu. “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Trái lại nếu trong đời sống, chúng ta không thể hòa nhập, hay vì sợ tổn hại bản thân, mà tìm những lợi ích riêng tư, khi đó chúng ta không khác gì hạt cát, cũng như những viên đá chỉ nằm riêng lẻ, cô đơn, không ích lợi gì, nó không thể cùng các bạn vươn cao trong ngôi nhà, hay lâu đài của Tình Yêu.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho những gì chúng ta đọc bằng môi miệng qua mười điều răn, cũng khắc sâu vào tâm hồn, để biến thành hành động Yêu Thương thiết thực trong cuộc sống.
Mười điều ấy, tóm lại hai điều nấy mà chớ,
trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,
sau lại yêu người như mình ta vậy.
38. Yêu người.
Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda không? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào đứng đầu? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn Chúa thêm điều gì nữa”.
Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì chắc chắn tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì làm bằng chứng? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.
Trước hết, chúng ta phải yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”, “ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ. Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.
Thể hiện tình yêu thương bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi, một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp ích người khác.
Sau hết, yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.
39. Sống như con người.
Hãy yêu thương nhau.
Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.
Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng. Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả chín mươi chín con cùng sủa một lúc.
Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.
Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với anh ta bằng cách sủa.
Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta đã kết luận:
- Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng làng để tìm cách chữa trị.
Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn nhờ đó chúng sẽ trở nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.
Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả dân làng.
Trong cuộc sống chúng ta thấy quyền tư hữu là điều căn bản, nó gắn liền với sự sinh tồn. Xây một ngôi nhà, dựng một bức tường là để thể hiện quyền lợi ấy. Ai cũng muốn của cải của mình được an toàn.
Thế nhưng, sự phòng vệ nào cũng có thể đưa tới cực đoan. Thay vì phòng vệ để sống thì người ta chỉ còn sống để mà phòng vệ. Thay vì sống với người khác, thì họ chỉ sống để chống lại người khác. Cuộc đời dần dần mất đi ý nghĩa của nó, người ta không còn sống như con người mà chỉ còn sống với nhau như những con vật, đúng như một câu danh ngôn đã diễn tả:
- Người với người là chó sói của nhau.
Sống như con người hay sống như con vật đó là một thách thức ngàn đời của nhân loại. Muốn sống như con vật chúng ta chỉ cần trang bị cho mình ngôn ngữ và nanh vuốt dễ gầm gừ và cắn xé lẫn nhau. Còn nếu muốn sống như con người, chúng ta cần phải đánh đổ mọi bức tường ngăn cách, cần phải bẻ gẫy mọi nanh vuốt và nói với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu, của cảm thông, của tha thứ… Có nghĩa là chúng ta cần phải thực thi lời Chúa truyền dạy:
- Hãy yêu thương anh em như chính bản thân mình.
40. Mến Chúa yêu người.
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy luận của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
41. Thưa Thầy đâu là giới răn trọng nhất?
(Suy niệm của Lm Việt Toàn)
Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.
Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: “thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất “ của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa: “Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình” và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm: “không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy”.
Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.
Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.
Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề: “ làm việc này, việc kia có tội hay không “ đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.
Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.
Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.
Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.
Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.
Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.
42. Hai giới răn.
Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo Hồi.
Ngày xưa có ông vua mèo thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.
“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.
Thế là vua chuột ra đi. Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn, vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.
“Nhà vua du hành thế nào”? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi?”
“Tôi e rằng anh em đã nói đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.
Tách rời hai giới răn cao trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận.
Hai giới răn ấy có quan hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ tôn giáo không có tình yêu thương.
Tội lớn nhất của chúng ta không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của Tin Mừng? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.
Kinh Thánh nói chúng ta phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K. Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người. Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.
Nhiều người gặp các vấn đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay và thù hận.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.
Tôi tìm Thiên Chúa và đã không thấy Người.
Tôi tìm linh hồn tôi và nó tránh né tôi.
Tôi tìm người lân cận và đã tìm thấy cả ba.
43. Thiếu sót.
Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.
Người ta kể lại một câu chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội. Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.
“Đời nào tôi làm thế”, ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.
Nguy hiểm lớn đe dọa người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác trong tuần.
Người ta có thể xem xét lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ hơn nữa là một điều đáng ghét.
Phân ly hai giới răn lớn ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất – giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra, chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.
Mọi người trong chúng ta có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết. Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối với một người khác?”
Chúng ta bày tỏ điều đó quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc cha mẹ chúng ta.
Đức Giêsu nói với người Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu!” Biết rõ về hai giới răn quan trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta.
44. Hoàn hảo hơn
(Suy niệm của Lm. P. Huỳnh Ngọc Tiên)
Chúa Giêsu đã từng phán: “Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: “Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ.”
Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: “Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi...” Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): “Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình...” Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: “Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh”.
Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Vậy Phaolô quả quyết rằng: “Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời”. Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.
Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.
Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: “Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
45. Cầu thang.
Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.
Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.
1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.
“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)
46. Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: “Nếu anh em của ngươi là những người ngươi thấy được mà ngươi lại không yêu thương, thì làm sao ngươi có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng ngươi không thể thấy được?”
Cha George Anderson là tuyên uý cho một nhà tù hết sức nghiêm khắc tại Riker's Island thuộc tiểu bang New York. Cha thành lập một nhóm bàn việc cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa cho một số tù nhân. Nhóm này thường đọc đoạn Kinh Thánh nói về người Samaritanô nhân hậu trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Sau đó họ thường yên lặng suy gẫm đoạn Thánh Kinh đó rồi chia sẻ với nhau về cách thức áp dụng tinh thần của đoạn Kinh Thánh đó vào cuộc sống hằng ngày của họ.
Một buổi tối nọ, có một tù nhân tên Richard, thuộc khu những người rối loạn tâm thần, lần đầu tiên đến chia sẻ với nhóm. Cha Anderson mô tả câu chuyện xảy ra như sau:
“Đó là một buổi tối loäng gió vào tháng Ba. Trong phòng không đủ ấm. Người bạn ngồi đối diện với Richard chỉ mặc một chiếc áo mỏng và chiếc quần dài nên đang lạnh run. Trên vai Richard thì khoác những hai chiếc mền. Thế là trong lúc chúng tôi đang bàn luận về ý tưởng tương trợ lẫn nhau, đột nhiên Richard đứng lên, tiến đến người bạn tù kia, và choàng một chiếc mền lên người bạn ấy.”
Cử chỉ không lời của Richard gây ấn tượng mãnh liệt cho cả nhóm hơn bất cứ mọi lời đang thốt ra. Nó cũng nêu ra được điểm quan trọng mà chính Chúa Giêsu đã đề cập trong bài Phúc Âm hôm nay.
Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai tình yêu đi đôi với nhau như hai mặt của một đồng tiền không thể tách rời nhau được. Nói cách khác, chúng ta không thể cầu nguyện với Chúa bằng những lời thật dễ thương giống như những tù nhân đã cầu nguyện trong nhóm chia sẻ của họ, nếu chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động và cử chỉ đầy yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã nhấn mạnh điểm này trong lá thư thứ nhất của ngài. Người nói thẳng thừng: “Nếu ai nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, kẻ ấy là một tên nói dối. Bởi vì hắn ta không thể yêu mến Chúa là Đấng hắn không thấy, nếu hắn không yêu người anh em hắn là kẻ hắn thấy được. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta huấn lệnh này: 'Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình'“ (1 Gn 4: 20)
Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Người đòi buộc chúng ta yêu mến Thiên Chúa, hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi chúng ta không yêu thương anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Thực thế, chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn tiếp xúc được với Thiên Chúa và với linh hồn bất tử của mình nữa. Một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
“Tôi tìm linh hồn tôi, nhưng hồn tôi nào thấy được. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lại lẩn tránh tôi. Tôi tìm kiếm anh em tôi, thì tôi lại gặp được cả ba người tôi muốn tìm ấy”.
Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
Bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy ví như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng sẽ chẳng gặp được người kia.
Bài Phúc Âm hôm nay bao hàm một trong những giáo huấn quan trọng nhất trong toàn bộ Phúc Âm. Nó mời gọi chúng ta tự đặt cho mình một trong những câu hỏi quan trọng nhất.
“Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào?” Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa nồng nàn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Cách đây ít lâu, tờ Dallas Morning News (Dallas Tin Sáng) có đăng lá thư của một thiếu phụ nọ viết nhân cái chết của mẹ mình, trong đó có đoạn này:
“Mẹ tôi sống gần chỗ tôi, việc dành chút ít giờ pha cho mẹ một tách trà nóng, hay tỏ ra một cử chỉ yêu thương đối với mẹ lẽ ra đối với tôi phải là một việc rất dễ dàng… khi tôi gọi địên thoại cho mẹ, tôi lại nói quá vắn tắt và vội vàng. Tôi cảm thấy thật xấu hổ khi nghĩ lại những lần tôi cúp điện thoại cho lẹ khi nói chuyện với mẹ. Lúc đó tôi nói với mẹ: 'Tiếc quá, con phải đi ngay, mẹ ạ!'. Thế giới đầy dẫy những người giống như tôi. Tôi hy vọng trong số những người con ấy, nhiều người sẽ nhận ra điều này… và biết rút ra bài học cho mình”.
Tôi chắc chắn nhiều người trong chúng ta cảm thấy những lời nhận xét của thiếu phụ này cũng đúng đối với mình. Chúng ta cũng đã từng cư xử với cha mẹ con cái chúng ta hoặc những ai cần đến tình thương và sự âu yếm của chúng ta, một cách tương tự, như người thiếu phụ trên.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xem xét lại cuộc sống và tự vấn xem chúng ta có giống người thiếu phụ viết lá thư đăng trong tờ “Dallas Tin Sáng” kia không? nếu có thì bài Phúc Âm hôm nay là lời kêu gọi của chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta làm một điều gì đó để sửa đổi lại thái độ của chúng ta.
Để kết thúc, tôi xin lặp lại những lời trích từ Phúc Âm ngày hôm nay; “Một vị tiến sĩ luật tiến đến hỏi Chúa Giêsu: giới luật nào là quan trọng nhất? Chúa Giêsu trả lời; Giới luật quan trọng nhất là; Ngươi hãy yêu Chúa ngươi hết lòng, và giới luật thứ hai cũng quan trọng như thế: Ngươi hãy yêu láng giềng ngươi như chính ngươi. Không giới luật nào quan trọng hơn hai giới luật này”.
47. Yêu Chúa và thương người
(Suy niệm của Cung, CRM.)
Đang nằm thiêm thiếp trong giấcngủ. Em bỗng Victor nghe có tiếng động ở tầng dưới. Vì tò mò và vì muốn bắt gặp Chúa Hài Đồng Giêsu đến tặng quà, em rón rén bước xuống cầu thang. Em nhanh tay bật công tác đèn, ánh đèn sáng choang soi rõ khuân người đang đứng sững trước lò sưởi. Trên tay người lạ ôm là một quả cam và một hộp sôcôla. Em reo lên:
- Thì ra không phải Chúa Hài Đồng. Ccháu hiểu ra rồi. Ông là thánh Giuse phải không? Ông có buồn khi cháu đến quấy rầy ông không? Ông đang soạn cam và sôcôla cho cháu đấy phải không?
- Ông ăn trộm yên tâm. Đó ông chính là tên ăn trộm, nhưng em bé kia không hề biết. Càng lúc ông đạo chích càng cảm thấy có thiện cảm với em vì em đã gán cho ông tước hiệu 'Thánh Giuuse của đêm Noel!
Trong khi đó em vẫn say sưa phỏng vấn:
- Thưa thánh Giuse, ngài đem gì cho ba má con đây?
Ông ăn trộm liền điềm tĩnh đặt hộp sôcôla và trái cam vào chiếc giầy của em, rồi rút từ chiếc túi rút phồng trên bàn ra 1 ống điếu và 1 bao thuốc lá đặt vào chiếc giày của người cha, rút chiếc khăn trùm đầu đặt vào chiếc giày của người mẹ.
Sau khi tên ăn trộm phân phát quà xong, em chạy lại nắm tay ông. Bỗng đôi dòng lệ bắt đầu tuôn chảy nơi khoé mắt ông. Em bé nói:
- Khi nào ba má về, con sẽ khoe rằng con đã được gặp ngài!
- Đừng con! Mặt ông bỗng đanh lại khi nghĩ đến lúc người lớn trở về. Ông dợm bước đi.
Sau khi liếc nhìn các thứ lần cuối, ông ăn trộm khoác chiếc bị xẹp lép lên vai, mở cửa bước vào đêm đen, trên đôi mắt vẫn còn đọng lại 2 hàng lệ. Xa xa, vẳng tiếng hồi chuông tan lễ reo vui...
Chuyện khác kể rằng: Mẹ Têrêsa thường bảo rằng Ềđể có thể đem Chúa Giêsu đến với người khác, điều quan trọng chính là cách chúng ta thực hiện và điều chúng ta làm cho những anh chị em nghèo hènỂ. Mẹ đã kể lại 1 câu chuyện cảm động như sau:
Hôm ấy có 1 người lạ mặt đến thăm các bệnh nhân. Ông đến nhà vào lúc các xơ vừa đem 1 người hấp hối ở ngoài đường về. Mình ông phủ đầy giòi bọ, trông thật ghê tởm. Thế nhưng, không 1 chút ái ngại, Xơ nhặt từng con giòi, rửa sạch sẽ mọi chỗ, vừa làm vừa mỉm cười với tất cả lòng thương mến, không bận tâm để ý đến ai. Trong khi đó, người khách lạ đứng nhìn từng cử chỉ của Xơ. Sau cùng, người khách lạ đến gặp tôi và trút hết tâm sự:
- Thưa Mẹ, sáng nay con đến đây với tâm hồn của 1 kẻ vô thần. Lòng con đầy căm hờn và oán giận. Nhưng bây giờ... con ra về với 1 tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin vào Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả 1 cách cụ thể qua hành động và qua cách Xơ đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa, không thể nào có đủ nghị lực để yêu mến tha nhân được.
Mẹ Têrêsa chưa từng gặp người khách lạ và cũng không biết ông là một kẻ vô thần.
48. Độc đáo.
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.
Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:
1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;
2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao?
Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:
1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo. Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.
49. Mến Chúa, yêu người
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!
Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.
Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.
Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.
Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.
Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!
Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!
Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!
Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).
Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).
Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).
Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.
Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!
Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).
Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.
Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).
Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.
Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.
Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
50. Mến Chúa yêu người là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ -- JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau - mến Chúa, và yêu người - thành một điều răn duy nhất?
2. Có thể mến Chúa mà không yêu người, hay yêu người mà không mến Chúa được chăng?
3. Theo tinh thần Tin Mừng, thì giữa việc tham dự các nghi thức phụng vụ và việc thi hành giới răn «mến Chúa yêu người», việc nào cao quí và quan trọng hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Điều răn quan trọng nhất của Kitô giáo
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy Đức Giêsu đã ghép hai điều răn được ghi ở hai nơi khác nhau trong Cựu Ước - điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật 6,4-5, điều răn sau trong sách Lêvi 19,8 - làm thành một điều răn duy nhất, một điều răn «kép», nghĩa là một điều răn nhưng hai đối tượng, hay hai mặt khác nhau. Và điều răn «kép» này là điều răn quan trọng nhất trong Do Thái giáo, nhất là trong Kitô giáo. Tại sao lại ghép hai điều răn ấy thành một điều răn duy nhất? Đó là điều đáng chúng ta suy nghĩ.
Thông thường, chúng ta hay phân biệt yêu Chúa và yêu người. Có người cho rằng yêu Chúa quan trọng hơn yêu người rất nhiều, có người lại cho rằng: Chúa thì trừu tượng quá, yêu không nổi, nên yêu người mới là quan trọng. Cũng có người cho rằng có thể yêu Chúa mà không yêu người, và ngược lại. Thực ra, giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là «phải yêu thương», nghĩa là phải có tình yêu, tình thương. Và tình yêu này phải hướng cùng một lúc về hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Và hai đối tượng này không thể tách rời nhau, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: không thể có mặt này mà không có mặt kia. Nghĩa là không thể yêu Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại. Nói khác đi, hễ thật sự yêu Thiên Chúa thì tất nhiên sẽ phải yêu người, như thánh Gioan đã từng nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20). Và hễ yêu người thật sự thì cũng chính là đã yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu đối với tha nhân đã ngầm bao hàm tình yêu đối với Thiên Chúa, và ngược lại. Thật vậy, khi nói về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu đã xác định rằng: yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa (xem Mt 25,40.45). Và thánh Phaolô cũng đã viết: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”» (Gl 5,14); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2).
2. Yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến tầm quan trọng tối thượng của giới răn yêu mến Thiên Chúa. Nếu xét một cách tách biệt hai mặt trong giới răn cao trọng nhất này, thì việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn việc yêu mến tha nhân. Và con người phải yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Nhưng trong thực tế, không thể có sự tách rời giữa hai mặt ấy được, vì hễ đã thật sự yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải đồng thời yêu thương tha nhân. Vì thế, nếu thật sự yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực», thì cũng phải yêu tha nhân «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Đó là điều tất yếu, không thể khác được.
Để tỏ lòng yêu mến, thuận phục và thờ phượng Thiên Chúa, người Do Thái xưa đã sát tế những con chiên, con bò làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thay vì sát tế chính mình, để nói lên quyền tối thượng của Ngài trên mọi sự, trên cả mạng sống mình. Nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho ta tất cả và có quyền lấy lại tất cả bất kỳ lúc nào. Ngày nay, chúng ta không còn sát tế chiên bò, cũng không phải sát tế chính mình để nói lên quyền tối thượng của Ngài nữa. Điều chúng ta nên làm, là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Ngài, để tỏ ra ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự, nhất là hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… đó chính là một hình thức sát tế và thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất.
Nhưng theo tư tưởng của Đức Giêsu và thánh Phaolô, thì chắc chắn Thiên Chúa muốn ta thể hiện tình yêu của ta đối với Ngài bằng tình yêu dành cho tha nhân, một cách cụ thể là sẵn sàng hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… cho hạnh phúc và sự tốt đẹp của tha nhân.
3. «Hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực»
Yêu «hết lòng, hết trí khôn» thì quả là một điều khá trừu tượng và xem ra có vẻ dễ thực hiện, vì lòng và trí khôn là thứ không thể đếm được, khó kiểm chứng, và dường như có thể dùng hoài, cho hoài không hết. Nhưng còn việc yêu «hết sức lực» thì quả thật là khó, vì lực là một cái gì mang tính vật chất, rất cụ thể, và rất hạn chế. Sức lực ở đây nói một cách cụ thể là thì giờ, tiền bạc, của cải, sức khỏe, công lao. Vì nó giới hạn, nên ta không thể cho một cách thoải mái được. Cho thì hao tổn, thì sẽ hết. Nhưng có yêu «hết sức lực» thì mới chứng tỏ được là đã «yêu hết lòng, hết trí khôn». Ai nói rằng mình yêu Chúa, yêu người «hết lòng, hết trí khôn» mà lại không yêu «hết sức lực» - cụ thể là sẵn sàng hy sinh thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công lao cho Chúa, cho tha nhân - thì người ấy nếu không nói dối thì cũng là kẻ ảo tưởng về chính mình. Chắc chắn Chúa muốn chúng ta thay vì hy sinh những thứ ấy cho Chúa, thì hãy hy sinh cho tha nhân, vì hy sinh cho tha nhân chính là hy sinh cho Chúa.
4. «Điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ»
Rất nhiều Kitô hữu không hiểu được cốt yếu của việc giữ đạo là gì, họ cho rằng việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích là những điều quan trọng nhất. Và họ cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những thứ ấy chỉ là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là «mến Chúa, yêu người». «Mến Chúa, yêu người» chính là mục đích của những việc đạo đức trên. Nếu thực hiện những phương tiện ấy mà không đạt được mục đích của chúng thì thử hỏi việc thực hiện ấy ích lợi gì?
Trong bài Tin Mừng, ông kinh sư nói: «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ». Lời đó đã được Đức Giêsu xác nhận là khôn ngoan, đúng đắn. Cứ theo tinh thần câu nói ấy thì yêu Chúa và thương người hết sức mình quan trọng và quí giá hơn việc tham dự các nghi thức phụng vụ, các bí tích, các kinh nguyện. Chính Đức Giêsu mạc khải cho ta biết điều ấy khi nói về ngày phán xét cuối cùng: Thiên Chúa không hề phán xét về việc ta có tham dự các nghi thức phụng vụ hay không, hay tham dự thế nào, mà chỉ xét về việc ta đã làm gì để tỏ ra mình yêu thương tha nhân mà thôi. Đức Giêsu đã tỏ ra trọng phong cách đối xử với tha nhân, sự hòa thuận với những người chung quanh còn hơn việc dâng lễ vật toàn thiêu cho Thiên Chúa nữa (xem Mt 5,23-25).
Biết bao người chu toàn hết sức tốt đẹp những nghi thức phụng vụ mà lại đối xử với tha nhân chẳng ra làm sao, chẳng có tình có nghĩa gì cả, thì thử hỏi đạo đức kiểu ấy có ích lợi gì cho họ trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu có nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi. Vì thế, trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ sao?” và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”» (Mt 7,21-23). Xin cho con hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó. Xin cho con nhận ra điều quan trọng nhất trong đạo của Cha mà con phải tuân giữ là thực hiện thánh ý Cha, mà điều cốt yếu nhất của thánh ý Cha chính là mến Chúa - cũng là yêu người - hết lòng hết sức. Amen.
51. Giới răn trọng nhất.
Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ, đủ loại này. Nhưng đến chiều, bé gặp bà hiệu trưởng. Bé thấy bà thật hiền hậu, dễ mến. Bà có nụ cười đầy thiện cảm. Bé thấy mến bà và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ YÊU.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do thái thì vẫn giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng dựa trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta nhận Thiên Chúa là cha và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên mức độ tuyệt đỉnh: phải yêu anh em như yêu Chúa. Ai giúp đỡ một người bé mọn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Ngài như một người cha, nhưng tình yêu này phải được biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu mến anh em mới chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
52. Giới răn cao trọng nhất -- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét khác với những đoạn trước. Có một thầy thuộc giới Kinh sư đến với Chúa Giêsu (c.28a). Và Maccô cho thấy ngay rằng Chúa Giêsu tỏ ra ưu ái ông. Một Kinh sư mà nêu ra một câu hỏi như vậy kể cũng lạ (c.28b). chắc chắn ông ta phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh. Đó là lãnh vực chuyên môn của ông mà! Nhưng vào thời bấy giờ, các Kinh sư thường sôi nổi tranh luận xem giới luật này hay giới luật nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê được tới 630 giới luật của Cựu Ước: Cả một cánh rừng mịt mù đối với dân Do Thái. Nhóm Biệt phái, bao giờ cũng khắt khe về luật lệ, đã rút ra một nền luân lý quá ư tỉ mỉ, phải mất công phân biệt. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu sẽ dựa vào 10 điều răn để trả lời (x.Xh 20,1-17). Nhưng không phải vậy, Ngài lại đọc những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do Thái giáo (tựa như kinh Lạy Cha) (c.29a). Đó là kinh Shema Israel (Hỡi Israel, hãy lắng nghe) (Đnl 6,4-5). Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai (c.31a) là phải yêu mến anh em (Lv 19,18). Trong văn chương Do Thái hồi ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Maccô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó” (c.31b).
Câu trả lời của Chúa Giêsu lập tức thuyết phục được người nghe hoàn toàn. Ở câu 32, người này thực ra chỉ biết lặp lại hai câu Thánh Kinh Chúa Giêsu đã trích dẫn, từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn. Ông ta nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, và chỉ mình Ngài, không có ai khác” (Dt 4,35). Rồi ông kết luận rằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân phải được coi trọng hơn các hiến tế dâng cúng của Do Thái giáo (c.33). Điều này rất phù hợp với ý tưởng của các tiên tri rằng: Chúa phán: “Ta muốn tình yêu chứ không phải lễ vật hy tế” (Hs 6,6). Giới Kinh sư chiếm một vị trí quan trọng trong khu vực đền thánh (từ 11-27). Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nên Ngài mới nói: “Ông đã phán đoán khôn ngoan” rồi khái niệm (điều hiếm hoi đối với Chúa) rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa “ (c.34a). người ta có thể hầu chắc rằng ngay trong giới Kinh sư căm ghét Chúa Giêsu từ thuở đầu (2,6; 3,22 v.v…) thì cũng có những kẻ hướng tìm nguồn sáng. Tóm lại Maccô đã biến cuộc gặp gỡ này thành một khoảnh khắc hạnh phúc. Theo ông trái hẳn với Matthêu (22,34-40) và Luca (10,25-28) –thì không còn một cuộc đối thoại nào theo kiểu vừa nói nữa.
Ẩn sau các câu hỏi đáp này, chính là một cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giêsu với một người Biệt phái cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào cả. Câu chót của đoạn văn có một ý nghĩa đặc biệt. Không còn ai dám hỏi Ngài nữa (c.34b), nghĩa là không còn thời gian thuận lợi để tranh cãi nữa.
53. Chú giải của Noel Quesson.
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện “cho các quốc gia” (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,'' Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn “cây vả bị khô héo”, Người đã nói “Con Người” đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, “bị tấn công”, “phản công”. Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm” (Mc 11,27-33).
“Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình” (Mc 12,1-12).
- Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
- “Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?” (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng “đóng khung” đời sống tôn giáo của mình trong vòng “riêng tư” trong việc “thờ phụng” không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng đầu?
Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những “trường dạy Đức tin” gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để “nghiên cứu học hỏi”. Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta “chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn” của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để “nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: “Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi” Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”.
“Phải phụng sự Chúa trước hết”. Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe” Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết “lắng nghe”, và để cho Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh “Shema” Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: “Thiên Chúa là Chúa duy nhất”. Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: “Thiên Chúa là một”. Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: “Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ “một” có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ “duy nhất”. Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn “hợp nhất”. Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn “lưu chảy”, làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.
Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. “Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến”, nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức” không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là...
Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế “yêu Thiên Chúa” là đủ, hay “thương yêu anh em” cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ “điều răn” trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa” đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. “Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ “như Ta” để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: “Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!
54. Việc làm của Đức tin là Đức ái -- Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay.Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Ðạo Do Thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc 12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Ðệ Nhị luật 6, 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật 19,18. Như vậy Chúa Giêsu đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”.
1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái.
Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.
Còn chúng ta, điều gì quan trọng nhất?
Có người cho đó là tiền: có tiền mua tiên cũng được. Mọi người đều cần tiền. Đồng tiền ảnh hưởng trên mọi sinh hoạt, chi phối mọi sinh hoạt, thậm chí còn là mục đích của mọi sinh hoạt. Điều quan trọng hơn cả là làm sao kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt. Tiền bạc là thước đo sự thành công ở đời.
Có người cho đó là địa vị: làm thế nào để có chỗ đứng trong xã hội, được người khác kính trọng, phục tùng.
Người khác cho đó là tình yêu: chỉ có tình yêu mới làm cho người ta hạnh phúc. Đối với đôi nam nữ đang yêu thì tình yêu là quan trọng nhất.
Nhiều người cho đó là học vấn: đối với học sinh hay sinh viên, đỗ đạt là quan trọng nhất.
Đối với phần đông những người trưởng thành, thì điều quan trọng là vợ con, là gia đình, là nghề nghiệp, là nơi ăn chốn ở.
Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.
Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.
Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.
Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.
Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.
Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.
2. Yêu tha nhân như chính mình.
Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “ Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1 Ga 2, 9 ).
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.
Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
3. Việc làm của Đức tin là Đức ái.
Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).
Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.
Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: “Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì? Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: “Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói: “Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).
Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40): những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (Porta Fidei, Số 14).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).
Năm Đức Tin sống Đức Ái, chúng ta cùng chung tay với Chúa Giêsu thực hiện Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (Lc 4,19).
55. Yêu thương bằng việc làm.
(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)
1. Giới răn trọng nhất.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người: Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi...
Đây chính là giới răn trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani - tức là Đức Gioan Phaolô I sau này - đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi đâu?' Đức vua đi đâu, tôi đi đó'. 'Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi đâu không?' 'Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với đức vua'... Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người...
Sống với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù thành công hay thất bại - tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.
2. Đáp lại tình yêu Chúa.
Hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong phần đáp ca:
Con yêu mến Chúa, lạy Giavê, sức mạnh của con.
Chúa là đá tảng, là đồn lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ, là đồn trú của con.
Thánh Vịnh 17 có thể được coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào, vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở che cho vua... Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.
Nhưng điều còn kinh ngạc hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.
Chúng ta lẽ nào lại không đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy.
Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú, chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa..., nhưng xin dạy con biết yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!
3. Tình yêu thể hiện bằng việc làm.
Một nhà viết tiểu sử thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: 'Cái gì! Một chiếc khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?' Với dung mạo tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: 'Chính vì tôi mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm...' Chúa rất coi trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.
Chúng ta hãy tỏ lòng mến Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ... Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.
Mọi việc chúng ta dâng lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa. Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: 'Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước'. Và như thế dường như vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: 'Simon, con Giona, con có mến Thầy hơn những người này không?'
Đây là lúc chúng ta phải trả lời: 'Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!' Tuy nhiên, chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: 'Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin gia tăng lòng mến cho con!'.
56. Thánh thiện là đức ái trọn hảo
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.
Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.
Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).
Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
Chúa Nhật XXXI Thường Niên Quanh Năm, dù thuộc chu kỳ nào đi nữa, A, B hay C, cũng thường ở trong thời điểm cuối tháng 10 hay đầu tháng 11, hoặc vào chính ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh Nam Nữ hay vào Lễ Các Đẳng (năm A: 31/10/1999, 1/11/1987 và 3/11/2002; năm B: 30/10/1994 và 2/11/1997 hay 2/11/2003; năm C: 1/11/1992 hay 1/11/1998, 2/11/1986). Riêng chu kỳ Năm B 2003, Lễ Các Thánh rơi vào ngày Thứ Bảy 1/11 và Lễ Các Đẳng vào Chúa Nhật 2/11. Tuy nhiên, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXXI Năm B tuần này cũng rất hợp với ý nghĩa của cả hai lễ này. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy một yếu tố then chốt để nên thánh, đó là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình. Đức Ái chẳng những là yếu tố then chốt để nên thánh mà còn là yếu tố cần thiết để đền tội nữa, đền tội cho chính bản thân mình và đền thay cho nhau nữa, nhất là cho những linh hồn trong luyện ngục. Thánh Phêrô tông đồ đã khẳng định “tình yêu bù đắp muôn vàn tội lỗi” (1Pt 4:8), và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về người phụ nữ tội lỗi trong thành đã tỏ lòng ăn năn thống hối là “chị ta được tha nhiều vì đã yêu nhiều” (Lc 7:47).
Thật vậy, điều quan trọng nhất trên trần gian này không phải là được làm lớn, làm tổng thống về phương diện chính trị, làm thần tượng về phương diện nghệ sĩ, hay làm giám mục, giáo hoàng về phương diện tôn giáo, mà là làm thánh. Không làm thánh thì làm gì thì làm con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cũng có thể làm mất lòng Chúa, vì họ chỉ sống theo tự nhiên, sống theo xác thịt là những gì vốn phản lại với Thần Linh, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt; cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (Jn 3:6), hay với các tông đồ: “Thần Linh mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63). Điển hình nhất là trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô, dù có ý hết sức ngay lành trong việc can thiệp vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vị tông đồ này cũng đã bị Người nặng lời khiển trách là đồ Satan (x Mt 16:22-23). Thật ra, Kitô hữu chúng ta đã được thánh hóa, đã là Thánh ngay từ khi được lãnh nhận Phép Rửa. Bởi vậy, là những ngọn đèn đã được Chúa Kitô thắp lên để trên cao hầu soi sáng cho cả nhà thế gian, chúng ta phải sống đúng với ơn gọi “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) của mình. Mà ánh sáng chúng ta chiếu giải để soi sáng thế gian tăm tối sặc mùi tử khí văn hóa sự chết đây là gì nếu không phải là một đức ái trọn hảo.
Nếu theo Mạc Khải Thần Linh qua phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, Phúc Âm nói riêng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói đến giới răn cao trọng nhất là giới răn yêu thương, yêu Chúa hết mình và thương người như mình, thì trong phần áp dụng thực hành những gì Chúa tỏ dạy cho chúng ta biết ấy, chúng ta cảm nhận và đáp ứng thế nào trước Lời Chúa? Chắc mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy khó nên thánh quá! Lời Chúa khó áp dụng quá! Nhưng cũng chính vì Lời Chúa siêu việt trên cả trí khôn hiểu biết của loài người lẫn khả năng thực hiện của họ mới thực sự chứng tỏ cho thấy “Đó là Lời Chúa”, chứ không phải là lời thường, lời của con người, dù là của các bậc hiền triết thánh nhân, những lời Chúa siêu việt này đều “là thần linh và là sự sống” (Jn 6:63), như Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ. Đó là lý do, để phấn khích tinh thần Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta có các tấm gương của những vị thánh, những con người cũng hèn yếu như chúng ta. Chẳng hạn như vị tân chân phước Têrêsa Calcutta được Giáo Hội tuyên phong vào chính Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, “một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”, như ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố ngày 20/10/2003 với phái đoàn hành hương đến dư ï lễ tuyên phong của Mẹ, vị mà trong hồ sơ phong chân phước đã được gọi là “biểu hiệu của Đức Ái Kitô giáo”, căn cứ vào các việc bác ái anh hùng được tỏa sáng từ người nữ tu thánh sống này.
Mẹ Têrêsa Calcutta, sau khi đã nghe thấy tiếng Chúa nói trong tâm hồn của Mẹ, kêu gọi Mẹ là: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, Mẹ đã bắt đầu đi vào đêm tối tăm nội tâm, một đêm tối tăm bắt đầu xuất hiện khi Mẹ mới bắt tay vào việc phục vụ người nghèo cho tới khi Mẹ qua đời, một đêm tối tăm, như Mẹ chia sẻ với cha linh hướng và Đức Tổng Giám Mục địa phương, có những lúc Mẹ thấy thiên đàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa v.v., nhưng đồng thời đời sống Mẹ lại thực sự chiếu tỏa “rạng ngời chân lý” Chúa Kitô, mang “Phúc Âm sự sống” chẳng những đến cho thế giới Ấn Giáo mà còn cho cả thế giới văn minh duy nhân bản, duy thực dụng, duy vật vô thần của thế kỷ 20 nữa. Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ kể lại cho chúng ta.
“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.
“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.
Đó là lý do, trong bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC Gioan Phaolô II chẳng những đã đề cập đến cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ Maria liên quan đến lòng mến Chúa hết mình của Mẹ, mà còn hết lời ca ngợi đức ái xả thân quên mình của Mẹ trước thế giới nơi thành phần cùng khốn nhất loài người như sau:
“Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu” (Đoạn 4).
Phần Kitô hữu Công giáo chúng ta, đôi khi chúng ta khiêm nhượng quá đến trốn tránh trách nhiệm, đến sống phản lại sự thật. Điển hình nhất là việc thực hành ơn gọi Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta đây. Không phải hay sao, trong khi Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng “Các con là ánh sáng thế gian”, thế mà có ai trong Kitô hữu chúng ta dám tự nhận mình “là ánh sáng thế gian” không? Chính vì chúng ta không dám nhận mình “là ánh sáng thế gian”, hay thậm chí phủ nhận căn tính Kitô giáo “là ánh sáng thế gian”, là truyền giáo, là làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa Kitô như thế, mà chúng ta đã tiếp tục sống tầm thường, sống phản lại với tinh thần của Chúa Kitô, sống trong tăm tối, theo khuynh hướng dễ dãi tự nhiên, theo xác thịt phản lại Thần Linh ban sự sống.
Phải, chỉ khi nào chúng ta dám chân nhận mình tôi “là ánh sáng thế gian”, chúng ta mới nỗ lực làm gương sáng, mới có thể tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” ra, mới trở thành chứng nhân trung thực phản ảnh Chúa Kitô, mới phát tỏa Tin Mừng Sự Sống cho thế gian vốn yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng này. Nếu đức ái trọn hảo của Kitô giáo “là ánh sáng thế gian” thì ánh sáng đức ái này được chiếu tỏa từ ngọn đèn đức tin. Đức ái càng sáng chứng tỏ đức tin càng mạnh và sự sống nội tâm càng dồi dào nơi thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô. Nếu đức tin thuộc về hay liên quan đến đời sống nội tâm cầu nguyện thì đức ái thuộc về hay liên quan tới đời sống hoạt động tông đồ. Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái.
Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại miền đất bần cùng nhất trên thế giới. Chính việc bác ái Kitô hữu thực hiện chứng tỏ họ thực sự yêu mến Thiên Chúa, hay thực sự họ nhận biết Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng họ phải kính mến hết mình, “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, như Chúa Giêsu tái xác nhận với người luật sĩ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Và chính kiến thức thần linh, được sáng tỏ qua đức bác ái, đã cho thấy người Kitô hữu này đã thực sự sống dồi dào “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3)
30/10 Khiêm tốn hạ mình
- Viết bởi Lc 14, 1. 7-11
Khiêm tốn hạ mình.
Thứ Bảy tuần 30 thường niên.
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lời Chúa: Lc 14, 1. 7-11
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. "Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngồi chỗ cuối
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi thấy các khách dự tiệc có khuynh hướng chọn ngồi chỗ nhất,
Đức Giêsu đưa ra một lời khuyên đối với họ (cc. 8-10).
Mới nghe những lời khuyên này,
ta có cảm tưởng đây chỉ là những lời dạy cách ứng xử khôn khéo.
Nên chọn ngồi chỗ cuối,
vì nếu chủ tiệc sắp xếp lại chỗ ngồi theo thứ bậc,
bạn có cơ hội được mời lên chỗ trên.
Thà ngồi dưới rồi được đưa lên, còn hơn ngồi trên mà bị kéo xuống.
Như thế ngồi chỗ cuối rốt cuộc chỉ là một giả vờ,
để che dấu tham vọng muốn được ngồi lên trên.
Ngồi chỗ cuối chỉ là để tránh một xấu hổ, sỉ nhục,
và nhắm đến một vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn (cc. 9-10).
Đức Giêsu có ý khuyên dạy người ta như thế không?
Chắc là không.
Qua dụ ngôn đơn sơ và có thể gây hiểu lầm trên đây (c. 7),
Đức Giêsu muốn nói với khách dự tiệc một điều quan trọng hơn nhiều.
Bài ca Magnificat đã nói đến một sự đảo ngược lớn lao sẽ xảy ra:
Chúa dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi kẻ giàu sang,
nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường, ban dư đầy cho người đói (1, 51-53).
Các Mối Phúc cho và Khốn cho cũng nói lên sự đảo ngược này.
Phúc cho người nghèo, người đói, người khóc than.
Khốn cho người giàu, người no, người được ca tụng (6, 20-26).
Dụ ngôn Ladarô và ông nhà giàu là một minh họa về điều đó (16, 19-31).
Trong câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu cũng nói lên sự đảo ngược ấy khi Nước Thiên Chúa đến.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.
Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 11).
Bị hạ xuống trong bữa tiệc, thật là điều hổ nhục.
Nhưng bị Thiên Chúa hạ xuống trong ngày sau hết thì kinh khủng hơn nhiều.
Nỗi hổ nhục sẽ muôn đời còn mãi.
Để thực hành lời khuyên của Đức Giêsu cho đúng đắn,
thánh Basiliô cho ta một soi sáng như sau:
“Chúng ta phải để cho chủ tiệc lo chuyện xếp chỗ các khách mời.
Như thế chúng ta mới nâng đỡ lẫn nhau trong nhẫn nhục và bác ái,
đối xử với nhau trong sự kính trọng,
xa tránh mọi tìm kiếm hư danh và khoe khoang.
Chúng ta không giả vờ khiêm tốn.
Bởi lẽ thích tranh chấp và cãi vã là dấu hiệu kiêu ngạo
còn lớn hơn chuyện ngồi ghế đầu khi phải ngồi chỉ vì vâng phục.”
Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy.
Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra.
Trong lòng, ai cũng nghĩ mình xứng đáng hơn người khác.
Thèm muốn vinh dự, chức tước, đã gây bao chia rẽ trong Giáo Hội.
Chỉ mong tôi thực sự hạ mình trước anh em tôi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Suy niệm 2: Nâng lên – hạ xuống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bữa tiệc bộc lộ những khuynh hướng của xã hội. Rõ nét là khuynh hướng thể hiện đẳng cấp. Đẳng cấp của chủ tiệc. Đẳng cấp của khách mời. Thế gian kiêu ngạo. Ai cũng muốn thể hiện mình. Nhưng chỗ ngồi có hạn. Quyền định đoạt là do gia chủ.
Chúa dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Vị thế trong Nước Trời do Chúa quyết định. Theo những tiêu chí ngược hẳn với trần gian. Cũng như bữa tiệc trần gian, bữa tiệc Nước Trời cũng thể hiện cuộc chiến. Trần gian thể hiện mình bằng đấu tranh với người khác. Nước Trời thể hiện bằng đấu tranh với chính mình. Đấu tranh với người khác để chiến thắng. Thắng về tiền tài, danh vọng, chức quyền. Đấu tranh với chính mình để thắng chính mình. Thắng bằng hạ mình, quên mình, huỷ mình. Chủ tiệc trần gian căn cứ vào tiền tài, địa vị, chức quyền mà xếp chỗ. Chúa căn cứ vào việc chiến thắng chính mình. Và theo tiêu chí: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thư Rô-ma cho biết giáo huấn của Chúa ứng với dân Ít-ra-en. Họ tự tôn vì là dân tộc được Chúa chọn. Nhưng vì tự tôn nên họ không tin Chúa Giê-su. Không ăn năn sám hối. Họ sẽ bị loại trừ. Vì họ bị loại trừ. Nên dân ngoại được Chúa mở rộng cửa đón tiếp. “Thiên hạ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa…con cái bị loại ra”(Lc 13,29). Nhưng thánh Phao-lô tin tưởng rằng sau khi dân ngoại được đón nhận, Chúa lại thương đưa dân được tuyển chọn vào Nước Trời. Đó là lòng thương xót vô biên của Chúa (năm lẻ).
Hiểu được điều đó nên thánh Phao-lô không còn đấu tranh theo ý riêng. Chỉ biết theo ý Chúa. Chỉ gắn bó với Chúa Ki-tô. Quên mình để phục vụ Chúa. Và phục vụ anh em, “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em. Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh em” (năm chẵn).
Hãy theo gương thánh Phao-lô. Hoàn toàn quên mình. Thuận theo ý Chúa. Phục vụ Chúa. Phục vụ lợi ích linh hồn anh em. Không tính toán gì cho mình. Ta sẽ được Chúa trả lại gấp bội. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Suy niệm 3: Bài Học Khiêm Nhường
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Thật thế, theo Tin Mừng thuật lại, hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Con Ðường Khiêm Hạ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống khiêm tốn. Lấy câu chuyện chỗ ngồi trong bàn tiệc như một bài dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta tín hữu Kitô điều thâm sâu trong đạo: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Với châm ngôn này, Chúa Giêsu muốn đặt con người ra trước mặt Thiên Chúa. Thật thế, tất cả phẩm giá con người có được đều bởi Thiên Chúa mà ra. Từ sự sống thể lý đến các phẩm tính tinh thần, từ giá trị cho đến những thành đạt trong cuộc sống và nhất là những nhân đức con người tôi luyện được. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Nhân câu chuyện ngồi trong bàn tiệc mà thực khách hầu hết là những người biệt phái, vốn hám danh và tự mãn, Chúa Giêsu hẳn muốn nhắc đến thói giả nhân giả nghĩa và kiêu ngạo của họ. Với những thực hành tôn giáo như ăn chay, cầu nguyện, bố thí mà họ chuyên cần thực thi, những người biệt phái dễ lên mặt khinh thị những thành phần thấp hèn trong xã hội. Chúa Giêsu đưa họ trở về với chân lý của con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi biết nhận ra giá trị đích thực của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Và nhận ra giá trị của mình cũng có thể là nhận ra sự hư không và thân phận hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Ðây chính là tâm tình cơ bản của Mẹ Maria. Chính khi nhận ra mình là người tôi tớ trước mặt Thiên Chúa mà Mẹ đã nên cao trọng. Mẹ đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa cho nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta cũng dõi bước theo Mẹ trên con đường khiêm hạ ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Phúc Cho Ai Hạ Mình Xuống
“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho, Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc. 14, 10-11)
Đức Giêsu thường đồng bàn với biệt phái và luật sĩ. Họ đã rình xét lúc Người chữa người phù thũng và kết án Người trong lòng họ. Về phần Người đã để ý tới những khách đến chọn chỗ nhất.
Thực vậy, họ có thói quen tôn mình lên tự xếp mình vào bàn trọng vọng nhất. Những kẻ tưởng mình xứng đáng nhất đã giành nhau chỗ danh dự nhất vì trật tự chỗ ngồi không lệ thuộc vào tuổi tác nhưng sắp xếp theo địa vị cao thấp.
Đức Giêsu không dạy khôn ngoan của loài người
Theo sự khôn ngoan của loài người, người ta thường dạy nhau khi được mời đến dùng bữa, tốt hơn nên chọn chỗ thấp. Khi chủ thấy khách quan trọng thì đến mời người khách ấy lên chỗ cao hơn, lúc đó người ấy được vẻ vang trước mặt mọi người. Nếu khách làm trái lại thì thật xấu hổ, vì những kẻ được mời dự tiệc theo tục lệ Do thái, họ nằm trên đi-văng để ăn và rất khó đứng dậy đổi chỗ cho người vị vọng hơn. Cho nên ai hạ mình xuống không còn sợ bị hạ bệ trước mặt những người khác.
Đức Giêsu không trưng dẫn lời khuyên cổ nhân của sách khôn ngoan loài người. Sứ điệp của Người luôn luôn hướng dẫn ta đến nước Thiên Chúa và lời giáo huấn của Người luôn liên quan đến ơn cứu độ.
Người áp dụng vào nước trời
Người luôn luôn diễn tả chân lý đáng ghi nhớ này: Ai muốn vào nước trời phải trở nên bé nhỏ và khiêm tốn, không được đòi địa vị như luật lệ loài người sắp xếp. Không phải nhờ chính giá trị riêng của mình mà người ta sẽ được xét xử. Nhưng chính Chúa Cha, Đấng thấu suốt con tim và bụng dạ sẽ xét xử người ta.
Đức Giêsu lên án tính kiêu ngạo cố chấp của biệt phái. Họ sẽ bị hạ xuống vì họ đã cho mình là cao trọng, họ tìm danh lợi ở dưới đất, họ đã được phần thưởng rồi. Trái lại những kẻ nghèo khổ, thâu thuế, tội lỗi ý thức mình nhỏ bé hèn hạ trước mặt Thiên Chúa thì sẽ được nâng lên.
Phúc cho ai khiêm nhường, vì họ sẽ được thấy vinh quang nước Chúa.
RC
Suy niệm 6: Thế nào là người khiêm nhường
Có một lần, trên xe buýt có hai linh mục, hai giáo dân. Vị linh mục lớn tuổi hỏi một bác đang cùng lộ hành với ngài rằng: theo ông, thế nào được gọi là người khiêm nhường?
Tưởng rằng với tuổi đời khá cao và đã từng trải, mình sẽ trả lời “ngọt như đường mía lau”. Bác ta trả lời rằng: “Thưa cha, người khiêm nhường là người không có bon chen với ai; luôn nghe lời của người khác và làm theo; và người khiêm nhường là luôn cho mình bất xứng!”. Vị linh mục kia trả lời: “Không đúng! Vì nếu người khiên nhường chỉ mong cho được bình yên thì họ thuộc về hạng người bị thụ động, mềm yếu; hay luôn làm theo ý người khác là người trốn tránh trách nhiệm, thiếu tự chủ, chứ thực chất không phải khiêm nhường; hoặc luôn coi mình là bất xứng thì không chừng, khiêm nhường kiểu này chẳng khác gì ‘một lần khiêm tốn bằng bốn lần kiêu ngạo’ vì họ có thể dùng chiêu thức này để người khác đề cao, khen ngợi và đánh giá mình đạo đức trước mặt mọi người”. Bác kia hỏi lại: “Vậy ai là người khiêm nhường thật?” Linh mục trả lời: “Người khiêm nhường là người sống đúng sự thật, biết nhận ra sự thật và tôn trọng sự thật”.
Thật vậy, theo tinh thần Tin Mừng, người khiêm nhường thật chính là người biết nhận ra sự thật hữu hạn của mình và nhận thấy Chúa quyền năng. Nhận ra mình yếu hèn, tội lỗi và Thiên Chúa yêu thương. Người khiêm nhường cũng là người biết mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa, sự góp ý của anh chị em.
Nói chung, người khiêm nhường là người biết ý thức rằng: mọi sự mình có là do Chúa yêu thương. Vì thế, sống khiên nhường là luôn biết hạ mình trước mặt Chúa và tha nhân. Luôn biết sám hối, canh tân để được Thiên Chúa nâng lên trong ân sủng của Ngài, bởi vì: "... hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con học được bài học khiêm nhường của Chúa để chúng con được thuộc về Chúa cách trọn vẹn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Khiêm tốn thật sự
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Khiêm tốn là nét duyên của người Kitô hữu trước mặt Chúa. Thiên Chúa thương yêu và nâng dậy những ai khiêm cung nhỏ bé.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thân phận con người trước nhan Chúa chỉ là thụ tạo đối với Đấng Tạo Thành, là giới hạn đối với vô hạn, là kẻ yêu đuối lỗi lầm đối với Đấng Chí Thánh. Ai tưởng mình là thánh thiện, người đó thật ảo tưởng. Khi con đòi hỏi Chúa phải ban ơn như ý con, là lúc con quên thân phận thụ tạo của mình. Người kiêu căng tự phụ thật vô duyên trước mặt Chúa. Con không thể quên hình ảnh người biệt phái lên đền thờ vênh vang kể công đức của mình và coi thường anh em, và đã bị Chúa Giêsu chê trách.
Con muốn là người khiêm tốn để được Chúa thương mến. Người khiêm tốn là người biết nhận đúng về thân phận mình và cậy trông vào Chúa. Con nhìn về gương Mẹ Maria nhận mình là tôi tớ Chúa, phó thác cậy trông để Chúa dẫn dắt cuộc đời Mẹ. Chúa đã dẫn dắt Mẹ đi vào con đường làm Mẹ Thiên Chúa đầy đau khổ, nhưng cũng đầy bình an và hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin giúp con biết sống khiêm tốn và phó thác, đừng than thân trách phận làm phiền lòng Chúa, Đấng đã vì thương mà tạo dựng nên con. Xin cho con biết sống khiếm tốn trước mọi người: biết tôn trọng, nhường nhịn, phục vụ nhau, biết nhận lỗi và can đảm xin lỗi khi con có lỗi với anh chị em. Con tin rằng khi con khiêm tốn phó thác cậy trông vào Chúa, như con thơ trong tay Cha nhân lành, Chúa sẽ dẫn dắt đời con tới bến bờ bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên”.
Suy niệm 8: Khiêm tốn và thực thi bác ái quảng đại
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mẹ Têrêsa thành Calcutta tỏa sáng trong thế giới với giải Nobel Hòa bình và nhiều giải thưởng vinh danh khác vì những hoạt động bác ái cho người nghèo, phục vụ người bệnh tật, quan tâm người bị bỏ rơi. Dù vĩ đại như vậy, được mọi người ngưỡng mộ nhưng mẹ đã khiêm tốn chỉ nhìn nhận mình là “cây viết chì trong tay Thiên Chúa”. Chính bằng cuộc sống phục vụ trong hy sinh, khiêm tốn và chân thành, mẹ Têrêsa đã để lại cho thế giới một di sản tinh thần bác ái không biên giới…
Công trình bác ái của mẹ và tất cả những công trình bác ái, giáo dục trong lòng của Giáo hội, nếu chúng ta tìm về nguồn gốc ban đầu, sẽ khám phá đều bắt đầu từ những việc nhỏ nơi những tâm hồn khiêm tốn nhưng giàu lòng quảng đại như mẹ.
Suy niệm
Giáo huấn của Chúa Giêsu mang sứ điệp tinh thần khiêm tốn và cách thực thi sống bác ái quảng đại không vụ lợi, không mong được đáp trả như người đời thường nghĩ: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”. Giáo huấn khiêm tốn và bác ái đó đã được thánh Phaolô nối tiếp khi chia sẻ với giáo hữu thành Ephêsô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2). Trong thư gửi giáo đoàn Galat, vị Tông đồ còn nhấn mạnh các hoa trái sinh từ Thánh Linh trong đó có đức ái và sự khiêm tốn hiền hòa. (x. Gl 5,22)
Trong hai đức tính mà giáo huấn của Đức Kitô mời gọi, theo thánh Phaolô: Trổi vượt hơn những đặc sủng (1Cr 12,31-13,2), đức mến được xếp tối thượng trong các “hoa trái của Thánh Thần” (Gl 5,22-23). Còn tấm gương khiêm tốn hiền hòa, chúng ta học nơi chính Chúa Giêsu như Người đã dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của Ta và hãy học với Ta vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Như thế, khiêm tốn và bác ái đều khởi đi từ cung lòng Thiên Chúa và được chuyển đến con người với mong muốn: Con người thực thi trong lòng dương gian để cho chính bản thân mình và cho anh em. Khiêm nhường và bác ái như là nền tảng và trụ cột trong việc xây dựng đời sống nhân bản và thiêng liêng. Sách Huấn Ca đã viết: “Càng khiêm tốn thì các con càng cao cả, và các con sẽ được Chúa ủng hộ cho” (Hc 3,19-20). Trước đó sách Huấn Ca cũng nhấn mạnh làm việc phục vụ yêu thương một cách khiêm tốn thì càng được yêu mến hơn: “Hỡi các con trai và con gái của ta, hãy thi hành công việc của các con một cách khiêm tốn thì các con sẽ được yêu mến hơn khi các con đem quà tặng cho kẻ khác” (Hc 3,17-18). Hơn nữa khiêm tốn giúp ta thực thi bác ái với một tâm hồn quảng đại không mong đáp trả như Chúa Giêsu đã kêu gọi (x. Lc 14,12-13) đó là đức ái không tìm tư lợi mà thánh Phaolô khuyên người tín hữu (x. 1Cr 13,4).
Thật thế, đó là đức ái trong khiêm tốn.
