Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
23/11 Gắn bó với Chúa từng giây phút
- Viết bởi Lc 21, 5-11
Gắn bó với Chúa từng giây phút.
Thứ Ba tuần 34 thường niên.
"Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào".
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Không còn hòn đá nào
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái yêu mến, gắn bó và hãnh diện về đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lộng lẫy nguy nga chưa từng thấy. Uy nghi hoành tráng đến hớp hồn. Nhưng Chúa Giê-su cho biết “những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Chẳng có gì vững bền trên đời. Dù những phiến đá lớn lao vững chãi. Cả thế giới còn bị tiêu huỷ ra tro. Huống hồ một công trình bé nhỏ trên trái đất. Thật đáng sợ ngày kinh hoàng ấy. “Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”. Vì thế phải biết chuẩn bị. Đừng gắn bó với những vẻ đẹp và sức mạnh chóng qua. Càng gắn bó sẽ càng hối tiếc. Hãy chuẩn bị cho ngày kinh hoàng đó.
Sách Khải huyền diễn tả số phận thế giới giống như một vụ mùa. Thời gian Chúa cho phép vũ trụ tồn tại là thời gian gieo hạt, trồng cấy. Cho cây nho, cây lúa mọc lên. Phát triển. Thời gian chấm dứt là thời gian Chúa tiêu huỷ vũ trụ. Lúa và nho đã chín. Cần phải gặt về. Đổ vào bồn ép. Để chịu phán xét. Trong cơn lôi đình khủng khiếp. “Xin tra liềm của Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi”. Trái đất đã chín. Lịch sử đã chín. Con người đã chín. Thời hạn đã chấm dứt. Cẩn thận kẻo bị ép trong bồn ép thịnh nộ (năm chẵn).
Na-bu-cô-đô-nô-sô được ơn thấy thị kiến về vận mệnh của chính mình, của vương quốc và của thế giới. Mọi vương quốc hùng mạnh rồi cũng sẽ tiêu tan. Mọi cố gắng của loài người không vượt qua được số phận. Thời gian nhường chỗ cho đời đời. Hữu hạn nhường bước cho vô hạn. Nhân loại phải tuân phục Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa không ai có thể chống cưỡng được. Đó là điều Đa-ni-en giải nghĩa giấc mơ cho Vua: “Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững; cũng như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới, tảng đá ấy đập tan của sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng” (năm lẻ).
Mọi sự sẽ qua đi. Chỉ Thiên Chúa vĩnh cửu. Thật dại dột khi gắn bó với những gì mau qua. Tôi sẽ mất tất cả. Sẽ buồn phiền. Khôn ngoan là gắn bó với Thiên Chúa. Làm việc cho Nước Trời. Ở trần gian có thể bị thiệt thòi. Nhưng sẽ bền vững trong Chúa, trên trời.
Suy niệm 2: Thời gian chuyển tiếp
Ðối với người Do thái, Ðền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, và là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hằng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Ðền thờ được xây bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian. Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ: cũng như Ðền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi. Trong khoảng thời gian trước ngày Chúa trở lại sẽ có nhiều tai ương khốn khó. Hình ảnh các biến cố thiên nhiên, như động đất, hạn hán, mất mùa, ôn dịch; những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ trên trời, hay hình ảnh chiến tranh, loạn lạc, là những yếu tố trong lối hành văn được các Tiên tri sử dụng để báo trước về ngày chung thẩm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các biến cố đó không phải chỉ là những hình ảnh, mà là sự thật; chúng cũng tác dụng như một nhắc nhở con người ý thức bản chất thụ tạo yếu đuối và mỏng dòn của mình, đồng thời soi sáng cho con người biết chiều kích về ơn gọi siêu việt của mình là sống như con cái Thiên Chúa và trung thành thực hiện ơn gọi đó, trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào tình thương bao la của Chúa. Xin cho chúng ta hằng gắn bó với Chúa và sống hết tình con thảo từng giây phút đời sống chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Ngôn ngữ khải huyền
Trong thời điểm tuần lễ cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình Suy niệm những đoạn Kinh Thánh trình bày chủ đề cánh chung trong một ngôn ngữ riêng biệt, gọi là ngôn ngữ Khải huyền. Ðoạn Phúc Âm hôm nay là đoạn mở đầu cho những lời dạy của Chúa Giêsu về cánh chung và về việc Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Những người nghe Chúa Giêsu giảng dạy về biến cố này thì xem ra như muốn biết rõ về thời gian, lúc biến cố xảy ra. Nhưng trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Ngài xem ra nhấn mạnh nhiều hơn đến thái độ sống của những đồ đệ của Chúa: phải sống thế nào để có thể đón Chúa ngự đến vào lúc kết thúc lịch sử nhân loại và vũ trụ.
Ngôn ngữ được Chúa Giêsu dùng ở đây là ngôn ngữ Khải huyền, một lối diễn tả đặc biệt thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Việt dịch ra là Khải huyền, có nghĩa là mạc khải, mạc khải điều huyền nhiệm. Mọi chi tiết, mọi sự cố diễn ra và được mô tả trong ngôn ngữ Khải huyền đều không nên được chúng ta hiểu theo nghĩa đen, nhưng là một biểu tượng, một hình bóng cho một ý tưởng nào đó. Những biến cố, những tai ương được dùng trong ngôn ngữ Khải huyền muốn nói lên cho chúng ta biết vũ trụ, thế giới chúng ta đang sống không tồn tại đời đời mãi mãi, nhưng sẽ đi đến một lúc kết thúc và cuộc đời mỗi người chúng ta cũng như toàn thể nhân loại cũng sẽ đến lúc kết thúc, và giây phút kết thúc cuối cùng đó, là giây phút Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi cho con người, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu của ngôn ngữ Khải huyền không phải là để làm cho người ta lo sợ, lo sợ tận thế, lo sợ cái chết, nhưng như là một lời kêu gọi, một lời thức tỉnh, thôi thúc người ta hãy sống tỉnh thức một cách tích cực để lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa. Ðó là những lời của niềm hy vọng. Hy vọng một cuộc biến đổi hoàn toàn và đầy vinh quang của con người cũng như của thế giới. Một niềm hy vọng về trời mới và đất mới, nơi công bằng và hòa bình của Thiên Chúa ngự trị. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giây phút Chúa ngự đến trong vinh quang, mỗi người đồ đệ Chúa cần sống giây phút hiện tại một cách can đảm, kiên trì giữa những thử thách xảy đến, và nhất là cần sống gắn bó mạnh mẽ, kết hiệp mật thiết với Chúa để vượt thắng được những cám dỗ chối bỏ Chúa mà chạy theo những vị tiên tri giả, những chúa kitô giả, những kẻ tự phụ muốn thay thế chỗ của Chúa nơi tâm hồn con người, những kẻ mạo danh Chúa để lường gạt và hưởng lợi. Mỗi người chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến, để có thể khám phá ra Chúa đang ngự đến hàng ngày trong mọi biến cố lớn nhỏ, để cứu rỗi chúng ta vì Ngày yêu thương chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là chủ của vũ trụ và lịch sử, vì Chúa hiện diện trong chúng con và trong thế giới, trong những nỗi lo âu cũng như những nỗi vui mừng và hy vọng của chúng con. Xin thương giúp chúng con biết chăm chú, biết lắng nghe lời Chúa dạy và khám phá Chúa hiện vẫn đang ở với chúng con mỗi ngày mỗi lúc nơi người anh chị em đang cần được giúp đỡ, cần được yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Đền thờ sụp đổ
Nhân có mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc. 21, 5-6)
Đoạn Tin mừng này khá phức tạp: hai phần không liên hệ với nhau. Trong đoạn đầu, Đức Giêsu loan báo sự tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn hai, người ta đặt câu hỏi mong Người trả lời: “Bao giờ xảy ra và có điềm gì báo trước?”. Nhưng Người không trả lời như họ mong muốn, Người lại nói đến những điềm báo về ngày tận thế. Chúng ta nhận xét vài điều liên hệ tới đền thờ sụp đổ.
Hai kiểu giải thích:
Tại sao đền thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá? Tại sao Đức Giêsu nói tiên tri “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” của lâu đài tráng lệ này được người Do thái tôn kính?
Đức Giêsu đã giải thích hai lần về vấn đề này. Trong Luca đoạn 19, 44 Người coi biến cố này là một hình phạt đổ xuống dân thành vì họ không nhận ra Đấng Thiên sai Cứu thế của Thiên Chúa. Lần thứ hai, trong Tin mừng theo thánh Gio-an đoạn 2, 19-22 giải thích sâu sắc hơn ẩn chứa một chút mầu nhiệm: “Hãy phá đền thờ này, và trong ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu muốn cho hiểu rằng: Đã đến thời Thiên Chúa ngự ở khắp mọi nơi và tỏ mình ra không chỉ ở đền thờ. Người quả quyết rằng đền thờ phải biến đi để Ngài hiện rõ ràng trước hết và trên hết trong chính Con Người của Con Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu phục sinh là đền thờ, đền thờ mới và duy nhất. Ngày phục sinh là ngày đền thờ Giê-ru-sa-lem suy tàn đi, biến đi.
Con người là đền thờ Thiên Chúa.
Thánh tông đồ Phao-lô đã bổ túc tư tưởng của Đức Giêsu khi giải thích: Mỗi Kitô hữu và toàn bộ mọi Kitô hữu hình thành Giáo hội, là đền thờ mới để Thiên Chúa ngự. Chúng ta có thể nói mà không nghịch lại với tư tưởng của thánh Phao-lô rằng: Thực sự chính trong con tim của bất cứ người nào đều là nơi Thiên Chúa ngự.
Nếu quả thật như vậy, chính trong con tim mỗi người phải đi tìm Thiên Chúa trước hết. Ai không gặp được Thiên Chúa ở với mọi người thì họ không gặp được Ngài bao giờ.
R.C
Suy niệm 5: Ngày phân biệt
Một công trình hoành tráng, nguy nga, hùng vĩ được xây dựng lên để thách đố với thời gian, khẳng định với thời đại, đó chính là thành thánh Giêrusalem. Quả thật, đây là công trình thế kỷ; là niềm tự hào, hãnh diện của người Dothái... Tuy nhiên, công trình này rồi cũng như hoa kia sớm nở tối tàn mà thôi. Dù nguy nga, đồ sộ cỡ nào thì trước mặt Chúa cũng chỉ là phù vân!
Quả thật, sự kiện năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, quân đội Rôma đã phá đổ tan tành, không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào, và nó đã thành biển lửa và máu. Ngày nay, người ta chỉ còn biết đến nó như là một sự kiện của lịch sử hay như một kỷ niệm buồn tủi với nước mắt...
Hình ảnh thành thánh Giêrusalem bị tàn phá là tiền đề để giúp cho chúng ta cảm thấy trước sự kinh hoàng, ghê rợn trong ngày chung cuộc của con người và thế giới. Ngày đó đến với các điềm báo trước như: hạn hán, mất mùa, bệnh dịch, những điềm lạ xuất hiện trên trời như: kinh thiên, động địa, hay chiến tranh tàn phá và loạn lạc... Ngày đó là ngày phán xét, ngày phân biệt tốt và xấu; thiện và ác; chiên và dê; lúa và cỏ lùng; cá tốt và cá xấu...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Nước Trời như một điểm đến của chúng ta. Cần nhạy bén với các dấu chỉ thời đại, hầu thay đổi cuộc sống để trở nên tốt hơn. Cần tránh cho xa những điều bất chính và mặc lấy thái độ của những người sống trong ân sủng. Suy nghĩ, hành động tốt để ngày Chúa đến với chúng ta là một ngày tràn ngập vui mừng. Chớ dại mà bám víu vào những thứ tưởng chừng sẽ tồn tại trong cuộc sống như: vật chất, chức quyền, danh vọng; hay những thú ăn chơi, đàn điếm, cờ bạc mà quên đi mục đích tối hậu của mình.
Chỉ có Lời Chúa là tồn tại và là Lời Hằng Sống có sức biến đổi cũng như cứu vãn chúng ta khi chúng ta lắng nghe và thực hành mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Xin ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Sự sụp đổ của thành Giêrusalem
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi chỉ trích các luật sĩ và đề cao cử chỉ quảng đại của bà góa, Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi Đền thờ về phía núi Cây Dầu. Từ nơi này nhìn thấy Đền thờ Giêrusalem đồ sộ nguy nga và kiên cố, các môn đệ tấm tắc khen ngợi và có cảm nghĩ Đền thờ bền vững đến muôn đời, nhưng Đức Giêsu lại báo trước sự sụp đổ của thành Giêrusalem, viễn cảnh của ngày tận thế. Dân Israel không tin và không chấp nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Họ dễ dàng nghe theo những lời giáo huấn của những kẻ giả hình, những kẻ mạo danh Ngài. Đức Giêsu dạy phải tỉnh thức chờ đợi Ngài. Đồng thời cũng báo trước sẽ có những biến cố lớn lao xẩy ra trước ngày tận thế.
2. Trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay là Đức Giêsu loan báo việc Đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá và liên kết với việc tàn phá Đền thờ, Đức Giêsu nói về ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời đại bị bách hại. Nhưng đừng sợ, hãy kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ làm cho các tín hữu chiến thắng trong thời kỳ sau cùng với điều kiện họ phải luôn bền đỗ.
3. Hình ảnh Đến thờ Giêrusalem được Hêrôđê Cả cho tái thiết lại trang hoàng lộng lẫy và lóng lánh ngọc thạch. Mọi người tự hào và trầm trồ khen ngợi. Nhưng đúng như những gì Tin Mừng loan báo, thành Giêrusalem đã bị tướng Titus của Rôma phóng hỏa và bình địa xóa sổ vào năm 70 và dân Do thái tản mác khắp nơi trên địa cầu. Với cách diễn tả của các tác giả Tin Mừng, các ngài thường liên tưởng đến biến cố Giêrusalem và biến cố cánh chung. Và rồi, bao nhiêu công trình mà con người tự hào và khen ngợi, từ công trình khoa học kỹ thuật đến các công trình kiến trúc... rồi sẽ trở thành tro bụi khi ngày tận thế đến (Mỗi ngày một tin vui).
4. Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu báo trước sự kiện Giêrusalem sẽ bị tàn phá; đồng thời cũng tiên báo về ngày cánh chung, về tận củng cũa vũ trụ này. Theo lẽ thường cái gì đã có thủy (điểm khởi đầu), thì cũng sẽ có chung (điểm cuối), “hữu hình hữu hoại”: cái gì xuất hiện hữu hình thì cũng có lúc hình thể đó bị hư hoại đi. Đó là một chân lý, một quy luật chứng nghiệm trong thực tế chứ không phải một cái nhìn bi quan. Nhận định ấy giúp ta tiếp cận thế giới vật chất này cách khôn ngoan, chừng mực hơn, không quá bám víu vào nó, vì mọi vật có ngày rồi sẽ tiêu tan, nay còn mai mất. Khi cảm nghiệm được sự bất tất, mau qua của vạn vật, ta mới thấy được cái giá trị của vĩnh cửu, là thực tại Thiên Chúa đã từng hé lộ cho ta khi Đức Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa: “Trời đất sẽ qua đi nhưng lời Ta sẽ tồn tại mãi”(x.Mt 5,18)(5 phút Lời Chúa).
5. Nói đến ngầy tận thế, xem ra là vấn đề mơ hồ và xa xôi, đưa đến bi quan, nhưng lại là điều có thật. Tuy nhiên, khi nói đến ngày kết thúc cuộc đời mình thì đó là điều chắc chắn và thiết thân. Mỗi người phải lo cho số phận mình, không ai có thể thay thế được. Một lúc nào đó, ngay cả con người chúng ta dù muốn hay không, cái chết cũng đến với chúng ta. Chúng ta sẽ ra đi như chúng ta đã vào đời. Từ trong bóng tối đi ra, chúng ta cũng trở về với bóng tối. Đã một thời không có chúng ta, và cũng sẽ đến thời không ai còn nhắc đến chúng ta nữa. Mỗi ngày có trên 200.000 người chết, mỗi giờ có 10.000 người chết. Hôm nay, ngày mai hay bất cứ lúc nào, tôi cũng sẽ được đếm trong số những người phải ra đi ấy .
6. Nhưng có nhiều người cứ sống như không bao giờ chết, họ sống không mục đích, họ sống cho qua ngày như trên tấm mộ bia của anh chàng Bopp có viết câu: “Đây là nơi yên nghỉ của một người không biết tại sao mình sống”. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong truyện dưới đây: Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sự đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa: “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình nói: “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy”? Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực” (Clifton Gadiman).
7. Truyện: Sắm sẵn hành trang chưa?
Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu hạ. Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai điên rồ hơn nó thì hãy cho.
Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:
- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?
- Ta đi xa lắm.
- Vậy bao giờ quan về? Một tháng nữa chăng?
- Không.
- Một năm à?
- Cũng không.
- Vậy thì bao giờ quan mới về?
- Chẳng bao giờ về được.
- Thế thì trong cuộc man du đó quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?
- Chưa sắm gì hết.
- Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này.
(Ms Lê Văn Thái, Những tia sáng 2, tr 159).
Suy niệm 7: Vấn đề chung kết của lịch sử
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử là: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.
- các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
- câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.
- câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.
B.... nẩy mầm.
1. Mọi công trình con người xây dựng, dù cho kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Giêrusalem... tất cả đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn”; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn? trăng nào không khuyết? ngày nào mà không có đêm? yến tiệc nào không có lúc tàn?”
2. Triết lý Á Đông: “sự vật hễ có hình thì có hoại”.
3. Trong tuần lễ cuối cùng của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc chúng ta hãy suy nghĩ về những vấn đề cuối cùng của đời người: chết, phán xét, số phận đời đời...
4. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?”. Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực”. (Clifton Gadiman).
5. Cả cuộc sống êm ả lẫn cuộc sống bất ổn cũng đều tiềm tàng những thuận lợn và những hiểm nguy cho đời sống thiêng liêng. Vấn đề là làm sao luôn rút được ích lợi ngay giữa hai tình cảnh đối nghịch đó:
- Nếu được sống triền miên trong sự êm ả (vd: sống trong một xã hội sung túc đầy đủ, không bao giờ phải lo chiến tranh hoạn nạn…) người ta sẽ dễ an tâm sống đạo thờ phượng Chúa. - Nhưng cũng dễ rơi vào chỗ coi thường, bất cần đến đạo, bất cần đến Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, mỗi khi dân Chúa li bì trong cảnh thái bình mà đâm ra truỵ lạc, tự mãn, không coi Thiên Chúa ra gì, thì thường xuất hiện vị ngôn sứ loan báo tai hoạ để nhắc nhở dân (gọi là ngôn sứ báo hoạ).
- Ngược lại, nếu luôn phải sống trong phập phồng lo sợ, người ta dễ thấy mạng sống mình mong manh, thấy của cải vật chất không giúp bảo đảm gì nhiều cho mình. Khi đó người ta dễ chạy đến với Chúa. - Nhưng nếu cứ phải sống triền miên trong bất ổn, cuộc đời dễ mất ổn định và khó lòng đạt được những hoa trái của sự bình an. Suy niệm đời ông Gióp giúp ta hiểu rõ hơn.
6. “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6)
Ồ một chiếc bông hồng vừa hé nở đẹp quá! Thế mà chỉ vài ngày sau nó đã tàn úa, vì đó chỉ là những vẻ đẹp chóng qua.
Đền thờ Giêrusalem, một công trình mất đến 40 năm mới hoàn tất, vậy mà Chúa bảo rồi sẽ có ngày bị tàn phá. Giữa những vẻ đẹp nhân tạo, những vẻ đẹp của trần thế chóng qua, Chúa muốn tôi tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Chỉ có vẻ đẹp của tâm hồn, chỉ có sự thánh thiện mới không có gì phá huỷ đ. Vẻ đẹp đó chỉ có thể tô điểm bằng yêu thương và phục vụ.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ, để giữ mãi vẻ đẹp của tâm hồn. (Hosanna)
22/11 Cho Ði Tất Cả
- Viết bởi Lc 21, 1-4
Cho Ði Tất Cả.
Thứ Hai tuần 34 thường niên. – Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".
* Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo Cêcilia, Valêrianô và Tibuốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Kitô giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rôma tên là Cêcilia trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang Calíttô.
Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn mạng.
Lời Chúa: Lc 21, 1-4
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người.
Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Bỏ vào tất cả
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời viết về sự hiền dịu của Đức Kitô.
Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi.
Thầy Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).
Các môn đệ đầu tiên như Simon, Gioan, Giacôbê, Lêvi,
đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).
Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay (c.4)
cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.
Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.
Yêu Ngài bằng tất cả trái tim và tất cả sức lực của mình,
đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa dẫn đến sự sống vĩnh cửu (Lc 10, 27).
Có người tự hỏi nếu bà góa nghèo dâng cho Đền thờ
tất cả số tiền nhỏ nhoi còn lại thì ngày mai bà sống bằng gì.
Bà có phải là người bị đầu độc và bóc lột bởi các kinh sư không,
vì đã có những kinh sư nuốt chửng nhà của các bà góa (Lc 20, 47)?
Đức Giêsu có coi bà góa này như một tấm gương cho ta không?
Khi ngồi nhìn người ta dâng cúng tiền cho Đền thờ,
Đức Giêsu thấy người giàu bỏ tiền, có khi là những món tiền lớn.
Nhưng Ngài cũng thấy một bà góa nghèo bỏ tiền vào thùng.
Một món tiền rất nhỏ, bằng đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
Ngài nói cho các môn đệ nghe về cách đánh giá của Ngài,
cũng là cách đánh giá của Thiên Chúa.
Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn những người giàu.
Vì các môn đệ có thể bị ngỡ ngàng, nên Ngài giải thích cho họ.
Người giàu bỏ vào từ sự dư thừa của họ.
Còn bà góa bỏ vào từ sự túng thiếu của bà (c. 4).
Trao đi một điều đụng chạm đến cuộc sống của mình
thì khó hơn gấp bội,
vì mình phải gánh chịu hậu quả ngay lập tức.
Bà góa ở Xarépta chắc chắn đã gặp khó khăn
khi ngôn sứ Êlia xin bà làm cho ông một cái bánh nhỏ trước đã,
rồi sau đó mới làm cho bà và con bà (1 V 17,13).
Bà đã dám vâng lời dù đang túng thiếu,
dù nhà chỉ còn một nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò.
Cái chết đang đến với mẹ con bà, vậy mà bà đã dám chia sẻ.
Chia sẻ của hai bà góa trên đây đều nằm trong những tình huống
tưởng như không thể chia sẻ được, vì chẳng có gì để chia sẻ.
Chia sẻ cho Chúa hay cho tha nhân lúc ấy, thật là quý biết bao,
vì nó đòi ta ném mình vào sự mất an toàn,
và đồng thời ném mình vào vòng tay quan phòng của Thiên Chúa.
Mọi tính toán kiểu con người biến mất,
để nhường chỗ cho lòng quảng đại vô bờ.
Chắc chắn Thiên Chúa chẳng để cho bà góa nghèo phải chết đói.
Hũ bột không cạn và bình dầu không vơi
vẫn là quà tặng Chúa ban cho bất cứ ai dám trao đi tất cả đời mình,
vì trao đi mà sau đó mình không thấy thiếu thì không thật là trao đi.
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tấm lòng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa có cách đánh giá kỳ lạ. Khác người. Chúa nhìn bề trong chứ không nhìn bề ngoài. Đối với Chúa tâm hồn quan trọng hơn của cải. Tình yêu quan trọng hơn lễ vật. Trật tự của Chúa khác với trật tự trần gian. Ở trần gian ai cũng chú trọng tới những người quyền cao chức trọng, ăn mặc sang trọng, thân hình phương phi, và nhất là dâng cúng nhiều tiền của. Nhưng Chúa lại chú ý tới những người thấp hèn, ăn mặc nghèo nàn, thân hình bé nhỏ, và dâng cúng ít ỏi. Chúa đánh giá cao bà goá dâng hai đồng kẽm. Vì: “Những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, tuy thật túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Như thế tuy bà có ít ỏi. Nhưng tấm lòng của bà thật lớn lao. Bài bị người đời khinh chế. Nhưng bà được đánh giá cao trước mặt Chúa. Bà từ người cuối hết trong trần gian. Trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa không cần của lễ. Chúa cần tấm lòng. Đối với Chúa những tấm lòng quảng đại là cao quí nhất.
Đa-ni-en và ba người bạn có tấm lòng yêu mến Chúa. Các cậu chu toàn lề luật Chúa. Nên chối từ bổng lộc vua ban. Các cậu thà ăn rau cỏ. Không chịu ăn thịt luật đạo cấm. Tâm hồn cao quí đó hiện lên sắc mặt. Nên các cậu khôi ngô tuấn tú hơn những trẻ khác ăn uống theo chế độ vua ban. Còn hơn thế nữa. Chúa thưởng công cho các cậu được trí khôn ngoan, “được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng”. Vua rất yêu thích cho các cậu được ở bên cạnh. “Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thuỷ và pháp sư trong toàn vương quốc”. Các cậu đã trở thành những người xuất sắc hàng đầu. Là hoa trái của quyền năng Chúa. Đó là Chúa thưởng công cho tấm lòng quảng đại của các cậu. Vì yêu mến Chúa mà chấp nhận thiệt thòi (năm lẻ).
Đó là những hình ảnh báo trước Nước Trời. Chịu thiệt thòi ở trần gian. Họ trở thành của lễ đầu mùa khiến Chúa hài lòng. Thánh Gio-an đã nhìn thấy những người được Chúa thưởng công, đi theo hầu cận Con Chiên. Và hát những bài ca mới chỉ có thiên thần mới hiểu được. “Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn người đã được chuộc về từ mặt đất. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên. Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê trách họ được” (năm chẵn). Đó là bài ca của tấm lòng. Chỉ có tấm lòng mới học được. Chỉ có tấm lòng mới hiểu được.
Tôi có tấm lòng không khi sống đạo? Có tấm lòng không đối với Chúa? Và đối với anh em?
Suy niệm 3: Cho Ði Tất Cả
Vào thời xưa cũng như thời này, có những giai tầng bị loại ra bên lề. Họ có thể là những người mắc bệnh không có thuốc chữa, họ có thể là những người nghèo không một xu dính túi. Trong số những người nghèo bị gạt ra bên lề xã hội, có các bà góa; nhất là trong hệ thống tổ chức xã hội xưa kia tại Israel, phụ nữ khi kết hôn phải cắt đứt giây liên hệ với gia đình ruột thịt, và từ lúc chồng chết cũng là lúc mọi tiếp tế vật chất từ nhà chồng bị đình chỉ.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay có thể nói là một người nghèo tuyệt đối. Qua nghĩa cử đơn sơ của bà, Chúa Giêsu đã khám phá ra sự quảng đại cao cả và lòng cậy trông phó thác tuyệt đối của bà vào Thiên Chúa. Mặc dù chỉ đóng góp hai đồng tiền nhỏ có giá trị 1/4 xu, nhưng bà đã cho đi tất cả những gì mình có để nuôi sống; vì thế bà xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi. Tuy nhiên sự kiện và lời khen ngợi này có thể nêu lên hai vấn nạn: thứ nhất, liệu chúng ta phải nghèo về vật chất để được thuộc về Nước Thiên Chúa chăng? thứ hai, liệu người nghèo phải cho đi tất cả, kể cả những nhu yếu phẩm nếu họ muốn được Chúa khen ngợi chăng?
Ðã hẳn trong Tin Mừng, người nghèo được chúc phúc, trong khi theo cách diễn tả của Chúa Giêsu người giầu có khó vào được Nước Trời. Thật ra, người nghèo được gọi là có phúc, không phải vì họ nghèo, cũng như Tin Mừng không bao giờ đề cao sự nghèo khổ, vì sự nghèo túng tự nó không làm cho ai nên thánh, có chăng chỉ những người nghèo biết chấp nhận thân phận của mình để chờ đợi từ người khác và cậy trông phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nói khác đi, cái nghèo vật chất không phải tự nó biến sự túng thiếu thành nguồn ơn phúc, nhưng chính tinh thần nghèo khó, chính ý thức sự lệ thuộc của mình vào người khác, nhất là đặt trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa, mới làm cho những người nghèo trở nên giầu tình người và đậm đà tình Chúa.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay chỉ có hai đồng tiền nhỏ để sinh sống, nhưng bà đã dâng cúng trọn vẹn cho Chúa. Có lẽ bà có được hai đồng tiền đó là do lòng hảo tâm của người khác và bà muốn biểu lộ sự tín thác của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc cho đi tất cả. Vấn đề đáng suy nghĩ là liệu hành động của bà góa nghèo này có giá trị trong xã hội ngày nay, nếu không phải là tạo thêm sự nghi kỵ trong xã hội? Sống trong một xã hội cạnh tranh như hiện nay, còn có một mô thức của xã hội nơi bài giảng trên núi của Chúa Giêsu được đem ra thực hành, để không ai còn bị tiền tài, danh vọng, quyền lực chi phối, nhưng mọi người đều thực hành tình liên đới, yêu thương, chia sẻ. Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, Chúa Giêsu một lần nữa muốn đảo lộn trật tự xã hội, vì Ngài không những kêu gọi sự thay đổi của từng cá nhân, nhưng còn muốn đẩy mạnh tiến trình đổi mới xã hội, nơi mọi người đóng góp tất cả những gì mình có để xây dựng và phục vụ xã hội.
Ðể sống trọn Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có tinh thần nghèo khó để ý thức sự lệ thuộc của tôi vào người khác và vào Thiên Chúa không? Tôi đã và đang làm gì để góp phần xây dựng một xã hội mới. Ước gì mẫu gương của bà góa nghèo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Ðấng trao ban tất cả cho con người, giúp chúng ta mạnh tiến trên con đường xây dựng Nước Chúa giữa lòng xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Người Ðàn Bà Góa
Có rất nhiều câu chuyện về những người nghèo chia sẻ một cách hào phóng cho những người túng thiếu. Câu chuyện cảm động nhất hẳn phải là câu chuyện của bà góa thành Xêrepta thời tiên tri Êlia:
Toàn vùng phải trải qua một cơn hạn hán lâu dài, trong nhà người đàn bà chỉ còn lại một ít bột và một vài giọt dầu cuối cùng đủ để bà chuẩn bị một bữa ăn cuối cùng cho bà và đứa con trai nhỏ. Vừa gặp người đàn bà đang đi kiếm củi, tiên tri Êlia đã nói hầu như ra lệnh cho bà rằng: "Hãy chuẩn bị thức ăn cho ông!" Không một chút do dự hay chống chế, người đàn bà khốn khổ đã làm theo lời vị tiên tri và phép lạ từ lòng quảng đại của bà đã diễn ra: một vò dầu trong nhà bà không bao giờ cạn cho đến khi cơn hạn hán chấm dứt.
Người đàn bà góa mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy cử chỉ quảng đại trong Tin Mừng hôm nay cũng chia sẻ một cách hào phóng chẳng khác nào người đàn bà góa thời tiên tri Êlia. Cùng với những người giầu có đang lũ lượt đi tới trước hòm tiền để dâng cúng, người đàn bà góa chỉ bỏ đúng có hai đồng xu nhỏ. Nhưng trong khi những người giàu có làm cử chỉ dâng cúng để cho người khác thấy, và có lẽ sự sang trọng cũng dễ gây sự chú ý của những người chung quanh, thì Chúa Giêsu, Ðấng thấu suốt mọi sự bí ẩn trong lòng người đã chỉ chú ý đến người đàn bà góa. Dưới ánh mắt của Ngài, người đàn bà góa nghèo này là người dâng cúng nhiều nhất. Bà cho nhiều nhất bởi vì trong khi những người giàu có chỉ cho của dư thừa, người đàn bà góa cho chính những gì mình có để độ nhật, và cho tất cả những gì bà có chứ không phải chi một vài xu lẻ.
Mẹ Têrêsa Calcuta cũng có lần kể lại một câu chuyện tương tự: "Một năm nọ, có một người phụ nữ nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Người đàn bà cho biết rằng bà có tám đứa con nhỏ và từ nhiều ngày qua, trong nhà không còn một hột gạo. Mẹ Têrêsa lấy gạo trao cho người đàn bà. Số gạo vừa đủ cho bà và các con bà. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mẹ, người đàn bà xin một bao trống, chia số gạo làm hai rồi giải thích rằng bên cạnh nhà bà còn có một gia đình Hồi giáo cũng không còn gạo ăn từ nhiều ngày qua".
Người đàn bà nghèo muốn chia sẻ một nửa những gì mình đang có cho người láng giềng của mình. Chúng ta có thể học được nhiều bài học từ những câu chuyện trên đây. Những người đàn bà góa và người nghèo nói chung, có thể dạy chúng ta ý thức về sự lệ thuộc vào Chúa. Họ nói với chúng ta rằng sống qua ngày quả là một nỗi khốn khổ, nhưng có Chúa luôn lo liệu mọi nhu cầu cần thiết cho chúng ta. Họ nhắc nhở chúng ta rằng mỗi ngày qua đi không biết bao nhiêu ân phúc Chúa ban, nhưng không được chúng ta nhìn nhận và đáp trả với lòng biết ơn, và cho chúng ta thấy rằng của cải vật chất có thể là những xiềng xích đang trói buộc chúng ta, và càng có ít, con người càng có cơ may để sống hạnh phúc hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, bài học mà chúng ta có thể học được nơi những người đàn bà góa trên đây, cũng như từ những người nghèo nói chung là càng trao ban, chúng ta càng hạnh phúc. Trao ban những gì mình có đã đành, nhưng trao ban chính bản thân mới đích thực là trao ban. Một quà tặng không bao hàm người tặng thì chỉ là một món quà chơi trội. Cho là cho chính bản thân. Ðó chính là cách cho của Chúa Giêsu. Ngài trao ban thịt máu Ngài cho chúng ta. Ðược Ngài nuôi dưỡng bằng thịt máu Ngài, ước gì các tín hữu Kitô chúng ta cũng trở thành những kẻ trao ban một cách quảng đại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Ai quảng đại thật?
Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giầu sang đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết.” (Lc. 21, 1-3)
Quảng đại thật:
Những vẻ bề ngoài thường làm ta lầm. Những người quảng đại nhất không hẳn là những người bỏ nhiều tiền nhất vào thùng dâng cúng. Lòng quảng đại thật cũng không đo của mà người ta cho. Muốn đánh giá đúng lòng quảng đại, phải xem họ cho cái họ thiếu thốn. Người ta cho nhiều tiền không phải là rất quảng đại. Người ta có thể cho ít mà vẫn quảng đại.
Sự thật đó hoàn toàn đơn giản. Đức Giêsu không phải nhắc nhở điều đó một cách vô ích đâu, vì chúng ta dễ lầm tưởng đánh giá theo bề ngoài. Đức Giêsu đánh giá tận đáy lòng người ta, nên Người nói: “Bà góa nghèo này bỏ vào nhiều hơn ai hết”. Người ta ngày nay có thể nói như thế về nhiều người nghèo, mặc dầu bề ngoài nghèo, nhưng lại tỏ ra quảng đại hơn nhiều người giàu.
Dư thừa của cải:
Có phải vô tình Tin mừng cho thấy bà góa này có lòng quảng đại hơn các ông bà giàu kia không? Có lẽ không.
Quả thật, người ta có thể thấy nhiều người giàu có lòng quảng đại thật, và cũng có nhiều người nghèo hà tiện ghê gớm. Nhưng thật ra có lẽ có nhiều người nghèo quảng đại hơn nhiều người giàu. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói. Họ cho nhiều khi họ túng thiếu hơn là lúc họ dư thừa. Lòng quảng đại đáng giá thật khi cho lúc lâm cảnh túng quẫn.
Chúng ta biết rất nhiều người nghèo dâng cúng lúc họ đang túng thiếu. Còn nhiều người giàu dâng cúng được nhiều hơn không, nếu xét theo lòng quảng đại? Có bao nhiêu người giàu dâng cúng nhiều hơn cái dư thừa của họ?
Có lẽ phải nói rằng giàu sang quá làm ngăn trở để nên quảng đại thật.
R.C
Suy niệm 6: Cần có cái nhìn của Chúa
Xem lại CN 32 TNB và thứ Bảy tuần 9 TN
Sau khi Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ bằng việc đánh đuổi con buôn để trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng đúng nghĩa. Hôm nay, Đức Giêsu tiến xa hơn khi nói đến tâm hồn của con người trong việc thực hành niềm tin tôn giáo. Vì thế, Ngài đã thay đổi quan niệm xưa khi cho rằng: một người được Thiên Chúa chúc phúc là một người đông con nhiều cháu, đoàn xúc vật và của cải nhiều... Đây là não trạng mang đậm truyền thống của tiền nhân nơi những người Dothái đương thời với Đức Giêsu. Lối suy nghĩ này còn bén rễ sâu vào khái niệm dâng cúng tiền bạc trong đền thờ. Họ cho rằng: ai dâng cúng nhiều thì dấu chỉ người đó được nhiều ơn..., bởi thế, ở gần hòm tiền, luôn có người phụ trách xướng lên lớn tiếng số lượng mỗi người dâng để cho mọi người biết.
Thấy thế, Đức Giêsu đã xóa bỏ quan niệm đó và mặc cho nó một ý nghĩa sâu xa được khởi đi từ tấm lòng chân thành chứ không phải là những vật phẩm bề ngoài.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay hiện lên hình ảnh của một bà góa nghèo. Bà được Đức Giêsu đề cao vì đã dâng tất cả những gì mình có. Thật vậy, bà không có nhiều tiền, nhưng bà có tấm lòng bao la. 2 đồng tiền nhỏ mà bà bỏ vào thùng không đáng gì so với những đồng tiền của giới nhà giàu dâng cúng. Tuy nhiên đây là cả gia sản hiện tại của bà. Thấy được nghĩa cử cao quý đó, Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi: “Ta bảo thật anh em, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm nhiều hơn mọi người”.
Khi đề cao bà góa nghèo như vậy, Đức Giêsu đã không chú ý đến số lượng, mà Ngài đã đề cao phẩm chất. Sự ca ngợi của Đức Giêsu dành cho bà làm toát lên cái nhìn của Thiên Chúa. Ngài nhìn từ bên trong tâm hồn, trong khi con người thì lại nhìn từ những cái bên ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: tấm lòng của con người mang tính quyết định chứ không phải những gì bên ngoài. Giá trị tâm linh thì quan trọng hơn lễ vật. Nếu dâng cúng nhiều mà không có tấm lòng yêu thương, bác ái thì chỉ là một cách phô trương mà thôi.
Mặt khác, với cái nhìn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy: đừng vì bề ngoài mà xét đoán anh chị em mình tốt hay xấu. Cũng đừng vì tiền mà thay đổi thái độ trắng đen và phân biệt đối xử, hoặc đừng vì những thứ bề ngoài mà an tâm rằng ta được phúc hơn người!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bà góa nghèo để đến với Chúa bằng tấm lòng chân thành trong sự yêu mến. Xin Chúa cũng ban cho chúng con có cái nhìn như Chúa để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Thái độ khi ta làm việc lành
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đối với Chúa, điều quan trọng không phải là số lượng, nhưng là thái độ khi ta làm việc lành. Những việc làm của ta, dù nhỏ bé, nếu được thực hiện với lòng yêu mến và tín thác nơi Chúa, Ngài sẽ vui nhận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con vẫn hiểu rằng: khi cho đi là lúc lãnh nhận, khi quên mình là lúc gặp lại mình. Nhưng những lúc con cho đi, dù với danh nghĩa vì Chúa hay vì đồng loại, con vẫn thường cảm thấy nơi con có gì như đang mất mát, vì thế con tiếc nuối, sợ bị thiệt thòi.
Có lẽ vì thế, khi nhìn lại những tháng ngày đã qua, con thấy hầu như con đã chỉ cho người khác cái mà con dư thừa. Con cho đi bằng tay phải nhưng đã tìm cách lấy lại bằng tay trái. Con muốn quên mình, nhưng lại so đo tính toán hơn thiệt. Xét cho cùng, tình yêu của con còn quá nhỏ, lòng bác ái còn quá vụ lợi, sự dâng hiến còn quá miễn cưỡng, sự phục vụ còn quá nhỏ bé. Con chưa thật quảng đại và phó thác để dám quên mình cách triệt để, ngõ hầu tôn vinh danh Chúa và thăng tiến anh em. Do đó, đời sống đạo của con chưa thật sự đổi mới, xứ đạo và môi trường sống của con chưa phát triển tốt đẹp.
Lạy Chúa, chính Chúa nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng sống vì người mình yêu”. Xin ban cho con tình yêu nồng nàn và lòng tín thác cao độ như bà góa dâng hết mọi đồng xu cho Chúa, để con dám vắt kiệt thời giờ, tiền của, sức lực và cả mạng sống của con vì Chúa, vì Giáo Hội, và vì anh chị em sống quanh con. Amen.
Ghi nhớ: “Người thấy một bà góa nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ”.
Suy niệm 8: Dâng cho Chúa tất cả tấm lòng
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa đi xuống phố, một người ăn mày chạy đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều cho mẹ tiền để giúp người bệnh tật”. Anh nói thêm với giọng hơi buồn: “Con cũng muốn cho mẹ tiền. Nhưng suốt cả ngày hôm nay, con chỉ có được ba mươi xu. Dù ít, nhưng con muốn cho mẹ số tiền ấy”. Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc: “Nếu mình lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu không lấy, sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương”. Vì thế, Mẹ đưa tay ra để lấy số tiền ấy và cám ơn anh.
Mẹ chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt của bất cứ ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa làm bác ái… Số tiền thật bé nhỏ đó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương của anh”. Mẹ nhấn mạnh: “Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.
Suy niệm
Bà góa bỏ vào đền thờ phần nhỏ bé, nhưng Chúa Giêsu khen ngợi và nhấn mạnh rằng bà đã dâng lên cho Thiên Chúa tất cả tấm lòng và nêu tấm gương cho các môn đệ… Bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, bằng sự mến yêu nồng nàn đối với Chúa. Bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm, tuy nhỏ nhất nhưng đó là tất cả những gì thiết yếu cho cuộc sống của bà, như thế bà đã dâng cả mạng sống. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người”.
Thiên Chúa là Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), Ngài không quan tâm bởi những dáng vẻ bề ngoài, như lời ngôn sứ khẳng định: “Người ta nhìn bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng mỗi người (1Sm 16,7). Sau này, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can” (Rm 8,27). Cho nên, dù chỉ dâng hai xu kẽm, nhưng xuất phát từ tâm can yêu mến của bà góa. Qua tấm gương bà góa, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống với Chúa cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại với anh em trọn tấm lòng. Cho dù một tấm lòng rất nát về vật chất nhưng giàu về sự chân thành và yêu thương như hai xu kẽm của bà góa dâng tiền cho Chúa.
Xin cho chúng con một tấm lòng thành mang trọn tình yêu với Chúa với anh em, biết ý thức về sự mỏng giòn, nhỏ bé, thiếu thốn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí chân thành của anh em. Dâng cho Chúa với cả tấm lòng, khiêm tốn, ẩn kín vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Cha các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho các con”(Mt 6,8).
Ý lực sống
“Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà” (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Suy niệm 9: Hai đồng tiền nhỏ của bà góa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng để giúp cho Đền thờ; chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng. Khung cảnh của Tin Mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x.2V 12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng vào đó.
2. Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú y đến người đàn bà góa nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào 2 đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng ¼ đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu đang bị đế quốc Rôma thống trị. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bạc, một đồng cân nặng 3,8g và tương đương với 0,875 quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin Mừng dâng cúng vốn giá trị chẳng đáng là gì, nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã khen :”Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”(Lc 21,3).
3. Thiên Chúa ít để ý đến giá trị của dâng bề ngoài cho bằng tấm lòng nhiệt thành quảng đại của người dâng :”Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Cách cho quí hơn của cho”. Ý tưởng này giúp chúng ta ý thức hơn về những công việc phục vụ tha nhân, cũng như những công việc từ thiện bác ái hay dâng cúng của cải vật chất.
Tấm lòng của bà góa dành cho Chúa quả là lớn lao vì nó đụng chạm đến sự sống của bà, bà đã dâng cho Chúa không phải của dư thừa nhưng là tất cả cái mà bà có để sống. Tinh thần bác ái đích thực là biết chia sẻ cho tha nhân một phần sự sống, tức là những sự hy sinh của mình. Cũng vậy, chúng ta tỏ lòng mến Chúa bằng cách tự nguyện dâng hiến cho Chúa điều mà chúng ta có quyền được hưởng : sự nghèo khó, lòng thanh khiết và đức vâng lời.
4. Ai cũng công nhận “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng người ta thường “xem mặt mà bắt hình dong”, dựa vào hình thức bên ngoài để đánh giá phẩm chất bên trong : Tuyển nhân viên mấy ai chọn tiêu chuẩn “xấu người đẹp nết” thay vì “ưu tiên có ngoại hình” ? Lắm khi người ta đánh giá sản phẩm chỉ dựa vào mẫu mã kiểu dáng bao bì bắt mắt. Người ta cũng dễ có xu hướng thẩm định giá trị của một người dựa vào của cải, địa vị, bằng cấp v.v... Đức Giêsu thì khác, Ngài thẩm định giá trị hành vi từ đáy lòng con người. Ngài cho biết : Dù chỉ bỏ hai đồng tiền vào thùng dâng cúng, bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn ai hết vì đó là tất cả gia tài của bà ! Bà đã dâng tất cả những gì bà có và dâng với cả tấm lòng (5 phút Lời Chúa).
5. Một Linh mục nọ có thói quen hằng ngày viết trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị Linh mục ấy điều chỉnh lại điều phần cho nhiều hơn phần nhận.
Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng tiền kẽm vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng đại, cho đi mà không tính toán hon thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.
6. Truyện: Bà Oseola Mc Carthy.
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quĩ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: ”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.
Suy niệm 10: Biết cho đi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta phải biết cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
Thánh Phanxicô còn cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao cả hơn của việc biết cho đi khi Ngài viết: “Chính lúc hiến thân là khi lãnh nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Ở bên Palestine có hai biển hồ. Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào có thể sống ở bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Chẳng ai muốn sống gần đó. Còn biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều du khách nhất. Nước ở biển hồ này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được và cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều. Vườn cây xung quanh rất tốt tươi nhờ nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều nhận được nguồn nước từ những khe suối ở trong núi chảy ra, rồi qua sông Giodan chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát, nồng độ muối rất cao không sinh vật nào có thể chịu được. Biển hồ Galilê cũng đón nhận những nguồn nước như thế rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
Một trong những định nghĩa về cuộc sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban thì tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình. “Sự sống”, trong họ rồi cũng sẽ chết dần, chết mòn không làm nảy sinh được cái gì tốt giống như nước trong lòng biển Chết.
2. Thông thường mà nói thì khi có dư người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội cũng vậy. Sự cho đi như thế theo Chúa Giêsu chưa phải là sự cho đi tốt đẹp. Sự cho đi tốt đẹp theo Chúa là sự cho đi chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế mới quý vì là sự cho đi chính bản thân mình.
Năm 1830, khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho Ngài một đồng bạc, để dâng cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám nhận. Ngài sợ bà phải hy sinh nhiều quá nên mới nói với bà:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và chắc Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi. Bà quá vất vả và thiếu thốn, nên xin bà hãy giữ lấy đồng bạc này để tiêu xài cho những thứ cần thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con chỉ có thế này để dâng cúng cho Chúa. Nhưng đây là tất cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì quí giá, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.
Bà già trên đây chẳng khác gì bà goá ở trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đã biết sử dụng tiền của vào việc đạo đức, vào việc tu sửa nhà thờ của Chúa, mặc dầu tiền bạc của bà ít ỏi, chỉ có một đồng bạc. Đồng bạc này lại là cả gia nghiệp của bà. Vậy mà bà đã bỏ ra để giúp đỡ nhà thờ. Và như chúng ta thấy Chúa đánh giá thật cao việc dâng cúng của bà.
3. Việc làm của bà goá là một định nghĩa và cũng là một tấm gương về lòng quảng đại: quảng đại chính là cho đi mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắc nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn gặp ông đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó. (Góp nhặt)
Suy niệm 11: Bà góa nghèo cho đi chính bản thân mình
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Gương dâng cúng của một bà goá:
- “Bà góa”: Xã hội do thái không có những quy định bảo vệ quyền lợi các góa phụ cho nên họ rất bị thiệt thòi: tài sản của chồng thì họ không được hưởng (con cái họ hưởng), gia đình cha mẹ ruột của họ cũng không còn lo lắng cho họ bao nhiêu. Vì thế, trong Thánh Kinh, bà góa, trẻ mồ côi và ngoại kiều là những hạng người xấu số nhất và nghèo nhất (x. Đnl 24,17-22).
- Bà goá nghèo này đã dâng vào hòm tiền Đền thờ “Hai đồng tiền kẽm”: nguyên ngữ là đồng tiền Kodrantes tức là loại tiền nhỏ nhất trong các loại tiền thời đó.
- Tuy số tiền là ít nhưng được Chúa Giêsu đánh giá cao hơn số tiền của những người khác, “vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu mà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”
B.... nẩy mầm.
1. Cho đi không phải của dư thừa mà là chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế rất quý vì cũng là sự cho đi chính bản thân mình.
Thông thường khi có dư người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội.
2. Một Linh mục nọ có thói quen tốt là ghi kỹ trong nhật ký hằng ngày về những số quà nhận và số quà cho. Thỉnh thoảng kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho thì Linh mục ấy điều chỉnh lại để phần cho nhiều hơn.
Con người thường thích nhận hơn cho; có cho thì cũng để nhận lại.
3. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta rằng: cách sử dụng tiền của tốt nhất là cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
4. Cử chỉ của bà goá là một định nghĩa của lòng quảng đại: quảng đại chính là cho mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắt nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó. (Góp nhặt)
21/11 Vua Giêsu
- Viết bởi Ga 18, 33b-37
Vua Giêsu.
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ.
"Quan nói đúng: Tôi là Vua".
Lời Chúa: Ga 18, 33b-37
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".
Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ CHÚA KITÔ VUA – B
Lời Chúa: Đn. 7, 13-14; Kh. 1, 5-8; Ga. 18, 33b-37
1. Đứng về phía sự thật -- ‘Manna’
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình,
và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ,
nhưng nó lại lớn lao vô cùng,
vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất,
đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống.
Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu?
Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô,
để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không nói rõ mình là vua,
cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình,
nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ.
Một nước không có quân đội để chiến đấu,
không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian.
Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự.
Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu.
Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước.
Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật.
Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng.
Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột.
Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan.
Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa,
chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật,
như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ.
Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình,
của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề:
ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp,
ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công...
Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế,
ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến,
mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian:
chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế
thì Nước Chúa càng lớn dần lên
cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người
nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các bạn trẻ thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock Michael Jackson... Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng đó ra sao?
Vũ trụ vật chất là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn...?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2. Vua Sự Thật – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ thành công ban cho”. Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
3. Làm Vua là làm chứng -- GM. Giuse Vũ Duy Thống – ‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ “Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”.
Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của “Đấng đến giữa mây trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”. Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của “Người Tôi Tớ đau khổ”.
Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là: “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…
Càng không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm “quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
4. Lễ Đức Kitô Vua -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Ðức Giêsu là vua
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Ðức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ðn 7,13-14)
Trong sách Ðaniên, có một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Con Người. Con Người đã phải chịu rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên trong thị kiến của đoạn này, Ðaniên thấy Ðấng Lão Thành (tức Thiên Chúa) trao cho Con Người quyền thống trị tất cả loài người.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Ðấng Messia. Và Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
2. Ðáp ca (Tv 92)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh vương giả: ca tụng Thiên Chúa là vua. Ngai vàng Người kiên cố tự ngàn xưa và triều đại Người tồn tại mãi qua muôn thế hệ.
3. Tin Mừng (Ga 18,33b-37)
Ðoạn Tin Mừng này là một phần cuộc đối thoại giữa Ðức Giêsu và Philatô. Philatô hỏi "Vậy ông là vua ư?". Ðức Giêsu vừa đáp vừa giải thích:
"Quan nói đúng, tôi là vua."
"Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này.": Nước của Chúa không giống nước trần gian.
"Tôi sinh ra và đến trong thế gian này chỉ để làm chứng về Chân lý": Chúa làm vua cũng không giống cách làm vua của trần gian. Ngài làm vua để phục vụ chân lý.
"Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi": Công dân của Nước Chúa là những kẻ yêu chuộng chân lý.
4. Bài đọc II (Kn 1,5-8)
Ðoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Ðức Giêsu là Vua: (1) Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã lấy máu mình rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta; (2) Sau khi chịu nạn chịu chết, Ngài được tôn lên làm Vua mọi loài; (3) Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ðức Kitô là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: "Homo homini lupus": con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Tôi nghĩ rằng trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Ðiều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, ÐGH coi đó là chấm dứt chiến tranh
Vương quyền của Chúa Kitô không xây dựng trên sức mạnh, không củng cố bằng bạo lực theo kiểu các nước trần gian. Bởi thế Chúa Giêsu đã nói: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này". Nói cách khác, Chúa Giêsu không thích chiến tranh, không muốn có phe phái, phe này chiến đấu chống lại phe kia. Vương quyền của Chúa xây dựng trên sự thật, như Lời Chúa nói "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật". Nhưng sự thật là gì? Là cái làm cho con người đúng là con người chứ không phải là lang sói. Con người phải phát huy cái tính người của mình và đồng thời dần dần loại bỏ đi cái tính thú trong mình. Con người cố gắng sống cho ra người, mọi người biết tôn trọng nhân phẩm nhân quyền của nhau, mọi người nhắc nhở nhau và giúp nhau làm những việc tốt mà lương tâm chân chính của con người dạy phải làm. Người nào sống như vậy thì là người sống trong vương quốc của Chúa; người nào, cố gắng làm cho nhiều người khác cũng sống như vậy thì là đang xây dựng vương quốc của Chúa.
Nhưng xin được nói thêm cho rõ kẻo có người hiểu lầm: để làm công dân của Nước Chúa, điều cốt yếu là cố gắng theo Lời Chúa dạy để sống cho đúng là một con người, sống theo tính người chứ không phải theo tính thú. Do đó, xây dựng Nước Chúa, hay mở mang Nước Chúa cũng là cố gắng làm cho có thêm nhiều người biết theo Lời Chúa dạy mà sống theo tính người như vậy. Không nhất thiết người ta phải rửa tội, phải theo đạo, phải gia nhập Giáo Hội. Ðiều cốt yếu là người ta phải theo những giá trị mà Tin Mừng Chúa đã đề ra: sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành... Càng có thêm nhiều người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì là lúc Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Ðức Giêsu gọi đó là Sự Thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Tuần sau là Mùa Vọng, bắt đầu một năm Phụng vụ khác rồi. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Một tước hiệu không xứng hợp
Trong số những tước hiệu mà ta có thể gọi Ðức Giêsu, có lẽ tước hiệu "vua" là không xứng hợp nhất.
Khi nói tới "vua" là ta nghĩ đến ngai vàng, vương miện, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí v.v. Thế mà khi nhìn vào Ðức Giêsu ta chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một nhúm môn đệ ít ỏi, vây quanh là những người nghèo nàn, tật bệnh, tội lỗi và những người bị xã hội loại trừ.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì Ðức Giêsu đúng thật là vua. Ngài là vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thống trị vũ trụ.
Ngay cả trên bình diện tự nhiên, Ðức Giêsu cũng xứng đáng là Vua, Vua của mọi người: Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài đến với ai là vận mạng của người đó được thay đổi thành tốt hơn. Có những người tưởng rằng mình là người lớn bằng cách khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt mình. Nhưng người lớn đích thực là người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên. Theo nghĩa này, Ðức Giêsu đích thực là Vua.
Chúng ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng. Philatô có quyền lực trên dân, nhưng kẻ có ảnh hưởng trên dân chính là Ðức Giêsu. Ảnh hưởng của Ngài đem lại cho con người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, bình an, yêu thương, hạnh phúc. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Ðức Giêsu Kitô, vua vũ trụ
Ðại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Ðức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Ði ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
***
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật: "Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Ga.18,37). Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu: "Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người" (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Ðó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu.
Ðối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. "Ðâu có tình yêu thương ở đấy có Ðức Chúa Trời". Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
***
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Vua tình yêu
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa...
Lê Quang Ðộ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Ðộ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò.
Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Ðộ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Ðộ luôn tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Ðộ vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình.
Không chỗ tựa, Ðộ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai là người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội?
Bị đuổi khỏi gia đình, Ðộ trở nên mồi ngon cho tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Ðộ được mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến Ðộ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Ðộ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên.
Chính ở đây Ðộ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau này Ðộ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus Stapelp) là thân hữu của phong trào Focolare điều khiển. Ðộ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.
Ðộ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Ðộ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn đo.
Hãy còn có Chúa đón nhận con
Ba tháng sau người ta phải đưa Ðộ tới trung tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Ðộ khám phá những điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Ðộ thốt lên lời than thở với Ðấng em gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người trẻ mà Ðộ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm Ðình Ái (Claudio). Ðó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Ðộ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Ðộ đã xin Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Ðiều em không thể cắt nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa.
Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy làm cho người khác điều bạn muốn người khác làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Ðộ đã niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Ðộ rất thích mặc để diện.
Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Ðộ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Ðó là những con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà.
Em Ðộ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi ngày.
Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Ðộ đã thành công trong việc chinh phục người ấy.
Nhiều lần Ðộ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người anh của Ðộ đã trách mắng Ðộ cách thậm tệ trước mặt mọi người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Ðộ điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Ðộ dọn đồ mà người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó cho anh ấy!
Cứ như vậy Ðộ tìm lại được tình thương của gia đình để không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống bình thường trong nghề giáo viên.
Cuộc hoán cải của Lê Quang Ðộ làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa và sự ưu ái của Ngài dành cho những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không bỏ rơi một ai, ngược lại, kẻ càng bị người đời khinh chê và gạt sang bên lề, thì Ngài càng ưu ái tìm kiếm và đưa vào Vương Quốc của Ngài.
Cựu Ước không thiếu lời khẳng định về tình yêu trước sau như một của Thiên Chúa đối với thọ tạo. Thánh vịnh gia nói: "Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con" (Tv 26,10). Tác giả sách Huấn Ca còn nói "Thiên Chúa nhân từ và biết vật Người nắn lên. Người không huỷ, không bỏ, nhưng dung tha" (17,21). Còn sách Khôn Ngoan dạy: "Quả thật những gì có trong vạn vật, Người đều yêu mến. Vì Người nắn nên gì Người không ghét bỏ. Vả lại có gì tồn tại được nếu Người không muốn? Làm sao nó được bảo tồn điều Người đã không gọi (đến tên)? Với mọi vật, Người xử khoan dung vì chúng là của Người, lạy Chúa Tể hiếu sinh!" (12,24-26).
Thực ra Nước của Thiên Chúa là Nước mang lại cảnh hoà bình cho trăm họ, nhưng sự công chính của Thiên Chúa chủ yếu không khởi đi từ việc phân phối của cải để ai nấy nhận được những gì thuộc về mình. Tất cả những gì mà con người có cũng đều do Thiên Chúa ban nhưng không, dù là ngang qua cha mẹ hay do chính mình làm nên, cuối cùng cũng do chính Chúa là cội nguồn. Vậy sự công chính của Thiên Chúa khởi đi từ lòng ưu ái của Người dành cho dân nghèo. Cho nên Thánh Vịnh gia khi nói tới việc xét xử dân theo công lý thì nói ngay tới việc bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn và ra tay cứu độ kẻ nghèo khó (x. Tv 71,1-4)
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên
Với Ðức Giêsu trong Tân Ước, sự ưu ái của Thiên Chúa dành cho người nghèo càng khiến ta phải ngỡ ngàng. Một trăm con chiên chỉ có một con bị lạc, chủ chiên cũng tập trung hết sự chăm chú của mình vào chiên lạc đó cho tới khi tìm được; người đó sẽ vác nó lên vai đưa về và mở tiệc mừng. Mười đồng bạc mà một đồng bị mất thì người mất cũng thắp đèn tìm cho kỳ được; người đó còn mời bạn bè xóm ngõ tới mừng vì đã tìm thấy. Phương chi người cha có hai con mà một đứa đi bụi đời này về, nào người cha đó lại không mở tiệc ăn mừng con trở về hay sao? Ðó là ba dụ ngôn trong Tin Mừng Luca (15,1-32) về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với tội nhân, là người nghèo cần Chúa thương xót. Tin Mừng Gioan cũng cho thấy lòng thương xót đó của Thiên Chúa, nhưng nhấn mạnh về cái giá Người sẵn sàng trả là chính mạng sống của Con Thiên Chúa làm người. Sau khi chữa người bại liệt, Ðức Giêsu bị người Do Thái tìm cách giết (x. Ga 5,18). Khi người mù từ tuổi mới sinh được Ðức Giêsu chữa lành, người đó liền bị cha mẹ bỏ rơi và giới lãnh đạo Do Thái giáo trục xuất (x. Ga 9,21 và 34) Nhưng Ðức Giêsu đã không bỏ rơi anh, Người đã tìm đến với anh và tự mạc khải bản thân Người cho anh (cc 35-38). Người còn tuyên bố "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11). Ðó chính là ý nghĩa mà Tin Mừng Gioan hiểu về lời tuyên bố của thượng tế Caipha khi nói "thà một người chết thay cho dân còn hơn toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11,50).
Bài Tin Mừng hôm nay với lời tuyên bố của Ðức Giêsu là "Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." (c.37). Tin Mừng Gioan cho biết phản ứng của ông Philatô là nêu câu hỏi "Sự thật là gì?" (c.38). Nhưng ông đã không muốn nghe Ðức Giêsu trả lời. Ông đã ra ngoài để gặp người Do Thái nên ông đã không đứng về phía sự thật là chính Ðức Giêsu Vua Tình Yêu, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với cả loài người. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay Hội thánh suy tôn Ðức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, vua hiền hậu, vua mà uy quyền là tình yêu tự hiến. Chúng ta cùng dâng lên Người lời cầu nguyện khiêm tốn sau đây:
1. Ðức Giêsu là Vua đến trần gian để làm chứng về sự thật, là chính Thiên Chúa / xin cho Hội thánh luôn tuân lệnh Người để làm chứng cho mọi người rằng Thiên Chúa là tình yêu.
2. Ðức Giêsu là Vua nhưng Nước Người không thuộc về thế gian này / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước trần gian hiểu rằng: Nước Chúa không cạnh tranh với nước của họ / nhưng đem lại sự thật, công lý và hòa bình cho các nước trần gian.
3. Ðức Giêsu là Vua tự hiến để cứu độ mọi người / Xin cho những người đang bị áp bức, bóc lột, tù đày / và những người nghèo đói, dốt nát / sớm được Người giải thoát để sống như công dân trong Nước Chúa.