Chính lúc chúng ta khiêm hạ và sống bác ái vô vị lợi, chúng ta đang “thêu dệt” công trình nhân cách chính mình trong cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, tinh thần đức tin của chúng ta đang vươn tới núi Sion Thành Thánh, nơi đại hội Giêrusalem của những người tin, đó là đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa là những kẻ đã được ghi tên trên trời, như thư Do Thái phác họa (x. Dt 12,18-19.22-24a).
Ý lực sống
Cây lúa trĩu hạt càng nép mình xuống, mang những bông hạt cống hiến cho đời những bát gạo thơm ngon…
Suy niệm 9: Hãy mau mắn hối cải
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đoạn Tin mừng hôm nay có ý kêu gọi mọi người hãy ăn năn hối cải. Lời giảng và dụ ngôn của Đức Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa khoan dung, kiên nhẫn chờ đợi con người sám hối và hoán cải. Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng: những nạn nhân ấy là “ác giả” cho nên bị “ác báo”. Đức Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác, nhưng mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm của mình để lo sám hối.
Sám hối là điều kiện cần thiết để chúng ta được Thiên Chúa tha thứ. Và cũng qua dụ ngôn cây vả, chúng ta phải biết nhận ra giới hạn của mình và tích cực sửa đổi để được Thiên Chúa đón nhận và yêu thương.
Người Do thái thường quan niệm rằng, mọi tai hoạ là hậu quả của tội lỗi. Những người được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay bị chết như thế là do tội lỗi của họ. Nhưng Đức Giêsu không nghĩ như vậy. Ngài giải thích kiểu khác: những tai họa, thảm nạn không phải là hình phạt của Thiên Chúa mà là dấu chỉ cho một lời mời gọi để kêu gọi mọi người hoán cải. Như vậy, việc những người bị giết chết do bàn tay của Philatô hay bị tháp Siloe đổ xuống đè chết không được coi là cớ để ta xét đoán và kết án người khác, mà phải được coi là dịp để “duyệt xét lại đời sống” của chính mình bằng tâm tình sám hối, để trở về với đường ngay nẻo chính. Chỉ có cách đó con người mới xứng đáng với diễm phúc làm con cái Chúa.
“Chúa phạt”, đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai hoạ cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu mến người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Nhân hai sự kiện thời sự - những người nổi loạn bị tống trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Siloe đè chết – Đức Giêsu cảnh báo người đương thời phải sám hối. Điều lạ lùng là một đàng, Chúa dạy phải mau mau sám hối; đàng khác, Chúa lại kiên trì chờ đợi con người sám hối qua dụ ngôn “người làm vườn và cây vả”. Hoãn binh chi kế thông thường là thủ thuật của kẻ dưới nhằm có thời giờ đối phó với người trên. Còn Thiên Chúa luôn luôn là người trên, đồng thời là Đấng “chậm giận và giàu tình thương” lại chấp nhận “phương án” hoãn binh, không phải như cơ hội cho con người mưu tính, song là để chúng ta nhận ra lòng thương xót của Ngài. Thay vì trừng phạt ta “ở đây và ngay lúc này”, Ngài lại kiên nhẫn đợi chờ. Ngài dành cho chúng ta thời gian sửa đổi, nhận ra lỗi lầm của mình, cũng như cảm nghiệm được ý muốn nhân từ của Ngài. Một khi nhận thức được thâm ý của Chúa, sự hoán cải đổi đời của ta sẽ có giá trị bền vững (5 phút Lời Chúa).
Qua hai sự kiện - quan Philatô ra lệnh giết và tháp Siloe đè chết người - dù muốn hay không, chúng ta phải công nhận cái chết là một thực tại mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày. Cái chết là một biến cố không ngừng tra vấn con người. Khi nói đến cái chết và kêu gọi sám hối, Đức Giêsu không chỉ kêu gọi con người chuẩn bị để đón cái chết vốn đến một cách bất ngờ, Ngài còn muốn nhắc nhở con người về một điều cơ bản hơn, đó là thân phận mỏng manh bất toàn của con người. Chấp nhận thực tại của cái chết là chấp nhận cái thân phận bất toàn ấy, có nghĩa là chấp nhận sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa (R.Veritas).
Sự kiên trì trong yêu thương của Thiên Chúa phải làm cho chúng ta nhận ra mình bất toàn, yếu đuối. Vì thế, ngay lúc này, phải lo sám hối để trở nên con cái Chúa thực sự. Khi nhận ra điều đó, chúng ta nên có cái nhìn cứu độ của Đức Giêsu, đến để cứu những gì đã mất. Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi cách đặc biệt. Dụ ngôn đồng bạc đánh mất, hay dụ ngôn người Cha nhân hậu, hoặc con chiên thất lạc cho thấy bản chất của Thiên Chúa là tình yêu.
Truyện: Hãy kịp thời thống hối
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”.
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn.
Suy niệm 10: Tư cách phục vụ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Nhân dịp được mời dự một bữa tiệc và thấy thái độ của những khách được mời, Chúa Giêsu đưa ra bài học về chỗ ngồi, chỗ ngồi ở đây phải hiểu là địa vị. Theo Chúa Giêsu thì:
- Chúng ta không nên tự mình tranh giành địa vị, nhất là địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của ta.
- Hãy để cho người khác sắp xếp địa vị cho ta vì sự đánh giá khách quan của họ đối với ta sẽ có giá trị hơn.
- Tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó,
2. Vâng! Cảnh “Lên voi xuống chó” là cảnh thường xảy ra thường ngày. Bởi đó, chúng ta đừng nên quá quan tâm đến địa vị và danh vọng ở đời. Cách tốt nhất là xin Chúa giúp chúng ta được làm tròn nhiệm vụ Ngài giao, trong hoàn cảnh và cũng như trong vai trò hiện tại của mình.
Ngày nọ, con Mi-mi chạy chơi trong cánh đồng của chủ. Một con ngựa lên tiếng bảo nó:
- Này chú chó nhỏ, chú thấy không. Ông chủ quí tôi hơn những con vật ở đây đấy chứ. Vì tôi giúp ông chủ chuyên chở mọi thứ cần thiết. Còn chú, tôi nghĩ chú chả giúp được gì cho ông.
Mi-mi gật đầu bỏ đi. Nó lại nghe tiếng bò cái:
- Này, tôi chiếm địa vị đặc biệt ở đây vì nhờ sữa của tôi mà gia đình ông bà chủ mới có bơ và phô mát. Còn chú chắc chả cung cấp được gì cho chủ.
Lúc đó, con cừu ở gần đó lại nói:
- Bò cái ơi, chị không hơn tôi đâu vì tôi cung cấp len cho chủ dệt áo ấm mùa đông. Không có tôi thì chắc là cả nhà chết vì lạnh đấy. Nhưng có lẽ chị nói đúng. Chú chó con này không giúp được gì cho chủ cả.
Lần lượt các con vật đều khoe với Mi-mi về công nghiệp của chúng, từ con ngựa, con bò cho tới con mèo, con vịt, con gà.
Nghe những lời chê bai sự vô ích của mình, Mi-mi buồn quá, nó tìm một chỗ vắng vẻ để than khóc thân phận. Chợt một con chó già tiến lại và bảo nó:
- Này con, đừng than khóc về những điều mình không làm được. Đàng rằng, con quá nhỏ không thể kéo xe như ngựa, cũng không cung cấp được trứng, sữa, len... nhưng con hãy dùng tới khả năng mà Thượng Đế đã ban cho loài chó chúng ta, là mang đến cho con người nụ cười và lòng quý mến.
Chiều hôm ấy, khi chủ trở về nhà sau những giờ lao động mệt nhọc, Mi-mi vui vẻ chạy ra vẫy đuôi, liếm tay chủ và chạy thót vào lòng ông. Cả hai lăn tròn trên thảm cỏ xanh. Ông chủ ôm Mi-mi vào lòng và nói với nó:
- Về đến nhà ta mệt biết bao, nhưng bây giờ ta thấy đỡ mệt hẳn đi vì Mi-mi đã làm ta vui. Ta không thể sánh Mi-mi với bất cứ con vật nào trong nông trại này được. Vì điều quan trọng nhất đối với ta là lòng quý mến, và chỉ có Mi-mi quý mến ta hơn cả!
Con vật là loài vô tri mà xem ra còn biết cư xử khéo léo và vô vị lợi. Con người có trí thức, có khôn ngoan, lẽ nào lại không biết đối xử với nhau cho xứng với danh nghĩa làm người
3. Trong bàn tiệc Nước Chúa, điều quan trọng không phải là chỗ danh dự mà là tư cách phục vụ: càng phục vụ, càng cao trọng. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Đừng tưởng rằng, phải làm những việc vĩ đại mới là phuc vụ. Trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa rất thích biến những cái tầm thường thành những cái vĩ đại.
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng người lái buôn lại đòi hai giá khác nhau, con này gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:
- Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết, tại sao con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?
Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu cận đến và sai họ cưỡi lên hai con ngựa, hy vọng rằng, các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:
- Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngập trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.
Vâng, sự to lớn trước mặt Chúa không hệ tại ở những việc vĩ đại hay hoành tráng bên ngoài, nhưng là ở cách thể hiện âm thầm, nhẹ nhàng kín đáo phát xuất từ tâm tình bên trong. Amen.
Suy niệm 11: Bài học về chỗ ngồi - địa vị
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Nhân dịp dự một bữa tiệc và thấy thái độ của những khách được mời, Chúa Giêsu đưa ra bài học về chỗ ngồi, tượng trưng cho địa vị:
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
B.... nẩy mầm.
1. Ba mức độ giá trị của địa vị:
- Địa vị do chính mình dành lấy: kém nhất và dễ lung lay nhất.
- Do người khác trao cho mình bởi nhận thấy khả năng và phẩm chất của mình: vững vàng hơn.
- Do chính Thiên Chúa đặt cho mình: đúng và vững chắc nhất.
2. “Lên voi xuống chó” là cảnh thường xảy ra ở đời. Bởi đó tôi chẳng nên quá quan tâm đến địa vị và danh vọng ở đời. Chỉ xin Chúa giúp tôi làm tròn nhiệm vụ Ngài giao trong hoàn cảnh và thân phận hiện nay của tôi.
3. Trong bàn tiệc Nước Chúa, điều quan trọng không phải là chỗ danh dự mà là tư cách phục vụ: càng phục vụ, càng cao trọng. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Một ngày năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.
- Con có thấy gì không?
- Một hộp vàng, mặt và những cây kim.
Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói: “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy”.
Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả. (Góp nhặt)
29/10 Yêu thương là linh hồn của lề luật.
- Viết bởi Lc 14, 1-6
Yêu thương là linh hồn của lề luật.
Thứ Sáu tuần 30 thường niên.
"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"
Lời Chúa: Lc 14, 1-6
Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh.
Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Chữa khỏi và cho về
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Sau khi dự nghi thức ở hội đường vào ngày sabát,
người ta thường mời khách về nhà dùng bữa trưa.
Bữa ăn này đã được chuẩn bị từ ngày hôm trước.
Hôm nay Đức Giêsu lại được một người Pharisêu mời dùng bữa.
Đây là lần thứ ba Ngài được mời ăn như thế (x. Lc 7, 36; 11, 37).
Và đây cũng là lần thứ ba có sự căng thẳng
vì Ngài chữa bệnh trong ngày sabát (x. Lc 6, 6; 13, 10).
Những người Pharisêu trong bữa ăn hôm nay chăm chú nhìn Ngài (c. 1).
Chúng ta không rõ người mắc bệnh phù thũng có là khách không.
Hay phải chăng anh ấy là người không mời mà đến?
Nếu là khách thì tại sao Đức Giêsu lại cho anh về sau khi chữa khỏi?
Dù sao thì anh ấy cũng đang đứng trước mặt Đức Giêsu (c. 2).
Ngài thấy những dấu hiệu của bệnh phù thũng nơi thân xác anh.
Trên người anh có chỗ sưng lên vì nước bị ứ lại.
Chính Đức Giêsu là người chủ động đặt vấn đề với người Pharisêu.
”Có được phép chữa bệnh trong ngày sabát không?” (c. 3).
Hiển nhiên đối với họ, chỉ được phép chữa những bệnh nhân hấp hối.
Anh bị phù thũng không nằm trong diện này.
Vậy mà họ đã giữ thái độ thinh lặng trước câu hỏi đó (c. 4).
Đức Giêsu đã chữa bệnh cho anh chỉ bằng một cử chỉ đỡ lấy.
Không có lời nói nào kèm theo.
Có lẽ anh đã đi về nhà, lòng vui sướng vì được khỏi bệnh.
Đức Giêsu đã muốn biện minh cho hành vi chữa bệnh trong ngày sabát
bằng một câu hỏi về cách ứng xử trong một trường hợp cụ thể (c. 5).
” Giả như các ông có đứa con trai hoặc con bò sa xuống giếng,
các ông lại không kéo nó lên ngay lập tức, dù là ngày sabát sao?”
Họ đã không thể đưa ra câu trả lời,
vì dĩ nhiên là phải kéo nó lên ngay, trước khi nó chết dưới giếng.
Đối với Đức Giêsu, chữa bệnh đơn giản là kéo một người lên ngay.
Dù Ngài không phủ nhận tầm quan trọng của việc giữ ngày sabát,
nhưng ngày sabát lại không cấm làm điều phải làm, đó là chữa bệnh.
Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu của con người.
Nếu để đến hôm sau mới chữa cho anh phù thũng thì cũng được.
Nếu để bà còng lưng mười tám năm chịu thêm một ngày cũng không sao.
Nhưng Ngài muốn giải phóng con người ngay lập tức, khi có thể được.
Ngài muốn làm vơi nỗi đau kéo dài đã lâu của con người.
Chính vì bà còng lưng đã mười tám năm đau khổ
nên không cần kéo dài thêm, dù chỉ một ngày nữa.
Luật lệ đạo đời nhằm phục vụ cho hạnh phúc thực sự của con người.
Trong cuộc sống hôm nay, có nhiều việc cần làm ngay.
Có bao mảnh đời sắp bị đổ vỡ, có những nguy cơ đe dọa nhân phẩm,
có những người trẻ đứng trên bờ vực, có những thai nhi bị chối từ.
Làm sao chúng ta không dửng dưng với những em nhỏ ở kề miệng giếng,
và không quay lưng với những người đã sa xuống vực sâu?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy niệm 2: Con người hay con bò
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có những ý thức hệ phi nhân coi con người như dụng cụ. Cũng có những tôn giáo phi nhân chà đạp con người. Hôm nay Chúa Giê-su hỏi một câu mà người Pha-ri-sêu không thể trả lời. Câu hỏi thật nghịch lý nhưng đầy đau xót. Con người hay con bò? “Ai trong các ông có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?’ Và họ không thể đáp lại những lời đó”. Vậy mà con người bị sa xuống hố tử thần lại không được họ cứu trong ngày sa-bát. Trong khi con bò thì họ cứu ngay. Kinh Tin Kính tuyên xưng: Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta Người đã từ trời xuống thế. Chúa coi con người là quan trọng. Đến nỗi ban chính Con Một mình để cứu chúng ta. Vậy mà con người lại coi thường con người. Lãng quên con người. Thậm chí lạnh lùng vô cảm trước đau khổ của đồng loại.
Đạo Chúa phải noi gương Chúa. Quan tâm yêu thương con người. Đó là điều thánh Phao-lô hằng canh cánh bên lòng. Nên một với Chúa Ki-tô, thánh nhân luôn mang nhân loại trong trái tim. Vui mừng khi họ có đức tin và tiến bộ trong lòng mến. Thánh nhân tâm sự về tình yêu thương của mình dành cho giáo dân Phi-líp-phê: “Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Cũng với tình thương cứu độ đó, thánh nhân buồn phiền khi nhân loại xa lìa Chúa. Ngài yêu thương đồng loại đến sẵn sàng chịu đau khổ để họ được ơn cứu độ. “Thưa anh em, có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng”. Ngài đã nên một với Đức Ki-tô. Sẵn lòng chịu đau khổ thiệt thòi cho anh em đồng loại được hạnh phúc. Đó là đạo thật. Đạo vì con người. Không phải vì lợi lộc vật chất. Không phải vì lề luật. Càng không phải vì bản thân (năm lẻ).
Tôi đang sống đạo thế nào? Có noi gương Chúa Giê-su và thánh Phao-lô để sống vì con người, vì hạnh phúc của con người không? Hay tôi đang biến đạo thành cơ chế tàn nhẫn trói buộc con người? Tệ hơn nữa, coi của cải và bản thân hơn ơn cứu độ của anh em?
Suy niệm 3: Linh Hồn Của Lề Luật
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: "Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel".
Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Gilgal Zamir có thể là hiện thân của những Biệt phái thời Chúa Giêsu, nghĩa là luôn miệng nhân danh Chúa và lề luật. Cũng như những người Biệt phái, anh tin tưởng nơi Chúa, anh trung thành với lề luật, anh yêu tổ quốc. Nhưng anh thiếu một điều hệ trọng nhất để có thể sống như một con người, đó là một trái tim, một trái tim để biết yêu thương, để biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Khi con người không có một trái tim, thì họ sẽ mù quáng: mù quáng vì không những không còn nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người khác, mà nhất là không còn biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Tất cả vụ án của Chúa Giêsu đều bắt nguồn và xoay quanh những cuộc đối đầu về lề luật. Ðối đầu với những người Biệt phái cho đến cùng bằng cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho con người thấy rằng chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu.
Giáo dục con người sống cho ra người có nghĩa là giáo dục cho con người biết sống yêu thương. Thông minh đĩnh đạc, mà không có trái tim để yêu thương, thì đó là một tai họa cho bản thân cũng như cho xã hội. Có tất cả mà không có một trái tim để yêu thương, thì đó là nỗi bất hạnh lớn nhất đối với con người. Cách mạng mà không xây dựng trên tình yêu thương, thì đó chỉ là phá hoại. Ðạo đức mà không có yêu thương, thì chỉ là một trò lừa bịp.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã mạc khải cho chúng ta chân lý về con người. Mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng ta luôn ý thức rằng chúng ta chỉ đạt được định mệnh của mình bằng cuộc sống yêu thương mà thôi. Là môn đệ của Ðấng đã chết trên Thập giá để nêu gương yêu thương cho chúng ta, xin cho chúng ta ý thức rằng cốt lõi của đạo là giới răn yêu thương mà Ngài đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Quyết Tâm Chiến Thắng
Một trong những lực sĩ được chú ý trong kỳ thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vào tháng 10 năm 2000 là anh Gabriel, vận động viên bơi lội duy nhất của Chilê. Sinh ra chỉ với một chân và lại là một chân không bình thường, còn hai cánh tay thì cụt gần sát nách, vậy mà trong hồ bơi anh sải người lướt tới trong nước chẳng khác nào bất cứ một vận động viên bình thường nào. Tuy không đạt được một huy chương nào nhưng ý chí phấn đấu của người lực sĩ tàn tật ba mươi hai tuổi này đã biến anh thành một ngôi sao sáng chiếm lĩnh được sự ngưỡng mộ, khâm phục và nhất là lòng quí mến của khán giả.
Trong một lá thư gởi cho khán giả, anh đã nói đến ý chí phấn đấu của mình. Sinh ra trong một gia đình đông con, lại tàn tật, Gabriel đã vượt qua được mọi giới hạn để thành đạt. Hiện nay, anh làm kế toán viên trong một công ty. Thời gian nhàn rỗi anh đi bơi. Qua anh, người ta thấy được chiến thắng của sự quyết tâm của con người. Nhưng Gabriel không chỉ nói đến chiến thắng của sự quyết tâm, anh còn đề cao sự nâng đỡ mà những người chung quanh dành cho anh. Trong lá thư gửi cho khán giả, anh viết như sau:
"Tôi đến đây với niềm hy vọng và với chút tham vọng là đạt được một huy chương. Tôi quả tình mong muốn điều đó. Nhưng tình yêu mà quí vị dành cho tôi làm cho tôi cũng cảm thấy như đã đạt được chiến thắng rồi. Tôi sẽ mãi mãi trân trọng tình yêu của quí vị. Nếu có một thiên đàng thì thiên đàng chính là nơi đây".
Tâm tình trên đây của một người lực sĩ khuyết tật cũng có thể là tâm tình của bất cứ một kẻ bị đẩy ra bên lề của xã hội hay một tâm tình đau khổ nào, khi họ gặp được một sự nâng đỡ, một lời nói an ủi, một cử chỉ thương mến, hay bất cứ một sự tôn trọng nào dành cho họ.
Trong Tin Mừng hôm nay, một lần nữa chúng ta bắt gặp cử chỉ quen thuộc của Chúa Giêsu. Ngài vượt qua mọi rào cản trong cuộc sống để tìm đến với những người tàn tật và bất cứ ai đang gặp đau khổ trong thể xác và tâm hồn. Những người biệt phái và luật sĩ đã đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào để đẩy những con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Chúa Giêsu đến để qui tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp đổ mọi thứ rào cản của cuộc sống. Có mặt trong những bữa tiệc linh đình của những người biệt phái giàu sang, Ngài cũng không ngần ngại ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những người bị xã hội gán cho nhãn hiệu là hạng người bất chính, ngay cả những cô gái điếm.
Là trái tim của một Thiên Chúa nhân từ, là tình yêu nhập thể, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu với tất cả mọi người trong xã hội. Nhưng một cách đặc biệt, Ngài dành ưu ái cho những người khốn khổ, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Chữa bệnh cho một người bị mắc bệnh phù thủng trong nhà một người biệt phái và ngay trong ngày sabát, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các biệt phái rằng chỉ có một luật duy nhất tóm kết mọi thứ Lề Luật, luật ấy chính là luật yêu thương.
Một lần nữa, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở các tín hữu Kitô chúng ta về cốt lõi của đạo là Tình Thương. Trong bài ca bác ái được ghi lại trong đoạn 13 của thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã khẳng định:
"Giá như tôi có đem hết gia tài mà bố thí hay nộp cả thân xác tôi để bị thiêu đốt mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
Ước gì bất cứ ai chúng ta gặp gỡ trong ngày hôm nay, nhất là những người cần sự giúp đỡ, đều tìm được thiên đàng của cuộc sống qua tình yêu của các tín hữu Kitô chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Tình yêu trên mọi lề luật
Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa bát hay không? Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về.” (Lc. 14, 3-4)
Ngày Sa-bát là ngày người ta mời bạn bè thân quen đến dùng bữa. Đức Giêsu lợi dụng những dịp này để dạy tinh thần giữ luật Sa-bát cho những biệt phái và chuyên gia về luật. Trước sự khước từ trả lời câu hỏi của Đức Giêsu. Người đã chữa người phù thũng để cho các tiến sĩ luật hiểu rằng ngày Sa-bát được đặt ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát, Đức Giêsu nhiều lần chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Bây giờ Người vẫn tự do chữa bệnh như vậy. Trên đường Người đi chịu khổ nạn để cho người ta thấy rõ rằng ngày Sa-bát phải lo cứu giúp mọi người khốn khổ.
Chữa bệnh là giải thoát
“Họ cố dò xét Người” để xem Người xưng mình là Con Thiên Chúa, có giữ đầy đủ luật thánh ngày Sa-bát không. Và kìa một người phù thũng, không được mời xuất hiện trước mặt Đức Giêsu. Do tình cờ hay cố ý? Đức Giêsu không sợ mắc bẫy. Trái lại, Người biết người ta coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Chữa khỏi bệnh chính là giải thoát khỏi bệnh và tội lỗi một trật và như vậy chữa bệnh là lý do rất chí lý để ca tụng và tôn thờ Thiên Chúa trong ngày Sa-bát.
Trước hàng rào con mắt rình dò Đức Giêsu không làm Người thất đảm, Người hỏi các nhà thông luật và những người biệt phái: “Có được phép chữa bệnh ngày Sa-bát hay không?”. Người biết rõ câu trả lời và sự im lặng của các người khách đó.
Theo thái độ của họ, Đức Giêsu tỏ cho họ thấy tình yêu và quyền phép của Thiên Chúa. “Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về”. Một kinh nghiệm quý báu cho họ, nhưng họ vẫn cố chấp không hiểu gì về tình yêu và quyền phép Thiên Chúa.
Ngày Sa-bát là ngày giải thoát
Để mở trí thông minh cho họ, Đức Giêsu đã đặt một câu hỏi để làm cho họ phải suy nghĩ: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày Sa-bát?”. Vậy ngày Sa-bát sao không được kéo người đau ra khỏi hố sâu của bệnh tật? Thiên Chúa yêu thương con cái của Ngài, và đặc biệt hơn nữa đối với người tội lỗi và đau khổ. Cho nên ngày của Chúa là ngày giải thoát họ khỏi mọi xiềng xích tội lỗi và bệnh tật, đó là ngày tốt nhất đối với Thiên Chúa và bày tỏ tình yêu của Ngài. Những ông khách đó đã không thể trả lời vì họ không nhận: Tình yêu trên mọi lề luật. Họ chỉ nhận luật lệ trên tình yêu và lòng thương xót.
RC
Suy niệm 6: Luật phải được chi phối bởi tình yêu
Có một câu chuyện kể rằng: khi đang đi trên đường vào chiều tối, một cô gái bị nhóm thanh niên lạ mặt vây hãm. Đang thực hiện hành vi cướp giật và đồi bại... bất thình lình, có một chàng trai bảnh bao, võ nghệ thuộc loại giỏi, nên anh ta đã tung ra những tuyệt chiêu để đánh đuổi bọn cướp và bảo vệ cô gái. Thấy không chống trả lại được, bọn cướp đã bỏ đi cách nhanh chóng, để lại cô gái cũng như chiếc xe hàng hiệu của cô trong sự tiếc nuối! Còn cô gái thì sợ hãi tột cùng. Tuy nhiên, với nghĩa cử hào hiệp, cộng thêm bề ngoài bảnh trai... cô gái đã nhanh chóng lấy lại tinh thần và thán phục, tôn trọng với chàng trai tốt bụng đã giúp đỡ mình thoát nạn. Trong tâm hồn cô, chàng trai này đã chiếm được một vị trí đặc biệt. Thấy được cô gái đã siêu lòng, chàng trai tỏ vẻ yêu thương và hứa hẹn đủ điều. Tuy nhiên, lợi dụng lúc cô gái không để ý, hắn ta đã nhanh chóng lên xe của chính cô và tẩu thoát, để lại cô gái một mình trong sự bàng hoàng... Như vậy, thực chất chàng trai đã làm mờ mắt và siêu lòng cô gái trên đây chính là một tên lừa siêu hạng!
Hôm nay, ngang qua việc người đàn bà mắc bệnh phù thũng đến với Đức Giêsu đúng vào ngày Sabát, và các người Luật Sĩ tỏ ra khó chịu! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu dạy cho những người Luật Sĩ bài học tình thương phải phát xuất từ tấm lòng chân thật chứ không phải vì giả bộ bề ngoài.
Khởi đi từ câu hỏi: "Trong ngày Sabát, có được phép chữa bệnh không?", tiếp theo sau đó, Ngài lại đặt ra một tình huống và yêu cầu họ trả lời: "Trong ngày Sabát, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?". Tuy nhiên, họ đã cứng họng và không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào của Đức Giêsu. Lý do những Luật Sĩ không thể trả lời được các câu hỏi của Đức Giêsu chỉ vì họ sống vụ luật, hình thức, giả tạo. Nên gặp phải Đấng là nguồn gốc của chân lý, tình thương thì đương nhiên họ phải câm miệng, bởi vì họ thuộc hạng người: luôn chất những gánh nặng không thể vác nổi lên vai người ta, còn họ, họ không đụng một ngón ta mà lay thử.
Thật vậy, nếu luật mà không có tình thương thực sự thì hẳn sẽ chỉ là trò bịt bợm, dối lừa và lợi dụng mà thôi. Câu chuyện trên cho thấy rõ bản chất của chàng trai kia: hắn giữ luật là bảo vệ người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mền trước sự tấn công của kẻ mạnh, nhưng những hành vi, nghĩa cử đó của hắn đâu phải vì tình thương, mà là một chiêu thức tinh vi, một trò bỉ ổi để lừa gạt mà thôi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy tránh cho xa thói chuyên nghề bịt bợm, lưu manh nhân danh đạo đức, nhân danh công lý... như những người Luật Sĩ khi xưa. Đừng vì cái mác đạo đức bên ngoài mà bất nhân đến độ loại bỏ tiếng Lương Tâm để đi đến hành vi vu oan cho người khác, chỉ vì người ta dám nói lên sự thật, hay vì người ta dễ thương khi sống cốt lõi của Tin Mừng là tình thương...
Lạy Chúa Giêsu, Luật của Chúa là luật tình thương, Luật vì con người. Xin cho mỗi chúng con biết yêu mến Luật Chúa, và khi thi hành, xin cho chúng con biết đem tình yêu lồng vào trong Luật đó. Có thế, Luật của Chúa mới giải thoát chúng con mà thôi. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Tình yêu phải là trọng tâm của đời sống
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Luật lệ được đặt ra là để phục vụ lợi ích của con người. Vì thế, giá trị nhân bản phải được đặt lên trên. Tình yêu phải là trọng tâm của đời sống chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con rất ngạc nhiên trước thái độ của các người luật sĩ và biệt phái: họ không đành lòng để con bò của mình dưới đáy giếng sâu trong ngày Sabát, nhưng họ lại dửng dưng nhìn nỗi đau khổ của người mắc bệnh thủy thũng, và họ phản đối vì Chúa chữa bệnh cho người ấy trong ngày Sabát. Họ coi trọng việc giữ luật ngày Sabát nhưng lại coi nhẹ một con người.
Lạy Chúa, ngày Sabát là ngày nghỉ ngơi, nhưng ngày ấy cũng là ngày Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu yêu thương, là ngày cứu độ. Ngày đó hơn những ngày khác, cần phải làm phúc và chữa lành. Đó là ngày Thiên Chúa tỏ lòng thương xót những ai nghèo khổ bất hạnh và tha thứ cho các tội nhân.
Cuộc sống của con hôm nay đan kết bằng những ngày làm việc và những ngày lễ nghỉ. Nhưng dù là ngày nào, con cũng vẫn phải yêu thương con người và làm việc bác ái. Bởi vì từ ngày Chúa sống trong trần thế, Chúa đã mặc cho thời gian một ý nghĩa mới, và từ ngày Chúa phục sinh, Chúa đã thánh hóa thời gian của các tín hữu. Xin Chúa giúp con luôn biết quan tâm đến mọi anh chị em, đặc biệt luôn biết chia sẻ nỗi đau của người khác, để mỗi ngày con biết thực hiện việc yêu thương cụ thể, hầu giảm bớt nỗi khổ cho những người bất hạnh và làm vơi đi u sầu của kẻ buồn đau. Xin Chúa giúp con làm cho những ngày sống của con mang đầy ý nghĩa bằng cách luôn sống tình thương yêu. Amen.
Ghi nhớ: “Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?”
Suy niệm 8: Ngày Sabát làm việc lành để thể hiện tình thương
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Murray đang đi trên một phố vắng vào lúc đêm khuya để mang Mình Chúa cho một bệnh nhân sắp chết. Khi đi tới một góc phố vắng, bỗng một tên cướp nhảy xổ ra chĩa súng về phía cha ra lệnh: “Đứng lại! Mau nộp tiền ra đây, nếu không tao bắn chết!”.
Cha Murray sợ hãi vội vàng mở nút chiếc áo khoác đang mặc và lấy ra một chiếc ví. Tên cướp trông thấy chiếc áo đen của giáo sĩ bên trong áo khoác, trên cổ có “côn” màu trắng, thì biết là linh mục. Hắn lập tức dịu dọng và ấp úng nói: “Thưa cha, con rất tiếc vì con không biết là cha. Con thành thật xin lỗi cha. Xin cha vui lòng cất tiền đi”.
Bây giờ cha Murray mới hoàn hồn trở lại. Ngài móc trong túi ra một gói thuốc lá và mời hắn một điếu! Nhưng thật bất ngờ! Tên cướp xua tay từ chối với lời giải thích như sau: “Xin cám ơn cha, con đã dốc lòng chừa bỏ thói hút thuốc lá trong Mùa Chay này.
Ăn chay nhưng lại đi ăn cướp...
Suy niệm
Người biệt phái dù giữ nghiêm ngặt luật ngày Sabát: Không được làm việc gì, nhưng họ vẫn cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x. Lc 14,5) hay dẫn bò, lừa đi uống nước...
Như thế, trong ngày Sabát họ tự cho phép cứu, nuôi dưỡng con vật, trong lúc họ lại soi mói, công kích Ðức Giêsu vì đã chữa bệnh cho một người bị mắc bệnh phù thũng trong nhà một người biệt phái vào ngày Sabát.
Người biệt phái và luật sĩ đã đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào để đẩy những con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Trong lúc Chúa Giêsu đến để quy tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp phá mọi thứ rào cản của cuộc sống.
Qua hành động chữa lành người phụ nữ trong ngày Sabát, Chúa Giêsu vượt qua mọi rào cản, biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt là người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các biệt phái rằng chỉ có một luật duy nhất tóm kết mọi thứ Lề Luật, luật ấy chính là luật yêu thương.
Xin cho chúng ta giữ luật Chúa và nó phải được mang trong một trái tim ngập tình yêu thương như Chúa Giêsu thể hiện tình yêu với tất cả mọi người trong xã hội, đặc biệt là những người tàn tật, đau khổ trong thể xác và tâm hồn...
Ý lực sống
“Giá như tôi có đem hết gia tài mà bố thí hay nộp cả thân xác tôi để bị thiêu đốt mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
Suy niệm 9: Chúa chữa người bị bệnh phù thũng
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Giữa Đức Giêsu và người luật sĩ cũng như biệt phái luôn có sự căng thẳng khẩn trương, họ chỉ tìm cách soi mói, bắt bẻ để kết án Ngài. Đức Giêsu đã chữa bệnh trong ngày Sabat. Họ không biết cảm thông với người xấu số. Họ dựa vào luật Thiên Chúa để lên án trách móc người khác. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy rằng: luật lệ được đặt ra là để phục vụ lợi ích của con người. Khi Đức Giêsu hỏi họ ngày Sabbat có được phép chữa bệnh không thì họ không trả lời được.
Tin mừng cho biết, có 7 lần Đức Giêsu chữa bệnh ngày Sabát, riêng Luca kể lại 4 lần và bị các người biệt phái kết án. Hôm nay Đức Giêsu chữa cho người bị bệnh phù thũng, và Ngài khởi đầu bằng câu hỏi: “Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?” tiếp theo sau đó, Ngài lại đặt ra một tình huống và yêu cầu họ trả lời: “Trong ngày Sabat ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?” Tuy nhiên, họ đã cứng họng và không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào của Đức Giêsu. Lý do những luật sĩ không thể trả lời được các câu hỏi của Đức Giêsu chỉ vì họ sống vụ luật, hình thức, giả tạo. Nên gặp phải Đấng là nguồn gốc của chân lý, tình thương thì đương nhiên họ phải câm miệng, bởi vì họ thuộc hạng người: luôn chất những gánh nặng không thể vác nổi lên vai người ta, còn họ, họ không đụng một ngón tay mà lay thử.
Một lần nữa, trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp cử chỉ quen thuộc của Đức Giêsu. Ngài vượt qua mọi rào cản trong cuộc sống để tìm đến với những người tàn tật và bất cứ ai đang gặp đau khổ trong thể xác hay tâm hồn. Những người biệt phái và luật sĩ đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào, để đẩy con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Đức Giêsu đến quy tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp đổ mọi thứ rào cản của cuộc sống. Có mặt trong những bữa tiệc linh đình của những người biệt phái giàu sang, Ngài cũng không ngần ngại ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những người bị xã hội gán cho nhãn hiệu là hạng người bất chính, ngay cả những cô gái điếm (Mỗi ngày một tin vui).
Các luật sĩ và biệt phái là những người có thể hiểu được hành động của Chúa, nhưng vì nô lệ cho những luật lệ do chính họ đặt ra, nên họ không thể trả lời câu hỏi của Chúa: “Có được phép chữa bệnh trong ngày hưu lễ hay không?” Trong Tin mừng Mátthêu, Đức Giêsu đã quả quyết giáo lý của Ngài: “Con người được phép làm điều thiện trong ngày hưu lễ, đó là định luật của yêu thương. Thực hiện tình yêu thương, phục vụ tha nhân không bao giờ là điều nghịch lại luật Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã bận tâm lo lắng đến lề luật được tuân giữ, nhưng họ lại quên tinh thần của lề luật là tình yêu thương.
Hai chú gấu con thấy một miếng pho mát lớn, nhưng không biết cách chia thành hai phần đều nhau. Một con cáo già đi tới và tự nguyện làm trong tài để chia. Nó có ý bẻ miếng phó mát thành hai phần không đều nhau, rồi cắn miếng to một cái, miếng to thành miếng nhỏ. Nó liên cắn miếng kia một cái, miếng nhỏ lại thành miếng to. Hai miếng pho mát vẫn không bằng nhau. Cứ thế, nó hết cắn miếng này rồi miếng kia cho tới lúc hai miếng phó mát chỉ còn là hai mẩu bé xíu. Lúc ấy, nó mới chia thành hai phần bằng nhau và đưa cho hai chú gấu.
Con cáo già đã ngụy trang hành động xấu xa của mình bằng một nghĩa cử cao đẹp. Nhóm biệt phái cũng vậy. Họ có lối sống thiếu bác ái và giả hình, nhưng lại che đậy bằng việc giữ luật ngày Sabat hết sức nghiêm ngặt.
Theo luật ngày Sabat, Đức Giêsu không được chữa bệnh trong ngày đó. Thế nhưng, vì tình thương, Ngài đã chữa lành bệnh cho một người mắc bệnh phù thũng. Qua đó, Ngài muốn dạy những kẻ giữ luật hình thức rằng: nếu không có bác ái, thì mọi việc làm, kể cả việc tuân giữ lề luật, sẽ trở thành sự giả hình và gian dối (Học viện Đa Minh).
Chúng ta cần có một trái tim biết yêu thương, để biết rung động trước khổ đau của người khác. Khi chúng ta không có một trái tim, thì chúng ta sẽ mù quáng: mù quáng vì không những không còn nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người khác, mà nhất là không còn biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác.
Truyện: Một cái nhìn khô cứng
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị toà án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ một cử chỉ hối hận nào, mà hắn còn tuyên bố: - Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel.
Chính thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan toà đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho con người hiện nay.
Suy niệm 10: Luật lệ phải đi kèm tình yêu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lại một lần nữa, Chúa Giêsu chữa bệnh ngày Sabat và bị các người Pharisêu kết án. Khi Chúa đặt câu hỏi: “Trong ngày Sabat có được phép chữa bệnh không?” (Lc 14,3), họ đã không trả lời được.
Tin Mừng cho biết, có bảy lần Chúa đã chữa bệnh trong ngày Sabat như vậy. Theo Luca thì có những lần sau:
- Chữa cho mẹ vợ ông Phêrô (Lc 4,38);
- Chúa chữa cho người teo tay (Lc 6,6);
- Chúa chữa cho người đàn bà còng lưng mười tám năm (Lc 13,14).
Rồi Gioan thêm vào câu chuyện:
- Chúa chữa người bại tại hồ Bêtsaiđa (Ga 5,9).
Marcô còn cho biết:
- Chúa cũng chữa người bị quỉ ám tại hội đường thành Capharnaum (Mc 1,21).
- Và hôm nay Chúa chữa người mắc bệnh phù thũng.
Chắc ai cũng nghĩ rằng, như vậy mọi người sẽ yêu mến Chúa hơn, nhưng thật đáng buồn là mỗi phép lạ chữa bệnh mà Chúa làm trong ngày Sabat không những đã không làm cho người ta yêu mến Chúa mà còn làm cớ cho các thầy thông luật và người Pharisêu, những người Do Thái chính thống càng ngày càng trở thành những người đối đầu với Chúa một cách quyết liệt hơn.
2. Vị thủ lãnh Pharisêu mời Ngài đến dùng bữa tại nhà ông hôm nay, là một người giữ luật đạo rất kỹ nhưng lại hoàn toàn thiếu tình người: mời Chúa Giêsu dùng bữa nhưng lại cố ý dò xét để bắt lỗi Ngài; thấy người bị bệnh phù thũng mà hoàn toàn dửng dưng, lại còn coi đây là cơ hội để bắt bẻ Chúa Giêsu.
Một người giữ luật chín chắn như vậy mà còn có thể trở thành phi nhân như thế, thì thử hỏi những người khác không biết sẽ còn phi nhân đến mức nào! Vâng! Luật mà không có tình thì sẽ như vậy. Đây là một lời cảnh cáo cho mỗi người chúng ta.
Chúng ta biết, đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu và các người Pharisêu bất đồng ý kiến với nhau về việc giữ luật ngày Sabat. Và đây cũng không phải lần đầu tiên Chúa Giêsu đưa ra lời giải thích về luật một cách rất hợp lý khiến họ không thể nào cãi lại được. Thế nhưng, họ vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tiếp tục rình mò và bắt bẻ Chúa. Những người tưởng mình biết, tưởng mình đạo đức vậy mà họ lại có thể mù quáng và ngoan cố đến như vậy!
3. Việc Chúa Giêsu thách thức những người Pharisêu để chữa lành cho người phù thũng trong ngày Sabat, cho thấy rằng, đối với Ngài, con người là ưu tiên số một. Luật lệ, ngay cả luật ngày hưu lễ, cũng sẽ thành vô nghĩa nếu không vì lợi ích của con người. Đối với Ngài, chỉ có một luật lệ gồm tóm và là nền tảng của mọi luật lệ, đó là yêu thương. Nhưng để có yêu thương, trước tiên phải có sự nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá mỗi người (“Mỗi ngày một tin vui”).
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do Thái, ông Y. Rabbin, khi bị toà án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những anh ta không để lộ bất cứ một cử chỉ hối hận nào, mà ngược lại, anh còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Gilgal Zamir có thể là hiện thân của những Pharisêu thời Chúa Giêsu, nghĩa là luôn miệng nhân danh Chúa và lề luật. Cũng như những người Pharisêu, anh tin tưởng nơi Chúa, anh trung thành với lề luật, anh yêu tổ quốc. Nhưng anh thiếu một điều hệ trọng nhất để có thể sống như một con người có một trái tim, một trái tim để biết yêu thương, để biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác.
Khi con người không trái tim, thì họ sẽ mù quáng: mù quáng vì không những không còn nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người khác, nhất là không còn biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác, lúc đó không biết họ còn là người nữa hay không hay đã trở thành vô cảm như như gỗ như đá.
Bởi vậy, giáo dục con người sống cho ra người có nghĩa là giáo dục cho con người biết sống yêu thương.
Thông minh đĩnh đạc, mà không có trái tim để yêu thương, thì đó là một tai họa cho bản thân cũng như cho xã hội.
Có tất cả mà không có một trái tim để yêu thương, thì đó là nỗi bất hạnh lớn nhất đối với con người.
Cách mạng mà không xây dựng trên tình yêu thương, thì đó chỉ là phá hoại. Đạo đức mà không có yêu thương, thì chỉ là một trò lừa bịp.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã mạc khải cho chúng ta chân lý về con người. Mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng ta luôn ý thức rằng, chúng ta chỉ đạt được định mệnh của mình bằng cuộc sống yêu thương mà thôi.
Suy niệm 11: Giữ luật ngày sabát
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Thêm một trường hợp Chúa Giêsu chữa bệnh ngày sabát và bị các người biệt phái kết án. Nhưng các ông không trả lời được khi Ngài hỏi “Trong ngày sabát có được phép chữa bệnh không?”.
B.... nẩy mầm.
1. Vị thủ lãnh biệt phái này giữ luật đạo rất kỹ nhưng hoàn toàn thiếu tình người: mời Chúa Giêsu dùng bữa nhưng cố ý dòm xét để bắt lỗi Ngài; thấy người bị bệnh thuỷ thủng mà hoàn toàn dửng dưng, lại còn coi đây là cơ hội để bắt bẻ Chúa Giêsu. Một người giữ luật chín chắn như thế mà có thể trở thành phi nhân như thế sao! Luật mà không có tình thì sẽ như thế đấy. Đây là một lời cảnh cáo cho chính tôi.
2. Đây không phải là lần đầu Chúa Giêsu và các người biệt phái bất đồng ý kiến với nhau về việc giữ luật ngày sabát. Và đây cũng không phải lần đầu Chúa Giêsu đưa ra lời giải thích về luật một cách rất hợp lý khiến họ không thể nào cãi lại được. Thế nhưng họ vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tiếp tục rình mò và bắt bẻ Chúa. Những người tưởng mình biết, tưởng mình đạo đức có thể mù quáng đến ngoan ố như vậy đó.
3. Việc Chúa Giêsu thách thức những người biệt phái để chữa lành cho người thuỷ thũng trong ngày sabát cho thấy rằng đối với Ngài, con người là ưu tiên tối thượng. Luật lệ, ngay cả luật hưu lễ, cũng sẽ thành vô nghĩa nếu không vì lợi ích của con người. Đối với Ngài, chỉ có một luật lệ gồm tóm và là nền tảng của mọi luật lệ, đó là yêu thương. Nhưng để có yêu thương, trước tiên phải có sự nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá mỗi người ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị toà án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tội Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay. ("Mỗi ngày một tin vui")
28/10 Chọn Lựa Của Chúa
- Viết bởi Lc 6, 12-19
Chọn Lựa Của Chúa.
Thứ Năm tuần 30 thường niên – THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
“Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
* Tông đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ.
Còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”. Và ông đã nhận được lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Lời Chúa: Lc 6, 12-19
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Gọi và chọn
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng.
Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (3, 21).
Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (9, 18).
Khi đang cầu nguyện trên núi, Ngài được hiển dung (9, 29).
Khi đứng trước cái chết gần kề, Ngài cầu nguyện trong xao xuyến (22, 41).
Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (23, 34).
Đức Giêsu suốt đời là con người cầu nguyện.
Cầu nguyện đối với Ngài đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha.
Ngài thích gặp Cha vì Ngài là người con thảo hiếu.
Ngài cần gặp Cha vì Ngài là người được Cha sai, để làm việc Cha giao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Ngài.
Đức Giêsu vẫn thích cầu nguyện trên núi.
Núi cao làm Ngài thấy nhẹ nhàng và gần Cha trên trời hơn.
Tối hôm nay, Ngài muốn dành nhiều giờ để gặp Cha
trước khi đi đến một quyết định quan trọng,
quyết định chọn những môn đệ thân tín nhất mà Ngài gọi là tông đồ,
để đi sát với Ngài hơn và cộng tác với Ngài trong sứ vụ.
Đức Giêsu không chọn theo ý mình.
Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý (c. 12).
Tìm ý Cha, ngay cả đối với Đức Giêsu, cũng không phải là quá dễ dàng.
Ngài đã thức suốt một đêm để cầu nguyện,
để tìm xem Cha muốn Ngài chọn ai trong số những môn đệ ở đây.
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con…
Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6).
Đức Giêsu coi các tông đồ là một quà tặng của Cha.
Bởi đó, thật ra Ngài chỉ chọn những người Cha đã chọn,
Ngài chỉ muốn những người Ngài biết Cha muốn (Mc 3, 13).
Khi làm người ở đời, chúng ta cũng phải chọn như Đức Giêsu.
Cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa.
Những chọn lựa nhỏ và lớn làm nên cuộc đời.
Chúng ta có thể chọn dựa trên ý thích hay phán đoán riêng của mình.
Nhưng chúng ta cũng có thể chọn dựa trên ý Đấng Tạo Hóa.
Điều này đòi chúng ta phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm.
Thánh Inhaxiô mời người làm linh thao
“không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ,
danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu,
và tương tự như thế đối với mọi sự khác.”
Khi có thái độ siêu thoát như trên, ta mới có thể chọn điều Chúa muốn.
Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định.
Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.
Chúng ta cũng được gọi và chọn, dù là giáo dân hay tu sĩ.
Chúng ta cũng rất khác nhau như mười hai khuôn mặt các vị tông đồ.
Chỉ mong chúng ta đừng dùng tự do mình để trở nên kẻ phản bội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chốiviện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Người chọn mười hai vị
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Các tông đồ là những người được Chúa tuyển chọn. Chúa tự do chọn lựa cả những người bình thường, và Ngài cũng để con người tự do đáp trả.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con mừng kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa. Cuộc sống chứng nhân của các Ngài đáng ngưỡng mộ và là những tấm gương sáng cho mỗi tín hữu chúng con. Trong danh sách mười hai tông đồ, con thấy có người chối Chúa, có kẻ bán Chúa. Điều này chứng tỏ Chúa không chỉ chọn lựa những người đã hoàn toàn thánh, nhưng Chúa chọn lựa là để mời gọi các Ngài trở nên thánh thiện.
Các Ngài được gần gũi Chúa, lắng nghe Chúa dạy bảo, được cùng Chúa đi khắp các xóm làng, lên núi cao, vào nơi thanh vắng, bên bờ hồ, bên bờ giếng, rao giảng Nước Trời và chữa lành bệnh tật. Các Ngài được sống bên Chúa, gần kề với sự thánh thiện và kết hợp với Chúa, để được Chúa biến đổi nên thánh thiện hơn.
Lạy Chúa, hôm nay con cũng được diễm phúc nghe Chúa dạy bảo, được Lời Chúa uốn nắn, và con cũng mong muốn được hiến dâng lên Chúa thiện chí tông đồ của con. Con muốn được qui tụ bên Chúa, lắng nghe Chúa nói, được tình yêu và ơn thánh Chúa biến đổi, để cùng Chúa dấn thân giữa đời. Con tin rằng Chúa vẫn ở bên con, nâng đỡ con và thánh hoá con.
Lạy Chúa, lời mời gọi của Chúa vẫn vang vọng trong tâm hồn con, con muốn trở thành một tông đồ như thánh Simon và Giuđa, chứ nhất định không là một Giuđa phản Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho những ước nguyện chân thành của con. Amen.
Ghi nhớ: “Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
Suy niệm 3: Người chọn lấy mười hai ông
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.
Một số chi tiết đáng lưu ý:
- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu ”cầu nguyện”: Chúa Giêsu trong Lc là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Trong những lúc quan trọng, Ngài cầu nguyện tha thiết hơn nữa (Lc 3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện ”suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm (tuyển chọn 12 môn đệ làm tông đồ) là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
- Con số 12 là con số các chi tộc Israel bị tản lạc khắp nơi sau biến cố lưu đày. Vậy khi Chúa Giêsu chọn con số 12, ý Ngài muốn cho biết là đã đến lúc Ngài quy tụ một dân Israel mới.
- Trong số 12 tông đồ, có vài vị nổi bật:
“Simon mà Ngài gọi là Phêrô”: trong Thánh Kinh, ai đặt tên mới cho một người nào thì có quyền hành trên người đó (2 V 23,34 24,17); người đặt tên cũng xác định một định mệnh mới cho kẻ mang tên mới.
Bộ ba Phêrô, Giacôbê và Gioan lại là một nhóm nhỏ đặc biệt hơn nữa trong nhóm lớn 12 (Lc 8,51 9,28). Họ sẽ đóng những vai trò quan trọng trong quyển Công vụ.
- Sau khi đã tuyển chọn nhóm 12, Chúa Giêsu cùng họ xuống núi và đến một cánh đồng. Dân chúng rất đông từ khắp nơi tuôn đến để nghe Ngài giảng và để được Ngài chữa bệnh.
B. ...nẩy mầm
1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm: Dù là con Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn cảm thấy cần cầu nguyện thường xuyên, nhất là trước những việc khó khăn, quan trọng. Ngài cũng khuyên môn đệ: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cám dỗ”. Phêrô đã sa cám dỗ chối Thầy vì trước đó trong vườn Cây Dầu, ông đã ngủ thay vì cầu nguyện. Giuđa, sau bữa Tiệc Ly, đã bỏ ra ngoài đang khi Chúa Giêsu và các tông đồ khác cầu nguyện. Cho nên Giuđa đã sa ngã nặng nề.
- Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.
2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.
- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.
- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.
3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (“Mỗi ngày một tin vui”).
4. Một thanh niên thời đại mới lên một chiếc đò của một ông cụ già. Hai mái chèo của chiếc đò này rất đặc biệt: một mái có ghi chữ “Pray” (cầu nguyện), mái kia ghi chữ “Work” (làm việc). Chàng thanh niên mỉa mai: “Ông ơi, ông lỗi thời quá rồi. Khi người ta đã làm việc thì sẽ có đủ mọi thứ, cần chi đến cầu nguyện nữa?”. Cụ già chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng buông bỏ mái chèo “cầu nguyện”, chỉ còn chèo mái “làm việc” thôi. Kết quả là con đò cứ xoay vòng vòng, chẳng tiến được chút nào (Đức Cha Tihamer Toth).
5. Một cha xứ nọ muốn dạy trẻ nhỏ một cách dễ hiểu về sự cầu nguyện. Cha có sáng kiến dùng một chiếc máy diện thoại: - Chúng con biết chiếc máy điện thoại rồi chứ. Khi ta nói chuyện với ai bằng điện thoại, mặc dù ta không thấy mặt người đó nhưng ta vẫn tiếp xúc được với người đó. Cũng thế, dù chúng con không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tiếp xúc được với Ngài nhờ cầu nguyện. Đúng không?
Tất cả đều thưa đúng.
Nhưng một đứa đưa tay hỏi: Thế số điện thoại của Chúa là số nào? (Arthur Tonne).
Ta hãy thay cha xứ trả lời cho câu hỏi trên.
6. Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi ông hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi Ngài gì cả.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại sao Thầy buồn thế?
- Người bạn của Thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ cần để sống nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi. (Đức Cha Tihamer Toth).
7. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)
Suy niệm 4: Thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, lễ kính
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.
Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền Hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.
Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.
Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.
Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.
Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”, cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.
Truyện: Chúa chọn họ làm Tông đồ
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được một ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay, nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa).