4. Ðức Giêsu là Vua tình yêu, Người cai trị bằng phục vụ / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta là công dân Nước Chúa / biết noi gương phục vụ của Người.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, chúng con đã được Chúa mời gọi vào Nước Chúa, làm công dân của Nước Chúa, Xin giúp chúng con luôn hăng say hoạt động để Nước Chúa mở rộng đến mọi tâm hồn. Chúa là Ðấng hằng sống...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Ðức Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Ðức Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
5. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Điều đó nói lên rằng, Đức Giêsu Kitô, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa Cha trao phó, được Chúa Cha trao quyền cai trị muôn loài trên trời dưới đất và sẽ kết thúc lịch sử loài người trong vinh quang để mọi sự sẽ được “restaurare in Christo”.
Trong suốt quãng đường đi truyền giáo, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho người ta. Chưa bao giờ Đức Giêsu dám nhận mình là vua, mặc dầu dân chúng hồ hởi tôn vinh Ngài. Nhưng về cuối đời, trong cuộc thương khó, Ngài đã công khai xác nhận vương quyền của Ngài trước mặt quan Philatô:”Ngài nói đúng, Tôi là vua”(Ga 18,37), nhưng để tránh ngộ nhận, Ngài nói thêm:”Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này”(Ga 18,36).
Vậy nếu Đức Giêsu không có lấy một tấc đất để cắm dùi thì nước của Ngài ở đâu? Thần dân của Ngài là ai? Vương quyền này được thiết lập và thực hiện bằng những phương tiện nào?
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô, chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ và làm cho vương quyền của Ngài được mở rộng để tất cả mọi nguời nhận biết Đức Giêsu là vua vũ trụ và hết lòng tin theo Ngài.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đn 7,13-14
Vào thế kỷ thứ 2, đức tin bị đe dọa trầm trọng. Tác giả Sách Thánh muốn khích lệ các người đồng hương của mình vững chí trong cơn thử thách, thì trong một thị kiến, Đaniel nhìn ngắm bốn Con Thú tượng trưng từ biển nhô lên và cập vào đất liền: chúng biểu thị những vương quốc đã liên tiếp nhau đe dọa Israel. Chính lúc đó xuất hiện một khuôn mặt bí ẩn, được mô tả như một Con Người. Lúc đó Đấng Lão thành (tức Thiên Chúa) cũng hiện ra và trao cho Con Người quyền thống trị tất cả loài nguời và thiết lập một vương quyền vĩnh cửu và phổ quát.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Đấng Messia. Và Đức Giêsu chính là Đấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
+ Bài đọc 2: Kh 1,5-8
Đoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Đức Giêsu là Vua. Ngài đã yêu thương chúng ta, đã lấy máu mình mà rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta. Được phục sinh vì đã làm chứng cho đến chết chương trình của Chúa Cha, Đức Kitô đã trở nên “Thủ lãnh các vương đế trần gian”, nhận đuợc mọi quyền năng để dẫn dắt lịch sử nhân loại. Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài. Vương quốc này chưa hoàn tất. Nhưng vào thời sau hết, Đức Kitô sẽ hiển trị trong uy quyền, thắng vượt sự dữ và lầm lạc. Ngài là vua hoàn vũ và vĩnh cửu.
+ Bài Tin mừng: Ga 18,33b-37
Từ truớc tới nay, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin nừng về Nước Thiên Chúa, chữa lành mọi tật nguyền cho người ta. Không bao giờ Ngài tự xưng là vua. Ngài còn trốn tránh khi dân chúng tung hô Ngài là vua. Không bao giờ Ngài làm điều gì tỏ ra cạnh tranh với nhà cầm quyền.
Bị người Do thái tố cáo trước nhà cầm quyền là Ngài muốn làm vua. Philatô hỏi Đức Giêsu:”Vậy ông là vua ư”? Nhân dịp này, Đức Giêsu vừa đáp vừa giải thích cho ông Philatô:
- Ngài là vua thật, đúng như lời ông nói.
- Nước Ngài không thuộc thế gian này.
- Nước Ngài không giống như nước trần gian, không cạnh tranh với quyền lực nào.
- Nước Ngài là vương quốc sự thật: sự thật về Thiên Chúa, sự thật về con người, sự thật về mọi loài thọ tạo.
- Ngài đến làm chứng cho sự thật. Ai yêu sự thật thì thuộc về vương quốc Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Tin theo Đức Kitô Vua
I. LỊCH SỬ LỄ CHÚA KITÔ VUA
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con ngươi. Con người đã trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé và giết chóc. Lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu người, không kể những người bị thương, mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn lường.
Cho nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu cho loài người thôi đừng buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà gây chiến với nhau.
Đàng khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn, các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây xã hội trên nền tảng thuần túy nhân loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng muốn công bố những quyền bất khả xâm phạm của Chúa Kitô: Ngài là vua vũ trụ, vua các thiên thần và loài người.
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong quan niệm đạo đức tân thời phát sinh ngay trong Công giáo tiến hành ở một số nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua nhắc cho người ta rằng: Đức Giêsu còn là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên, Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).
II. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA
1. Đức Giêsu khẳng định
Trước toà án, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu có thể trả lời là có hay không, tùy theo ý của người hỏi.
Nếu người Do thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là Đấng Messia không? Nhưng khi Philatô hỏi thì câu ấy có ý nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xúi giục dân Do thái phản loạn không? Theo não trạng của người Do thái, thì Đấng Messia, vị cứu tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Đức Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là Vua như Ngài đã xác nhận: “Tôi được sinh ra là để làm vua”.
Tuy Đức Giêsu xác định Ngài là vua, nhưng với tước hiệu là vua mà Philatô đang muốn điều tra, ít nhất có ba cách làm “Vua”:
a) Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu Rôma: người ta thống trị kẻ khác bằng nô lệ hoá họ: “Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”(Trịnh công Sơn).
b) Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của người Do thái: một người thuộc dòng dõi vua Đavít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
c) Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai như “bạn có muốn theo tôi không”, “Các bạn cũng muốn bỏ đi sao”? Một vương quyền mà lại để “Vua” bị giao nộp cho kẻ thù mà không chống cự, một tổng thống mà không có “vệ binh” để bảo vệ mình, không cận vệ để bao bọc trước đám dông (Noel Quesson).
2. Vương quốc của Đức Giêsu
a) Nước Ngài không thuộc thế gian này
Khi Philatô hỏi Đức Giêsu:”Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu trả lời:”Tôi là vua, nhưng không phải của nguời Do thái như ông hiểu vì nước tôi không thuộc thế gian này”(x. Ga 18,33-36).
Nếu Đức Giêsu không phải là một vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói:”vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”,v.v… mặc dầu những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết:”Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành”(Ga 1,3; x. 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung thẩm, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nuớc có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Truyện: Nước Ta chỉ có trên thế gian này.
Ông SELMA LAGERLOP có viết một câu truyện như sau: Ở thành La mã, trong một đền thờ dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm rằng:”NƯỚC TA CHẲNG CÓ TRÊN THẾ GIAN NÀY”(GA 18,38).
Một hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho kỳ được. Khổ thay! Không ai đồng ý cả. Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác, giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn, đem đổi lấy tượng thật.
Nhưng không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ kia lại viết: “Nước Ta chỉ có trên trần gian này”.
Ít lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới, trở về đền thờ cũ lại như xưa.
Mưu mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem tượng giả ném xuống chân đồi Capitole. Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp được và trở về nước với pho tượng giả, còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo mạn kia.
Từ ấy, tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này sang người khác, hết thành nọ đến thành kia…
Một hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ, và hiệu triệu dân chúng rằng:”Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau phân chia tài sản cho nhau, để mọi người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Chết là sự đổ vỡ vô phương cứu vãn”!(Vũ minh Nghiễm, Vươn, 1966, tr 54-55).
b) Vương quốc của sự thật.
Philatô hỏi Ngài: “Thế thì ông là vua sao”? Ngài đáp ngay:”Đúng thế, chính vì thế mà tôi đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37).
Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của vua César. Nước của César chỉ cai trị thể xác của loài người, còn vương quốc của Ngài chiếm hữu những tấm lòng. Thế lực của César là binh đội, khí giới, thành trì, nhưng sức mạnh của vương quốc của Chúa là những nguyên tắc, tình cảm và tư tưởng. Công dân của đế quốc César chỉ được hưởng an toàn bên ngoài và bảo đảm tài sản vật chất, nhưng phước hạnh trong Nước Chúa là an lạc và vui mừng trong Thánh Thần”(x. Rm 14,17). Dù là rộng lớn, đế quốc Rôma cũng bị giới hạn, nhưng vương quốc của Chúa vô biên và được quyền thiết lập tại mọi nơi. Cũng như hầu hết các nước thuộc về đất, đế quốc Rôma rồi sẽ chấm dứt, còn vương quốc Sự Thật sẽ tồn tại muôn đời.
c) Vương quốc tình yêu.
Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45). Đức Kitô là vua, nhưng Ngài khác với những vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi nguời, mọi con dân của Ngài như một mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của con chiên (x. Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
d) Vương quốc của phục vụ.
Mừng lề Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền lực, nhưng dựa trên tình yêu thương, phục vụ. Một vị vua không có lãnh thổ, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Một vị vua chỉ biết dấn thân phục vụ.
Truyện: Hoàng tử Alexis.
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ. Nhưng, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần dân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hoà giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.
Bác sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán:”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc cho nhiều người”.
3. Chỉ có Đức Giêsu là Vua.
a) Tuy trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã chính thức tuyên bố và xác nhận Ngài là vua, nhưng thực sự danh hiệu Vua ấy đã được tiên báo như tiên tri Daniel đã nhìn thấy “như là Con Người đến trong đám mây trời… quyền năng vĩnh cửu”(Dn 7,13; và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: “Đấng là Alpha và Omêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến, Đấng là Thiên Chúa”(Kh 1,8). Ngài làm cho chúng thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và là Cha của Ngài”.
b) Nhìn ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói: “Ông này có làm điều gì sai trái đâu”? Và anh đã cầu nguyện với Ngài:”Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám được xin vào nước Ngài vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm nhường của anh, Ngài đã dịu dàng nói với anh:”Tôi nói thật hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên nước thiên đàng”(Lc 23,41-42).
c) Cái lý do khiến Đức Giêsu làm vua đã được thánh Phaolô nói rất xác đáng trong đoạn văn gủi cho tín hữu Côlôssê:”
“Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành, chốn trời cao và nơi dương thế, vật hữu hình, vật vô hình, dù là thiên toà, hay thiên chủ, dù là thiên phủ hay uy linh: mọi sự đã được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài! Và Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự đếu tồn tại trong Ngài. Và Ngài là đầu của thân mình, tức là Hội thánh, Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong muôn sự Ngài là đệ nhất vô song! Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả Viên mãn đậu tại trong Ngài và đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ bửu huyết đổ nơi thập giá của Ngài cho mọi vật dù ở dưới đất hay trên trời”(Cl 1,15-20).
Truyện: Chỉ có Chúa là Vua
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Cannut III. Ông là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu:”Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra bờ biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố:”Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trở tới”. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội trên đầu Chúa và nói:”Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa”.
(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa năm B, tr 169).
III. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA.
1. Không đuợc bắt cá hai tay.
Câu tục ngữ này có ý nói: hai tay đều thò xuống bắt cá, không phải là hai tay định bắt một mà mỗi tay bắt một con cá. Câu này thường để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc này thì còn việc kia. Vì thế người ta nói:
Thôi đừng bắt cá hai tay,
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.
(Ca dao)
Trong việc tin theo Chúa, Đức Giêsu đã khẳng định”Không ai có thể làm tôi hai chủ vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc gắn bó chủ này mà khinh chủ nọ. Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa tiền tài” (Mt 6,24; Lc 16,13). Chúng ta phải dứt khoát trên đường theo Chúa, không thể trung lập được, hoặc chọn Thiên Chúa, hoặc chọn thần Mammon, nếu không thì sẽ mất cả chì lẫn chài. Người xưa đã nói: “Trung thần bất sự nhị quân”: tôi trung không thể thờ hai vua, vì trong thực tế, câu ngạn ngữ này lúc nào cũng đúng: “Thiên vô nhị nhật, dân vô nhị vương”.
Truyện: Đức Hồng y Deschamps
Hồng y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Deschamps chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự.
Trọng tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng với đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Deschamps tự nhủ mình rằng:”Thế là một ông vua đã qua đi”. Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Deschamps đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau: “Tôi không muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu”.
Deschamps đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở thành niên tưởng của hàng Giám mục Bỉ.
2. Làm gì để xây dựng Nước Chúa.
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được trở thành công dân Nước Trời, chúng ta được ở trong một Vương quốc: “Vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an”(Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua). Đức Kitô cai trị trên những ai chấp nhận chân lý Ngài mạc khải cho: tình yêu của Chúa Cha. Ngài làm người để chiếu toả tình yêu ấy, để con người có thể nhận ra và tiếp nhận, và như thế những ai nhận biết vương quốc và vương quyền của Đức Kitô thì thần phục Ngài là Vua vũ trụ muôn đời.
Khi chịu phép Rửa tội, các tín hữu đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Chúa Kitô không còn đi đó đây trên mặt đất để dạy dỗ và chữa lành dân chúng như Ngài đã từng làm nữa, Ngài chỉ có thể làm được điều đó thông qua thân thể mầu nhiệm của Ngài. Chúng ta là tay, là chân, là miệng lưỡi, là trái tim của Ngài. Nói khác đi, vương quốc Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thiết lập khi Ngài còn ở duơng trần này sẽ phải được chính chúng ta bổ túc bằng cuộc sống trần gian của chúng ta. Điều cốt yếu là chúng ta phải theo những giá trị mà Tin mừng Chúa đã đề ra: sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành… Càng có thêm người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Truyện: Pho tượng Chúa Giêsu Vua.
Trên đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua. Ở xa trông lại, du khách trông như pho tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30 mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de Janeiro, thủ đô nước Brasil.
Bạn thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được pho tượng ấy! Chuyên chở vật liệu từ chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm. Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua, người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển để chứng tỏ vương quyền khắp nơi của Chúa Giêsu
Tạo hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua. Biết bao công lao.
Có những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá. Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu và tắm rửa cho tượng.
(Ngọc Miện, Phút chiều tà, 1957, tr 83)
6. Bất khả bại dù phải chết -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Bị bắt và bị giết, liệu có thể là người chiến thắng không? Tuần trước mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta đã thấy các ngài là những người không bị khuất phục dù phải chết; tuần này chúng ta lại được chiêm ngưỡng Đức Yêsu như vị vua trổi trang trên tất cả cho dù bị giết.
Vua làm chứng cho sự thật
Đức Yêsu bị bắt vì những người lãnh đạo không chấp nhận Đức Yêsu hơn họ, vì Đức Yêsu đã nói sự thật về họ, vì họ tưởng Đức Yêsu tranh giành ảnh hưởng trên dân chúng, làm họ mất uy quyền. Đức Yêsu bị thù ghét đến chết.
Để giết được Đức Yêsu một cách “hợp pháp”, họ đã giải Đức Yêsu tới quan tổng trấn Roma là Philatô, với tội danh “muốn nổi loạn xưng vua”. Chính Đức Yêsu cũng không ngờ mình “được” mang tội danh này: “quan tự ý nói thế, hay người khác đã nói với ngài về tôi?” Với những người ái quốc, khi nước đang bị ngoại bang đô hộ, mà có ai nổi lên chống lại, thì phải cùng cộng tác với người đó mới phải, đằng này lại đi chống lại, đem bắt người đó để nộp cho ngoại bang. Chính vì lẽ này mà Philatô nhận ra Đức Yêsu bị oan, vì thù oán riêng tư mà những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái muốn nộp giết Đức Yêsu: “Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”.
“Chính ngài nói rằng tôi làm vua. Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai theo sự thật thì nghe tiếng tôi”. Thiên Chúa là sự thật. Sự thật là “Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng”, Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả cho con người, vì yêu thương con người, để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa. Cả đời Đức Yêsu là miệt mài làm chứng cho sự thật, ngay cả phải chết.
Vua yêu thương
Vua là người giỏi nhất, chiến thắng những người khác để làm vua. Chẳng hạn ở Việt Nam, Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Huệ, đều là những người chiến thắng tất cả rồi xưng vương. Trong các môn thể thao, những nhà vô địch và giỏi thường được gọi là vua, chẳng hạn như Pelé được gọi “vua bóng đá”. Đức Yêsu là vua, vì Ngài đã trổi vượt trong tình yêu, vì không ai yêu bằng Ngài.
Yêu đến độ tự hủy để sống với người mình yêu. Yêu đến độ, bị từ khước vẫn tha thứ vẫn yêu. Yêu đến độ dám chết cho người yêu, sẵn sàng làm tất cả để người yêu được sống và được sống hạnh phúc.
Thiên Chúa là Đấng yêu con người, nên Ngài tin vào con người. Thiên Chúa tin tôi hơn tất cả những ai tin tôi nhất, hơn cả chính tôi tin tôi. Chính vì vậy Ngài vẫn chờ vẫn đợi, vẫn mời gọi tôi trở lại với Ngài, vẫn mong tôi đáp trả tình Ngài dù rằng bây giờ có thể tôi vẫn còn đang từ chối.
Con vua lại được làm vua
“Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Chúa, chúng ta được mời gọi để sống yêu thương như Chúa “hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga.13, 34).
“Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình yêu mến” (Rm.13, 8). Ơn gọi của chúng ta, chính là yêu thương. Yêu như Chúa yêu. Hãy để cho người khác hơn chúng ta về tất cả, nhưng cố gắng để không thua họ trong yêu thương. Ai khiêm tốn hơn, ai sẵn sàng tự hủy để đi bước trước trong việc làm hòa, là những người “yêu” hơn, giống Thiên Chúa hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta sống yêu thương theo gương Chúa yêu thương. Tự sức chúng ta, không thể sống yêu thương. Ý thức mình bất lực, xin Chúa giúp. Thiên Chúa có thể làm tất cả cho chúng ta vì Ngài yêu chúng ta vô cùng, Ngài sẽ làm chúng ta yêu Ngài và yêu nhau.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn trổi trang nhất về điều gì?
2. Có thể bạn không thể hơn người khác về nhiều điều, nhưng còn về yêu thương? Bạn có muốn không thua người khác về yêu thương không?
3. Liệu có thể tập yêu được không? Bằng cách nào?
7. Lễ Chúa Yêsu Kitô- Vua Vũ Trụ -- lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Khi đứng trước tòa Philatô, Đức Yêsu đã nói: “Tôi sinh ra để làm Vua. Ai nghe sự thật thì nghe tôi” (Ga.18, 37). Đức Yêsu được sinh ra để làm vua, để thống trị trên tất cả. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Mt.28, 18).
Mỗi người đều được mời gọi để làm vua, để vượt lên chính con người mình như chính Đức Yêsu. Nơi vườn dầu, Ngài đã chiến đấu đến đổ máu (Dt.12, 4; 5, 7), Ngài đã khóc lóc rơi lệ… nhưng Ngài đã chiến thắng. Ngài đã chiến thắng chính mình, nên đã chiến thắng tất cả. Mỗi người sống trên đời này ai cũng gặp những cám dỗ; mỗi người đều được mời gọi để vươn lên, để sống cho ra người, để sống yêu thương như con cái Thiên Chúa.
Nơi các anh hùng tử đạo, những người đã bị giết vì các ngài đã kiên trung giữ vững đức tin, vì người ta không thể thắng các ngài, không thể dùng vũ lực bắt các ngài theo ý họ, nên họ đã giết các ngài. Các vị anh hùng tử đạo là những người bất bại; các ngài đã là vua theo một nghĩa nào đó. Đức Yêsu là thủ lãnh các anh hùng tử đạo: Ngài cũng đã bị giết vì làm chứng sự thật và vì tình yêu.
Đức Yêsu có nguồn gốc thần linh. Ngài nói với nhiều người: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một. Ngài nói sự thật, nhưng người ta tưởng Ngài gian dối. Ngài vẫn nói sự thật ngay cả phải chết: “ai theo sự thật thì nghe tôi”. Ngài là Đấng trổi trang nhất trong việc nói lên sự thật. Ngài là chính sự thật.
Đức Yêsu là Vua Tình Yêu. Không ai yêu như Ngài: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga.13, 34). Đức Yêsu đã yêu thương con người cho đến chết: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga.15, 13). Đức Yêsu yêu thương con người đến độ ban chính máu thịt Ngài làm của ăn của uống cho con người: “anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy; ăn em hãy cầm lấy mà uống, này là máu thầy” (Mc.14, 22-24). Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của Đức Yêsu đối với con người: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em, hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga.15, 9).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có cảm phục Đức Yêsu về điều nào không? Xin chia sẻ.
2. Bạn có thần tượng không? Thần tượng của bạn phải có yếu tố nào? Đức Yêsu có hội đủ yếu tố làm thần tượng của bạn không?
8. Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ, vua sự thật -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rô-ma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Phi-la-tô, là ông quan của đế quốc Rô-ma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rô-ma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Phi-la-tô xét xử.
Phi-la-tô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý hỏi điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Phi-la-tô. nếu Phi-la-tô tự ý hỏi như vậy tức là Phi-la-tô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rô-ma không?. Đối với Phi-la-tô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Phi-la-tô hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Nước của Chúa bao gồm những tâm hồn tin theo Chúa. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính Chúa đã khẳng định với Phi-la-tô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Phi-la-tô đã hỏi Chúa điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây Thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá...Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỷ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỷ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác...cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện...có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn, Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mỗi người cần phải vác hằng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
9. Để nên thành viên trong vương quốc vua Giêsu -- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giêsu đã cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giêsu cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
CHÚ THÍCH:
- C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu: Đức Giêsu đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị bắt Đức Giêsu đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thượng tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giêsu đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình Đức Giêsu. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật Mô-sê, mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm vấn Đức Giêsu + “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”: Người Do thái đã tố cáo Đức Giêsu tội phạm về chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về việc này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa đặt?
- C 35: + Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để đòi ông xét xử. Ông hỏi Đức Giêsu đã làm gì đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?
- C 36: + “Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức Giêsu không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải một ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. + “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
- C 37: + “Vậy ông là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giêsu, chứ ông không nghĩ Người là một ông vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giêsu không làm loạn, vì Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói: tôi là vua”: Đức Giêsu xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ mệnh của Đức Giêsu là đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giêsu làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là qua biến cố Tử nạn và Phục sinh của Người. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức Giêsu đến không những để cứu độ dân Do thái được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và cũng là Thiên Đàng mai sau.
CÂU HỎI:
1) Tại sao các đầu mục Do Thái lại giải Đức Giêsu đến tòa án của quan Phi-la-tô?
2) Tại sao người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô phải ra ngòai hành lang để tiếp họ đang đứng dưới sân?
3) Đức Giêsu cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian?
4) Khi hỏi Đức Giêsu: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giêsu không?
5) Đức Giêsu nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào?
6) Đức Giêsu đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?
7) Ngòai dân Do thái ra, Đức Giêsu còn đến cứu độ những ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tôi là Vua” (Ga 18,37):
2. CÂU CHUYỆN:
1) Thẻ căn cước trong Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giêsu:
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.
Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính người mẹ thân thương của mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giêsu. Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình là công dân Nước Trời.
2) Gương bác ái của Máctinô thành Tours công dân nước trời:
MÁC-TI-NÔ là một quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không có tiền, nhưng khi thấy người hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua Giêsu và trên mình Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “Tại sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó? Ai đã cho Ngài?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó”.
Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
3) Đức Giêsu là vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa:
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa. Thánh thượng có toàn quyền cả trên đất liền cũng như ngòai biển cả bao la!”
Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm sóng vỗ rì rào, nhà vua đứng trước biển liền tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo các quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giêsu, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất liền cùng biển khơi” Con chúc tụng ngợi khen Chúa. AL-LÊ-LU-IA!”.
3. THẢO LUẬN:
1) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giêsu trở thành Vua của gia đình mình?
2) Chúng ta cần làm gì để có thẻ căn cước trong Vương Quốc Vua Giêsu?
4. SUY NIỆM:
Ngày nay quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ đối với nhân loại. Trên thế giới hiện nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc, Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính tượng trưng theo truyền thống chứ không còn thực quyền. Thay vào đó, chế độ dân chủ đã được hầu hết các quốc gia áp dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn được bình đẳng và không muốn kẻ khác đè đầu đè cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm thức của con người ngày nay, đặc biệt nơi giới trẻ hay không? Đức Giêsu có thực sự là Vua của chúng ta không và phải làm gì để trở thành công dân Nước Trời của Vua Giêsu sau này?
1) Đức Giêsu thực sự là Vua Mục Tử:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu hỏi về điều mà các đầu mục Do thái mới tố cáo, Phi-la-tô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”. Người trả lời rằng: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này là: làm chứng cho Sự Thật. Ai đứng về Sự Thật thì nghe tiếng tôi”. Qua đó, Đức Giêsu đã khẳng định Người chính là Vua, và Người được Chúa Cha sai đến thế gian nhằm thiết lập một Vương quốc Sự Thật. Phi-la-tô không hiểu lời Người nói nên hỏi lại: “Sự Thật là gì?”. Sở dĩ ông không hiểu sự thật vì ông không phải thần dân của vương quốc Sự Thật do Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).
2) Vương quốc của Vua Giêsu là “Vương Quốc Sự Thật”:
Tin mừng Gio-an, Chúa Giêsu đã nói khá nhiều về Vương quốc Sự Thật mà chính Người sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giêsu đã vén mở một phần về Vương quốc sự thật ấy: “Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn đệ, Đức Giêsu đã khẳng định: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Người đến để chúng ta là thần dân của Người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Người cũng cho Phi-la-tô biết về nước Trời của Người: “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giêsu Na-gia-rét, vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công bố sự thật này là: Đức Giêsu là Vua của dân Do Thái.
3) Điều kiện để được vào Nước Trời là sống giới răn yêu thương cụ thể:
- Vua Giêsu đã đảo lộn mọi bậc thang giá trị của con người khi cho biết trong Nước Trời: “Ai muốn làm lớn nhất thì phải trở nên người bé nhất” noi gương Người, Đấng “đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
- Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập là Vương quốc của Tình Yêu, và chỉ những ai thực thi yêu thương mới đủ điều kiện gia nhập vào Nước ấy. Trong ngày phán xét Người sẽ nói với những kẻ sống bác ái chia sẻ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
- Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cho biết tình yêu đích thực là sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu còn là thái độ khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giêsu sẵn sàng quì xuống rửa chân cho môn đồ và dạy họ rằng: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đức Giêsu cũng đề ra Hiến Pháp của Nước Trời là Bản Hiến chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó, Người nêu ra điều kiện để gia nhập Nước Trời là: Phải sống khiêm hạ siêu thoát, ứng xử hiền hòa, chấp nhận đau khổ bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng thương xót, có tâm hồn thanh sạch, biết ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin...
4) Sứ vụ của các tín hữu là làm chứng cho Sự Thật và sống yêu thương:
Ki-tô hữu là những người chọn bước theo chân Đức Giêsu trên con đường của Ngài, là làm chứng cho sự thật. Vậy chúng ta phải làm chứng cho sự thật, nhất là trong bối cảnh hôm nay, khi sự giả dối ngày càng chiếm ưu thế trong xã hội bằng những cách như sau:
- Trước hết, phải sống đúng sự thật, theo sự mách bảo của Chúa Thánh Thần qua tiếng lương tâm. Vì có lẽ chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn buôn bán của người Việt nam chúng ta lại bị xuống cấp như hôm nay. Chưa bao giờ vì mưu sinh, muốn làm giàu mau mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, bỏ qua tiếng lương tâm cáo trách, để buôn bán hàng gian hàng giả gây nguy hại cho sức khỏe của đồng bào mình: Ra đường thì dễ bị cán phải đinh do “đinh tặc” rải có thể bị té đến tử vong, đi vá xe lại bị “chặt chém”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị gian lận về số lượng mà còn có thể mua phải xăng “dổm” gây cháy xe. Ra chợ thì dễ mua phải thực phẩm chứa thuốc độc hại: Nhiều người đã chết vì uống nhầm rượu “dỏm” hay mặc áo ngực phụ nữ có chứa chất độc hại gây ung thư da...
- Ngoài ra chúng ta phải biết dùng lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng chấp nhận cho người khác trổi vượt hơn mình, thì tâm hồn chúng ta mới thực sự an bình. Hãy năng hát bài Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành theo để nên chứng nhân Tình Thương của Chúa hôm nay.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu: Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của Sự Thật. Xin cho chúng con biết yêu Sự Thật và luôn nói thật, nhưng biết khôn ngoan để không nói những sự thật gây thiệt hại cho người vô tội. Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo.
Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36).
Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin.
Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công dân Nước Trời của Vua Giêsu, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để đưa nhiều người về làm con Chúa trong đại gia đình Hội Thánh.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
10. Vua của thế giới khác
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Phụng vụ Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội muốn trình bày cho ta biết ý nghĩa đích thực Vương Quyền của Chúa Giêsu, cách thế Người sống và thể hiện vương quyền. Đồng thời cho chúng ta cơ hội để xác tín và qui phục Chúa là Vua của ta.
Đứng trước tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố “Tôi là Vua” (Ga 18,37), nhưng Người xác định rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18,36) Vương quốc của Chúa Giêsu là vương quốc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua vì Người đã được Chúa Cha xức dầu tấn phong và trao cho Người vương quyền. Người sống trong sự kết hiệp thâm sâu với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cùng với Chúa Cha và Thánh Thần, Người là Thiên Chúa, Người tạo dựng trời và đất, Người là vua của tất cả những kẻ sống. Người là vua trong Nước Trời và cũng là vua vũ trụ này nhưng với một phương cách khác với vua chúa trần gian.
Vua trần gian cần binh lính bảo vệ, canh giữ lãnh thổ và vương quyền của họ. Với Chúa Giêsu thì không như thế. Người không bao giờ có lính tráng và cũng không muốn có. Người chỉ có môn đệ và gọi họ là bạn hữu. Mọi người là con cái của Người, là anh em với nhau
Những vua ở trần gian này thường giàu có về tài sản, vàng bạc để chứng minh uy thế và quyền lực của họ. Đối với Chúa Giêsu thì không có điều đó. Người không có gì cả. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20)
Những vua chúa và hoàng hậu của trần gian này luôn có đầy tớ hầu hạ xung quanh họ. Còn Chúa Giêsu thì không. Ngôi vua của Người đã dẫn Người đến phục vụ tất cả mọi người “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Ngôi vua của Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Người tự hạ đến trần gian để rao giảng và để làm chứng cho tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại. Người đồng hóa với mọi người nhất là những người nghèo khổ. Đi đến đâu là Người thi ân giáng phúc, tìm kiếm, chữa lành những ai đau bệnh và tha thứ tội lỗi “Vì Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất.” (Lc 19,10) Người yêu thương ta đến cùng khi hy sinh cả mạng sống cho ta và tha thứ đến cùng khi Người cầu xin Cha tha cho những kẻ giết Người. Trên thập giá, Người đã diễn tả tình yêu tột đỉnh mà Người dành cho chúng ta. Chính qua cái chết và sự Phục sinh vinh hiển, Vua Giêsu đã chiến thắng và khải hoàn tiến vào Vương quốc của Người vì “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15,25-26). Từ đó Người mở cửa vương quốc của Người cho chúng ta và triều đại Người vĩnh cửu trường tồn. Triều đại của sự sống và sự thật, của ân sủng và thánh thiện, của tình yêu và bình an.
Vương quốc của Vua Giêsu là nơi mà ở đó người ta yêu thương nhau vì là vương quốc tình yêu. Chỉ có luật yêu thương và Vua Tình Yêu cai trị. Vậy ta cần tập sống yêu thương, tha thứ như lời Chúa dạy và như mẫu gương Chúa yêu thương ta ngay từ bây giờ để rồi ta được trở thành công dân của Vua Tình Yêu và được hưởng hạnh phúc trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu không ở trần gian này vì trần gian chỉ là cõi tạm, sẽ có một ngày kết thúc. Vậy ta hãy biết sống thanh thoát với những ràng buộc của trần gian là danh lợi thú, để không bị quyền lực và vinh quang trần thế làm chủ thì ta mới có thể tự do tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin nhận Chúa Giêsu là Chủ, là Vua, là Chúa của đời ta và hướng lòng về Vương quốc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã yêu thương dành sẵn cho ta và đang chờ ta như Lời Chúa hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em... để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,2-3)
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin qui tụ tất cả chúng con dưới quyền thủ lãnh của Chúa. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi vòng nô lệ tội lỗi, để chúng con biết phụng thờ và yêu mến Chúa là Vua của chúng con và ngày sau xin đón chúng con vào vương quốc của Chúa. Amen.
11. Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ -- Lm. Anthony Trung Thành
Khi đề cập đến danh xưng vua, chúng ta liên tưởng tới thời kỳ quân chủ. Nhưng thời kỳ quân chủ đã qua. Hiện nay chỉ còn một số rất ít nước còn có vua, nhưng vua chỉ là danh hiệu chứ không thực quyền. Mặc dầu không sống trong thời kỳ quân chủ, nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu được phần nào về vai trò của ông vua trong một đất nước hay lãnh thổ.
Vua đi liền với quyền. Có thể nói vua có toàn quyền trên thần dân, kể cả quyền trên mạng sống. Nhưng việc thi hành quyền như thế nào thì tuỳ thuộc từng vị. Đa số các vị vua dùng quyền để cai trị thần dân một cách độc ác, tàn nhẫn như vua Hêrôđê, vua Minh mạng, vua Thiệu trị...Nhưng cũng có những vị vua nhân hậu, hết mực yêu thương thần dân như vua Thánh Louis Nước Pháp(1214 – 1270).
Còn vua Kitô thì sao? Chắc chắn một điều rằng: Ngài là vua nhưng không phải như những ông vua trần thế. Ngài là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Ngài là Vua vũ trụ, “Nước Ngài không thuộc về thế gian này” (x Ga 18,36). Ngài là Vua chân lý, chính Ngài đã nói điều đó với Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”(Ga 18,37). Ngài là Vua yêu thương, vì “Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi”(x. Kh 1,5).
1. Chúa Kitô Là Vua Chân Lý
Thật vậy, Thiên Chúa là nguồn mạch mọi chân lý. Lời của Ngài là chân lý. Lề luật của Ngài là chân lý. Nơi Chúa Giêsu Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn. Chính Ngài là chân lý: “Tôi là đường là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6). Suốt cuộc đời của Ngài đã làm chứng cho chân lý. Một vài lần dân chúng muốn Ngài làm vua: Lần thứ nhất, sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Lần thứ hai, khi Ngài bước vào thành thánh Giêsuzalem, dân chúng hoan hô, trải áo lên đường cho Ngài đi. Nếu Ngài xưng vương một trong hai lần đó thì rất thuận lợi. Nhưng Ngài đã từ chối. Vì, vị vua mà dân chúng quan niệm không đúng với tước hiệu vua của Ngài. Còn hôm nay, Ngài là một tử tội trước mặt quan toà Philatô, không có lợi thế gì, nhưng Ngài đã xưng mình là vua, vì đó là sự thật. Ngài xưng vua để làm chứng cho sự thật. Vương quốc của Ngài “Không khi nào bị phá huỷ” (x. Đn 7,14). “Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất”(x. Đn 7,14).
Mỗi người Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Vua Kitô, muốn bước theo Ngài cần phải sống theo chân lý, làm chứng cho chân lý, vì “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”(X. Ga 18,37).
Sống theo chân lý là sống ngay thẳng, thật thà, chân thành, tránh sự giả hình, giả bộ. Bởi vì “Người ta không thể sống với nhau, nếu không có sự tin tưởng nhau, nghĩa là nói sự thật với nhau”. Theo lẽ công bằng, “Mỗi người phải thành thật bày tỏ sự thật cho người khác”(Thánh Tôma Aq.) Sống theo chân lý là chấp nhận sống trong sự đơn sơ của một cuộc sống phù hợp với gương mẫu của Chúa và đứng vững trong chân lý của Ngài:”Nếu chúng ta nói chúng ta hiệp thông với Ngài, mà chúng ta lại bước đi trong tối tăm, thì chúng ta nói dối, và chúng ta không hành động theo chân lý”(1Ga 1,6).
Làm chứng cho chân lý là phải tuyên xưng đức tin của mình một cách rõ ràng không úp mở, “Đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta” (x. 2Tm 1,8). Làm chứng cho chân lý đòi buộc phải chấp nhận hy sinh, có khi phải hy sinh cả tính mạng. Như trường hợp các Thánh Tử Đạo. Đó là sự làm chứng tối cao cho chân lý và cho đức tin. Làm chứng cho chân lý là phải loại bỏ những xúc phạm đến chân lý: Nghĩa là không được làm chứng gian và bội thề; Không được nói xấu và vu khống phá hoại thanh danh và danh dự của tha nhân; Không được khoe khoang, vì khoe khoang cũng là một lỗi nghịch với sự chân thật; Không được châm biếm, tìm cách hạ giá người khác bằng cách diễu cợt có ác ý một cử chỉ nào đó của tha nhân; Không được nói dối “Nói dối là nói điều không đúng, với ý định đánh lừa người ta”(Thánh Augustinô). “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37). Chúa Kitô đã tố cáo sự nói dối, coi đó là việc làm của ma quỷ (x.Ga 8,44). Làm chứng cho chân lý là biết tôn trọng sự thật. Mỗi người chúng ta có quyền nói lên sự thật, nhưng đây không phải là một quyền tuyệt đối, vô điều kiện. Vì không phải sự thật nào cũng được phép nói ra. Bí mật của bí tích Hoà giải thì bất khả xâm phạm. Các bí mật về nghề nghiệp cũng phải giữ kín. Những điều tâm sự có hại cho tha nhân cũng không được tiết lộ.
(x. GL GHCG số 2464 – 2513)
2. Chúa Kitô Là Vua Yêu Thương
Triết gia Soren Kierkegaard sống tại Đan Mạch cách đây khoảng 150 năm có kể câu chuyện sau: Có một vị vua nọ đắm say một cô thôn nữ nhưng không thể cưới nàng làm vợ, bởi vì vua chúa không bao giờ cưới nông dân. Sau khi đã lật đi lật lại nhiều giải pháp, cuối cùng vua đã đi đến quyết định từ bỏ ngôi báu để trở nên một nông dân hèn hạ và dâng hiến tình yêu mình cho người thôn nữ kia để giữa hai người có được một tình yêu đích thực.
Việc làm của vị vua trong câu chuyện trên giúp chúng ta liên tưởng tới hành vi tự hạ của Vua Kitô. Thật vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã tự hạ mình làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong hang đá lạnh lẽo, thiếu thốn đủ thứ. Vì tình yêu, Ngài đã chấp nhận sống ẩn dật, âm thầm, làm nghề thợ mộc giúp đỡ Đức Mẹ và Thánh Giuse trong suốt 30 năm. Vì yêu thương, Ngài đã lên đường rao giảng Tin mừng để chu toàn sứ mạng của mình trong suốt ba năm. Trong ba năm đó, Chúa đã gọi, chọn và huấn luyện các tông đồ, là những cán bộ nòng cốt của Giáo Hội thuở ban đầu. Tình thương của Ngài đã chạm đến biết bao nhiêu hạng người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Những người bị bệnh hoạn tật nguyền; những người tội lỗi; những người bị áp bức bóc lột; những người nghèo đói khổ đau. Và để dạy cho các môn đệ bài học về sự yêu thương, tối thứ năm tuần thánh, Ngài đã đích thân rửa chân cho các môn đệ và dặn họ rằng: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận sự chống đối, ghen ghét, làm hại mà đỉnh cao là cái chết nhục nhã trên thập giá. Cái chết của Ngài làm chứng cho tình yêu, vì”Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Vì yêu thương nhân loại, nên trước khi về trời, Ngài đã lập các bí tích, nhất là Bí tích Truyền Chức và Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến tận thế.
Để thuộc về công dân nước trời, mỗi người kitô hữu chúng ta cần phải biết sống yêu thương. Trong bài Tin mừng Thánh Mathêu kể về sự phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho chúng ta thấy, tiêu chuẩn duy nhất Chúa phán xét chúng ta là Tình Yêu. Vậy, hãy cố gắng thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống. Đó chính là những công việc từ tâm, là những hành vi bác ái chúng ta làm để giúp đỡ người đồng loại trong những thiếu thốn vật chất và tinh thần. Dạy dỗ, khuyên răn, an ủi, khích lệ là những công cuộc từ tâm tinh thần, cũng như tha thứ và nhẫn nhục chịu đựng. Còn các việc từ thiện vật chất thường là: Nuôi dưỡng những người đói khổ, lo nơi trú ngụ cho người vô gia cư, lo áo mặc cho người rách rưới, thăm viếng các bệnh nhân và các tù nhân, lo mai táng người chết. Trong số các hành vi này, bố thí cho người nghèo là một trong những chứng từ chính yếu của đức bác ái huynh đệ, đó cũng là một hành vi công chính đẹp lòng Thiên Chúa (x. Gl GHCG số 2447).
Tóm lại, Chúa Kitô là Vua. Ngài là Vua Chân lý. Ngài là Vua Yêu thương. Mỗi người chúng ta muốn thuộc về thần dân của Ngài thì hãy sống theo Chân lý và làm chứng cho Chân lý. Hãy sống yêu thương, và thể hiện tình yêu thương đó đến với tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh. Amen.
12. Vua vương quốc yêu thương và an bình -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta.
Đã từ lâu, trong ngôn ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu Vua; Đúng, Người là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi vượt trên hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời. Chúa Giêsu là vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con tim đến với mình. Người là “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang...” (Ca nhập lễ).
Lễ Chúa Kitô Vua tương đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ tước hiệu vua, được áp dụng cho Chúa Giêsu thật quan trọng trong các Tin Mừng, chính Tin Mừng cung cấp cho chúng ta một bài đọc đầy đủ về dung mạo cũng như sứ vụ của Đấng Cứu Thế. Khởi đi từ “Vua người Do thái”, dẫn đến tước hiệu “Vua của thế giới”, “Chúa của vũ trụ và lịch sử”, vượt qua mọi kỳ vọng của dân Do thái.
Trọng tâm tiến trình mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết và sự phục sinh của Người. Khi bị treo trên thập giá, các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão nhạo báng Người rằng: “Nếu ông là vua Do thái; thì hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta tin nào” (Mt 27, 42).
Trong thực tế, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết trên cây Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha trên sự bất tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa Giêsu đã trở thành Vua vũ trụ, như Người đã tuyên bố với các tông đồ sau khi sống lại, “Thầy đã được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).
Quyền bính của Chúa Kitô Vua ở đây là gì? Hẳn không phải là quyền bính của các vua trần thế và những kẻ có thế lực; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể ban sự sống thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị của thần chết. Ðây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác ra sự lành, làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những cuộc xung đột, biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp đặt bất cứ điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” (Ga 18, 33) Bị hỏi, nhưng với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà Chúa hỏi lại ông: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” (Ga 18, 35)
Khi thi hành sứ mạng công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Người lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Chúa là Vua không có quân đội, không khí giáp.
Cung điện Người ở đâu? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. “Vua không có cung điện” nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này được tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định, “Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý” (Ga 18, 37).
Vậy chúng ta theo ai: Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy chúng ta lựa chọn. Chọn theo Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu chuẩn thế gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Người mới có thể mang lại cho chúng ta. Với Người, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và an bình. Chúa là “Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!” Chúng ta phải thường xuyên lặp lại: Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn anh em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa là Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa là sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là “Vua của một vương quốc huynh đệ!” Hãy là những người anh em yêu thương nhau! Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin Mừng trình bày Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.
Khi nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” (Ga 18, 36-37).
Chúng ta đang ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu, sự dịu dàng, hiền lành, vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người là Đấng công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.
Để phục vụ Đức Giêsu Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại cánh chung đang đến... điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu: Vâng, Vua chúng ta yêu cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại “các thế lực của bóng tối” (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm chắc phền thắng (x. Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia chiến đấu, chiến đấu hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt… vì “những ngày là xấu xa! “ (Ep 5, 16) và rằng “cả thế giới nằm dưới sự thống trị của ma quỷ” (1 Ga 5, 19).
Làm cho Chúa hiển trị, tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta... khi tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta không xấu hổ! (LG §31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói cùng dân chúng ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng: “Hãy đi đến các ngả đường, sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến cho mọi người Ơn cứu độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình, trường học, trong các nền văn hóa và đời sống chính trị!” Đừng sợ phải đi ngược dòng! Làm cho Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh hồn về với Chúa là Vua Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.
13. Giêsu vua tình yêu
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Khi nói tới “vua” là chúng ta nghĩ ngay đến ngai vàng, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí... Nhưng ngày nay người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó. Chẳng hạn, Ông Henri Ford là vua xe hơi, cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ, rồi có vua đầu bếp, vua mì tôm, vua ca nhạc… Còn Đức Kitô hôm nay chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Khi nghe những trang Tin Mừng và nhìn vào chính con người Chúa Giêsu ta chẳng thấy Ngài có gì vua cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một vài đệ tử ít ỏi, còn xung quanh là những người nghèo nàn khố rách áo ôm, tật bệnh, tội lỗi….
Nhưng, thực tế, Chúa Giêsu là Vua, Vua của mọi người. Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài còn là Vua trên tất cả các vua trần gian vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên trời đất muôn vật muôn loài và thống trị vũ trụ này. Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương xót. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự thật, cho nên Ngài quả quyết với ông Philatô và chúng ta hôm nay rằng: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).
Sự thật là gì? Quan Philatô hỏi nhưng Chúa Giêsu không trả lời bằng lời nói mà bằng hành động của Ngài là yêu thương cứu độ hết mọi người. Sự thật cứu độ của Chúa Giêsu là yêu thương cứu độ hết mọi người. Qủa thế, trọn cuộc sống dương gian của Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến chết và phục sinh, được gồm tóm trong hai chữ “YÊU THƯƠNG”. Thứ nhất, vì yêu thương, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Thứ hai, vì thương yêu, Chúa Giêsu đã mạc khải Chúa Cha (Ga 8,19) và căn tính của mình cho mọi người biết Ngài là Con Thiên Chúa (Ga 10,36), là Đấng Mêsia (Ga 1,36-41) được Chúa Cha sai đến (Ga 3,17a). Ngài còn mạc khải Nước Thiên Chúa để phàm ai tin vào Ngài sẽ được Nước ấy làm gia nghiệp (Ga 3,5) và được sống muôn đời (Ga 3,15). Thứ ba, vì yêu thương, Ngôi Hai Thiên Chúa đến thế gian như người tôi tớ phục vụ và cứu độ hết mọi người (Ga 5,20-27). Cuối cùng, vì yêu thương, Chúa Giêsu đã hiến thân mình trên cây thập giá để cho mọi người được hưởng tình yêu dạt dào của Thiên Chúa (Ga 14,1-3). Vì vậy, trong bài đọc 2 Thánh Gioan xác tín rằng: “Đức Giêsu Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1,5-6).
Vậy, vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu, Chúa Giêsu là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người. Qủa thế, giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy khi lãnh nhận Bí Tích Rủa Tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế, sứ mạng Ngôn Sứ và vương đế tình yêu của Chúa Giêsu. Vì thế, qua mỗi thánh lễ Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta khi ra về phải thi hành sứ mạng vương đế tình yêu trong cuộc sống. Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu chân tình, chung thủy, trung tín và tình yêu hy sinh cho người mình yêu. Cho nên, Chúa Giêsu dạy rằng không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người thí mạng vì mọi người mình yêu dù người ấy là kẻ thù của ta. Đây là nét đặc trưng nổi bậc nhất của đạo Công Giáo chúng ta.
Chúng ta được hạnh phúc trở thành con cái, anh em và là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu. Cho nên, yêu thương là lẽ sống của từng cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Vì “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Đồng thời Vua Giêsu sẽ thúc dục chúng ta học và sống với Ngài: lòng nhân hậu, thương xót người, hiền lành, khiêm nhường và phục vụ hết mọi người. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la phèng phèng nghe đã lỗ tai rồi bay đi thôi. Vì vậy, Thánh Gioan tông đồ nói rằng: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào đó, chúng ta biết mình đứng về sự thật và sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,18-19). Đặc biệt hơn nữa, Năm Thánh Lòng Thương Xot sắp khai mạc, trong Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thươn Xót”, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta rằng: “Nếu chúng ta ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu và ngước mắt nhìn lên dung nhan nhân hậu của Ngài, chúng ta sẽ thấy được Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Tình Yêu này rõ ràng và trở nên cụ thể trong toàn bộ cuộc sống của Chúa Giêsu. Ngôi vị của Ngài không phải là bất cứ điều gì khác ngoài Tình Yêu, một Tình Yêu tự hiến(số 8§1). Tình Yêu nhân hậu của các Ki-tô hữu cũng phải nằm trên hành trình yêu thương của Chúa Giêsu Vua. Người yêu thương chúng ta thế nào thì con cái cũng phải yêu thương thể ấy. Nếu như Thiên Chúa là Đấng Thương Xót thì chúng ta cũng được kêu gọi để xót thương nhau” (số 9§4).
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người. Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để Nước Chúa hiển trị muôn đời. Amen.
14. Vị vua không giống ai
Mỗi năm, cứ đến Chúa nhật cuối cùng thì Phụng vụ lại mừng kính Đức Kitô là Vua. Thế nhưng, Ngài là vua theo ý nghĩa nào?
Khi Philatô chất vấn Chúa Giêsu: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu đã trả lời: Phải, tôi là vua. Cũng là một khái niệm làm vua, nhưng Philatô có kinh nghiệm khác, người Do Thái có kinh nghiệm khác, còn Chúa Giêsu thì cũng có kinh nghiệm khác.
Philatô thì coi làm vua là người ngự trị trong vinh quang, theo kiểu Caesar lúc bấy giờ đang trị vì tại Rôma. Người Do Thái thì coi làm vua là phải nổi lên để giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột và kìm kẹp của đế quốc Rôma, đem lại cho quê hương đất nước một thời đại hoàng kim. Còn Chúa Giêsu thì sao? Quan niệm của Ngài có mang nặng màu sắc chính trị và trần tục hay không?
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai, các Phúc Âm đều nói tới những cơn cám dỗ Ngài phải chịu trong hoang địa. Chủ đề của những cơn cám dỗ ấy xoay quanh và gắn liền với uy quyền, với khái niệm làm vua. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đương đầu, đã khước từ sự cám dỗ ấy, không phải chỉ ở trong hoang địa, mà còn kéo dài trong suốt cả cuộc đời của Ngài. Sự cám dỗ ấy đến từ phía dân chúng, cũng như đến từ thẳm sâu cõi lòng của Ngài. Chẳng hạn sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, dân chúng muôn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trôn họ. Đứng trước tòa án của Philatô cũng vậy. Sau khi xác quyết mình là vua, thì Ngài đã lập tức xác định ngay lập trường của mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì binh đội của tôi đã chiến đấu, để tôi không bị nộp cho người Do Thái.
Bởi đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không từ chối tư cách làm vua của Ngài, nhưng kinh nghiệm làm vua ấy có một nét khác lạ và sâu xa. Chính vì thế, Ngài đã khước từ mọi kinh nghiệm trần gian của việc làm vua. Thái độ của Chúa Giêsu là luôn tránh né, để khỏi gây hiểu lầm về tính cách thiên sai của Ngài: Ngài đã tự coi mình là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã nói tới. Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như thế, chúng ta thấy có một sự đối chọi gay gắt giữa khái niệm làm vua để thống trị và quy hướng về mình, với hình ảnh người tôi tờ đau khổ, thinh lặng và chịu đựng mọi khinh bỉ, nhưng nhờ đó đã làm phát sinh ra sự sống ơn sủng, cũng như làm phát sinh ra sự giải thoát khỏi những trói buộc của tội lỗi. Hẳn thực Chúa Giêsu đã sống cho người khác, đã xử trí các tương quan bằng lòng yêu mến. Ngài đã lên ngôi khi bị treo trên thập giá. Giới luật Ngài dùng để cai trị, đó là giới luật yêu thương. Ngài đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ bằng việc quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội. Ngài là một vị vua không giống ai.
Vì thế mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi phải làm gì? Tôi phải sống thế nào, để xứng đáng là thần dân trong vương quốc của Ngài.
15. Vua sự thật -- ‘Xây Nhà Trên Đá’ --Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Chúng ta mừng lễ Đức Giêsu làm vua. Đáng lẽ Tin mừng phải diễn tả quang cảnh tôn vinh Đức Giêsu như một ngày lễ phong vương long trọng theo phong cách lễ nghi tôn vương của các vua trần gian. Nhưng Tin mừng chỉ kể lại phiên tòa xét xử Đức Giêsu. Trên ngai, chánh án toàn quyền Philatô; dưới quảng trường nguyên cáo là các thượng tế và dân chúng; đứng trước vành móng ngựa, bị cáo là Đức Giêsu đầu đội triều thiên gai, hai tay bị trói.
Chánh án hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Bị cáo hỏi lại Chánh án: “Ông tự ý nói điều ấy hay có ai khác nói với ông về tôi?”. Chánh án đáp: “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi”.
Toàn quyền Philatô đại diện hoàng đế La mã, cai trị nước Do thái. Thời đó, đế quốc La mã thống trị 8 nước Âu châu (Ý, Pháp, Anh, Đức, Áo, Nam Tư, Romani, Hy Lạp) 5 nước Á châu (Thổ Nhĩ Kỳ, Syrie, Lyban, Palestine, Do thái) và 5 nước Phi châu (Ai cập, Lybie, Tunisi, Algêrie, Marốc). Chánh án Philatô hỏi bị cáo Giêsu, Đức Giêsu không trả lời, nhưng hỏi lại Philatô và Philatô đã phải trả lời: “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các trưởng tế đã nộp ông cho tôi”.
Câu trả lời của Philatô đã cho thấy ông thú nhận ba điều:
Thứ nhất: Philatô là chánh án xét xử Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu không bị dồn vào thế bị động, không bị xét xử, Người đã chủ động, đứng ra xét xử Philatô. Rõ ràng Philatô đã phải thú nhận mình không biết gì về Đức Giêsu, ông chỉ nghe dân chúng và các thượng tế tố cáo Đức Giêsu nổi loạn làm vua. Toàn quyền Philatô là chánh án không biết bị cáo có tội gì, không biết sự thật mà dám xét xử thì làm sao có công lý.
Thứ hai: Toàn quyền Philatô nắm giữ quân đội La mã hùng mạnh để giữ gìn an ninh trật tự, để chiến đấu dẹp những kẻ nổi loạn chống lại hoàng đế; thế mà ông không hề phải dùng quân lính dẹp loạn, quân ông không phải chiến đấu với Đức Giêsu. Như vậy, Đức Giêsu có nổi loạn đâu! Sao ông dám kết án Đức Giêsu nổi dậy làm vua? Ông đã xét xử mù quáng.
Thứ ba: Philatô thay mặt hoàng đế cai trị dân Do thái, như vậy, ông cũng là vua nước nhỏ, vua dân Do thái. Vua phải biết thương dân. Ông chưa biết người dân có tội, đã bắt trói, cầm tù, đánh đập, đội mạo gai, ông thật là thứ vua tàn ác, dã man. Quả thực, mấy năm trước đó, Philatô đã đóng đinh hàng ngàn người thuộc phái Nhiệt thành cuồng tín (Zelotes) nổi loạn (Lc. 13, 1-3).
Sau khi Philatô thú nhận tội lỗi của mình, Đức Giêsu mới tuyên bố: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước Tôi thuộc về thế gian này, thì người của Tôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do thái”.
Trước hết, Đức Giêsu đã phân biệt nước Người không thuộc về thế gian này. Nước thế gian như đế quốc La mã, vua có binh hùng tướng mạnh, đi xâm lăng thống trị các dân tộc yếu hơn, bắt họ làm nô lệ cho đế quốc. Vua tha hồ bóc lột đàn áp để giết người cướp của. Vua độc tài, độc tôn muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết, muốn phong ai thì phong, dù là kẻ bất tài, thất đức.
Thứ đến, nước Đức Giêsu cũng không phải nước dân Do thái mong đợi. Nước Do thái mong ước là nước con vua Đa vít: bách chiến bách thắng để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, và còn thống trị muôn dân nữa. Vua Cứu thế sẽ khôn ngoan hơn Salomon để các vua chúa vương hầu khắp thiên hạ phải tôn vinh Ngài và “đổ về thủ đô Giêrusalem, nguồn phong phú biển cả, và của cải muôn dân đến cho ngươi. Lạc đà đàn đàn che rợp đất, tải vàng với hương trầm, hết thảy kéo lại cho ngươi” (Is. 60, 5-6). “Ngươi sẽ được gọi là Cố vấn kỳ diệu, thần Anh dũng, Cha muôn thuở, Vua thái bình, quyền bính vô tận trên ngai Đa vít” (Is. 9, 5-6).
Sau cùng, nước Đức Giêsu là nước không thuộc về thế gian này, không có quân tướng, vũ khí nên Người sẵn sàng nộp mình cho người Do thái. Nước Người là nước huyền nhiệm, nước trời muôn thuở, vô biên, không có lãnh thổ, không thuộc trần gian, nhưng có từ nguyên thủy đến tận cùng thế giới (Alpha và Ômêga), nước thuộc về Đấng đã có, đang có và sẽ đến.
Tiếp đến, Đức Giêsu nói: “Tôi sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật đều nghe tiếng Tôi”. Sự thật đó là gì? Sự thật đó là đường cứu độ đưa con người đến sự sống muôn đời. “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nước Đức Giêsu khác hẳn nước thế gian. Nước thế gian chỉ đưa đến nô lệ, bất công, chiến tranh và chết chóc.
Đức Giêsu đã kêu gọi Philatô nghe tiếng Người đứng về phía sự thật. Nhưng bị đắm chìm trong quyền bính, danh vọng, Philatô đã đứng về phía gian ác của phường bất chính đổ vạ cáo gian nên đã trao Người cho lý hình đóng đinh và đâm thâu vào Thánh Tâm Người (Ga. 19, 34). Thánh Tâm đầy lòng thương xót đã rộng lòng khoan dung tha thứ:
“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói: “Ông này có làm điều gì sai trái đâu!”. Và anh đã cầu nguyện với Người: “Lạy Đức Giêsu, khi nào vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám xin được vào nước Người vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm tốn của anh, Người đã dịu dàng nói với anh: “Tôi nói thật, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên nước thiên đàng” (Lc. 23, 41-42).
Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, viên đại đội trưởng đã tuyên xưng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính”. Và tất cả đám người đã tụ tập đông đảo xem thấy cảnh tượng ấy, đều đấm ngực trở về nhà (Lc. 23, 47-48).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận biết Chúa là vua sự thật để chỉ đường chân thật cho chúng con đi, là vua nhân ái, đến hy sinh hiến mạng sống cho chúng con được sống muôn đời.
16. Kitô Vua
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại đặt vấn đề với quan toà và hướng dẫn cả cuộc tranh luận về tước hiệu Vua dân Do Thái.
Thực vậy, Chúa Giêsu biết rằng chính dân Do Thái đã tố cáo Người xưng mình là vua. Nếu không có lời tố cáo này, Philatô chẳng bao giờ có ý bắt và kết án Người. Và bây giờ, nếu ông có quan tâm thì cũng chỉ vì khía cạnh chính trị của lời tố cáo này mà thôi, bởi vì ông đại diện cho hoàng đế Rôma, cai trị đất nước Do Thái.
Nhưng Chúa Giêsu nói tiếp với quan tổng trấn rằng: Nước Người không thuộc về thế gian này. Đối với người Do Thái cũng như đối với Philatô, danh từ vua chỉ có một ý nghĩa duy nhất là một lãnh tụ chính trị, có vương quốc, có thần dân với bộ máy cai trị và quân đội, để bảo vệ chủ quyền và an ninh cho đất nước. Nếu Chúa là vua theo nghĩa này thì hẳn thần dân của Người đã không để cho Người rơi vào tay họ. Chính họ cũng biết điều đó. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Người đã từ chối ý định của họ là muốn tôn Người làm vua.
Chúa là Vua, nhưng Người không cạnh tranh với hoàng đế Rôma vì nước Người không thuộc về thế gian này. Vương quốc của Người được thiết lập ngay trong lễ Vượt qua, khi Người phó mình chịu chết để vâng phục thánh ý Chúa Cha: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta. Đức Kitô thi hành vương quyền của mình bằng cách kéo loài người khỏi sự chết để dẫn đưa họ vào nhà Chúa Cha.
Điều nghịch lý là ở chỗ ngay trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô mới xưng mình là vua và ngay khi bị treo trên thập giá Người mới chứng tỏ mình thật sự là vua. Trong suốt cuộc xét xử, Philatô đã tỏ ra là một quan toà nghiêng ngửa và yếu đuối. Ông ta biết Chúa Giêsu không có tội gì và muốn tìm cách tha Người, nhưng ông lại sợ áp lực của người Do Thái: Nếu quan tha nó thì quan không phải là bạn hữu của hoàng đế.
Thế thì nguy rồi, chức vụ của mình, gia sản của mình và ngay cả mạng sống của mình cũng có thể tiêu ma. Thôi mặc kệ cho sự thật, mặc kệ cho bị cáo phải tử hình. Ta lo cho ta trước đã. Đó là một con người không trung thực và hèn nhát. Dù biết Chúa Giêsu không có tội muốn làm loạn, muốn xưng vương, nhưng Philatô vẫn cứ treo bản án: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám đứng về phía của chân lý của sự thật hay không? Chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh, những thiệt thòi để cho Nước Chúa được trị đến hay không?
17. Đức Giêsu Vua hoàn vũ
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Elvis Aron Presley (1935–1977) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling Stone từng viết “Elvis chính là rock 'n roll” và phần lớn tác phẩm của Elvis là hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về lượng khán giả đến xem trình diễn, cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.
Là một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng nhạc, Presley sống một cuộc đời xa hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis sinh ngày 8/1/1935 trong một mái lều xiêu vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng bù lại, gia đình chăm sóc Elvis Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm 15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi, Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó là một cây guitare. Ban đầu, cậu tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng, nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút đến quên cả ăn ngủ.
Chỉ vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu xuất hiện một anh chàng khá điển trai, biểu diễn hết mình, với những cú lắc hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được các thiếu nữ ở dưới khán đài reo hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: “Liệu tôi có làm gì sai không mà bị mọi người la dữ như vậy?” để rồi nhận được câu trả lời: “Dù anh có làm gì đi nữa, thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức và tua lại màn trình diễn đó đi!” Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi âm đầu tiên, trị giá chỉ có 30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới phải ngỡ ngàng, khi giành liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và nhanh chóng trở thành triệu phú.Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô nàng Priscilla Beaulieu và sau 8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy vợ, anh trở nên “ngoan ngoãn” hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của ma tuý, Elvis đã được Tổng thống Mỹ Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy nhiên, đang trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng thanh niên này đã tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng vang trong lĩnh vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được đai đen Karatê.
Sau khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia, đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí còn nhiều hơn cả chương trình cuộc thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng làm ông Vua nhạc rock and roll lún sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm nào mà anh không phải dùng đến thuốc ngủ. Đến ngày 16/8/1977, ngôi sao sáng đã tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại bao nỗi thương tiếc cho fan hâm mộ. (Wikipedia)
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại, cao sang và trường cửu, không ồn ào, hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm như Vua Rock kia. Vì Người là Đức Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 3 - 4)
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Quan Tổng trấn Philatô mỉa mai hỏi Đức Giêsu. Người không nhận cũng chẳng chối, mà hỏi lại điều đó do ai nói ra, rồi giải thích cặn kẽ. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này.” Nước Chúa thật kỳ lạ, hoàn toàn trái ngược với thế gian, nhưng vẫn hiện diện và tồn tại.
Đức Vua Tình Yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu.” Thánh Gioan đã long trọng khẳng định trong Thư thứ nhất. (1Ga 4, 16) Bởi vì “Thiên Chúa yêu thế gian đến ban Con Một mình, để ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống đời đời.” (Ga 3, 16) Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, thể hiện công khai Tình Yêu qua cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Vì yêu thương nhân loại, Người mặc lấy thân xác phàm nhân, nghèo khó, cơ hàn, tầm thường, để gần gũi, an ủi, vỗ về, dẫn dắt mọi người đến sự sống vĩnh cửu. Người chính là ánh sáng, soi chiếu vào chốn tăm tối, tội lỗi, để cứu thoát con người khỏi lầm lạc, chết chóc.”Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm.” (Ga 12, 46)
Nhân ái, khiêm nhu, hiền hậu, khoan dung, tha thứ, Đức Vua Giêsu luôn mãi yêu thương mọi người, nhất là những ai lạc bầy, lẻ đàn, như người thu thuế, phụ nữ hư hỏng, những kẻ bệnh tật, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ phân biệt…”Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian.” (Ga 12, 47)
Đức Vua Giêsu đã hiến tế chính thân mình để minh chứng cho Tình Yêu vô biên của Người với nhân loại. “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Đức Vua Công Chính
“Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật.” (Ga 18, 36-37) Đức Giêsu khéo léo xác nhận chức vụ cao cả, vĩ đại của Người, là làm chứng cho sự thật, cho sự công chính giữa thế gian, đang bị chìm đắm, mê muội trong sự giả dối, gian tà, lưu manh, háo danh, háo lợi. Người đem Tin Mừng đến hạ bệ, giải thoát, xua đuổi, những ngẫu tượng, những tà thần ra khỏi tâm hồn con người. “Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1, 13) Tiếc thay, không phải ai cũng sẵn sàng mở lòng đón nhận Đức Vua Công Chính.”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.”(Ga 1, 11)
Chỉ duy nhất Đức Vua Giêsu mới có thể dẫn dắt con người đến nguồn sống vĩnh cứu. Bởi vì Người chính là chánh đạo, là ánh sáng cứu độ: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6)
Đức Vua Bình An
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28 - 30) Trong một thế giới ồn ào, xô bồ, thực dụng, chụp giựt cơ hội làm giàu, tranh nhau chức quyền, con người điên đảo, quay cuồng, chạy theo gía trị vật chất, phàm tục, làm sao có bình an trong tâm hồn? Phước thay, Đức Giêsu đã kịp thời đem lại bình an cho nhân loại. “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14)
Sự bình an đích thực không thể bỗng dưng mà có, nếu không nhờ Đức Vua Giêsu chịu hy sinh, hiến tế trên đồi Golgotha. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1, 20)
Đức Vua Bình An luôn thân thương mời gọi con người gia nhập vào Nước Chúa, sống theo đường lối của Người, theo chân lý của Người, tuân thủ theo Bát Phúc, thì mới được hưởng phúc an bình và niềm vui. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17)
“Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em.” Vì không có tình yêu nào lớn lao hơn. Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao, để chinh phục anh em về với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 981)
Lạy Chúa Giêsu, Vua trên hết các vua, nhưng không thống trị, mà yêu thương phục vụ, không chỉ thị ra lệnh, mà chỉ khuyên nhủ, ủi an, không gay gắt kết án, mà chỉ ra tay cứu giúp, không trừ khử, mà luôn đi tìm kẻ lạc đường trở về. Xin Người dạy cho chúng con sống trung thành với Tin Mừng, để xứng đáng làm công dân Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa mà vô cùng khiêm hạ, hiền hậu, từ bi, nhân ái, xin Mẹ giúp chúng con cải tà quy chánh, một lòng một dạ tuân giữ Hiến Chương Nước Trời, để được Đức Vua Giêsu thương yêu mãi. Amen.
18. Thiên Vương
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc thực tế để nắm giữ quyền lực này. Có hai cách duy trì quyền lực: luật pháp và sức mạnh. Cách thứ nhất thì tốt nhưng luôn luôn không đủ. Vị quân vương giỏi phải dùng cách thứ hai, cách của sức mạnh.
Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì lại không thể chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để doạ sói.
Quân vương không cần giữ lời hứa, nếu có điều gì chạm vào quyền lợi của ông ta. Phần lớn con người thì bất lương, vô ơn, lường gạt, nói dối, sợ nguy hiểm và tham lợi, cho nên tại sao vị quân vương phải lương thiện với họ.
Một quân vương nên để cho người dân yêu mến hay sợ hãi? Có thể ông ta cần cả hai. Nhưng nếu phải chọn một trong hai, thì an toàn hơn là để cho người dân khiếp sợ. Tuy nhiên tôi cho rằng vị quân vương nên làm ra vẻ bác ái và trọng danh dự, vì dù sao phần lớn con người thường bị lường gạt bởi sự phô trương, và tôi đồng ý rằng một quân vương không kiểm soát được mình thì giống như một kẻ điên, và không còn điều nghi ngờ về một chính quyền được điều hành bằng luật pháp.(Niccolò Machiavelli, Le Prince)
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến vương quyền. Quan Philatô hỏi Chúa Giêsu:”Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu lại đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói về tôi?” Quan Philatô phủ nhận mình không là dân Do Thái, rồi lại hỏi câu khác: “Ông đã lảm gì?”Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi này, mà khẳng định môt điều hoàn toàn xa lạ với câu nghi vấn nêu ra.
Quan Philatô trở lại câu hỏi ban đầu: “Vậy ông là vua sao?” Chúa Giêsu lại khéo léo tránh né: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.” Lần thứ hai Người tế nhị từ chối vương quyền trần thế.
Quân Vương
Quan Philatô đã cố ý gài bẫy Chúa Giêsu nhìn nhận vương quyền, nhằm hai mục đích, trước là ghép tội mưu phản, sau là bêu riếu, sỉ nhục Chúa Giêsu. Nhưng Người đã khôn ngoan đối đáp, lấy lại thế chủ động, cật vấn trở lại, khiến quan Philatô lúng túng, phải thanh minh, kẻo bị liên lụy, mang tiếng là a dua với dân Do Thái, cố tình phong vương cho Chúa Giêsu, có thể bị mang tội phản quốc, khiến ông phải vội đính chính ngay:”Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.”
Nếu muốn làm vua, Chúa Giêsu đã có nhiều cơ hội được lên ngôi nhờ chính quần chúng tôn phong, như sau khi hai lần hóa bánh nuôi hàng ngàn người, như khi được chào đón trọng thể vào Đền Thánh Giêrusalem…Nếu thành quân vương, thì làm sao thoát được thói bá đạo để củng cố quyền lực, như Niccolo Machiavelli đã trình bày trong tác phẩm Quân Vương.
Nhân cơ hội thẩm vấn công khai, trước chính quyền đô hộ, Chúa Giêsu loan báo rộng rãi về Vương Quốc của Người, hoàn toàn thoát tục: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái.”
Thiên Vương
Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm một lần nữa: “Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” Như thế, Người muốn nói đến Nước Trời, Thiên Quốc, niềm hy vọng và cứu cánh của con người. Bởi vậy, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ khi đến thế gian: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18, 37).
Vương quyền của Chúa Giêsu đặt trên nền tảng sự thật, yêu thương và phục vụ, chứ không phải lừa dối, mỵ dân, thù hận và áp bức như quân vương thế gian. Người còn làm gương, sống đúng theo lề luật Nước Trời, khiêm hạ, nhịn nhục, chịu khinh rẻ, phỉ báng, chịu cáo gian, vu khống, mà vẫn yêu thương và phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng. Còn thần dân trung tín của Người là những người nghe theo và thực thi Lời Người dạy.
Tuy nhiên, con người thường vẫn hay tôn thờ đồng tiền như là vua của mình. Tiền như tiên, như Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già…Hoặc công danh là tiên đế, thái thượng hoàng. Hoặc hưởng thụ, xác thịt, xa hoa là quân vương. Chạy theo “đồ giả,” “hàng giả” bóng bẩy, hào nhoáng, màu mè, hấp dẫn, mà bỏ qua “đồ thật”, “hàng thật” chân chất, tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Mải mê chạy theo các thờ lạy các hôn quân hỗn tạp, vô tình xa lánh Minh Quân duy nhất. Tuy nhiên, Đấng Thiên Vương cứ vẫn nhẫn nại, chờ đợi các con dê ham vui, sớm sám hối, ăn năn, trở thành chiên ngoan, sớm nhận ra vị Vua đang yêu thương mình quá bội.
Đấng Thiên Vương Giêsu lấy thịnh tình đối xử với con dân. Luôn săn sóc, luôn nâng đỡ, luôn an ủi và mời gọi những kẻ khốn cùng, những con chiên lạc, những đứa con hoang đàng, tả tơi, kiệt lực, kiệt sức, sám hối trở về. Vì Tình Yệu vô bờ bến, Thiên Vương Giêsu đã phải hạ mình, chịu khổ hình và chịu chết, đền thay nguyện giúp cho mọi tâm hồn tội lỗi, hầu cứu rỗi thoát khỏi án phạt muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy luôn làm Vua tâm trí và cõi lòng của con, để con có thể thuộc về Người từng giây phút trong cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết sống xứng đáng là con dân của Vua Kitô, Đấng hằng chăm sóc và ban muôn hồng ân, để con được sống muôn đời trên Nước Trời. Amen.
19. Kitô Vua
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi người.
20. Ðức Giêsu Kitô, vua vũ trụ -- “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc
Ðại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Ðức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Ði ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
****
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga.18,37). Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Ðó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu.
Ðối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. “Ðâu có tình yêu thương ở đấy có Ðức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
****
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen.
21. Vua tình yêu.
Ngày nay, người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy, không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ.
Và để cho việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
22. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu - Lm Hồng Phúc
Hình ảnh Chúa Giêsu phác hoạ về ngày phán xét thế giới trong Tin Mừng hôm nay cho thấy tính nghiêm trọng trong ngày xử án của vị vua vũ trụ. Đó là ngày tách chiên ra khỏi dê, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, tách sự sống ra khỏi sự chết.
Quan trọng như thế mà tất cả cán cân công lý của ngày phán xét chỉ dựa trên có một điều luật duy nhất. Lạ lùng hơn nữa là chính cả chiên lẫn dê đều sửng sốt không biết mình đã thi hành hay không thi hành điều luật ấy khi nào. Đến nỗi vua vũ trụ phải giải thích “Điều gì các ngươi đã làm cho một người anh em nhỏ nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta” (Mt 25, 40)
Điều luật đó chính là Đức Ái.
Nhưng tại sao vua vũ trụ lại chỉ sử dụng có một khuôn vàng thước ngọc duy nhất ấy? Là vì động lực thúc bách Thiên Chúa tạo dựng trời đất cũng xuất phát duy nhất bởi tình yêu. Đã xuất phát điểm bởi tình yêu thì chung cuộc cũng trở về duy nhất bởi tình yêu. Ta nhận ra dung mạo của vị vua vũ trụ trong một chân dung được khắc hoạ là vị vua tình yêu!
Không ai khác, đó chính là “Giêsu Nazareth - vua Do Thái.”
Danh hiệu này bằng chữ viết, dưới danh nghĩa một bản án do Philatô cho đóng phía trên đầu Đức Giêsu. Người Do Thái đã tẩy chay danh hiệu trên vì họ không chấp nhận một bản án tố cáo tội họ đóng đinh giết vua của mình. Họ đề nghị công thức: “Người này xưng mình...” nhưng Philatô đâu có tự ý, chính ông đã hỏi Chúa Giêsu “Ông là Vua ư?” và Đức Giêsu đã xác nhận “Ông nói đúng tôi là Vua” (Mt 27,11) thế nên Philatô đã đanh thép như chính Đức Giêsu đã xác nhận để khẳng khái trả lời cho người Do Thái rằng: “Điều ta đã viết là viết” (Ga 19,22)
Với những sự kiện trên, chứng tỏ người Do Thái đã bị tước bỏ mọi quyền chọn lựa. Không phải họ phủ nhận mà bản án không có giá trị, ngược lại dù họ đã từng muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua vì lý do duy vật chất, sau khi được chứng kiến Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì Chúa cũng đã bỏ họ để lên núi một mình (x. Ga 6, 5-27)
Đặc quyền bị tước bỏ là do sự suy thoái của chính họ. Dân tộc Do Thái là một dân được chính Yavê Thiên Chúa tuyển chọn. Họ cũng chọn chính Yavê là Vua độc tôn duy nhất. Vậy mà sau những năm sống trong sa mạc hoang vắng, tâm hồn của họ cũng cằn cỗi dần theo. Sự kiện đòi thiết lập vua trên dân Israel đời tiên tri Samuel, là một biểu hiện khai mào cho tình trạng suy thoái xa rời tối thượng quyền của Thiên Chúa, sự suy thoái sẽ trượt dốc từ Saul qua các triều đại kế tiếp và cao trào suy thoái là vào chính thời Đức Giêsu, khi mà một Dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn lại không một chút nhục nhã lớn tiếng tuyên bố với Philatô, kẻ trị vì trên tự do của họ rằng, “Chúng tôi chỉ có một vua là vua Xêda mà thôi” (Ga 19, 15)
Khước từ vua tình yêu, họ chỉ còn vua chính trị. Cách tuyên bố của họ vì chính trị, để khai trừ Đức Giêsu Nazareth mà họ thù ghét hơn, nhưng chính vì thế mà bản án Philatô viết cũng chính trị và họ phải lãnh nhận hậu quả cũng chính trị!
Bản án trở thành bản tố cáo thái độ thù ghét của thế hệ Do Thái quá khích cực đoan nhưng diễn tả một tình yêu lớn nhất của người dám chết cho người mình yêu.
Mới đây, tôi đã giải thích ý nghĩa tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cho một nhà văn quân đội khi ông về thăm Nhà thờ chính toà Phát Diệm: “Quan niệm Phật giáo muốn mưu cầu hạnh phúc chúng sinh phải tránh tham, sân, si và diệt dục. Còn Công giáo thì khác, Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, không tránh mà còn nhập thể vào thân xác tham, sân, si của con người. Sau tham, sân, si là cái chết của chính Ngài, sau cái chết của Ngài là tình yêu lớn nhất: chết cho người mình yêu.”
Mọi thách đố, chướng ngại không thể trở thành rào cản. Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì nghe tôi” (Ga 18,37)
“Khi những người được mời không xứng đáng thì những kẻ qua đường được mời vào đầy phòng cưới dự tiệc” (x. Mt 22,2-10) Vua tình yêu vẫn mở tiệc cưới, phòng tiệc vẫn đầy người dự, nhưng là người mới, áo cưới mới.
Ý thức vua tình yêu trao ban ân huệ cách nhưng không, Dân mới của Thiên Chúa hiểu rằng chỉ có tình yêu đáp đền tình yêu, hàng ngày trong lời Kinh Lạy Cha - lời Kinh trọng nhất - Hội Thánh lớn tiếng xin cho Nước Cha trị đến trong tâm hồn và trong mỗi gia đình - Nước tình yêu, Nước công bình, Nước sự sống, Nước ơn phúc, Nước hoà bình.
23. Chúa Kitô vua vũ trụ.
Anh chị em thân mến.Trong thời gian nầy, đài truyền hình Vĩnh Long đang chiếu bộ phim Dương Gia Tướng. Bộ phim nói lên sự trung thành của một gia tộc. Trung thành trong mọi trường hợp. Có những lúc bị nịnh thần hảm hại, gia tộc họ Dương phải nhà tan cửa nát, nhưng vẫn một mực trung thành. Một sự trung thành dường như mù quáng. Trung thành với đất nước, trung thành với nhà vua. Nhưng nhà vua trong câu chuyện, có vẽ như quá hồ đồ và nông cạn, không đủ khôn ngoan sáng suốt để phân minh tỏ tường. Vậy mà Dương Gia vẫn trung thành. Đáng quý thay chữ trung thành không gì có thể thay đỗi được.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Nói đến danh từ Vua, chúng ta nghĩ ngay đến chế độ phong kiến mà chúng ta đã từng học biết, đã từng nghe, khiến không khỏi rùn mình khiếp sợ. Nhưng chúng ta cùng nhìn lại, cùng nghe lại vị Vua của mình: “Nước tôi không thuộc thế gian nầy”, “Tôi sinh ra, và đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý, ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi”.
Đức Kitô là Vua của chân lý, nước Ngài không thuộc về thế gian nầy với những tranh chấp hận thù. Ngài đến để phục vụ, đem tình thương, đem bình an cho mọi người. Không tranh giành quyền lợi trần gian, nên Ngài không phải lo sợ mất đi ảnh hưởng, chính vì thế Ngài không cần phải nghe những lời nịnh hót dối trá. Mọi thần dân trong nước Ngài yên tâm với sự công minh chân chính, một tấm lòng nhân hậu bao dung. Ngài là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống. Những thần dân của Ngài là những người thuộc về chân lý.
Mỗi người trong chúng ta có một quê hương, một đất nước mà chúng ta được tận hưởng của những bậc cha anh, là di sản quý báu mà mọi người có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ. Nhưng khi chúng ta rời xa cuộc sống trần gian này, chúng ta sẽ còn lại gì, vị vua nào đang ngự trị trong tâm hồn để gìn giữ, để bảo vệ con người yếu hèn của chúng ta.
Cuộc sống của một đời người, chúng ta tôn thờ ai, và ai đã làm vua ngự trị chiếm hữu cuộc đời của chúng ta? Cứ nhìn lại đời sống đã qua, chúng ta sẽ nhận ra được vị vua của cuộc sống mỗi người.
Có người chọn vị vua là danh vọng, tiền tài. Mục đích của họ chỉ là cuộc sống trần gian này, họ cố gắng vun bồi chỗ đứng, địa vị xã hội để làm sao tạo được uy tín hầu kiếm nhiều lợi nhuận, cho đời sống được thoải mái, an nhàn. Đó là mục đích sống của họ, nên họ bất chấp chân lý, bất chấp tất cả, họ dẩm bừa lên tất cả, miển sao đạt được mục đích là họ sẳn sàng hành động không ngần ngại điều gì hết. Nhưng họ đâu biết rằng, đó là một vị vua mù quáng, vì nhiều lúc họ bị đồng tiền phản bội, làm khổ họ đủ cách. Cũng nhiều lúc danh vọng, địa vị mà họ đạt được không luôn luôn mang lại hạnh phúc cho họ. Vì đó chỉ là một vị vua trần thế, giống như vị vua của Dương Gia trong phim Dương Gia Tướng.
Chúng ta có chọn cho mình vị vua của chân lý? Chúng ta có thuộc về chân lý, để nghe tiếng của vị vua công chính không? Ngài không sợ bị chiếm ngôi nên Ngài không cần phải nghe những nịnh thần. Ngài không sợ mất quyền lợi, vì Ngài luôn ban phát, nên Ngài không cần phải tranh giành. Ngài luôn yêu thương, kêu mời mọi người đến với Ngài, để cùng hưởng vinh quang mà Ngài đã chuẩn bị cho những người thuộc về chân lý. Chúng ta là thần dân của Ngài, trong những lúc chúng ta dám can đảm sống ngay chính, không sợ những lời nói bâng quơ chăm chọc. Cũng trong những lúc phải chọn lựa, chúng ta dám chọn lự sự thật, chọn lựa những điều đúng mà không sợ phải mất đi những gì mình đang có. Cũng có những lúc, chúng ta sẵn sàng hy sinh một chút sung sướng riêng tư, một chút thỏa mãn những dục vọng ích kỷ, để lắng nghe tiếng Ngài, hành động theo những gì Ngài chỉ dạy, cho dù phải vất vả khổ cực đôi chút. Đó là những lúc chúng ta sống xứng đáng là thần dân của Ngài. Nhưng xét trong đời sống đã qua, với những chuỗi ngày dài, được bao nhiêu ngày chúng ta là thần dân trung thành của Ngài, được bao nhiêu ngày, chúng ta biết chọn vị Vua của Chân Lý? Còn những ngày kế tiếp đây, chúng ta muốn chọn cho mình vị vua như thế nào?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta biết chọn Chúa làm vua thật trong suốt cả cuộc đời.
24. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 18, 33b-37: Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Chúa lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Chúa Giêsu đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, con đường của tình yêu.
Quốc Vương Thái Lan đã đi vào huyền thoại như người dân kể lại: “nhà vua làm kênh rạch, nên có nước về ruộng đồng. Nguồn nước này đến từ đập Pa Sak Jolasid do chính vua Bhumibol trực tiếp thực hiện.
- Khi mới lên ngôi năm 1950, từ đó năm nào đức vua cũng tự tay lái xe jeep, với hoàng hậu Sikirit bên cạnh, đi tổng cộng 50.000 km, tới những nơi hẻo lánh, xa xôi để quan sát đời sống người dân còn khốn khó. Trong tâm trí của những người dân Thái, nhà vua là một người thân thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay, luôn lắng nghe những người nghèo khổ để thay đổi cuộc sống của họ.
Quốc vương lập ra dự án của hoàng gia, xúc tiến các kỹ thuật gieo hạt tân tiến. Năm 1971, nhà vua đưa ra các biện pháp giúp người dân giải hạn, đào kênh rạch để trữ nước và phân phối nước cho ruộng đồng.
- Đức vua đã biến cung điện Chitralada rộng lớn của mình thành tổ hợp trang trại, cánh đồng, nhà máy chế biến - nơi nhà vua có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và thực hiện hàng loạt các đề án về nông nghiệp. Từ đây, hơn 2.000 đề án do chính nhà vua khởi xướng đã được triển khai trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở nông thôn.
- Vào năm 1997, chính đức vua đã ký sắc lệnh sửa đổi Hiến Pháp, theo đó đức vua không còn là người bảo hộ đạo Phật là quốc giáo của Thái Lan. Bản thân đức vua là người Phật Tử nhưng lại bảo hộ cho tất cả các tôn giáo khác, kể cả cộng đồng Hồi Giáo là người thiểu số ở miền nam Thái Lan, nơi thường xảy ra các cuộc xung đột. Điều này đã giúp cho ngài không chỉ được tín đồ Phật Giáo ngưỡng mộ mà cả người đạo Hồi cũng phải kính nể và khâm phục.
Anh chị em thân mến,
Quốc vương Thái Lan, đã hy sinh cả cuộc đời để đem lại hạnh phúc ấm no cho người dân Thái, nhưng Chúa Giêsu còn hy sinh cả mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên sứ mạng của Chúa Giêsu không giống như sứ mạng của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Chúa không giống như quyền bính của hoàng đế Rôma hay như bất cứ một vị vua chúa nào trên trần gian. Chính vì thế sau khi làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Chúa đã lẩn trốn, nhưng khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu này, nhưng Chúa đã minh xác rằng: vương quốc của tôi không thuộc về thế gian này.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Chúa lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Chúa Giêsu đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, con đường của tình yêu. Chính vì tình yêu cao cả này, Chúa Giêsu đã hiến thân hy sinh cho thần dân của mình. Như vậy, qua cuộc hiến tế, chúng ta nhận ra, Chúa Giêsu không chỉ là một vị vua hiền lành, nhân từ, nhưng còn là một vị vua hạ mình đến tận cùng, đến nỗi khi nhìn ngắm sự hạ mình của Chúa trong cuộc hiến tế thương đau, chúng ta chỉ còn biết lặng thinh, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng trung thành theo Chúa cho đến trọn đời.
Một sự kiện xảy ra cách đây không lâu: những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới. Khi đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau: “anh không còn gì để cho em” (I have nothing more to give you).
Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp đó.
– “Ta không còn gì để cho con” – có thể được đặt trên Thập Giá của Đức Giêsu, vì từ trên Thập Giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu: “không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Lạy Đức Giêsu Kitô, là Vua của vũ trụ, là Vua của nhân loại, và là Vua của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai. Con xin phó thác cho Chúa tất cả để Chúa quyết định mọi sự theo thánh ý Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa vì Chúa là Vua của tâm hồn con. Amen.
25. Đức Kitô làm vua đời tôi - Lm. Nguyễn Hữu Thy
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Đức Kitô-Vua. Người là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta!
Nhưng mừng lễ Đức Kitô làm vua cuộc đời chúng ta có nghĩa là chúng ta tin nhận rằng chúng ta hết lòng khâm phục Người và để Người làm chủ trên chúng ta, trên trọn cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, trong thực tế ai làm chủ đời tôi, đời chúng ta? Chỉ một mình Đức Kitô hay còn vua nào khác nữa? Phải chăng ngoài Đức Kitô là Đấng duy nhất làm chủ trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chứ không còn vua nào khác nữa?
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có bao nhiêu vua chúa khác đang chờ đợi tranh dành ngôi vua với Đức Kitô: Nào là “vua thuốc lá”, “vua bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua thể thao”, “vua tivi, vua phim ảnh”, “vua tiền bạc”, v.v... Những ai thiếu khôn ngoan và liều mình để cho các ông vua này cai trị đời họ, thì thật là cả một tai họa khôn lường: Họ hoàn toàn mất hết tự do, trở nên nô lệ cho chúng, để chúng sai khiến, và họ sẽ vâng lời làm bất cứ điều gì chúng muốn, cả đến tư cách, lý trí và tình nghĩa gia đình bạn bè họ cũng sẵn sàng từ bỏ hết, vì để làm thỏa mãn chúng! Đúng vậy, đó là những ông vua độc tài và chỉ muốn nô lệ hóa những kẻ phục tùng chúng. Chúng đòi hỏi các thần dân của chúng những đóng góp rất to lớn về thời giờ và tiền bạc. Chúng hứa mang lại một cuộc sống đầy hoan lạc và vui thú, nhưng rốt cục thường chỉ để lại những cảm giác trống rỗng, chán chường và thất vọng.
Tôi đã từng gặp nhiều người đã dại dột để cho hầu hết những ông vua như thế lừa gạt và rơi vào tròng nô lệ của chúng. Kết cục, những người đó trở nên thân tàn ma dại, và chẳng những hoàn toàn vô dụng cho gia đình và xã hội mà còn là gánh nặng cho mọi người. Họ trở nên những kẻ sống đời tầm gửi trên mồ hôi, nước mắt và công lao của kẻ khác.
Các ông vua trần tục đó thường huyênh hoang và cao ngạo. Chúng chỉ luôn tìm cách nhấn sâu và chôn vùi những kẻ chạy theo chúng xuống tận bùn đen hôi thối của tội ác. Chúng ta thử đưa ra một vài thí dụ: chẳng hạn “vua thể thao”: Thể thao thực ra là một điều lành mạnh, nhưng nếu chúng ta mê man đến nỗi sao nhãng bổn phận đối với gia đình, đối với con cái và đối với Thiên Chúa, thì thể thao không còn là một môn tập luyện lành mạnh nữa, nhưng là một tên độc tài thống trị trên ta và biến ta thành nô lệ cho nó. Hay không ai chống đối việc thưởng thức một chén rượu hoặc một ly bia, nhưng nếu cuộc sống mà hoàn toàn lệ thuộc vào chén rượu hay ly bia, đến nỗi thiếu chúng thì mọi việc đều bị đình trệ, không thể tiến xa hơn được nữa, bấy giờ chén rượu và ly bia không còn là những phương tiện “làm vui lòng người”, mà là những ông vua độc tài biến chúng ta thành nô lệ cho chúng. Những kẻ say mê cờ bạc, rượu chè, v.v... sẽ đốt cháy nhân vị và tư cách của mình.
Làm thế nào để chúng ta có thể bảo vệ được sự tự do và độc lập, nhất là tư cách và nhân phẩm của mình trước những ông vua độc tài đó? Chỉ một cách duy nhất là chúng ta hãy dứt khoát xa tránh chúng. Những ông vua này tuy độc tài và luôn nô lệ hóa con người, nhưng chúng lại không có “khí giới” trong tay để bắt ép được ta làm nô lệ cho chúng. Việc sống cuộc đời tự do và có tư cách, hay làm nô lệ cho chúng là hoàn toàn tùy vào sự quyết định của chúng ta, hoàn toàn tùy vào ý chí của chúng ta.
Khi nói đến đây tôi lại liên tưởng đến một ông vua khác còn khó tính và độc tài hơn cả trong các ông vua vừa kể trên: đó chính là “cái tôi” của chúng ta. Cái khó để tự giải thoát khỏi sự cai trị của ông vua độc tài này là ở chỗ: Nó không điều khiển chúng ta từ bên ngoài vào, nhưng là ngự trị nội tại trong ta, chiếm giữ và lèo lái cả lý trí và ý muốn của ta. Cuối cùng, những lợi lộc mà ông vua “cái tôi” thu vén là cốt cho chúng ta, để phục vụ chính chúng ta. Chính cái khó nhất là ở chỗ đó: Làm thế nào chúng ta có thể khách quan nhận ra cái lệch lạc, cái sai trái của cái tôi - nghĩa là lòng ích kỷ - của chúng ta?
Con đường duy nhất là tìm về phục vụ Đức Giêsu Kitô-Vua, vị vua đích thực của vũ trụ và của đời sống chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, Người chịu chết để chúng ta được sống. Người là vị vua nhân hậu, chấp nhận thân phận nghèo hèn và vâng lời chịu lụy cho đến chết, chết trên thập giá. Về Đức Kitô-Vua, Tinsley đã viết: “Người đã không bao giờ là Vua và là Đấng Cứu Thế, nếu không chết trên thập giá”. Đức Kitô là vua và nước của Người không thuộc về thế gian này, nhưng lại ở giữa thế gian. Người không hề dùng quyền bính để cai trị, nhưng là để phục vụ. “Phục vụ thay vì cai trị”, bênh vực quyền lợi của kẻ cô thế cô thân, chở che người nghèo đói, trả lại công bằng cho những người đã bị mất quyền sống, v.v... là chương sống và hành động của Kitô-Vua. Người thay thế sự tự hy sinh mình vào chỗ sự tự khẳng định mình. Người không đòi hỏi gì cho mình cả, người chỉ cho đi! Người không tẩy não hay rửa đầu ai hết, Người rửa chân cho mọi người. Những thủ lãnh thế gian bắt thần dân chết thay cho mình, còn Đức Kitô-Vua lại đã chết thay cho thần dân của Người: Đó chính là sự cao cả của Đức Kitô-Vua. Chính những kẻ nhạo báng Người đã nói lên sự thật về Vương Quyền của Người, khi họ mỉa mai: “Nó đã cứu được kẻ khác!” (x. Mt 27,42). Quả vậy, việc cứu giúp kẻ khác: là biểu tượng và là mục đích của Phẩm Hàm Vương Đế và của Vương Quyền Đức Giêsu. Vương Quyền của Đức Giêsu cần đến những con người không chỉ sống và chỉ nghĩ đến chính mình mà thôi, nhưng - cũng như Người - còn biết giúp đỡ và sống cho kẻ khác nữa. Thiên Chúa cần đến tất cả chúng ta!
Ai chấp nhận và tùng phục Vương quyền êm ái dịu hiền của Đức Giêsu, người đó hoàn toàn tự do trước tứ độ tường, trước mọi mê say tội lỗi. Dĩ nhiên, để phục quyền Đức Kitô-Vua, nghĩa là để bước đi trên con đường của Người, con đường của sự từ bỏ bản thân mình và nhờ thế được sống đời tự do, con người cần phải từ bỏ một đôi thứ - không chỉ những thứ xấu và tai hại, nhưng đôi khi cả những thứ tốt nữa - nếu chúng trở nên chướng ngại vật ngăn cản bước đường đó của chúng ta. Chính đó là con đường đưa dẫn chúng ta vào trong Vương Quốc vô biên giới, một con đường không chỉ hứa mang lại một cuộc sống sung mãn, nhưng còn ban tặng cho ta chính cuộc sống đó nữa. Ai phục vụ Đức Kitô-Vua, người đó tìm được ý nghĩa và mục đích chân thật đời mình!
26. Vương quốc của tình yêu
Nước Trời được diễn tả là vương quốc của tình yêu, nơi đó mọi người được vui hưởng tình yêu tràn đầy của Thiên Chúa. Trong vương quốc này, Đức Giêsu là vị Vua của tất cả mọi người như Lời Ngài đã nói: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Khi nghe nói đến tước hiệu vua, mọi người thường nghĩ đến một con người quyền lực, oai vệ trong bộ cẩm bào, nắm trong tay quyền sinh sát tùy ý mình khiến mọi người khiếp sợ... Thế giới đã từng biết đến một Tần Thuỷ Hoàng, một Napoleon, một Hitler...là những vị vua như thế. Nhưng Vua Giêsu thì hoàn toàn ngược lại. Ngài là vị Vua Hiền lành, Vua Hoà bình và Vua Tình yêu. Vua Giêsu có hoàng cung là cuộc sống rong rủi nay đây mai đó “Con Người không có nơi tựa đầu”, có vương miện là vòng gai đội đầu, có vương trượng là cây sậy yếu ớt, có vệ binh là 12 tông đồ không biết đến việc binh đao... Bởi lẽ, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Hiến Pháp của Nước trời là giới luật Yêu thương: “Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Thế nhưng, đứng trước một vị vua như thế, thử hỏi có được mấy người yêu mến và qui phục Ngài? Hình như, con người ngày nay quá yêu thích quyền lực, giàu sang, thoải mái... nên họ cũng muốn xây dựng nơi mình hình ảnh của một vì vua theo ý và sở thích của riêng họ. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng giờ ngồi phơi nắng dầm mưa để xem vua bóng đá Péle, Ronaldo trình diễn trên sân cỏ và cổ võ hết mình. Họ sẵn sàng thức trắng đêm để nghe vua nhạc Pop Michael Jackson hát... nhưng họ rất ngại đến với Vua Kitô để nghe Ngài chỉ dạy những con đường dẫn tới chân thiện mỹ và sự sống vĩnh cửu. Lý do là vì ta còn biết quá ít về Chúa Giêsu, chưa đi vào sự sống mật thiết với Ngài, chưa để cho tình yêu của Ngài dẫn dắt cuộc đời của ta và trên hết là chúng ta chưa có lòng ao ước sống trong Vương quốc tình yêu của Chúa.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Chúa Giêsu và Philatô xung quanh vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với Philatô và cũng là với tất cả chúng ta rằng Ngài là Vua, nhưng Nước Ngài không thuộc về thế gian này. Điều đó cũng có nghĩa là Nước của Ngài thuộc về thượng giới hay chính là Nước trời.
Tôi có quen với một chị ở Việt Nam nhưng đã sang định cư ở bên Úc 5 năm rồi, dù chính quyền Úc chấp nhận cho chị nhập cư, nhưng chị chưa thể trở thành công dân của nước Úc được, và dĩ nhiên những quyền lợi của chị bị nhiều hạn chế. Chị nói với tôi là để được chấp nhận là một công dân của nước này thì phải có một số điều kiện như: phải ở lại Úc trong thời gian xuyên suốt ít là năm, rồi phải trải qua kì thi quốc tịch rất khó...
Còn chúng ta, kể từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là chúng ta chính thức trở thành công dân của Nước trời, được đầy đủ quyền lợi của một người con cái Thiên Chúa với quyền thừa kế Nước trời, xem ra quá dễ dàng. Nhưng thử hỏi chúng ta đã lưu tâm đến quyền công dân này như thế nào? Chúng ta có quí trọng, có tha thiết với chuyện này không? Hay vì thấy Chúa ban ơn dễ dàng quá rồi chúng ta xem thường? Thậm chí có người còn chối bỏ quyền công dân này cách dễ dàng khi họ quyết đi theo tiếng gọi của quyền lực trần thế (Chẳng hạn: làm trưởng phòng này thì anh chị không thể là người Công giáo được! Thế là Chúa bị khai trừ. Chức trưởng phòng được đặt lên trên quyền Công dân Nước trời, đôi khi trên cả Chúa nữa! Chuyện này không phải là hiếm xảy ra đâu). Hoặc có người sẵn sàng chấp nhận tuyệt thông với Giáo hội chỉ vì muốn thoả mãn đi theo tiếng gọi của những mối tình vụn trộm nên dẫn đến việc ngoại tình, phá thai, kết hôn không phép đạo... Nhưng cũng có biết bao những tâm hồn thành tâm thiện chí, quyết bảo vệ quyền Công dân Nước trời của mình nên sẵn sàng hy sinh tất cả, vui lòng mất mát tất cả, ngay cả mạng sống của mình miễn sao đừng lạc mất Chúa. Đó là gương của các thánh tử đạo mà chúng ta mới vừa mừng kính hôm Chúa Nhật tuần trước. Khi hết lòng vì niềm tin mình đã lãnh nhận là khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu chính là Vua của chúng ta, Nước trời là gia nghiệp đời đời của chúng ta. Thử hỏi cón có ai khôn ngoan hơn nũa không? Chọn Chúa, chọn Nước Trời làm gia nghiệp là chọn lựa cao nhất và khôn ngoan nhất mà con người có thể làm được ngay tại thế gian này.
Nhưng làm sao chúng ta có thể chọn lựa được như thế nếu chúng ta không hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa của mình. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” thì Chúa Giêsu hỏi lại: “quan tự ý nói thế hay có người khác nói với quan về tôi”. Chúa muốn kiểm định xem cái biết của Philatô ở mức độ nào: chỉ nghe nói về Chúa hay đã có cảm nhận riêng về Ngài? Rõ ràng Philatô đã biết cách rất mù mờ về Chúa Giêsu với những thông tin đầy thành kiến về Chúa do những kẻ chống đối Chúa cung cấp cho. Cách biết của Philatô về Chúa Giêsu như thế sẽ không thể làm cho ông đi vào sự thân mật với Chúa Giêsu. Và như thế thì Chúa Giêsu sẽ còn tiếp tục im lặng. Ngài sẽ im lặng trước câu hỏi của Philatô: “Sự thật là cái gì?”. Như thế, chắc chắn Philatô sẽ không được: “sự thật giải thoát” mà sự thật đó chính là Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”.
Sống niềm tin và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là đi vào sự tiếp xúc riêng tư với Ngài, để chi tình yêu của Ngài tác động và lôi kéo ta vào thế giới riêng. Nơi đó, ta sẽ gặp được tình yêu, lòng thương xót và sự thật. Nơi đó, ta sẽ gặp được vị Vua thật của lòng ta và Ngài sẽ Vua cai trị tâm hồn ta. Khi đó, chúng ta sẽ biết cách hành động theo chân lý và sẽ được “Chân lý giải thoát” chúng ta.
27. Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
Suy niệm:
Trong cuộc sống, chúng ta đã từng nghe nói nhiều đến những vị vua và các triều đại. Vua là người làm bá chủ một vùng, một lãnh thổ, có quyền lực đứng nhất thiên hạ đến nỗi có một thời người ta quan niệm rằng “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Bên cạnh đó, cũng có những người “làm vua” theo kiểu đứng đầu về một ngành nghề, lãnh vực như vua dầu mỏ, vua bất động sản, vua thị trường chứng khoáng, vua bóng đá, vua tennis sân đất nện, ông hoàng nhạc pop…
Hôm nay, Giáo hội dành Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ để mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Nhiều người đã hiểu lầm và gán ghép cho việc làm vua của Chúa Kitô theo kiểu tranh giành quyền lực trần thế để rồi kết án Người.
Trước tiên, người Do Thái một dân đang bị thống trị muốn có một người thuộc dòng dõi Vua Đavíd chính thức lên ngôi, làm vua để lãnh đạo dân kháng chiến và chiến thắng quân La Mã kẻ thù, đem lại tự do cho dân. Trong khi Chúa Giêsu lại khuyên họ sống khiêm tốn, yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Thứ hai, vì Chúa Giêsu lên án việc sống giả hình của những nhà lãnh đạo dân Do Thái, và họ cũng từ chối, xem Người phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa nên các thân hào và kỳ mục muốn mượn đao giết người một hợp pháp bằng việc gán ghép Chúa Giêsu muốn đảo chính. Họ nhờ chính quyền đô hộ kết án tử Chúa Giêsu.
Thế nhưng, việc làm vua của Chúa Giêsu không nhằm chiêu dụ bằng của cải vật chất. Cả khi người ta được Chúa cho ăn bánh no nê, họ muốn tôn Người lên làm vua nhưng Người lánh họ mà đi. Chúa Giêsu làm vua theo cách của Người: Vua tuyển mộ thần dân rằng “Ai muốn theo Tôi, hãy tự bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Tôi”. Vị Vua không vệ binh, không quân đội nhưng thuyết phục bằng việc đánh động cái tâm “Cả anh em cũng muốn bỏ Thầy mà đi hay sao?” Một vị vua không dùng bạo lực, không kháng cự: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Một vị vua dùng tình thương và nêu gương bước trước: “Thầy rửa chân cho anh em thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”. Một vị vua không “ăn cổ đi trước, lội nước theo sau” nhưng lại tự nguyện gánh tội lỗi của dân, để mình bị “giao nộp” cho kẻ thù, và Người đã đi bước trước noi gương: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình thương của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”. Vâng, một vị vua không có biên cương lãnh thổ, cùng một tình thương không biên giới: đó chính là Vua Giêsu, Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Vương quyền của Chúa Giêsu quy tụ cả người cao sang quyền quý lẫn người thấp hèn, bé mọn, yếu đuối, tật nguyền, tội lỗi,… kể cả những kẻ bị xã hội gạt ra bên lề.
Thần dân của Nước Chúa được gọi là các “tín hữu” là những người tin vào Chúa. Đồng thời việc thờ phượng Chúa không phải ở hình thức, tổ chức những buổi lễ rình rang cờ xí trống kèn mà lòng thì trống rỗng. Trở nên thần dân của Người không chỉ là việc lãnh nhận Bí tích Rửa tội là đủ, nhưng cần liên hệ với thực tại nhân sinh, với cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Thần dân ấy cần can đảm sống theo sự thật, như Chúa đã cho biết: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta là công dân nước Chúa, vậy chúng ta được mời gọi góp phần vào công việc xây dựng vương quốc của Chúa Kitô trên trần gian này trước tiên qua việc thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, chính mình biết thánh hóa bản thân mỗi ngày bằng đời sống đạo đức, Thánh lễ, cầu nguyện. Đồng thời chúng ta cũng cần sống giới Răn “Yêu Thương” được thể hiện rõ nơi 8 mối Phúc. Thực thi luật Yêu Thương mới làm cho con người ta sống mãi vì tình yêu mạnh hơn sự chết. Nhờ thế mà con người ta trở nên vĩnh cửu trong Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
28. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người - homo homini lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
29. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
CHÚA KITÔ VUA “CHÚA GIÊSU TRỌN VẸN,
NHÂN BẢN NHẤT VÀ CÒN SIÊU VIỆT”
ROMA- Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu Chúa nhật Chúa Kitô Vua:.
“Rồi các ông sẽ Con Người ngự bên hửu Đấng toàn năng, và ngự giá mây mà đến...”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu,” Ông có phải là Vua dân Dothái không?” và Chúa Giêsu trả lời,” Chính ngài nói tôi là Vua.” Trươc đó không lâu, Caipha đã hỏi Người cũng một câu hỏi đó trong cách khác: “Ông có phải là Con Thiên Chúa Đáng Chúc tụng không?” và Chúa Giêsu đã thẳng thắng trả lời lần này: “Chính tôi đây!”
Thật vậy, theoTin Mừng Thánh Marcô, Chúa Giêsu tăng cường câu trả lời này, trưng dẫn và áp dụng cho chính mình điều mà tiên tri trong Sách Daniel đã nói vể Con Người ngự giá trên mây trời mà đến và nhận lãnh vương quốc không bao giờ tàn (Bài đọc I). Một thị kiến vinh hiển trong đó Chúa kitô xuất hiện trong câu truyện và trên câu truyện, thế tục và đời đời
Bên hình ảnh vinh hiển này của Chúa Kitô chúng ta gặp, trong các bài đọc lễ trọng này, hình ảnh Chúa Giêsu khiêm tốn và đau khổ, quan tâm về việc làm cho các môn đệ nên vua hơn là cai trị họ. Trong đoạn trích từ sách Khải Huyền, Chúa Giêsu được diễn tả như là “Đấng yêu thương chúng ta và đã cứu chúng ta khởi tội bằng máu Người, Đấng đã đưa chúng ta vào một vương quốc, làm linh mục cho Thiên Chúa và Cha của Người.”
Điều được luôn luôn chứng tỏ khó làm là giữ chung hai đặc quyền này của Chúa Kitô-vẻ uy quyền và lòng khiêm tốn-phát sinh từ hai bản tính của Người, thần tính và nhân tính. Con ngươi thời nay không có vấn đề thấy trong Chúa Giêsu người bạn và người anh của mọi người, nhưng họ gặp là chuyện khó nếu cũng công bố Người là Chúa và công nhận vương quyền của Chúa Giêsu trên họ.
Nếu chúng ta xem cuốn phim chiếu Chúa Giêsu, thì rõ về sự khó nầy. Nói chung phim cinema đã chọn Chúa Giêsu làm người hiền, bị bắt bớ, bị hiểu lầm, rất gần gũi con người hầu chia sẻ thân phận con người, những sự nổi loạn con người, sự ước muốn của con người sống một đời sống bình thường. Trong đường hướng này được kết nối phim”Jesus Christ Superstar-Chúa Giêsu Siêu Sao” và “Sự Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô” thô lỗ và phạm thượng hơn của Martin Scorcese.
Pier Paolo Pasolini, trong “Vangelo secondo Matteo” (Tin Mừng theo thánh Matthêo), cũng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Người bạn các tông đồ và các con người, gần gũi với chúng ta, mặc dầu Người không thiếu một chiều kích nào đo của mầu nhiệm, được diễn tả với nhiều thi thơ, hơn hết qua những lúc sầu thảm thinh lặng.
Chỉ có Franco Zeffirelli, trong cốn phim “Chúa Giêsu thành Nadareth” của ông, đã cố gắng giữ cả hai là vẻ uy quyền và tính khiêm nhượng. Chúa Giêsu xuất hiện trong cuốn phim của Zeffirelli's như là một người giữa muôn người, niềm nở và gần gũi, nhưng, đồng thời, như một Đấng, với những phép lạ và sự phục sinh của Người, đặt chúng ta trước mầu nhiệm của bản thân Người, một con người vượt quá sự nhân bản đơn thuần.
Tôi không muốn ngăn chận những cố gắn tái đề nghị biến cố Giêsu trong những từ có thể hiểu được và bình dân. Trong thời gian của Người Chúa Giêsu không bị xúc phạm nếu “dân chúng” xem người như là một trong các vị tiên tri. Tuy nhiên, ngài hỏi các tông đồ, “Nhưng phần anh em, anh em nói Thầy là ai?” cho thấy rõ những câu trả lời về phía dân chúng thì không đủ.
Chúa Giêsu mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta hôm nay trong ngày lễ trọng Kitô Vua, là Chúa Giêsu trọn vẹn, hầu như nhân bản mà còn siêu việt. Tại Paris thanh gỗ đã được sử dụng để thiết lập chiều dài của thước được giữ cẩn thận đến nỗi đơn vị đo lường này, do Cách Mạng Pháp đưa vào, không bị thay đổi với thời gian. Cũng vậy, trong cộng đồng tín hữu tức là Giáo Hội, hình ảnh thật sự của Chúa Giêsu thành Nadareth được bảo tồn. Hình ảnh này phải được sử dụng như là tiêu chuẩn để đo tính hợp pháp của mọi sự trình diễn về Người trong văn chương, cinéma và nghệ thuật.
Đó không phải là một hình ảnh cố định và trơ trơ, được giữ dưới tủ kính như cây thước, nhưng là một hình ảnh Chúa Kitô sống động, Đấng lớn lên trong sự hiểu biết của Giáo Hội, Đấng sẽ tiếp tục làm nẩy sinh những câu hỏi và những thách thức mới của nền văn hóa và phát triển nhân bản.
30. Bị can Giêsu Kitô-Vua
(Suy niệm của Lm. FX. Nguyễn Phạm Hoài Thương)
Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ đầu trình thuật, thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ Philatô để khỏi mắc uế hầu có thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (Ga 18,28); nhưng việc hỏi cung Chúa Kitô phải xảy ra bên trong phủ Philatô, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ để tra hỏi Chúa Giêsu. Vì vậy, trình thuật (Ga 18,28-19,16) chia ra làm bảy phân đoạn, theo các lần ra-vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nằm trong phân đoạn II (Ga 18,33-38), có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên để hiểu được nó ta phải đặt nó vào trong văn mạnh của cả trình thuật.
1. “Nộp” Chúa Giêsu
Nếu chỉ đọc lướt qua Tin mừng, ta có thể kết luận: chính Philatô đã nộp Chúa Giêsu, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá.
Tuy nhiên, đọc kỹ bản văn ta sẽ thấy: không phải Philatô, nhưng chính người Do thái, đại diện là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, thánh Gioan không hề nói là Philatô đã kết án tử cho Chúa Giêsu mà còn nhấn mạnh: bởi xác tín Chúa Giêsu vô tội, nên Philatô đã muốn thả Người, và sở dĩ ông phó nộp Người để bị đem đi giết là chỉ vì ông sợ hãi trước áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi.
Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên án tử (Ga 18,38b; 19,4; 19,6c); vì vậy, ông có ý định thả Chúa Giêsu (Ga 18,39; 19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để đương đầu với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này. Để thắng những do dự cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (Ga 19,12.15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp Người cho họ đóng đinh” (Ga 19,6).
Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi lên trên hậu cảnh của bi kịch: “... vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng hơn” (Ga 19,11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (Ga 13,2.27). Và đây mới chính là kẻ nộp người: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã nộp Chúa Giêsu cho Philatô.
Một câu hỏi được đặt ra: suốt thảm kịch này, Thiên Chúa, vị Thẩm phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử bất công đó? Chắc chắn là không phải vậy, vì Chúa Giêsu xác quyết trước Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông” (Ga 19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).
Nhưng hành vi Chúa Cha “nộp” Con mình mang một nghĩa khác hẳn với hành vi của Satan, Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha tôn trọng tình yêu của Chúa Giêsu: chịu đau khổ vì nhân loại, cũng như tôn trọng sự tự do của con người: Giuđa, Biệt phái và các nhân vật khác trong cuộc Khổ nạn; nghĩa là: Ngài cho phép Chúa Giêsu bị bắt bớ được diễn ra. Như thế, xét trong nghĩa này, Chúa Cha “nộp” Chúa Giêsu, thể hiện một tình yêu vĩ đại. Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp: “không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10,18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác nhau. Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ hoàng đế, và vì thế, họ đáng bị luận phạt.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ lộ
Việc Chúa Giêsu hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu chi phối: câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là: “ông là vua dân Do thái sao?” (Ga 18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (Ga 18,34); cách trả lời này cho thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái. Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giêsu và lên án Người chiếm đoạt vương quyền nếu người Do thái không tố cáo. Sở dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”.
Họ chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Binh lính Rôma là những kẻ đầu tiên. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn Người: “Đoạn lính tráng, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng tát vả Người” (Ga 19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người thành vua và nhạo báng Người.
Philatô cũng nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng ý ông là để nhạo báng người Do thái trong con người vị vua Giêsu. Ông truyền dẫn Chúa Giêsu “đến nơi gọi là Nền đá, tiếng Hipri là Gabbatha” (Ga 19,13). Philatô đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi” (Ga 19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.
Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấm biển trên đầu Chúa Giêsu, mang giòng chữ “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19). Vua đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn. Người đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới (Is 53,3).
Tuy nhiên, cảnh bên ngoài đó lại cho thấy: Chúa Giêsu vẫn chiếm hữu vương quốc của Người như Người quả quyết: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (Ga 18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực, không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (Ga 19,11), từ Thiên Chúa mà thôi.
Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô mang tính vĩnh cửu, không tồn tại nơi thế gian chóng qua này (1Ga 2,17). Thành ra để chiếm hữu vương quốc Người, Chúa Kitô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi vào cõi vĩnh hằng, phải “qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), và như thế phải được “giương cao khỏi đất” (Ga 12,32). Chính khi chịu đóng đinh, Chúa Kitô chiếm hữu vương quốc Người.
Thánh Gioan mặc nhiên nhấn mạnh điều đó. Trước hết ông ghi nhận: địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi là “Gabbatha” (Ga 19,13), tiếng Hipri có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv 109,1).
Tiếp đến, tấm biển mà Philatô cho đặt trên đầu Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19) cũng có ý nghĩa tương tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (Ga 12,31-32).
Đấy là huống cảnh nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ được “giương cao” trên thập giá.
Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ mà vì đó Người đã đến (Ga 12,17).
3. Những ai thuộc về vương quyền Giêsu Kitô-vua?
Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (Ga 17,24). Khi qua khỏi thế gian này mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (Ga 12,25; 13,1). Một khi “được giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (Ga 12,32); Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (Ga 14,2).
Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã trao cho Người sự sống vĩnh cửu” (Ga 17,1-2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu muốn ám chỉ: loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Kitô, họ thuộc quyền Người, để Người thông ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang cánh chung (Ga 17,24).
Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Kitô được thể hiện nhờ việc trao ban sự sống cánh chung cho loài người: “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay Người. Kẻ nào tin Con sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ không thấy sự sống” (Ga 3,35-36).
Phải chăng như vậy con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha? Không, giây phút này chỉ đánh dấu một sự hoàn thành, một sự viên mãn, chứ không phải là một khởi đầu.
Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này, phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được” (Ga 10,27-28); chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết (Ga 8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong thế gian phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 13,34-35).
Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống thần linh: lời Thiên Chúa (Lc 8,11; 1Pr 1,22-23; 1Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa Kitô - Ngôi Lời (Ga 1,12-13). Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu cho chúng ta trên trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ” những gì đang được dấu ẩn trong bí mật thánh thiêng này (1Ga 3,1-2).
Vâng! Vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự sống cho loài người, Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ sự sống Người đã ban cho chúng ta. Vương quốc của Chúa Kitô không “thuộc thế gian này” (Ga 18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về cùng Cha trên trời.
31. Sự thật là gì?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Khi tổ chức, hay tiến hành một chương trình, một lễ hội, một cuộc thi đấu…thì ai cũng hiểu rằng “vạn sự khởi đầu nan”, nhưng cũng đã thấy cái bầu khí của “buổi ban đầu” thường khá long trọng và hoành tráng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng điểm kết thúc mới có tính quyết định. Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, khi Giáo Hội suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, thì cũng một cách nào đó muốn nhắn nhủ với con người cách chung và với đoàn con Kitô hữu cách riêng về ý nghĩa đời người. Tính quyết định của hạnh phúc con người có mối liên hệ tất yếu với nội hàm chân lý: Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
Khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”, Philatô đã hỏi lại: “Sự thật là gì?” (x.Ga 18,37-38). Tin mừng không tường thuật câu trả lời của Chúa Giêsu mà ngưng ở đó để rồi kể tiếp chuyện Philatô lại ra gặp người Do Thái.
Sự thật là gì? Mặc dù có nhiều cái nhìn, nhiều quan niệm khác nhau về sự thật nhưng vẫn có nét tương đồng căn bản. Sự thật là sự tương hợp hay sự đồng nhất giữa nội dung với hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, chẳng hạn như chất lượng sản phẩm hàng hóa đúng với những gì ghi ngoài nhãn hiệu, bao bì…Trên bình diện hữu thể thì có người cho rằng sự thật là sự đồng nhất giữa thực tại với cái biểu hiện. Cũng có người quan niệm sự thật là sự duy nhất, bất biến và thường tồn của thực tại.
1. Sự thật về Đức Kitô:
Theo viễn kiến này thì duy chỉ có Thiên Chúa là sự thật đúng nghĩa. Người không chỉ là “Đấng có sao, có vậy” (x.Xh 3,14) mà người còn là Đấng là An-Pha và Omêga nghĩa là có từ nguyên thủy và tồn tại đến vạn đại thiên thu (x.Kh 1,8). Chính Chúa Kitô đã từng khẳng định Người là sự thật (x.Ga 14,6). Người là Đấng có sao, có vậy, là nguyên thủy và là cùng đích (x.Ga 8,24; 27; 57). Như thế khi nói với Philatô rằng mình đến thế gian là để làm chứng cho sự thật thì Chúa Kitô muốn minh chứng và khẳng định rằng chính Người là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu.
Cũng như vạn vật, con người tôi bởi đâu mà ra và rồi sẽ đi về đâu, một câu hỏi đã trở thành vấn nạn khó giải cho nhiều học giả, nhiều triết gia…mọi thời, nay đã có câu trả lời. Các hiện hữu ở đời này, sự hiện hữu của tôi trong cõi đời này có nguồn gốc và đích đến là chính Chúa Kitô. Trong thân phận một công dân, thì “quê hương mỗi người chỉ một, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân), thì cũng thế và hơn thế nữa, trong thân phận con người, tôi chỉ thực sự là tôi khi ở trong tương quan với Chúa Kitô. Đúng hơn, sự hiện hữu của tôi, sự sống còn của tôi, ý nghĩa cuộc đời của tôi lệ thuộc vào Đức Kitô. Đây chính là một nội hàm của chân lý Chúa Kitô là Vua vũ trụ mà Giáo Hội long trọng tuyên xưng vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Tuyên xưng Chúa Kitô là vua có nghĩa là tuyên xưng sự lệ thuộc, sự suy phục của mình vào Chúa Kitô. Vì tất cả mọi loài mọi vật “đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Col 1,16).
2. Sự thật về con người:
Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 1,27), con người cũng là sự thật khi nên một với Chúa Kitô. Đấng là hình ảnh Thiên Chúa vô hình đã tự xưng là Con Người. Thánh Tông đồ dân ngoại đã mạnh mẽ khằng định chân lý này: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng duới đất hữu hình với vô hình” (Col 1,15). Vì là sự thật nên con người phải được yêu quý và tôn trọng cũng như bảo vệ. Dù là một bệnh nhân, dù là một người nghèo khổ, một người thấp cổ, bé phận, dù là một bào thai dị tật… tất thảy đều đáng phải được kính trọng, yêu mến và bảo vệ hơn tất cả những thể chế, luật lệ, nghi thức hay truyền thống… Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này khi nhấn mạnh: “Ngày Sabat có ra là vì con người, chứ không phải con người có ra là vì ngày Sabat” (Mc 2,27).
Là loài thọ tạo có vẻ mỏng manh và đầy yếu đuối nhưng con người lại được Thiên Chúa đặt lên làm chủ tể mọi loài trên trời dưới đất (x.St 1,26). Con người là chi mà Chúa nhớ đến, loài người là gì mà Ngài phải bận tâm? (Tv 8,5). Tất cả chỉ vì Thiên Chúa đã đoái nhận loài người làm dưỡng tử trong Con Một dấu yêu của Người là Đức Giêsu Kitô (x.Eph 1,5). Mặc dù có điểm khởi đầu, có kinh qua cánh cửa sự chết, nhưng hiện hữu của con người là bất tận, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mt 22,32).
3. Sự thật về hạnh phúc:
Con người đã được dựng nên là tồn tại mãi mãi. Thế nhưng số phận đời đời của mỗi người là được hạnh phúc viên mãn hay phải trầm luân vĩnh viễn còn tùy thái độ sống của mỗi người khi còn tại thế. Con người chỉ có hạnh phúc đích thật khi là chính mình như thuở ban đầu cuộc sáng tạo đó là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là chính mình khi nên một với Đức Kitô, làm môn đệ của Người. Và Chúa Kitô đã khẳng định khi chúng ta yêu mến nhau như Người đã yêu mến chúng ta thì chúng ta sẽ ở trong tình yêu của Người và đích thực là môn đệ của Người (x.Ga 13,35; 14,9-11).
Chính con tim, tấm lòng của chúng ta dành cho tha nhân, nhất là cho nhũng người bé mọn sẽ quyết định về số phận đời đời của chúng ta (x.Mt 25,31-46). Thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,7-8).
Năm Phụng Vụ sắp kết thúc nhắc nhủ cho chúng ta sự thật này: cái chung cục mới thật quan trọng. Đảm nhận chức vụ này hay ở địa vị kia, sống bậc sống này hay bậc sống nọ, tất thảy đều hướng đến mục đích cuối cùng là được cứu độ, được hạnh phúc viên mãn. Để có hạnh phúc thật, chắc chắn phải đón nhận Sự Thật là Đức Kitô, vì không một ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người (x.Ga 14,6). Và dưới gầm trời này chỉ có một Danh mang ơn cứu độ là Giêsu Kitô. Khi đã đón nhận sự thật là Chúa Kitô thì chúng ta cũng sẽ biết được sự thật về con người cũng như con đường để đạt được hạnh phúc muôn đời.
32. Đệ nhất Thiên Vương
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
VUA LÀ AI?
Thời quân chủ, người ta “quy ước” trật tự xã hội là Quân-Sư-Phụ, vua là nhất, sau đó là người dạy, rồi mới tới cha mẹ. Vua hoặc Hoàng đế là người có quyền lực cao nhất, kể cả quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Vua được mệnh danh là Thiên tử – con của Trời, thần dân phải phụng mệnh tối đa, vâng lệnh “tối mặt”. Vua bảo chết mà chết mới là trung thần (sic!).
Rồng là một trong mười hai con giáp, là con vật quý, thực ra chỉ do tưởng tượng, nhưng mọi thứ của vua đều được trân trọng là “rồng”: Long thể, long bào, long sàng,…
Thời phong kiến theo chế độ “tông pháp” (cha truyền con nối), vua trị vì tới mãn đời. Vua có “quyền” nên thỏa sức “hành” người ta, vì vậy thường thì vua nào cũng có có “máu ác”, thế mà vẫn được xã hội mặc nhiên như vậy, ít có những ông vua nhân đức như vua Nghiêu, vua Thuấn của Trung quốc, làm thiên hạ thái bình, hoặc như vua Trần Nhân Tôn và vua Lê Thánh Tôn của Việt Nam.
Minh quân thì hiếm, hôn quân (vua ác) thì nhiều. Trung quốc có Tần Thủy Hoàng, Vạn Lý Trường Thành của ông vua này đã hao tổn bao sinh mạng của dân lành; Việt Nam có vua Lê Long Đĩnh, có “biệt danh” là Ngọa Triều (“ngọa” là nằm, “triều” là triều chính, ông này ăn chơi sa đọa đến nỗi không ngồi được nên phải nằm mỗi khi ngự triều), ông có thú vui độc ác là “róc mía trên đầu nhà sư” và “mổ bụng các thai phụ để xem thai nhi thế nào”; vua Shah Jahan của Ấn Độ đã xây đền Taj Mahal bằng cẩm thạch (một trong những kỳ quan thế giới) để tưởng nhớ người vợ thứ ba là Mumtaz Mahal, nhưng khi đền này xây xong, ông ra lệnh chặt tay tất cả những người thợ để họ không thể xây ngôi đền khác như vậy.