Suy niệm 5: Người chọn mười hai ông
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: “Dạ con đây!”, rồi chạy lại với Thầy Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi”. Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”…
Được sự hướng dẫn của thầy Êli, Samuel nhận ra tiếng Chúa và đáp trả: “Xin Chúa hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đức Chúa ở với cậu, và cậu không để một lời nào của Chúa ra vô hiệu (x. 1Sm 3,10.19). Samuel đã biến đổi nhờ Lời Chúa, đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại trong lịch sử Israel…
Suy niệm
Thầy Giêsu gọi và chọn mười hai môn đệ không chỉ là những người học trò nhỏ lắng nghe lời Thầy nhưng trở nên người bạn hữu với Thầy (x. Ga 15), người bạn hữu tiếp tục sứ mạng của Ngài khi mang nhiều hoa trái (x. Ga 15) trong sứ vụ đem Tin Mừng cho nhân gian, đó là sứ vụ đem ánh sáng cứu độ mà Chúa Kitô được ủy thác khi Ngài đến thế gian.
Ngài gọi các môn đệ “Các anh hãy theo Thầy” (Mt 4,19) một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Thầy và chia sẻ thao thức của Thầy: Lên đường cùng Thầy chung tay gánh vác sứ vụ mang ánh sáng tình yêu cứu độ.
Người môn đệ theo Chúa bỏ lại cái an toàn êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên nghề nghiệp trong khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới như trường hợp của Giacôbê và Gioan, chấp nhận ra khơi, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, trong sự tận tụy chu toàn sứ mệnh loan báo nước Thiên Chúa.
Trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa vẫn gọi tôi và bạn trở nên môn đệ, bạn hữu trong bất cứ vị trí nào của cuộc sống: Người linh mục, tu sĩ, làm người môn đệ qua ơn gọi thánh hiến cuộc sống cho sứ mạng, là bạn hữu và là người môn đệ đem ánh sáng Tin Mừng cho anh chị em. Người tín hữu Chúa Kitô trong bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao một ngọn nến cháy sáng, ánh sáng đó trong thời gian trở nên sáng rực trong tinh thần nghe tiếng gọi và từ bỏ bước theo…
Ý lực sống
“Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,22).
Suy niệm 6: Người chọn lấy mười hai ông
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đôi hàng lịch sử.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.
Thánh Simon được gọi là Simon người Cana, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.
Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.
Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotamia. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.
Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:
- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:
- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!
2. Bài học
Bài Tin Mừng được Giáo Hội chọn đọc trong thánh lễ hôm nay nói về việc Chúa tuyển chọn những người để cộng tác với Chúa mà Ngài đặt tên cho họ là “Tông Đồ”, chúng ta thấy:
* Trước khi chọn, Chúa đã cầu nguyện
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng. Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (Lc 3,21). Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (Lc 9,18). Ngài cầu nguyện khi ở trên núi, trước khi Ngài được hiển dung (Lc 9,29). Ngài cầu nguyện trong xao xuyến khi đứng trước cái chết gần kề (Lc 22,41). Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (Lc 23,34).
Cầu nguyện đối với Chúa đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý. Việc tìm ý Chúa Cha, không phải lúc nào cũng là việc dễ dàng. Chính vì thế mà có những lần Chúa đã phải thức thâu đêm để cầu nguyện, để tìm xem ý Cha muốn gì. Thí dụ hôm nay Chúa cầu nguyện để xem Chúa Cha muốn chọn ai trong số những môn đệ ở đây để họ trở thành những người mà Ngài gọi là tông đồ.
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6)
Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.
* Tiêu chuẩn để được Chúa chọn là tông đồ
Ðọc lại tiểu sử của các thánh, chúng ta thấy khi chọn gọi ai, Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn của người đời. Người đời khi tuyển chọn ai thì thường người ta phải dựa trên những tiêu chuẩn như thế giá, học thức, địa vị xã hội, trải nghiệm vễ cuộc sống vv.
Còn Chúa thì Ngài hoàn toàn khác. Nhìn vào danh sách những người được tuyển chọn làm tông đồ hôm nay, chúng ta thấy họ chỉ là những con người bình thường. Bình thường chứ không tầm thường như nhiều người nghĩ. Họ không phải là những người xuất chúng, giàu có, có học thức, có chỗ đứng cao trong xã hội. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Dĩ nhiên là Chúa có sự khôn ngoan của Ngài. Khi chọn những người như thế, hẳn Chúa đã nhìn thấy ở nơi họ những phẩm chất cần cho một người được trao cho một nhiệm vụ phải hoàn thành.
* Chúa gọi họ là tông đồ nghĩa là những người được sai đi
Đây là những lời rất cảm động của Chúa Giêsu:
Người lại nói với các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một (Mc 6,7).
Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi (Ga 13,16).
Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (Mt 11,16).
Rồi Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).
Như vậy công việc của các tông đồ là tiếp nối công việc của chính Chúa Giêsu, tiếp nối mãi cho đến ngày tận thế.
Bao lâu còn con người trên trần thế thì bấy lâu Chúa còn sai các sứ giả tức là các tông đồ của Ngài đến với con người.
Đây là một câu chuyện tưởng tượng nhưng nó cũng có một ý nghĩa của nó:
Khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, người trở về trời và được thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
- Ta đã chọn mười hai tông đồ, một nhóm môn đệ và một vài người phụ nữ - Chúa đáp -. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: - Nhưng nếu số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác không?
Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên người vẫn quả quyết:
- Ta không dự tính một chương trình nào khác cả, ta tin vào họ!
Vâng mỗi người chúng ta hãy cố gắng để trở nên tông đồ của Chúa. Amen.
Suy niệm 7: Chọn Lựa Của Chúa
Chúng ta nên nhớ thánh Simon này khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha. Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Trọn vẹn trong phong cách tông đồ và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa, đó là điều mà ai ai cũng thế, khi đã theo Chúa thì chỉ ước mơ được như vậy. Ðã ước mơ thì phải cố gắng mà vươn tới để ước mơ được thành hiện thực. Mặc dù các sách Tin Mừng không nói nhiều về Simon nhiệt thành và Giuđa, nhưng chúng ta cứ nhìn vào các vị kia thì cũng biết được đôi chút về tính tình, về mong muốn, về cách sống của hai ông là bộc trực, tham vọng và cùng ăn cùng ở với Chúa Giêsu với hy vọng tìm được một địa vị xứng đáng hơn trong cuộc đời làm môn đệ.
Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy cái hiện trạng bất toàn đó của cả nhóm mà Ngài biết rằng với thời gian huấn luyện, với ơn Chúa Thánh Thần thì những con người ấy biết dùng ngay những bất toàn của mình vào trong công cuộc loan báo Tin Mừng và sẽ thành công. Vấn đề là làm sao để cho các ông nhận chân được mục đích của con đường mà các ông quyết định. Cũng với sự bộc trực ấy, cũng với những tham vọng ấy, cũng với những tình huynh đệ keo sơn ấy nhưng các ông không còn chỉ ước mơ danh vọng, địa vị tầm thường nữa mà khát vọng lan rộng biên giới Nước Trời, khát vọng cho mọi người nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Nỗi niềm khát vọng ấy mãnh liệt đến độ đưa các ông là những con người sợ sóng gió, sợ quyền lực, sợ đủ mọi thứ đến chỗ gan dạ tột cùng của sự làm chứng, bằng lòng để bị treo như Thầy.
Lạy Cha,
Công trình của Cha vẫn nối tiếp cho đến thời sau hết với những con người mong manh thân phận nhưng kiên cường lập trường. Chúng con cảm tạ Cha vì gương sáng của hai vị tông đồ Simon nhiệt thành và Giuđa. Mừng kính hai ngài hôm nay, chúng con cũng muốn nói với chính mình rằng bởi sức riêng chúng con thật là vô ích, nhưng cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng con có thể làm được mọi sự. Giáo Hội đang nặng trĩu ưu tư cho công cuộc truyền giáo tại lục địa Á Châu to lớn, hai thánh tông đồ Simon và Giuđa sẽ là những khích lệ tuyệt vời cho những bước chân truyền giáo trên đất nước chúng con và trên lục địa Á Châu này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 8: Thánh Simon và Giuđa.
Bí quyết cầu nguyện mà thánh Luca tường thuật lại mỗi khi có biến cố quan trọng xảy ra trên con đường truyền đạo của Đức Giêsu cho chúng ta thấy cuộc linh thao của Người đi sâu vào tình liên kết với Chúa Cha, một bí quyết liên kết độc nhất và siêu việt để cho chúng ta được thông hiệp với Người: “Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi”. (Rm 8, 15). Nhưng lời cầu đó chẳng đáng gì vì lời cầu của Đức Giêsu bao bọc và gói gém mọi lời cầu của mọi người. Chỉ có Người mới có thể nói được: “Cha chúng con” với toàn diện sự thật. Chỉ có Người biết được Chúa Cha vì Người bởi Cha mà ra. Chỉ có Người sở hữu được thần khí vô lượng vô biên”. (Ga 3, 34)
Cầu nguyện
Sự liên kết độc nhất giữa Chúa Con với Chúa Cha là một sự cầu nguyện huyền nhiệm đã trở nên nền tảng cho mọi cầu nguyện khác. Chúng ta được nối kết với sự cầu nguyện ấy khi Đức Giêsu dạy chúng ta thưa: Lạy Cha! chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Chúa Cha, hay lại cầu nguyện sai lầm. Chúng ta phải nhớ rằng trung tâm của sự cầu nguyện chân chính là chính Đức Giêsu chứ không phải chúng ta. Chính Người đem lại ý nghĩa cầu nguyện cho chúng ta. Chính Con Người thâu nhận mọi lời than van kêu khấn của mọi người. Không phải vì độc đoán tự phụ cho riêng Người, nhưng là đem lời cầu nguyện của Đức Giêsu vào trong lòng chúng ta để chúng ta tiếp tục lời cầu nguyện của Người. Được như thế là vượt lên mọi cảm tình cá nhân, là từ bỏ mọi sự mà gắn bó với đức tin.
Tin
Tin là điều kiện độc nhất của lời cầu nguyện có giá trị. Chúa không đòi chúng ta phải lên hoàn hảo, Người chỉ đòi chúng ta tin vào Người. Nhiều người cầu nguyện nhiều, tuy không có gì trách mình, nhưng họ tưởng xin còn ít nên lời cầu của họ hình như không được nhận lơi. Họ tưởng họ tin nhiều, thực ra họ còn thiếu đức tin. Chúng ta tưởng chính ra phải được nếm thử sự đời đời trong lời cầu nguyện của chúng ta thì lại chỉ được nếm sự nghèo khó.
Hãy xem những người tội lỗi trong Tin Mừng đã được Chúa đoái thương vì họ có lòng tin. Niềm tin đó cho họ thấy họ chẳng đáng giá gì dưới đôi mắt của Đức Giêsu, nhưng họ chỉ tin vào giá máu của Người.
J.M
Suy niệm 9: Hai môn đệ trung kiên của Chúa
Ơn gọi là một cái gì huyền nhiệm. Bất cứ ai sinh ra trên thế giới này, một cách nào đó đều nghe được một tiếng mời gọi âm thầm nào đó trong cuộc đời của mình và rồi, con người đi theo tiếng gọi. Chúa Giêsu không chọn bất cứ ai mà không cầu nguyện lâu giờ và không đi vào cõi thâm sâu để hỏi ý Thiên Chúa Cha. Chúa cầu nguyện, chúng ta không biết Chúa nói gì, không biết Chúa trao đổi, bàn luận gì với Đức Chúa Cha, nhưng có một điều chúng ta nhận thấy Chúa luôn luôn làm theo ý Cha của Ngài. Thánh Simon và thánh Giuđa, tông đồ không nằm ngoài dự định của Chúa Giêsu. Ơn gọi của các Ngài cũng na ná trường hợp của các tông đồ khác. Chúa đi ngang nơi nào đó, Ngài kêu gọi, các tông đồ nhận ra tiếng gọi của Chúa và họ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô.
Chúa tuyển chọn các Ngài và gọi các Ngài là “ Apostoloi “, nghĩa là người được sai đi. Nhưng, trước khi gọi các Ngài là Apostoloi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha. Ngài chọn các tông đồ là do sự nhưng không, do ân huệ tuyệt vời của Ngài. Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn mà người đời thường dùng để chọn hoặc cất nhắc một nhân vật nào đó như trình độ, tri thức, vóc dáng bề ngoài, cao, lớn, mập, gầy vv…Chúa tuyển chọn các tông đồ hoàn toàn do ý định của Ngài, không ai có quyền đòi Ngài phải chọn hay không chọn, Ngài tuyển chọn là do tình thương của Ngài.
Thánh Simon còn có biệt hiệu Simon người Cana, hay Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Sở dĩ Hội Thánh mừng thánh Simon và Giuđa cùng một ngày là vì có sự trùng hợp trong việc loan báo Tin Mừng và trong việc tuyên xưng đức tin, đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Giêsu. Và thực tế, thánh Simon người Cana hoàn toàn khác với thánh Simon Phêrô, vị tông đồ trưởng và là người làm đầu Giáo Hội tiên khởi. Theo thánh truyền, thánh Simon và thánh Giuđa đi truyền giáo ở hai nơi hoàn toàn khác nhau. Thánh Simon rao giảng, loan báo Đức Kitô tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại miền Mésopotamia. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, sau khi gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc rao giảng, hai thánh Simon và Giuđa đã cùng sang giảng đạo tại xứ Ba Tư. Chính tại nước Ba Tư, hai vị thánh này đã được phúc tử đạo làm chứng cho Chúa như các tông đồ khác.Thánh Giuđa rất trung thành với lời rao giảng, với lời Chúa nên Ngài không sợ hãi mà luôn chống lại những kẻ có thái độ khích bác Tin Mừng.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Lạy thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con để chúng con luôn hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và vinh quang sống lại. Amen.
Suy niệm 10: Có Chúa Giêsu mới sống thực
Hôm nay Hội Thánh kính hai thánh Tông Đồ Si-mon và Giu-đa. Ông Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ ông là người thuộc nhóm cực đoan, muốn dùng vũ lực chống Roma, còn ông Giu-đa cũng có tên là Ta-đê-ô, là tác giả thư cuối cùng trong bảy Thư Công Giáo. Ông là người hỏi Đức Giêsu trong bữa ăn tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian”, và ông đã nhận được Lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,22-23).
Chưa bao giờ Đức Giêsu phải thức suốt đêm để cầu nguyện, ngoại trừ lúc Ngài chọn các môn đệ, để sai họ đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài, hầu thâu họp muôn người về cho Chúa. Vì “ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu là chết!” (1Ga 5,12). Do đó:
- Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25: Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn).
- Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
1/ Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25).
Thực vậy, trong danh sách 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, họ là những người bình thường như bao người khác, thế nên danh sách Nhóm Mười Hai có tới ba cặp tên trùng nhau:
- Simon em của An-rê và Simon Nhiệt Thành.
- Giacôbê anh của Gioan và Giacôbê con của An-phê.
- Giuđa Nhiệt Thành và Giuđa Iscariot.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện, sáng sớm Ngài gọi những người muốn chọn, họ có tên bình thường như bao người khác Xoài, Ổi, Mít, Chanh, Cam (x Lc 6,12-16)… Nếu Đức Giêsu không chọn gọi họ, thì nay “họ đã qua đi như không bao giờ có họ trên đời, bởi không người nào trên đời còn nhớ đến họ, họ xong đời là xong hẳn, và cả con cái họ sau này cũng thế thôi!” (Hc 44,9) Nhưng danh tính, sự nghiệp các môn đệ Đức Giêsu chọn vẫn còn lưu danh muôn thuở, chỉ vì Đức Giêsu đã gọi họ từ trong thế gian và họ không còn thuộc về thế gian nữa (x Ga 17,6.15), để rồi đi tập họp mọi sự về cho Chúa, như lời thánh Phao-lô nói: “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).
2/ Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện để chọn các môn đệ và từ trên núi xuống, có cả đoàn lũ dân Do Thái miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cùng với dân ngoại miền Tia và Xi-đôn, cả các bệnh nhân cũng lũ lượt kéo đến nghe Lời Đức Giêsu, và các bệnh nhân được chữa lành; cả đến các người bị thần ô uế nhập, cũng tìm cách sờ vào Đức Giêsu, thì họ được lành mạnh ngay (x Lc 6,17-19: Tin Mừng). Hình ảnh này đã tiên báo về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, bởi vì từ núi Sọ, nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Ngài đã cầu nguyện cho cả kẻ hại Ngài được cứu độ, và từ cạnh sườn Ngài bị đâm, nước và máu đổ xuống phát sinh các Bí tích, đó chính là giờ phút Adam cuối cùng sinh Hội Thánh (x Ga 19). Như thế hình ảnh từ trên núi đi xuống trở thành dấu chỉ Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, trước khi Ngài lên Trời, Ngài sai các môn đệ đi tập họp muôn dân bằng hai việc: ban Thánh Tẩy và dạy dân những Lời Đức Giêsu truyền (x Mt 28,19-20). Ai gia nhập Hội Thánh là người đó được Đức Giêsu chộp lấy (x Pl 3,12). Những ai thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô thì thánh Tông Đồ nói: “Anh em không còn phải là người xa lạ, hay là người tạm trú, nhưng là người đồng hương với những người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Ki-tô Giêsu. Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-20: Bài đọc).
Trong đoạn thư này thánh Phao-lô nhấn mạnh: người được Chúa chọn là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là ông muốn cho các tín hữu hiểu rằng: Chúa sẽ ra sức bảo vệ mạng sống họ, đến nỗi sợi tóc trên đầu của họ cũng không bị mất! (x Mt 10,30) Điều này quan trọng hơn ông Phao-lô vốn dĩ là người Do Thái, nhưng để việc rao giảng Tin Mừng tránh người Do Thái trù dập tối đa, Phao-lô đã lấy được quốc tịch Roma để bảo vệ ông. Vì ai thuộc về công dân Roma, thì không người nào được quyền đánh họ trên 39 roi! Chính vì vậy mà năm lần ông bị người đồng chủng đánh không quá 39 trượng! Nhiều người Do Thái thấy thế thèm, nên hỏi ông Phao-lô: “Phải tốn bao nhiêu tiền mới có quốc tịch ấy?” (x Cv 22,28; 2Cr 11,24-25). Còn người Công Giáo chẳng mất xu nào mà có quốc tịch Nước Trời, để cùng với muôn tạo vật diễn tả vinh quang Thiên Chúa, đúng với lời kinh: “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”.
Suy niệm 11: Người chọn lấy mười hai ông
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta ơn kêu gọi của các Tông Đồ, trong đó có thánh Simon Nhiệt Thành và thánh Giu-đa Ta-đê-ô mà chúng ta mừng kính hôm nay. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ giúp chúng ta hiểu được ơn gọi của chính chúng ta; bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi; và mọi ơn gọi khơi nguồn từ ơn gọi của các Tông Đồ và tham dự vào ơn gọi của các Tông Đồ.
Đức Giê-su lên núi
“Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (c. 12).
Trong lịch sử cứu độ, núi là biểu tượng của nơi Thiên Chúa hiện diện:
Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong Nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài. (Tv 15)
Con yêu mến Ngài Lạy Chúa, là sức mạnh của con,
Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. (Tv 18)
Với câu Thánh Vịnh được trích dẫn ở trên, núi còn là một tên gọi của Đức Chúa: “Người là Núi Đá”. Trong cuộc sống, chúng ta cũng cần một nơi diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trước đó, Đức Giêsu ở trong hội đường giảng dạy và chữa bệnh; bây giờ Ngài lên núi để cầu nguyện.
Đó chính là hai chiều kích làm nên chính cách sống của Đức Giê-su, chiều kích hoạt động (hay làm việc) và chiều kích cầu nguyện.
Và đó cũng là hai chiều kích làm nên đời sống của tất cả những ai đi theo Đức Giê-su trong ơn gọi gia đình, và nhất là trong ơn gọi dâng hiến, dù đan tu hay Tông Đồ. Và quả thực, hàng ngày chúng ta vẫn sống theo nhịp sống của Đức Giê-su: hoạt động và cầu nguyện đan xen nhau mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, mỗi giai đoạn huấn luyện và cả đời sống Ki-tô hữu và đời sống dâng hiến của chúng ta.
Đôi khi, nhịp sống này đối với chúng ta trở thành nặng nề, nhất là cầu nguyện. Nhưng dưới ánh sáng cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là một ơn huệ, ơn huệ được trở nên giống Chúa ở mức độ đơn sơ nhưng thiết yếu nhất. Nhờ đó, chúng ta dễ dàng đi vào tâm tình tạ ơn và làm trổ sinh hoa trái trong đời sống của chúng ta.
Đức Giêsu chọn các Tông Đồ
Mỗi lần Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và cầu nguyện suốt đêm, chính là để chuẩn bị làm một việc hệ trọng. Giống như chúng ta đi tĩnh tâm, trong những thời điểm quan trọng trong hành trình làm người và nhất là trong hành trình ơn gọi. Trước khi Đức Giê-su chọn mười hai vị mà Ngài gọi là Tông Đồ, có thể nói Người đã “tĩnh tâm” trước.
Điều này có nghĩa là, ơn gọi của các Tông Đồ và ơn gọi của chính chúng ta, không phải là một chuyện may rủi, hay do nỗ lực “trụ lại bằng mọi giá”, nhưng là một việc hệ trọng đối với Chúa, Chúa phải chuẩn bị bằng một đêm cầu nguyện trên núi với Thiên Chúa Cha. “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại Giê-su gọi mười hai môn đệ lại và chọn lấy mười hai ông” (c. 13)
Như thế, ơn gọi đến từ chính ý muốn và tiếng gọi của Chúa.
Và ơn gọi của chúng ta cũng vậy, cho dù chúng ta đã đến với đời sống ơn gọi của chúng ta như thế nào, bởi những động lực hay lí do nào. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian huấn luyện, chúng ta được mời gọi đặt đời sống ơn gọi của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong.
Nhưng Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời; nhưng theo Thánh Phao-lô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời. Xác tín này giúp chúng ta nhận ra rằng, ơn gọi là một ơn hoàn toàn nhưng không, chúng ta được Chúa tạo dựng là để sống ơn gọi mà chúng ta đang sống (Tv 139; Gl 1, 15). Và Chúa gọi đích danh từng người: Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt…(c. 14-15)
Cũng vậy, Chúa cũng gọi tên từng người chúng ta. Chúng ta hãy hình dung từng khuôn mặt ngang qua tên gọi: ngoại hình, nguồn gốc, tương quan, khuynh hướng, nghề nghiệp, thao thức… Như thế, các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn còn đầy giới hạn, bất toàn như chúng ta. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa là nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người được gọi.
Ghi nhớ lòng tin “muôn ngàn đời” của Chúa đặt để nơi chúng ta, khi chúng ta chưa là gì và khi đã “là gì”, thì là gì một cách rất bất xứng và sẽ mãi mãi “là gì” rất bất xứng, sẽ khởi dậy nơi chúng ta lòng khát khao đáp trả cách quảng đại và nhưng không.
Đức Giêsu xuống núi cùng với các Tông Đồ
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Đức Giê-su xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Đức Giê-su và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Đức Giê-su giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người.(c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Đức Giê-su tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Ki-tô.
Nhưng thật ra, Ngài vẫn đến “đụng chạm” chúng ta hằng ngày ngang qua Lời của Ngài và Thánh Thể của Ngài. Xin cho chúng ta biết để cho Chúa “đụng chạm”, như khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ (x. Tv 139, 13-16) và cảm nhận được, từ nơi Ngài, xuất phát một sức mạnh chữa lành tất cả và tái sinh chúng ta cho sự sống và cho Gia Đình Nhân Loại mới của Chúa
27/10 Cửa Hẹp.
- Viết bởi Lc 13, 22-30
Cửa Hẹp.
Thứ Tư tuần 30 thường niên.
"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Lời Chúa: Lc 13, 22-30
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được.
Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".
Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cửa hẹp
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp.
Cửa hẹp khi thi vào đại học.
Cửa hẹp khi đi xin việc làm.
Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều.
Cửa hẹp mà vào được mới quý.
Nếu thiên đàng có cửa,
thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24),
vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14).
Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình,
với cái tôi cồng kềnh của mình,
nặng nề vì những vun vén cá nhân,
phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp
nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại,
khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ
mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng
nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng.
Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ,
cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Ðể “người lớn” trở nên hồn hậu như trẻ thơ,
cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Ðây thật là một cuộc chiến với chính mình.
Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng.
Họ gõ cửa và đòi vào.
Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc,
bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Ðức Giêsu,
và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy.
Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt
đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ:
“Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy,
dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm...
Chúa vẫn không quen biết chúng ta
vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình.
Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Ðời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục.
Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ.
Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban,
nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa,
nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên:
“Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.Amen
Suy niệm 2: Cửa hẹp
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cửa vào thiên đàng rất hẹp. Có lần Chúa nói nó còn hẹp như lỗ kim. Muốn qua phải trở nên bé nhỏ. Làm thế nào để trở nên bé nhỏ? Có những người đã “từng được ăn uống trước mặt” Chúa, và Chúa “cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của” họ. Nhưng thật lạ lùng khi Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu tới. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chúa không biết họ từ đâu tới. Vì họ không xuất phát từ Chúa. Họ làm điều bất chính. Vì họ làm theo ý riêng. Vì thế cần từ bỏ tất cả. Từ bỏ chính mình. Để xuất phát từ Chúa. Làm theo ý Chúa. Sẽ đến với Chúa. Đó là tấm gương của tổ phụ Áp-ra-ham. Hoàn toàn từ bỏ chính mình. Nên ông trở thành gương mẫu của những ai muốn vào qua cửa hẹp. Khi đã từ bỏ chính mình. Cửa lại trở thành rất rộng. Vì bất cứ ai từ đông, tây, nam, bắc, làm theo ý Chúa đều được đón nhận.
Điều này không dễ. Thư Rô-ma dạy ta phải xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần cầu nguyện cho ta. Thánh Thần giúp ta từ bỏ ý riêng để làm đúng ý Chúa. Như Chúa Giê-su. Một đời dương thế sống theo Thánh Thần. Hoàn toàn từ bỏ ý riêng. Luôn vâng phục ý Cha. Nên đã trở thành anh cả của chúng ta. Người đã trở nên bé nhỏ. Đã mở cửa trời. Đi theo Người ta đi trong thánh ý Chúa. Mà “những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (năm lẻ).
Vậy thì không cần phải làm những việc lớn lao. Không cần phải đi xa xôi để tìm cửa thiên đàng. Ở đâu ta từ bỏ ý riêng. Ở đó là cửa thiên đàng. Ở đâu ta làm theo ý Chúa. Ở đó có Nước Trời. Ở bậc nào sống cho tốt ở bậc ấy. “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo….Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy”…. “Kẻ làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ…Ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em. Người ngự trên trời và không thiên vị ai” (năm chẵn).
Chỉ khi từ bỏ chính mình. Để Chúa ngự trị. Làm theo ý Chúa. Như Chúa hướng dẫn. Ta mới trở nên bé nhỏ. Mới vào qua cửa hẹp.
Suy niệm 3: Hãy Vào Qua Cửa Hẹp
Câu hỏi mà một người vô danh đặt ra cho Chúa Giêsu đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, đó cũng là câu hỏi thông thường nơi các trường phái của các vị thông luật thời Chúa Giêsu, và là câu hỏi như muốn giới hạn số lượng những người vào Nước Chúa: "Thưa Thầy, phải chăng ít người được cứu thoát?" Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không nhằm đến số lượng nhưng là hướng tới một bình diện khác, tức là phẩm chất của những kẻ muốn vào Nước Chúa: họ phải qua cửa hẹp và cố gắng vào đúng lúc, khi còn thời giờ thuận tiện, đừng cậy dựa vào những liên hệ hời hợt bên ngoài với Chúa. Ơn cứu rỗi được Thiên Chúa trao ban cho mọi người: những kẻ trong dân Chúa chọn và cả những kẻ ở ngoài, bởi vì Chúa Giêsu đã đến để dẹp bỏ mọi hàng rào ngăn cách, thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa.
Ðặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi không được hiểu theo phạm trù số lượng, nghĩa là không phải mọi người tự động đều được cứu rỗi. Sự cộng tác từ phía con người là điều cần thiết. "Hãy vào qua cửa hẹp", hẹp, vì nó đòi con người phải từ bỏ nhiều. Hình ảnh cậu bé Charlie trong phim hoạt hình, đứng trước cửa, ôm trên người rất nhiều thứ; cậu muốn bước ra ngoài chơi với bạn bè, nhưng lại không muốn bỏ những thứ đang chồng chất trên người mình; cậu bé bực tức nói lớn: "Làm sao tôi có thể bước qua cửa này được?". Nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng có thể hành xử như vậy: vừa muốn vào Nước Chúa, vừa muốn giữ lấy mọi thứ không phù hợp với Nước Chúa; muốn vào Nước Chúa, nhưng lại không thực hành giáo huấn của Ngài, không canh tân đời sống của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Xin cho chúng ta biết từ bỏ những gì không cần thiết, nhất là những gì mất lòng Chúa, để chúng ta có thể bước qua cửa hẹp trở về Nhà Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Con Ðường Dẫn Ðến Tự Do
Chính phủ Nam Phi mới đây đã quyết định cho đúc bức tượng cao ba mươi tầng lầu của nhà tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền là cựu tổng thống Nelson Mandela. Theo dự trù, tượng đài kỷ niệm ông Mandela sẽ cao một trăm mười thước và được đặt tại hải cảng Elisabeth để cho những du khách tới Nam Phi qua đường biển phía đông chiêm ngưỡng người lãnh tụ khả kính này.
Song song với dự án bức tượng này, chính phủ Nam Phi sẽ làm một con đường đi bộ dài khoảng sáu trăm thước dẫn tới tượng đài. Con đường đi bộ này được đặt tên như trong bảng tóm lược đọc lên khi ông Nelson Mandela nhận giải Nobel Hòa Bình như sau: "Con đường dẫn đến tự do". Ông Nelson Mandela được trả tự do sau hai mươi bảy năm bị chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi cầm tù. Ông đã được bầu là tổng thống Nam Phi năm 1994.
Con đường dẫn đến tự do cho cá nhân ông Nelson Mandela, cho dân tộc Nam Phi cũng như cho cả thế giới là một con đường dài đến hai mươi bảy năm, qua đó ông đã trải qua không biết bao nhiêu gian khổ trong chốn tù đày. Con đường dẫn đến tự do nào cũng là con đường hẹp, đầy chông gai. Qua hình ảnh con đường của nhà đấu tranh Nelson Mandela chúng ta hiểu được con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra cho những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Trong Tin Mừng hôm nay, một lần nữa thánh Luca lại đặt Chúa Giêsu trong tư thế lên đường tiến về Giêrusalem. Với cái nhìn của vị thánh sử này cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc hành trình về Giêrusalem mà điểm đến cuối cùng là Núi Sọ và vinh quang phục sinh.
Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng Tin Mừng ngoài đường, cuối cùng cũng chết ngoài đường. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc lên đường và ra đi không ngừng. Ngài kêu gọi tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài lên đường và ra đi như thế: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày và đi theo Ta". Trong lệnh lên đường ban bố cho các môn đệ, Ngài nói rõ với các môn đệ: "không mang theo giày dép, bao bị, túi tiền, vào nhà nào người ta cho ăn thứ nào hãy ăn thứ đó, ai không đón tiếp thì đi ra".
Tóm lại, ra đi và lên đường là tư thế đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Mệnh lệnh ấy ngày nay vẫn tiếp tục có giá trị cho tất cả những ai muốn làm môn đệ để đi theo Chúa Giêsu. Sống đức tin là không ngừng ra đi và lên đường. Ra đi và lên đường không chỉ có nghĩa là rời bỏ một nơi này để đến một nơi khác. Cuộc ra đi và lên đường cam go nhất đòi hỏi nhiều quyết tâm và chiến đấu nhất hẳn phải là ra đi và lên đường khỏi con người cũ của tội lỗi. Trước khi lên đường về nhà Cha, người con hoang đàng đã phải phấn đấu mãnh liệt để ra khỏi bản thân và đứng dậy lên đường. Ðây chính là cuộc ra đi và lên đường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước vào, đây chính là cánh cửa hẹp mà Ngài mở ra cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria
Ðấng đã vội vã lên đường để đến với người chị họ Elisabeth luôn đồng hành với chúng ta, Mẹ giúp chúng ta biết nhìn về phía trước và tiến bước trong hân hoan, tin tưởng và cậy trông.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Không Có Đồ Bổ Béo Trên Bàn Tiệc Nước Trời
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài những kẻ được cứu thoát thì ít có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc. 13, 23-24)
Đức Giêsu lên đường về Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Nhiều lần Đức Giêsu nói Giê-ru-sa-lem là thành nơi các ngôn sứ bị kết án chết. Lời kêu gọi của Đức Giêsu càng ngày càng khẩn cấp. Thời giờ gần hết, phải lo cải thiện kẻo quá trễ.
Kẻ không được vào
Trong dân Ít-ra-en, người ta tranh luận nhiều về ơn cứu độ, một số kẻ cho rằng tất cả con cái Ít-ra-en đều được cứu độ. Số khác nói chỉ có những kẻ còn sót lại thôi. Khi nghe Đức Giêsu nói về nước trời đã đến, người ta hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít có phải không?”. Người không đáp thẳng. Người nhấn mạnh mọi người phải cố gắng để vào vì cửa nước trời rất hẹp, những kẻ kiêu ngạo bành trướng, những kẻ tham lam, nông nổi chạy theo những tham vọng xác thịt không thể vào được nước trời. Chỉ có những kẻ bé mọn, những kẻ kiềm chế được dục vọng xác thịt, mới có thể ép mình lại chui qua cửa hẹp để vào được dự tiệc thiên quốc.
Xã hội chúng ta chỉ thích tìm an nhàn thoải mái, sung sướng thỏa mãn và tiêu xài phung phá của cải trái đất, không nghĩ gì đến tương lai. Mọi người đều phì nộn cả thể xác lẫn tinh thần vì đã thỏa mãn những ham muốn thì những lớp mỡ béo bọc lấp con tim không còn chỗ cho lời Chúa thấm nhập nữa.
Trương phình do quá đầy đủ
Ngoài ra, đến lúc người ta không ngờ, cửa đóng lại và không ai có thể vào được nữa. Những kẻ đứng ngoài dù nói ngon ngọt hay lắm: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài và Ngài cũng từng giảng dạy trong những đường phố của chúng tôi. Chúng tôi còn là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham, thuộc gia đình thừa hưởng lời Chúa”. Chúng thích hiểu biết và giữ lề luật Chúa, nhưng không có con tim, tấm lòng mộ mến sống lề luật, nên tất cả những kẻ đó đều bị loại ra ngoài. “Tất cả các ngươi đều làm điều bất chính”.
Để thuộc về dân Thiên Chúa thật phải đón tiếp Đức Giêsu. Chính đức tin vào Đức Giêsu làm cho họ nhỏ bé, gầy gò đi để có thể vào cửa hẹp trước khi cửa đóng lại. Như vậy, con cháu của các tổ phụ là khách được mời trước nhất, lại tự thấy mình bị loại, trong khi lương dân đến sau đã sống theo lời Chúa, nên đã được nhận vào nước trời.
RC
Suy niệm 6: Đường hẹp dẫn đến sự sống
Xem lại CN 21 TN C
Một gia đình nọ có hai người con trai. Cha của hai anh em là một người nông dân bình thường. Mẹ là người nội trợ. Nói chung gia đình nghèo, cộng thêm chuyện ông bố lại thường xuyên đau bệnh. Hai anh em bàn tính với nhau, người anh nói với người em rằng: “Em ở nhà chăm sóc cha mẹ, anh đi kiếm tiền thật nhiều để về giúp mẹ cha tuổi già và lo thuốc thang cho cha”. Người em hỏi: “Anh định kiếm tiền bằng cách nào?” Anh trả lời: “Anh sẽ đi tham gia băng cướp, chỉ có cách này là nhanh có tiền để lo cho cha mẹ...”. Và cuối cùng thì người anh đã quyết định hành nghề đâm thuê, chém mướn. Lúc ban đầu tiền bạc đến với anh quá nhiều, đến nỗi không những có tiền lo cho gia đình, anh ta còn nổi tiếng về cách ném tiền qua cửa sổ nơi những cuộc ăn chơi trác táng, thâu đêm suốt sáng... Tuy nhiên, chẳng bao lâu, anh ta đã bị căn bệnh thế kỷ Sida và đã chết khi tuổi đời còn khá trẻ.
Câu chuyện trên đây chỉ là ngụ ngôn nhằm dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay để hiểu được giáo huấn của Đức Giêsu rằng: con đường hẹp là con đường dẫn đến sự sống. Còn con đường thênh thang là con đường dẫn đến diệt vong. Muốn có được sự sống đời đời, con người phải cộng góp vào hành trình tìm kiếm đó bằng những sự hy sinh, và đôi khi cả cái chết hữu hạn để đổi lấy sự sống đời đời. Trên hành trình tìm kiếm đó, thánh Phaolô đã ví mình như một vận động viên chạy đua. Phải dày công tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ... Vòng hoa chiến thắng chỉ được trao cho những ai đạt được thành tích xuất sắc sau những vất vả mà thôi.
Thật vậy, con đường theo Chúa của mỗi chúng ta sẽ gặp đầy thử thách chông gai. Con đường đó là con đường hẹp. Con đường lên Golgotha. Con đường của thập giá. Nhưng nếu muốn được hạnh phúc thật thì hẳn chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy theo Ta”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung thành theo Chúa trên con đường thập giá. Con đường của yêu thương, phục vụ. Con đường đi đến với những người ốm đau, bệnh tật, những người nghèo... Con đường hy sinh của thập giá. Con đường đó là con đường hẹp. Con đường của tự hủy, hy sinh, từ bỏ chính mình để xây dựng hạnh phúc của tha nhân.
Đây là con đường khó và chẳng mấy ai đi! Tuy nhiên, nếu chúng ta trung thành đi trên con đường đó với tình yêu được lồng vào ngang qua hành động, cử chỉ của chúng ta, ắt chúng ta sẽ bình an và sẽ được phục sinh. Nếu không đi theo con đường đó, ngược lại, chúng ta cứ mải mê trong vũng lầy êm ái của tội, của thực dụng, của danh vọng, của quyền hành, thì đến ngày chung cuộc, chúng ta sẽ bị loại ra ngoài, nơi đó sẽ phải khóc lóc và nghiếm răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm đi theo Chúa trên con đường hẹp, để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Hãy đi qua cửa hẹp
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Người Do thái hay quan tâm đến số lượng những người được cứu. Vì thế có một người hỏi Ngài rằng:”Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, có phải không”? Đức Giêsu thấy trước cái nguy của câu trả lời : nếu nói mọi người đều được cứu thì thái độ của họ sẽ là ỷ lại; còn nếu chỉ một số nhỏ được cứu thoát thì họ sẽ chán nản vì có cố gắng cũng uổng công. Nên Ngài không nói về số lượng mà chỉ nói đấn cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải “đi qua cửa hẹp”, nghĩa là phải cố gắng, phải chiến đấu.
Như thế, để chiếm được Nước Trời , để được cứu rỗi, chúng ta phải chiến đấu với bản thân, phải từ bỏ và phải chết đi cho những dục vọng, những thói xấu trong chúng ta.
2. Theo quy luật của cuộc sống, chẳng có gì đạt được mà không có nỗ lực cố gắng. Muốn giỏi thì phải học chứ không tự nhiên mà thi đậu, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi chứ không phải bỏ ruộng hoang để chờ có lúa gặt. Của cải không từ trên trời rơi xuống, tri thức cũng không tự nó toàn tri, hạnh phúc không tự có nếu không vun đắp xây dựng... Cũng thế, Nước Trời đã được Thiên Chúa dọn sẵn và dành cho bất cứ ai, nhưng không phải tự nhiên mà đạt tới, mà phải trải qua những gian truân khổ ải và hy sinh thì mới mong đạt tới.
3. Dựa trên tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng: ”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài, sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: ”Ta không biết các người từ đâu đến” (Lc 13,27).
4. Đức Giêsu kêu gọi: ”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày và đi theo Ta”. Chúa ban bố lệnh lên đường cho những ai theo Ngài. Ra đi và lên đường, đó là tư thế đích thực của người môn đệ Đức Giêsu. Mệnh lệnh ấy ngày nay vẫn tiếp tục có giá trị cho tất cả những ai muốn làm môn đệ để đi theo Đức Giêsu. Sống đức tin là không ngừng ra đi và lên đường. Ra đi và lên đường không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này để đến một nơi khác. Cuộc ra đi và lên đường cam go nhất đòi hỏi nhiều quyết tâm và chiến đấu nhất hẳn phải là ra đi và lên đường khỏi con người cũ của tội lỗi. Trước khi lên đường về nhà Cha, người con hoang đàng đã phải phấn đấu mãnh liệt để ra khỏi bản thân và đứng dậy lên đường. Đây chính là cuộc ra đi và lên đường mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước vào, đây chính là cánh cửa hẹp mà Ngài mở ra cho chúng ta (R.Veritas).
5. Người Ai-len kể câu chuyện vào thiên đàng như sau: Một người đến trước cửa thiên đàng và xin thánh Phêrô cho mình vào. Ngài trả lời: ”Đương nhiên là được, chỉ cần con chỉ cho ta các vết sẹo của con”. Người ấy trả lời: ”Con không có vết sẹo nào”. Thánh nhân nói: ”Thật đáng tiếc vì chẳng có gì đáng cho con phải chiến đấu sao”? Đức Giêsu xác quyết với ta: Đường về Nước Trời là con đường Thập giá, vào cửa sự sống là đi qua cửa hẹp, phải chiến đấu “trầy da tróc vẩy” mới vào được. Những vết sẹo trong hành trình nỗ lực đấu tranh của ta với bản thân ươn lười, với mưu mô ma quỉ tinh vi, với môi trường xã hội nặng tính trần tục, nhất là xã hội đề cao tiện nghi, hưởng thụ cách ích kỷ như hiện nay (5 phút Lời Chúa).
6. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được. Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại :
- Nước chảy đá mòn,
- Kiến tha lâu đầy tổ,
- Có công mài sắt có ngày nên kim.
Thì trên phương diện thiêng liêng cũng thế, vì Chúa đã phán :”Ai muốn theo Ta...hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc :”Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng thế, nếu ở đời:”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta !
7. Truyện: Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da Đỏ ở Mỹ châu họ có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau : khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ :”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định...
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện : cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chằm lấy bố, reo lên :”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Suy niệm 8: Người được cứu độ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Câu hỏi mà một người nào đó đặt ra cho Chúa Giêsu hôm nay, phản ánh mối quan tâm rất lớn của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản thất vọng, không chịu cố gắng.
Theo thánh Luca, Chúa đã không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng, Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu, đó là phải cố gắng. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ”đi qua cửa hẹp” để diễn tả ý tưởng này.
- ”Đi qua”: Động từ “qua” diễn tả sự thay đổi cách sống.
- ”Cửa hẹp” ở đây diễn tả sự cố gắng.
Thánh Thomas More (1478-1535) nguyên là Chưởng ấn của triều đình vua Henry VIII nước Anh, có nhiệm vụ duy trì công lý cho toàn vương quốc. Vua Henry VIII muốn ly di vợ mình là Catherine để kết hôn với Anne Boylen, người hầu của Hoàng Hậu. Vua hy vọng Thomas More sẽ giúp mình trong việc này. Nhưng vua đã phải thất vọng vì Thomas More cương quyết trung thành với luật Chúa hơn là nghe theo hành động sai trái của nhà vua.
Sau khi lấy Anne Boylen làm vợ, vua Henry VIII thành lập Giáo Hội Anh Giáo, ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo và giành cho mình quyền làm giáo chủ. Vua bắt thần dân phải thề trung thành với Hoàng hậu mới và chấp nhận quyền bính thiêng liêng của vua. Thomas More vì quyết trung thành với Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội Công Giáo nên bị tống ngục. Các bạn hữu Ngài đến thăm và khuyên:
- Ông cứ giả bộ trung thành và tuân phục vua đi, còn trong lòng ông cứ tự bảo mình chỉ tuân hành mệnh lệnh của Chúa Kitô là Vua Các Vua thì cũng có sao đâu.
Nhưng Thomas More đáp lại: - Tôi không thể thề gian như vậy. Tôi không thể lừa dối chính mình và lừa đảo người khác như thế được.
Ít lâu sau, vào ngày 06/07/1535, Thomas More bị chém đầu và 400 năm sau, người được Đức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong hiển thánh.
Vâng, đó là con đường hẹp nhưng lại là con đường dẫn tới vinh quang. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được can đảm bước vào con đường như thế, để mai sau được xứng đáng với vinh quang Nước Trời.
Suy niệm 9: Cách thức để được cứu độ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. c.23: Câu hỏi mà một người kia đặt ra cho Chúa Giêsu phản ánh quan tâm của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.
2. c.24: Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng. Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải cố gắng, diễn tả bằng hình ảnh “đi qua cửa hẹp”.
- “Đi qua”: Động từ “qua” diễn ta sự thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái của hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết “đi qua” (thay đồi cách sống) thì mới vào nhà được.
- “Cửa hẹp” diễn ta sự cố gắng. Muốn vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim: xem Mt 19,24, Mc 10,25, Lc 18,25).
B.... nẩy mầm.
1. “Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (...) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Chịu ảnh hưởng của nền văn minh hưởng thụ, người thời nay có khuynh hướng làm cho mọi việc thành thoải mái dễ chịu, kể cả việc sống đạo. Thí dụ: trong nhà thờ ghế phải rộng và êm, phải có quạt máy, cha phải giảng ngắn... Những lời nhắc nhở của ĐGH về hôn nhân bất khả li, về luật cấm phá thai, về độc thân Linh mục v.v. bị coi là chói tai nên không được đáp ứng v.v. Cách sống đạo như thế không phải là đi qua cửa hẹp. Thánh Phaolô đã so sánh cuộc sống tín hữu như một cuộc chạy đua: để đạt huy chương, người lực sĩ nào cũng phải dày công khổ luyện.
3. Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào...” (Lc 13,24)
Đậu tốt nghiệp hạng ưu, thằng nhóc nó vui mừng hớn hở về báo tin cho tôi. Tôi đã đọc được niềm vui trong lòng nó, tôi tự nhủ rằng: “Cậu tú nhà tôi đậu được thủ khoa cũng đáng”, bao công lao thức khuya dậy sớm “dùi mài kinh sử” nó còn phải giã từ cả sân cỏ: không đá banh, không patin, cũng không bén mảng đến hồ bơi, nó bỏ hết những cuộc chơi.
Từ đó tôi nghiệm ra rằng thành đạt là kết quả của những cố gắng lâu dài mà con đường dẫn đến không dễ dàng, đòi hỏi nhiều hy sinh và phấn đấu. Con đường tiến về quê trời cũng vậy, đòi hỏi tôi lực chọn đi qua cửa hẹp. Đó chính là điều Chúa Giêsu mời gọi hôm nay, như chính Ngài đã lựa chọn con đường của thập giá.
Lạy Chúa! Mỗi ngày trong cuộc sống của con, xin cho biết chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. (Hosanna)
26/10 Nước Thiên Chúa
- Viết bởi Lc 13, 18-21
Nước Thiên Chúa.
Thứ Ba tuần 30 thường niên.
"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".
Lời Chúa: Lc 13, 18-21
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Lớn lên và trở thành
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng.
Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo.
Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người.
Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp.
Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé.
Ông có ước mơ mong mỏi gì không?
Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây.
Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19).
Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời.
“Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt.
Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên,
để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến.
Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn.
Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu.
Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột.
Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men.
Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết.
Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành.
Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa
trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong.
Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột
đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy.
Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ.
Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay.
Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới.
Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại.
Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật,
khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua,
khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng,
khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới.
Kitô giáo có tương lai không?Kitô giáo có thể bị tàn lụi không?
Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng.
Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan.
Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm.
Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay,
đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa.
Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta.
Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón.
Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột,
đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng.
Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt?
Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới.
Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Suy niệm 2: Hạt cải và nắm men
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật đời thường. Thật kỳ diệu. Nhưng cũng thật thâm sâu. Như hạt cải và nắm men Nước Trời khởi đầu thật bé nhỏ. Hạt cải li ti chẳng ai nhìn thấy. Nắm men nhỏ bé chẳng ai quan tâm. Hạt cải gieo xuống chìm sâu trong đất. Nắm men biến mất trong thúng bột khổng lồ. Tan biến đi. Nhưng không tàn lụi. Mà phát triển mạnh mẽ không ngờ. Cây cải mọc lên cao lớn. Chim chóc tìm đến trú ẩn. Cả thúng bột dậy men. Trở thành bánh thơm ngon cho người đời.
Có một biến đổi sâu xa. Nhỏ bé trở thành lớn lao. Yếu đuối trở thành mạnh mẽ. Có những đau xót âm thầm. Hạt cải vùi chôn và mục nát. Nắm men phân huỷ tan tành. Không còn là mình nữa.. Mất chính thân mình. Mất căn tính mình. Chẳng còn hiện diện. Không còn hạt cải. Không còn nắm men. Đem lại lợi ích lớn lao. Không cho mình nhưng cho tha nhân. Cho chim chóc đến trú ngụ. Cho người đời có bánh ăn.
Thư Rô-ma giải nghĩa hiện tượng chuyển hoá bằng thời kỳ người phụ nữ chuyển dạ. Cả thế giới đang chuyển dạ. Muôn vật đang rên siết đau đớn. Hạt cải và nắm men đang mục nát tan biến. Muôn loài phải trải qua kinh nghiệm hư vô. “Cho đến bây giờ, muôn loài htuj tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng”. Hạt cải Thần Khí đã gieo vào lòng ta. Đã gieo vào lòng thế giới. Để con người xác thịt tan biến đi. Để thế giới được Thần Khí hoá. Đau đớn lắm. Nhưng thánh Phao-lô xác quyết “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (năm lẻ). Qua đau khổ sẽ đến hạnh phúc. Qua tủi nhục sẽ hưởng vinh quang.
Từ bỏ chính mình vì người khác. Hạt cải tan biến để chim chóc có chỗ nương thân. Nắm men tan biến để con người có tấm bánh thơm ngon. Con người cũng phải sống mầu nhiệm Nước Trời. Huỷ mình vì người khác. “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Đó là mầu nhiệm tự huỷ mà Chúa Giê-su đã làm gương. Chúa Giê-su đã là hạt cải gieo vào lòng đất. Đã là nắm men vùi vào thúng bột thế giới. Chúa đã trở nên bé nhỏ. Đã tan biến đi. Trở thành cây cao bóng cả cho chúng ta trú ngụ. Trở thành tấm bánh thơm ngon nuôi sống chúng ta (năm chẵn).
Chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa. Hãy chịu rên siết đớn đau. Để sinh ra một thế giới mới. Để Nước Trời ngự trị. Đó là vinh quang ta hằng ngong ngóng đợi chờ.
Suy niệm 3: Sức Mạnh Nội Tại Của Nước Chúa
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta Suy niệm hai dụ ngôn về Nước Trời: hạt cải và nắm men. Cả hai dụ ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được. Dụ ngôn nắm men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối bột. Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng đức tin mà thôi. Thật thế, khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối lịch sử: mặc cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn: Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi: Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không? Một chút men Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không? Ðã hơn 2.000 năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa mở rộng con mắt đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Sức Mạnh Của Nước Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội chúng ta được mời gọi Suy niệm các câu 18-21 của chương 13 Phúc Âm theo thánh Luca, kể lại hai dụ ngôn ngắn của Chúa Giêsu về Nước Trời giống như hạt cải và giống như men được trộn với bột. Cả hai dụ ngôn đều làm nổi bật điểm khởi đầu khiêm tốn nhỏ nhoi của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn về hạt cải nhấn mạnh đến sự phát triển theo chiều ngang, theo thể lượng từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây có cành lá to lớn đến nỗi chim trời có thể đến đậu vào được; và dụ ngôn thứ hai về chất men được đem trộn vào bột, nhấn mạnh đến chiều sâu, đến phẩm chất sâu xa của Nước Chúa từ chất men có thể làm dậy cả thúng bột.
Cả hai đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong dòng lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn cuối cùng sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn trên của Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi chúng ta phải đương đầu với những trở ngại, những thử thách trong đời sống đức tin, khi chúng ta nhìn thấy những điểm tiêu cực không ngừng xảy ra trong Giáo Hội, trong Nước Chúa.
Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới càng ngày càng bị trần tục hóa, càng ngày càng nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa hay không? Chất men lời Chúa có đủ sức mạnh thu hút con người và biến đổi con người trở nên tốt hơn hay không? Gần hai ngàn năm rồi, kể từ khi Con Thiên Chúa xuống thế thực hiện công việc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên thập giá và sống lại nhưng thử hỏi, nhân loại ngày hôm nay có tốt hơn ngày xưa không? Nếu suy luận theo cái lý tự nhiên, theo những toan tính phàm trần có thể chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào thất vọng. Nhưng lời dạy của Chúa Giêsu qua dụ ngôn trên không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng, chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ hoàn tất như thế nào nhưng hàng ngày chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Chúng ta hãy cầu nguyện và dấn thân làm tất cả những điều mình có thể với ơn Chúa soi sáng.
Lạy Chúa,
Xin mở rộng đôi mắt niềm tin chúng con để chúng con được nhìn thấy những tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hàng ngày. Xin thương ban cho chúng con được kiên trì trong những thử thách và luôn luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Nước Trời Là Gì?
Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.
Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Lc. 13, 19-21)
Sau khi nói về ngày nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu muốn dân chúng hiểu rằng triều đại nước Chúa không phải là tai biến lớn của vũ trụ như các ngôn sứ loan báo. Ngày phán xét như Người đã nói trên, nhưng bắt đầu triều đại Thiên Chúa thì giác quan không thể thấy được. Đức Giêsu chỉ giới thiệu nước Thiên Chúa bằng những hành động chữa lành các bệnh tật và giải thoát khỏi thần dữ. Đó là những dấu chỉ nước trời. Qua dấu chỉ đó cho ta biết triều đại Thiên Chúa chính là sự sống đời đời trong con người và trong Giáo hội. Sự sống lành mạnh, không còn bệnh tật, đau khổ, chết chóc, sự sống thánh thiện, không còn dấu vết của sự dữ, của quỷ thần xấu xa tội lỗi.
Phát triển của sự sống nước trời
Hạt cải đen sấp sỉ lớn bằng đầu mũi kim khâu, ở bờ hồ Giê-nê-sa-rét. Cây nó cao lớn từ hai mét năm mươi đến ba mét (8-9 bộ). Lúc đầu, nó nhỏ nhất, bé bỏng nhất, lớn lên thật đáng ngạc nhiên, nếu vườn được trồng cấy quang đãng và tưới bón kỹ.