Đế quốc La Mã xưa cũng đã từng “làm mưa, làm gió” một thời, biết bao tín hữu bị phanh thây, xẻ thịt! Người Công giáo Việt Nam cũng bị hành hạ suốt ba thời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức.
Và còn nhiều ác vương khác trên thế giới. Thế nhưng thần dân vẫn phải tán tụng họ là “hoàng thượng anh minh”. Thậm chí khi muốn tấu trình thì phải “muôn tâu bệ hạ”, tức là tâu với cái bệ rồng của vua ngồi chứ không được tâu thẳng nhà vua, cũng không ai được nhìn mặt vua.
Ngày nay chỉ còn vài nước theo chính thể quân chủ, nhưng không “thuần túy” như xưa. Vua có khi chỉ là một thiếu niên, và sẽ làm vua cho đến chết. Người đứng đầu một quốc gia ngày nay gọi là Tổng thống, chỉ tại chức theo nhiệm kỳ vài năm. Ngày xưa vua tàn ác minh nhiên, dễ thấy; còn ngày nay, người đứng đầu một nước cũng vẫn có người tàn ác, nhưng bằng các động thái khác và khó phát hiện vì “tinh vi” hơn nhiều.
ĐỆ NHẤT THIÊN VƯƠNG
Ngôn sứ Đa-ni-en kể: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện” (Ðn 7:13). Đó là hình ảnh liên quan Ngày Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Đó là lúc mọi người tỏ tường mọi thứ, là lúc yết kiến Thiên Vương, là lúc phải trình diện Vua Muôn Đời.
Khi đó, “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị”, còn “muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Ðn 7:14a), thậm chí quỷ vương cũng phải tâm phục khẩu phục mà bái lạy Người là Vua các vua, là Chúa các chúa. Đó là quyền đặc biệt, độc nhất vô nhị: “Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7:14b).
Con Người ngự giá mây trời mà ngôn sứ Đa-ni-en thị kiến là Đức Kitô, chính Ngài là Vua các Vua và Chúa các chúa, hoàn toàn khác thường về mọi thứ: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vì thế, Ngài chính là Đệ nhất Thiên Vương mà chúng ta phải tôn thờ và tôn vinh: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93:5).
Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện: “Xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men!” (Kh 1:5-6). Thánh sử Gioan cũng thị kiến “Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1:7a), điều đó cho thấy diễn tiến Ngày Tận Thế, ngày mà Đức Kitô đến xét xử thế gian. Và “ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men!” (Kh 1:7b). Kẻ lành và kẻ dữ đều diện kiến Ngài, nhưng có cuộc sống vĩnh hằng khác nhau: Người lành được làm công dân Nước Trời vĩnh hằng, còn kẻ ác làm đệ tử Luxiphe đời đời.
Đức Chúa là Thiên Chúa đã xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Và mãi mãi Ngài là thế, là Đấng tự hữu và hằng hữu!
VUA SỰ THẬT, VUA THƯƠNG XÓT
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu tới và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” (Ga 18:33). Đức Giêsu không trả lời trực tiếp mà đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18:34). Ông Philatô nói: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” (Ga 18:35). Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36).
Chúa Giêsu hai lần xác định: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Chắc hẳn tổng trấn Philatô không hiểu hết hoặc không thể hiểu ý Chúa, thế nên ông ta liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu không hề tự nhận là vua, và thản nhiên: “Chính ngài nói rằng tôi là vua” (Ga 18:37a). Rồi Ngài nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37b). Ngài là Người-của-Sự-Thật, là Nhân-Chứng-Chân-Lý, Ngài không đấu tranh cho chính Ngài mà đấu tranh vì công lý và hòa bình của nhân dân, dù người đó sống tốt lành hay tội lỗi.
Nếu nói về Vương Quốc Chân Lý, Ngài là Vua Sự Thật. Tuy là Vua nhưng lại giàu lòng thương xót, như vậy Ngài cũng là Vua Thương Xót.
Có lần Chúa Giêsu nói về vua chúa thế gian và quyền hành trần tục: “Thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân” (Mt 20:25). Người có thế quyền và thế lực hành xử như vậy, bắt người khác quy phục, còn Chúa Giêsu không dùng uy quyền và thế lực để đàn áp người khác, không dùng uy tín và chức vụ để thị uy hoặc bóc lột người khác, mà ngược lại, Ngài phục vụ chứ không bắt người khác phục vụ (x. Mt 20:28; Mc 10:45). Như vậy Ngài cũng là Vua Khiêm Nhường.
Chắc hẳn chẳng có ông vua nào dám làm như vậy, thậm chí đối với những kẻ nhẫn tâm giết Ngài mà Ngài vẫn xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Ngài thật lòng thương xót và thật lòng tha thứ chứ không miễn cưỡng hoặc vì ở thế việt vị.
Chúa Giêsu là Vị Vua “ngược đời” nhất thế gian, vì Ngài là Vua Trời nhưng đã tự hạ mình xuống thế gian để hòa nhập với thần dân. Chúng ta cũng “ngược đời”, nhưng ngược đời trái chiều với Vua Trời, vì chúng ta chỉ là bụi tro nhơ nhớp và hèn mọn, thế mà chúng ta lại muốn ở “trên mây”, nghĩa là nâng mình lên càng cao càng tốt, là kiêu ngạo. Nếu vậy thì chúng ta hoàn toàn đi ngược chiều với Đấng mà chúng ta tôn vinh là Thiên Vương, là Chúa Tể Càn Khôn, là Vua Trời Đất, là Vua Vũ Trụ. Hai người chuyển động ngược chiều thì làm sao gặp nhau?
Vậy chúng ta học được chút gì ở Vua Giêsu về quyền hành, chức vụ, địa vị, cách phục vụ, sự tha thứ, tình yêu thương, lòng thương xót, cách nói, cách đối nhân xử thế,…? Nhưng nên nhớ rằng học là một chuyện, thuộc bài là một chuyện, còn thực hành bài học đó hay không lại là chuyện khác!
Lạy Thiên Vương Giêsu, Vua Khiêm Nhường, Vua Sự Thật, Vua Thương Xót, chúng con khiêm nhường phủ phục mà xin lỗi Ngài vì chúng con quá tồi tệ. Xin xót thương và tha thứ cho chúng con, và xin Ngài mãi mãi là Vua cai trị cuộc đời chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
33. Vua Chân Lý
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Danh nhân Mahatma Gandhi (1869-1948), chính khách chủ trương bất bạo động và nhà lãnh đạo tinh thần của dân Ấn Độ, nhận định: “Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh”. Một câu nói rất thâm thúy, rất phù hợp với đạo làm người và cũng phù hợp với đạo giáo – đặc biệt là Công giáo.
Ông Gandhi còn xác định rạch ròi và chi tiết hơn: “Dù bạn có là thiểu số thì chân lý vẫn là chân lý. Công cuộc theo đuổi chân lý không cho phép bạo lực với đối phương. Sai lầm không trở thành chân lý vì lý lẽ của vô số cách tuyên truyền, chân lý cũng không trở thành sai lầm vì không ai thấy nó. Tôn giáo của tôi dựa trên chân lý và bất bạo động, chân lý là Chúa của tôi, bất bạo động là cách để nhận biết Người”. Cách sống của ông rất gần với giáo huấn yêu thương của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng ta.
Thế mà, khi xét xử Chúa Giêsu, ông Philatô đã hỏi Ngài: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Ông ta thực sự không biết hay là cố ý giả nai? Chúng ta có bao giờ “đặt vấn đề” như ông Philatô? Có đấy, nhưng với kiểu cách “tinh vi” hơn! Người Việt nói là “giả nai” hoặc “ngây thơ cụ”.
Theo chế độ quân chủ, vua là người có quyền tối thượng, cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, thế mới là trung thần: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Mọi thần dân đều vui nhận mọi mệnh lệnh của nhà vua, vì được nhận chiếu chỉ của vua là niềm hãnh diện, và người ta còn gọi chiếu chỉ là “thánh chỉ”, tất nhiên không loại trừ mệnh lệnh bắt phải chết.
Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, tự hữu và hằng sinh, vua chúa trần gian chỉ là “hạt bụi” dưới chân Ngài mà thôi. Thế nhưng Ngài lại giàu lòng thương xót, thích tha thứ chứ không thích kết án ai. Thật lạ, khi Chúa Giêsu đứng trước Philatô, một người đầy uy lực, còn Chúa Giêsu khi đó chỉ như một tội đồ, thế mà Ngài vẫn thản nhiên nói thẳng với tổng trấn đó: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông” (Ga 19:11).
Trình thuật Ðn 7:13-14 cho biết một trong những thị kiến ban đêm của ngôn sứ Đa-ni-en: “Tôi mải nhìn thì kìa: có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong”.
Chỉ có hai câu, ngắn gọn nhưng súc tích nói rõ về Vua Chân Lý, cũng là Hoàng Tử Bình An, Vua Công Lý, Vua Tình Yêu, Chúa Tể Càn Khôn. Nhưng có điều đặc biệt, Vị Vua này là Hoàng-Đế-ba-không: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, và KHÔNG được tiền hô hậu ủng. Chắc chắn không một vị vua chúa nào “độc đáo” như Ngài và cũng không có uy quyền như Ngài. Thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết Ngài và tôn thờ Ngài!
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vâng, quả nhiên là chúng ta không thể không chia sẻ với người khác khi chúng ta có một Đức Chúa như vậy, ngay cả những vật vô tri cũng chợt nhận biết và rồi chúng không thể im lặng: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia” (Tv 19:2-3).
Thiên Chúa là Đấng siêu việt nên mọi thứ khác bởi Ngài cũng hoàn toàn siêu việt: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93:5). Đó là một sự thật minh nhiên, vĩnh hằng, không ai có thể chối cãi. Nếu có ai chối bỏ thì chỉ là tự lừa dối chính họ mà thôi.
Thiên Chúa quan tâm chăm sóc các thụ tạo của Ngài rất chu đáo, Ngài muốn chúng ta đồng hưởng vinh quang với Ngài đời đời. Tuy nhiên, trước đó thì chúng ta được “thanh luyện” trên thế gian với quyền tự do mà Ngài đã ban cho chúng ta. Vâng, chúng ta được hoàn toàn tự do chứ hề không bị ép buộc.
Thánh Gioan viết thư gửi bảy Hội Thánh Axia và đề cập việc làm chứng nhân của Đức Giêsu Kitô: “Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy MÁU mình RỬA SẠCH tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen!” (Kh 1:5-6). Thiên Vương Giêsu Kitô không “hét ra lửa” như các vua chúa trần gian, nhưng Ngài lại có uy tín hơn bất cứ ai. Ngài trị vì cả vũ trụ hữu hình và vô hình, nhưng Ngài lại làm gương là hy sinh vì tình yêu đến tận cùng, đến chết.
Lần thứ nhất Chúa Giêsu Kitô đến thế gian như “con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt” (Gr 11:19) và với tư cách là Vua Thương Xót, nhưng Ngài đến thế gian lần thứ hai như một Thẩm Phán Công Bình và với cương vị là Vua Công Lý. Ngày ấy đang đến rất gần rồi!
Thánh Gioan cho biết cách Thiên Vương Giêsu quang lâm: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!” (Kh 1:7). Đấm ngực là biểu hiện lòng sám hối, nhưng nếu đấm ngực mà không ăn năn thì có đấm mạnh đến nỗi đau tức ngực cũng chỉ là vô ích. Biết chuẩn bị đón Ngài bằng cách “đấm ngực chân thành” ở mọi nơi và mọi lúc thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa khoan hồng, thậm chí là tha bổng, cho trắng án. Không ai xa lạ, chính “tướng cướp khét tiếng” Dismas đã nên thánh nhờ được diễm phúc đó (x. Lc 23:43), đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” (Ga 6:37).
Thiên Chúa là tất cả, mọi điều không thể sẽ hóa thành có thể, chỉ cần chúng ta thành tâm mà khiêm nhường sám hối, chứ Ngài không cần lễ vật chi cả (). Thật vậy, Ngài đã xác định rạch ròi: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Nhưng đừng quên điều này: “Thiên Chúa không thiên vị ai (Gl 2:6; Cv 10:34) và cũng không vị nể ai (1 Pr 1:17a; Mt 22:16), cứ theo công việc mỗi người mà xét xử.
Trình thuật Ga 18:33b-37 cho thấy cảnh người ta phải công nhận Ngài là Vua, một Vị-Vua-ba-không.
Sau khi bọn thủ ác bắt Chúa Giêsu và điệu Ngài tới cho tổng trấn Philatô luận tội. Lúc ông ta trở vào dinh, cho gọi Chúa Giêsu và hỏi Ngài: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”. Ngài không trả lời mà thản nhiên hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Ông Philatô nói rằng ông là người Do-thái, mà chính dân chúng và các thượng tế đã nộp Ngài cho ông ta. Rồi ông ta hỏi Chúa Giêsu: “Ông đã làm gì?”. Chúa Giêsu không trả lời thẳng mà trình bày lý luận: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”.
Có lẽ ông Philatô gần giống như “vịt nghe sấm”, chưa hiểu hết ý của Chúa Giêsu nên ông ta phải hỏi lại: “Vậy ông là vua sao?”. Chúa Giêsu vẫn không xác nhận mà lại nói: “Chính ngài nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Ai cũng thích sự thật, nhưng không dễ “đứng về phía sự thật”. Tại sao? Vì SỰ THẬT luôn THẲNG THẮN. Thế nên người ta dễ a dua, vì không có lập trường, sợ bị “lẻ loi”, như người ta vẫn nói đùa mà thật: “Ai làm sao, tôi làm vậy; ai làm bậy, tôi làm theo!”. Phải thực sự can đảm mới có thể dám “đứng về phía sự thật”.
Sự thật vốn dĩ dễ khiến người ta mất lòng vì sự thật thường mang tính phũ phàng. Tuy nhiên, sự thật là chân lý, mà chân lý không thể bị bóp méo hoặc bị xuyên tạc, nhưng chân lý đó phải thực sự là sự thật – tức là chân-lý-thật, chứ không thể là sự thật giả tạo, được ngụy biện hoặc được dàn xếp. Chính chân-lý-thật mới có khả năng kỳ diệu, dạng sự thật mà Chúa Giêsu đã đề cập và xác định: “Sự thật sẽ giải phóng quý vị” (Ga 8:32).
Ước gì không một ai trong chúng ta “ngây thơ cụ” như ông Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).
Mừng kính lễ Thiên Vương Giêsu Kitô là dịp để chúng ta xét mình một cách nghiêm túc hơn, xem mình đã thực sự là tín dân của Ngài hay chưa. Và xin được kể vài chuyện có thật đã xảy ra với những kẻ vô thần, dám coi thường Thiên Chúa:
1. John Lennon, ca sĩ của ban nhạc nổi tiếng The Beatles của Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói: “Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế. Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngây ngô! (Ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt). Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu” (1966). Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau đó hắn có ăn năn hay không, nhưng mọi người biết rõ là The Beatles đã “chết”.
2. Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic về sự an toàn của chiếc tàu, hắn nói: “Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó”. Kết quả ra sao, mọi người đã biết rõ: Vỡ đôi vì tảng băng ngầm vào sáng ngày 15-4-1912 tại Bắc Đại Tây Dương!
3. Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, cô được Billy Graham đến thăm. Bill Graham nói rằng Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe nói: “Tôi không cần Giêsu của ông”. Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.
4. Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các người ở đâu?”. Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa, nhưng khi chạm đến anh, các nữ tu mới biết linh hồn hắn đã lià khỏi xác từ lúc nào rồi: Hắn chết đứng!
5. Năm 1963, sau khi Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào Tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên (Huế), đập phá “tàn tích gia đình trị”. Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, quan thầy của Tổng thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xảy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.
6. Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” (Bê-en-dê-bun, tên của tướng quỷ). Năm 1753, ông đã lên án Thiên Chúa: “Hai mươi năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài”. Đúng hai mươi năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở vì chết thê thảm. Ông đã thấy những hình ảnh làm ông run sợ và hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi xa Thiên Chúa... Qủy bắt tôi... Tôi trông thấy hỏa ngục”. Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà già thường giúp người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, đã nói: “Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chết nữa”. Một người khác chứng kiến cái chết của Voltaire cũng nói: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ như Voltaire”.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm lòng Tin Cậy Mến cho con, vì con yếu đuối lắm. Xin đừng để sóng đời cuốn trôi con theo hướng vô định. Xin Thần Khí Chúa định hướng tâm linh để con tin nhận Đức Giêsu Kitô là Vua cai trị đời con mà vui nhận mọi mệnh lệnh của Ngài – Đấng cứu độ nhân loại, Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
34. Một vị vua khác thường – Guy Marin.
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát, bom và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng phương tiện nào trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta… “vương quốc Ngài sẽ vô cùng tận”. Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền, trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ dàng làm Vua, thì Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự thật.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào: “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả, vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động này đối với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên Chúa đang can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với một lời giải phóng: “Ngày sabat được đặt ra vì con người…”. Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người ta nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc đầu mà nói: “Không tôi không thấy gì thay đổi cả”. Kinh sư này có lý, Chúa Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết là lòng con người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị bách hại còn hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
35. Làm chứng cho sự thật -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình. Một bà khoe:
- Thằng Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói:
- Thằng Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than:
- Thằng con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của nó!
Bà cuối cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài trí con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau “có lý mà không có tình”. Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán, lời mất, được thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân tương ái, “tối lửa tắt đèn có nhau” mà chỉ là “đèn nhà ai - nhà ấy rạng” hay an phận thủ thường theo chủ nghĩa “mackeno” cho xong.
Một xã hội đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giêsu Ngài đã đến không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau. Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
36. Sống Yêu Thương trong thế giới dối gian -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong một khảo sát được công bố mới đây của nhóm nghiên cứu do Giáo sư Trần Ngọc Thêm chủ trì cho thấy, bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%.
Có thể thấy nói dối có mặt ở khắp nơi. Nói dối chằng chịt từ dưới lên trên, dọc ngang ngang dọc, trong gia đình, trong công sở, nơi kinh doanh, trong thực thipháp luật...
Điều lạ là ai cũng nói dối nhưng ai cũng tỏ ra mình thật thà. Ai cũng biết mười mươi đối phương đang nói dối nhưng ai cũng tỏ ra hoàn toàn tin cậy.
Ngay ở cấp độ Giáo hội nhiều giáo xứ, nhiều ban ngành cũng chấp nhận và sẵn sàng lừa dối nhau bằng những bản báo cáo mượt mà thành tích, số liệu… nhưng thực tế có phải vậy?
Một xã hội dối trá làm sao chúng ta có thể hy vọng xây dựng được một xã hội lành mạnh văn minh tình thương. Một xã hội dối trá sẽ cài cắm vào lương tâm con người từ thuở bé những hạt giống xấu của gian dối, lừa gạt...và chắc chắn sau này những mần non ấy lớn lên trở thành những lãnh đạo, họ sẽ gian dối bằng cách ăn bớt giờ làm, đục khoét người dân và báo cáo láo về thành tích, rồi nào là học giả bằng thật, học giả bằng giả, mua bằng cấp, và mua quan bán chức... để leo lên những chức vụ cao hơn.
Chẳng cần nói đến thế hệ sau mà chỉ cần nhìn vào hiện tại chúng ta có thể thấy sự dối trá đang hoành hành khắp nơi.
Biết bao kỹ sư đã rút ruột công trình hay thiết kế ẩu, thi công ẩu... miễn là có lợi cho mình gần đây nhất là đường cao tốc 34 ngàn tỉ một cơn mưa đã hư.
Với nghề lương y như từ mẫu là bác sỹ, có người sẵn sàng trục lợi trên tính mạng con người. Là công nhân, họ cũng sẽ có trăm phương ngàn kế để ăn cắp nguyên vật liệu hay thành phẩm của nhà máy.
Rồi trong kinh doanh, với kiểu làm ăn chụp giật...và lừa đảo đã khiến bao người tan gia bại sản.
Nếu được nhận định về xã hội hôm nay, chúng ta có thể nói đây làmột xã hội giả dối, con cái lừa dối cha mẹ, người nọ lừa dối người kia, nói một đằng nhưng việc làm lại một nẻo, nói mà không làm.
Hôm nay lễ Chúa Ky-tô Vua, chúng ta được nghe lại lời xác quyết của Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Chính Ngài đã nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Sự thật mà Chúa Giêsu làm chứng chính là giới thiệu cho nhân loại một vương quốc đầy ánh sáng tình thương và chân thành. Một vương quốc không có bệnh thành tích mà chỉ có tinh thần phục vụ một cách vô vị lợi. Một vương quốc mà con người tìm được tiếng nói chung khi biết tôn trọng sự thật và đề cao chân lý.
Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã sống cuộc đời không tìm hư danh mà chỉ biết sống yêu thương phục vụ mọi phận người lầm than. Ngài cũng không làm để được báo cáo thành tích mà chỉ biết cho đi mà không hề so đo tính toán. Ngài đã sống và bảo vệ chân lý cho dù vì thế mà Ngài bị nhiều thế lực gian tà thù ghét và tìm cách loại trừ. Tuy nhiên, cuối cùng Ngài vẫn toàn thắng. Sự dữ đã bị đẩy lùi. Sự gian dối của ma quỷ đã bị phơi bày. Thiên Chúa đã làm chủ vạn vật và trái đất này.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.Vợ chồng chân thành với nhau trong nghĩa tình thuỷ chung. Người trong một đoàn thể, một xứ đạo sống chân thành với nhau hầu loại trừ bệnh thành tích khoe trương. Nhất là trong cuộc sống hằng ngày cần lấy chữ tín làm đầu, luôn sống chân thành trong lời nói, việc làm luôn theo chân lý và sự thật.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
37. Chúa Giêsu là chân lý -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người ngày nay thường sai lầm khi “thả mồi bắt bóng”. Họ thiếu trân trọng những gì mình đang có để rồi chạy theo những cái ngoài tầm tay. Có người bỏ vợ con để chay theo những cuộc tình bất chính. Có người ngược đãi cha mẹ vợ con lại mất thì giờ lấy lòng người dưng...
Tôi từng thấy có một người đàn ông thích bồ bịch lăng nhăng. Anh ta cứ sống với hết phụ nữ này đến phụ nữ khác, nay đã xế chiều thì không ai chứa chấp và phải về sống với mẹ đẻ. Đứa con gái đã lớn, cũng sắp lập gia đình. Một lần cháu buột miệng bảo: "Mẹ ơi, bố mình thật khổ, có nhiều vợ mà cuối cùng chẳng có nhà để ở". Đấy là kết cục của những người nhẫn tâm chối bỏ vợ con mình, chỉ biết nghĩ đến dục vọng bản thân.
Có một người vợ trẻ nói với tôi chị đang quen với một người đàn ông đã có vợ. Anh ta rất tốt với chị đến nỗi chị chỉ muốn bỏ chồng theo anh ta. Tôi nói rằng: nếu chị đang sống yên ổn hạnh phúc với gia đình thì nên chấm dứt quan hệ với người ấy và đừng tự chuốc lấy phiền phức vào mình khi “thả mồi bắt bóng”. Đôi khi trong cuộc đời ai cũng có những lúc “đứng núi này trong núi kia” nhưng chưa chắc “cỏ ở đồi bên ấy xanh hơn”.
Quả thực con người ngày nay rất khó tìm giá trị thực của cuộc sống. Cuộc sống luôn thả những con mồi khiến ta cứ lao theo con mồi mà đâu biết rằng đó chỉ là ảo ảnh, là giả dối, là hạnh phúc mau qua. Có biết bao người như say máu chạy theo danh lợi thú trần gian nhưng rồi họ không bao giờ toại nguyện với những cái mình đang có. Có cả những người dùng thủ đoạn bất chính để bắt bóng phù hoa nhưng chỉ thấy những ngổn ngang đau khổ dằn vặt lương tâm.
Cuộc sống là đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc không ở những con mồi danh vọng, quyền lực, tiền tài, dục vọng. Hạnh phúc hệ tại ở chân lý, ở sự thật. Khi ta sống theo lẽ phải, theo sự thật lương tâm thì ta mới có niềm vui nội tại tâm hồn.
Hôm nay, Chúa Giêsu bảo con đường tìm hạnh phúc của Ngài là yêu thương phục vụ. Chính cuộc sống Ngài mới là Đường, là Chân Lý để chúng ta noi theo. Cuộc đời Ngài luôn sống vì tha nhân. Ngài luôn tìm kiếm niềm vui trong phục vụ. Ngài sống để trao ban. Trao ban đến giọt máu cuối cùng.
Cuộc sống của Ngài đã cho chúng ta hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Con người chỉ có giá trị với xã hội và gia đình khi biết sống yêu thương và phục vụ. Càng phục vụ giá trị người phục vụ không mất đi mà xem ra lại càng tăng thêm. Chính Chúa Giêsu còn quả quyết: Ngài làm vua nhưng không ở trên ngai cho người khác phục vụ mà Ngài sẵn lòng cúi mình phục vụ hết mọi phận người.
Cuộc sống đã cho ta rất nhiều cơ hội để phục vụ. Phục vụ để mang lại niềm vui hạnh phúc cho gia đình. Phục vụ mang lại cho xứ đạo ngày một phát triển. Phục vụ cho dân tộc mỗi ngày một thịnh vượng hơn. Phục vụ chứ không đòi người khác phục vụ sẽ giúp ta không nhẫn tâm thiếu trách nhiệm với gia đình để đi tìm niềm vui cho bản thân. Phục vụ vô vị lợi sẽ giúp ta biết từ bỏ hạnh phúc của riêng mình để sống có trách nhiệm với tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nâng cao giá trị cuộc sống bằng đời sống hy sinh phục vụ. Sống cho tha nhân hơn là đòi hỏi nơi tha nhân. Biết sống như ai đó nói rằng: bạn đừng nghĩ người khác đã làm gì cho bạn, nhưng bạn hãy nghĩ bạn đã làm gì cho tha nhân. Chính lối sống ấy sẽ giúp ta biết dấn thân một cách quảng đại để xây dựng hạnh phúc cho gia đình và xã hội.
Ước gì chúng ta cũng trở nên một nhân chứng cho chân lý khi biết sống hết mình vì tha nhân. Amen.
38. Phiên tòa bất công -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống giữa bao hiểm nguy, bất trắc khiến lòng người luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh đẩy đưa. Giữa người với người vẫn còn những hố sâu ngăn cách bởi ích kỷ, ghen ghét và tham lam. Có thể vì một chút danh lợi thú mà người ta bán rẻ nhau và bán rẻ chính nhân phẩm của mình. Cuộc đời đầy thị phi đến nỗi Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay những người thân cận nhất vẫn có thể trở thành kẻ thù của nhau. Cha mẹ từ chối con cái. Con cái ngược đãi cha mẹ. Vợ chồng nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Bạn bè dễ dàng quay lưng lại với nhau vì tiền tài, vì danh vọng và vì tình yêu. Một cuộc sống đầy vong ân bội nghĩa nên mấy ai còn niềm tin nơi nhau. Có mấy ai dám sống cho chân lý để rồi lại phải chịu thiệt thòi vào thân!
Hôm nay, Lời Chúa tường thuật lại một phiên tòa đầy bất công và thiếu khách quan của sự thật. Gọi là bất công vì sự ghen tỵ mà người ta đã kến án kẻ vô tội. Thiếu chân thực vì toàn bộ câu chuyện đã bị bóp méo hoàn toàn. Theo thánh Gioan kể lại: họ tố cáo Chúa Giêsu về ba điều: gây rối loạn trong dân chúng, cản trở việc nộp thuế cho hoàng đế, và tự xưng mình là vua. Thật ra, vì lòng ghen ghét, họ đã không ngần ngại bóp méo sự thật. Theo sự tra xét của họ thì Chúa Giêsu phạm tội lộng ngôn, nhưng họ biết rất rõ quan toàn quyền sẽ không chịu nghe một lời tố cáo như vậy, mà sẽ bảo đó là chuyện tranh chấp về tôn giáo và bảo họ phải tự dàn xếp. Thế nên, vì muốn loại trừ Chúa, họ đã không ngần ngại vu khống để bỏ vạ cáo gian. Nhưng Philatô lại không dám bảo vệ sự thật. Cho dù Chúa Giêsu đã cho ông hiểu rằng: Ngài là Vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng Philatô đã không quan tâm đến việc bảo vệ công lý cho bằng bảo vệ ngai tòa của mình. Ông rửa tay để làm ngơ trước sự bất công.
Và cũng từ phiên tòa này, Chúa Giêsu đã công khai nói lên sứ mạng của Ngài, Ngài đến trong thế gian này là thiết lập một vương quốc sự thật, một nền công lý và hòa bình từ chính trong tâm hồn con người. Và chính vì thế mà ngài đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Ai đi theo đường công chính, biết ăn ở ngay lành, thực hành bác ái yêu thương chính là công dân trong Nước của Thiên Chúa. Nước của Ngài không hạn chế bởi địa dư, bởi mầu da sắc tộc mà mở rộng không gian tới tận cùng trái đất. Nơi nào có những người xây dựng hòa bình, công lý và tình thương, nơi đó Nước Chúa đang ngự trị.
Là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Nghĩa là phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng tình liên đới giữa con người với nhau trong yêu thương chân thật. Như lời Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “phải làm thế nào để tính thiện nơi con người được chiếu lộ ra, và giải phóng các sức mạnh của sự tiềm ẩn nơi con người, để sự thiện ấy được lớn mạnh hơn sự ác cả trong lĩnh vực luân lý lẫn xã hội”. Vâng, cuộc đời này có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy sa đọa, con người ngày nay vẫn muốn loại trừ Thiên Chúa. Dường như vì ích kỷ đã làm cho họ mù loà đến nỗi không nhận ra sự bất hạnh của tha nhân để cảm thông, để nâng đỡ. Dường như vì tham lam mà con người muốn loại trừ đồng loại để bảo vệ tiền tài danh vọng cho chính mình. Đồng tiền và danh vọng đã làm mờ con mắt. Tự hủy diệt mình trong đam mê lạc thú và quyền lực thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con dám sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Ngõ hầu danh Chúa được cả sáng. Amen.
39. Nước Chúa không thuộc thế gian này
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi quan Philatô hỏi Ðức Giêsu xem Người có phải là vua dân Do thái không? (Ga 18:33), Chúa liền trả lời đó là ý tưởng của ông quan. Philatô đã phải hiểu câu trả lời của Chúa là lời chối từ. Tuy nhiên Philatô vẫn cố tình không muốn hiểu cho nên cứ cho khắc bảng chữ treo trên thập giá Chúa với lời: Giêsu Nagiarét, vua dân Do thái (Ga 19:19). Thực ra thì bảng chữ trên thập giá là một tính toán sai lầm của Philatô, bởi vì các thày cả thượng phẩm của người Do thái không chịu chấp nhận Đức Giêsu làm vua của họ. Và chính Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của người Do thái. Theo sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua. Tuy nhiên Chúa không muốn can dự vào việc cai trị nước trần thế.
Rồi quan Philatô lại hỏi Chúa: Vậy ông là vua sao? (Ga 18:37). Chúa Giêsu mặc nhiên xác nhận câu hỏi của Philatô. Chúa chấp nhận tước hiệu là vua mà nhiều lời tiên tri đã ám chỉ. Vậy thì vương quốc của Chúa ở đâu? Ðây chính là câu trả lời của Chúa: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18:36). Và đâu là những đặc tính của nước Chúa? Xa xưa trước cả khi Chúa cứu thế giáng sinh, các ngôn sứ như Isaia, Giêrêmia, Ðanien, Hôsê, Amốt đã loan báo cho dân chúng là Ðấng cứu thế sẽ đến thiết lập một vương quốc như trong kinh tiền tụng Chúa nhật lễ Chúa Kitô vua ghi lại: một vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, vương quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, vương quốc đầy tràn tình thương, công lí và bình an.
Trong bài trích sách ngôn sứ Ðanien hôm nay, vị tiên tri trong một thị kiến ban đêm đã nhìn thấy Con Người đến thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, chẳng hề suy vong (Ðn 7:14). Ngôn sứ Ðanien tiên báo là Con Người sẽ nhận từ Ðấng Lão Thành là Thiên Chúa: quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người (Ðn 7:14). Còn thánh Gioan trong một thị kiến được ghi lại trong sách Khải huyền là Ðức Giêsu sẽ đến như vị Thủ lãnh mọi vương quốc trần gian (Kh 1:5). Khi loan báo cho trinh nữ Maria là con bà sẽ ngồi trên ngôi báu Ðavít, và sẽ làm vua thống trị nhà Giacóp đến muôn đời, sứ thần Gáp-ri-en cũng ám chỉ một vương quốc thiêng liêng (Lc 1:33).
Vậy nước Chúa được khởi sự như thế nào? Dụ ngôn hạt cải giúp ta hiểu sự lớn lên và bành trướng của nước Chúa, lúc đầu chỉ nhỏ bé như hạt cải, quá nhỏ đến nỗi khó có ai nhận ra. Việc khởi sự khiêm tốn của nước Chúa với việc chọn lựa có mười hai tông đồ là một cớ vấp phạm cho người Do thái. Thật là khó mà tin rằng các tông đồ, đa số làm nghề chài lưới và ít học lại có thể xây dựng được một vương quốc. Và đó là một trong những điểm khác biệt giữa nước Thiên Chúa và nước trần gian. Như vậy người ta thấy sự bành trướng của nước Chúa không tuỳ thuộc vào học vấn, tài năng và địa vị xã hội của loài người, nhưng là tuỳ thuộc vào quyền phép của Thiên Chúa và sự cộng tác của loài người.
Những giá trị của nước Thiên Chúa có thể được tìm thấy trong Thánh kinh và trong Phúc âm. Vậy những người thực thi công chính và yêu thương, những người tỏ lòng xót thương, những người tìm kiếm sự thật, những người kiến tạo hoà bình, những người sống đời thánh thiện là những người có được nước Chúa trong tâm hồn. Sự bành trướng của nước Chúa phải được bắt đầu từ trong tâm hồn và đời sống người tín hữu, rồi được lan rộng ra cho người hàng xóm, cho sở làm, cho xã hội.
Là người Kitô giáo, ta có hai quyền công dân: công dân của nước trần thế và công dân của nước trời. Là công dân của nước trời ta có thêm bổn phận vượt trên bổn phận của người công dân nước trần thế. Là công dân nước trời, ta có bổn phận công bố nước Chúa bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng việc rao giảng tin mừng cứu độ, bằng việc thiện hảo, bằng việc cổ võ công bình bác ái. Những bổn phận của người công dân nước trời có thể được tóm tắt trong hai giới răn là mến Chúa và yêu người.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tìm kiếm những sự thuộc về nước Chúa:
Lạy Đức Giêsu Kitô vua!
Chúa là vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Chúa đến thiết lập một vương quốc thiêng liêng và vĩnh cửu.
Xin dạy con biết tìm kiếm những sự thuộc về nước Chúa.
Nếu có lãnh vực vực nào trong đời sống con,
chưa được Chúa làm chủ: tư tưởng, lời nói, việc làm,
xin Chúa đến làm chủ tâm hồn và đời sống con. Amen.
40. Sự sống vương giả
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng niên nào, dù là chu kỳ A, B hay C.
Thật vậy, nếu Chúa Kitô "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô xưng Người là "sự sống lại" trước và là "sự sống" sau) thì quả thực Người "là sự sống lại" khi Người phục sinh vào ngày thứ ba từ trong kẻ chết. Bởi vì Người chính "là sự sống" bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ và tiêu diệt.
Thế nhưng, cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô 2 ngàn năm trước đã hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của Người, trong một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa học và càng văn hóa về nhân bản nhân quyền chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ 20 sang đầu hơn một thập kỷ của thiên kỷ thứ 3 hiện nay cho thấy, sự dữ lại càng gia tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được thả ra trong một thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3).
Trong thời gian ngắn vớt vát còn lại này của mình, con rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ dội nhất của hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua hai đạo quân hùng hậu gog và magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông như cát biển "đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)", như Sách Khải Huyền ghi lại (20:8-9).
Phải chăng chiến dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể dần dần đế quốc hóa tất cả mọi nền văn hóa của các dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân lý chân chính của lệ luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính nhiễm lây nguyên tội trên thế giới hiện nay, hình như đang hiện thực hóa mưu đồ lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới tam điểm, cho vương quốc của satan trị đến trong lòng người và lịch sử?!
Phải, cho tới khi con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), khi Người "là sự sống" vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán Chí Tôn "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", Đấng được Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay báo trước vương quyền thống trị bất diệt của Người:
"Trong một thị kiến ban đêm (theo người viết thời điểm "ban đêm" ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước khi Chúa Kitô tái giáng), tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão ("Vị Bô Lão" ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha), và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".
Thị kiến của Tiên Tri Đaniên về Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời tất cả loài người là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở.
Đúng thế, sự kiện Chúa Kitô "là sự sống" bất diệt và bất tận xuất hiện lần thứ hai không phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ta với tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự sống cuối cùng xua tan bóng tối sự dữ cho đến muôn đời, hoàn toàn không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên bào về một Tân Thành Thánh Giêrusalem "không còn đêm" (22:5), vì "trời trước và đất trước đã qua đi" (21:1).
Chiều hướng trên đây về lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của Chúa Kitô "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 hôm nay như thế này:
"Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen. Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen. Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: 'Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'".
Trong cuộc khổ nạn của mình, Chúa Kitô sẽ Tái Giáng vinh quang, vào lúc ấy, trước hết, mới chỉ tỏ mình ra như là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại tử tội hoàn toàn bất lực và vô cùng nhục nhã.
Thế nhưng, sự dữ và quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng "là sự sống", Đấng "tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình" (Gioan 10:18). Trái lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi "sự sống lại" của Người hay bởi Người "là sự sống lại". Thậm chí nhờ sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ, nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ.
Người quả thực là vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó, không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại tự nhiên có linh cảm Người là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi "ngài từ đâu tới" (Gioan 19:9), dù theo nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) chư hầu của đế quốc Rôma.
Tuy nhiên, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký Marco Chu Kỳ Năm B này, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". Nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao của lòng người, và bất diệt vượt trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này.
Thật ra, tự mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người thực sự bẩm sinh là vua, (như khi mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ - Mathêu 2:1-12), một đức vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng Trấn Philatô: "Vậy ông là Vua ư?": "Chính quan là người đã nói tôi là vua - It is you who say I am a king. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
Trong câu khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính trị, tức đụng đến chính quyền đế quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng Thiên Sai - Messiah, vì Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà chỉ công nhận qua việc đáp ứng của Người mà thôi, như Người đã công nhận lời của phụ nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về tư cách của Người (xem Gioan 4:25-26), hay như Người đã công nhận lời truyền lệnh của giáo quyền Do Thái giáo hỏi Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng (xem Mathêu 26:63-64): "Chính ngài là người nói thế... It is you who say it".
Cũng trong câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi". Nếu Chúa Kitô chính "là chân lý" (Gioan 14:6) thì Người "sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về" chính bản thân Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ai tin Người hay "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12). Đó là lý do "Nước tôi không thuộc về thế gian này" mà một vương quốc của "sự sống", sự sống đời đời, vĩnh viễn tồn tại như chính "Chân Lý" bất biến.
Người quả thực là "một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương" như Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước (19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho dù dân Do Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan 19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn không làm gì được Người mà còn bất ngờ làm cho Người trở thành vua của toàn thể nhân loại nữa: "Người đã được phong vương trở về" (Luca 19:15), theo chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa Kitô Vua.
Là Kitô hữu, chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức vương đế bởi chúng là là con Thiên Chúa này của mình: chúng ta có làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt?.
41. Lễ Chúa Kitô Vua
(Suy niệm của Lm Mido Duy CRM.)
Hôm nay chúng ta tôn vinh Vương Quyền của Chúa Kitô, Đấng đã được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện chương trình Cứu Chuộc Nhân Loại. Để thực hiện chương trình này, Chúa Cha đã trao toàn quyền trên trời dưới đất cho Chúa Giêsu.
Vương quyền Chúa Kitô
Quyền này được xác định đầu tiên khi Đức Mẹ nhận tin báo của Tổng Thần Gabriel nói: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài (Con của Mẹ) ngôi báu tổ phụ Ngài và Vương quyền Ngài sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Chính Mẹ đã nghi nhớ lời tiên báo đó cách rõ ràng và xác tín. Nhưng khi Chúa bị treo trên thập giá, các quan chức và binh lính đã xỉ vả Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy tự xuống khỏi thập giá đi, bằng không, ông là kẻ Thiên Chúa chúc dữ” (Lc 23, 36) Trong con cái Eva, lúc này Đức Mẹ thấy nhục nhã nhất, thay vì lời chúc phúc ngày xưa, bây giờ Mẹ toàn nghe thấy đầy những lời chúc dữ và nhiếc mắng. Khi Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu, Mẹ nghe thấy thiên thần ca hát vinh danh Thiên Chúa , thì bây giờ Mẹ không thấy bình an ở đâu mà toàn nghe thấy những bất bình, giết chóc mà con người dành cho Đức Kitô.
Chức vị Vua của Chúa Giêsu
Trong Kinh Thánh không nói trực tiếp về chức vị “Vua” của Chúa Giêsu theo nghĩa thế gian thường hiểu. Cựu Ước thì Đavid nói một vài lần hình ảnh vua có ý nói trước về Đấng Cứu Thế.
"Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn,
lên trị vì Xi-on, núi thánh của Ta."
Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA,
Người phán bảo tôi rằng: "Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. (Tv 2, 6-7)
Tân ước qua những dụ ngôn cũng chỉ là mức độ “ám chỉ” về Ngài.
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Ba nhà Phương Đông theo ánh sao) (Mt 2,2)
“Chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách”. (Mt 18, 23)
"Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
(Mt 20, 31) người mù ở Giêricô.
Trước toà án Philatô Chúa Giêsu đã xác nhận “Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36).
Binh lính và dân chúng cũng mỉa mai chức vua của ngài “nếu ông là vua thì tự xuống khỏi thập giá đi …”
Đối với người Roma, tước hiệu vua của Ngài càng có lý do để lên án Chúa.
Bởi vì sao? Vì Chúa không dùng quyền bính mà cai trị thần dân của Ngài, Ngài không dùng quân đội để củng cố ngai vàng của mình. Vị vua đó khác với quan niệm của nhân loại, cho nên Chúa Giêsu không phải là vị vua họ mong đợi.
Ngài không dùng quyền uy để cai trị mà dùng tình thương để chinh phục muôn tâm hồn.
Ngài không dùng quân đội để củng cố ngai vàng mà dùng các môn đệ, bằng ơn thánh từ máu đổ ra tắm gội cây thập giá. Cho nên ngai vàng của Ngài chính là cây thánh giá.
Tư tế, Vương đế và Ngôn sứ nơi tín hữu
Chúng ta là thần dân của Ngài, cũng được tham dự vào 3 quyền bính của Ngài: Tư tế, vương đế và ngôn sứ.
Đời sống của kitô hữu đích thực là tham dự vào việc tế lễ hằng ngày.
Sự cao cả của người Kitô hữu là con Vua trời, cai trị những đam mê và tội lỗi, sẽ chiến thắng trần gian.
Và sứ mạng quan trọng của chúng ta là loan báo tin mừng bằng lời nói hay bằng đời sống.
Vậy để kết luận, chúng ta đã sống với 3 sứ mệnh này như thế nào?
- Khi ta chấp nhận đời sống làm của lễ dâng lên Chúa đó là ta tham dự vào quyền tư tế của Chúa.
- Khi ta luôn quan tâm việc linh hồn hơn việc thể xác đó là ta đang tham dự vào quyền vương đế của Chúa.
- Khi ta làm gương sáng cho người xung quanh bằng việc bác ái, dấu chỉ đó nói lên chúng ta đang tham dự vào quyền ngôn sứ của Ngài.
42. Vị vua không giống ai!
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM.)
Thưa bạn rất kính mến!
Thỉnh thoảng chúng ta cũng nên nhắc lại cho nhau về lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa dành cho loài người chúng ta, và theo một nghĩa nào đó, Ngài còn yêu chúng ta hơn cả các Thiên thần của Chúa nữa đấy, bạn ạ.
Vâng, chỉ nguyên việc chúng ta được rước Thánh Thể hằng ngày thôi, thì đã đủ minh chứng cho ta rõ điều đó. Bởi lẽ, trong thực tế, đâu có một Thiên thần nào, ngay cả trong các Tổng thần ưu việt nhất, cũng chẳng vị nào có lấy được một lần diễm phúc rước Chúa như loài người chúng ta.
Trong công trình sáng tạo nên vũ trụ hữu hình này, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu thương, tin tưởng to lớn đối với con người khi trao cho con người làm bá chủ tất cả những vật hữu hình Chúa đã dựng nên. Kinh thánh bảo cho chúng ta biết thế đấy! Thiên Chúa trao công trình tay Ngài sáng tạo đó vào tay con người, không những để con người làm chủ, hưởng dùng, thưởng thức thoải mái, mà còn để con người có nhiệm vụ làm vua, làm quản lý trông coi và phát triển theo ý Thiên Chúa.
Quả thực, chính Chúa đã nói với chúng ta qua Thánh vương Đavít mà Thánh Phaolô còn nhắc lại trong thư gởi cho tín hữu Do thái: “Chúa tạo dựng con người kém Thiên thần một chút, nhưng Chúa trang sức cho con người bằng bảo ngọc với vinh quang, Chúa ban quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người”. Chúa muốn con người làm vua điều khiển cai trị cái vũ trụ này, để rồi đến lượt mình, con người lại thay cho vạn vật, thờ lạy, ngợi khen, tôn vinh, yêu mến Thiên Chúa Hằng Sống.
Có phải là Thiên Chúa quá ưu ái yêu thương bạn và tôi không?
Bạn mến!
Chúng ta đang hân hoan mừng Chúa Kitô Vua Trời Đất, Vua vũ trụ, Vua lòng người, vị Vua chẳng giống bất cứ vị vua nào trên trần thế.
Chúng ta trọng thể, vui sướng, tôn vinh Vua vũ trụ với cùng một nguyện ước khát bỏng là mong cho Chúa Giêsu sớm thật là Vua đối với tất cả mọi người, và mọi người đều là thần dân trung thành, ngoan ngùy, thảo mến thật dễ thương đối với Ngài. Thật ra, tự bản tính Chúa vốn là Vua; thế nhưng, điều tôi muốn cùng với bạn lưu tâm và vận động mong cầu đó là: mong cho hết tất cả mọi người đều tự do tình nguyện tôn vinh Chúa làm Vua ngay trong tâm hồn và đời sống mình từ sáng đến tối, từ tối cho đến sáng, và cứ ngày nào cũng thế, cho đến khi cùng nhau về trời để cùng tôn vinh, ngợi khen, yêu mến Vua muôn vua cho đến đời đời chẳng cùng amen.
Chính khi chúng ta chấp nhận để cho Chúa Kitô làm vua lòng ta, thì ta lại thực sự làm vua cùng với Ngài, làm vua cai trị ý riêng và các đam mê dục vọng phóng túng của ta, làm vua trong việc cai trị điều khiển ý riêng của ta cho phù hợp với Thánh ý khôn ngoan siêu vợi vô cùng từ bi nhân hậu khôn dò của Chúa…; nhất là làm vua trong việc yêu Thiên Chúa và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa yêu và đã làm gương rất chói sáng cho ta.
Bạn ơi!
Sách gương Chúa Giêsu đã nói: Làm tôi Thiên Chúa là cai trị!
Chúng ta đang đi theo và làm theo gương của một Vị Vua chẳng giống ai, mà đúng là một vị vua chẳng giống ai thật đấy!
- Vua Hòa Bình gì mà khi đến làm vua vũ trụ này, lại phải nằm rét rum như cầy sấy trong hang bò lừa tạm trú, tới nỗi khiến cho Ba Đạo Sĩ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngài, sau những ngày đêm lần mò đầy nguy hiểm chống gai vất vả đi tìm để bái thờ .
- Vua gì mà không có lấy một thằng lính để bảo vệ hộ tống cho, còn thảm tới nỗi chỉ cần mấy thằng lính quèn của Hêrôđê đuổi thôi, cũng đã phải chạy tóe khói bán sống bán chết sang mãi tận bên Aicập để lánh nạn và tìm miếng ăn kiếm sống qua ngày.
- Vua gì mà bị trói và bị thẩm vấn trước mặt Philatô mà không một lời biện hộ và cũng chẳng cần một ai biện hộ cho. Vua gì mà suốt ba năm trời vất vả đi chiêu mộ được 12 tông đồ gọi là trung thành sống chết với mình, thế mà khi thấy Thầy bị bắt, thì ôi thôi, các môn sinh đã từng gắn bó nằm gai nếm mật, đã cao xa bay chạy mỗi người một phách, để Thầy mình muốn ra làm sao thì kệ mặc Thầy.
- Vua gì mà chẳng giống ai, lại còn tuyên bố: Tôi sinh ra để làm Vua, Tôi đến thế gian này cũng không ngoài mục đích đó.
Vâng, đúng rồi, chính nhờ Vua không giống ai này mà Ngài đã thực sự là Vua từng cõi lòng chúng ta và nhờ Chức Vua của Ngài đó mà chúng ta mới được cứu độ và được lên Thiên Đàng đấy, bạn và tôi ạ!
Ngài đã chẳng úp mở hoặc luồn cúi, nhưng thẳng thắn tuyên bố cho Philatô và thế gian biết, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Nước Ngài là Nước của Tình Yêu Thương, và Ngài làm Vua cũng là Vua Tình Yêu , Vua dùng tình yêu thương để cai trị các thần dân của mình, và phải chăng, tất cả những ai muốn là thần dân chính cống của Ngài như chúng ta, cũng không có gì được khác hơn việc là, chỉ dùng tình yêu thương mà đối xử tốt, đối xử tử tế với nhau? Thánh Phaolô đã không bảo chúng ta:Yêu Thương là chu toàn lề luật trong Vương Quốc Tình Yêu này đó sao!
Nguyên nhìn vào quang cảnh vị vua ngự giá quang lâm xét xử trong ngày phán xét mà Thánh Matthêu đã miêu tả cho chúng ta trong chương 25 sách Tin Mừng ngài viết, cũng là câu trả lời rất ư tuyệt hảo cho chúng ta biết điều đó. Ngài xét xử tiêu chuẩn để vào Vương Quốc của Ngài cũng chỉ là ta có yêu mến Ngài cụ thể qua mỗi một tha nhân hay không?
Đặc biệt, mừng Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ và Vua lòng mọi người, chúng ta được mời gọi để khước từ những dáng vẻ, những kiểu cách làm vua ăn trên ngồi trốc theo kiểu của thế gian; đồng thời, hăng say tích cực làm vua với Vua Kitô và làm vua giống kiểu Vua của Ngài hơn. Ngài đã nói: Ai muốn làm lớn(làm vua), phải là người làm tôi hầu hạ các con. Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta kiểu làm vua của Ngài khi tuyên bố: Thầy ở giữa chúng con như người hầu hạ.
Thưa bạn,
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được gia đình gởi về Rôma học nghành điện tử. Đậu tiến sĩ xong, anh Caphu gia nhập phòng trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý. Có phải đúng là anh Caphu đã rất hiểu và đã cam đảm sống tinh thần làm vua mà Chúa Kitô Vua không, thưa bạn? Và ngày hôm nay, từ giây phút này, Ngài cũng đang lên tiếng kêu mời bạn và tôi tiếp tục công trình làm vua bằng cách phục vụ người khác như một người đầy tớ đối với ông chủ là tha nhân đấy!
Các bạn rất kính mến!
Vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm vua khắp thế gian, làm vua thiêng liêng trong tinh thần của con Thiên Chúa. Làm vua lòng mọi người bằng thương yêu tất cả, cầu nguyện cho tất cả, làm ơn cho tất cả, không yên trí, không thành kiến ai, không có ai là kẻ thù, mà giả như có ai là kẻ thù đi nữa, ta cũng sẽ tìm cách biến họ trở nên bạn, nên anh em với ta, vì tất cả đều có một mẫu số chung là con cùng một Cha trên trời với ta, đúng không, thưa bạn? Có như thế, chúng ta mới thực sự đang là những ông vua vượt muôn biên giới mà không gian, thời gian không thể trói buộc và giới hạn trái tim yêu thương của chúng ta.
Cuối cùng, sống cuộc sống ‘Kitô Vua’ là tất cả mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm và trong đời sống của chúng ta luôn có “chất Giêsu Vua” nếu chúng ta muốn là những môn sinh, đệ tử trung thành với Thầy Chí Thánh Kitô Vua.
Để kết thúc cho bài chia sẻ này, xin kể một câu chuyện có thật xảy ra tại chính quê hương Việt Nam.
Có hai gia đình ở cách nhau mấy căn thôi, dù không phải là họ hàng ruột thịt, nhưng lại hết sức thân thiết gắn bó với nhau, tới nỗi coi vui buồn sướng khổ của nhau như là của mình, của gia đình mình. Một ngày kia, hai đứa con nhỏ của hai gia đình đi học về xảy ra chuyện xích mích với nhau. Vậy mà, không ngờ chuyện nhỏ của hai đứa con hai gia đình thân thiết như ruột thịt, lại là chuyện rất lớn để rồi xa cách nhau tới hơn mười năm, mặc dù gần nhà, nhưng lại tỏ ra như người dưng nước lã với nhau, chẳng còn mặn mà như trước, là vì gia đình nào cũng bênh vực cho con của mình là đúng, và kiên quyết giữ vững lập trường, gia đình kia phải xin lỗi thì mới bỏ qua, mới tha.
Hơn mười năm xa cách, mất bằng an, cả hai gia đình có những lúc trộm tiếc xót xa, vì tình thân nghĩa đã bị mất đi một cách quá rẻ rúng, và đôi lúc trong tận đáy lòng cũng gióng lên một thiện chí muốn làm hòa để lấy lại tình thân nghĩa quí báu trước kia, nhưng không ai, không bên nào có đủ can đảm để hạ mình xuống đi bước thượng phong để xin lỗi bên kia làm cho tình trạng càng trở nên tồi tệ hơn.
May mắn thay, đúng là Chúa có mắt thấu suốt mọi tơ lòng của từng người. Vào một đêm kia trong một giấc mơ, ông A đã thấy Chúa Giêsu vác thánh giá tiến đến, thân mình Chúa đầy những vết thương, máu me đầm đìa, trông thảm thương không ai chịu nổi…! Thấy cảnh tượng như thế, ông A bèn hỏi Chúa:
Lạy Chúa, sao Chúa phải đau khổ quá như vậy?
Chúa Giêsu với nét mặt đầy âu yếm yêu thương, nhưng cũng nghiêm nghị trịnh trọng trả lời:
Tại tội của con đó!
Thưa Chúa, con có tội trọng đâu, con vẫn xưng tội rước lễ mà!
Chúa trả lời:
Tại con chưa tha thứ cho gia đình gần nhà con. Sau đó Chúa biến đi.
Sau khi Chúa biến đi, ông A chợt thức giấc luôn, không thể ngủ được nữa, vì ấn tượng quá mạnh mẽ của giấc mơ, nhất là lời Chúa nói Ta đau khổ thế này là do con đã không tha thứ cho gia đình ông B kia. Ông vội đánh thức vợ và các con dậy, đồng thời kể đầu đuôi câu chuyện, và cuối cùng tất cả mọi người đều nhất trí là đi xin lỗi gia đình nhà ông B để giải hòa, cho Chúa đỡ khổ và lấy lại sự bình an cho hai gia đình.
Thế là sáng sớm hôm sau, khi thấy bên nhà ông B bắt đầu mở cửa, cả gia đình ông A cất gót đi sang nhà ông B. Gia đình ông B trong nhà ngó ra sân trước, thấy cảnh tượng lạ quá, cứ tưởng là nó kéo đại binh sang hội đồng nhà mình đây. Nhưng khi bình tĩnh để ý kỹ, lại thấy nét mặt của nhà ông A rất dễ thương như có vẻ gì là tha thiết lắm, nên mở cửa cho dzô.
Khi mọi thành viên nhà A bước vào nhà B, thì chẳng ai bảo ai, tất cả đều quỳ xuống và ông chủ nhà A nói lời xin lỗi nhà B; ngay sau đó, quý vị biết không, ông chủ nhà B và mọi người trong nhà B cũng tự động quỳ xuống để xin lỗi gia đình nhà A, và mọi người ôm nhau òa lên khóc vì quá vui sướng. Thời gian sau, một lần kia tôi ra thăm và được họ chia sẻ: Thưa Cha, hơn chục năm nay, chưa bao giờ chúng con sung sướng hạnh phúc như thế.
Có phải là đang làm vua cùng với Đức Kitô đó không, thưa các bạn?
Sung sướng vì được làm vua cai trị, chứ không phải là làm nô lệ cho những tự ái, những giận hờn ghen ghét. Vâng, chỉ nhờ một chút cố gắng hãm dẹp cái tôi, bỏ tự ái; đồng thời, hạ mình khiêm tốn đi bước trước tí mà ông A và gia đình đã làm vua thành công(làm vua theo kiểu của Chúa Giêsu Kitô Vua) trong việc đem lại bình an hạnh phúc không những cho chính mình, gia đình mình, mà còn làm cho cả gia đình ông B tràn trề hạnh phúc, niềm bình an hạnh phúc sau suốt hơn mười năm vắng bóng chỉ vì một xích mích cỏn con của hai đứa nhỏ của hai gia đình.
Mừng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, Mẹ Giáo Hội thiết tha mời gọi mỗi người chúng ta hãy can đảm hãy để cho Chúa Kitô thực sự làm vua nơi tâm hồn và thể xác chúng ta và qua chúng ta, Chúa sẽ làm vua khắp cả thế giới. Chúa muốn dùng chúng ta như khí cụ bình an của Ngài, để đem yêu thương, đem hòa bình đến cho người thế.
Ước chi, lời cầu nguyện sau đây cũng là tâm tình cầu nguyện của mỗi một chúng ta hôm nay, bạn nhé:
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau, để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó, chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau, để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng, và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa,chúng con biết rằng ,cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa, vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên Thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Lạy Chúa Từ Nhân!Xin Cho Con Biết Mến Yêu và Phụng Sự Chúa Trong Mọi Người.
Hoan hô Vua Giêsu chiến thắng bây giờ và mãi mãi. Amen!
43. Ai là vua của bạn? – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’)
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến”. Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa”. Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
Chủ nghĩa thế tục nhấn mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi hình thức của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo lý tìm sự an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống. Chúa của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến thánh giá hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm nhân chứng cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước Trời. Họ trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn con đường tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm bợ của những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối còn chủ nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền Tụng ngày chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc ngự trị mãi mãi.
Một lời nài xin cho được trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa nhật hôm nay là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo hình thức đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ trọng này có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài xin theo sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con nài xin sự trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con trân trọng vương quốc đời đời và phổ quát của Người.
Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống.
Của sự thánh thiện và ân sủng.
Chúng con ước mong làm những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang lại cho thế giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình yêu bình an.
44. Dung mạo của vương quyền Đức Kitô --‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô lên án tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ khác biệt. Khi Philatô nói lên tiếng ‘vua’, ông nghĩ đến một vương quyền chính trị. Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người. Chúng ta diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng rộng lớn so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng Người là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của người Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết án vì Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến. Đối với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa ra một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái buộc tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp lý này lại chẳng liên quan gì đến Philatô.
Minh định xong điểm rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh điều gì?
1) Vương quyền của Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa không phải là Vua của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng cho một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa ‘sự thật’ ở đây. Trong Phúc Âm theo thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp với điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn được như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng trí tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá nhiều phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón ‘lời chứng’, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi
Vậy ‘thuộc về sự thật’ là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem đến cho loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở ngay thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc Âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân loại nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của Tình yêu.
45. Vị vua chấp nhận chết, để con dân được sống -- PM. Cao Huy Hoàng
Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những người được tôn lên làm vua theo kiểu cha truyền con nối “Con vua lại được làm vua”. Cũng có người do công trạng, được dân tín nhiệm. Lại cũng có người tự xưng mình là vua. Nhưng trong lịch sử, cũng không thiếu những kẻ cướp ngôi vua dành quyền cai trị đất nước bằng cách bất chính hoặc bằng muôn hình vạn trạng quỷ kế trên trường chính trị. Có thể có những điểm khác biệt về cách làm vua, cách cai trị dân nước… nhưng có một điểm chung là không có triều đại nào, chế độ nào “muôn năm” cả.
Thử nhìn lại lịch sử thế giới, có thể thấy, ở nước nào cũng thế, hết triều đại này đến triều đại khác, hết chế độ nầy, đến chế độ khác, không có triều đại nào, không có chế độ nào bền vững- vì triều đại nào, chế độ nào, cũng đầy dẫy những bất toàn ngay ở giai đoạn đầu và có khi thối nát ở giai đoạn cuối. Ai cũng muốn cho triều đại, cho chế độ của mình “muôn năm”, nhưng đó chỉ là một ảo vọng! Hai từ muôn năm bỗng đồng nghĩa với vài chục năm trong khi cơn khát khao, nỗi thèm thuồng quyền lực vẫn còn cháy rực trong lòng. Vì thế, triều đại nào, chế độ nào cũng muốn củng cố quyền lực của mình bằng đủ mọi cách có thể, kể cả những cách vô luân thường, vô đạo lý, vô kỷ luật… không sợ mất lòng dân, chỉ sợ mất quyền cai trị, không sợ dân chết, chỉ sợ mình chết. Và khi đã đến lúc ngọn đèn sắp tắt, thì không ngại gì mà nó không phực lên để chứng tỏ cái sinh khí cuối cùng trong thân thể rệu rã của nó.
Khác với những vị vua ở trần thế, hôm nay, chúng ta Suy Tôn Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, “Người là vua trên hết các Vua, Người là Chúa trên hết các Chúa”, vì người thống trị cả vũ hoàn không phải chỉ dựa vào quyền lực toàn năng của Thiên Chúa Tạo Thành, nhưng còn nhờ Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa Cứu Chuộc.
Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha để đến trần gian cho trần gian được yêu thương, được cứu rỗi, được giải thoát khỏi sự chết muôn đời, được đoàn tụ trong vương quốc của Ngài đến muôn đời. Ngài được suy tôn là Vua, Ngài làm Vua, không giống cách làm vua của những vua chúa, hay những nhà cầm quyền thế gian, nhưng cách làm Vua của Ngài là “vâng lời cho đến chết” như Thánh Phaolô xác quyết: “Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên Thập Giá. Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu” (Phil 2, 8-9).
Câu chuyện Tin Mừng thánh Gioan hôm nay kể việc Chúa Giêsu có trát của Philato đòi. Chắc chắn có quân lính áp giải, có dùi cui, có súng ống gậy gộc, nhưng không thấy thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu bị bịt miệng, nên Ngài đã đứng trước vành móng ngựa và khẳng khái xác nhận: “Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Vâng, đó là thân phận và trách nhiệm của Con Một Thiên Chúa đầy quyền năng và đầy lòng thương xót đến để khởi đầu một Triều Đại của Thiên Chúa giữa dân Ngài, triều đại của Chân Lý: Có Thiên Chúa uy quyền và đầy lòng xót thương. Con Thiên Chúa không đàn áp, bóc lộc dân Ngài, nhưng Ngài để dân đàn áp bóc lộc Ngài như cối chày giã nát những hạt thóc, rồi xay nghiền hạt gạo thành bột thành bánh thơm ngon. Ngài cũng không lừa đảo, cũng không quy hoạch chiếm đoạt đất đai tài sản, nhưng Ngài để dân Ngài chiếm đoạt Ngài làm gia sản muôn đời. Ngài nhường lầu vàng gác tía, biệt thự nguy nga có then cài cổng khóa cho dân Ngài, còn Ngài “không có nơi gối đầu qua đêm” (Lc 9,58). Ngài không bắt bớ bỏ tù dân Ngài, nhưng ngài chịu bắt bớ, chịu bỏ tù cho dân Ngài được tự do! Và cuối cùng, Ngài không muốn cho dân Ngài phải chết để Ngài được sống, nhưng Ngài đã chết cho dân Ngài được sống, và sống muôn đời. Ngài là vị vua yêu thương và phục vụ dân đến cùng. Ngài chết cho con dân của Ngài được sống.
Đã có biết bao thể chế cũng biết tận dụng đường lối yêu thương và phục vụ “chết cho dân được sống” của Chúa Giêsu vào đường lối cai trị của mình, bằng khẩu hiệu “đầy tớ của nhân dân”, nhưng đó là khẩu hiệu mỵ dân, vì họ nói mà không làm. Họ không sống trong tinh thần sự thật. Họ còn giả vờ không biết sự thật, vì sự thật không đem lại lợi ích phàm tục nào cho họ. Câu hỏi “sự thật là chi?” (Ga 18,38) , chẳng khác nghĩa với câu “sự thật có ích gì?”, “Thiên Chúa có ích gì?”.
Thiết tưởng, các Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là những người đang sống trong GH tại địa phương, họ là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, như dân riêng của Chúa giữa lòng Châu Á, được sống trong một đất nước gần như là luôn luôn phải tử đạo, từ khi hạt giống đức tin được gieo trồng cho đến nay. Họ đã đọc những trang sử oai hùng của Giáo Hội thời các vua chúa quan quyền bức bách đạo, và họ cũng đang nghe tận tai những khẩu hiệu gian dối, phĩnh lừa, họ chứng kiến tận mắt thời đại của những người vô thần cai trị đất nước. Họ có đủ chứng từ đối chiếu cách làm vua và cách cai trị của Vua thế gian và Vua Giêsu Kitô để xác nhận được Vua nào là Vua Muôn Đời, chế độ nào là muôn năm. Vì thế, không có một thế lực nào có thể lay chuyển niềm tin của họ, nếu không phải là một thế lực “sống, học tập và làm việc theo gương Đức Giêsu Kitô, Vua vĩ đại”.
“Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội ngàn vàng để Dân Chúa, một lần nữa, sẽ khẳng định Vua Đích Thực, Vua Muôn Đời của chúng ta là ai. Chắc chắn và mãi mãi là Vua Giêsu Kitô, Người đã đến “là để làm chứng cho sự thật”. “Sự Thật” vô cùng cao quí ấy là sự thật “có Thiên Chúa”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tấm gương anh dũng soi chiếu cho dân Chúa tại Việt Nam về việc làm chứng cho sự thật. Vì nếu không tin nhận Thiên Chúa, không tin nhận Đức Giêsu là Vua Muôn Đời trong Nước Vinh Quang muôn đời của Ngài, thì đã chẳng có ai dám liều mình hy sinh mạng sống cách oan uổng. Hơn nữa, tình yêu Chúa Kitô thúc bách các Ngài cùng Chúa Kitô nói với những người không tin Thiên Chúa rằng “nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam Tôn Vinh Chúa Giêsu là Vua, mọi thành phần trong giáo hội sẽ làm chứng cho sự thật:
- dứt khoát nói không với cơn cám dỗ đàn áp bóc lộc lẫn nhau, nhưng bảo bọc che chở cho nhau trong tình huynh đệ, trong chân lý;
- dứt khoát nói không với chia rẽ, tỵ hiềm, bôi nhọ để yêu thương, chân thành, hiệp nhất;
- dứt khoát nói nói không với đồng lõa, nói không với thỏa hiệp cùng gian tà để quyết tâm sống ngay chính theo đường sự thật của Chúa Giêsu;
- dứt khoát nói không với tất cả những gì chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý, sự thật, để quyết tâm sống đời sống của Thiên Chúa giữa một xã hội “không tin có Thiên Chúa” hay là chưa muốn tin một Đấng Thiêng Liêng hằng có đời đời.
Một vài nơi vẫn có lệ mời các cấp chính quyền tham dự lễ Đặt Viên Đá, lễ Giáng Sinh, lễ mở tay…. Ước gì họ được mời tham dự một thánh lễ Mừng Trọng Thể Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, để họ được biết cách làm vua, cách cai trị của một Vị Vua trên hết các Vua, một vị Vua Muôn Đời: “Vị vua chấp nhận chết để con dân được sống”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, Vua của lòng con, Chúa đã chấp nhận cái chết để con dân được sống. Chúng con suy tôn Chúa là Vua Muôn đời. Xin cho chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh mỗi ngày để làm chứng cho Nước Thiên Chúa giữa trần gian, và nhất là trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.
46. Đức Giêsu Kitô là chân lý -- PM. Cao Huy Hoàng
Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ trong tâm hồn mỗi người, trong gia đình, rồi lan ra đến cộng đồng, kể cả cộng đoàn Công Giáo.
Ảnh hưởng của tội nguyên tổ sao mà dai dẳng thế?!? Có phải vì con người đầu tiên đã chui vào bụi rậm trốn ánh nhìn của Thiên Chúa mà bây giờ tâm hồn con cháu loài người vẫn cứ thích hướng lòng về những ém nhẹm, những giấu kín, những che đậy, ẩn nấp đâu đó từ tư tưởng đến hành động. Cả tôi, cả bạn, nếu lắng lòng sâu thẳm và thành tâm xét mình, có lẽ một ngày đời của chúng mình không biết bao nhiêu lần gian dối, bao nhiêu ý định không ngay thẳng, bao nhiêu lời nói việc làm gian tà… Cứ tưởng như là không ai có thể biết được điều ta đã giấu kín.
Biết đâu là chân lý? Con cái đã không nhìn thấy cách sống chân thành nơi cha mẹ của chúng, lại còn chứng kiến hằng ngày những gian dối trong nhà. Ánh mắt nhìn của cha chưa hẳn là ánh mắt của thủy chung, bao dung, quảng đại. Nụ cười dịu dàng của mẹ ngày nay chưa hẳn là nụ cười của tình yêu trung tín, của hiến dâng trọn vẹn, của hy sinh ví tựa biển thái bình.
Biết đâu là chân lý? Con dân trong một đất nước cũng chẳng biết đâu là chân lý khi cả một khối lãnh đạo đất nước nói một đường làm một nẻo, hoặc mỗi ngày lại có thêm một bại lộ về những gian tà tham nhũng, phanh phui dần những trò nham hiểm thanh trừng lẫn nhau trên sân khấu chính trị…
Biết đâu là chân lý? Ở đâu cũng thấy bóng dáng của sự gian dối. Ở đâu người ta cũng không sống chân thành với nhau. Và khi không sống chân thành với nhau bằng tình thương của con người, thì ở đó, không có bóng dáng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính khi sống gian tà là lúc chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Với các Kitô hữu cũng vậy, tuyên xưng “Tôi tin vào Thiên Chúa” mà vẫn cứ ẩn mình trong sự gian dối, thì lời tuyên xưng kia lại chính là sự nói dối lộ liễu của một con người quá thấp hèn trước Thiên Chúa uy quyền, cao cả, mà không hề sợ hãi phép công thẳng của Ngài.
Đức Giêsu Kitô đã đến và mạc khải cho trần gian biết những sự thật quan trọng: Có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa ban Sự Sống vĩnh cửu cho con người.
Đức Giêsu Kitô đã làm chứng về những điều đã mạc khải bằng chính cuộc sống của Ngài: rao giảng Nước Thiên Chúa, loan truyền sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và mời gọi mọi người biết yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu, như Con Thiên Chúa đã yêu: hiến mạng sống mình vì người mình yêu, để người mình yêu được sống và sống dồi dào ở đời này, phục sinh ở đời sau.
Trong khi nhân loại cứ vật vờ trong cách sống gian dối mà Satan dạy dỗ, hướng dẫn cho cách lẩn tránh Thiên Chúa, thì chính Đức Giêsu Kitô đã khai mở một con đường mới cho nhân loại: sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính ấy bắt nguồn từ việc: Tin vào Đức Giêsu Kitô và sống theo Lời Ngài. Câu hỏi “Biết đâu là chân lý?” đã được giải đáp thỏa đáng ngay tại tòa tổng trấn Philatô: “Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng Tôi”.
“Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” hay nói cách khác, những người chọn Chúa Kitô làm thần tượng cho mình, chọn Lời Chúa Kitô làm kim chỉ nam cho đời mình, những người chấp nhận thuộc về Chúa Kitô, là những người đã biết được đâu là chân lý, sống trong chân lý, và làm chứng cho chân lý.
Trong cùng một Đức Giêsu Kitô, họ trở nên con dân trong Nước Thiên Chúa mà chính Người làm Vua của họ. Một đất nước của Chân Lý, quyền bính là Tình Thương, không thuộc về thế gian này:
“Quan nói đúng. Tôi là Vua!”
“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà Nước tôi không thuộc chốn này”.
Sống trong Sự Thật là sống Niềm Tin có Thiên Chúa, và sống chân thành yêu thương trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được “Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương ban ơn bình an và ân sủng” khi Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”.
Giáo Hội kết thúc Năm Phụng Vụ với Lễ suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua vũ trụ, Vua muôn loài, và là Vua của những kẻ đã Tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài dạy. Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi chúng ta về việc mỗi tín hữu phải kết thúc hành trình đời người và hành trình Đức Tin trong Chúa Giêsu Kitô để xứng đáng hưởng phần gia nghiệp muôn đời mà Thiên Chúa đã sắm sẵn nhờ máu cứu độ của Con Ngài: Nước Thiên Chúa.
Khi kết thúc hành trình đời người, dẫu chỉ còn hai nắm tay không trước mặt Thiên Chúa, con người vẫn là một thụ tạo xinh đẹp, nếu thụ tạo ấy sống và làm chứng cho sự thật là Thiên Chúa và Tình Yêu. Và ngược lại, con người có xiêm y lụa là xinh đẹp trước mặt trần gian mà sống trong sự gian dối, bất tín thì đáng tiếc thay, họ không được niềm vui vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Vua.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa Giêsu, biết sống tin yêu chân thành như Chúa Giêsu, để chúng con xứng đáng được kết thúc hành trình đời người trong Nước Thiên Chúa, dưới vương quyền Vua Giêsu Kitô mà suốt đời con đã kính tin, tôn thờ, yêu mến.
47. Đức Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai trị -- ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con người.
Bác sĩ trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em thân mến, Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng Ngài đã trở nên giống như chúng ta, để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: “Ông là Vua ư?” Chúa Giêsu không phủ nhận, Ngài chỉ nói: “Chính quan nói rằng tôi là vua”. Vua vẫn chỉ là một từ ngữ gây hiểu lầm mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói đến Nước của Ngài. Ngài “sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài... trong Nước của Ngài” (Mt 16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ đến anh “khi Ngài đến trong Nước của Ngài”, Chúa Giêsu đã không từ chối: “Hôm nay anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,41-43). Vào ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua (Mt 25,34-40).
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần thế, Ngài vẫn luôn ý thức về vai trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân loại. Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ không ngừng. “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn” (Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Với Chúa Giêsu, cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Qua cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên thập giá. Cần chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài. Trên đầu Ngài có gắn tấm bảng ghi dòng chữ: “Giêsu Nagiaret Vua dân Do Thái”, được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng đọc được. Một vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con đường cùng, mà là con đường dẫn đến vinh quang. “Khi nào Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ nhân loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn lan rộng không ngừng nhờ có những người dám “đứng về phía sự thật” và “nghe được tiếng Ngài mời gọi” (Ga 18,37).
Nước của Vua Giêsu không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy “ở trong thế gian này” nhưng “không thuộc về thế gian này”. “Ở trong thế gian”, nghĩa là không xa cách, nhưng hòa quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp thức ăn. Nhưng “không thuộc về thế gian này”, nghĩa là không chạy theo những thần tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc... Thế gian sa đọa là thế gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con người. Thế nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn trọng con người. Chúng ta cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”, được mọi người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được mọi người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và Nước Chúa Kitô là một. “Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho Chúa Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng, Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người” (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô, một vị vua dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn của Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân loại đang khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì “Phục vụ là cai trị” vậy.
48. Vua Chân Lý
Tôi còn nhớ rất rõ, khi còn bé, cừ đến ngày 13.10 hàng năm tôi lại được mẹ tôi dắt đi hành hương Fatima Đức Mẹ ở Vĩnh Long. Lần nào đi tôi cũng qua khu nhà của cá thầy dòng Kitô Vua cạnh đó để chiêm ngắm Đức Kitô đội mũ triều thiên đứng uy nghi trên đỉnh nhà. Lúc đó tôi vô cùng hãnh diện vì Chúa tôi là Vua. Nhưng tôi cũng lấy làm thắc mắc mọi vua khác tôi đọc trong truyện, có quân lính, có vệ sĩ bảo vệ, sao Vua Kitô lại không thấy. Rồi những hình tượng đó ngày một qua đi, đến hôm nay khi học biết về Kinh Thánh lại làm cho tôi càng vui mừng hơn gấp bội. Vì Chúa của tôi là Vua trên các vua chứ không phải ông vua trần gian với binh quyền thế mạnh, chỉ uy hiếp được người đời, rồi cuối cùng cũng sẽ đi vào diệt vong. Còn Vua Kitô đã xây dựng đất nước trong chân lý và tình yêu, nên đất nước vẫn tồn tại và phát triển. Hơn nữa, trong Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là Vua trước Philatô khiến nhiều người trong chúng ta phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm vua của Chúa Giêsu Kitô:
1. Vua tình yêu
Đức Giêsu đã trả lời Philatô “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Trong hoàn cảnh như thế nếu xét theo khía cạnh ngoại giao, thì đây là một câu trả lời vụng về thiếu khôn khéo. Nhưng vì Ngài là Vua của chân lý, của sự thật. Ngài phải nói lên sự thật, nhưng có nhiều người không hiểu vì họ bị mê muôi bởi vinh quang trần thế. Công việc của Ngài đến là để làm chứng cho chân lý. Ngài đến để chiến thắng tội lỗi, và Nước Ngài không phải ở trần gian, nếu Ngài muốn dấy loạn dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi người ta đứng lên chiến đấu thì chuyện không có gì là khó. Nhưng nếu vậy thì không phải là Vua của tình yêu nữa mà là một ông vua bạo lực của trần gian. Từ ban đầu, Ngài đã khẳng định mình là Vua, nhưng Nước Ngài không căn cứ trên bạo lực và vũ khí, mà là một vương quốc trong lòng người. Mục tiêu là chinh phục thế gian, nhưng là cuộc chinh phục bằng tình yêu và lòng bao dung.
2. Vua của đất nước không biên giới.
Nước của Vua Kitô Giêsu hoàn toàn khác với nước mà người Do Thái trông đợi. Họ chờ một Đức Kitô làm vua thật sự, nâng đỡ dân tộc rồi giải thoát họ khỏi ách thống trị của Rôma. Điều họ trách cứ Đức Kitô ở đây chẳng qua biểu lộ một niềm hy vọng sâu xa, đó là mơ ước sau bao bao năm bị đô hộ. Và khi thấy Đức Giêsu không hành động theo ý muốn, họ thất vọng, lên án tố cáo Ngài. Vì thế, Ngài biết rõ vị thế làm Vua của mình, biết rõ người Do Thái đang nuôi hy vọng hão huyền với những quan niệm lệch lạc. Vương quyền Ngài thật kỳ lạ không giống như họ tưởng. Đó là một vương quyền tuyệt đối, với mục đích quy tụ mọi dân trên toàn cầu, và tất cả mọi người thấp hèn, yếu đuối tật nguyền, cho đến cao sang quyền uy đều có thể trở thành công dân nếu biết tuân phục thánh ý Chúa.
3. Vua mọi vua.
Qua câu trả lời mạnh mẽ hiên ngang của Đức Giêsu trước quan Philatô đại diện cho quyền lực trần thế. Đức Giêsu đã thể hiện vượt trội vì Ngài là Vua các vua, vương quyền Ngài vượt hẳn sự trông đợi của người Do Thái, Ngài không để mất sự cao cả khi mang thân phận yếu hèn. Điều này cho họ thấy rằng nếu họ biết được uy quyền của Đức Giêsu nếu họ quan tâm đến chân lý, biết nỗ lực khám phá đường lối Chúa. Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu một đàng cho thấy Ngài như một vị Vua uy quyền, đàng khác lại mang chiều kích lớn lao đặc biệt về mặt tôn giáo. Bởi vì đó là câu trả lời đánh tan mọi ảo vọng của dân Do Thái. Và khẳng định rõ ràng vương quyền chân thật phải do Thiên Chúa thiết lập.
Tóm lại, Đức Giêsu Kitô thật sự là vị Vua đầy uy quyền, đất nước Ngài vô biên, thần dân là tất cả mọi người tín hữu. Còn luật lệ là tình yêu. Nó đã thể hiện qua việc Vị Vua đã trở nên giống phàm nhân, nhằm yêu thương phục vụ con người. Để diễn tả mầu nhiệm tình yêu này, trong thư gởi tín hữu Philipphê thánh Phaolô đã nói: “Ngài đã trở nên chúng ta như một con người... Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 5-6). Chúng ta là những thần dân đã được mời gọi gia nhập đật nước của Ngài qua Bí Tích Rửa Tội, thì mỗi người cũng được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô thủ lĩnh chúng ta qua chức vụ vương đế. Vì vậy đã là công dân nước Chúa thì mỗi người phải góp phần vào công việc xây dựng vương quốc nước Ngài trên trái đất này, qua việc thánh hóa bản thân mỗi ngày và phục vụ tha nhân bằng cả tình yêu như chính Đức Giêsu đã từng phục vụ và “hiến mạng sống để cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45).
49. Nước Cha trị đến - Gm. Arthur Tonne.
Thánh Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm. Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.
Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã lấy của ngài.
Hôm nay chúng ta tôn thờ Đức Kitô là Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với Philatô: “Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian”. Chúa Giêsu nhận rằng Người là Vua nhưng không phải là Vua của các Vua.
Người không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là một ông vua giàu có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu? Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay trả lời các câu hỏi ấy.
“Người hiến thân trên thập giá… Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại… Người đã quy phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa. Một vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng, một vương quốc công bình, tình thương và hòa bình”.
Mỗi lần chúng ta hành động vì những điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện, ân sủng, sự công bình, tình thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô, làm cho Chúa Kitô là Vua của chúng ta.
* Sự thật: Như Thánh Gioan Cantio, bạn hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa Kitô –Vua sự thật.
* Sự sống: Chúa Kitô đến để chúng ta được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá thai.
* Thánh thiện và ân sủng: Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí dụ: Tham dự Thánh Lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh thiện.
* Công bình: Khi chúng ta cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta. Chúng ta bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
* Tình yêu: Mỗi lần chúng ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ đặc biệt việc phục tùng Chúa Kitô là Vua.
* Hòa bình: Bạn hãy cố gắng xây dựng hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hòa bình của Chúa Kitô. “Nước Cha trị đến” chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha. Trong ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự nhận Chúa Kitô là Vua.
Xin Chúa chúc lành bạn.
50. Tôi là Vua – Noel Quesson.
Đức Hồng Y Deschamps, Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang của vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục và một niên trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông có phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh hiệu Vua có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị Vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta bắt nộp mà không chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu không phải một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ khổ đau bệnh tật. Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng. Người đã cải tổ Luật Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày chúng ta mà vẫn để chúng ta hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu thực là Thiên Chúa: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Chúa đến để thiết lập một vương quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men… như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem lại mùa màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho “Nước Chúa trị đến”. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo. “Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho người vô thần cũng như cho các tín hữu” (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: “Vậy ông là Vua sao?”. Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: “Ông nói đúng, tôi sinh ra để làm Vua, để làm chứng cho chân lý”. Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của Chúa? Chúa bảo: “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Chúa cai trị những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa, không một ai có thể thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô… Nhưng trước hết là nghe tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa, để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình bất diệt. Amen.
51. Đức Giêsu là Vua ư? - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho chân lý. Phàm ai thuộc về chân lý thì nghe được tiếng tôi” (Ga 18:37).
Không ít người khi mới tìm hiểu về Kitô giáo, hoặc có dịp đọc qua một vài trang sách Phúc Âm, đã vội đưa ra vài nhận xét về Đức Giêsu như sau: Ngài không phải là một chính trị gia xuất chúng và cũng chẳng phải là một thương gia đại tài. Bởi vì những lời Ngài nói, những điều Ngài hứa hẹn không giống với các chính khách hay các nhà buôn thời nay tí nào. Thay vì lôi kéo quần chúng bằng những lời mời gọi hấp dẫn, có tính chất quyến rũ thị hiếu của người ta, để họ sẵn sàng đi theo ủng hộ, thì Đức Giêsu lại nói, “Ai muốn theo Ta, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Đã vậy rồi khi có người đi theo, Ngài lại phán thêm những câu mà mới nghe qua đã muốn bất mãn. Chẳng hạn như, “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con và ngay cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26); hoặc “Ta không đến để đem bình an, nhưng là gươm giáo” (Mt 10:34).
Thật là khác lạ! Thay vì hứa hẹn một cuộc sống sung túc nhẹ nhàng thoải mái, êm ấm bình an, thay vì cứ hoá bánh ra thật nhiều và hoá thường xuyên để nuôi dân chúng, và như thế thì làm gì mà họ chẳng theo, thậm chí còn ủng hộ, bỏ phiếu bầu mình làm thủ lãnh, chứ đàng này Ngài lại dạy phải chịu đau khổ, phải từ bỏ chính mình, phải nhân nhượng kẻ thù, hay nói cách khác là phải chịu mất mát thiệt thòi. Thế thì làm sao mà lôi kéo dân chúng được!
Khi suy luận như thế, tất nhiên sẽ có không ít người tin tưởng mình sẽ nắm chắc phần thắng khi đánh cuộc nếu Đức Giêsu mà ra tranh cử, dù thời xưa hay thời nay, thế nào cũng bị loại ngay từ vòng đầu thôi. Nhất là khi họ thấy thân xác của Ngài bị đóng đinh thê thảm trên thập giá, kết thúc cuộc đời không một chút oai phong vinh quang, thì chẳng mấy ai dám khẳng định Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Vua dân Do thái, hay là Chúa của muôn dân. Có chăng chỉ là một sự nhạo báng!
Ấy thế mà kẻ bị đóng đinh ô nhục trên thập giá giữa những tên trộm cướp, người đã từng bị nhạo báng là vua, là Mêsia, lại thật sự là Đức Kitô, Vua của muôn muôn tỉ tâm hồn.
Sẽ có người ngạc nhiên nêu vấn đề: Tại sao nghịch lý thế? Do đâu mà một tử tội lại được người ta bước theo đông đảo như vậy? Phải chăng vì người đó chính là chân lý-phải chăng vì người đó đã đến để giải thoát nhân loại bằng chân lý, và nay lại dám hiến mình chịu chết cho chân lý?
Nhưng “chân lý là gì”? Câu hỏi không cần câu trả lời của Philatô lại là đề tài suy tư của nhiều thế hệ. Chân lý đó chính là Thiên Chúa yêu thương con người. Bất cứ ai tin nhận chân lý này sẽ tìm thấy cho mình một sức sống phong phú, một niềm vui linh thiêng tràn đầy, nhất là sẽ múc được hồng ân cứu thoát, dù rằng người đó có đang quằn quại trong nỗi đau của thân xác như người trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu.
Trong nỗi đau đớn tột cùng trước những hình khổ do quân Roma bày ra, anh trộm lành đã nhận chân con người của Đức Giêsu. Anh Đã bênh vực cho Ngài khi lên tiếng: “Ông này đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23:41). Nói cách khác, anh đã thừa nhận Đức Giêsu đã làm điều đúng. Ngài chỉ làm theo sự thật, đã sống cho chân lý yêu thương con người, và nay ngài chết cũng vì chân lý yêu thương đó.
Từ chỗ tin nhận và bênh vực sự vô tội của Đức Kitô, anh trộm lành đã khám phá ra vương quyền và thiên tính của Ngài. Kết quả, anh đã lên tiếng khẩn cầu: “Khi nào về Nước, xin Ngài nhớ đến tôi” (Lc 23:42).
Lạ quá! Làm sao trước một thân xác rã rời với đinh sắt, máu me thế kia mà anh ta có thể cất lên được lời kêu nài như thế là lời thỉnh cầu trước một quốc vương? Làm sao trước hình hài của một kẻ đang chịu đau khổ chẳng thua kém gì anh ta thế kia mà anh lại đem lòng thần phục như đối với một vị vua uy quyền như vậy? Câu trả lời sẽ là: Chân Lý đã gặp gỡ anh và anh đã tin nhận Chân Lý. Đức Kitô gặp anh và anh đã tin phục Ngài. Chính sự tin phục cùng tin nhận này mà ơn cứu độ, phần thưởng của sự sống linh thiêng được trao ban cho anh ngay trong ngày đó.
Đã có rất nhiều người gặp Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả đều nhận ra Ngài là Chân Lý, là Vua của tâm hồn, là Chúa của yêu thương. Philatô đã gặp Đức Giêsu đấy chứ, nhưng lòng ham mê quyền hành đã che khuất chân lý; những người luật sĩ biệt phái đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng những ghen tương đố kị, những mưu cầu ảnh hưởng cá nhân đã làm lu mờ khuôn mặt của chân lý; rất nhiều người trong đám đông dân chúng Do thái về dự lễ Vượt qua ngày xưa đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng chỉ vì thích hùa theo tính bạo động của đám đông, bất chấp chuyện đúng sai, bất chấp kẻ vô tội là Giêsu hay là Baraba. Thế nên, cuối cùng Chân Lý đã bị họ đóng đinh.
Trong tuần cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội muốn đặc biệt nhắc nhở với mọi người tín hữu về gương mặt của Chúa Giêsu Vua, gương mặt của chân lý yêu thương con người-chân lý duy nhất mang lại hạnh phúc và niềm vui tâm hồn. Thử hỏi chân lý yêu thương đó có ngự trị tâm hồn của tôi chưa? Tôi đã dám bước trên những gì là quyền hành, dù đó là quyền hành của một người cha, người chồng, hay người chủ, tôi có dám vượt thoát những gì là ghen tương đố kị, lợi ích riêng tư, tôi có can đảm chế ngự những bạo động của dục tình hay nóng giận để làm cho hình ảnh của chân lý yêu thương là Vua Giêsu được bừng sáng hơn trong gia đình và cộng đoàn tôi không?
Xét lại chính mình nhân ngày cuối năm phụng vụ để xác định thái độ tin phục và suy tôn cần có đối với Vua Giêsu, hầu sự bình an và niềm hạnh phúc thiên đàng mà Ngài đã tặng ban cho người trộm lành xưa, cũng chiếm ngự tâm hồn, gia đình, và cộng đoàn chúng ta.
52. Thuộc về Chúa.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào?
Chúng ta không thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống, thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một thứ Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác… Với chúng ta thì khác. Giữa một xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi? Với chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng… Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân Nước Trời.
53. Vua vĩnh cửu.
Trong một ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu bằng những tiếng chúc tụng và ca khen “Chúa Kitô muôn năm”. Khi tung hô ai như vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là lời chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là một cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta nói: “Chúa Kitô muôn năm”, chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một lời kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả một nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây:
“Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người”. Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu”.
Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô muôn năm! Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
54. Vạn tuế Vua Giêsu.
Cách đây hai ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những người đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận diệt vương tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới sự thống trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước bị chiếm đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối nhau và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc, họ luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất nước đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô song, Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện đó, người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi đến và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước Chúa vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt kéo nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: “Vạn tuế con vua Đavid”. Như vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua”. Hôm ấy Chúa Giêsu không cải chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy. Nhưng dân Do Thái đã thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa, Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà cầm quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ, Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang gào thét và hỏi họ: “Các ngươi tố cáo người này về tội gì?”. Nếu họ tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là “Chúa đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế cho Xêda, và tự xưng mình là vua”. Nghe vậy, Philatô hỏi Chúa: “Ông là vua à?”. Chúa trả lời: “Ông nói đúng, tôi là vua”. Nhưng Ngài nói thêm ngay: “Vương quyền của tôi không đến từ thế gian này”, vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc “làm chứng cho sự thật”. Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói khác đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái và nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát chúng ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người để bộc lộ vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do đó, tất cả những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống theo những lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước của Ngài.
Trong thời đại này, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa. Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau vung tay lên hô lớn: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua” như người đàn bà trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới mang về đây thi thể của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có một người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh tay đó đưa lên cao và nói: “Anh con trước khi chết đã kêu lên: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”, nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây giờ con hãy kêu lên với mẹ”. Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô ba lần: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”.
Xin Chúa cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan, vất vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa… Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước, nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là cách làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
55. Vương quyền tình yêu – Lm. Hồng Phúc.
“Ta là Vua...”
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội lên đầu Chúa và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa”.
Hôm nay, Giáo hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha: “Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự” (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: “Ta là Vua”. Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ, nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực. Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi, nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy “như Con Người đến trong đám mây trời... quyền năng vĩnh cửu” (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: “Đấng là Alpha và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là Thiên Chúa” (Kh 1,8). “Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài”.
Christus Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
56. Hoàng tử và người nghèo.
Mark Twain viết trong cuốn “The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo” về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: “Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”
Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London: “Nó là một đứa bé mà không ai muốn.” Không một ai trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm quan.
Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù.
Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo vật.
Chúa Giêsu đã thay đổi chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính của mình để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta.
Giống như hoàng tử trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế nào là kiếp sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại từ cõi chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính Chúa Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi vì Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa, chúng con suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng con.
57. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người - homo homini lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
58. Vua lòng tin - Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long
Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến giầu sang, đền đài, nghi lễ sang trọng, đền đời sống vương giả... Chúng ta thường chỉ nghĩ đến như thế thôi. Vì đã được nghe qua, hoặc đọc trong sách báo hay xem truyền hình về đời sống của họ. Nào mấy người có được cơ hội trải qua cuộc sống thực sự trong cung điện vua chúa. Và đời sống của vua chúa thường đồng nghĩa với đời sống xa dân. Thần dân có bổn phận kính trọng và nghe lời họ. Họ có quyền hành gần như tuyệt đối cai trị người dân.
Hình ảnh này về vua chúa không những chỉ đúng cho ngày xưa - cách đây chừng trên dưới nữa thế kỷ thôi như Nhật Hoàng, Nga Hoàng, vua xứ Brunei, vua xứ Thái Lan, vua xứ Chùa Tháp Campuchia... - nhưng phần nào cũng còn đúng cho các vị vua chúa trong xã hội cộng hòa dân chủ ngày hôm nay.
Người công giáo tuyên xưng: Chúng tôi cũng có một Vua, nhưng Vua của chúng tôi là Vua-lòng-tin! Vậy Vua-lòng-tin của chúng ta thì thế nào? Chúng ta có thể biết được chút nào về đời sống Vua-lòng-tin không? Vua-lòng-tin của chúng ta sống gần con người hay cũng xa dân như các bậc vua chúa khác?
Chúng ta hát ca ngợi Vua-lòng-tin như thế này: “Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Chúa. Nhưng lòng Chúa không bến bờ, tự hiến thân nơi bàn thờ!”
Như thế danh xưng Vua-lòng-tin của chúng ta là Giêsu. Vương quốc lâu đài của Vua-lòng-tin là tâm hồn con người. Vương quốc này không có biên giới bờ cõi và cũng không bị giới hạn vào một thời điểm nào. Nó trải rộng khắp nơi vào mọi thời gian. Nơi nào có người tuyên xưng niềm tin vào ngài là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng tội lỗi, nơi đó là vương quốc của ngài.
Còn cách thế cai trị của Vua-lòng-tin không dựa trên sức mạnh quyền lực, nhưng lấy tình yêu làm nền tảng. Chính vị vua này từng khẳng định: Thầy truyền cho chúng con giới luật mới, là các con thương yêu nhau (Gioan 13,34).
Và ngày sau cùng khi mọi người ra trước Vua để trả lời về đời sống việc làm của mình, ông không căn cứ vào thành tích đã đạt được, nhưng căn cứ vào tình yêu mà phân xử: Khi các con cứu giúp một người bé nhỏ lâm cảnh khốn cùng, đói rách, chính là các con làm cho ta. (Mátthêu 25,31-46)
Vị Vua này tự nhận: “Ta là người mục đồng tốt lành” (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: “Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng này.”
Hình ảnh vị Vua mục đồng này nói lên lối sống của ông với thần dân: sống gần dân, cho dân và vì dân, như người mục đồng luôn đi sát đoàn vật chăm sóc chúng.
Ngai vàng của Ông là thánh giá gỗ, nơi ngài bị đóng đinh xử tử. Vương miện của ngài là vòng gai người ta chụp lên đầu khi bị điệu ra pháp trường.
Vua-lòng-tin của người công giáo đã bị xử tử đóng đinh trên thập giá, bị chôn vùi sâu dưới lòng đất, nhưng ông đã được Thiên Chúa cho sống lại. Ông sống trong trong tâm hồn những người tin theo ông. Ông hiện diện nơi bàn thờ, khi những người tin theo Ông cử hành thánh lễ, cử hành các bí tích, khi họ họp nhau đọc kinh ca hát cầu nguyện nhân danh Ông.
Vua-lòng-tin của người tín hữu công giáo là Vua tình yêu.
59. Phục vụ.
Thế nào là một ông vua?
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi…
Những ông vua thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Lần kia, sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: - Vậy ông là vua ư?
Đức Kitô đã không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo: - Chính quan nói rằng tôi là vua.
Thế nhưng rất nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh:
- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
60. Chân Lý – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Đaniel đã ngắm nhìn thị kiến về vương quốc vĩnh cửu. Vị Bô Lão ban cho Con Người quyền năng, vinh dự và vương quốc. Mọi dân tộc sẽ qui tụ về để phụng sự Ngài. Đây là thị kiến về ngày cánh chung. Không ai biết được ngày giờ kết cùng của thế giới. Khi chúng ta có mặt ở đời, mọi sự đã có đó và luôn chuyển động. Con người được thông dự sự sống với muôn loài và muôn vật. Con người là loài cao quí được Thiên Chúa ban cho có hồn có xác. Xác hồn kết hợp để hoàn thành sứ mệnh được trao ban.Chúng ta hiện hữu trên trần gian một khoảnh khắc thời gian rồi lại trở về cát bụi. Tuy cuộc đời của chúng ta ngắn ngủi phù du, thân xác sẽ tan biến nhưng linh hồn sẽ hiện hữu đến muôn đời. Mọi sinh hoạt trong cuộc lữ hành trần thế sẽ dẫn bước chúng ta về chung hưởng hạnh phúc bên Đấng quyền năng trong vương quốc của Ngài.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng diễn tả về hình ảnh của ngày cánh chung. Chúa Giêsu Kitô là thủ lãnh của các vua, Vua các vua và là Đấng yêu thương đã hiến mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta. Ngài là trưởng tử những kẻ đã an giấc, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha: Ngài là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Chúng ta đặt niềm tin vào những lời mạc khải của Con Thiên Chúa. Con người chúng ta bị giới hạn mọi mặt và tâm trí không hiểu thấu những sự cao siêu. Ngay trong vũ trụ vật chất hiện hữu chung quanh, con người cũng chỉ mới khám phá một chút ven bìa giới hạn của một số nhỏ hành tinh. Tâm trí và giác quan của con người đắm chìm thưởng ngắm vũ trụ bao la để nhận ra sự cao siêu vô lường của Tạo Hóa. Chúng ta chẳng biết đâu là bến bờ. Thánh Gioan đã diễn tả về sự vô thủy vô chung của vũ trụ qua Đấng Toàn Năng phán: Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thủy và cứu cánh (Kh 1, 8).
Kinh Thánh mạc khải giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Với những suy tư tìm tòi của con người qua mọi thời đại, nhân loại vẫn còn lần mò trong đêm tối của vô minh. Những suy tư triết học, thần học và khoa học chỉ trả lời một cách rất khiêm tốn về sự hiện hữu của vũ trụ và muôn loài. Có nhiều giả thuyết tìm cách giải thích sự có mặt của vũ trụ theo thuyết Tiến hóa, Ngẫu nhiên hoặc Tự nhiên hình thành. Các khoa học không thể giải đáp một cách thỏa đáng cho những khao khát của tri thức con người muốn tìm hiểu về cội nguồn. Trí khôn của con người không vượt qua được biên giới của sự hiện hữu và chung cục. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta về nguồn gốc và cứu cánh của vũ trụ và con người. Đây là một chân lý cao siêu mà Chúa Giêsu đã làm chứng.
Đứng trước tòa án của Philatô, Chúa Giêsu đã phát biểu một cách công khai: Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là chỉ để làm chứng cho Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi (Ga 18, 37). Lời của Chúa Giêsu là thần trí và là sự sống. Ngài đến thế gian để làm chứng cho chân lý. Chân lý là sự thật. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Sự thật nằm trong tâm thiện. Lời sự thật là không quanh co, giả dối, lừa lọc, dối trá hay gian manh. Đôi khi nói sự thật thì mất lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc bất công. Chúa Giêsu nói rằng ai thuộc về chân lý thì nghe lời Ngài dạy. Chúng ta đã nhận lãnh Bí tích Rửa Tội để trở nên chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về Chúa, như thế chúng ta cũng thuộc về chân lý. Thuộc về chân lý thì phải suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và hành động trong sự thật.
Chúa Giêsu nhìn sự thật trong tận đáy tâm hồn mỗi người. Con người thì thích phô trương và xuất hiện bên ngoài để kéo chú ý của người khác. Giống như các mặt hàng cần quảng cáo ra thị trường, các tiếp viên đã tô điểm bên ngoài, làm đẹp, chào hàng hấp dẫn để kéo lôi khách hàng. Cũng giống như các chính trị gia đã không ngại dùng mọi thủ đọan để hứa hẹn, tô bóng và khuyến dụ các cử tri dồn phiếu. Giữa sự xuất hiện bên ngoài và sự thật có một khoảng cách xa. Có những người rất khôn khéo trong lời nói và thuyết phục đã kéo lôi được nhiều thành viên. Sự dối trá ẩn nấp trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta cần sống trung thực qua ý tưởng, lời nói và việc làm: Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37). Nhớ điều răn thứ 8 là chớ làm chứng dối.
Có một số cụm từ tiếng Anh mà người nói dối hay dùng: Never, khi bị ai bắt gặp đang nhìn một cái gì không tốt và bị chất vấn, người đó liền chối ngay là không bao giờ. That man/woman’, dùng chữ đó để diễn tả một sự xa cách với người đó. ‘I would never do something like that’ tôi không bao giờ làm những việc như thế. Yes, ma’ma, nếu một người nào không có lý do, tự dưng nói mama với bạn, hãy cẩn thận. By the way, người nói dối dùng chữ này để người khác chú ý hơn tới điều họ sẽ nói sau. ‘I know you think I’m lying, but…Tôi biết bạn nghĩ rằng tôi đang nói dối, nhưng…Why would I do that?’What kind of person do you think I am? Tự bào chữa bằng cách hỏi tại sao tôi làm thế? Bạn nghĩ tôi là loại người nào? Người nói dối quanh qua, quẩn lại cũng chỉ là tránh né vấn đề nói sự thật.
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về cách đối xử trong thế thái nhân tình. Người đời nói: Một sự bất tín vạn sự không tin. Trong dụ ngôn những yến bạc rút ra cho chúng ta một bài học về sự tín trung và chân thật: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25, 23). Sự chân thành là một đức tính tốt cần tu luyện mỗi ngày. Người ta nói rằng khôn ba năm dại một giờ, đôi khi vì sự sa ngã bất trung dại dột trong chốc lát mà mất cả chì lẫn chài. Đặc biệt trong đời sống gia đình, vợ chồng cần trung tín và thành thật với nhau trong mối tương giao. Chúng ta biết rằng mọi việc làm dối trá trong bóng tối rồi cũng sẽ có ngày được phơi bày ra ánh sáng.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là nhân chứng cho sự thật. Sự thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa là Thần Chân Lý. Chúa Giêsu đã hứa cùng các môn đệ: Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26). Sự thật thì rất đơn sơ, rõ ràng, trong sáng và có tính thuyết phục. Sự thật không cần đối chất. Ai ở trong Chúa thì yêu mến sự thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những phiền muộn và lo lắng. Sống sự thật là sống trong an lạc và hạnh phúc. Chúng ta có thể tìm kiếm chân lý qua cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô: Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi. Đáp lời hỏi của Philatô: Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao? “ Đức Giêsu đáp: “Quan nói đúng: Tôi là Vua (Ga 18, 37). Chúa Giêsu chính là Vua vũ trụ, Vua muôn vua.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến để khai mở tâm trí chúng con, để chúng con biết suy tưởng sự thật, loan truyền sự thật và sống sự thật. Xin cho chúng con tìm đến sự thật tuyệt đối nơi thập giá Chúa Kitô. Từ thánh giá Chúa, chúng con sẽ được múc tận nguồn ơn tha thứ và lòng thương xót.
61. Vua sự thật.
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như vậy tức là Philatô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rôma không?”. Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính chúa đã khẳng định với Philatô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá… Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác… cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
62. Vương Quốc Tình Yêu -- Nguyễn Minh Triệu SJ.
Hôm nay Giáo hội mừng kính Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Đức Kitô quả thật là Vua Vũ Trụ vì Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo nên vũ trụ xinh đẹp này. Tuy nhiên, không giống các vị vua ở trần gian, dùng sức mạnh và vũ lực để cai trị, trong vương quốc của Đức Giêsu không còn chỗ cho bạo lực, chiến tranh,... mà chỉ có chỗ cho tình yêu. Vì yêu thương nên Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người trở nên công dân của vương quốc này, và tình yêu cũng chính là căn tính của mọi công dân.
Trên thế giới của chúng ta đang sống, mọi người thường hay nói về giấc mơ Mỹ. Có rất nhiều người muốn trở thành công dân của đất nước nước giàu có này. Vì thế, chính phủ Mỹ rất hạn chế trong việc chấp nhận cho công dân một nước khác trở thành công dân Mỹ. Vương quốc của Giêsu thì khác, tất cả mọi người đều được mời gọi gia nhập vương quốc của Ngài. Lời mời gọi yêu thương được Thiên Chúa dành cho mỗi người và từng người, không phân biệt tuổi tác, địa vị, sang giàu. Mọi người được mời gọi để tự do gia nhập vương quốc này. Ai cũng được mời gọi gia nhập, nhưng ai cũng có quyền khước từ. Tự do của con người lớn đến nỗi thánh Âutinh đã nói: Khi Thiên Chúa tạo dựng nên con Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con, Ngài cần sự hợp tác của con.
Vì là một vương quốc của tình yêu, nên Ngài không cần phải có một bộ luật cứng rắn hay một quân đội hùng mạnh để điều hành. Tất cả chỉ dựa trên tình yêu. Chính Đức Giêsu xuống trần gian để làm chứng cho tình yêu. Ngài rao giảng, thi ân và trao ban sự tha thứ. Ngài chạnh lòng thương trước những mãnh đời bất hạnh. Trái tim Ngài thổn thức trước những nghịch cảnh của con người. Đi đến đâu ngài thi ân giáng phúc tới đó.
Tình yêu của Ngài lên cực điểm trong những giây phút cuối đời, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, khi Ngài tha thứ cho kẻ phản bội mình, khi Ngài an ủi người môn đệ thân tín chối bỏ mình. Hơn hết, tình yêu đó vượt qua mọi giới hạn, vượt qua hận thù và sự dữ khi Ngài đã tha thứ cho kẻ giết mình. Thánh giá diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho con người.
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu và vương quốc Ngài là vương quốc tình yêu, nên Ngài cũng muốn tình yêu chính là căn tính của mọi công dân trong vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã trở thành một mẫu gương sống động cho tất cả con dân của mình. Chính Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng "Anh em hãy yêu tha nhân như chính Thầy đã yêu anh em" (Ga 15,12). Mỗi người con dân của vương quốc Chúa Giêsu sẽ nhận được một thẻ căn cước khi sống điều răn duy nhất này. Vì “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35). Vâng, tình yêu chính là căn tính của người môn đệ, của những ai xưng mình là Kitô hữu.
Mừng lễ Chúa Ki-tô là vua vũ trụ hôm nay, chúng ta nhận ra rằng trong thế giới ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều người khước từ lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa, từ chối gia nhập vương quốc tình yêu của Ngài. Dưới sự ảnh hưởng và sự lan tràn của chủ nghĩa tục hoá và chủ nghĩa vô thần, con người ngày nay vẫn đang tự giam mình trong bóng tối sự chết và bịt tai trước lời mời gọi yêu thương của Chúa. Tuy nhiên, những nỗ lực của Giáo hội trong công cuộc Tân Phúc Âm Hoá cho ta thấy được phần nào sự kiên nhẫn và lòng thương xót Chúa vẫn luôn lớn hơn sự bất trung và dửng dưng của con người. Dù con người có bưng tai bịt mắt, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với lời mời gọi của mình. Lời Ngài vẫn luôn cất lên. Ngài vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi.
Mừng lễ Chúa Kitô là Vua hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để xét lại đời sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta đã thực sự đặt Chúa là tâm điểm của cuộc đời mình chưa? Chúa có thực sự là vua của chúng ta trong mỗi lựa chọn của chúng ta trong đời sống thương ngày chưa? Chúng ta đã sống chiều kích tình yêu của vương quốc Đức Giêsu chưa? Chắc chắn rằng, chúng ta chưa sống trọn hảo chiều kích này, vì vẫn còn đó rất nhiều người không nhận ra lời chứng của chúng ta trong đời sống thường ngày của mình.
Lạy Chúa Giêsu
Tạ ơn Chúa vì đã đón nhận chúng con vào vương quốc của Ngài
Xin cho chúng con sống xứng đáng với tình yêu của Chúa
ngang qua việc làm chứng cho Tình Yêu.
Trong một thế giới đang bị tàn phá bởi chiến tranh và hận thù,
xin cho chúng con biết quảng đại đại và tha thứ,
trong một thế giới đầy chia rẽ,
xin cho chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất
trong một thế giới chạy theo tiền bạc
xin cho chúng con dám làm chứng cho Tình Yêu.
63. Trung tín.
Chúng ta hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu tượng. Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của họ. Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc thú, thành công, danh vọng, quyền lực… Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta đến một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện. Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta có thể lấy mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là “tôn thờ lãnh tụ”. Các lãnh tụ đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những hình ảnh, tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam Hussein). Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập và đập vỡ. Những quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và khủng bố.
Trong lúc mà những bức tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động. Bức ảnh được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện xung quanh một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một tượng bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng bị lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết bao giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn một tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn binh lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để bảo vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực chính trị là khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả năng này chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm giữ địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn ngoan. Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền bính tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có quyền lực chính trị.
Chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm tin hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm cách nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải là một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không đến để thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý về quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
64. Tôn thờ Vua Giêsu
(Suy niệm của Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng)
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua rất đạo đức tên là Canut III. Vì là vua của một cường quốc nên xung quanh vua thương có những quan nịnh thần xu nịnh, ton hót.
Một hôm trong một buổi triều yết, các quan nịnh thần tâu rằng: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả.
Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, nên vua liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, vua tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được tới đây. Nhưng nhà vua nói xong, nước vẫn dâng lên, sóng vẫn ập tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần.
Sau đó, nhà vua đi vào trong một nhà thờ đến trước tượng Chúa Giêsu chịu nạn, nhà vua lấy chiếc vương miện của mình đội lên đầu Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa”.
Anh chị em thân mến,
Nhà vua trong câu chuyện trên đã khiêm tốn nhìn nhận thân phận hèn kém của mình và tôn vinh chỉ có Chúa mới là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Chúa là vua vũ trụ. Ngài là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta!
Tôn vinh Chúa Kitô làm vua vũ trụ, có nghĩa là chúng ta tôn kính, tin nhận và để cho Chúa làm chủ trên cuộc đời chúng ta, trên trọn cả cuộc sống của chúng ta và trên cả vũ trụ này, đồng thời quyết tâm sống xứng đáng là công dân trong Nước của Ngài.
Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta có để cho Chúa làm chủ cuộc đời chúng ta hay không?
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tôn phong nhiều vị vua: Nào là “vua thuốc lá”, “vua bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua tiền bạc”, “vua lạc thú” v.v… nhiều khi chúng ta đặt các vua này trên cả vua Giêsu. Chúng ta thường dễ dàng quỳ gối, cúi đầu trước sức mạnh của các thứ vua vật chất này mà bỏ qua giới răn lề luật của Vua Giêsu.
Năm phụng vụ chấm dứt với Chúa nhật hôm nay. Đây là dịp để chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời mình. Chúng ta là con dân Nước Chúa, vậy thì chúng ta có tin nhận và để cho Chúa làm vua và làm chủ cuộc đời của chúng ta không?
Chúng ta có nỗ lực sống theo luật yêu thương của Vương Quốc Tình yêu bằng cách bác ái, sống chan hòa tình Chúa và chan chứa tình người không?
Lạy Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là vua cõi lòng chúng con, xin Chúa mãi ngự trị trong vũ trụ này, thế giới này và trong cõi lòng mỗi người chúng con để thống trị, hướng dẫn và làm chủ chúng con. Xin giúp chúng con sống xứng đáng là con dân nước Chúa. Amen.
65. Danh hiệu.
Trong mọi danh hiệu mà chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu thì danh hiệu “Vua” xem ra không thích hợp nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ đến một ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung điện, sự giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ nhiên một quân đội.
Khi chúng ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện, quân đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh, những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào, còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh hiệu “Vua” vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức Giêsu. Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi loài, Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản và phán xét mọi sự.
Nhưng ngay cả trên bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao cả nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm. Đức Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người vượt qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng nhân hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm thấy họ nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả. Trong ý nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt kia. Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực, và người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện của Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã nói về một Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể hiện mọi điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là tất cả những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc Người sẽ đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được thành tựu.
Mặc dù Vua Kitô không cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những chiến sĩ – những người sẵn sàng “chiến đấu” cho công lý, sự thật, hòa bình. Có một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào?
66. Xét xử.
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có thấy rằng công lý phải được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái độ trung lập.
Ai xét xử Philatô? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình, theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết bao khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.
67. Danh thánh
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Danh thánh Kitô Vua mang nhiều ý nghĩa quan trọng cho người tín hữu. Đức Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Tạo dựng vũ trụ và có quyền trên hết mọi loài thụ tạo. Tất cả được Ngài tạo dựng và do Ngài mà thành như lời xưng thú trong phần mở đầu của phúc âm Thánh Gioan.
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa... nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành... Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ý nghĩa thứ hai danh Thánh Kitô vua nói về ơn cứu độ Ngài ban cho nhân loại. Ngài cứu chuộc nhân loại bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá và những ai tin vào Ngài sẽ trở thành kẻ thừa tự trong nước Ngài.
Chính Thầy là sự sống và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Jn 11, 25-26.
Danh thánh cũng nói lên vương quyền lãnh đạo trong nước Chúa. Ngài là đầu Giáo Hội và mỗi chúng ta là phần tử trong thân thể Vua Kitô.
Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người Eph 5,23... Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống.
Người ta có thể bắt chước cách tổ chức, phương pháp điều hành của một quốc gia nhưng dường như người ta không thể bắt chước tình thương, phong cách và ơn khôn ngoan của người lãnh đạo. Con dân trong nước hưởng thái bình, thịnh trị hay suy thoái vất vả lầm than đều do tình thương vua nước đó ban cho. Chính tình thương và ơn khôn ngoan, chứ không phải cách tổ chức, làm cho quốc gia hưng thịnh, thái bình. Vua Kitô cai trị vương quốc Ngài bằng giầu tình thương và hay tha thứ. Tình thương Ngài không phải chỉ dành riêng cho con dân trong nước mà lan toả cho các vua chúa trần gian khác. Vua Kitô ban tình thương của Ngài cho tất cả những ai thành tâm đón nhận. Vương quốc Ngài không có ranh giới trên mặt địa cầu, không bị giới hạn về thời gian và không chịu ảnh hưởng hay lệ thuộc về tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới vì vương quốc Ngài không đặt căn bản trên vật chất trần thế. vương quốc Ngài đặt căn bản trên tình thương và lòng mến. Chính Vua Kitô xác định điều này khi quan tổng trấn Philatô chất vấn Ngài trong phiên xử:
Nước Tôi không thuộc thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này. Gn 18,36
Vương quốc Kitô không ảnh hưởng hay lệ thuộc vào xã hội vật chất nên vương quốc đó tồn tại vĩnh cửu, muôn đời tồn tại. Điều này không phải ngày nay người ta mới nhận biết là tự ngàn xưa các tổ phụ đã nhận biết điều này khi các ngài ghi lại trong thánh vịnh là những lời ca chúc tụng Thiên Chúa. Các ngài nhận ra vì những gì không thể hư tất thì tất nhiên tồn tại. Căn bản vương quốc Kitô là tình thương, lòng mến mà tình thương lòng mến không bao giờ hư nát nên vương quốc đó tất nhiên là vĩnh cửu.
Hàng năm Giáo Hội mừng kính lễ Kitô vua Ngài đáng lãnh nhận mọi chúc tụng, vinh quanh, danh dự dành cho Vua vũ trụ. Dù Ngài là vua vũ trụ nhưng Ngài không hề bỏ sót, quên sót ai bao giờ vì Ngài quan tâm đến từng người trong chúng ta, chăm sóc lo lắng cho từng người trong chúng ta và tên ta được khắc trong lòng bàn tay Người. Tình thương Người dành cho vô bờ bến, vượt khỏi trí tưởng của ta. Tình thương đó trải dài trên thập tự.
68. Vương miện
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Philatô ngồi toà xử và các câu hỏi của ông xoay quanh vấn đề Đức Kitô tự nhận mình là vua hay do đám đông ca tụng Ngài là vua. Sau khi biết rõ Đức Kitô không có í định làm hại đến ngai vàng của ông cũng không chủ trương lật đổ chính phủ bảo hộ Roma do Caesar lãnh đạo, Philatô tuyên bố Đức Kitô vô tội và tha Ngài. Thầy cả thượng phẩm Do Thái không hài lòng về quyết định của Philatô nên họ gây áp lực buộc Philatô kết án người vô tội và bản án đó phải là bản án tử hình. Philatô miễn cưỡng trước áp lực đó nên ông rửa tay tuyên bố vô tội trong việc đổ máu người vô tội.
Vua quan trần thế coi vương quyền là quyền ăn trên, ngồi cao. Hoàng tộc được ăn, được nói, đứng trên luật lệ vì luật lệ phải phục vụ họ. Hoàng gia ưu tiên hưởng mọi quyền lợi và thần dân có nhiệm vụ hầu hạ, phục tùng hoàng gia. Mọi con dân đều có trách nhiệm tôi tớ cho hoàng gia và coi đó là đặc ân riêng cho hoàng gia. Vua quan trần thế đều mong được như thế. Đức Kitô đưa ra cách nhìn mới về vương quyền. Cách nhìn mới của Ngài, mọi vua quan trần thế lớn nhỏ đều cố tránh. Theo Đức Kitô vương quyền chính đáng là đến để phục vụ. Quan trọng hơn vương quyền không phải chỉ phục vụ mà còn đi chung với hiến dâng mạng sống mình vì mọi người. Đây chính là điều thánh Gioan Tẩy Giả tiên tri khi thánh nhân nói về Đức Kitô:
Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến xoá tội trần gian Jn 1,28.
Chính Đức Kitô sau này khi nói về vương quyền của Ngài cũng nói thập giá là dấu chỉ của đoàn kết:
Khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta 12:32.
Không phải sức mạnh của gươm giáo hay vũ khí tân kì mà chính là sức mạnh tình yêu thập giá nối kết con người. Đức Kitô coi sóc nhân loại bằng tình yêu, ban cho họ an bình nội tâm và hướng dẫn họ sống trong sự thật. Điều Đức Kitô trao ban thế gian không thể có để ban tặng
Thầy để lại bình anh cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy Jn 14,27
Khi trả lời Philatô:
Vậy Ông là vua sao c.37? Đức Kitô đáp: Chính Ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian với mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi c.38
Xác nhận trước mặt Philatô, Đức Kitô tuyên bố Ngài là vua sự thật. Những kẻ tin theo Ngài phải sống trong sự thật, làm chứng cho sự thật. Sự thật là Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa, xuống thế gian công bố tình yêu Chúa Cha ban cho nhân loại và ai tin vào Ngài sẽ nhận được ơn cứu rỗi. Trong vương quốc của Ngài con người đối xử với nhau bằng tình yêu, chân lí và sự thật. Công lí được coi trọng bởi công lí đó nhằm mục đích bảo vệ mạng sống con người từ lúc thụ thai cho đến khi sống lại về cùng Thiên Chúa. Mọi người đều mang hình ảnh Chúa và là anh chị em với nhau. Để có thể sống trong tình yêu, chân lí và sự thật người đó phải được tái sinh trong nước Thanh Tẩy và chịu sự hướng dẫn của Thánh Thần Jn 3,3-7.
Nước Thiên Chúa bắt đầu khi Đức Kitô đội triều thiên mạo gai và treo trên thập tự phía trên đầu cho viết chữ 'Vua Dân Do Thái'. Các Thầy Cả Thượng Phẩm Do Thái cực lực phản đối nhưng Philatô cương quyết giữ điều ông phán quyết.
Đức Kitô là Vua vũ trụ bởi một mình Ngài đã chiến thắng tội lỗi, ma quỷ và thần chết, chính chúng đại diện cho nước của bóng tối.
69. Đức Giêsu, Vua vũ trụ, cũng là vua mọi tâm hồn, thống trị bằng tình yêu -- JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì trên vũ trụ vạn vật?
2. Ngài là vua, nhưng có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
3. Ngài là vua của vũ trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn tôi? Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư gợi ý:
1. Chú giải đoạn Tin Mừng
Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng họ không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của một nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: “Tôi được sinh ra để làm vua”. Thật vậy, có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như một vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào thành Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
2. Đức Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu không phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói: “vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”, v. v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: “Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
4. Đức Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: “Thiên Chúa làm cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một “cây đèn thần” trong tay, một “bùa hộ mạng” an toàn, một “vị thần bảo trợ” hữu hiệu, một “người tình chung thủy” luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: “Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
CẦU NGUYỆN
Lạy Đức Kitô, Chúa là Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con, v. v… Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa hơn. Amen.
70. Đức Giêsu, vua niềm tin – Lm. Nguyễn Hữu An.
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc, với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân.
Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận bão táp, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống.
Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu, hoặc động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ.
Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh hoặc chiến tranh thế giới giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng có lẽ nhiều người trong chúng ta quên rằng, còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả nhưng lại luôn luôn ở trong tầm tay của mình. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không thể nào bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể xoá được những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người, là niềm tin tôn giáo. (Lm Trần quý Thiện)
Trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã biểu lộ sức mạnh niềm tin ấy “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài” (Ga 18, 11). Niềm tin vào Sự Thật, mà “Sự thật sẽ giải thoát các con” cho nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18, 37). Bởi vì “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”.
Kết thúc năm phụng vụ, tận cùng của thời gian, Giáo hội cho chúng ta suy tôn Đức Giêsu - vua vũ trụ - vua niềm tin. Đức Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, cũng không theo nghĩa chính trị. Đức Giêsu là vua niềm tin, vua tình yêu. Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của sự thật “Ai đứng về phái sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do thái không? Đức Giêsu minh xác: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18, 36). Vậy thì vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thê lực của Xêza là quân đội, khí giới, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn vương quốc Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Chính niềm tin tôn giáo dạy chúng ta rằng: mục đích tối thượng của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ. Qua không gian thời gian, trải qua bể dâu của lịch sử với những thao thức băn khoăn của kiếp người, con người luôn luôn tìm đến niềm tin tôn giáo. Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cúng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống. Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thủ ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được vớiThiên Chúa. Với sức mạnh niềm tin chúng ta khẳng định rằng: trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn nâng đỡ chúng ta.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?. Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?. Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin tôn giáo. Aùnh sáng niềm tin ấy hướng dẫn chúng ta đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Mừng lễ Chúa Giêsu vua vũ trụ, vua niềm tin, chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa Giêsu là vương quyền của sự sống, của sự thật, vương quyền của niềm tin, của ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, của công lý, tình yêu hoà bình.
71. Nước của Sự Thật -- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội công bố bài Tin Mừng Gioan: Vua Giêsu đang bị trói, bị điệu đến trước mặt quan Philatô và bị đối xử như một tội phạm. Philatô hỏi: Ông là vua sao? Sao lạ vậy? Vua Hêrôđê còn sống sờ sờ đó mà. Vua gì mà chẳng có quân có tướng hộ vệ? Vua gì mà chẳng có vương miện cẩm bào? Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu mang chiếc áo loang lỗ máu đào, tả tơi. Phải chăng Philatô nhận ra Chúa có một tác phong uy quyền cao cả một một vị đế vương. Và trong chiều sâu tâm hồn, Philatô thán phục đánh giá cao vị vua này!
Chúa Giêsu đáp: Chính ngài nói rằng tôi là vua. Rồi Chúa giải thích thêm: Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi. “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Như vậy, Chúa xác nhận Ngài là Vua, vì có một nước để Ngài thống trị. Đó là nước của sự thật: Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Chúa; đó là nước của tình yêu: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu này để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.” (Ga 13,35); đó là nước của sự sống: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24).
1. Nước của Sự Thật.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Nước trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại nước huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi nước làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn nước của Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội khí giới nhà tù. Sức mạnh nước của Đức Giêsu là niềm tin yêu thương tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn nước của Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn nước sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu là vị vua của Sự Thật và sứ mạng của Ngài là làm chứng cho sự thật. Là vua sự thật, Chúa đến thế gian để chỉ cho con người về sự thật và dạy cho con người sống sự thật. Vua Giêsu đã chỉ cho con người thấy Thiên Chúa là chân lý và là sự thật. Vua Giêsu còn chỉ cho con người thấy bộ mặt thật gian dối của thế gian, sự xảo trá của ma quỷ và thế lực của bóng tối. Nó đang tìm cách tách con người ra khỏi sự thật và gieo sự gian dối vào trong tâm hồn con người.
Kitô hữu là thần dân của nước sự thật nên dám nói lên sự thật, dám can đảm sống theo sự thật, dám chết cho sự thật.