Đời sống đời đời trong mỗi Kitô hữu như hạt cải nhỏ bé được lớn lên nhờ ánh sáng lời Chúa, sức nóng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa và nước hằng sống của Thánh Thần, như thế, nó có thể lớn lên tới mức cho “chim trời đến làm tổ trú ẩn”. Nghĩa là cho các nhân đức sinh sôi nảy nở, được chở che và nuôi sống.
Sự sống dậy men, lan rộng
Ban chiều, bà nội trợ lấy nắm men trộn vào ba mươi ký lô bột (ba đấu). Sáng hôm sau, tất cả khối bột đã dậy men và chuẩn bị đặt vào lò.
Hành động của Thiên Chúa trong Giáo hội cũng thế: Không thể thấy, không thể cảm được, lời Đức Giêsu thông ban sự sống cho mọi người qua nắm tay của các môn đệ cũng không thể thấy, không thể cảm được. Những người đó đang phát triển theo quyền năng biến đổi của men hằng sống và truyền thông sức mạnh đó sang người khác. Và cứ thế lan rộng, không gì có thể ngăn cản khối người đang phát triển đó. Chính vì thế, nước Thiên Chúa tiếp tục lớn mạnh, nhưng chẳng trông thấy sức sống mạnh mẽ đó từ khi khởi đầu cho đến tận thế. Chỉ có người đã nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa nhờ đức tin, trong khiêm tốn và phó thác cho hành động của lời Chúa, mới có thể am tường được nước trời đã đến và ngày giờ đút lò sắp tới.
Suy niệm 5: Nhỏ mà vĩ đại
Xem thêm CN 11 TN B (Mc 4,26-34), thứ Sáu tuần 3 TN (Mt 13,31-32), Và thứ Hai tuần 17 TN
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần bàn, vì thế cũng đâu cần quan tâm!
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương”.
Hay là:
“Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến sự lớn mạnh của Nước Trời qua dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Thật vậy, hạt cải của vùng Palestine là một loại hạt nhỏ bé nhất trong những loài thảo mộc, nhưng khi nó đã lớn, thân cây của chúng cao to, có thể là nơi chim trời về làm tổ trong những tán lá xum xuê. Còn khi nói Nước Trời như một nắm men, Đức Giêsu cho thấy Nước ấy cũng sẽ lớn mạnh như men làm cho bột dạy lên thế nào thì Đạo Thánh mà Ngài thiết lập cũng sẽ lan rộng như vậy.
Thật thế, ngày nay, nhìn ra thế giới, chúng ta nhận thấy rất rõ sự lớn mạnh này. Khởi đi từ một nhóm môn đệ ít ỏi và lại gặp biết bao thử thách từ trong trứng nước như: cấm cách, bắt bớ và giết chết bằng những hình thức hết sức tàn bạo, dã man... Tuy nhiên, càng thử thách bao nhiêu, càng phát triển bấy nhiêu, đôi khi có lúc âm thầm, nhưng như than hồng rực nóng hơn nhiều lần ngọn lửa thế nào thì Đạo của Chúa cũng mạnh mẽ và mãnh liệt như vậy. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam của chúng ta cũng chứng minh rất rõ điều đó!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết cậy dựa và đặt niềm tin nơi Chúa. Tin tưởng rằng mình chẳng là gì, rất bé nhỏ, nhưng một khi đã gắn kết với Chúa trong sự khiêm tốn thì chắc chắc Chúa sẽ dùng vào những chuyện lớn lao cho chương trình của Ngài. Ví dụ như Phêrô; Phaolô; Âu tinh...
Khiêm tốn chính là vũ khí để chống lại những kẻ kiêu ngạo đang ngang ngược chống phá Giáo Hội. Chúng ta vững tin, sẽ có ngày chỉ một nắm men nhỏ, chúng ta sẽ làm cho cả khối bột dạy men nhờ ơn Chúa.
Điều quan trọng là hạt cải phải mục nát đi, men phải được hòa tan trong bột thế nào thì đời sống của người Kitô hữu cũng phải như vậy, tức là đời sống đạo của chúng ta phải chan chứa tình Chúa, tình người, sống công bằng, từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại... Có thế, chúng ta mới làm cho hạt cải của niềm tin sống động làm chỗ dựa cho người khác. Làm cho men yêu thương lan tỏa để nhiều người yêu mến Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm tốn và trung thành gắn bó với Chúa để can đảm ra đi làm chứng cho Chúa bằng khả năng nhỏ mọn đơn sơ nhưng chân thành. Xin Chúa đón nhận và làm cho đóng góp của chúng con được hữu hiệu trong tình yêu Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Nước Thiên Chúa không ngừng lớn lên
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nước Thiên Chúa hiện nay tuy nhỏ bé, nhưng vẫn không ngừng lớn lên và đang âm thầm biến đổi thế giới. Người Kitô hữu phải biết hy vọng và góp phần làm cho Tin Mừng ảnh hưởng sâu rộng trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hai nghìn năm đã qua từ ngày Chúa đến trần gian để thực hiện công việc cứu độ. Thế mà con thấy kết quả dường như quá nhỏ bé. Bất công hận thù vẫn còn đó, tội và đau khổ vẫn gia tăng. Dường như Nước Thiên Chúa đang bị thu hẹp, và Tin Mừng chưa biến đổi được thế giới. Đôi lúc lòng tin của con chẳng còn vững vàng.
Lời Chúa hôm nay đã khơi dậy trong con niềm hy vọng vào tương lai. Chúa đã mở mắt con để con nhận ra Nước Chúa vẫn đang tăng trưởng, dù âm thầm, nhưng rất mạnh mẽ. Lời Tin Mừng mà Chúa gieo vào trần gian, ban đầu còn hạn hẹp nơi nhóm Tông đồ, nhưng nay đã được công bố khắp nơi, hơn nữa đang thấm nhập vào đời sống con người và biến đổi thế giới. Tình yêu của Chúa, hoạt động cứu độ của Chúa, ban đầu chỉ là những việc nhỏ bé, nhưng nay đã ăn sâu trong lòng người và đang lớn dần trong xã hội.
Lạy Chúa, xin Chúa giữ lòng con luôn tin tưởng, xin đừng để con thất vọng và mất kiên nhẫn. Xin giúp con biết góp phần làm dậy men Tin Mừng trong cuộc sống. Xin cho con biết sống Tin Mừng hằng ngày. Con tin rằng những việc tốt con làm, dù chỉ là việc âm thầm nhỏ bé, nhưng sẽ lan rộng và biến đổi gia đình con và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Xin Chúa giúp con can đảm sống Tin Mừng. Dù Tin Mừng có bị người đời chê là bảo thủ, khe khắt, ngược đời, nhưng con tin rằng Tin Mừng sẽ là niềm hy vọng cho nhân loại. Muôn dân sẽ đến núp bóng và làm tổ trên cành cây của Nước Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to”.
Suy niệm 7: Cái nhìn về thực tại nước Trời
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Báo Tuổi trẻ 96 có giới thiệu khuôn mặt của một nữ triệu phú: Chị đã thoát ra từ cuộc sống dường như đang ở bước đường cùng của mình, với hai bàn tay trắng cùng một tấm thân tật nguyền của chứng bệnh phong cùi mà mọi người xung quanh ai cũng ghê sợ. Chính chị cũng có lúc không biết sống để làm gì và làm gì để sống.
Nhưng cuối cùng, vì tình yêu dành cho con, chị đã đứng vững và thành công. Nhờ tình yêu và nghị lực của chị, người con trai của chị mới có thể thành đạt, thành công và thành nhân.
Suy niệm
Hai dụ ngôn ngắn gọn về hạt cải và men trong bột mở ra một cái nhìn rất lạc quan về thực tại nước Trời nơi tấm lòng của kiếp nhân sinh được Thiên Chúa cứu độ: Nếu có niềm tin nhỏ bé và ít ỏi, nhưng một khi vượt qua được những trở ngại để vươn lên, hạt cải nước Trời sẽ trở thành một cây lớn, làm chỗ nương tựa cho cuộc sống, niềm tin này giúp con người luôn vươn lên phát triển tâm hồn. Hạt giống đức tin có những khả năng không ngờ: Khi được gieo xuống đất, hạt giống bé tí xíu, bé nhất trong các loại hạt, nhưng khi nó mọc lên phát triển thành một cây to chim trời có thể làm tổ. Thật ra, tác nhân chính của sự việc, đó là Thiên Chúa. Chính Người làm nảy sinh điều bất ngờ. Cộng với niềm tin nhỏ bé được nuôi dưỡng, con người có men của lòng mến nước Trời, lòng mến sẽ biến đổi bột, kiếp nhân sinh một cách mãnh liệt, từ đó cho ra những tấm bánh thơm ngon cho nhân gian và làm của lễ dâng lên cho Thiên Chúa.
Với sức mạnh của ân sủng đức tin và lòng mến lan tỏa sẽ biến cánh đồng nhân sinh thành đồng ruộng tốt tươi đầy bông lúa chín vàng như trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ánh sáng đẩy lùi bóng tối: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).
Với sự nhẫn nại của Đức Kitô và niềm tin của Ngài nơi con người, qua hai dụ ngôn đức tin hạt cải và lòng mến dậy men: “Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải thiện hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại” (Thánh Âugustinô). Tôi và bạn đừng lo nguyền rủa bóng tối, cỏ lùng trong đời, hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của niềm tin, niềm tin hạt cải, nến ánh sáng của tình yêu, bóng tối trong tôi bị đẩy lùi, cỏ lùng trong tôi bị tiêu hủy...
Đức tin lớn mạnh và đức mến dậy men sẽ diệt được bóng tối trong cuộc đời… Thật thế, nếu đức tin bằng hạt cải và mến như nắm men nhỏ bé, nhưng đưa đến kết quả ngoài sức tưởng tượng. Nước Thiên Chúa cũng có sức mạnh để phát triển, làm sung mãn và biến đổi được tất cả.
Ý lực sống
Dẫu lòng mến của con “nhỏ hơn” nắm men, đức tin con nhỏ như hạt cải, con cũng nguyện xin Chúa cho con can đảm sống tin và sống vì yêu thương.
Suy niệm 8: Dụ ngôn hạt cải và nắm men
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Để dân chúng hiểu cách tổ chức và sinh hoạt trong Nước trời, Đức Giêsu thường dùng những dụ ngôn mà người ta quen gọi là “Dụ ngôn Nước trời”. Sự phát triển của Nước trời được ví như hạt cải, tuy nhỏ bé nhưng được nảy mầm và lớn lên phi thường. Cũng vậy, như nắm men vùi vào ba đấu bột, nắm men có sức mạnh làm dậy tất cả đấu bột. Hạt cải và nắm men tuy nhỏ bé, nhưng đưa đến kết quả ngoài sức tưởng tượng. Nước trời cũng có sức mạnh để phát triển, làm sung mãn và biến đổi được tất cả như vậy.
Sự tăng trưởng của Nước trời
Chúa ví Nước trời như hạt cải. Cải là một thứ rau bên Thánh địa có nhiều. Hạt cải rất nhỏ. Để nói về sự bé nhỏ của vật gì, người ta thường ví: nó to bằng hạt cải! nghĩa là vật ấy nhỏ lắm. Đức Giêsu cũng có lần nói đến sự bé nhỏ của hạt cải: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải...”. Nhỏ bé thế mà gieo vào đất tốt, cây cải mọc cao lớn, cành lá xum xuê, chim trời đến đậu và có thể làm tổ được.
Hạt cải nhỏ bé thật nhưng có sức sống mãnh liệt bên trong, nhờ có sức sống bên trong, nó có thể mọc lên thành cây lớn. Hình ảnh cây cải ở Palestina chắc chắn khác cây rau cải ở Việt Nam, hạt cải thuộc lớp hạt rất nhỏ khi gieo xuống, nhưng khi mọc lên cây cải cao lớn, mà chim trời có thể đến nương náu dưới tán của nó được.
Đức Giêsu có ý nói: Nước trời ban đầu thật nhỏ bé trên dưới vài chục người với Đức Giêsu và các môn đệ quanh quẩn trong xứ Palestina nhỏ bé, nhưng trải qua lịch sử thăng trầm, đến bây giờ Hội thánh có trên một tỷ người có mặt khắp nơi trên thế giới. Chức năng của Nước trời, của Hội thánh, của Dân Chúa là phải lớn lên và trở thanh bóng mát cho đời, cho mọi người nương ẩn giữa bão táp mưa sa của cuộc đời.
Sự thấm nhập của nắm men
Dụ ngôn “Men trong bột” nói lên sức men thấm nhập toàn thúng bột, làm cho bột dậy men. Chúa không chú trọng đến số men dùng, mà chú trọng đến sức mạnh dậy men. Cũng như men pha vào bột làm cho nó dậy men có hương vị thì giáo lý Nước trời cũng sẽ thâm nhập vào thế giới làm cho nó sẽ trở nên tốt hơn và làm cho mọi người có khả năng nhận biết Tin mừng.
Tinh thần Bác ái Công giáo dạy chúng ta không nên khơi dậy sự tiêu diệt, sự trả thù mà hãy nghĩ đến việc hoán cải như thứ men nhỏ bỏ vào hũ bột. Tất cả bột sẽ dậy men. Như vậy, bổn phận người Kitô hữu là đem Tin mừng vào mọi cơ cấu gia đình và xã hội của mình, phải vận động để ảnh hưởng Tin mừng được thể hiện trong luật pháp, đoàn thể cũng như quốc gia và mọi sinh hoạt của xã hội.
Với dụ ngôn hạt cải và nắm men, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta đi vào cái nhìn của Thiên Chúa. Một hạt cải nhỏ bé trở thành một cây lớn đến độ chim trời có thể nương náu được, một ít men có thể làm dậy cả khối bột. Sức mạnh của cái nhỏ bé, sức toả lan của cái âm thanh, đó là sức mạnh của chính Giáo hội Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng, nhưng Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Các Tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng, nhưng đó đã là sức mạnh nhào nặn Giáo hội từ 2000 năm qua (Mỗi ngày một tin vui).
Cả hai dụ ngôn hạt cải và nắm men đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa. Một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này Đức Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn, cuối cùng.
Có những điều mà chúng ta có thể Truyện: Thế giới chưa hoàn chỉnh
Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, cỏ hoa, sinh vật, chim cá... Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi: “Thưa Chúa, vậy thế giới xong chưa ?” Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ: “Ta mệt rồi, Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con”. Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Thiên Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là: “Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của Ta”.
làm và phải làm, Thiên Chúa không làm điều đó thay chúng ta. Không phải vì Ngài không thể làm chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta phải gieo hạt giống, đó là phần việc của chúng ta. Nhưng khi làm điều ấy, chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta không thể làm mọi việc. Chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Đó là phần việc của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa làm phần việc của Ngài. Không một chủ nông trại hoặc người làm vườn nào sẽ nói với bạn điều ấy.
Chúng ta có nhiệm vụ truyền bá Nước Thiên Chúa cho người ta trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như không thuận tiện, cho những người muốn nghe cũng như cho những người không muốn nghe. Phần chúng ta cứ việc gieo Lời Chúa và để cho Lời Chúa âm thầm mọc lên.
Suy niệm 9: Sự phát triển của Nước Trời
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Với hai dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu muốn nói đến sự phát triển của Nước Trời.
1. “Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.” (Lc 13,19)
Tại một nghĩa trang bên Đức, có một ngôi mộ rất được chú ý đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới được xây bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có nhưng không tin có Chúa cũng chẳng tin có sự sống lại. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mồ.
Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố, thế nhưng một hôm, tình cờ có một hạt giống từ một con chim bay trên trời rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây và rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng, làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Hạt cải cũng tương tự như hạt giống kể trên. Nó thật nhó bé nhưng có một sức sống mãnh liệt bên trong. Khi ví Nước Trời như hạt cải vô nghĩa kia, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sức sống bên trong của nó. Nhờ có sứ sống bên trong mà nó có thể trở thành một cây lớn, đến độ chim trời có thể đến ẩn náu dưới bóng nó được.
Nhìn vào con số ít ỏi những tín hữu ngày hôm nay trên thế giới (thí dụ tại Châu Á mới chỉ có chừng 2,8%) nhiều khi chúng ta thấy thất vọng. Chúng ta thất vọng vì chúng ta thường tính toán dựa trên những số lượng mà không để ý đến phẩm chất. Ngày xưa, lúc khởi đầu cũng như thế nên Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng. Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa.
Các tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng. Các ngài đã làm xong công việc của mình. Ngày nay trong Giáo Hội, Thiên Chúa cũng đang dùng những tâm hồn bé nhỏ, những nhóm Kitô hữu nhỏ làm hạt giống. Họ là những tâm hồn khiêm tốn nhưng siêng năng cầu nguyện; họ là những nhóm nhỏ trong giáo xứ đang cùng nhau học hỏi và sống Lời Chúa. Và chuyện quan trọng ở đây không phải nhỏ hay lớn, mà là sức sống. Sức sống ấy chính là Chúa Giêsu sống trong Giáo Hội: “Thầy sẽ ở với chúng con cho đến tận thế” (Mt 28,20).
2. Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Lc 13,21)
Dụ ngôn “Men Trong Bột” nói lên sức men thấm nhập toàn thúng bột, làm cho bột dậy men. Chúa không chú trọng đến số men dùng, mà chú trọng đến sức mạnh dậy men. Cũng như men pha vào bột làm cho nó dậy men có hương vị thì giáo lý của Nước Trời cũng sẽ thấm nhập vào thế giới làm cho nó sẽ trở nên tốt hơn và làm cho mọi người có khả năng nhận biết Tin Mừng. Tinh thần bác ái Công giáo dạy chúng ta không nên khơi dậy sự tiêu diệt, sự trả thù mà hãy nghĩ đến việc hoán cải như thứ men nhỏ bỏ vào hũ bột. Tất cả bột sẽ dậy men. Như vậy, bổn phận của người Kitô hữu là đem Tin Mừng vào mọi cơ cấu gia đình và xã hội của mình, phải vận động để tinh thần Tin Mừng thể hiện được trong luật pháp, đoàn thể cũng như quốc gia và mọi sinh hoạt của xã hội.
Ernest Gordon cô viết cuốn sách nhan đề “Ngang qua thung lũng sông Wai”, trong đó ông mô tả những chuyện có thật xảy ra tại trại tù binh Nhật dọc bờ sông Wai trong thế chiến thứ hai. Tại đây 12 ngàn tù binh chết vì bệnh tật, vì bị đối xử tàn nhẫn trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa. Họ làm việc cực nhọc dưới nắng nóng gần 50 độ, đầu trần, chân đất, quần áo tả tơi!..
Nhưng điều đau khổ nhất không phải do lao động mà do họ cư xử xấu với nhau. Họ chỉ điểm nhau, trộm cắp của nhau, đánh đập chửi mắng nhau như cơm bữa!...
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ tổ chức học hỏi Kinh Thánh với các tù nhân khác. Nhờ đó, họ khám phá Chúa Giêsu đang sống giữa họ, thông cảm với họ, vì Người đã từng chịu đói khát, phản bội, đòn vọt đến chết và chết treo trên khổ giá. Từ đó họ không còn chỉ điểm nhau, thù ghét nhau. Họ hoán cải rõ rệt và bắt đầu cầu nguyện cho nhau. Cả trại biến đổi lạ thường. Không còn tiếng than van oán trách mà chỉ còn lời ca tiếng hát vui vẻ, mặc dầu vẫn phải lao lực cực khổ hằng ngày.
Suy niệm 10: Nước Thiên Chúa sẽ giải phóng mọi người
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đây là 2 dụ ngôn mà các chuyên viên gọi là những dụ ngôn sinh đôi, nghĩa là cùng một ý nghĩa.
- Hai hình ảnh: hạt cải được gieo xuống vườn, nắm men được vùi vào thúng bột.
- Những chi tiết có ý nghĩa:
a/ Nhỏ trở thành lớn;
b/ quá trình phát triển tuy âm thầm nhưng chắc chắn.
Những dụ ngôn về Nước Thiên Chúa này được Chúa Giêsu nói liền sau phép lạ chữa một phụ nữ còng lưng (Lc 13,10-21) nên cũng có liên hệ với nhau: Hiện tại xem ra Nước Thiên Chúa còn quá nhỏ bé, nhưng vì nó có sức phát triển nội tại nên chắc chắn sau này nó sẽ lớn mạnh. Việc giải thoát một người con cháu Abraham hôm nay là dấu chỉ cho việc Nước Thiên Chúa sẽ giải phóng tất cả mọi người sau này.
B.... nẩy mầm.
1. “Chúng ta chỉ nghe cây rừng đổ ngã mà không nghe được tiếng thì thầm của những mầm non đang mọc lên. Chúng ta tính toán dựa trên những con số mà không thẩm định dựa trên phẩm chất (...) Chúa Giêsu dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng. Nhưng Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Các tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng. Nhưng đó đã là sức mạnh nhào nắn Giáo Hội từ 2000 năm qua” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Tuy nhiên ta phải nhớ rằng hạt cải không tự động nẩy mầm, nắm men không tự động làm bột dậy lên. Muốn sinh hiệu quả, hạt cải phải được “gieo xuống” lòng đất và nắm men phải được “vùi vào” thúng bột.
3. 1 Cr 3,6: Phaolô nói “Tôi trồng. Apollo tưới. Nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên”.
4. “Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được”. (Lc 13,19)
Có anh thanh niên nọ được sinh ra trong một gia đình giàu có, sung túc chẳng thiếu thứ gì, nhưng anh vẫn cảm thấy buồn và cuộc sống dường như tẻ nhạt. Một hôm anh ta bắt gặp ngay đoạn Tin Mừng: “Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, rửa chân cho Phêrô, Giuđa,... “ và anh đã đọc được Lời Chúa nhắc bảo: “Các con hãy rửa chân cho nhau”. Chính hình ảnh ấy và câu nói đó đã thôi thúc anh ra đi phục vụ cho người khác. Anh xin tới những vùng xa xôi, những trại tỵ nạn để phục vụ. và chính lúc phục vụ anh đã tìm thấy niềm vui và cản thấy đời đáng sống hơn. Cuối cùng anh ta đã xin gia nhập đạo.
Lạy Chúa Giêsu, một khi con được Chúa cho thấm nhuần đời sống Tin Mừng thì con sẽ làm được những chuyện phi thường. Nguyện xin Chúa cho con biết đón nhận và sống lời Chúa. (Hosanna)
25/10 Đừng giả hình
- Viết bởi Lc 13, 10-17
Đừng giả hình.
Thứ Hai tuần 30 thường niên.
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Lời Chúa: Lc 13, 10-17
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?" Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đứng thẳng được
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người,
có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét.
Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn.
Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn.
Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp.
Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu.
Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11).
Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn.
Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao.
Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn.
Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng.
Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà.
Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).
Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng.
“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.”
Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ.
Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương.
Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được.
Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực.
Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13).
Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16).
Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15),
mà là trói buộc bằng xiềng xích.
Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà,
để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường.
Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật.
Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do.
Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng,
nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua.
Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài,
nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình.
Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn…
Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được,
không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình.
Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.
Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc.
Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục.
Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng,
với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet,
với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ?
Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt,
nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen
Suy niệm 2: Giê-su giải thoát
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đời sống con người bị nhiều thứ trói buộc khiến ta trở thành nô lệ. Trong đó có ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ta không thể tự cứu mình. Nhờ Chúa Giê-su ta được giải thoát.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ ma quỉ. Xa-tan là một ách nô lệ thống trị. Người phụ nữ này bị trói buộc 18 năm rồi. Nhưng không thể thoát ra. Chúa đến. Chúa là sức mạnh vô biên. Xua đuổi ma quỉ. Giải thoát để người phụ nữ trở thành con Thiên Chúa
Chúa giải thoát khỏi nô lệ xác thịt thế gian. Người phụ nữ bị tật còng lưng. Bị trói buộc khom lưng cúi đầu. Bị ràng buộc vào mặt đất. Không vươn lên trời cao được. Phải cúi đầu trước sự dữ. Chúa giải thoát. Để bà có thể mở rộng tầm mắt nhìn lên trời xanh. Để đứng thẳng hiên ngang tràn đầy phẩm giá.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ lề luật. Nô lệ lề luật tạo nên một tôn giáo phi nhân. Có thể cởi dây cho thú vật. Mà không dám cởi trói cho con người. Chúa đem đến một tôn giáo mới. Tự do phóng khoáng. Tràn đầy tình thương. Nâng cao con người.
Trong Người ta trở thành con Thiên Chúa. Không còn là nô lệ. Nhưng được tự do. Được gọi Thiên Chúa là “Abba”. “Anh em không lãnh nhận Thần KHí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử”. Vì thế sống đạo không còn phải là nô lệ lề luật. Nhưng là sống mối tình cha – con với Thiên Chúa. Tự do nhưng yêu thương và hiếu thảo. Như thế ta không còn sống theo xác thịt. Nhưng sống theo Thần Khí. Ta sẽ nên sung mãn. Vì được đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Thừa kế di sản vô cùng phong phú, vô cùng quí giá trên thiên đàng (năm lẻ).
Trong Người ta trở thành anh em với nhau. Vì thế phải “đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” (năm chẵn).
Hôm nay thế giới còn bị nhiều trói buộc. Xin Chúa giải thoát ta khỏi mọi nô lệ. Nô lệ thần tượng. Dục vọng. Tội lỗi. Ý riêng. Tự ái. Quan niệm. Đó là những gánh nặng kéo ta cúi xuống. Không đứng thẳng lên được.
Xin giải thoát con. Để con đến với Chúa trong tự do. Trong tình con thảo. Và đến với anh em trong tình huynh đệ. Đạo trở thành gia đình yêu thương. Luật trở thành tình yêu tự do. Người trở nên cao cả. Vì phẩm giá lớn lao.
Suy niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: "Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần".
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: "Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này". Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: "Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi".
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: "Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua".
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: "Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống".
Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: "Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ". Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Ngọn Lửa Nội Tâm
Thế vận hội năm 2000 dành cho những người khuyết tật đã kết thúc một cách tốt đẹp tại Sydney, Australia. Buổi lễ khai mạc hôm tối thứ Tư 18/10/2000 vẫn là biến cố được theo dõi nhiều nhất. Khi nữ lực sĩ ngồi xe lăn người Úc là cô Louis Xaviest châm ngọn đuốc vào vạc dầu nhỏ đặt giữa sân vận động, đám đông khán giả ngồi chật trong vận động trường đã đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng. Louis Xaviest được chọn để châm ngọn lửa khai mạc thế vận hội gồm hơn bốn ngàn lực sĩ khuyết tật của một trăm hai mươi chín phái đoàn tham dự; ngọn lửa soi rọi vào tất cả mọi thành tích của những lực sĩ mà không gì có thể ngăn cản nổi quyết tâm thi đua của họ. Ðiểm xúc động nhất đối với mỗi người dĩ nhiên là hình ảnh của những con người ra sức chống chọi với mọi nghịch cảnh để thắng vượt chính mình.
Ngọn lửa nội tâm, chủ đề của đêm khai mạc thế vận hội dành cho người khuyết tật đã nói lên được tấm lòng hăng say và nhiệt tâm vươn lên ấy. Nét rạng rỡ hân hoan và đầy hưng phấn của hàng ngàn lực sĩ khuyết tật đã thể hiện được ý nghĩa của thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vừa qua, đó là sự chiến thắng của ý chí con người.