2. Nước của Tình Yêu
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của nước Ngài thiết lập. Đức Kitô là vua, nhưng lại rất khác với các vua trần thế ở chỗ: để cai trị, các vua thế gian dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (Ga 10,11-16). Luật pháp trong nước của Ngài là sống trong Tình Yêu. Một Tình Yêu trọn vẹn trong chiều dọc, đối với Đấng dựng nên mình là Thiên Chúa. Một Tình Yêu chan hòa trong chiều ngang đối với đồng loại của mình.
“Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới. Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa nước của Ngài. Đó là nước của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời”. (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt).
“Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Vua Giêsu đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Tình yêu chi phối mọi sinh hoạt cuộc đời. Con người đau khổ vì không có tình yêu. Chúa là tình yêu. Chỉ những ai biết tìm đến với Ngài, được Ngài thông truyền cho tình yêu, họ mới biết mở mắt để nhận ra được mọi người anh em, như thế mới có thể yêu thương. Bản tính của tình yêu là cho đi điều tốt lành. Ai sống yêu thương thì thuộc về Chúa, là thần dân của Ngài. Nước của Chúa Kitô Vua là nước của tình yêu. Muốn vào nước ấy, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
3. Nước của Sự Sống
“Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” (Ga 11, 25-26). Thật là đại tin mừng: “Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” (Ga 1,4-5).
Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống nên nước của Ngài không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết nước của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua Sự Sống.
Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi con người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong nước Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nổ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Nước vĩnh cửu của Người.
Mừng lễ Chúa Giêsu - Vua Vũ Trụ - Vua Sự Thật -Vua Tình Yêu - Vua Sự Sống, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
Giêsu, lạy Chúa từ nhân,
Tâu Vua vinh hiển, thần dân kính mừng!
Duy Ngài là lẽ cậy trông,
Là trung tâm điểm của dòng thời gian.
Quyền uy thống trị vũ hoàn,
Chúng con tình nguyện làm dân con Ngài.
(Thánh Thi Kinh sáng lễ Chúa Kitô vua).
72. Đức Kitô – Vua Niềm Tin -- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, tiếp nối qua hành trình rao giảng Tin mừng rồi cuộc Tử nạn, Phục sinh và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
1. Vua Trong Lịch Sử
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Quân chủ (Vua cai trị) không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng “làm kiểng” như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật Bản... không có thực quyền.
Trong lịch sử loài người, có một số vị vua có tài, giỏi đánh giặc và trị nước, nhưng hầu hết các vị vua đều độc tài độc đoán (vì cha truyền con nối), không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, chẳng quan tâm đến bá tánh. Các vị vua bên Tàu còn tự xưng mình là Thiên tử (con Trời) nên làm trời con, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua La mã tự xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì tham lam, ích kỷ, dâm ô. Khi đã chiếm được ngai vàng, họ coi thần dân như bầy tôi, giang sơn đất nước là tài sản riêng của họ: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc và còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, phải chiến tranh giành giật đẫm máu. Đọc lịch sử Việt Nam, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê... toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm. Năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị.
2. Vua Trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước công nguyên, dân Israel có vua cai trị giống như các dân khác.
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavit và Salômôn.
Giavê Thiên Chúa, qua ngôn sứ Samuel đã cảnh cáo dân rằng:
- “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15, 10).
- “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel... Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê... ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12, 9).
- Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11, 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các bà vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi... Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11, 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12, 6).
3. Đức Giêsu Kitô, Vua Niềm Tin
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài không làm vua theo kiểu vua chúa trần gian. Ngài cũng không làm vua một lãnh vực kinh tế nào. Đức Giêsu là Vua Niềm Tin. Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật. “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố, đó là ý định cứu rỗi của Chúa Cha: Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến để cứu độ thế gian.
Đức Giêsu thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu bằng niềm tin và tình yêu trong sự thật.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: “Chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không?” Đức Giêsu đáp: “Của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Người đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nước Chúa không thuộc về thế gian. Nước Chúa ở trong các tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Đức Giêsu đem đến cho nhân loại.
Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn. Vương quốc của Vua Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza. Vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Trong vương quốc niềm tin, con người tiếp nhận sự sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhận định: “Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo Hội ngày nay” (Phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình 27-10-2011). Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu xa của những thách thức đối với Giáo Hội ngày nay là khủng hoảng Đức Tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục. Có lẽ đây là một trong những lý do chính mà Ngài quyết định mở Năm Đức Tin cho toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 14-11-2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục loạt bài giáo lý về Năm Đức Tin. Thế kỷ trước, chúng ta đã chứng kiến sự lớn mạnh và phát triển của chủ nghĩa tục hóa, nhân danh con người có quyền tự chủ tuyệt đối, coi tục hóa là một giải pháp và sự sáng tạo đối với hiện thực. Ngày nay, đức tin đang phải đối diện với những khó khăn, đó là “ít hiểu biết về đức tin, đức tin bị thử thách và chối từ đức tin”. Chủ nghĩa vô thần 'thực dụng' là một hiện tượng nguy hại cho đức tin.
Đức Thánh Cha mô tả về ba con đường nhận biết Thiên Chúa: thế giới, con người và đức tin.
- 'thế giới': liên quan đến việc “giúp con người ngày nay phục hồi khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp và cấu trúc của công trình sáng thế. Thế giới này không phải là một khối hỗn mang không có hình dạng, nhưng càng tìm hiểu, càng khám phá cơ chế lý thú của nó, càng ngắm kỹ một mẫu hình, chúng ta càng thấy đó là cả một trí tuệ sáng tạo”.
- 'con người'. Thánh Augustinô từng nói: “Chân lý cư ngụ trong trái tim con người”. Theo ĐTC, “đây là một khía cạnh khác, ngày nay trong một thế giới ồn ào, làm chúng ta bị phân tâm, chúng ta có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại và nhìn sâu vào nội tâm mình”.
- 'đức tin': đây không chỉ đơn giản là một “hệ thống những giá trị, những lựa chọn và hành động”, nhưng “là sự gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đang nói và hành động trong lịch sử, Đấng biến đổi cuộc sống hằng ngày của chúng ta, biến đổi suy nghĩ, các giá trị, những lựa chọn và hành động của chúng ta”. Ngài kết luận: “Đức tin không phải ảo tưởng, là trốn chạy cuộc sống, là nơi tạm trú đủ tiện nghi, là cảm xúc; nhưng là sự dấn thân vào mọi khía cạnh của cuộc sống và loan báo Tin Mừng, Tin Vui đem lại giải thoát mọi điều thuộc về con người”.(Theo Alessandro Speciale, Vatican Insider, 14-11-2012; WHĐ).
Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?. Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng đức tin.
Đức tin là một sự sống. Khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.Ánh sáng đức tin hướng dẫn nhân loại đến yêu thương và phục vụ. Khi con người biết sống cho người khác họ sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Ở Vũng Tàu, có tượng Chúa Kitô Vua thật lớn đứng trên núi cao nhìn về biển đông, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân ra khơi, nhìn lên tượng Chúa để xác định phương hướng. Khi gặp sóng gió, họ cũng hướng về tượng Chúa để cầu nguyện xin ơn.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Vua niềm tin, chúng ta trọn một niềm xác tín, Chúa Kitô là trung tâm lịch sử cứu độ là chuẩn đích cho chúng ta định hướng với tin yêu và hy vọng. Hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
73. Vua Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Các bạn thân mến!
Các bạn đang nghĩ gì các thần tượng của các bạn.! Một diễn viên xinh đẹp, một ca sĩ tài năng, một minh tinh màn bạc giàu có, hay một cầu thủ bóng đá đa tình.v.v. Họ là ai? Họ sống như thế nào? Họ là người tốt hay xấu, đôi khi chúng ta cũng không biết. Ấy thế, chúng ta lại tôn sùng họ, coi họ như là ánh sao dẫn đường cho cuộc đời của mình. Vậy ai cho bạn sự sống trên cõi đời cha mẹ các bạn đúng không? Nếu bạn dành một chút thời gian lắng động để suy niệm và lắng nghe được tiếng Chúa trong lòng các bạn, thì bạn sẽ có câu trả lời đúng, và bạn sẽ có sự chọn lựa và hướng đi tốt cho cuộc đời bạn. Vậy, có bao giờ các bạn chọn Giêsu là thần tượng, là Đấng bạn tôn thờ và yêu mến hết lòng không.?
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Một cái tên rất cao sang, uy quyền, vinh quang và thống trị theo cách nhìn của người đời. Điều này có thể làm cho chúng ta nghĩ đến các vua, các quan tham đầy quyền lực, thống trị, và bóc lột dân chúng. Trái lại, Đức Giêsu là vị Vua của Tình Yêu, Vua trên các vua. Vị Vua bị người đời chà đạp, bắt bớ, đánh đạp và sỉ nhục, đóng đinh và giết chết, mà chúng ta được nghe trong Tin Mừng hôm nay được diễn ra trong một quan tòa xét xử. Quan tòa Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Đức Giêsu trả lời: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?". Ngài không phủ nhận điều Phi-la-tô gọi Ngài là Vua. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này... Tôi sinh ra và đến trong thế gian là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi". Quan lại hỏi, sự thật đó là gì?.
Thưa các bạn! Để trả lời cho câu hỏi này, mỗi người chúng ta cần có câu trả lời cho chính mình. Tôi đang sống theo sự thật hay gian dối! Tôi đang sống trong tình thương hay hận thù! Nơi Chúa Giêsu, Ngài chứng minh cho sự thật, chính là chết trên cây thập giá, được người ta khắc cho với dòng chữ: “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái”. Đây là lời nhạo báng và khinh bỉ của những kẻ bất lương dành cho Ngài. Sự thật, Ngài là Vua. Vị Vua không có vương miện trên đầu, nhưng thay vào đó là đội mão gai. Vị Vua không sống trong tòa lâu đài nghi nga tráng lệ mà là sinh ra nơi chuồng bò hôi tanh, lạnh lẽo, và sống ẩn dật nơi một làng quê nghèo hèn. Vị Vua không có thẩm phục, tước vị uy quyền mà là Người quỳ xuống để rửa chân cho các môn đệ. Vị Vua đi với người tội lỗi và sống với người nghèo khổ, chăm sóc người già nua, bệnh tật và ốm đau. Tất cả những điều đó không chứng minh đủ cho chúng ta rằng, Ngài là Vua Tình Yêu sao! Có vị vua nào ở trần gian này chết thay cho chúng ta không? Có thần tượng nào dám hy sinh và cho chúng ta sự sống không.? Chỉ có tình yêu Giêsu. Ngài đã làm chứng cho sự thật về tình yêu của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Sự thật đó không dừng lại qua cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá mà là dẫn đến vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Trong ngày quang lâm chúng ta sẽ được chứng kiến vinh quang Nước Trời. Vì Ngài đã nói: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này." Trong sách Khải huyền viết: "Đức Giêsu là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số người từ cõi chết trỗi dậy... Ngài yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta" (Kh 1,5-8). Ai tin sẽ được cứu rỗi. Vậy chúng ta còn nghi ngờ gì nữa mà không dám sống cho sự thật, Chúa Giêsu đã nói và chứng minh cho chúng ta bằng cái chết và phục sinh của Ngài.
Các bạn thân mến! Các bạn cùng tôi hãy sống cho chân lý và sự thật nơi thế gian, hãy bỏ đi những thứ vô thần đang lôi kéo chúng ta ra khỏi Thiên Chúa và Giáo Hội. Hãy thức tỉnh và lắng nghe Lời Chúa mời gọi, các bạn sẽ bước đi trong niềm vui, hân hoan, vui sướng và hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng các bạn, Ngài sẽ cho chúng ta niềm hạnh phúc và sự sống bất diệt hôm nay và mai sau. Tin vào tình yêu Giêsu, chúng ta sẽ không bị thất vọng.
Lạy Vua Giêsu, Ngài là Vua của Tình Yêu, là Đấng con tôn thờ, là Đấng yêu thương hết mọi người, và ban bình an cho chúng con, vì không có vị vua nào trên trần gian có thể chết cho con, mang lại sự sống cho chúng con, nhưng chỉ có nơi Ngài, con có nguồn vui, sự sống và hạnh phúc đich thực. Amen.
74. Chú giải của Noel Quesson.
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa “thời tai họa”, Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài người để hưởng “một mùa hè tươi đẹp” Đức Giêsu đề cập đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của “Tin Mừng” theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về “Vua”, “Vương quyền” (Ga 18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là “Vương quyền” của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện chính trị.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do thái không?
Đức Giêsu bị buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với Philatô là một “ông Giêsu nào đó” Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông ấy.
Thật là một điều quá đáng? Bị cáo bây giờ lại “hạch hỏi quan tòa”. Có phải vai trò bị đảo ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy?
Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để bày tỏ một lập trường của riêng ông, “này, ông Philatô, có phải chính ông nói rằng tôi là Vua không?”. Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ “quan tòa - bị cáo” để bước sang tương quan “người và người”. Chúng ta không ngừng đóng những vai trò” và ưa đeo mặt nạ: Chủ - thợ, y sĩ - bệnh nhân, thông gia - khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh mục - con chiên, cha mẹ - con cái, thầy dạy - học trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải “tuyên xưng Đức tin”.
Ông Philatô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với “mặt nạ” của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án. “Ông đã làm gì?” Đức Giêsu đã cố gặp “một người”. Nhưng Philatô đóng vai trò “một nhân vật” Dù sao thì Philatô cũng đang “thống trị “, chính ông mới có uy quyền. Người thợ ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng, không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau... nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của quan tòa “ông đã làm gì?”. Chính Đức Giêsu không có ý thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu “Vua” mà Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất có ba cách làm “Vua”. 1. Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai “bạn có muốn theo tôi không?” “Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Một vương quyền mà lại để “Vua” bị “Giao nộp” cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng thống mà không có “vê binh” để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành động như Đấng có “Toàn quyền”: Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự “Giao nộp” để cho chúng ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ “Giao nộp” mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2 Cr 4,4). “Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng ta” (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng nói về “Nước Trời”, “Nước của Thiên Chúa”, nhưng đó không phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại bông hạt. Đức Giêsu là “Vua”, vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa “trị vì”, Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha “Xin cho Nước Cha trị đến”. Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy. Người không phải là “Vua”! Không, tuyệt đối không phải là “Vua”! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua..., bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết, Vương quyền này từ “nơi khác” đến. Người cảm thấy không cần nói rõ “nơi khác” mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của “nơi khác” thần thiêng này là Vinh quang của Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người là vinh quang được “nâng lên khỏi mặt đất” trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng của Philatô, đại danh từ “ông” được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp rất có ý nghĩa: “Vua ông”.
Sao? ông, người mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
“Đã đến”. Người đã nói “Tôi đã đến”, từ một ‘nơi khác’, đã đến thế gian.
Trong bài đọc 2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là “nhân chứng trung thực”. Chữ “Chứng nhân” này dịch từ chữ Hy Lạp “Martyr” do đó có chữ Pháp là “Martyr” có nghĩa tử đạo.
Người đã trả giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe “một giọng nói” tất cả những ai thuộc về sự thật”. Người “trị vì” nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với “Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát khỏi “Vương quyền” này.
Là con người, chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại “Sự thật”. Làm vinh danh Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức những lễ long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với “Tiếng nói đó”
75. Vương quyền của Đức Kitô -- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”.
X. Léon-Dufour giải thích: “Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy “vị Ngôn sứ” để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là “Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi.” (“Lecture de l'evangile selon Jean”, tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: “Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.
- Sau đó, Chúa đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
A. Marchadour quảng giải: “Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi khác, đến từ “xứ sở” nơi Đức Giêsu “sinh ra”, và từ đó Người “đã đến thế gian”, vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này” (“L'evangile de Jean”, Centurion, trang 227).
2. Đức Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn hỏi: “Vậy ông là vua ư?”, Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là “làm chứng cho chân lý” (từ “làrn chứng” trong tiếng Hy lạp là “martyr”: tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn (“Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý”): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu “bất cứ ai thuộc về chân lý”.
Sứ mạng của Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: “ Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi” Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là gì?” (“Célébrer” tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Đức Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x. Léon-Dufour, trong “Lecture de l'evangile selon St Jean”, cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức Kitô là “Vua Vũ Trụ”, một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là “một cuộc hiển linh của vi vua” Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là “người”vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì “chân lý” mà Người công bố, liên quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua “ ấy ở đâu: Vua vinh quang phán: “Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40): để có thể tìm thấy “vua”, tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu. Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu “vua dân Do Thái” phản ánh theo cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về “vị vua” đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
2. Đức Giêsu, phản vua (L'antiroi)
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu.
Ngày nay cũng vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-anh-hùng (antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn kính đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân lý... giống như Người.
Thành công của Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.
76. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nước tôi không thuộc chốn này”: Chữ “chốn này” (enteuthen) tương đương với thế gian này tiếng mà Gioan tránh lặp lại lần thứ ba. Nhóm chữ “thế gian này” gần giống nhóm chữ “bởi đất” (3,31), “có tính cách trần thế” và tương đương với “phàm tục”, “có đặc tính của thế gian”; nên người ta cũng dịch được: “Vương quốc tôi không có tính cách trần thế”. Xin nhớ tiếng Aram rất ít tĩnh từ.
“Để làm chứng cho sự thật”: Tư tưởng Thánh Kinh đã nhận ra mối tương quan giữa khôn ngoan và vương quyền (x. 2 Sm 14,17-20). Vương quyền cánh chung mà Chúa Giêsu khai mạc trong thế gian, ngay lúc này, sẽ không dùng đến bạo lực; theo thánh ý của Cha, Đấng đã giao phó sứ mệnh cho Người. Vương quyền đó sẽ được thể hiện nhờ việc tiếp đón sự thật của Thiên Chúa biểu lộ trong Người, lời nhập thể (x. 14, 6; 3, 11.32; 8, 13-14.46).
“Ai thuộc về sự thật”: So sánh với 7, 17; 1 0, 26 và nhất là với 8, 47 (“Ai bởi Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa”), câu mà chữ bởi Thiên Chúa” đối ứng với chữ “thuộc về sự thật” của chung ta: ai thuộc về sự thật là bạn hữu của sự thật.
KẾT LUẬN
Vương quyền mà Chúa Kitô gián tiếp đòi hỏi khác biệt cách sâu xa với vương quyền mà các mục tiêu và phương tiện đều thuộc phạm vi thế gian; vương quyền Người không cần đến sức mạnh và phương pháp thông thường của hoạt động chính trị. Vương quyền Người, Người nhận từ Thiên Chúa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong bản văn này, chúng ta chứng kiến giai thoại sẽ đưa đến việc Philatô kết án tử hình cho Chúa Giêsu. Để quán triệt bản văn, cần nhắc lại rằng Philatô và Chúa Giêsu không đứng trên cùng một bình diện. Khi thốt lên tiếng “vua”, Philatô nghĩ đến một vương quyền chính trị trần thế. Còn lúc tự xưng là vua, Chúa Giêsu nói đến vương quyền thiên sai của Người. Phải xác định rằng Người tự xưng là Vua Messia theo một nghĩa vô cùng rộng lớn hơn ý nghĩa được quan niệm bởi các thủ lãnh dân Do thái, những kẻ chỉ thấy trong Đấng Messia tương lai một vì vua trần tục. Qua câu hỏi “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” Chúa Giêsu muốn cho Philatô biết Người chẳng phải là vua theo cách ông ta tưởng nghĩ, và càng không phải là vua theo cách người Do thái quan niệm. Vì thế, sau câu đáp của Philatô. Chúa Giêsu nói: “Vương quyền không thuộc thế gian này”. Thế rồi ta đi đến diễn tiến kỳ lạ sau đây: người Do thái muốn làm cho Philatô kết án Chúa Giêsu, bởi vì Người tự xưng là đến từ một thế giới khác, nghĩa là từ Thiên Chúa. Vì đó không phải là nguyên do kết án đối với Philatô, nên họ đưa ra một cớ khác, là Người đã tự xưng là một vua trần thế chống lại hoàng đế Rôma, điều mà Chúa Giêsu tuyên bố là không phải. Chúa Giêsu bị kết án do quyền tài phán Rôma dưới danh nghĩa một vương quốc trần thế, trong lúc Philalô biết Người từ chối vương quyền này.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu là một việc làm chứng cho sự thật. Chúa Giêsu không phải là vua thuộc thế gian này nhưng là vua trong thế gian này, và trong thế gian này người làm chứng cho một thực tại thần linh. Quả thế, ở đây cần phải nắm vững ý nghĩa chữ “sự thật”. Sự thật, theo Tin mừng Gioan, không phải là một tri thức thuần lý phù hợp với thực tại đâu. Nó là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người cảm thấy nó xâm nhập vào trong tất cả hữu thể mình và trong toàn cuộc sống. Nhưng con người cũng còn phải tiếp nhận. Việc tiếp nhận này không chỉ bằng lý trí: nhưng còn bằng tâm hồn, ý chí, toàn thể con người ta. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật vì, xét như là kẻ được xâm nhập và biến đổi bởi kinh nghiệm về thần linh, người đề nghị tất cả hãy đi vào sự thông hiệp có sức thần hóa với Người, Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua khi, trong một nhân loại rất thường chống nghịch Thiên Chúa, con người đón tiếp “chứng” của Người, nghĩa là tin Người và hết lòng để cho Người thần hóa.
3. “Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Ta...”. Thuộc sự thật là gì? Đó là sẵn sàng đón tiếp thực tại thần linh mà Chúa Giêsu đem đến cho con người. Trong thực tế chúng ta hôm nay, điều này hệ tại thành thật đối với Thiên Chúa Đấng phán bảo qua Thánh Kinh và Giáo Hội, sống phù hợp với những gì Thiên Chúa mặc khải cho và theo Chúa Giêsu mà ta gặp thấy trong Tin Mừng, trong Giáo Hội, trong các nhiệm tích, trong anh chị em.Vương quyền của Chúa Giêsu không giống chút nào với cách thống trị của nhân thế, nhưng nó trở nên hữu hiệu khi con người cá nhân và tập thể, trong cuộc sống thực sự hiểu rằng mình đến từ Thiên Chúa và đi về cùng Thiên Chúa, cho nên hết. sức ra công để nhân loại nhận biết sự thật nhờ những nét đẹp nhất của khuôn mặt nó, là những nét của Tình Yêu.
4. Chúa Giêsu là hiện thân của sự thật vốn tự mặc khải, sự thật của lòng trung thành và thương xót của Thiên Chúa; Chúa Giêsu bị vu cáo, đánh đòn, đội mão gai và bị lưỡi đòng của thế gian này đâm thủng là hiện thân của sự thật, của thực tại Thiên Chúa, của sự thật chấp nhận số phận đớn đau, của sư thật tự mặc khải cách vinh thắng oai hùng khi cam lòng chịu sự chế diễu của thế gian dối trá. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng Vua của chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai làm vương miện, chớ bao giờ quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc không thuộc về thế gian. Nếu chúng ta có can đảm làm chứng nhân cho một vị vua và một vương quốc như thế trong trần gian này, thì những kẻ “thuộc sự thật” sẽ nghe lời chứng của chúng ta, và Chúa Kitô, Đấng đã bị treo lên trên thập giá, sẽ kéo họ đến cùng Người, và triều đại thanh bình vui tươi của Người sẽ được thiết lập trong tâm hồn chúng ta và trong tâm hồn anh em mãi mãi.
20/11 Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại
- Viết bởi Lc 20, 27-40
Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại.
Thứ Bảy tuần 33 thường niên.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Lời Chúa: Lc 20, 27-40
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đời này, đời sau
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,
vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.
Con loay hoay vun vén cho đời sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt ngào của trời cao,
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt đất. Amen.
Suy niệm 2: Đời này – đời sau – đời đời
Con người thật hạn hẹp. Chỉ biết nơi mình ở. Trong một thời gian và một không gian giới hạn. Ngay điều ta biết cũng không trọn vẹn. Ngay trong bản thân vẫn còn nhiều điều ta chưa hiểu. Ví dụ ruột thừa để làm gì. Vì thế nói về đời sau lại càng nông cạn. Phái Xa-đốc đưa ra vấn nạn tưởng là ghê gớm. Nhưng họ chỉ là những kẻ ếch ngồi đáy giếng. Hôm nay Chúa mở ra cho họ một chân trời mênh mông của đời sau. Của Nước Trời. Đời sau là đời đời. Nước Trời là vĩnh cửu. Thiên Chúa là vô thuỷ vô chung. Và con người có đời sống khác đời sống thân xác chóng qua đời này. “Những người sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.
Nếu hiểu được đời sau. Nếu biết giới hạn của đời này. Người ta sẽ sống khác. Như vua An-ti-ô-khô. Một đời tung hoành ngang dọc. Tự tung tự tác. Giết người không gớm tay. Xúc phạm cả Thiên Chúa. Coi mình là Thiên Chúa. Bắt mọi người thờ lạy. Chiếm đoạt đồ thờ phượng để sử dụng riêng tư. Nhưng đến cuối đời. Sức lực tàn tạ. Thất bại ê chề. Vua mới hối hận. Biết đời sống có hạn. Biết thế giới này mau qua. Mơ hồ nhìn thấy một chút phán xét đời sau. Bấy giờ vua mới hoảng sợ. Ân hận thì đã muộn: “Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao!...Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (năm lẻ).
Hiểu biết chân lý về cuộc đời, những người tôi tớ của Chúa chuyên tâm sống theo luật Chúa. Và mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Như Mô-sê và Ê-li-a. Thế lực trần gian có vẻ thắng thế. Các ngài bị tiêu diệt. Chịu nhục nhã. “Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là Xơ-đôm và Ai –cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”. Nhưng chỉ một thời gian sau. Ngày cùng tận của thế giới này. Sẽ khởi đầu thế giới khác. Các ngài sẽ sống lại. Sẽ được Chúa thưởng công vinh quang trên trời. “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ‘Hãy lên đây!’ Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài”(năm chẵn).
Đời này chóng qua. Rồi sẽ tới đời sau. Ở đời sau phúc hay hoạ sẽ là đời đời. Xin cho con hiểu chân lý này. Để biết chuẩn bị cho đời sau. Để được sống đời đời. Và biết rao truyền chân lý này. Đó chính là góp phần xây dựng thế giới.
Suy niệm 3: Có sự sống lại
Sự sống, thân xác và tất cả những gì con người có được, đều là những món quà Thiên Chúa ban tặng, do đó, phải được bảo toàn và trân trọng. Chính cung cách sống và hành xử của con người trong cuộc sống hiện tại định đoạt số phận tương lai của họ: được cứu độ hay bị trầm luân đời đời. Bởi vì cuộc sống của con người không kết thúc với cái chết của thân xác trên trần gian này; sau khi chết, thân xác và linh hồn con người mới bắt đầu cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, một cuộc sống phục sinh, một cuộc sống hoàn toàn biến đổi.
Ðó cũng là sự thật Chúa Giêsu khẳng định khi trả lời cho một số người thuộc nhóm Sađốc, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Vào thời Chúa Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Liên quan đến sự sống lại, số người thuộc nhóm Biệt phái thì tin rằng cuộc sống sau khi chết cũng giống như cuộc sống trước đó trên trần gian này, nghĩa là con người cũng ăn uống, buôn bán, sống đời vợ chồng, nhưng chỉ có sung sướng mà thôi; tuy nhiên, một số khác thì tin rằng cuộc sống sau cái chết là cuộc sống hoàn toàn biến đổi. Còn nhóm Sađốc thì không tin vào cuộc sống đời sau: đối với họ, chết là hết; họ dựa trên luật Do thái buộc người em phải lấy chị dâu để đảm bảo cho anh mình có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp bảy anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà và hỏi Chúa Giêsu: khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống phục sinh hoàn toàn được biến đổi và không giống cuộc sống trên trần gian này như một số người Biệt phái tưởng nghĩ; do đó, mọi tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ được biến đổi và tan hòa trong tương quan tình yêu thương của Thiên Chúa, cũng như mang sắc thái và chiều kích của tình yêu ấy, vì thế, mọi cách diễn tả và biểu lộ trong các liên hệ cuộc sống trần gian khi đó không còn ý nghĩa nữa.
Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích sự việc sẽ xẩy ra thế nào và khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại, vì điều đó không quan trọng cho ơn cứu rỗi. Chẳng những có lời quả quyết của Chúa, chúng ta còn có một sự kiện cụ thể khác, đó là sự phục sinh của Chúa Kitô, đó là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về sự chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin vào sự sống lại và kiên trì hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Chân lý của đời sống đức tin
Vào cuối kinh Tin Kính, những đồ đệ của Chúa Giêsu tuyên xưng: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen".
Sự sống lại và sự sống đời đời là chân lý quan trọng cho đời sống đức tin. Nếu không có sự sống lại và sự sống đời đời thì đức tin của chúng ta còn có ý nghĩa gì nữa, và công việc nhập thể cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không còn ý nghĩa nữa. Ðây là chân lý quan trọng nhưng khó tin và có thể có trường hợp xảy ra như đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu, và cả những kẻ có niềm tin cũng bị vấp phạm không tin vào sự thật này nữa bởi vì nó không thể nào giải thích cặn kẽ được. Bởi lý trí con người lập luận theo đường lối tự nhiên, con người có thể chất vấn Thiên Chúa như những người Sađốc ngày xưa đã chất vấn Chúa Giêsu.
Có thể nói chúng ta cám ơn những người Sađốc vì nhờ vào vấn nạn của họ, mà chúng ta có được lời xác định rõ ràng của Chúa Giêsu về sự sống lại. Những người theo phái Sađốc là những kẻ thuộc hàng quí tộc và tư tế. Danh gọi Sađốc phát sinh từ tên riêng của vị thượng tế trong đền thờ thời vua Salômôn. Bộ luật duy nhất mà những người thuộc phái Sađốc chấp nhận là bộ Tora của Môisen, được ghi lại trong năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh mà thôi. Trong bộ Ngũ Thư thời Môisen, sự thật về sự sống lại và về sự sống đời đời chưa được mạc khải rõ ràng. Mãi về sau, tức là vào thời của Maccabê và tiên tri Daniel, tức khoảng thứ kỷ thứ 2 trước Chúa giáng sinh, thì sự thật về sự sống lại mới được quả quyết rõ ràng. Một đàng thì chưa được mạc khải rõ ràng, và đàng khác lại có luật nối dòng của Môisen cho trường hợp cưới vợ của anh khi anh mình chết đi mà không có con, nên chúng ta không lạ gì khi thấy các nhà thông luật, trưởng giả và tư tế không tin có sự sống lại, đã dùng luật Môisen chống lại sự sống lại. Trong dòng lịch sử cũng không thiếu những người chối bỏ chân lý về sự sống lại. Vào thời đại của chúng ta hiện nay cũng vậy, cũng có những triết gia và đôi khi tệ hơn nữa, những thần học gia lại tuyên bố không tin hay ít ra là nghi ngờ sự thật về sự sống lại.
Trên bình diện này, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Chúa Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ về sự thật có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích cho biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xảy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi: như thế nào và vào lúc nào, là hai điều không quan trọng cho ơn cứu rỗi, nên Chúa Giêsu đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Kitô Phúc sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Kiếm cớ gây chuyện
Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa vì là con cái sự sống lại.” (Lc. 20, 34-36)
Những thượng tế, luật sĩ và các thủ lãnh dân chúng tìm cách tiêu diệt Đức Giêsu. Trước tiên, họ phải làm Người mất tín nhiệm trước mặt dân chúng. Vì Đức Giêsu hay dậy dỗ trong đền thờ, đây là dịp thuận tiện để họ đặt hàng chuỗi câu hỏi nóng bỏng để Người trả lời đưa đến chỗ gây chia rẽ thính giả và làm Người mất tín nhiệm.
Câu hỏi cạm bẫy
Phái Sa-đu-sê đại diện giai cấp quý tộc và chính trị, họ xa cách dân chúng và chỉ dựa vào Ngũ kinh. Họ không tin sự sống lại do sách Đa-ni-en đề xướng ra. Cuộc tranh luận về vấn đề này khá gay gắt. Ba mươi năm sau Đức Giêsu, thánh Phao-lô đã dùng vấn đề sống lại làm tấm bình phong gây hỏa mù giữa biệt phái và Sa-đu-sê.
Đức Giêsu dạy về nước trời và sự khẩn thiết phải ăn năn trở về để được sống đời đời. Giáo huấn này mất giá trị nếu người ta chết là hết. Sa-đu-sê đặt vấn nạn có ý chế nhạo kẻ tin vào sự sống lại và họ hy vọng đánh bại giáo huấn của Đức Giêsu.
Đó chỉ là trái pháo tịt ngòi
Đức Giêsu luôn luôn từ chối lối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng Người đứng trên bình diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sa-đu-sê đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa”.
Đức Giêsu còn trưng dẫn sách Ngũ kinh như ông Mô-sê đã gọi: “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp, Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống, Ngài ban và duy trì sự sống, ngay cả sau khi chết.
Kết luận thật rõ ràng để xác nhận có sự sống lại, vì ngay từ đầu cuộc sống công khai, Đức Giêsu đã lập đi lập lại: “Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy ăn năn sám hối để Ngài ban cho anh em sự sống đời đời”.
RC
Suy niệm 6: Sống trinh khiết
Xem lại CN 25 TN C
Trong Tin Mừng, chúng ta thường thấy nhắc đến một số nhóm luôn đứng lên để chống đối Đức Giêsu, trong đó có nhóm Sađốc.
Hôm nay, chính nhóm Sađốc này đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hãm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại.
Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời là: theo luật Môsê, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dòng.
Vậy cả 7 anh em một nhà kia lấy vợ, nhưng khi chưa có con thì họ đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết.
Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
Một câu hỏi xem ra hóc búa, hòng hy vọng Đức Giêsu sẽ bị mắc hợm. Tuy nhiên, Ngài đã trả lời rất thâm thúy rằng: “Con cái đời này thì dựng vợ gả chồng, còn những ai được xét là xứng đáng dự phần vào đời sau và được sống lại từ cõi chết thì sẽ không còn dựng vợ gả chồng nữa”.
Qua câu trả lời này, Đức Giêsu không những đã phá vỡ mưu đồ ác nhân của nhóm Sađốc, mà còn mặc khải cho họ một sứ điệp quan trọng trong cuộc sống mai hậu nữa, đó là: khi còn sống trên trần gian, thì chuyện lấy vợ gả chồng có mục đích lưu truyền nòi giống theo lệnh truyền của Chúa: “Hãy sinh sản đầy mặt đất”. Duy trì nòi giống là vì con người sẽ phải chết, nên cần phải có con nối dõi tông đường.
Nhưng cuộc sống trên Thiên Quốc mai hậu thì hoàn toàn khác, họ sẽ tồn tại mãi mãi trong sự sống muôn đời. Họ không cần phải đặt vấn đề duy trì nòi giống nữa, vì thế, họ không cần phải lấy vợ, gả chồng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng: cuộc sống trên trần gian này chỉ là tạm bợ mà thôi. Cuộc sống trên Thiên Quốc mai ngày mới là vĩnh viễn. Vì thế, trong cuộc hiện nay, hãy chu toàn bổn phận của mình cách chính đáng. Tuy nhiên, cần phải hướng lòng về quê thật chính là Thiên Đàng, nơi đó là nơi tràn đấy ánh sáng và bình an.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức rằng: quê hương chúng con ở trên trời. Vì thế, chúng con cần phải biết sống xứng đáng là con cái Chúa, để sau này được chung hưởng hạnh phúc Thiên Quốc với các thánh trên trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Kẻ chết sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nhóm luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại, còn nhóm Sađốc thì không. Mặc dầu nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như ở đời này. Nhưng Đức Giêsu đã mạc khải cho họ có sự sống lại và cách thức sống cuộc sống đời sau. Ngài cho thấy cuộc sống ấy không còn giống như ở đời này, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Trái lại, cuộc sống của người công chính khi phục sinh sẽ được thần thiêng hóa như đời sống của các thiên thần.
2. Hôm nay, nhóm Sađốc đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại. Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời: theo luật Maisen, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dõi. Vậy cả 7 anh em nhà kia lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết. Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
3. Để trả lời cho họ, Đức Giêsu trưng dẫn sách Ngũ Kinh như ông Maisen đã gọi: “Đức Chúa là Thên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống. Ngài ban và duy trì sự sống ngay cả sau khi chết.
Đức Giêsu luôn luôn từ chối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng người đứng trên phương diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sađốc đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau” và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được sống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa.
4. Đức Giêsu còn trả lời thêm cho biết trật tự, cách tổ chức, cách thế hiện hữu của cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải cưới vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa (Hiền Lâm).
5. Nói chung, trên mọi bình diện, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Đức Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ vì sự thật có sự sống lại, nhưng Chúa không giải thích cho biết sự việc sẽ xẩy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi như thế nào và vào lúc nào là hai điều không quan trong cho ơn cứu rỗi, nên Đức Giêsu đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô Phục sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời (R. Veritas).
6. Tất cả cuộc sống chúng ta đều xây dựng trên niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu và sự sống mai hậu. Tất cả những nỗ lực xây dựng công bằng bác ái của chúng ta chỉ có ý nghĩa là bởi vì chúng ta tin vào cuộc sống vĩnh cửu và sự sống lại.
7. Truyện: Kinh nghiệm cận tử.
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Suy niệm 8: Tin vào cuộc sống đời sau
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
B.... nẩy mầm.
1. Linh mục, Tu sĩ là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, một cuộc sống “như các thiên thần” không bận tâm chi đến việc vợ chồng, chỉ chuyên tâm phụng sự Chúa.
2. Trở nên chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa qua nếp sống vợ chồng (như cha mẹ chúng ta) không phải là chuyện dễ. Nhưng muốn là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, sống “như các thiên thần”, cũng rất khó khăn; rất cần ân huệ của Chúa. - Muốn đi đến nếp sống yêu thương với một con tim trọn vẹn không chia sẻ dành cho Chúa, ta cần được chuẩn bị để đạt được sự trưởng thành tâm cảm (maturité affective). Dần dần tập làm chủ được 4 trình độ của tâm cảm: - cảm xúc - tình cảm - tình yêu - đam mê.
3. Ta đọc lại lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
- Trong thông điệp Redemptor Hominis số 10: ‘ Con người không thể sống khi thiếu vắng tình yêu. Họ sẽ không thể hiểu họ là gì, và sẽ cảm thấy cuộc đời họ là vô nghĩa: nếu họ không đón nhận mặc khải tình yêu, không gặp gỡ tình yêu, không cảm nghiệm tình yêu, không đồng hoá với tình yêu, không mạnh dạn tham dự vào tình yêu.’
- Trong Tông Huấn Pastores Dabo vobis (Đào tạo Lm) số 44: “Tình yêu ở đây là tình yêu bao quát toàn diện cá vị con người với mọi chiều kích và mọi thành phần: vật lý, tâm lý và tinh thần; một tình yêu được diễn đạt nơi “ý nghĩa hôn nhân” của thân thể con người, nhờ đó mà con người tự hiến cho kẻ khác và đón nhận họ. Việc giáo dục giới tính đúng nghĩa cần phải hướng đến nhận thức và thực hiện chân lý đó về tình yêu nơi con người.”
4. Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
5. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài tất cả đều đang sống” (Lc 20,38)
Trong một lần trao đổi với chị bạn cùng lớp, chị cho rằng tuy không có đạo song cũng không hoàn toàn phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng có điều, nhìn vào cuộc chiến tàn khốc ở Ruanđa giữa bộ tộc Hutu và Tutsi, đều là những người công giáo với nhau mà giết nhau cách dễ dàng, hoặc như gia đình hàng xóm nhà chị, lễ lạy kinh hạt mỗi ngày nhưng hết “nội chiến” đến “ngoại chiến”. Chị không khỏi tự hỏi: niềm tin kitô giáo có còn khả năng thăng tiến con người như những gì giáo lý dạy không?
Như thế, dẫu tôi tin có Thiên Chúa nhưng lại không sống yêu thương thì cũng có nghĩa là tôi đang “khai tử” cho Thiên Chúa rồi.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, xin ban cho con sự sống của Ngài, sống vì yêu và sống cho tình yêu. (Hosanna)
19/11 Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa
- Viết bởi Lc 19, 45-48
Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa.
Thứ Sáu tuần 33 thường niên.
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Lời Chúa: Lc 19, 45-48
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nhà cầu nguyện
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Đức Giêsu vào Đền thờ” (c. 45),
ngay sau khi Ngài vẻ vang tiến vào thành phố Giêrusalem.
Ngài vào Nhà của Cha Ngài, nơi Ngài đã được tiến dâng (Lc 2, 22),
nơi Ngài đã muốn ở lại năm mười hai tuổi (Lc 2, 49).
Ngài đã lên Đền thờ nhiều lần trong đời, nhưng đây là lần cuối.
Lên Đền thờ lần cuối là một quyết định sinh tử (Lc 9, 51),
vì Ngài biết những gì đang chờ đợi mình ở đây (Lc 13, 33).
“Ngài bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán ở đó.”
Người ta bán những con vật, để người mua dâng cúng cho Đền thờ.
Nơi buôn bán này ở chung quanh Đền thờ,
tuy vẫn nằm trong khu vực Đền thờ, nơi Dân Ngoại được phép lui tới.
Dĩ nhiên việc buôn bán ở đây là có phép của ban an ninh Đền thờ,
nên chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại muốn đuổi họ.
Hiếm khi chúng ta thấy Đức Giêsu nổi giận hay dùng sức mạnh.
Còn ở đây Ngài mạnh mẽ cả trong hành động lẫn lời nói.
“Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện,
thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp” (c. 46).
Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem như một vị vua khiêm hạ.
Còn bây giờ Ngài đuổi những người buôn bán như một ngôn sứ.
Vị ngôn sứ giận dữ vì thấy nhà cầu nguyện trở thành nơi kinh doanh.
Đức Giêsu đã muốn làm cho Đền thờ được sạch khỏi chuyện bán buôn,
dù chuyện này cũng nhắm phục vụ cho việc tế tự.
Sau khi thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã chọn nơi thánh này
làm nơi Ngài tập trung dạy dỗ từng ngày cho đến lễ Vượt Qua (c. 47).
Ngài đã sống những ngày cuối đời như một vị Thầy dạy.
Lời giáo huấn của Đức Giêsu đã gây ra những phản ứng ngược nhau.
Dân chúng thì say sưa với những lời Ngài dạy (c. 48),
còn giới lãnh đạo tôn giáo ở Đền thờ lại tìm cách giết Ngài (c. 47).
Phải chăng họ khó chịu với việc Đức Giêsu được dân chúng tung hô,
hay bực bội về việc Ngài như có quyền đuổi những người buôn bán,
hay ghen tương với việc dân chúng mê mải nghe Ngài?
Đời người Kitô hữu gắn liền với nhiều đền thờ.
Có những đền thờ, nhà thờ bằng gỗ đá, được cung hiến.
Có những đền thờ thiêng liêng như Hội Thánh, như các tín hữu.
Chính bản thân tôi, thân xác tôi, tâm hồn tôi cũng là đền thờ.
Nơi nào có Chúa hiện diện, nơi ấy là đền thờ.
Cần bỏ dép ở ngoài trước khi bước vào ngôi đền thờ là trái tim tha nhân.
Cần năng thanh tẩy lại đền thờ tâm hồn mình bằng bí tích Hòa Giải.
Chúng ta thường thiếu sự giận dữ của Đức Giêsu
khi đứng trước những đền thờ là tâm hồn của những người trẻ bị ô uế.
Chúng ta dửng dưng khi Chúa bị trục xuất ra khỏi đền thờ lòng mình,
để thay vào đó là những thần tượng vô hồn, rẻ tiền và câm lặng.
Xin Chúa Giêsu giúp ta quét dọn cái rác rưởi nơi đền thờ của trí tuệ,
để lời Chúa làm chúng ta say mê lắng nghe và thực hành.
Cầu nguyện:
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.
Suy niệm 2: Thanh tẩy đền thờ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đối với dân Do thái đền thờ là trái tim của vương quốc, của đạo giáo và của từng người. Đền thờ đã được xây dựng thật huy hoàng tráng lệ. Xứng đáng với niềm tự hào của đất nước và của tấm lòng con dân. Đền thờ bị xúc phạm khi quân vô đạo vào chà đạp lên nơi thánh. Khi tượng thần chễm chệ trên bàn thờ. Khi các đồ dùng thờ phượng bị đem ra làm trò tiêu khiển. Đau đớn biết bao. Nhục nhã biết bao. Nên khi chiếm lại được đền thờ, Giu-đa Ma-ca-bê đã tổ chức thanh tẩy đến thờ. Và cung hiến thật long trọng để đền bù lại thời gian đau khổ nhục nhã tội lỗi đã qua. Ông trang hoàng đền thờ bằng những gì quý giá nhất. Cử hành những lễ nghi long trọng nhất. Kéo dài thời gian trong tám ngày. Tuy nhiên tất cả vẫn còn là bề ngoài. Bị ô uế từ bên ngoài. Thanh tẩy bên ngoài (năm lẻ).
Chúa Giê-su cũng làm một cuộc thanh tẩy đền thờ. Nhưng với một tâm tình khác. Vì đền thờ không bị ngoại bang làm ô uế. Mà bị chính các tư tế làm ô uế. Sự ô uế này khó thấy. Vì nó xuất phát từ tâm tình bên trong. Thói thực dụng. Và thói ham tiền. Và nhất là thói lợi dụng tôn giáo. Nhân danh Chúa để thủ lợi riêng. Đó là thói tục hoá trầm trọng nhất. Tôn thờ chính mình. Biến Thiên Chúa thành phương tiện. Tôn giáo thành dụng cụ. Nên Chúa Giê-su giận dữ như chưa bao giờ thấy. Và để sửa chữa, Chúa giảng dậy nhiều ngày trong đền thờ. Để ta biết tôn giáo đích thực là hiểu biết thánh ý Chúa. Thực hành Lời Chúa. Là tôn thờ Chúa trong tinh thần và chân lý. Chứ không phải những lễ vật hương khói nghi ngút. Để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Người ta phải từ bỏ ý riêng. Từ bỏ thú tính. Đó là điều Tin mừng Gio-an đề cập khi Chúa nói đền thờ là thân thể Người. Và Người trải qua cuộc thanh tẩy bằng cái chết theo ý Chúa Cha.
Cuộc thanh tẩy tiếp diễn trong suốt cuộc đời. Vì con người nhơ nhuốc luôn cần thanh tẩy. Để biết làm theo ý Chúa. Từ bỏ ý riêng. Vì thế Gio-an đã được ban quyển sách Lời Chúa. Ông phải nuốt vào. Phải lắng nghe. Phải nhập tâm. Phải thực hành. Thực hành ý Chúa đòi từ bỏ ý riêng. Vì thế Lời Chúa gây nên cay đắng trong lòng. Từ bỏ ý riêng là một cuộc chiến đấu. Nhưng khi đã hoàn toàn thuận theo ý Chúa. Lời Chúa trở thành ngọt ngào không gì so sánh được. Trở thành niềm vui. Trở thành hi vọng. Trở thành lẽ sống. Đó là điều cần phải loan truyền cho muôn dân được biết (năm chẵn).
Suy niệm 3: Nơi gặp gỡ Chúa
Ðền thờ Giêrusalem luôn được gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân Do thái. Ngay từ lúc được vua Salomon xây cất khoảng năm 950 (Trước Công Nguyên), đền thờ Giêrusalem đối với người Do thái luôn đóng vai trò quan trọng vừa chính trị, vừa tôn giáo, đây là nơi biểu trưng cho sự thống nhất quốc gia và là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel. Chính vì thế, sau khi tiến vào Giêrusalem, Chúa Giêsu vào Ðền Thờ và theo trình thuật Tin Mừng hôm nay, Ngài thực hiện việc thanh tẩy Ðền thờ, xua đuổi những người lạm dụng Ðền thờ, rồi bắt đầu giảng dạy ở đó.
Ðền thờ là nơi cầu nguyện, nhưng đã bị trần tục hóa, bị con người biến thành hang trộm cướp, nơi lường gạt nhau; đây là một sự xuống dốc tinh thần không thể nào chấp nhận được. Trong biến cố đuổi con buôn ra khỏi Ðền thờ, tác giả Luca xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa Giêsu hằng ngày đến giảng dạy tại Ðền thờ và có nhiều người chăm chú lắng nghe Ngài. Như thế, Luca nhấn mạnh đến dung mạo trung tâm của Chúa Giêsu tại Ðền thờ thay thế các luật sĩ và tư tế; giai đoạn mới đã đến, đó là giai đoạn mà theo trình thuật Gioan, Chúa Giêsu đã loan báo cho người phụ nữ Samari nơi bờ giếng Giacob: "Ðã đến lúc những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế". Sự thật đó được mạc khải nơi Chúa Giêsu, và thần khí đó là thần khí của Chúa Giêsu được ban xuống tràn đầy cho các môn đệ.
Qua cử chỉ thanh tầy Ðền thờ khỏi sự lạm dụng của những người Do thái thời đó và hằng ngày giảng dạy tại Ðền thờ, Chúa Giêsu nói lên cho mọi người biết giai đoạn mới đã bắt đầu: Ðền thờ xét như một tòa nhà, bàn thờ, những lễ vật có giá trị, nhưng tự chúng chưa đủ, cần phải có một yếu tố quan trọng khác nữa để hoàn thành việc thờ phượng Thiên Chúa hằng sống, đó là đức tin cá nhân của người đến Ðền thờ dâng lễ vật và đức tin của cộng đoàn cùng nhau tôn thờ Thiên Chúa. Nếu đến Ðền thờ mà không có đức tin và không sẵn lòng lắng nghe Lời Chúa, thì con người sẽ dễ lạm dụng và bị lôi kéo theo sự lạm dụng của người khác.
Những gì xẩy ra cho dân Do thái ngày xưa cũng có thể xẩy đến cho các môn đệ của Chúa trong hoàn cảnh hiện tại. Chúng ta có thể tự vấn: Ðền thờ có là nơi cầu nguyện, nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và củng cố đức tin, hay đã bị lôi cuốn vào cám dỗ của tinh thần thế tục?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Ðền thờ của Chúa
Chúng ta thường thấy Chúa Giêsu là người ôn hòa và tế nhị. Ngài luôn có thái độ khiêm tốn và kính trọng trong cách đối xử với mọi người. Nhưng trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Ngài đã không hành động như thường lệ nữa, Ngài đã nổi giận và xua đuổi những kẻ buôn bán trong đền thờ. Riêng trong Phúc Âm theo thánh Máccô và thánh Mátthêu còn diễn tả một cách chi tiết hơn hình ảnh Chúa Giêsu lật đổ quầy bàn đổi tiền và xô ngã ghế của những người buôn bán trong đền thờ và la mắng họ: "Ðã có lời chép rằng: nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp". Khi hành động như thế, Chúa Giêsu đã có ý sửa chữa những thói hư tật xấu của những kẻ gian manh lạm dụng người khác để làm giàu cho chính mình như những kẻ đổi chác tiền bạc trong đền thờ chẳng hạn. Họ làm giàu bằng cách bóc lột những người lương thiện phải trả tiền nhiều hơn so với giá phải chăng. Khi hành động bất lương như thế họ cũng đã xúc phạm luôn cả Thiên Chúa nữa.
Lời khiển trách của Chúa nhấn mạnh đến tính cách thiêng liêng của đền thờ vì đó chính là nhà Chúa, là nhà cầu nguyện, nơi Chúa thực sự hiện diện và lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa trách cứ vì lòng yêu mến con cái Người, vì muốn chúng ta sửa đổi để trở nên trong sạch, thánh thiện hơn trong sự thờ phượng Người. Chúa giảng dạy trong đền thờ mỗi ngày và dân chúng say mê lắng nghe lời Người. Họ lắng nghe Lời Chúa với trái tim rộng mở và đơn sơ, và tiếp nhận từ nơi Người tất cả sự ngọt ngào, bình an và ánh sáng đức tin đến độ không muốn rời bỏ Người. Lời Chúa mang đến cho người nghe sự bình an và hân hoan sâu xa trong tâm hồn chúng ta như bài thánh vịnh hôm nay:
"Tuân theo thánh ý Chúa,
Con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể
Con sẽ ngẫm suy huấn lệnh Chúa truyền
Ðưa mắt nhìn theo đường lối Chúa
Con vui thú với thánh chỉ Ngài
Chẳng quên lời Người phán dạy."
Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đền thờ đem lại cho nhà Chúa một sự sống động và sức mạnh thiêng liêng. Thiên Chúa đã ngự xuống giữa trần gian, Người không xa cách hay mơ hồ nhưng gần gũi với con người. Nhà Chúa không phải chỉ là một công trình kiến trúc vô tri vô giác, nhưng là nơi mà Thần Khí của Chúa ngự trị tuy vô hình nhưng có khả năng truyền đạt sức sống, tình yêu và hy vọng cho những tâm hồn khao khát tìm đến với Người. Ðền thờ của Chúa không phải chỉ ở Giêrusalem mà thôi nhưng còn là xã hội con người hay ở mỗi cá nhân, theo đó phải được giải thoát khỏi mọi sự xấu xa để có thể phụng thờ Chúa bằng một tâm hồn trong sạch và thánh thiện hơn. Chúa Giêsu uốn nắn và sửa đổi chúng ta trong tình yêu thương của Người để đưa chúng ta từ con đường sai trái đến chân lý và sự toàn thiện. Người răn dạy chúng ta vì mục đích tốt lành để chúng ta cùng thông phần vào sự thánh thiện của Người.
Lạy Chúa,
Xin giúp chúng con biết thờ lạy Người với tình yêu mến và lòng biết ơn về những hồng ân mà Người đã rộng lòng ban phát cho chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và thực hành thánh ý của Chúa bằng với lòng tin và sự vâng phục.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đuổi con buôn trong đền thờ
Đức Giêsu vào đền thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp.” (Lc. 19, 45-46)
Sắp đến hồi kết thúc cuộc đời, Đức Giêsu không thể tránh được cuộc đối đầu giữa lời mời gọi trở về với tình yêu Thiên Chúa, với lối giải thích khắt khe về lề luật. Đức Giêsu muốn làm sáng tỏ: giữa án phạt đời đời với sự sống đời đời.
Cách dùng bất chính
Đức Giêsu long trọng vào Giê-ru-sa-lem và đi thẳng vào đền thờ, chính là nhà Người, nhà Cha của Người. Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã tiên báo: “Bất thần, Ngài vào đền thờ của Ngài, Người Chủ mà họ tìm kiếm, thiên sứ của giao ước mà họ ước mong”. Và Người vào để thanh tẩy đền thờ, đuổi những kẻ buôn bán súc vật để dâng hy tế hay để đổi tiền La mã lấy tiền đền thờ: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp”.
Theo ngôn sứ I-sai-a, Chúa nói: Đền thờ của Ngài là nhà cầu nguyện cho muôn dân. Thiên Chúa không thay đổi quan niệm về cách dùng nơi Ngài ngự, người ta đến đền thờ để thờ phượng Ngài, ngợi khen và lắng nghe Ngài. Đó là nơi mọi người đàm đạo với Thiên Chúa, không chỉ dành riêng cho người Do thái.
Nhưng, theo Giê-rê-mi-a, đền thờ đã bị tục hóa bởi những kẻ phạm những điều ghê tởm và lại dám ra trước mặt Thiên Chúa tuyên dương rằng: “Chúng tôi được cứu thoát”. Cũng thế, những kẻ lợi dụng đền thờ để kiếm lợi, họ bỏ cách thờ phượng chân chính lên Thiên Chúa bằng tôn thờ tiền bạc.
Đức Giêsu phục hưng đền thờ làm nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Người đuổi con buôn để vào dạy dỗ lời Chúa trong đền thờ. Lời Người chính là Thiên Chúa tự mặc khải cho dân Người. Người không chỉ đến để dâng lễ hy sinh, mà còn để nuôi mình bằng lời ban sự sống đời đời.
Những kẻ lợi dụng buôn bán trong đền thờ không nhìn Người bằng con mắt thiện cảm vì Người đang cất mất mối lợi của họ. Họ hiểu sự thách thức của Đức Giêsu. Nhưng họ biết dân chúng dễ thay đổi. Nếu lúc này dân theo Đức Giêsu, lúc khác họ có thể làm cho dân phản bội lại Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao những ngày kế tiếp, họ làm cho dân nghi ngờ quyền thế của Đức Giêsu và giương bẫy bắt Người.
RC
Suy niệm 6: Thanh tẩy đền thờ cho xứng đáng
Xem thêm CN 25 TN C
Mỗi khi nhìn thấy hay nhắc tới nhà thờ, trong cảm thức, chúng ta luôn hiểu rằng: nhà thờ là biểu tượng của Giáo Hội. Nơi nhà thờ, chúng ta sẽ dễ dàng gặp Chúa và gặp nhau. Nhà thờ là điểm hội tụ mọi thành phần dân Chúa để tôn thờ Thiên Chúa và chia sẻ bác ái với nhau.
Tuy nhiên, dù nhà thờ vật chất có to lớn, tráng lệ thế nào đi chăng nữa, nếu nó không được xử dụng đúng mục đích là tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng tình huynh đệ giữa con người với nhau... thì nhà thờ ấy vô nghĩa!
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu đã nổi nóng và đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, vì họ đã xử dụng sai mục đích của nơi thờ phượng. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: "Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn trộm cắp".
Khi đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu đã thánh hiến đền thờ và trả lại cho nó ý nghĩa nguyên tuyền là nơi để thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải là chốn trục lợi, kinh doanh, trao đổi, buôn bán...
Từ hình ảnh cao quý của đền thờ vật chất, chúng ta khám phá ra ý nghĩa cao trọng của đền thờ tâm hồn. Mỗi người đều là đền thờ tâm hồn cho Thiên Chúa ngự. Đền thờ ấy, không được để cho tính tự kiêu, tự phụ, ích kỷ, bất nhân, dửng dưng, vô cảm ngự trị, vì chúng không thuộc về đặc tính của Thiên Chúa và không phải lựa chọn của chúng ta. Đền thờ tâm hồn chúng ta sẽ có giá trị và xứng đáng để được Chúa ngự vào khi chúng ta tin Chúa tuyệt đối, sống yêu thương, bác ái với người nghèo, cư xử thắm đượm tình huynh đệ với anh chị em... Nếu chúng ta đi ngược lại những điều trên, hẳn ta sẽ dễ rơi vào tình trạng tôn kính Thiên Chúa trên môi trên miệng, còn tâm hồn thì xa Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ngày chúng con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng con chính là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Tuy nhiên, nhiều khi chúng con đã biến đền thờ tâm hồn chúng con trở nên nhơ bẩn, ô uế do những ích kỷ, hình thức bên ngoài. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết quý trọng và yêu mến đền thờ tâm hồn, để xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Cần thanh tẩy tâm hồn-đền thờ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tâm hồn là Đền Thờ Thiên Chúa ngự, nên phải giữ gìn thật trong sáng, không bị hoen ố bởi dục vọng xấu xa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa vào đền thờ Giêrusalem và chứng kiến cảnh hỗn độn buôn bán ồn ào. Chúa đã không để nhà Chúa biến thành sào huyệt của bọn cướp, là các tay buôn và giới lãnh đạo đương thời. Chúa quả quyết: “Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện”, và Chúa đuổi tất cả những kẻ buôn bán khỏi đền thờ. Việc Chúa làm cho con hiểu rằng những gì dành cho Thiên Chúa phải xứng đáng với Thiên Chúa.
Hôm nay, Chúa đến với tâm hồn con như một ngôi đền thánh trọn vẹn đầy vẻ tôn nghiêm và thánh thiện. Con hiểu đó là điều Chúa mong muốn và chờ đợi. Nhưng lạy Chúa, con đã làm được gì trước lòng mong đợi của Chúa? Xin ban cho con lòng yêu mến tôn thờ để con dành phần tốt nhất trong cõi lòng dâng lên Chúa. Chúa biết con hơn chính bản thân con, nhưng xin Chúa nhân từ thứ tha khi con muốn mà không làm được. Xin giúp con sửa lại cõi lòng khi con cầu nguyện tôn vinh Chúa. Xin đừng để con tính toán cầu lợi và mặc cả với Chúa trong những lời cầu xin. Và xin hâm nóng tấm linh hồn bé bỏng những khi con nguội lạnh, chán chường. Ước mong tâm hồn con được sống động và dạt dào tình yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, mỗi ngày giờ, từng phút giây đang có biết bao tâm hồn vươn cao hướng về Chúa. Con hợp lời xin chúc tụng Chúa. Nhưng cũng có bao kẻ thờ ơ, lãnh đạm hoặc bôi bác, lợi dụng với lời cầu xin. Xin Chúa thanh luyện để chúng con giữ được đền thánh phúc vinh trong tâm hồn. Con xin dâng tâm hồn con trong tay Chúa, xin thánh hoá con. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp”.
Suy niệm 8: Thanh tẩy đền thờ
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong Cựu ước, đền thờ được dành riêng đặc biệt cho Thiên Chúa. Thiên Chúa thường áp dụng những hình phạt rất nặng đối với những ai phạm đến đền thờ. Hai đứa con trai của thầy cả Hêli, vì không chịu sống nghiêm trang xứng đáng trong đền thờ, đã bị Chúa phạt nặng.
Trong Tân ước, ngày kia vào đền thờ, Chúa Giêsu nổi giận vì thấy một số người tổ chức buôn bán và đổi tiền. Ngài thịnh nộ, đuổi họ ra hết, và tuyên bố nhà Chúa là nhà cầu nguyện, chứ không phải là hang trộm cướp.
Suy niệm
Đức Giêsu nhìn thấy đền thờ, nhà Cha, nơi cầu nguyện trở nên địa điểm phường của buôn bán, Ngài bừng bừng nổi giận. Sự kiện thanh tẩy đền thờ, được cả bốn Tin Mừng ghi nhận (x. Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48; Ga 2,13-25).
Dân chúng buôn bán, lạm dụng đền thờ của Thiên Chúa nên đã làm ô uế đền thờ như ngôn sứ Giêrêmia đã nhìn thấy trước và tư vấn: “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ và thực hiện lời loan báo của ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21), khi “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Đền Thờ, nhà Chúa Cha phải được thanh tẩy xứng đáng để trả lại đúng vẻ nguyên tuyền của đền thờ. Ngài đưa về sự thánh thiện đạo thật, đền thờ thật như Chúa phán qua ngôn sứ Isaia: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7).
Thật thế, như Chúa Giêsu dạy đường đi của đạo là yêu thương, đền thờ là nơi đón tiếp anh chị em tín hữu, không phân biệt màu da chủng tộc.
Xin Chúa tiếp tục thanh tẩy các ngôi thánh đường - nhà Chúa, nhà chung, thành nhà yêu thương đùm bọc lẫn nhau và xứng đáng để dâng lễ tế: Đền thờ Thiên Chúa sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền bằng tình yêu thương như Chúa đã phán qua lời ngôn sứ Hôsê: “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ” (Hs 6,6).
Ý lực sống
“Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được? Vì chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta” (2Cr 6,16).
Suy niệm 9: Đức Giêsu thanh tẩy Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu được sai đến để chu toàn sứ mạng: phụng sự Thiên Chúa Cha và dạy cho người ta cũng tôn thờ Thiên Chúa cách xứng đáng. Việc đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ cho thấy Chúa muốn người ta phải thay đổi thái độ thờ phượng và phải tôn trọng Đền thờ. Hành động của Đức Giêsu gồm có hai khía cạnh:
a) Loại khỏi Đền thờ những gì đi lệch khỏi mục đích của nó. Việc buôn bán trong Đền thờ đã biến “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” trở thành “sào huyệt của bọn cướp”, cho nên Đức Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán trong đó.
b) Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó “Hằng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ”.
Đền thờ Giêrusalem luôn được gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân Do thái. Ngay lúc được vua Salômôn xây cất khoảng năm 950 (trước Công nguyên), đền thờ Giêrusalem đối với người Do thái luôn đóng vai trò quan trọng vừa chính trị, vừa tôn giáo, đây là nơi biểu trưng cho sự thống nhất quốc gia và là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel. Chính vì thế, sau khi tiến vào Giêrusalem, Đức Giêsu vào Đền thờ, xua đuổi những người lạm dụng Đền thờ, rồi bắt đầu giảng dạy ở đó.
Hôm nay Tin mừng cho thấy: Đức Giêsu nổi nóng và đánh đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ, vì họ đã sử dụng sai mục đích của nơi thờ phượng. Vì thế. Đức Giêsu nói: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn trộm cắp”. Khi đánh đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thánh hiến Đền thờ và trả lại cho nó ý nghĩa nguyên tuyền là nơi thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải là chốn trục lợi, kinh doanh, trao đổi, buôn bán...
Lời khiển trách của Đức Giêsu nhấn mạnh đến tính cách thiêng liêng của Đền thờ vì đó chính là nhà Chúa, là nhà cầu nguyện nơi Chúa thực sự hiện diện và lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa trách cứ vì lòng yêu mến con cái Người, vì muốn chúng ta sửa đổi để trở nên trong sạch, thánh thiện hơn trong sự thờ phượng Người. Chúa giảng dạy trong Đền thờ mỗi ngày và dân chúng say mê lắng nghe lời Người với trái tim rộng mở và đơn sơ, và tiếp nhận từ nơi Người tất cả sự ngọt ngào, bình an và ánh sáng đức tin đến độ không muốn rời bỏ Người (Mỗi ngày một tin vui).
Hitler được kể tên trong số những nhà hùng biện hàng đầu của nhân loại, lời nói của ông có một uy lực huyền bí có sức thu hút quần chúng tin theo đường lối của ông; thế nhưng ông đã dùng năng lực đó để xô đẩy cả thế giới vào một cuộc chiến tranh huỷ diệt tàn khốc chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Thật trái ngược hẳn với Đức Giêsu; Ngài giảng dạy như một Đấng có uy quyền, nhưng Ngài không rao giảng sự thù hận giết chóc; sứ điệp của Ngài là tình thương. Lời Ngài tiễu trừ ma quỷ, tha thứ tội lỗi, khơi dậy hy vọng cho người thất vọng. Lời Ngài làm cho “người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin mừng”(Lc 7,22). Lời Ngài thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc, đánh động tâm hồn, thúc bách người ta hoán cải. Vì thế “toàn dân say mê nghe lời Người” (5 phút Lời Chúa).
Đền thờ là nơi Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau cách đặc biệt qua các cử hành phụng vụ, và là không gian thích hợp nhất cho việc cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa. Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây lại”. Nghĩa là Ngài muốn ám chỉ về thân xác của Ngài bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ phục sinh. Và cũng từ những chứng từ này, thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrintô đã nói: “Nào anh em chẳng biết rằng: anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền thờ ấy chính là anh em”. Như vậy, chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự, và hằng ngày khi làm dấu Thánh giá, chúng ta vẫn tuyên xưng điều đó (Hiền Lâm).
Truyện: Nhà thờ để làm gì?
Hay tin một linh mục mới vừa được đổi đến để thay cho cha xứ cũ về hưu, lại được biết linh mục mới này giảng rất hay, người ta đến nhà thờ dự lễ rất đông. Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trước giáo dân trong xứ, vị linh mục mới cố tình ra mắt họ với bộ mặt rất xấu xí. Bởi đó, khi vừa thấy mặt cha, một số người đã thất vọng lui ra cửa. Vị Linh mục bình thản giơ tay làm dấu bảo im lặng, rồi tuyên bố: “Hôm nay ai đến đây để nhìn mặt Cha xứ mới và để nghe cha xứ mới giảng thì có thể về nhà; còn ai đến đây để thờ phượng Chúa thì hãy ở lại” (Chritian Beacon).
Suy niệm 10: Chúa thanh tẩy Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa thanh tẩy Đền thờ.
Đền thờ có một chỗ đứng đặc biệt trong lòng mọi người. Truyền thuyết kể lại rằng:
Để tìm một khu đất xây đền thờ dâng kính Thiên Chúa, vua Salômôn đã phải suy nghĩ về vấn đề này rất lâu nhưng tìm không ra. Thế rồi vào một đêm kia vua bèn mặc quần áo như thường dân, không đem theo quân hầu, đi vi hành trong thành phố Jêrusalem, sau đó ra ngoại thành, đến chỗ núi Môria. Gọi là núi, nhưng thực ra không cao gì lắm, phần lớn núi là đất. Sườn núi hầu hết trồng lúa, và lúc này nhằm mùa gặt. Lúa đã gặt xong, còn chất ở ngoài ruộng, chờ ngày đem về nhà.
Salômôn ngồi dựa lưng vào một cây ôlive, nhắm mắt lẩm nhẩm ôn lại những địa điểm xinh đẹp trong xứ. Đồi này, núi nọ, thung lũng kia, so sánh coi nơi nào đẹp hơn nơi nào.
Đang suy nghĩ như thế thì Salômôn chợt nghe có tiếng chân bước, mở mắt ra thì thấy một người đi ngang chỗ mình ngồi. Vì trời tối, người này không thấy Salômôn. Tay y ôm một bó lúa. Salômôn thầm nghĩ: “A! Thằng này đi ăn trộm” và toan ra bắt, nhưng nghĩ lại, để chờ coi cho biết tên trộm làm những gì. Tên trộm này nhanh nhẹn lắm, đem bó lúa từ ruộng này qua đặt nơi ruộng kế bên, tất cả là 50 bó. Xong rồi nhìn quanh quẩn thấy không có ai, xoa tay và đi khỏi. Salômôn thầm nghĩ: “Sáng mai chủ ruộng này hẳn sẽ ngạc nhiên không hiểu vì sao mất đi 50 bó lúa”.
Salômôn còn đang suy nghĩ ngày mai sẽ phạt tên trộm này cách nào, thì lại nghe tiếng chân bước. Người mới tới đi vòng quanh hai thửa ruộng, ngó quanh thấy không có ai, liền mang một bó lúa từ ruộng này qua ruộng kia, y làm đúng như tên trộm trước đây, tuy không nhanh nhẹn bằng. Và y làm ngược lại, tức là y lấy lại 50 bó, sau đó y lại còn lấy thêm 50 bó nữa, tổng số là 100 bó. Xong rồi y cũng rút êm.
Salômôn nghĩ thầm: “Hai tên ăn trộm này có ruộng ở kề bên nhau và đều mưu toan ăn trộm của nhau. Thoạt đầu tưởng là có một anh ăn trộm, dè đâu kẻ trộm bị người ta ăn trộm lại”.
Sáng hôm sau, Salômôn cho đòi hai chủ ruộng tới thẩm vấn riêng từng người, bắt đầu từ người trẻ tuổi hơn:
- Tại sao anh dám trộm lúa của ruộng bên cạnh?
Người trẻ tuổi nghe hỏi, nhìn Salômôn cách sững sờ.
- Tâu bệ hạ! Thật tình tôi không có trộm của ai khác, mà là trộm của tôi. Bó lúa tôi lấy đi là lúa của ruộng tôi, tôi đem đặt nơi ruộng của anh tôi. Tôi không muốn ai biết chuyện, nhưng vua đã thấy thì tôi nói thiệt. Cha tôi chết đi, chia ruộng thành hai mảnh đều nhau cho tôi và anh tôi. Tôi thì còn độc thân, mà anh tôi thì có vợ và 3 con, hẳn là cần lúa nhiều hơn tôi. Tôi đem cho thì anh tôi không chịu nhận, thành ra tôi phải cho lén. Tôi chỉ có một mình, in ít đủ rồi.
Salômôn lại hỏi riêng người lớn tuổi. Người này đáp:
- Tâu bệ hạ! Có Thượng Đế biết là tôi không ăn trộm của ai. Và sự thật là trái lại. Cha tôi chết đi, chia đều ruộng cho tôi và em tôi. Khi em tôi trồng lúa, nó phải tốn tiền nhiều lắm, vì nó còn độc thân, phải mướn người làm cỏ, phải mướn thợ gặt, còn tôi đã có vợ con tiếp tay nên chẳng tốn gì. Tôi muốn giúp nó mà nó không chịu, thành ra phải giúp lén, tội nghiệp nó không đủ!
Salômôn kêu người trẻ tuổi tới, ôm hai người trong tay và cảm động nói rằng:
- Ta đã gặp nhiều chuyện ly kỳ trong đời, nhưng chưa hề thấy ai lo lắng cho nhau như hai anh em này. Bấy lâu nay, hai ngươi đã thầm kín lo lắng cho nhau, thật là đáng khen. Ta xin lỗi vì đã nghi ngờ hai ngươi là ăn trộm, và bây giờ ta yêu cầu hai ngươi bán ruộng cho ta, để ta dùng làm nơi dựng Đền thờ cho Thượng Đế, vì hai thửa ruộng này chan chứa tình thương, rất xứng đáng để xây dựng Đền thờ cho Thượng Đế, không nơi nào xứng đáng hơn!
Salômôn đền bù lại cho hai người được ruộng rộng hơn, tốt hơn, và loan báo cho khắp xứ Do Thái biết là đã chọn được địa điểm dựng Đền thờ.
Đền thờ quí giá thánh thiêng như vậy nên phải trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó:
Đây là lời cầu nguyện của vua Salomon sau khi Đền thờ được xây dựng xong: “Lạy Chúa, Chúa đã phán rằng: Chúa sẽ ngự trong chốn chan chứa tình thương, nay con đã kiến thiết Đền thờ kính dâng Chúa, ngõ hầu Chúa ngự nơi đây đời đời. Kìa trời và các tầng trời còn chẳng đáng tiếp rước Chúa, huống chi ngôi Đền thờ con vừa xây cất. Dầu vậy, lạy Chúa là Chúa trời con, xin đoái thương đến lời tôi tớ khẩn cầu, hãy nhận lời tôi tớ Chúa van lơn trước tôn nhan. Dám mong con mắt Chúa đêm ngày ngó đến Đền thờ này, vì nơi đây, theo Lời Chúa phán hứa, người ta phải tới mà cầu khấn danh Chúa” (II Sử ký 7,1).
Suy niệm 11: Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Ý nghĩa của hành động Chúa Giêsu là thanh tẩy Đền thờ, gồm 2 khía cạnh:
1. Loại khỏi Đền thờ những gì đi lệch khỏi mục đích của nó. Việc buôn bán trong Đền thờ đã biến “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” trở thành “sào huyệt của bọn cướp”, cho nên Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán.
2. Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó: “Hàng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ”.
B.... nẩy mầm.
1. Mua bán những lễ vật để đem vào dâng trong đền thờ không phải là thờ phượng đích thực. Nghĩ rằng dâng lễ vật tức là thờ phượng Chúa thì càng sai hơn nữa. Bởi đó Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người mua bán lễ vật. Thờ phượng đích thực là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Bởi đó sau khi đánh đuổi những người mua bán, Chúa Giêsu “hằng ngày giảng dạy trong Đền thờ” và “toàn dân say mê nghe Ngài”.
2. Việc phượng tự của chúng ta dễ bị biến chất, mất đi ý nghĩa cao đẹp ban đầu. Xin Chúa Giêsu giúp ta biết thường xuyên rà lại nếp sống thờ phượng của ta. - Chúa Giêsu đến canh tân việc phượng tự: từ nay không còn là chiên bò, chim câu… mà chính thân xác Ngài là lễ vật tuyệt hảo dâng lên Thiên Chúa Cha. - Chúa Giêsu là đền thờ mới sau khi “bị phá đổ trong 3 ngày”. Từ nay muôn dân quy tụ nơi đền thờ này để dâng lễ vật.
3. Ta nhớ lại lời thánh Phaolô: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.” (Rm 12,1). - Cả cuộc đời tôi là của lễ. Lạy Chúa, xin thương nhận ‘của lễ hiến tế đời con’.
4. Hay tin một Linh mục mới vừa được đổi đến để thay cho Cha xứ cũ về hưu, lại được biết Linh mục mới này giảng rất hay, người ta đến nhà thờ dự lễ rất đông. Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trước giáo dân trong xứ, vị Linh mục mới cố tình ra mắt họ với một bộ mặt rất xấu xí. Bởi đó, khi vừa thấy mặt cha, một số người đã thất vọng lui ra cửa. Vị Linh mục bình thản giơ tay làm dấu bảo im lặng, rồi tuyên bố: “Hôm nay ai đến đây để nhìn mặt Cha xứ mới và để nghe cha xứ mới giảng thì có thể về nhà; còn ai đến đây để thờ phượng Chúa thì hãy ở lại.” (Christian Beacon).
5. “Chúa Giêsu nói với họ: ‘Đã có lời chép rằng Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46)
Có những lúc con tự hỏi: Chúa sẽ như thế nào khi Ngài đến nơi cung lòng con ? Và đường như con nghe Lời Ngài khiển trách, vì đã có những lần con đến gặp Ngài nơi bàn tiệc thánh nhưng tâm trí con lại để ở đâu. Con mãi lo suy tính: chiều nay con sẽ đi shop mua giày, sáng mai con dậy sớm để giải một bài toán. Có khi cả buổi lễ con toàn nhớ đến “người ấy”. Hay hết bài giảng của Linh mục chủ tế là con lập được dàn ý của bài luận văn…
Giêsu ơi, xin cho con mỗi lần đến với Ngài, tâm hồn thanh thản, và gặp Chúa trong tình thân. (Hosanna)
18/11 Chúa Giêsu thương tiếc cho Giêrusalem
- Viết bởi Lc 19, 41-44
Chúa Giêsu thương tiếc cho Giêrusalem.
Thứ Năm tuần 33 thường niên.
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Lời Chúa: Lc 19, 41-44
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đức Giêsu khóc
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Người ta có thể khóc vì nhiều lý do.
Khóc vì buồn thương, khóc vì tình yêu của mình bị từ chối.
Khóc vì tiếc nuối một điều tốt đẹp bị hủy hoại.
Một người đàn ông khóc là chuyện không thường xảy ra.
Chính vì thế chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.
Con Thiên Chúa nhập thể biết đến nỗi đau của phận người.
Giọt nước mắt của Ngài cho thấy Ngài thật sự có một trái tim.
Đức Giêsu khóc khi đến gần và trông thấy thành phố Giêrusalem.
Trong thành Giêrusalem có ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).
Đền thờ ấy là Đền thờ thứ hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.
Còn Đền thờ thứ nhất do Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.
Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và nới rộng Đền thờ thứ hai này.
Công việc sửa sang kéo dài từ năm 20 trước công nguyên,
đến năm 64 sau công nguyên mới hoàn tất.
Vào thời gian này, người Do Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.
Vào lễ Vượt qua năm 70, thành phố bị vây hãm (c. 43).
Đền thờ bị tiêu hủy sau tám mươi tư năm tu sửa.
Đây là một bi kịch lớn mà Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đau đớn.
Bài Tin Mừng hôm nay
nằm ngay sau biến cố Đức Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).
Ngài biết đây là lần cuối, nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,
Đức Giêsu lại rơi vào nỗi đau buồn, xót xa.
Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải chết trong thành này (Lc 13, 33).
Như mọi người Do Thái khác, Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.
Thành phố Giêrusalem là thủ đô của đất nước.
Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài đến đó dự các lễ lớn đôi ba lần.
Đây là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).
Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.
“Không để hòn đá nào trên hòn đá nào” (c. 44).
Thiên Chúa là Đấng đi thăm Dân Israel (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).
Ngài thăm Dân Ngài qua Người Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).
Ngài đến thăm để đem ơn cứu độ, đem lại bình an (c. 42).
Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục đi thăm nhân loại.
Ngài vẫn sai Con của Ngài đến với chúng ta để ban ơn bình an.
Nhưng con người hôm nay có thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.
“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).
Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).
Thế giới Tây phương hôm nay đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.
Họ nhân danh tự do tôn giáo để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Nhưng không có Trời thì ai ở được với ai.
Nhân loại bị kéo vào những cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.
Hãy để Thiên Chúa đi vào đời bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.
Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững vàng.
Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ có là những bức tường than khóc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Suy niệm 2: Nhờ Người, với Người và trong Người
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Giê-ru-sa-lem là thành phố hoà bình. Nhưng không thể tự mình kiến tạo hoà bình. Thiên Chúa mới là người ban hoà bình. Chúa Giê-su là ông Vua Thái Bình. Nhưng đáng tiếc là thành phố hoà bình không biết đón tiếp Vua của mình. Không “nhận ra những gì đem lại bình an”. “Không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm”. Cơ hội chỉ đến một lần. Nên Chúa rơi lệ khóc thương cho số phận của thành. Giê-ru-sa-lem là trái tim của dân tộc Ít-ra-en. Là niềm tự hào dân tộc. Ai cũng hân hoan khi được đến Giê-ru-sa-lem. “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi. Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa”. Đền thờ là một kỳ công tuyệt tác hoàn mỹ. “Giê-ru-sa-lem được xây cất như một thành trì. Mọi phần ăn khớp với nhau” (Tv 121). Chúa Giê-su đã nhiều lần hớn hở vui mừng vì được lên Giê-ru-sa-lem dự lễ. Như mọi người Do thái, Người cũng tự hào và yêu mến thành đô. Nhưng giờ đây Người phải rơi lệ. Vì thấy số phận tiêu điều của nó: “sẽ không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào”(Lc 19,44).
Lời tiên báo đó đã ứng nghiệm vào năm 70. Quân binh La mã đến phá huỷ đền thờ tan tành. Đa số người Do thái ngả theo phe đế quốc. Thờ ngẫu tượng. Chỉ một số ít trung thành với luật Chúa. Đó là gia đình Mát-tít-gia. Chiến trận liên miên. Kẻ chết, người bị thương. Và sau cùng, tất cả rơi vào tay đế quốc. Giê-ru-sa-lem đánh mất hoà bình từ hơn 2 ngàn năm nay. Hiện tại đó vẫn là một miền đất có hai dân tộc và ba tôn giáo. Chiến tranh không bao giờ ngưng (năm lẻ).
Đó là tất cả những bí ẩn của Giê-ru-sa-lem và của thế giới. Tất cả đã được ghi vào quyển sách. Nhưng quyển sách lại bị đóng bảy ấn niêm phong. Chẳng ai có thể đọc. Chẳng ai có thể hiểu. Chỉ một người có thể mở ấn niêm phong. Có thể đọc và có thể hiểu. Đó là người giải mã bí mật của thế giới. Là con chiên đã tự nguyện bị giết chết, bị sát tế. Nên đã trở thành con chiên có bảy sừng và bảy mắt. Con Chiên hiển vinh sau khi đã trải qua cái chết. Có thể đem lại hoà bình. Vì Người qui tụ không phải chỉ dân Ít-ra-en, nhưng là tất cả mọi dân trên thế giới. Bấy giờ mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa. Và sống trong cảnh thái bình. “Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộ mọi nước, mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này” (năm chẵn).
Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến. Xin ban hoà bình cho chúng con.
Suy niệm 3: Giờ Chúa viếng thăm
Nhìn trong văn mạch, biến cố được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay, đi liền sau biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Nhưng không như bao lần khác, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem lần cuối cùng này để thực hiện cuộc Vượt Qua đem lại ơn cứu rỗi, hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Ðây là giờ Thiên Chúa viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi, tuy nhiên, những vị lãnh đạo Do thái tại Giêrusalem, như chúng ta sẽ thấy trong cuộc khổ nạn của Chúa, họ không những từ chối, mà còn xách động dân chúng chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào Thập giá và tha Baraba cho họ. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa khi Ngài cỡi trên lưng lừa tiến vào thành thánh, thì sự nồng nhiệt đó cũng chỉ là thoáng qua, và Chúa Giêsu nhận thấy ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến bị con người khước từ hơn là đón nhận.
Ðiều xẩy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xẩy đến cho mỗi người ở mọi thời: mỗi người đều có những giây phút hồng phúc được Chúa viếng thăm đem đến ơn lành. Theo quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa viếng thăm là giây phút Ngài thực hiện lòng nhân từ. Thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai bài thánh ca ở đầu sách Tin Mừng của Ngài, đó là bài ca của ông Dacaria và của Ðức Maria. Trong bài ca chúc tụng của mình, Dacaria đã nêu bật lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa: chính vì lòng nhân nghĩa mà "Thái dương từ cao xanh khấng viếng thăm ta". Còn về phần mình, ý thức giờ Thiên Chúa viếng thăm đang xẩy ra không những cho bản thân, mà còn cho cả dân tộc và toàn thể nhân loại, Ðức Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của việc Thiên Chúa viếng thăm: "Lòng nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Người". Chỉ có một lý do cho cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, đó là thể hiện lòng nhân nghĩa đối với những người được Ngài viếng thăm. Do đó, nếu không đón nhận giờ Chúa viếng thăm, con người không những gây thiệt hại cho chính mình, mà còn cho cả người khác nữa.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh, đồng thời biết mở rộng tâm hồn đón nhận những giây phút ân sủng của Chúa để được sống an vui hạnh phúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Khóc thương thành Giêrusalem
Ðoạn Phúc Âm được Giáo Hội đề nghị cho chúng ta Suy niệm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem vì đã không biết nhìn nhận giờ Thiên Chúa đến viếng thăm. Nhìn chung trong toàn bộ văn mạch thì biến cố được nhắc đến trong Phúc Âm đi liền sau biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Và đây không phải là lần vào thành thông thường như bao lần khác, mà là lần vào thành long trọng, lần cuối cùng, để rồi sau đó Chúa thực hiện công cuộc cứu rỗi, mục đích cuối cùng của nhập thể, của cuộc đời của Chúa.
Chúa vào thành Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua mang lại ơn cứu rỗi, sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa. Ðây là giờ Thiên Chúa đến viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi, sự bình an. Tuy nhiên, những người lãnh đạo dân Israel tại Giêrusalem như chúng ta thấy trong cuộc thương khó của Chúa, không những họ từ chối mà còn thành công trong việc xách động toàn dân chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào thập giá và tha cho Baraba. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa trong ngày vào thành Giêrusalem trên lưng lừa, nhưng sự nồng nhiệt này chỉ thoáng qua và Chúa Giêsu nhìn thấy sự khước từ ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến hơn là sự chấp nhận.
Ðiều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xảy ra cho mọi người thuộc mọi thời đại. Mỗi người chúng ta đền có giây phút Chúa đến viếng thăm, đó là giây phút hồng phúc mang đến ơn lành, ơn cứu rỗi và sự bình an. "Ước chi hôm nay, ngươi hiểu biết sứ điệp mang hòa bình lại cho ngươi". Nhưng Chúa không bắt buộc tự do của mỗi người, sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người một lần vĩnh viễn, không bao giờ muốn lấy lại. Dù biết rằng con người vẫn có thể lạm dụng sự tự do đó để chống lại Ngài.
Trong quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa đến thăm là giây phút Thiên Chúa đến thực hiện lòng nhân từ, trao ban sự bình an cho tâm hồn. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai bài ca quan trọng vào khởi đầu sách Phúc Âm, đó là bài ca về ông Dacaria và của Mẹ Maria. Ý thức giờ Thiên Chúa đến viếng thăm đang xảy ra không những cho chính bản thân mình, mà còn cho cả toàn dân tộc, cho cả toàn nhân loại, Mẹ Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của cuộc viếng thăm của Thiên Chúa với những lời như sau: "Lòng thương xót Chúa lan tràn từ đời này tới đời kia, đối với những ai kính sợ Chúa. Chúa đã cứu Israel, tôi tớ Chúa và nhớ lại lòng thương xót của Người".
Chỉ có lý do duy nhất cho cuộc viếng thăm của Chúa, đó là để thực hiện lòng nhân từ của Ngài cho người được viếng thăm mà thôi. Nếu không nhận biết giờ viếng thăm của Chúa, con người chỉ gặp phải những thiệt thòi cho chính mình, như đã xảy ra cho thành Giêrusalem ngày xưa. Chúng ta không nên nhìn biến cố Chúa khóc thương và loan báo ngày sụp đổ của thành Giêrusalem trong viễn tượng của sự trả thù. Thiên Chúa nhân từ không bao giờ hành động để trả thù sự chống đối khước từ của con người. Những thiệt thòi mà kẻ từ chối Chúa gặp phải là hậu quả tai hại của tội lỗi, của những hành động xấu xa do con người thực hiện vì chối bỏ Thiên Chúa mà thôi. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong sự dữ, nhưng Ngài luôn luôn làm những gì có thể để cảnh tỉnh, để lưu ý con người đừng đi vào con đường nguy hiểm, gây thiệt hại cho chính mình.
Ước chi hôm nay chúng ta lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh và đừng cứng lòng từ chối giây phút ân sủng nơi Thiên Chúa an bài cho mỗi người chúng ta được gặp lại.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn luôn đối xử nhân từ đại lượng với chúng con, mặc dù chúng con nhiều lần làm ngơ, không muốn nhìn thấy những việc Chúa làm cho chúng con, không muốn lắng nghe những gì Chúa chỉ dạy để được sống an vui, hạnh phúc. Xin thương giúp chúng con trở về sống trong tình thương Chúa luôn mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Thương tiếc Giêrusalem
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình anh cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không trông thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tứ bề.” (Lc. 19, 41-42)
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu tiến về Giêrusalem vừa đi vừa hát những Thánh vịnh lên đền thánh. Họ dừng lại với Người chiêm ngưỡng thành thánh. Họ xúc động khi hát Thánh vịnh 122: “Hãy xin bình an cho Giêrusalem; ước gì bình an trong thành lũy ngươi”. Còn Đức Giêsu lại khóc thương thành.
Những âm mưu
Từ nhiều thế kỷ, các ngôn sứ đã loan báo cho dân thành Giê-ru-sa-lem biết thành sẽ có ngày bị phá hủy, nếu họ không sám hối trở về. “Khốn cho quân loạn tặc, cho đứa ô nhơ, cho thành áp bức! Nó không nghe tiếng gọi. Nó không lĩnh lời chỉ giáo. Nó không cậy trông Gia-vê. Nó không lại gần Thiên Chúa của nó” (Sôphônia 3, 1-2). Quân Can-đê đã phá hủy thành và bắt dân đi lưu đầy, thế mà họ vẫn cứng đầu cứng cổ, không lay chuyển, Đức Giêsu đến kêu gọi họ lần cuối cùng trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Đức Giêsu biết dân thành Giêrusalem đã quyết định bắt Người chịu nạn chịu chết. Tôn trọng tự do của họ, Người bất lực cứu thoát thành thánh khỏi bị tàn phá. Họ thật cứng đầu cố chấp. Với tình yêu tha thiết với họ, Đức Giêsu đã khóc, Người khóc vì yêu thương đoàn chiên này cố chấp lầm lạc. Trong khi đoàn hành hương ca hát chúc mừng thành được bình an, thì Đức Giêsu khóc than lòng kiêu ngạo và thỏa mãn của họ đã đóng kín con mắt những thủ lãnh dân chúng: Họ không bao giờ còn được thấy hòa bình nữa!
Lời tiên tri về phá hủy thành Giêrusalem dựa trên những chi tiết bao vây và công phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70. Chắc hẳn lời tiên báo của Đức Giêsu cũng tương tựa như thế về thành bị phá hủy, “vì ngươi đã không nhận biết thời giờ Thiên Chúa viếng thăm”. Chính Thiên Chúa đến viếng thăm Giê-ru-sa-lem qua con người của Đức Giêsu, và Người đã ban cho họ ơn giải thoát, ơn bình an và thăng tiến họ. Nhưng họ đã từ chối những ơn ban nguồn phúc cứu độ ấy. Lại còn giết người con của vua trời đất. Họ sẽ gặt lấy hoa trái của lòng bất trung của họ. Cuộc phán xét trong cơn lôi đình của Thiên Chúa không thể hãm lại được nữa. Đức Giêsu khóc vì Thiên Chúa không muốn người ta phải chết. Ước chi họ ăn năn sám hối và được sống.
RC
Suy niệm 6: Tại sao Chúa khóc thương thành Giêrusalem?
Xem CN 24 TN C - Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm C - thứ Ba tuần 2 MV và thứ Ba tuần 19 TN
Trong cuộc sống, hẳn chúng ta cũng chứng kiến nhiều người khóc: có những người khóc vì đau khổ, bệnh tật, bất hạnh, thất vọng và bị bỏ rơi... Nhưng cũng có những người khóc vì sung sướng!
Hôm nay, Tin Mừng tường thuật việc Đức Giêsu khóc thương thành Giêrusalem. Tại sao vậy? Thưa vì Ngài nhìn thấy viễn cảnh tương lai qua sự đổ nát do đế quốc Rôma gây nên vào năm 70 Công Nguyên.
Nhưng có lẽ, điều làm cho Đức Giêsu đau lòng hơn cả chính là dân thành này đã khước từ chính Ngài là nguồn ơn cứu độ. Không tuân giữ những lời dạy của Ngài, không hề để ý đến những hành vi tội lỗi của mình để sám hối ăn năn... Ngược lại, họ luôn tự hào mình là dân tộc ưu tuyển, nên đương nhiên được hưởng những quyền đặc lợi cho riêng mình. Chính sự tự hào này đã giam hãm con người và thái độ của họ trong sự ích kỷ, nên không thể đón nhận được ơn lành của Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mau mắn đón nhận lời giáo huấn của Chúa và ra sức thi hành để được cứu độ. Cần loại bỏ sự tự kiêu, ích kỷ và thay vào đó là thái độ khiêm nhường để nhận ra vai trò, trách nhiệm của mình. Có thế, chúng ta mới mong được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn yêu mến luật Chúa và cùng nhau chung tay xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính đời sống chứng tá của mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Tỉnh thức để nhận ra “giờ được Chúa viếng thăm”
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu tiên báo về về thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá. Đó là cuộc phán xét lịch sử nhưng cũng là báo trước cuộc phán xét cánh chung. Chúng ta hãy tỉnh thức để biết nhận ra “giờ được Thiên Chúa viếng thăm” hầu được bình an nơi Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong khi nguời Do-thái rất tự hào về sự nguy nga, tráng lệ, kiêu hùng của thành Giê-ru-sa-lem, thì Chúa lại nói đến một ngày mà công trình ấy sẽ bị phá hủy hoàn toàn. Cũng vậy, con thường chỉ đánh giá sự việc và con người dựa trên những dấu hiệu bề ngoài. Đôi khi những dấu hiệu bên ngoài ấy làm con mù quáng, nên đánh giá lầm những điều kín ẩn bên trong.
Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, người Do-thái khát khao, mong chờ một Đấng cứu tinh, nhưng khi Chúa đến giữa họ thì họ lại không chịu đón nhận. Họ đã không nhận ra Chúa, không phải vì Chúa không tỏ ra cho họ, mà là vì Chúa không đến theo kiểu họ ước mong. Và như thế, Chúa phải xót xa vì sự hững hờ của họ.
Phần con cũng không thiếu những lúc con chỉ nhìn thấy những điều trước mắt. Con quá vui khi thành công và con cũng quá buồn trước thất bại. Con đã không biết nhìn ra những sứ điệp thiêng liêng mà Chúa gởi đến cho con qua những thành công hay thất bại đó. Xin Chúa thương xót và thứ tha cho con. Xin Chúa dạy con biết sống trọn giây phút hiện tại, luôn rút ra được những ích lợi từ mọi biến cố vui buồn trong đời. Và xin cho con luôn hiểu rằng: không bao giờ là quá trễ đối với Chúa. Xin Chúa cho con luôn biết làm lại cuộc sống của mình để sẵn sàng đón chờ giờ con được Thiên Chúa viếng thăm. Amen.
Ghi nhớ: “Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi”.
Suy niệm 8: Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu thế...
Suy niệm
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá huỷ… Sau này, trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy Chúa Giêsu vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28). Ngài yêu thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy theo những mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối tình yêu của Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ phải đau khổ. Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm 70 sau Công nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa thành nguy nga này.
Ngày nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố tình chối bỏ Chúa để chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian. Ðức Giêsu vẫn đang than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...
Xin Chúa cho chúng ta luôn khao khát, nhận biết và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Biết thức tỉnh và từ bỏ đời sống tội lỗi để quay về với Ngài. Khi đó chúng con sẽ được hưởng tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người,
các bạn đừng cứng lòng”. (Tv 95,8)
Suy niệm 9: Đức Giêsu thương tiếc thành Giêrusalem
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Cuộc hành trình đi Giêrusalem được kết thúc bằng một cuộc khải hoàn long trọng tiến vào thành. Nhưng khi đến gần, nhìn thấy thành Giêrusalem, Chúa thấy trước thành này sẽ bị tàn phá, cũng là báo trước cuộc phán xét trong ngày cánh chung, nên Chúa thốt lên những lời than tiếc cho thành Giêrusalem. Họ có lỗi bởi vì Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, nhưng họ đã từ chối tình thương của Thiên Chúa, từ chối ơn cứu độ và sự bình an Người mang đến cho họ. Và vì không đón nhận nên họ phải đau khổ.
Trên đường tiến về Giêrusalem, vừa thấy thành, Đức Giêsu đã khóc thương nó, vì thấy trước viễn cảnh sụp đổ bình địa của thành, vì dân thành đã không tin vào Người. Đức Giêsu đã khóc, vì dường như bất lực trước sự cứng lòng của dân Do thái thành Giêrusalem. Người làm được mọi sự, nhưng đối với sự cứng lòng của người Do thái, Người không thể làm gì trước tự do của họ. Có thể nói, Thiên Chúa dường như bất lực trước sự tự do mà Người đã ban cho con người. Người Do thái là dân Chúa chọn nên họ đáng hưởng nhiều đặc ân, nhưng thực tế họ không được gì. Bởi Chúa đã giáng sinh nơi quê hương họ để cứu chuộc họ, nhưng họ đã không đón nhận.
Dưới cái nhìn của các tiên tri, số phận của thành Giêrusalem gắn liền với niềm tin và lòng trung thành đối với Thiên Chúa. Sự trung thành của thành thánh luôn đem lại thịnh vượng và an bình. Trái lại, tai hoạ luôn là hình phạt cho sự phản bội. Ngay từ xa xưa, tiên tri Giêrêmia đã loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm -587. Trong Tin mừng, dường như Đức Giêsu cũng muốn lấy lại ngôn ngữ của Giêrêmia để loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm 70. Tiếp theo những biến cố này là một loại tang thương xảy đến cho dân Do thái mà cao điểm là cuộc sát tế 6 triệu người Do thái do Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến.
Như vậy, dưới cái nhìn của Luca, sự sụp đổ của Giêrusalem và bao tai hoạ xảy đến cho dân Do thái đều là hậu quả của sự khước từ hồng ân của Thiên Chúa (R.Veritas).
Đức Giêsu đã khóc vì đau buồn trước viễn cảnh thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá bình địa: “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”. Đền thờ là nơi Ngài thường đến hành hương từng năm, nơi đầy ắp kỷ niệm thời thơ ấu, nhà của Cha Ngài, nơi linh thiêng của cả dân tộc. Vậy mà Đền thờ ấy sẽ phải bị tàn phá. Quả thật, năm 70, nhân cuộc nổi dậy của người Do thái, tướng Titô đã tàn phá bình địa thành đô, và cho cày một luống dài giữa Đền thờ, để cho thấy từ nay nơi đây đã trở thành hoang phế. Cùng với Đền thờ là biết bao người dân, trong đó có cả những trẻ thơ vô tội, bị tàn sát dưới lưỡi gươm của lính Rôma. Thế mà giờ đây, Đức Giêsu đến đem bình an cho dân thành; Ngài là Thiên Chúa đến thăm dân Ngài. Vậy mà, tiếc thay, dân thành đã dửng dưng, không đón nhận (5 phút Lời Chúa).
Để nói lên thiện chí hoà bình giữa Ac-hen-ti-na và Chi-lê, Ac-hen-ti-na đã đem khí giới, đúc tượng Đức Giêsu. Bức tượng được đưa lên dãy núi Andes là nơi đã xảy ra cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Dưới bệ tượng có dòng chữ: “Chính Người là sự bình an của chúng ta. Người đã làm cho đôi bên nên một”.
Lời Chúa hôm nay cho thấy Đức Giêsu khóc thương Giêrusalem, bởi thành đã không nhận ra Chúa là nguồn bình an. Đức Giêsu khóc thương thành, Người cũng khóc thương những người Do thái đương thời. Họ không nhận ra Thiên Chúa đang biểu lộ tình thương giữa họ.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta chạy theo những thứ bình an giả tạo, mà quên tìm kiếm bình an đích thực; chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và đặt của cải, danh vọng, địa vị làm mục đích cuộc đời. Khi ấy, chúng ta cảm thấy bất an và mệt mỏi. Ngược lại, lúc chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa và bước đi trong ánh sáng của Người, chúng ta mới có bình an đích thực.
Điều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xảy ra cho mọi người thuộc mọi thời đại. Mỗi người chúng ta đều có giây phút Chúa đến viếng thăm, đó là giây phút hồng phúc mang đến ơn lành, ơn cứu rỗi và sự bình an. “Ước chi hôm nay, nơi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi”. Nhưng Chúa không bắt buộc tự do của mỗi người, sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người một lần vĩnh viễn không bao giờ muốn lấy lại. Dù biết rằng con người vẫn có thể lạm dụng sự tự do đó mà chống lại Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Kiên tâm chịu đựng
Khi đi tuần tra tại một thành phố nọ có một vị thẩm phán lúc nào cũng bị một luật sư kiêu căng gây phiền toái bằng cách đưa ra một số nhận xét mang tính cách chế giễu.
Sau đó, trong bữa ăn tối, có vài người hỏi vị thẩm phán tại sao ông không dùng quyền lực của mình để chỉ trích viên luật sư này.
Vị thẩm phán liền bỏ dao nĩa xuống, chống cùi chỏ lên bàn và kể câu chuyện của mình:
- Tại thành phố của chúng ta, có một bà goá sống chung với một con chó, cứ mỗi khi mặt trăng toả sáng, thì con chó lại đi ra ngoài và sủa liên tục suốt đêm.
Ông ngừng lại và lặng lẽ bắt đầu ăn trở lại. Một trong những người bạn hỏi ông:
- Thưa ngài thẩm phán, thế con chó và mặt trăng thì làm sao ?
Ông nói:
- Ô, bất chấp tiếng sủa của con chó, mặt trăng vẫn cứ tiếp tục tỏa sáng.
Vâng! Hãy tin tưởng vào Chúa. Gặp thời thuận tiện hay không, cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy kiên vững trong sứ mệnh loan báo Tin mừng, vì xác tín rằng không một sức mạnh trần thế nào có thể cản được chương trình của Thiên Chúa.
Suy niệm 10: Lời tiên tri về Jêrusalem
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Dưới cái nhìn của các tiên tri, số phận của thành Jêrusalem gắn liền với niềm tin và lòng trung thành đối với Thiên Chúa. Sự trung thành của thành thánh luôn đem lại thịnh vượng và an bình. Trái lại tai họa luôn là hình phạt cho sự phản bội. Ngay từ xa xưa, Giêrêmia đã loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm - 587. Trong Tin Mừng, dường như Chúa Giêsu cũng muốn lấy lại ngôn ngữ của Giêrêmia để loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm 70. Tiếp theo những biến cố này là một loạt tang thương xảy đến cho dân Do Thái mà cao điểm là cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái do Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến.
Như vậy dưới cái nhìn của Luca, sự sụp đổ của Jêrusalem và bao tai họa xảy đến cho dân Do Thái đều là hậu quả của sự khước từ hồng ân của Thiên Chúa.
Hậu quả của những sự khước từ đó thật đáng sợ. Sự khước từ luôn đi đôi với những hình phạt.
Chúa Giêsu là hồng ân, là quà tặng của Thiên Chúa. Khước từ hồng ân và quà tặng của Thiên Chúa thật là một tội khủng khiếp, khôn lường.
Người con trai của một nhà truyền giáo bị bắt giữ, và bị quy cho tội phản động, bởi vì anh ta thuộc về một tổ chức bất hợp pháp chống lại chính phủ. Anh bị xét xử, kết án và cầm tù. Người cha già của anh, vốn nổi tiếng là một người có học thức và là một Kitô-hữu tốt lành, đã chạy đi khắp nơi tập hợp được hàng trăm chữ ký vào tờ đơn xin ân xá cho anh. Ông tìm đến tận Washington gặp Tổng Thống Grant trình bày tờ đơn đó và van xin tổng thống tha thứ cho con trai ông, nhờ vào những công lao đóng góp của cha mẹ anh ta.
Được sự phê chuẩn của Tổng Thống, người cha già đó vội vã đón ngay xe lửa trở về nhà tù gặp con trai. Cầm trên tay tờ giấy được ân xá, ông nói với con trai:
- John ạ, cha có một tin vui mang đến cho con đây. Tổng Thống Grant đã chấp thuận đơn xin ân xá của cha. Con có thể trở về nhà với cha ngay bây giờ, và kịp gặp được mẹ con trước khi mẹ con qua đời!
Nhưng con trai ông không đáp lại một lời. Người cha nói tiếp:
- Con có hiểu cha nói gì không, John ? Đây là tờ giấy chứng nhận con đã được ân xá.
Nhưng anh con trai vô ơn đó trả lời:
- Thưa cha, con rất tiếc đã làm buồn lòng cha, nhưng con đã quyết định không đi theo hệ thống chính trị này, và con sẽ sống theo chọn lựa của con.
Trái tim của người cha già hầu như tan nát. Ông cụ ngã nhoài xuống hàng lưới sắt, và được một người gác ngục dìu đi.
Vâng! Đó là kết quả của một sự khước từ.
Thành Jêrusalem xưa cũng như vậy.
2. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Ngài không đầu hàng trước sự khước từ của con người, bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Chúng ta có thể nhận thấy bàn tay quan phòng ấy của Chúa ngay trong sự sụp đổ của Jêrusalem vào năm 70. Do biến cố này, các tín hữu tiên khởi đã tản mác đi khắp nơi và nhờ thế Tin Mừng được loan báo cho mọi dân tộc khác. Nhìn lại sự sụp đổ của Jêrusalem và Tin Mừng được loan đi khắp nơi, chúng ta lại càng xác tín hơn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ngay cả sự khước từ của con người cũng có thể biến thành khởi điểm cho một hồng ân cao cả hơn.
Chúng ta chẳng thấy Giáo Hội đã gọi tội nguyên tổ là tội hồng phúc sao ? Đây phải là xác tín của chúng ta mỗi khi chúng ta nhìn vào các biến cố lịch sử xảy ra.
Khi đi tuần tra tại một thành phố nọ, có một vị thẩm phán lúc nào cũng bị một luật sư kiêu căng gây phiền toái bằng cách đưa ra một số lời nhận xét mang tính cách chế giễu.
Sau đó, trong bữa ăn tối, có vài người hỏi vị thẩm phán nguyên nhân tại sao ông không dùng quyền lực của mình để chỉ trích viên luật sư này.
Vị thẩm phán liền bỏ dao nĩa xuống, chống cùi chỏ lên bàn và kể câu chuyện của mình:
- Tại thành phố của chúng ta, có một bà góa sống chung với một con chó, cứ mỗi khi mặt trăng tỏa sáng, thì con chó lại đi ra ngoài và sủa liên tục suốt đêm.
Ông ngừng lại và lặng lẽ bắt đầu ăn trở lại. Một trong những người bạn hỏi ông:
- Thưa ngài thẩm phán, thế con chó và mặt trăng thì sao ?
Ông nói:
- Ồ, bất chấp tiếng sủa của con chó, mặt trăng vẫn cứ tiếp tục tỏa sáng.
Vâng! Hãy tin tưởng vào Chúa. Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy kiên vững trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng vì xác tín rằng không một sức mạnh trần thế nào có thể cản bước được chương trình của Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Suy niệm 11: Không nhận biết thời giờ được Chúa viếng thăm
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Thành Giêrusalem tượng trưng cho dân do thái và cho tất cả những người được Thiên Chúa ưu ái nhưng đã phụ lòng Ngài nên cuối cùng phải gánh lấy số phận bi thảm.
Lỗi của nó là gì ? Là không “nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (câu 41); “không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (câu 44). Ơn Chúa ban cho nó rất nhiều, nhất là ơn “bình an” và “viếng thăm”. Nhưng nó đã coi như không, nên không nhận biết để cám ơn, không nhận biết để xử dụng, không nhận biết để hiểu xem ý Chúa muốn nó làm gì khi ban ơn cho nó.
B.... nẩy mầm.
1. “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi”. Lời Chúa Giêsu rất giống với lời Thánh Vịnh đầu tiên chúng ta đọc mỗi sáng “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa” (Tv 94). Lời này mỗi ngày nhắc nhở chúng ta “nhận biết” tiếng Chúa nói với chúng ta suốt ngày, và chúng ta đừng cứng lòng như thành Giêrusalem xưa.
2. Ngày nay người do thái vẫn còn đến bên bức tường đổ nát của cổ thành Giêrusalem để than khóc cho số phận của đất nước và tiếp tục chờ mong Đấng Messia “của họ”. Nhưng trớ trêu thay lúc Đấng Messia thật đến viếng thăm họ thì họ đã chối từ và xử tử! Tại vì họ đã “không nhận biết”. Xin giúp con tỉnh táo “nhận biết” những thời giờ Chúa đến viếng thăm con.
3. Mỗi ngày tôi đã để vuột mất biết bao “sứ điệp bình an” do anh chị em trong cộng đoàn đem đến. Tôi đã cố nhắm mắt do thành kiến, ác cảm, giận hờn… Tôi cứ mù quáng chạy miết theo sở thích và ý riêng của tôi. - Lạy Chúa, đáng lẽ con phải khóc cho bản thân, nhưng con cứ thản nhiên tự đắc… và hình như Chúa đang khóc cho tình trạng khốn đốn của con.
4. Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
5. “Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Chúa Giêsu khóc thương mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (Lc 19,41-42)
Chúa Giêsu đã khóc thương dân thành Giêrusalem, và hôm nay Ngài cũng đang khóc thương tôi.
Ngài khóc thương khi thấy tôi bị xô đẩy quay cuồng bởi dòng xoáy của cuộc đời, nhưng vẫn cố bám vào những “cột mốc” không bền vững và tin đó là cột mốc của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm nhận được tình Ngài yêu con, biết lấy Ngài làm cùng đích đời con. (Hosanna)
17/11 Nén bạc sinh lời
- Viết bởi Lc 19, 11-28
Nén bạc sinh lời.
Thứ Tư tuần 33 thường niên. – Thánh nữ Êlisabét Hunggari. Lễ nhớ.
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
* Thánh nữ sinh năm 1207. Năm lên mười bốn tuổi, thân phụ là Anrê vua Hunggari đem gả cho Lu-y miền Thu-rin-gi-a. Cả hai sống hạnh phúc được sáu năm, sinh được ba người con trai. Cả hai đều nỗ lực sống lý tưởng của thánh Phanxicô trong bậc gia đình.
Năm 1227, Lu-y qua đời, chị đã nghe theo lời mời gọi sống đời nghèo khó, tận tâm phục vụ các bệnh nhân. Vì thế sức khỏe chị sớm hao mòn và chị đã qua đời ở Mác-bua năm 1231.
Lời Chúa: Lc 19, 11-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát.
Vậy Người phán rằng: "Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu. "Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành". "Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Làm ăn sinh lợi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi Đức Giêsu đến gần Giêrusalem,
nhiều người nghĩ rằng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện rồi.
Họ cho rằng khi Ngài tiến vào thành thánh lẫm liệt như một vị vua,
Nước ấy sẽ bừng tỏa trọn vẹn trên đoàn dân của Thiên Chúa (c. 11).
Thật ra Nước Thiên Chúa không đến nhanh như họ nghĩ.
Đức Giêsu còn phải chịu đau khổ, chết, rồi được phục sinh.
Sau đó Giáo Hội còn phải chờ một thời gian dài
trước khi Nước Thiên Chúa đến cách viên mãn qua việc Ngài trở lại.
Thời gian của Giáo Hội là thời gian đợi chờ,
thời gian lo làm ăn sinh lợi với những gì Chúa tặng ban.
Đó chính là ý nghĩa của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một nhà quý tộc kia đi xa để lãnh nhận vương quyền.
Trước khi đi ông gọi mười người đầy tớ lại,
và trao cho họ mỗi người một số tiền không lớn lắm, là một đồng mina.
Ông ra lệnh: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (c. 13).
Khi nhà quý tộc trở về trong tư cách là vua,
ông truyền gọi các đầy tớ lại để họ báo cáo về công việc làm ăn.
Hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lợi không ít.
Một người được lời thêm mười đồng, người kia được thêm năm đồng.
Cả hai được vua ban thưởng rất trọng hậu, cho cai trị các thành phố.
Còn người thứ ba trả lại cho nhà vua đồng mina anh đã nhận.
“Thưa Ngài, đồng mina của Ngài đây, tôi đã giữ kỹ nó trong khăn.”
Tất cả tội của người đầy tớ này nằm ở thái độ giữ kỹ.
Giữ kỹ thì chẳng mất gì, vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng giữ kỹ lại không thể làm cho đồng tiền sinh lời.
Hơn nữa, giữ kỹ là không vâng lời ông chủ trước khi đi: “Hãy lo làm ăn!”
Người đầy tớ sợ ông chủ, vì ông là người nghiêm khắc (c. 21).
Chính vì sợ làm ăn thua lỗ, sợ bị ông chủ trừng phạt
mà anh chọn thái độ chắc ăn là giữ kỹ đồng vốn trong khăn.
Thái độ này không được ông chủ, nay trở thành nhà vua, chấp nhận.
“Tại sao anh không gửi tiền của tôi vào ngân hàng,
để khi trở về, tôi mới rút được cả vốn lẫn lời chứ?” (c. 23).
Ý của chủ là đồng tiền cần phải được đầu tư để sinh lời.
Nỗi sợ đã làm cho anh đầy tớ mất đi sự liều lĩnh cần thiết.
Bài Tin Mừng nhắc các Kitô hữu một điều cần.
Giữ kỹ, giữ nguyên những gì Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực.
Kitô hữu là người tích cực sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.
Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ hãi, để dám nghĩ, dám làm việc lớn cho Chúa,
đó mới là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu có trách nhiệm.
Nếu không liều lĩnh trong những dự tính và hành động,
nhiều nén bạc Chúa ban sẽ bị bỏ quên mãi trong khăn.
Ông chủ trong dụ ngôn thật ra không phải là người ham lời.
Ông chỉ muốn các đầy tớ trung tín trong việc rất nhỏ (c. 17).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen
Suy niệm 2: Vinh quang, danh dự và uy quyền
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Để trả lời cho câu hỏi hiện tại về Nước Thiên Chúa, trong bối cảnh Người lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su dùng một sự kiện lịch sử. Đó là việc kế vị Hê-rô-đê Cả gây nhiều tranh cãi. Để nói lên nguyên lý nền tảng của con người trong Nước Thiên Chúa. Nguyên lý nền tảng đó là: bản thân con người và mọi sự họ có đều là của Chúa. Vì thế phải làm việc cho Chúa. Chúa sẽ đi xa một thời gian. Đó là thời gian con người sống ở đời. Rồi sau khi được phong vương Chúa sẽ trở lại. Đó là sau khi chết, phục sinh, Chúa được tôn vinh. Ngày Chúa trở lại là ngày con người chấm dứt thời gian ở trần gian. Phải tính sổ với Chúa. Để được thưởng hay bị phạt. Tuy làm việc cho Chúa. Nhưng phần thưởng cho con người rất trọng hậu. Không gì có thể so sánh được. Người bị phạt vì muốn tự do chối từ quyền của Chúa. Tưởng mình có quyền tự do sống cho riêng mình. Nhưng không phải vậy. Tách mình ra khỏi Chúa, con người chỉ chuốc án phạt vào thân.
Bà mẹ trong sách Ma-ca-bê thấu hiểu điều đó. Nên bà khuyên nhủ các con rất chí lý: Mọi sự đều là của Chúa. Ta phải dâng lại cho Chúa tất cả. Rồi Người sẽ thưởng công trọng hậu cho những ai sống vì Người và chết vì Người. “Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (năm lẻ).
Quả thực, đến ngày tận cùng của thế giới này, vương quốc của Thiên Chúa vẫn tồn tại. Trong đó mọi người đều được hưởng phúc lành. Được ca tụng tôn vinh Chúa muôn đời. ““Hai mươi bốn vị kỳ mục phủ phục xuống trước mặt Đấng ngự trên ngài mà thờ lạy Người, Đấng hằng sống đên muôn thuở muôn đời, rồi đặt triều thiên của mình xuống trước ngai mà nói: ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh quang, danh dự và uy quyền. Vì Ngài đã dựng nên muôn vật’ “(năm chẵn).
Mọi sự khởi đầu từ Chúa. Mọi sự phải phụng sự Chúa. Mọi sự phải quy về Chúa. Rồi Chúa sẽ thưởng công bội hậu. Chúa ban thưởng chính hồng ân của Chúa. Đó là nguyên lý nền tảng. Đó là ý nghĩa cuộc đời. Đó là hạnh phúc đời đời của ta.
Suy niệm 3: Tỉnh thức chờ Chúa
Cộng đoàn tín hữu Thessalonica sống trong niềm thao thức việc Chúa sắp trở lại đến độ một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc nữa. Thái độ lệch lạc này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu là sống tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Cần phải có thái độ tỉnh thức được thể hiện bằng những việc làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ động. Thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Thessalonica: "Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa cho anh em được sống xứng đáng với ơn gọi, xin Ngài dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin... Còn về ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần giao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào" (2Tx 1,11; 2,1-2)
Ðó là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô cho tín hữu Thessalonica đang mong chờ lần trở lại của Chúa Giêsu, và những lời đó diễn đạt những lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy làm lợi thêm những nén bạc được giao phó, chứ đừng đem chôn dấu nó".
Dụ ngôn nén bạc mời gọi mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm với tư cách là người có niềm tin. Ðức tin không là nén bạc để được cất giữ, nhưng phải được đầu tư để phát triển, sinh lợi. "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết". Nếu chúng ta chỉ đóng khung cuộc sống đạo trong bốn bức tường nhà thờ, nếu chúng ta chỉ giản lược đức tin vào những biểu dương bên ngoài, nếu đức tin chỉ là một mớ những giáo điều phải tin, những điều răn phải giữ, thì quả thực chúng ta đang chôn chặt đức tin như gia nhân đã chôn nén bạc mà chủ đã trao: chúng ta có giữ đạo, nhưng chưa thực sự sống đạo.
Cuộc đầu tư nào cũng bao hàm những bất tất, rủi ro; một đức tin sống động cũng hàm chứa nhiều hy sinh, mất mát. Nhưng chúng ta tin rằng chính lúc chúng ta mất mát là lúc chúng ta được lợi lộc, chính lúc chúng ta quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi được vui sống. Ðó phải là bài trường ca trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta đã lãnh nhận. Xin Chúa ban thêm can đảm, để đức tin của chúng ta thực sự được đầu tư trong từng giây phút của cuộc sống, để đáng được phần thưởng Chúa ban trong ngày Ngài trở lại vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Những nén bạc
Cộng đoàn tín hữu Thexalonica sống trong niềm thao thức Chúa sắp trở lại đến độ một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc bổn phận nữa. Thái độ lệch lạc này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu về thái độ sống tỉnh thức canh chừng chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Cần có một thái độ thức tỉnh canh chừng tích cực được thể hiện trong các việc làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ động khoanh tay ngồi yên chờ đợi. Thánh Phaolô đã trách thái độ sống lệch lạc của một số tín hữu Thexalonica trong khi chờ đợi ngày Chúa đến với những lời như sau:
"Chúng tôi hằng cầu xin Chúa cho anh chị em được sống xứng đáng với ơn kêu gọi của anh chị em, được thực hiện đầy đủ mọi quyết định tốt lành và được can đảm hoạt động theo đức tin. Thưa anh chị em, về việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tái hiện thì tôi xin anh chị em đừng vội bối rối, đừng quá lo sợ vì một vài lời tiên tri giả mạo hay vì một câu, một bức thư, tự xưng là của chúng tôi, mà cho là ngày của Chúa đã gần tới. Vậy, thưa anh chị em, anh chị em hãy vững tâm, hãy giữ các điều anh chị em đã học biết bởi lời giảng dạy hay bởi thư từ của chúng tôi. Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và nguyện xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, nâng đỡ tâm hồn anh chị em, để anh chị em quyết chí làm mọi việc và nói mọi lời cách hoàn hảo. Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, chúng tôi khuyên anh chị em hãy lánh xa những tín hữu lười biếng và không tuân giữ các điều mà anh chị em đã học biết bởi chúng tôi".
Ðó là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô tông đồ cho cộng đoàn tín hữu Thexalonica nơi thư thứ hai Thexalonica chương 1. Cộng đoàn tín hữu này đang mong chờ Chúa ngự đến lần thứ hai. Những lời đó diễn đạt một cách cụ thể lời dạy của Chúa Giêsu hãy làm lợi thêm những nén bạc Chúa ban cho, chứ đừng làm biếng chôn giấu nó như được trình bày trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay.
Nội dung giáo lý Chúa Giêsu muốn dạy các đồ đệ của Ngài qua bài dụ ngôn trên khá rõ. Cần phải làm lợi nén bạc Chúa ban cho trong khi chờ đợi ngày Chúa ngự đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Và dù có làm lợi thêm những điều tốt đẹp mới, người đồ đệ của Chúa không nên vì đó mà tự kiêu. Chúng ta tất cả chỉ là những đầy tớ vô dụng của Thiên Chúa mà thôi. Tất cả những gì chúng ta có đều đến từ lòng quảng đại của Ngài và Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài như những người con hiếu thảo.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã tin tưởng vào chúng con, trao ban cho chúng con những nén bạc để làm lợi thêm. Xin Chúa thương mở mắt chúng con cho chúng con nhìn thấy những thiếu sót, những sự tầm thường của mình để canh tân và dấn thân lại trên con đường phục vụ Chúa và anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Nén bạc sinh lời
Vậy Người nói: “Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười yến bạc và nói với họ: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” (Lc. 19, 12-13)
Trước khi long trọng vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu lưu ý các môn đệ về thời kỳ đăng quang cuối cùng. Tiếp đến thời kỳ Giáo hội được trao phó cho các ông để chịu thử thách.
Một lần nữa, Đức Giêsu kể một sự kiện nổi tiếng được mọi người đã biết, nó xảy ra hai năm sau ngày Người sinh ra: Đó là hành trình của quận vương A-kê-lau tới thăm Rô-ma để được chuẩn y thăng chức làm vua xứ Giu-đa. Một phái đoàn năm mươi người Do thái phản đối sự phong vương này. Và khi A-kê-lau trở về đã trả thù những người Do thái chống đối. Lần này, chính Đức Giêsu đến đương đầu với sự chống đối của người Do thái, họ không muốn nhận vương quyền của Người.
Trong khi vắng mặt, Đức Giêsu đã trao sự nghiệp của Người cho các đầy tớ, cho Giáo hội của Người. Sản nghiệp Người trao cho các ông, chỉ là một vật rất nhỏ. Các ông phải làm cho sinh lời. Các đầy tớ của Đức Giêsu đều phải được thử thách như thế để chứng tỏ lòng trung thành và sự kiên trì trong suốt thời gian bấp bênh. Các ông có là những quản lý trung tín và khôn ngoan rao giảng Lời Thiên Chúa không?
Khi Đức Giêsu trở về, Người kêu tính sổ, những đầy tớ không nói tới việc họ đã làm, nhưng nói về sản nghiệp được trao cho họ làm sinh lời, vì lời Người đã được rao giảng và vẫn sống động. Lời Người đã sinh hoa kết quả tùy theo sự cảm nhận và khôn khéo của các đầy tớ. Lòng trung tín trong các việc nhỏ được ghi công và được lãnh phần Nước Trời.
Kẻ lười biếng mất hết quyền lợi
Kẻ chỉ tìm yên thân, không làm gì. Nó chê trách chủ thu nơi không phát nên nó đem đi chôn, những người biệt phái cũng thế, họ canh giữ lề luật bắt người ta kính trọng lề luật để bảo vệ luật lệ được nguyên vẹn, làm cho lề luật khô héo ứ đọng, chết cứng, nên họ bị tước mất cả cái họ có. Sự mong đợi ngày quang lâm của Chúa kêu gọi hành động, chứ không phải bất động chờ đợi, ngập lòng sợ hãi.
Hình phạt của vua chống lại kẻ thù cho thấy sự khủng khiếp trong ngày phán xét chống lại sự nổi loạn của Ít-ra-en và chắc hẳn nhắm tới cảnh thiêu hủy của thành Giê-ru-sa-lem mà Đức Giêsu đã loan báo nhiều lần trước khi Người chết. Nhưng hình phạt cũng áp dụng cho những người từ chối đón nhận nước Chúa. Họ tự kết án mình phải hư mất.
RC
Suy niệm 6: Hãy đầu tư cho tương lai
Xem CN 23 TN C
Cuộc sống của con người luôn phải đối diện với thực trạng: cơm, áo, gạo, tiền... Đây là những thứ cần thiết căn bản trong đời. Muốn có cuộc sống ổn định, người ta thường phải kiếm kế để sinh nhai. Có những người không có tiền thì đi làm công, người có tiền thì đầu tư cách này hay cách khác để kiếm lời...
Vào thời Đức Giêsu, người ta cũng xử dụng đồng tiền để sinh lời, nhằm đáp ứng nhu cầu căn bản trong đời sống thường nhật.
Vì thế, Đức Giêsu đã mượn hành động này để nói đến một cuộc đầu tư khác, đó là cuộc đầu tư đức tin, đầu tư vì Nước Trời...
Câu chuyện được khởi đi từ việc một người quí tộc nọ trẩy đi phương xa để lãnh nhận vương quyền. Thế nên, ông đã gọi các đầy tớ trung tín lại và trao cho họ một số vốn để đầu tư. Khi trao như thế, ông chủ rất tin tưởng đầy tớ của mình, và lẽ tất nhiên, người đầy tớ không được nhận rồi sau đó đem cất giấu...
Hình ảnh này gợi lại cho chúng ta nhớ đến món quà cao quý và vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Đây là gia tài hay còn gọi là vốn liếng thiêng liêng trong đời sống đức tin của chúng ta. Hồng ân đó, Thiên Chúa hẳn không hề muốn chúng ta giữ lấy cho riêng mình, nhưng được lan tỏa cho mọi người qua hình ảnh trao ngọn nến cháy sáng và mời gọi phải chiếu tỏa cho anh chị em chung quanh.