Sự chiến thắng của ý chí con người chính là sứ điệp mà thế vận hội dành cho người khuyết tật muốn gởi đến cho thế giới. Nhưng cùng với sứ điệp ấy thế giới cũng đón nhận được một thông điệp khác không kém quan trọng, đó là sự tôn trọng và sự yêu mến cần phải có đối với người khuyết tật. Hàng ngàn lực sĩ được may mắn có mặt trong kỳ thi thế vận hội dành cho người khuyết tật là đại biểu của vô số những người khuyết tật trên khắp thế giới. Họ có thể là những người phải mang thương tật vì tai nạn. Nhưng có biết bao nhiêu người khuyết tật là nạn nhân của chính sự độc ác của con người, và nhất là đang đau khổ vì chính thái độ kỳ thị và dửng dưng của người đồng loại.
Tôn trọng và yêu thương những người anh chị em khuyết tật. Ðây là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng đào sâu và sống. Chúa Giêsu luôn dành ưu ái cho những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ðể đến với những người này, Ngài sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản. Trong Tin Mừng hôm nay, để chữa bệnh cho một người phụ nữ bị còng lưng, Ngài đã vượt qua một trong những thứ rào cản gai góc nhất đối với người Do Thái là những cấm kỵ của ngày hưu lễ. Nhiều người Do Thái mà ông trưởng hội đường là điển hình nại đến những cấm kỵ của ngày hưu lễ để bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã vạch mặt chỉ tên những kẻ đạo đức giả. Ðạo đức giả là bởi vì họ vẫn lén lút làm việc xấu trong ngày hưu lễ nhưng lại ngăn cản không cho người khác được làm việc thiện trong ngày này.
Ðối với Chúa Giêsu, Lề Luật được làm ra vì và cho con người, chính vì thế mà Ngài đã khẳng định Lề Luật và sách các ngôn sứ đều qui về một mối duy nhất là yêu người. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản để đến với con người. Ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta bước theo Ngài, sẵn sàng vượt qua mọi chướng ngại và đạp rào cản trong cuộc sống để tìm đến với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống do luật pháp và truyền thống của con người dựng lên nhưng cũng có vô số những rào cản do chính chúng ta dựng lên ngay trong tâm hồn và trong ánh mắt của chúng ta. Những rào cản đó là lòng hận thù, sự ích kỷ và nhất là thái độ dửng dưng của chúng ta trước nỗi khổ đau của người khác.
Nguyện xin Ðấng đã đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người và trở nên mọi sự cho mọi người, xóa bỏ mọi thứ rào cản trong tâm hồn chúng ta để chúng ta bước đi bước trước, tới với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Ngày Sabát, Ngày Làm Vinh Danh Chúa
Ngày sa bát Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” (Lc. 13, 10-12)
Theo sách Thứ luật của Cựu ước, việc thánh hóa ngày thứ bảy (ngày Sa-bát) như là ngày của Chúa, để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng dân Do thái khỏi nô lệ Ai cập. Ngày thứ bảy là dấu chỉ ngày dân Chúa được tự do. Tuy nhiên, nó đã trở thành ngày dân Do thái bị ràng buộc bởi rất nhiều giới luật cấm đoán hơn những ngày khác.
Đức Giêsu muốn phục hưng ý nghĩa chân thực của ngày Sa-bát, nó phải trở nên ngày con người thực hiện nhân phẩm và tự do của con cái Thiên Chúa và làm sáng danh Ngài.
Ngày giải phóng
Đức Giêsu đã chọn một dấu chỉ thế này: một người đàn bà bị quỷ ám từ mười tám năm, quỷ ngăn cản bà nhìn lên Thiên Chúa, hướng về trời, vì nó bắt bà phải còng lưng hẳn xuống, không thể nào đứng thẳng lên được. Bà không ngừng hy vọng được chữa lành, nhưng mọi phương thuốc loài người đều vô hiệu, không thể giải phóng bà khỏi tật gù lưng. Biết được nguyện vọng của bà, Đức Giêsu kêu gọi bà lại, đuổi quỷ ra, và đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa. Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày Sa-bát, ông đã lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh vào những ngày đó, đừng đến xin vào ngày Sa-bát”.
Đức Giêsu đáp lại: “Thế ngày Sa-bát, ai trong các ngươi lại không cởi giây, dắt bò lừa rời khỏi máng cỏ đi xuống nước? Còn bà này là con cháu Áp-ra-ham, là con cái Thiên Chúa, bị sa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?”.
Ngày Sa-bát chính là ngày của Chúa đã giải phóng dân khỏi nô lệ thì bây giờ Ngài đã dùng quyền năng và lòng thương xót của Ngài mà cứu chữa bà này khỏi nô lệ sa-tan. Còn việc nào làm vinh danh Chúa hơn trong ngày Sa-bát, bằng việc chặt đứt cái giây buộc trói bà và cho bà thứ nước đức tin mà bà hằng cầu xin.
Ngày tạ ơn Thiên Chúa
Ngày Sa-bát là ngày tôn thờ, vâng phục Đấng toàn năng sáng tạo và ngợi khen cảm phục trước những công trình vĩ đại của Ngài, người đàn bà được giải thoát bắt đầu tôn vinh Thiên Chúa. “Còn dân chúng vui mừng vì những việc lạ lùng của Chúa”.
RC
Suy niệm 6: Đừng vì luật mà bất nhân với anh em
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: vào một buổi chiều nọ tại một làng quê, người ta đem một người chết đi chôn. Trong khi chuẩn bị hạ huyệt, người nhà nghe thấy có tiếng động trong quan tài? Ngay lập tức, họ báo cho mọi người biết! Vì thế, người chủ sự lễ nghi truyền cho những người khiêng quan tài dừng lại và mở nắp quan tài ra. Mọi người ngỡ ngàng, xôn xao và sợ hãi vì thấy người chết ngồi dạy! Tuy nhiên, vị chủ sự nói với người trong quan tài rằng: “Thưa ông, theo nguyên tắc, việc ông chết đã được thông báo và chúng tôi đã có giấy báo tử của ông trong tay. Vì thế, cứ chiếu theo nguyên tắc, ông phải được chôn xuống. Vì thế, ông vui lòng để chúng tôi thi hành bổn phận”. Dứt lời, vị trưởng nghi truyền cho mọi người đóng nắp quan tài lại và tiếp tục lễ nghi, mặc cho lời van xin của người trong quan tài!
Trên đây chỉ là câu chuyện giả tưởng nhằm phê phán những người sống hình thức, vụ luật, bất nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích rất nặng lời với những người sống vụ luật và bất nhân đối với người khác.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu chữa người đàn bà bị quỷ ám làm cho khòm lưng đã 18 năm vào đúng ngày Sabát. Thấy vậy, ông trưởng hội đường xem ra có vẻ khó chịu vì Đức Giêsu đã vi phạm luật ngày Sabát. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng nói: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabát, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabát sao?". Qua câu hỏi đó, Đức Giêsu mặc cho luật một tinh thần mới, đó là: yêu thương, liên đới và tha thứ. Đây chính là cốt lõi của luật. Luật mà không có tình yêu lồng vào thì đó là luật chết, vì nó giết chết con người cách khủng khiếp nhất.
Ngày nay, vẫn có nhiều người xem ra rất đạo đức như: đọc kinh, xem lễ hằng ngày; lần hạt thì hết chuỗi này đến chuỗi khác. Điều này rất tốt và ích lợi cho đời sống thiêng liêng nếu người đó biết thực hành những điều Chúa và Giáo Hội dạy ngang qua những việc đạo đức đó, tức là “Lời nói đi đôi với việc làm”.
Nhưng chớ trêu thay, vẫn còn đó những cái xác không hồn khi không biết sống yêu thương, không có tấm lòng bác ái, nhân từ, vẫn sống man trá, lọc lừa nhân danh thứ đạo đức dởm bề ngoài. Lại có nhiều người đi lễ đâu phải vì lòng mến Chúa, mà chủ yếu là khoe mẽ quần là áo lượt! Vì thế, khi thấy cha giảng hơi dài một chút là khó chịu, bực tức, hoặc khi cha dẫn giải Lời Chúa mà đụng chạm đến lòng tự ái của mình là đùng đùng nổi giận và chỉ trích cha thế này, cha thế kia...! Tệ hơn nữa là đi lễ chỉ vì luật, nên không thiếu gì những bạn trẻ đi lễ “ôm” hay thuộc đạo “gốc”; đạo “ngắm”; đạo “dòng”!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần thoát ra khỏi những kiểu giữ đạo vì sợ điều này điều kia. Hay đi lễ nhà thờ chỉ vì thói quen, hoặc muốn chứng tỏ rằng mình đạo đức hơn người. Lời Chúa thôi thúc chúng ta rằng: khi giữ những luật lệ của đạo là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần mặc cho nó một tình yêu. Nếu có tình yêu, chúng ta sẽ mến Chúa, yêu anh chị em mình cách chân tình. Luôn muốn và làm điều tốt nhất cho anh chị em chúng ta. Không còn chuyện bè phái, lươn lẹo, lật lường, nhưng ngay thẳng, chân thành và thánh thiện. Chỉ khi làm được chuyện đó, chúng ta mới thấy được luật của Chúa là luật làm cho con người được hạnh phúc, bình an và hoan lạc thực sự. Nếu không thì chỉ là chiếc xiềng quá nặng mà chúng ta vẫn cố đeo trên cổ đến nỗi bò lê lết để mang nó hằng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con yêu mến Luật Chúa; đồng thời, xin cũng cho chúng con biết đem luật yêu thương của Chúa ra thực hành trong cuộc sống nơi các mối tương quan. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Không giữ luật lệ cách máy móc
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lòng nhân từ bao dung của Chúa không bị giới hạn bởi những luật lệ. Chúa dạy ta không được tuân giữ luật lệ một cách máy móc, nhưng trên hết, phải có lòng thương xót.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ông trưởng hội đường đã quá chú trọng tới việc tuân giữ lề luật, đến nỗi đã chống đối Chúa, không chấp nhận việc chữa bệnh trong ngày lễ nghỉ. Người ta an tâm cứu một con vật, mà lại để cho một người bệnh suốt mười tám năm phải tiếp tục đau khổ. Quả là nghịch lý và giả hình, vì hóa ra họ xem mạng sống con vật quý trọng hơn sự sống con người. Lạy Chúa, Chúa lên án họ, nhưng đồng thời cũng đang lên án chính con.
Biết bao lần, con đã cố gắng chu toàn mọi thứ lề luật, nhưng lại dửng dưng với những nỗi đau khổ của anh chị em chung quanh. Có thể con đã hết lòng bảo vệ luật Chúa nhưng lại thờ ơ lãnh đạm với nhau. Con cố gắng không gây phiền hà ai, không làm mất lòng ai, không cậy nhờ đến ai, với mục đích là cũng đừng ai làm phiền tới con. Con đã từng khó chịu khi phải giúp đỡ ai việc gì, hoặc là khi họ cần đến con.
Lạy Chúa, xin thương ban cho con một trái tim biết yêu mến, biết thương xót và quảng đại, xin giúp con từ nay biết giữ luật với tất cả lòng yêu mến. Xin dạy con biết đối xử với anh em bằng tình thương chân thành. Xin cho con một quả tim bén nhạy để kịp thời nhận ra những thiếu thốn, những nỗi đau khổ nơi anh em con. Xin cho con mau mắn tỏ lòng thương xót anh em và đừng khi nào bỏ qua một dịp sống bác ái. Amen.
Ghi nhớ: “Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao ?”
Suy niệm 8: Ý nghĩa của luật Chúa: vì yêu mến
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhà chú giải Tin Mừng Barclay kể một câu chuyện như sau: Có một người Hồi giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để giành quyền kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút đao chém một nhát khiến người kia bị thương rồi người kia vội vàng bỏ chạy. Người Hồi giáo liền tiếp tục truy đuổi quyết tâm tiêu diệt tình địch bằng được. Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì bỗng nghe thấy một hồi chuông báo giờ cầu kinh ban chiều, hắn ta lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo bên mình, quỳ hướng về thủ đô Mécca đọc bài kinh chiều thật mau, rồi lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi!!!
Suy niệm
Chúa Giêsu đã khẳng định Ngài không đến để phá bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn (x. Mt 5,17-18), làm cho luật được trọn nghĩa, là đem cho Lề Luật một ý nghĩa tích cực, một nội dung tình yêu. Chúa không chấp nhận giữ luật theo nghĩa đen và câu nệ vào hình thức hơn nội dung. Nhất là giữ luật mình hơn luật của Thiên Chúa để rồi lỗi giới luật căn bản là công bình yêu thương và lòng tin.
Viên trưởng hội đường giống những người luật sĩ và biệt phái bắt lỗi Chúa Giêsu vi phạm luật nghỉ ngày Sabát (x. Lc 6,7-10) vì Người chữa lành cho người phụ nữ khòm lưng do bị quỷ ám.
Trong lúc họ giữ luật ngày Sabát, tuy nhiên họ vẫn có giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày Sabát: Cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x. Mt 12,11) hay dẫn bò lừa đi uống nước... Như thế, trong ngày Sabát họ tự cho phép cứu, nuôi dưỡng con vật mà lại không cho phép cứu người chị em đang đau khổ vì bệnh tật, vì bị xiềng xích của ma quỷ. Ðức Giêsu buồn và giận vì họ cứng lòng, giữ luật vì hình thức và vụ lợi…
Qua hành động chữa lành người phụ nữ trong ngày Sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương.
Xin Chúa cho chúng con có tâm hồn cao thượng, quảng đại, đó là trọng tâm của việc giữ đạo Chúa, giúp chúng con ý thức được ý nghĩa của luật Chúa và giữ luật vì yêu mến…
Ý lực sống
“Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. (Thánh Irênê)
Suy niệm 9: Phải thực thi bác ái ngày Sabat
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu đã đi rao giảng được một thời gian, có rất đông người theo để nghe Chúa giảng. Hôm nay ngày Sabat, Ngài vào giảng trong hội đường và ở đó Ngài chữa một người đàn bà bị tật khòm lưng đã 18 năm. Vậy mà viên trưởng hội đường lại căm giận Chúa. Nhân dịp này, Chúa dạy bài học: luật giữ ngày nghỉ không quan trọng bằng luật yêu thương. Người Do thái chỉ tìm cách soi mói bắt bẻ, mà không biết cảm thương với người xấu số. Họ dựa vào Thiên Chúa để trách móc người khác. Điều đó cho thấy, họ không biết sống theo tinh thần bao dung, nhân hậu của Chúa.
Chúng ta nên biết: Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho ông Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ Sabat, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Đề rồi, các luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau trước cảnh khổ của người lân cận. Đức Giêsu, Đấng là hiện thân của tình thương, đã nhìn thấy và hiểu rõ cảnh khổ của người phụ nữ bị còng lưng. Ngài đã vượt ra khỏi khung cảnh của luật Maisen, để giải thoát cho một con người. Trong khi đó, ông trưởng hội đường lại có thái độ vụ hình thức, vụ luật, lãnh đạm vô tâm, xem thường nỗi thống khổ của người lân cận. Ông tìm lý do biện hộ cho thái độ thiếu bác ái, thiếu thông cảm của mình nơi luật Maisen. Ông bực tức nói với đám đông: “Đã có sáu ngày phải làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày Sabat”.
Còn Đức Giêsu thì Ngài dành ưu ái cho những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Để đến với những người này, Ngài sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản. Trong Tin mừng hôm nay, để chữa cho một người phụ nữ bị còng lưng, Ngài đã vượt qua một trong những thứ rào cản gai góc nhất đối với người Do thái là những cấm kỵ của ngày hưu lễ. Nhiều người Do thái mà ông trưởng hội đường là điển hình nại đến những cấm kỵ của ngày hưu lễ để bắt bẻ Đức Giêsu, nhưng Ngài đã vạch mặt chỉ tên những kẻ đạo đức giả. Đạo đức giả là bởi vì họ lén lút làm việc xấu trong ngày hưu lễ, nhưng lại ngăn cản không cho người khác được làm việc trong ngày này (Mỗi ngày một tin vui).
Hành động “giải thoát khỏi tật nguyền” của Đức Giêsu dưới cái nhìn của ông trưởng Hội đường là một “việc làm”, nên đã chỉ trích Đức Giêsu cách gián tiếp qua người phụ nữ được chữa lành bệnh tật: “... đừng có đến vào ngày Sabát”. Ngược lại, nếu ông mặc lấy cái nhìn của tình yêu thương con người, thì ông đã có thể biện hộ cho hành động “giải thoát” của Đức Giêsu là hành vì “giúp đỡ người bệnh tật...” mà luật Do thái cho phép làm cả trong ngày Sabát. Việc làm của Đức Giêsu trong ngày Sabát hôm nay muốn dạy người Do thái và chúng ta điều tốt có thể làm cho con người thì đừng để đến ngày mai (5 phút Lời Chúa).
Đối với Đức Giêsu, Lề Luật được làm ra vì và cho con người, chính vì thế mà Ngài đã khẳng định Lề Luật và sách các tiên tri đều quy về một mối duy nhất là yêu người. Vì yêu thương con người Đức Giêsu đã sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản để đến với con người. Ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta bước theo Ngài, sẵn sàng vượt qua mọi chướng ngại và đạp rào cản trong cuộc sống để tìm đến với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên ngoài cuộc sống do luật pháp và truyền thống của con người dựng lên, nhưng cũng có vô số những rào cản do chính chúng ta dựng lên ngay trong tâm hồn và trong ánh mắt của chúng ta. Những rào cản đó là lòng hận thù, sự ích kỷ và nhất là thái độ dửng dưng của chúng ta trước nỗi khổ đau của người khác.
Truyện: Giữ luật cách máy móc
Có một thầy tiến sĩ luật Do thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy Luật sĩ yếu dần dần.
Cuối cùng, người ta phải mời một bác sĩ đến khám. Bác sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước trầm trọng. Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể.
Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy Luật sĩ ấy một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta đã làm gì với số nước ấy.
Cuối cùng, người ta khám phá ra bí mật. Thầy Luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại ít nước để uống.
Suy niệm 10: Ý nghĩa giải phóng của ngày Sabat
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Câu chuyện này cho thấy rõ ý nghĩa giải phóng của ngày Sabat:
Cách chung, Luật Chúa và luật Giáo Hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi trói buộc của tội lỗi và tật xấu.
Cách riêng, luật thánh hóa ngày Sabat (nay đổi thành ngày Chúa nhật) cũng thế. Vậy phải hiểu luật và giữ luật theo tinh thần mới. Còn nếu cứ giữ luật vì luật, thì luật sẽ trở thành xiềng xích và sẽ là cớ cho nhiều lạm dụng bởi những động lực không tốt của con người.
Đã có một tín hữu nọ đi tới một quán ăn, anh biết quán ăn có nhiều món cá lạ, nhưng là ngày thứ sáu buộc phải kiêng thịt mà trong lòng thì lại thích ăn thịt. Vì thế, trước hết anh gọi những món cá mà anh biết chắc chắn chẳng bao giờ có, anh nói:
- Cho tôi đĩa cá sấu, cho tôi đĩa cá voi, cho tôi đĩa cá mập….
Chủ quán trả lời: - Không có! Không có! Không có!
Thế rồi anh tự nhủ:
- Lạy Chúa, Chúa biết cho con, con đã làm hết sức, đó là con đã gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi, con đành phải gọi một tô phở thịt bò tái mà ăn trong ngày thứ sáu kiêng thịt vậy.
Cầu nguyện xong, anh thi hành liền, anh tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để khỏi phải bị lỗi luật Chúa!
2. Ngày Chúa nhật phải là ngày giải phóng. Trong ngày đó tôi phải ca tụng tạ ơn Chúa vì đã giải phóng tôi. Tôi phải quan tâm giải phóng chính mình khỏi mọi thứ xiềng xích xấu xa đang trói buộc mình, và cũng phải quan tâm giải phóng người khác khỏi lao nhọc, buồn khổ.
Việc Chúa chữa người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nằm trong ý nghĩa đó.
Chúa đối xử như vậy nhưng con người thì lại không được như Chúa.
Trong 40 chuyện rất ngắn do Hội Nhà văn xuất bản năm 1994, có một câu chuyện rất ngắn với tựa đề “Tính cách” của tác giả Nguyễn thị Hoài Thanh. Chuyện có nội dung như sau:
Mẹ tôi luôn chai lì trước cán cân cơm áo, nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những giọt nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên ăn theo một cách ngon lành. Có lần cha tôi nói giỡn:
- Coi chừng trôi tivi…
Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi hối hả chạy ra chặn đường em bé bán trứng vịt lộn:
- Mày biến đâu tài thế! Có chui xuống đất rồi cũng gặp tao.
Bà vừa nói vừa dằn mũng trứng đếm lấy để trừ nợ.
- Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm.
Mẹ tôi cười:
- Nhà này cũng đang ốm đây, khỏi bẻm mép.
Con bé chưng hửng lã chã nước mắt nhìn cái mủng không, rồi bưng lên xiêu vẹo bước đi. Cha tôi cám cảnh, rút mùi xoa chấm mắt. Lâu lâu tivi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng vịt bị xiết nợ”. Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.
Chuyện ngắn trên đây có thể là bức tranh sống động hàng ngày. Người ta dành nước mắt cho những vở kịch trong phim ảnh, trên sân khấu hơn là cho những chuyện xảy ra mỗi ngày trước mắt ; người ta xót thương trên môi miệng hơn là bằng những hành vi cụ thể.
Thời Chúa Giêsu, có lẽ những người Pharisêu đã đối xử với người đàn bà trong Tin Mừng hôm nay như thế. Họ nhân danh lề luật, nhất là luật ngày hưu lễ, để biện minh cho thái độ sống ích kỷ của mình.
Một bà đạo đức kia rất có lòng quí mến và tôn trọng các vị tu hành. Bà đã nhận chu cấp cho một đệ tử có chí nguyện từ bỏ cuộc sống trần gian để dấn thân theo con đường tu thân tầm đạo.
Suốt hai mươi năm trường, bà không ngừng chăm lo và khuyến khích vị tu sĩ trẻ gắng công tu trì, tĩnh niệm, chuyên cần để hiểu pháp luật. Trong một khu vườn thanh tịnh âm u, xa khuất mọi tiếng ồn ào cõi thế, bà dựng một tịnh xá để ngày đêm vị tu sĩ chuyên tâm tu luyện.
Hai mươi năm trôi qua, một ngày nọ, người đàn bà đạo đức ấy muốn biết công trình tu thân luyện đức của nhà sư đã đạt tới mức độ nào, bà liền bày ra một cuộc thử thách thật cam go.
Bà nhờ một thiếu nữ xinh đẹp giúp bà trong cuộc thử thách này. Đúng nửa đêm, khi nhà sư đang trầm ngâm trong tĩnh niệm, thiếu nữ liền đẩy cửa tịnh xá tiến vào trước mặt nhà sư và bày trò cám dỗ ông. Đôi mắt nhìn xuống, nét mặt thanh thản, nhà sư vẫn bất động.
Nhưng sau một hồi lâu như không thể cầm mình được nữa, nhà sư liền nắm cây chổi quất lia lịa vào người thiếu nữ và xua đuổi nàng ra khỏi tịnh xá.
Khi nghe nàng kể lại sự kiện, người đàn bà đạo đức buồn rầu hỏi nàng:
- Thế ra hắn không nói với con được một lời cảm thông ư ? Hắn không tỏ dấu gì một tâm hồn đã siêu thoát và tự chủ ư ?
Rồi bà thất vọng thốt lên: - Ôi, hai mươi năm trường tu luyện, thật vô ích! Hai mươi năm ân cần săn sóc và mong đợi của ta, thật uổng phí!
Suy niệm 11: Ý nghĩa giải phóng của ngày sabát
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Câu chuyện này cho thấy rõ ý nghĩa giải phóng của ngày sabát:
- Đương sự là một người bị bệnh đến nỗi khòm lưng suốt 18 năm,
- mắt không thể nhìn lên được.
- Chính Chúa Giêsu nói bà đã bị xiềng xích trói buộc.
Việc chữa bệnh cũng là việc giải phóng:
- Chúa Giêsu nói bà là con cái của Abraham.
- Ngài coi việc chữa bệnh là “tháo xiềng” cho bà.
- Bà đã đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Cách chung, Luật Chúa và luật Giáo Hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi trói buộc của tội lỗi và tật xấu. Cách riêng, luật thánh hóa ngày sabát (nay đổi thành ngày Chúa nhật) cũng thế. Tuy nhiên, một cách hiểu luật và giữ luật hoàn toàn vụ luật khiến cho luật trở thành xiềng xích và con người thành nô lệ.
2. Truyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kì diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kì diệu ở chỗ: nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là lề luật của Chúa. (Góp nhặt)
3. Chứng bệnh của bà này cũng tượng trưng cho tội lỗi, cho nên thánh Luca nói bà này “bị quỷ ám”. Tội lỗi làm cho người ta “bị khòm lưng” và “không trông lên được.”
Xin Chúa hãy “nhìn thấy” hoàn cảnh khốn khổ của con vì tội lỗi, xin Chúa “đặt tay” lên con, làm cho con “đứng thẳng” và nhìn lên cao để tôn vinh Thiên Chúa.
4. Ngày Chúa nhựt là ngày giải phóng. Trong ngày đó tôi phải ca tụng tạ ơn Chúa vì đã giải phóng tôi, tôi phải quan tâm giải phóng chính mình khỏi mọi thứ xiềng xích xấu xa đang trói buộc mình, và cũng phải quan tâm giải phóng người khác khỏi lao nhọc, buồn khổ.
5. Truyện rất ngắn với tựa đề “Tính cách” của tác giả Nguyễn thị Hoài Thanh đăng trong 40 truyện rất ngắn do Hội Nhà văn xuất bản năm 1994 có nội dung như sau:
Mẹ tôi luôn chai lì trước cán cân cơm áo, nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên ăn theo một cách ngon lành. Có lần cha tôi nói giỡn: “Coi chừng trôi tivi”…
Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi hớn háo phớt ra chặn đường em bé bán trứng vịt lộn: “Mày biến đâu tài thế ! Có chui xuống đất rồi cũng gặp tao”.
Bà vừa nói vừa dằn mũng trứng đếm lấy trừ nợ.
“Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm”.
Mẹ tôi cười: “Nhà này cũng đang ốm đây, khỏi bẻm mép”.
Con bé chưng hửng lã chã nước mắt nhìn cái mủng không, rồi bưng lên xiêu vẹo bước đi.
Cha tôi cám cảnh, rút mùi xoa chấm mắt. Lâu lâu tivi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng vịt bị xiết nợ”. Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.
Truyện ngắn trên đây có thể là bức tranh sống động hàng ngày. Người ta dành nước mắt cho những vở kịch trong phim ảnh, trên sân khấu hơn là cho những chuyện xảy ra mỗi ngày trước mắt; người ta xót thương trên môi miệng hơn là bằng những hành vi cụ thể.
Thời Chúa Giêsu, có lẽ những người biệt phái cũng có một tính cách như thế. Họ nhân danh lề luật, nhất là luật ngày hưu lễ, để biện minh cho thái độ sống ích kỷ của mình. ("Mỗi ngày một tin vui")