Như vậy, lãnh nhận ơn Chúa là hồng ân, nhưng hồng ân luôn gắn liền với trách nhiệm. Nói cách khác, “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Vì thế, Lời Chúa hôn nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt, đầu tư tích lũy những nghĩa cử yêu thương, tấm lòng bao dung, nhân từ, đại lượng..., có thế, ánh sáng ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội mới được chiếu tỏa, nếu không, chẳng khác gì đèn sáng nhưng lại đặt dưới gầm giường hay trong thùng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ánh sáng đức tin chúng con luôn được chiếu tỏa trên cuộc đời chúng con và cho cả những người chung quanh nữa. Ngõ hầu mọi người nhận biết Chúa và tin thờ Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mỗi người phải biết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa. Người nào lười biếng ích kỷ sẽ bị xét xử.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, là người Kitô hữu, có nghĩa là con sống cho Chúa, con thuộc về Chúa. Mỗi người chúng con đều được Chúa trao cho một số vốn liếng, một số khả năng để làm lợi cho Chúa. Xin cho con nhận ra rằng những khả năng Chúa ban cho con, là để phục vụ Chúa, là để sinh lợi cho Chúa. Con không ngại những khả năng của con là nhỏ bé, là tầm thường, mà chỉ sợ rằng không biết dùng hết khả năng của con để sống cho Chúa.
Chúa muốn dạy con rằng, cuộc sống của con chỉ có ý nghĩa khi sống cho Chúa, khi con biết miệt mài phục vụ công cuộc của Chúa. Xưa nay con còn sống cho cái tôi ích kỷ của mình, con còn quy những lợi lộc về cho con. Con đã sai lầm vì đã hướng cuộc sống về mình thay vì hướng về Chúa và tha nhân. Bởi đó con đã lười biếng, không muốn dấn thân, không muốn phục vụ. Con đã để cho những khả năng Chúa ban trở nên hao mòn uổng phí.
Xin Chúa giúp con thay đổi đời sống. Con biết rằng sống cho Chúa sẽ không bao giờ bị thua thiệt. Chúa hứa ban phần thưởng dồi dào sau này cho những ai tận tâm sống cho Chúa.
Không phải vì phần thưởng lớn lao Chúa hứa mà con sống cho Chúa, bởi vì như thế con vẫn còn sống cho riêng mình, cho tư lợi ích kỷ. Xin Chúa cho con biết sống vì yêu mến Chúa, vì Chúa là sự sống đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng”.
Suy niệm 8: Quản lý ân huệ và tài năng của Chúa ban
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Để diễn tả nỗ lực của mỗi người qua phần thưởng Chúa sẽ ban, thánh Têrêsa Hài Đồng đã dùng một hình ảnh hết sức đơn sơ để so sánh về phần thưởng nước Trời với sự cố gắng của con người như sau: Nếu ta đặt trên bàn một số những chiếc ly lớn nhỏ khác nhau rồi đổ đầy nước vào từng ly ấy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả mọi ly đều đầy nước, có nghĩa là không ly nào có thể chứa thêm được nữa. Nhưng không phải là không có sự khác nhau vì những ly lớn sẽ chứa được nhiều nước hơn những ly nhỏ.
Suy niệm
Trong Tin Mừng hôm nay có thể hiểu rộng ra là tất cả mọi người đều được trao những nén bạc, đều tận tâm tận lực làm cho sinh lời. Có người mặc cảm với số vốn ít ỏi, nên không tận lực làm lời, hình ảnh đó phác họa mặc cảm tự ti của con người. Tâm lý học có nói mặc cảm là một thứ bệnh khó trị. Nó sinh ra nhiều biến chứng tệ hại. Người mang mặc cảm luôn tự cho mình thua kém người khác, tự ti về khả năng, nên họ muốn buông xuôi chôn vùi cuộc đời mình trong sự thất vọng. Mặc cảm làm mình thu lại trong “vỏ ốc tự ti”...
Hãy chui ra khỏi vỏ ốc của sự tự ti, phá bỏ bức tường mặc cảm yếu kém hơn người để tiến vào cuộc sống trong an vui và trách nhiệm. Chúng ta hãy tùy theo khả năng sống mà phục vụ hết mình, thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh với người khác” (Gl 6,4). Làm việc tận khả, Ngài nhấn mạnh giá trị của thời giờ, con người phải biết trân trọng, vì đó là thời gian Chúa ban. Ngài kêu gọi đừng ngủ mê, nhưng phải luôn làm việc (x. 1Tx 5,1-6).
Thiên Chúa luôn mời gọi sự cố gắng của con người, dù đó là việc bình thường nhưng tận lực trong phi thường, con người sẽ làm nên những kỳ tích cho cuộc đời mình và cho xã hội. William Barclay đã viết: “Thiên Chúa không muốn những con người phi thường làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người bình thường làm những việc bình thường một cách phi thường”.
Thật thế, trong ngày phán xét chung. Thiên Chúa sẽ phán xét mỗi người, mỗi hành vi tùy theo ân huệ Người ban và người đó đã sử dụng sinh lợi cho Chúa như thế nào trong cuộc đời. Mỗi chúng ta cũng đều là một người quản lý ân huệ và tài năng của Chúa ban. Chúng ta có bổn phận phải khiêm tốn nỗ lực làm lời cho Chúa để phục vụ Chúa và anh em đồng loại.
Ý lực sống
“Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có…” (Lc 19,26).
Suy niệm 9: Dụ ngôn những yến bạc
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong dụ ngôn mười yến bạc, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người sử dụng những nén bạc đó như thế nào. Bởi thế, Người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà sử dụng tốt đề được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”. Cách sử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lợi. Làm cho chúng sinh lợi không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình, nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài phải làm lợi những nén bạc Chúa ban cho trong khi chờ đợi ngày Chúa ngự đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Và dù có làm lợi thêm những điều tốt đẹp mới, người môn đệ của Chúa không nên vì đó mà tự kiêu. Chúng ta tất cả chỉ là những đầy tớ vô dụng của Thiên Chúa mà thôi. Tất cả những gì chúng ta có đều đến từ lòng quảng đại của Ngài và Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài như những người con hiếu thảo.
Dụ ngôn cho thấy có 10 người đầy tớ được ông chủ trao vốn cho như nhau, mỗi người một nén bạc, nhưng chỉ có 3 người được nhắc tới. Người thứ nhất, dù cũng lãnh một nén bạc như bất cứ ai, nhưng đã cố gắng cật lực, làm lợi từ một nén thành 10 nén, và được ông chủ thưởng cho coi 10 thành phố. Người thứ hai, từ một nén sinh lời được 5 nén, và được thưởng coi 5 thành phố khác. Còn người thứ ba, gói kỹ nén bạc đã nhận và đem cất giấu số vốn vẫn còn đó, không sinh lợi gì, anh lại còn cả gan lên án ông chủ là khắc nghiệt “đòi cái không gửi, gặt cái không gieo”. Kết quả, anh bị thu lại số vốn và bị nghiêm phạt nặng nề (Lm. Phạm Văn Phượng).
Dụ ngôn cũng dạy chúng ta phải biết đầu tư vào Nước trời. Vào thời Đức Giêsu, dân chúng có lẽ cũng có một khái niệm về đầu tư. Chính vì thế, để nói về những thực tại của Nước trời, Ngài đã mượn câu chuyện một người quý tộc nọ trẩy đi phương xa để lãnh nhận vương quyền, đã gọi các đầy tớ trung tín lại và trao cho họ một số vốn đầu tư để sinh lợi.
Hình ảnh số vốn được ông chủ ký thác cho các đầy tớ để đầu tư gợi lên cho chúng ta chính đức tin, mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ơn đức tin là hồng ân quý giá nhất mà Giáo hội ký thác cho mỗi Kitô hữu. Giáo hội đã muốn nói lên tính cách vốn liếng ấy khi trao cho người chịu phép rửa tội ngọn nến, và nhắn nhủ người ấy phải giữ gìn ngọn nến ấy được mãi mãi cháy sáng.
Tuy nhiên, cuộc đầu tư có thể gặp rủi ro. Như chúng ta biết, vốn liếng được trao ban là để đầu tư, mà nói đến đầu tư là nói đến bấp bênh nguy hiểm và rủi ro. Không ai có thể tiên liệu được hoàn toàn những gì sẽ xảy ra khi bắt tay vào công việc đầu tư. Đây có thể là một trong những hình ảnh gợi lên cho chúng ta những gì có thể xảy ra trong cuộc hành trình đức tin. Cuộc sống đức tin vốn là cuộc hành trình đầy cam go, bất trắc, rủi ro. Một cuộc sống đức tin không dấn thân chẳng khác nào nén bạc được chôn vùi, có an toàn, nhưng chỉ là thứ an toàn giả hiệu. Nói như thánh Giacôbê: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Mỗi ngày một tin vui).
Ở thời nào, nơi nào cũng có hai hạng người: lười biếng và siêng năng. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, có người luôn lo tu tâm sửa tính, nhưng cũng có người ù lì hoang phí, sống buông thả theo bản năng, không làm lợi ích gì cho mình cho người. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về các nén bạc, để giúp các môn đệ biết cách sử dụng nén bạc cuộc đời mình. Mỗi người đều được Thiên Chúa trao cho những nén bạc cuộc đời. Điều quan trọng không phải là ta sinh lợi được nhiều hay ít, nhưng là cách thế ta sử dụng cuộc đời mình thế nào. Khi Chúa đến, chúng ta sẽ trình diện tất cả những gì mình cố gắng sinh lợi và đáng hưởng hạnh phúc bên Chúa (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Một niềm tin vững vàng
Một người lo lắng chạy tới chạy lui kêu cứu. Một hành khách đi ngang qua phòng, thấy cậu thiếu niên con viên thuyền trưởng vẫn còn đang say ngủ, không biết gì. Người khách vội lay em dậy và cho biết tàu đang lâm nguy, sắp chìm, em phải lo tìm phao cấp cứu.
Em bé dụi mắt hỏi lại ngay:
- Thế ai đang lái tàu vậy hả bác?
Người hành khách trả lời:
- Cha của cháu.
Nghe thấy thế, em lại tiếp tục nằm xuống, ngủ tiếp một cách bình thản. Người này lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao trong khi mọi người đang lo lắng, riêng cháu lại có thể bình an mà ngủ được chứ, cháu không sợ sao?
Em hãnh diện trả lời:
- Hễ cha cháu mà còn lái tàu, thì chắc chắn con tàu sẽ an toàn, cháu đã trải qua nhiều phen như thế này rồi, ba cháu dư sức để lo liệu, bác yên tâm đi.
Lạy Chúa lòng tin của chúng con còn non yếu, xin thêm đức tin cho chúng con.
Suy niệm 10: Sử dụng nén bạc Chúa ban
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đừng đơn giản nghĩ rằng, ơn Chúa ban chỉ là những tài năng, sức khoẻ và những điều kiện xem ra thuận lợi theo cái nhìn của con người. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân”. Như thế, ơn Chúa còn là:
a/ thời giờ;
b/ môi trường ta đang sống;
c/ những người ta sống chung;
d/ bệnh tật;
e/ đau khổ v.v....
Chúa Giêsu giảng dụ ngôn này liền sau chuyện ông Giakêu. Khi làm thế, Chúa muốn cho ta hiểu: Giakêu là gương mẫu về cách sử dụng những nén bạc Chúa ban: ông đã sử dụng thật tốt, thật hiệu quả tài sản của ông theo ý Chúa.
Cuộc sống của Thánh Antôn ẩn tu có nhiều giai thoại và đây là giai thoại lý thú về cuộc đời của ngài.
Một hôm, thánh nhân nghe tin có một người thợ giầy tiến bộ hơn Ngài về đường nhân đức. Lòng khao khát muốn tiến triển trên đàng nhân đức đã thúc đẩy ngài quyết chí đi tìm cho được người thợ giầy kia, để học hỏi cách tu đức của người này.
Sau những ngày vất vả tìm kiếm, ngài đã gặp được người thợ đó. Thoạt nhìn thấy công việc của người thợ giầy, thánh nhân hơi nản lòng, vì thấy sinh hoạt duy nhất của người này là đóng giầy. Nhưng để cho bõ công đi tìm kiếm, thánh nhân đã trao đổi với người thợ giầy kia về lối sống tu đức.
Thánh nhân hỏi người thợ giầy về chương trình sống hằng ngày của ông ta. Người này cho biết, một ngày của ông được chia ra làm 3 phần:
- 8 giờ cho công việc của người thợ giầy.
- 8 giờ cho việc cầu nguyện.
- 8 giờ cho việc ăn uống nghỉ ngơi.
Sau khi nghe người thợ giầy nói, thánh nhân vẫn nản lòng vì chính ngài, ngài cũng đã dành không phải là 8 giờ cho việc cầu nguyện mà ngài đã dành hết cả ngày cho việc này.
Tuy nhiên, thánh nhân vẫn kiên nhẫn với ý định phải tìm hiểu thêm. Thế là ngài hỏi người thợ giầy về cách sử dụng tiền bạc của ông ta. Người này cho biết: 1/3 dành cho ông, 1/3 dành cho Giáo Hội và 1/3 dành cho người nghèo.
Sau khi được biết cách sử dụng tiền bạc của người thợ giầy, thánh nhân thấy rằng, người thợ giầy chưa thể hơn ngài được. Vì ngài dành không phải là 1/3 mà là dành tất cả của cải của ngài cho người nghèo cơ mà.
Tra vấn mãi, cuối cùng, thánh nhân mới thấy người thợ giầy nói đến nỗi thống khổ của ông, đó là ông phải sống trong một thành phố sa đọa. Việc này đã làm cho ông mất ăn, mất ngủ. Ông cho biết nhiều lần ông đã xin Chúa sớm giam ông trong hỏa ngục, vì như thế còn hơn là bắt ông cứ phải sống mà luôn nhìn thấy bao nhiêu người trong thành phố này sống trong cảnh sa đọa, dẫn tới trầm luân.
Nghe đến đây, thánh nhân mới chợt nhận ra rằng, đó là điều mà Ngài còn thua kém người thợ giầy. Ngài thấy rằng, ngài chưa có được sự thao thức về những nỗi khổ đau của những người xung quanh như người thợ giầy; trái lại, ngài lại đi tìm cho mình một cuộc sống an phận với nếp sống ẩn tu.
Thì ra, sự thao thức về những nỗi thống khổ của người khác cũng là cách chúng ta sử dụng thời giờ Chúa ban như những yến bạc để sinh lời cho Chuá. Và đây cũng chính là mức hoàn thiện mà thánh Antôn cảm thấy mình còn thua người thợ giầy.
2. “Hãy làm ăn sinh lợi cho đến khi tôi đến” (Lc 19,13b)
Thiền sư Trung Hoa Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc là vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho thầy”.
Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!”.
Đây là lời cầu nguyện của Thánh Anphongsô:
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Ai dìu dắt con trẻ trong đường khôn ngoan đích thực thì đời đời sẽ được sáng láng như sao trên trời”.
Lạy Chúa, xin giúp con
biết sống nghiêm nghị mà không nghiêm khắc
biết sống nhu mì mà không nhu nhược
biết sống khoan dung mà không dung túng
để nhờ đó con trẻ được thêm ngoan, thêm vui mà khai lòng mở trí ra
Sau hết, xin Chúa ban cho con: khi đang truyền đạt trí thức trần gian cho chúng, thì cũng không quên đào luyện trí thức về Nước Trời vĩnh cửu, để ở đời này thầy trò chúng con trở thành nhân chứng cho tình yêu của Thiên Chúa.
Ước gì hôm nay bao nhiêu học trò Chúa giao phó cho con, thì mai sau con trao lại cho Ngài bấy nhiêu đấng thánh trên Thiên Đàng. Amen.
Suy niệm 11: Sử dụng ơn ban của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn này, một số chi tiết thánh Luca so sánh Chúa Giêsu với Vua Hêrôđê Akêlao (xin Rôma phong vương, nhưng dân do thái không thích, giết những người không muốn ông làm vua) với ngụ ý vua Giêsu trổi vượt Hêrôđê. Có lẽ ta không cần chú ý đến chúng.
Đáng chú ý là dụ ngôn các yến bạc:
- Các yến bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa.
- Mt 25,15 viết rằng ông chủ giao cho các đầy tớ người thì 5 yến, người thì 2, người thì 1 (ngụ ý Chúa ban ơn không đồng đều).
Luca viết ông vua giao cho mỗi đầy tớ một yến bạc: Luca muốn lưu ý hai điều:
a/ công việc Chúa giao cho con người rất là nhỏ so với phần thưởng Ngài ban cho ta;
b/ Chúa không chú ý tới số lượng ơn ban, mà chú ý tới cố gắng của mỗi người.
- Khi khen thưởng, ông vua nói “Vì anh đã trung thành”. Đây là điều thứ ba Chúa lưu ý nơi mỗi người.
Tóm lại, dụ ngôn nói về ơn ban của Thiên Chúa và cách xử dụng ơn ban đó:
- Ai cũng nhận được ơn ban của Chúa.
- Số lượng ơn ban ta đã nhận không quan trọng bằng cố gắng và lòng trung thành của ta khi xử dụng những ơn ban đó.
- Kẻ trung thành và cố gắng xử dụng ơn ban sẽ được thưởng rất hậu.
B.... nẩy mầm.
1. Đừng nghĩ đơn giản rằng ơn Chúa ban chỉ là những tài năng, sức khoẻ và những điều kiện xem ra thuận lợi theo cái nhìn của con người.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân”. Như thế, ơn Chúa còn là:
a/ thời giờ;
b/ môi trường ta đang sống;
c/ những người ta sống chung;
d/ bệnh tật;
e/ đau khổ v.v....
2. Chúa Giêsu giảng dụ ngôn này liền sau chuyện ông Dakêu. Như thế Dakêu là gương mẫu cách xử dụng những nén bạc Chúa ban: ông đã xử dụng tốt tài sản của mình và đã tận dụng cơ hội Chúa Giêsu đi ngang qua nơi ông ở.
3. “Ai đã có (có ơn Chúa và biết xử dụng tốt) sẽ được cho thêm. Ai không có (có ơn Chúa nhưng không xử dụng tốt thì cũng kể như không có) thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi”. Tôi phải tự hỏi mình: Tôi đang “có” những gì? Tôi xử dụng chúng thế nào? Chúa sẽ “lấy đi” hay “cho thêm”?
4. Mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng nhà bác học Steinmetz một hôm nọ vẫn được Đại tướng Electric mời đến để sửa chữa một cỗ máy của ông bị hỏng. Tất cả các kỹ sư của Đại tướng đều đã bó tay không sửa được. Steinmetz quan sát cỗ máy rất kỹ, sau đó rút trong túi ra một viên phấn, ghi một dấu thập ở một bộ phận cỗ máy rồi bảo các kỹ sư tháo máy ra để sửa chỗ đó. Mọi người đều hết sức ngạc nhiên khi thấy máy bị hư ở chính chỗ nhà bác học đã đánh dấu. Sau khi máy được sửa xong, Đại tướng gởi đến nhà bác học một ngân phiếu lớn. Nhưng Steinmetz chỉ nhận một đồng, kém theo bản chiết tính tiền công như sau: công đánh dấu chỗ máy hư 1 xu; công tìm chỗ hư để đánh dấu 99 xu! (Clifron Fadiman).
5. “Hãy làm ăn sinh lợi cho đến khi tôi đến” (Lc 19,13b)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán rằng
“Kẻ nào dìu dắt con trẻ trong đường khôn ngoan đích thực
thì đời đời sẽ được sáng láng như sao trên trời”.
Để khuyến khích con chu toàn bổn phận hơn,
Chúa lại phán “Ai làm ơn lành cho chúng là làm ơn lành cho chính Ta”.
Điều này khiến con phải nhìn lại trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giáo dục.
Lạy Chúa, xin giúp con
biết sống nghiêm nghị mà không nghiêm khắc
biết sống nhu mì mà không nhu nhược
biết sống khoan dung mà không dung túng
để nhờ đó con trẻ được thêm ngoan, thêm vui mà khai lòng mở trí ra
Sau hết, xin Chúa ban cho con:
khi đang truyền đạt trí thức trần gian cho chúng,
thì cũng không quên đào luyện trí thức về Nước Trời vĩnh cửu,
để ở đời này thầy trò chúng con trở thành nhân chứng cho tình yêu của Thiên Chúa.
Ước gì bao nhiêu học trò Chúa giao phó cho con,
thì ở đời sau con sẽ được trao lại cho Ngài
bấy nhiêu Đấng Thánh trên thiên đàng. Amen. (Thánh Anphongxô).
16/11Thể hiện hoán cải cách cụ thể
- Viết bởi Lc 19, 1-10
Thể hiện hoán cải cách cụ thể.
Thứ Ba tuần 33 thường niên.
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Lời Chúa: Lc 19, 1-10
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.
Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi".
Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xuống mau đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Ở thành phố Giêricô không chỉ có anh mù Báctimê ngồi ăn xin,
mà còn có ông Giakêu, đứng đầu các người thu thuế.
Ông là người giàu có, nhưng thật ra ông là người nghèo,
vì ông bị mọi người khinh rẻ bởi cái nghề thu thuế của ông.
Giakêu đi chung với đám đông, theo sau Đức Giêsu.
Ông có một khao khát mãnh liệt là được thấy mặt Ngài,
vì chắc ông đã nghe nhiều người nói về vị ngôn sứ khác thường này.
Giêsu không khinh giới thu thuế, trái lại còn kết bè kết bạn với họ.
Giêsu là ai? Đó là người ông tìm cách gặp mặt (c. 3).
Có hai cản trở khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khó khăn.
Đám đông vây quanh Đức Giêsu khiến ông không thấy Ngài.
Hơn thế nữa, thân hình ông lại thấp bé.
Nhưng Giakêu không nản lòng.
Ông chạy đón đàng trước và leo lên một cây sung để thấy Đức Giêsu,
vì ông biết thế nào Ngài cũng đi qua đó.
Như thế ông đã vượt qua được đám đông và sự thấp bé của mình.
Để vượt qua thì phải chạy chứ không đi từ từ,
và phải vất vả leo lên cao, vượt lên trên cái tôi nhỏ bé.
Giakêu khao khát đến mức nào mới dám nghĩ và dám làm như vậy.
Điều mà Giakêu không ngờ là Đức Giêsu đã dừng lại nơi cây sung,
và ngước mắt nhìn lên ông đang nằm bò trên cây như một đứa trẻ.
Ánh mắt của Ngài kéo theo hàng trăm cái nhìn khác của đám đông.
Giakêu chắc xấu hổ luống cuống, còn Đức Giêsu thì hạnh phúc tràn trề.
Dường như Ngài quên đám đông, để chỉ nghĩ đến con chiên lạc này.
“Giakêu, xuống nhanh đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (c. 5).
Đây là một lời hối thúc dịu dàng và một đề nghị bất ngờ.
Giakêu ngỡ ngàng trước ánh mắt ấy, lời nói ấy.
Ông đã nhanh chóng leo xuống và dẫn Đức Giêsu về nhà mình.
Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không biết,
nhưng chắc chắn đó là đoạn đường đầy niềm vui.
Giakêu bỗng thấy mình mất đi mặc cảm tự ti, lấy lại được danh dự,
vì Đức Giêsu sắp đến nhà ông, căn nhà ít ai muốn đến (c. 7).
Ông chỉ muốn thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn vén mở lòng mình.
Cách cư xử của Ngài đối với một người tội lỗi như ông
đã làm lòng ông tan chảy và mời gọi ông đổi đời.
Những thứ ông từng say mê, bây giờ chẳng có gì hấp dẫn.
“Tôi xin cho người nghèo nửa tài sản của tôi…” (c. 8).
Giakêu đã hoán cải một cách bất ngờ, tự nguyện, sâu xa và cụ thể.
Cuộc đổi đời của Giakêu là kết quả của việc hai người đi tìm nhau.
Không phải chỉ Giakêu mới là người đi tìm.
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (c. 10).
Giakêu dạy cho chúng ta biết cách tìm kiếm Chúa trong đời.
Phải ước ao cho mãnh liệt, rồi ta sẽ được soi sáng để tìm ra con đường,
ngay cả khi ở trong tình huống tưởng như tuyệt vọng.
“Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (c. 9).
Giakêu đã quảng đại và vui sướng, mở lòng để đón lấy ơn cứu độ đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen
Suy niệm 2: Vượt thắng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sống là chiến đấu. Với ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ngay trong bản thân. Vì thế phải chiến đấu với chính mình. Nước Trời dành cho ai thắng vượt chính mình.
Ông Gia-kêu hôm nay thắng vượt chính mình. Đời ông chìm trong tội lỗi. Tội lỗi công khai. Tội lỗi thầm kín. Tội lỗi khiến ông tuy giầu có nhưng băn khoăn ray rứt. Muốn tìm cách thoát ra. Muốn thoát ra phải vượt qua chính mình. Nên ông trèo lên cây sung. Bất chấp tuổi tác. Bất chấp địa vị. Nhưng lạ chưa. Chúa nhìn thấy ông từ bao giờ. Chúa ngỏ lời với ông khi ông chưa kịp ngỏ lời với Chúa. Chúa xin vào nhà ông trước khi ông dám lên tiếng mời Chúa. Chúa đã đi bước trước. Ông liền cởi mở. Không những mở cửa nhà mà còn mở cả tấm lòng. Đón Chúa vào ông tống khứ hết những gì đối nghịch với Chúa. Tống khứ hết những gì khiến lương tâm ông ray rứt không yên nghỉ. Hoàn toàn dứt bỏ cuộc sống cũ. Hoàn toàn chết cho con người cũ. Để sống cho con người mới. Chúa công khai nhận ông là con cháu Áp-ra-ham. Lớn tiếng chúc phúc cho ông và gia đình.
Ê-la-da cũng đã hoàn toàn chiến thắng. Ông đã suốt đời thờ phượng Chúa. Ông quyết chết cho Chúa. Nên không chịu giả hình. Ông quyết trung thực, ngay thẳng. Hiên ngang làm chứng cho Chúa. Ông đã sống cho Chúa. Ông sẽ chết cho Chúa. Ông đã vượt thắng thế gian. Vượt thắng nỗi ham sống sợ chết. Vì ông tin tưởng. Chúa cao cả hơn trần gian. Đời sau đáng quí hơn đời này. Ông nói: “Đức Chúa là Đấng thông suốt mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người” (năm lẻ).
Sách Khải huyền khích lệ ta phải chiến đấu để thắng vượt thế gian. “Ai thắng sẽ được mặc áo trắng”. Và thắng vượt chính mình. Đừng sống dật dờ uể oải. Phải tích cực “Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta”. Phải tích cực tống cổ thói xấu. Phải sẵn sàng mở cửa đón Chúa vào. “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy…Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta, trên ngai của Ta” (năm chẵn).
Thật hạnh phúc. Khi ta thắng vượt chính mình. Ta sẽ được phần thưởng là chính Chúa. Sẽ được ở với Chúa. Dự tiệc với Chúa. Lạy Chúa, xin ban sức mạnh. Để con chiến thắng trong cuộc chiến này. Amen.
Suy niệm 3: Hoán cải đích thực
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này. Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Ðối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Thủ lãnh người thu thuế
Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô luôn luôn là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hay tránh né cuộc gặp gỡ này với những lý do này, lý do nọ. Hôm qua, chúng ta cùng nhau Suy niệm về thái độ khiêm tốn của anh mù ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô, nhưng vội vàng nắm lấy vận may khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua và chân thành cầu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót con. Xin cho con được nhìn thấy". Và anh đã được nhìn thấy ơn lành của Chúa và ca tụng Ngài.
Hôm nay, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một cuộc gặp gỡ khác nữa, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Dakêu, người thu thuế. Cuộc gặp gỡ này đã mang đến cho ông Dakêu ơn ăn năn trở lại và sự an vui trong tâm hồn mà ông hằng mong ước.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Dakêu, chúng ta thấy có hai thái độ:
- Thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác gặp được Chúa, được ơn lành của Ngài và ăn năn trở lại. Ðó là thái độ mà chúng ta nhìn thấy nơi những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đến trú ngụ và chia sẻ tình thân với ông Dakêu qua bữa tiệc: "ông này trú ngụ tại nhà người tội lỗi và là tội lỗi nặng, đã bị cộng đồng chối từ loại bỏ". Thái độ của họ cũng giống như thái độ của những người ngăn trở không cho anh mù ăn xin bên vệ đường đến gặp Chúa Giêsu. Họ ngăn cản anh, bảo anh hãy im đi. Liệu chúng ta có có thái độ giống như vậy hay không?
Chúng ta có thể tự phụ mình là người công chính mà khinh dể anh chị em chung quanh. Xét đoán anh chị em là kẻ tội lỗi và không đáng gặp Chúa Giêsu, không đáng lãnh nhận ơn lành Ngài ban, không đáng được thông cảm để trở về với Chúa và canh tân đời sống tốt đẹp hơn. Chúng ta có thái độ tự phụ như vậy không? Không ai xấu xa mãi mãi đến độ không đáng hưởng nhận lòng nhân từ và sự tha thứ của Chúa.
- Thái độ thứ hai là thái độ của ông Dakêu, người thu thuế trưởng và giàu có. Hai chi tiết này không nhằm mô tả địa vị xã hội của ông, mà mô tả tình trạng tinh thần của ông. Người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai, tội phản bội quê hương, tội cộng tác với ngoại bang đế quốc Rôma thống trị và tội gian lận tham nhũng tiền thuế, vì người thu thuế có quyền do người Rôma thống trị ban cho là thu thuế cao mà chỉ góp cho chính quyền Rôma theo mức qui định thấp hơn để có thể có lợi cho mình. Ông Dakêu là người thu thuế trưởng và giàu có. Sự giầu có chứng minh là ông đã có hành vi bất chính để làm giàu, đó là thu nhiều nộp ít để làm giàu. Ðối với người đồng hương của ông, hay những kẻ tự phụ cho mình là người công chính mà khinh dễ kẻ khác, ông Dakêu là con người tội lỗi, và tội của ông ta không thể tha thứ được nữa.
Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài vốn đến là để cứu chữa những gì đã hư mất, thì ông Dakêu lại là nơi để thể hiện tình thương nhân từ của Ngài. Nơi con người tội lỗi Dakêu, còn có một khát vọng hướng về Chúa. Ông chỉ mong ước được nhìn xem Chúa đi qua. Ðây là yếu tố căn bản mà Chúa thi ân cho con người. Từ khao khát gặp được Chúa đến việc ăn năn trở lại, không có khoảng cách không vượt qua được. Chúa Giêsu có thể vượt qua được khoảng cách này một khi con người có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của ông Dakêu có thể khuyến khích chúng ta trên con đường trở về với Chúa. Ông Dakêu đã thể hiện sự trở lại của mình bằng hành động cụ thể, phân phối một nửa của cải cho anh chị em để thể hiện tình liên đới bác ái và đền bù gấp bốn những thiệt hại đã gây ra. Liệu chúng ta có can đảm như vậy hay không?
Lạy Chúa,
Chúng con đã nhiều lần dốc lòng với Chúa sẽ làm điều này, làm việc kia để chứng tỏ đã được trở về với Chúa. Nhưng có thể chúng con không can đảm, không nghiêm chỉnh đủ để làm như ông Dakêu đã làm. Xin cho chúng con đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa. Ơn Chúa mạnh hơn tội lỗi nhưng chúng con phải cộng tác với ơn Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương giúp chúng con trở về với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim
Ông Da-kêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo.”Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất. (Lc. 19, 8b-10)
Ông Gia-kêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giê-ri-cô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Gia-kêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Gia-kêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Ít-ra-en về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Ít-ra-en vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Gia-kêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Gia-kêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.
RC
Suy niệm 6: Cái nhìn của Thiên Chúa khác với loài người
Xem thêm CN 28TN A (Mt 22,1-14) và thứ Năm tuần 20 TN
Bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, vì thế: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12,20a). Khi Đức Giêsu đến, Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót nơi Thiên Chúa, nên chính Ngài đã nói: "Con Người đến tìm kiếm và cứu những gì đã mất".
Câu chuyện về ông Dakêu khi được Đức Giêsu ngỏ ý về nhà ông và cuộc sám hối cũng như hành động bác ái của ông cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Nếu người Dothái nhìn ông Dakêu dưới con mắt khinh thường, căm phẫn như tội đồ của dân tộc, ngang hàng với hạng gái điếm, đáng phải nguyền rủa và phải chết, nên không bao giờ tha thứ cũng như không thể đội trời chung, thì Đức Giêsu nhìn ông với con mắt nhân từ và sâu thẳm, nhìn với con mắt mong muốn được ban ơn cho ông nếu ông trở về với lương tâm chân chính!
Chính cái nhìn bao dung và đầy lòng thương xót của Đức Giêsu đã khiến ông khám phá và tìm ra được chìa khóa của sự bình an nội tâm. Vì thế, ông đã làm một cuộc cách mạng thay đổi tận căn khi sẵn sàng phân nửa tài sản cho người nghèo; sẵn sàng đền gấp bốn khi đã chót cưỡng đoạt của ai đó điều gì...!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có cái nhìn cảm thông, yêu thương như Đức Giêsu. Cần có thái độ ghét tội chứ không được ghét người có tội. Vì thế, phải yêu thương và gần gũi những kẻ tội lỗi để nâng đỡ và giúp họ vượt ra khỏi con đường lầy lội trong tội mà họ đang vướng vào.
Mặt khác, Lời Chúa cũng mời gọi chính chúng ta, mỗi lần rước lễ, ấy là lúc chúng ta được hạnh phúc tuyệt vời khi có Chúa hiện diện trực tiếp trong tâm hồn mình. Thế nên, chúng ta cần phải thay đổi đời sống của mình để trở thành người tốt hơn. Nếu trước kia, chúng ta luôn có cái nhìn kết án, ghen ghét, ích kỷ, vụ lợi, thì giờ đây, mỗi lần rước Mình Thánh Chúa vào lòng, chúng ta hãy có thái độ tha thứ, bao dung, bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mặc lấy tâm tình của Chúa là nhân từ, hiền hậu và bao dung. Xin Chúa cũng cho chúng con biết sẵn sàng tha thứ và bác ái với tha nhân khi chúng con nhận ra chính mình cũng được Thiên Chúa thứ tha và yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Chúa giàu lòng thương xót Dakêu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đến tìm và cứu vớt những người tội lỗi. Trước tình thương của Chúa, ta hãy hoán cải cách thật lòng và quảng đại như ông Dakêu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc hoán cải của ông Dakêu cho con hiểu được phần nào trái tim Chúa giàu lòng thương xót. Chúa đã đến để tìm cứu vớt chúng con là kẻ tội lỗi. Ai cũng nghĩ rằng kẻ có tội thì đáng lên án, đáng trừng phạt và khai trừ. Nhưng khi con phạm tội Chúa đã tha thứ thay vì kết án. Chúa đi tìm thay vì xua đuổi. Chúa không ngần ngại lại gần con thay vì làm ngơ hoặc xa tránh. Chúa đến để nâng con dậy thay vì nhận chìm cuộc đời con. Chính Chúa lên tiếng gọi tên con trước khi con thốt ra được một lời tạ tội. Chúa không phải là Thiên Chúa thích báo oán, nhưng là Thiên Chúa của tình thương. Chúa yêu thương con khi con đang là tội nhân.
Lạy Chúa, xin cho con được như ông Dakêu cảm nhận được lòng thương xót Chúa dành cho con. Xin cho đôi mắt con nhận ra ánh mắt trìu mến Chúa đang nhìn đến con. Xin cho bước chân con vội vàng chạy đến cùng Chúa. Xin cho lòng con mở ra và vui mừng đón rước Chúa. Xin cho ý chí con được quyết tâm đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho đôi tay con rộng mở để biết sống công bằng và chia sẻ cách quảng đại vui lòng.
Lạy Chúa, một lần gặp gỡ Chúa đã thực sự là một biến cố làm chuyển hướng cuộc đời ông Dakêu. Một cuộc đời đã mất, nhưng đã được Chúa tìm thấy. Một cuộc đời đã chìm ngập, nhưng đã được Chúa cứu vớt. Con đã nhiều lần ở sát bên Chúa nhưng có thể chưa một lần gặp gỡ thực sự. Xin cho con được gặp Chúa để từ nay chuyển hướng cuộc đời theo dấu chân Chúa. Dù nhà linh hồn con tội lỗi bất xứng, xin Chúa dủ lòng thương đến trọ và ở lại luôn mãi. Xin giúp con luôn sống trong niềm vui của ơn cứu độ. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Suy niệm 8: Con Người đến cứu những gì đã mất
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một bà mẹ lo lắng nhiều cho đứa con trai không đi nhà thờ, mà lại đi theo những bạn bè xấu và còn tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Vào một ngày Chúa nhật, bà nảy ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện. Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố đối diện với chúng ta. Nếu con làm cho mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa”.
Có lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mẹ anh yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gửi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu”.
Chàng ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khác, mà anh đã mua với chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Kể từ đó, chàng thanh niên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn (Theo Lòng nhân từ cảm hóa).
Suy niệm
Với người dân Do Thái, người thu thuế là tay sai cho đế quốc La Mã, đô hộ và bóc lột đồng bào. Hơn nữa, thu thuế là nghề nghiệp có thể lợi dụng chức quyền ăn chặn của công, của tư để trục lợi cho bản thân. Giakêu “sếp thu thuế” là ông trùm người tội lỗi, con người ghê tởm, đáng bị mọi người ghét bỏ.
Giakêu thắc mắc, tò mò về Chúa Giêsu, Người đang được thiên hạ bàn tán xôn xao khắp cùng ngõ hẻm. Không biết hỏi ai, ông cũng hòa với đám đông, nhưng không để đón, mà để xem ông Giêsu thế nào cho thỏa sự tò mò. Người ông thấp bé không thể thấy Đấng Ngôn sứ Giêsu, nên chỉ còn cách chạy lên đằng trước leo lên cây sung nhìn xuống (x. Lc 19,3-4). Chúa Giêsu đi ngang qua Giêricô, Ngài đi ngang chỗ của Giakêu. Ngài dừng lại và ngước nhìn lên chỗ Giakêu, cái nhìn nhân từ và khoan dung, Ngài cất lời: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19,5).
Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương. Chính tấm lòng đó đã làm thay đổi Giakêu. Giakêu không còn chỉ thấy tiền bạc, quyền lực, giàu sang, nhưng giờ đây mang tâm tình chia sẻ và trao ban: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Ông Giakêu xin đền gấp bốn, nghĩa là ông tự thú công khai: Tội ông quá nặng. Còn theo luật Rôma, đối với những tội trộm cắp công khai thì phải đền gấp bốn. Cho nên, quyết định của ông vừa là khiêm nhường, vừa là công bình, vừa là bác ái.
Sống trong tinh thần công bình bác ái khiêm cung là kết quả của ơn cứu độ như Chúa Giêsu có nói: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham” (Lc 19,9). Ơn cứu độ đã khiến cho con tim của Giakêu đổi mới như ngôn sứ Êdêkien nói Lời Thiên Chúa: “Ta sẽ ban cho ngươi một trái tim mới và đặt một tinh thần mới trong người của Ta, hầu các ngươi giữ gìn và hành động theo đúng lệnh Ta” (Ed 36,26).
Hình ảnh đổi mới của Giakêu, gợi cho chúng ta mang tâm tình: Khao khát gặp Chúa Giêsu. Được gặp tình thương của Chúa thanh tẩy, chúng ta bước ra khỏi vùng trũng thẳm sâu tăm tối và tiến lên với một tinh thần mới, tinh thần công bình bác ái như Giakêu. Tinh thần chúng ta vượt qua tăm tối tiến lên Giêrusalem ánh sáng trong niềm vui được cứu độ. Bởi vì “Thiên Chúa đã viếng thăm cứu chuộc dân Người” (Lc 1,68).
Ý lực sống
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. (Lc 19,10b)
Suy niệm 9: Đức Giêsu gặp ông Giakêu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Ông Giakêu là một người tội lỗi và đứng đầu những người thu thuế. Ông đã tìm đến Chúa và đã được hoán cải. Việc Đức Giêsu hoán cải người thu thuế làm nổi bật vai trò của Ngài: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Chính Đức Giêsu đã đi bước trước, chúng ta chỉ cần mở lòng đón nhận Người. Ban đầu ông Giakêu đã tìm mọi cách chỉ để cho biết Chúa là ai. Nhưng sau khi Đức Giêsu trao ánh mắt thân thương, được đối thoại và được Đức Giêsu thăm viếng, ông đã biến đổi hoàn toàn. Ông sẵn sàng đền bù những của cải ông cưỡng đoạt của người khác và thực thi bác ái đối với người nghèo.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng câu chuyện của ông Giakêu trở lại như thế nào. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với hạng người trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ làm việc cho người Rôma, nên người ta cho họ là những kẻ phản bội và ruồng bỏ họ. Trái lại, Đức Giêsu lại có lối hành xử khác. Ngài kêu gọi ông, lại còn đến ăn uống và trọ trong nhà ông nữa. Việc này làm cho người Do thái rất tức giận. Ngài xử sự như thế, để tỏ rõ sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động bởi lòng nhân hậu của Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy những sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi.
Đối với Đức Giêsu, Ngài vốn đến là để cứu chữa những gì đã hư mất, thì ông Giakêu lại là nơi để thể hiện tình thương nhân từ của Ngài. Nơi con người tội lỗi Giakêu, còn có một khát vọng hướng về Chúa. Ông chỉ mong ước được nhìn xem Chúa đi qua. Đây là yếu tố căn bản mà Chúa thi ân cho con người. Từ khao khát được gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại, không có khoảng cách không vượt qua được. Đức Giêsu có thể vượt qua được bằng cách này, một khi con người đã có sẵn thái độ mong chờ Ngài đến. Thái độ của ông Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trên con đường trở về với Chúa. Ông Giakêu đã thể hiện sự trở lại của mình bằng hành động cụ thể, phân phối một nửa của cải cho anh chị em để thể hiện tình liên đới bác ái và đền bù gấp bốn những thiệt hại đã gây ra. Liệu chúng ta có can đảm như vậy không ? (R.Veritas)
Có vẻ không phải như Đức Giêsu có ý “tìm” Giakêu cho bằng ông này tìm mọi cách để nhìn thấy Chúa. Ông là một người thấp bé bị coi là tội lỗi do ông là người “đứng đầu những người thu thuế”. Ông là người bị coi là “hư mất” trong xã hội Do thái. Cách ông tìm đến với Chúa cho thấy quả thật ông là người bị loại trừ: Ông bươn bả “chạy tới phía trước, trèo lên một cây sung”, để chờ Đức Giêsu đi qua. Thế nhưng không phải là chuyện tình cờ ngẫu nhiên mà Đức Giêsu nói Ngài đến để “tìm và cứu” Giakêu. Đi giữa đám đông hỗn độn, nhưng rõ ràng Ngài có ý tìm kiếm và tìm kiếm đích danh một người, một người bị loại trừ. Đi ngang qua cây sung, Ngài nhìn lên, Ngài đã thấy và gọi ông: “Giakêu xuống mau đi, vì hôm nay Ta đến trọ nhà ông”. Lời kêu gọi ấy đã cứu không chỉ một người hư mất mà cả gia đình ông Giakêu: “Hôm nay ơn cứu độ đến cho nhà này” (5 phút Lời Chúa).
Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu đã khen cho ông Giakêu một câu chắc như đinh đóng cột: “Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” (câu đố dân gian).
Nếu chúng ta có gặp được ông Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi, thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự thay đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngoài không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn:
Thân em như quả ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi nếm thử mà xem,
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
Truyện: Gương của cha Charles de Foucauld
Chiều hôm ấy trong bầu không khí ấm cúng của gia đình và bạn bè thân thích, viên sĩ quan trẻ tuổi tài ba người Pháp Charles de Foucauld đang thao thao những điều mắt thấy tai nghe và những chiến công của mình trong cuộc viễn chinh tại Marốc, Bắc Phi.
Đang lúc Charles say sưa kể như thế, thì một đứa cháu gái nhỏ lân la đến bên. Cô bé đặt tay lên gối của ông cậu hào hoa phong nhã, rất thông minh, rồi hỏi:
- Cậu ơi, cậu đã làm được biết bao nhiêu là chuyện như thế cho đất nước, thế nhưng cậu đã làm được việc gì cho Chúa chưa ?
Câu hỏi của đứa cháu gái đã làm cho Charles suy nghĩ cả một buổi chiều và một đêm. Sáng hôm sau, Charles đến gặp một người bạn học cùng lớp là cha Huvelin, chàng xin xưng tội. Với ơn soi sáng, Charles đã quyết định thay đổi cuộc đời. Chàng nhất định bỏ binh nghiệp, dù chàng thấy rõ một tương lai rạng ngời ở trước mặt, để dấn bước theo Chúa Giêsu và noi gương Ngài sống cuộc đời khó nghèo.
Suy niệm 10: Chuyện ông Giakêu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện của ông Giakêu.
Đây là câu chuyện nói về sự cố gắng của con người và lòng nhân hậu bao dung của Chúa.
1. Sự cố gắng của ông Giakêu
Chúng ta không biết ông Giakêu có biết Chúa hay không và biết từ bao giờ, nhưng Tin Mừng Luca cho chúng ta biết: “Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. (Lc 19,3)
Rõ ràng là Giakêu có một ước vọng muốn được thấy Chúa. Có lẽ có ai đó đã nói với ông về con người đặc biệt này. Và hôm nay là cơ hội. Ông phải chụp lấy ngay. Cách thức ông thực hiện điều ông mong muốn tuy có vẻ “trẻ con” nhưng nó nói lên một điều: ông thực sự muốn được thấy Chúa. Đứng trước một khó khăn tưởng chừng như khó có thể vượt qua - con người thấp bé của ông lúc này quả là một trở ngại, thế nhưng vì ông khao khát mạnh cho nên ông đã tìm được một phương tiện trời cho và ông đã tận dụng ngay lập tức: Một cây sung bên đường, con đường Chúa sắp đi qua. Cây sung bình thường hằng ngày chẳng có gì đặc biệt, nhưng ở vào hoàn cảnh cấp bách này nó đã trở thành một điều kiện không thể thiếu để bổ túc và cho ông một phương tiện giúp ông có thể nhìn thấy Chúa vì Ngài sắp đi qua đó.
Ông nao nức nôn nóng chờ đợi. Và rồi những gì ông mong ước đã tới. Chúa đưa mắt nhìn lên và Chúa thấy một Giakêu người mà dân chúng căm ghét đang “tòng teng” trên đó. Hai đôi mắt gặp nhau, Và điều mà Giakêu không thể ngờ là Chúa biết cả tên ông và Chúa gọi ông.
Chúng ta không thể tưởng tượng nổi là ông Giakêu vui như thế nào.
Và sau đó Chúa đã làm cho Giakêu trở thành một con người hoàn toàn đổi mới.
2. Với con người thì Giakêu bị liệt vào số những người đáng bị loại trừ nhưng Chúa Giêsu thì khác. Chúa thấy được một Giakêu đang là và một Giakêu sẽ là nên Chúa nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19,5)
Trong một lớp học trung học nọ có hai học sinh cùng mang tên Johnny. Một, thường xuyên đạt điểm tối đa trong các kỳ kiểm tra. Đó là “Johnny thân thiện”. Cậu ta rất chăm học, thường xuyên giúp đỡ các bạn cùng lớp và phụ giúp thầy cô chuẩn bị các bài thực hành. Còn một Johnny khác lại luôn lầm lì, khó chịu, thường tỏ ra chống đối giáo viên, lại chẳng kết bạn với bất kỳ ai. Các học sinh trong lớp vẫn gọi cậu với cái tên “Johnny chống đối”.
Trong một buổi họp phụ huynh, một phụ nữ với vẻ trẻ trung và sang trọng đến gần thầy giáo Escalante và hỏi:
- Johnny vẫn học tốt phải không thầy ?
Thầy Escalante nghĩ ngay rằng đây đích thị là phụ huynh của Johnny “thân thiện”, vì câu hỏi đó thường chỉ xuất hiện ở người mẹ vẫn hay được nghe những lời khen về con mình. Nghĩ thế nên thầy không ngại dành rất nhiều lời khen cho Johnny và còn khẳng định với bà rằng, Johnny sẽ còn tiến xa hơn nữa trong tương lai vì thái độ học tập nghiêm túc, sự năng nổ, nhiệt tình và tính cách đáng yêu, thân thiện với tất cả mọi người.
Sáng hôm sau, Johnny “chống đối” đến gặp thầy Escalante. Trái với vẻ bất cần thường ngày, cậu nhìn thầy với vẻ biết ơn:
- Em cám ơn thầy vì những lời khen thầy dành cho em ngày hôm qua. Mẹ đã rất tự hào về em. Từ lúc này trở đi, em muốn chứng minh những điều thầy nói là sự thật.
Và Johnny “chống đối” đã làm được những gì cậu hứa. Kết quả học tập của cậu khá lên nhanh chóng đến mức đáng kinh ngạc. Cuối năm, Johnny “chống đối” được xếp loại khá và đến khi ra trường, cậu chính là một trong những học sinh có thành tích học tập xuất sắc nhất trường.
Chúng ta thừa biết vì sao mà sự việc thay đổi tốt như vậy.
3. “Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng: Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. (Lc 19,8)
Một sự thay đổi ngoạn mục!
Chiều hôm ấy trong bầu không khí ấm cúng của gia đình và bạn bè thân thích, viên sĩ quan trẻ tuổi tài ba người Pháp Charle de Foucauld đang thao thao kể lại những điều mắt thấy tai nghe và những chiến công của mình trong cuộc viễn chinh tại Maroc, Bắc Phi.
Đang lúc Charle say sưa kể như thế, thì một đứa cháu gái nhỏ lân la đến bên. Cô bé đặt tay lên gối của ông cậu hào hoa phong nhã, rất thông minh, rồi hỏi:
- Cậu ơi cậu đã làm được biết bao nhiêu là chuyện như thế cho đất nước, thế nhưng cậu đã làm được việc gì cho Chúa chưa ?
Câu hỏi của đứa cháu gái đã làm cho Charle suy nghĩ cả một buổi chiều và một đêm. Sáng hôm sau, Charle đến gặp một người bạn học cùng lớp là cha Huvelin, chàng xin xưng tội. Với ơn soi sáng, Charle đã quyết định thay đổi cuộc đời. Chàng nhất định bỏ binh nghiệp, dù chàng thấy rõ một tương lai rạng ngời ở trước mặt, để dấn bước theo Chúa Giêsu và noi gương Ngài sống cuộc đời khó nghèo.
Suy niệm 11: Thay đổi ngoạn mục của Dakêu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
2. Có hai nhân tố tạo nên sự thay đổi đó:
- một là những cố gắng của chính Dakêu: “tìm cách xem” mặt Chúa Giêsu, “chạy tới phía trước”, “leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu”.
- hai là lòng nhân từ của Chúa Giêsu: Ngài “nhìn lên” ông, Ngài gọi ông “xuống mau đi”, Ngài đưa đề nghị đến nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chúa Giêsu tự giới thiệu là “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
B.... nẩy mầm.
1. Ơn cứu độ là kết quả sự hợp tác của hai phía: con người (Dakêu “tìm cách xem” mặt Chúa, “chạy tới phía trước”, “leo lên cây sung”) và Thiên Chúa (Chúa Giêsu “nhìn lên”, gọi Dakêu, và đến “trọ nhà” ông).
2. Dakêu là hình ảnh:
- của những người giàu: giàu tiền nhưng nghèo đạo đức thì trong lòng vẫn còn thiếu thốn và trống trải. Dakêu đi tìm Chúa Giêsu để lấp đầy khoảng trống thiếu thốn trong lòng mình.
- của người môn đệ: Tin Mừng Luca thường ghi lại những lời Chúa Giêsu khuyên môn đệ hãy bán tài sản để mua Nước Trời, hãy đem tài sản phân phát cho người nghèo rồi theo Ngài. Dakêu đã làm đúng như vậy.
- của người hoán cải: trước khi hoán cải, Dakêu thu gom tiền bạc, làm hại người khác, ích kỷ. Sau khi hoàn cải, ông không tiếc tiền, dùng tiền một cách quảng đại để đền bù thiệt hại mình đã gây ra cho người khác, lại còn bố thí cho người nghèo. Khi hoán cải, người ta trở nên quảng đại, vì người ta biết rằng những gì mình cho người khác chẳng đáng là gì so với những gì Chúa ban cho mình.
3. “Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta chìa khóa của sự bình an, đó là hãy sống quảng đại. Thiên Chúa đang ngự trong tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta chỉ cảm nhận được sự hiện diện đó nếu chúng ta ra khỏi chính mình để sống quảng đại với người khác” (trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Dakêu chắc không phải tình cờ. Một trong những ý định khiến Chúa Giêsu đi ngang qua Giêrikhô là để tìm cứu Dakêu, như lời Ngài nói “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Ơn cứu độ luôn sẵn đó. Chỉ cần kẻ “hư mất” chịu khó tìm đến Chúa để lãnh nhận thôi.
5. Telemachus là một ẩn sĩ. Một hôm Chúa thúc đẩy ông rời rừng để đi đến thành Rôma. Rôma là thủ đô Kitô giáo, nhưng ở đó vẫn còn tồn tại một tục lệ dã man là những trận giác đấu đã làm chết biết bao nhiêu mạng người. Tệ hơn nữa là khán giả rất thích cảnh giết người dã man đó. Telemachus nghĩ: “Khi nào người ta còn thích tàn sát lẫn nhau thì người ta chưa sống xứng đáng là con Chúa”. Nghĩ thế rồi Telemachus đi vào một đấu trường. Ông chạy vào giữa những lực sĩ giác đấu để khuyên họ ngừng tay. Nhưng không ai nghe, họ còn đầy ông ra. Dù vậy ông vẫn cứ xông vào tiếp tục khuyên can. Viên quan cai quản đấu trường cho rằng Telemachus cố tình phá hoại cuộc vui nên rút gươm hạ sát ông. Khi Telemachus ngã xuống, người ta mới biết là đã giết lầm một vị thánh. Người ta hối hận. Và từ đó đế quốc Rôma bãi bỏ tục giác đấu. Bằng cái chết của mình, Telemachus đã giúp cho Rôma hoán cải.
Việc hoán cải một tập thể phải bắt đầu từ một con người. Muốn hoán cải một gia đình thì một người nào đó trong gia đình phải khởi sự hoán cải trước. Muốn hoán cải một cộng đoàn thì phải có ai đó trong cộng đoàn khởi sự trước. (Barclay)
6. “Ông Dakêu đứng lên thưa với Chúa rằng: Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8)
Ngồi học bài mà tôi không thể yên được vì thỉnh thoảng tiếng la ó cổ vũ cho đội tuyển VN trong Cúp Châu Á lại rộn lên. Bầu khí gia đình tôi vui hẳn lên. Ai cũng xôn xao phấn khởi trước những bàn thắng của đội nhà. Đến lớp, các bạn tôi dường như gần gũi nhau hơn và nói về thắng lợi của đội tuyển VN như là thắng lởi của chính mình. Niềm vui khiến người ta gần gũi nhau hơn.
Niềm vui của một Dakêu được gặp Chúa, được Con Thiên Chúa “đụng chạm” đến đã cho ông sức mạnh phá đổ mọi hàng rào ngăn cách giữa mình với anh em.
Giêsu ơi, xin Lời Chúa và Thánh Thể mà con được diễm phúc lãnh nhận trở nên niềm vui, nguồn hạnh.
15/11 Người mù thành Giêricô
- Viết bởi Lc 18, 35-43
Người mù thành Giêricô.
Thứ Hai tuần 33 thường niên.
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
LỜI CHÚA: Lc 18, 35-43
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua.
Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!"
Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xin cho tôi nhìn thấy
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.
Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,
Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.
Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,
nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.
Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.
Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.
Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.
Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.
Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).
Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.
Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,
anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.
Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.
Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.
Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.
Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.
Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?
Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?
Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.
Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,
và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.
Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).
Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.
Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.
Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.
Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.
Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.
Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).
Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).
Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”
Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.
Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.
Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,
tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?
Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.
Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.
Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).
Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.
Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).
Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,
đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.
Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,
và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga 16, 13).
Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu
mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen
Suy niệm 2: Xin cho con được thấy
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai cũng băn khoăn về tương lai. Ai cũng muốn biết xem định mệnh của mình rồi sẽ ra sao. Nhưng tương lai chưa tới. Định mệnh con người là một bí mật. Ai nhìn biết sẽ trở thành người thông sáng. Vì sẽ có tương lai rạng rỡ. Ai không biết sẽ trở thành người mù tối. Và sẽ làm cho tương lai ngập tràn bóng tối. Người thông sáng hiểu biết phải nắm vững chân lý nền tảng này: Thiên Chúa làm chủ trời đất và vận mệnh con người. Tôn thờ Chúa là nguồn hạnh phúc. Thực hành thánh ý Chúa đem lại thành công cho cuộc đời.
Vua An-ti-ô-khô không hiểu điều đó. Vua thật mù tối, Dám tự xưng mình là Chúa. Bắt thần dân phải thờ lạy mình. Dám chống lại Thiên Chúa. Vì thế hậu vận của vua sẽ vô cùng đen tối. Người Do thái cũng mù tối không kém. Họ đang thờ phượng Chúa lại bỏ theo vua. Tệ hơn nữa họ còn xé bỏ lề luật của Chúa. Họ thật mù tối. Đang ở chỗ sáng lại đi vào bóng tối. Đang thờ phượng Chúa là Chúa Tể lại quay sang thờ vua là loài thụ tạo. Họ đang đi vào hố diệt vong (năm lẻ).
Chẳng ai được như anh mù từ thuở mới sinh. Tuy mù thể xác nhưng đức tin lại sáng ngời. Đức tin sáng suốt nên anh tin nhận Chúa Giê-su là Con Vua Đa-Vít. Là Đấng Cứu Thế. Biết đức tin là cần. Biết chỉ có Chúa Giê-su mới có thể cứu anh. Nên anh lớn tiếng vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Độ, vừa tha thiết cầu xin “Xin cho con được thấy”. Thấy Chúa. Thấy ơn cứu độ. Thấy tương lai tươi sáng. Đức tin đã cứu anh. Chúa chữa anh vì thấy anh đã tin. Và khi được sáng mắt anh bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Chúa là Ánh Sáng thật. Dẫn đến Sự Sống thật. Hạnh phúc thật.
Có những người đặc biệt như thánh Gio-an. Vì kết hợp mật thiết với Chúa. Nên được ơn thấy trước tương lai qua các thị kiến. Chính lòng yêu mến, kết hợp với Chúa khiến ngài trở nên thông sáng. Biết hết định mệnh con người trong tương lai. Chúng ta hãy rèn luyện cho mình có đức tin vững mạnh như anh mù. Có đức mến nồng nàn như thánh Gio-an. Để chúng ta vững tin vào Chúa. Để chúng ta sáng suốt chọn lựa Chúa. Để chúng ta trung thành đi theo Chúa cho đến cùng. Đừng như người Ê-phê-sô chán nản đánh mất tình yêu thuở ban đầu.
Để được như thế chúng ta phải chiến đấu. Như những người Do thái trung tín với Chúa. Phải chiến đấu với những người phản bội. Phải chiến đấu với vua An-ti-ô-khô. Phải chiến đấu với chính mình để vượt qua đau thương thử thách. Và như anh mù. Chiến đấu mạnh mẽ. Chỉ để chiếm lấy Chúa Ki-tô. Phải luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
Suy niệm 3: Sự mù lòa thiêng liêng
Con người đã được Thiên Chúa sáng tạo đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống chúng ta với Lời Chúa, nhưng không phải chỉ đối chiếu, mà còn cần phải sửa chữa, vứt bỏ những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêricô. Ðây không phải là dụ ngôn, mà là biến cố có thật. Chúng ta có thể quan sát hai thái độ thực hành. Trước hết là thái độ của những người cản trở không cho anh mù gặp gỡ Chúa, những người này cho rằng chỉ có họ mới được quyền đi bên cạnh Chúa. Thật ra, trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, trên bình diện thông ban ân sủng, cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi hỏi Thiên Chúa. Tất cả đều là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền dành lại ân sủng đó cho riêng mình.
Thái độ thứ hai chúng ta có thể nhận thấy nơi anh mù. Ý thức thân phận của mình, anh không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, mà anh chỉ khiêm tốn cầu xin: "Lạy ông Giêsu, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được", anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: "Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: "Ánh sáng của các con phải chiếu soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Ðấng ngự trên trời".
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh và giải thoát chúng ta khỏi sự mù lòa thiêng liêng, để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Người mù thành Giêrikhô
Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản là Thiên Chúa là khởi đầu và cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga. Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống cụ thể của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, và không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mỗi người chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêrikhô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Ðây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan sát hai thái độ thực hành.
Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như thể chỉ có họ mới có quyền hay đặc quyền theo bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia không có phẩm giá, không được kính trọng và không có quyền làm phiền Chúa, không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền và muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính con người đặt ra. Trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện của sự thông ban ân sủng cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi buộc Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Tất cả là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay trong phạm vi mà mình muốn mà thôi.
Và thái độ thứ hai là thái độ chúng ta quan sát thấy nơi anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô. Ý thức thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài, và từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho con được nhìn thấy". Anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng thứ hai là theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung quanh cũng được khuyến khích làm theo như vậy. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã chú ý ghi lại chi tiết: "Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Ðược Thiên Chúa chữa lành, anh mù được sáng mắt kia đi theo Chúa.
Trong Phúc Âm cũng có trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành nhưng rất ít người có phản ứng như anh mù này: "Anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa". Anh làm cho nhiều người bị lôi cuốn ca tụng Thiên Chúa như anh vậy. Anh đã sống trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ "Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô". Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các đồ đệ của Ngài như được ghi lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5,16 như sau: "Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời".
Lạy Chúa,
Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đó là sự mù lòa thiêng liêng có thể làm cho con người càng ngày càng sống bội bạc với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Người mù được thấy
Đức Giêsu nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài xin cho tôi được thấy.”Đức Giêsu nói: “Anh hãy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc. 18, 41-42)
Cuối chặng đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu còn loan báo cho các môn đệ về số phận đang chờ đợi Người, nhưng các ông không hiểu gì, mắt các ông còn bị che phủ. Trong số những kẻ ăn xin ở cửa thành Giê-ri-cô, có một người mù, chờ xin đoàn hành hương về dự lễ Vượt qua. Nghe thấy tiếng ồn ào, càng lúc càng gần, người mù biết có gì lạ: “Cái gì vậy?”.
Đôi mắt đức tin
Người ta trả lời cho anh biết đó là Đức Giêsu Na-gia-rét. Đám đông thấy Đức Giêsu làm nhiều việc của Thiên Chúa, nhưng họ vẫn mù về lý lịch của Người. Còn anh mù lại thấy xa hơn họ, Thánh Thần Thiên Chúa đã đem chân lý vào con tim anh và anh tin. “Đức Giêsu, con vua Đa-vít”. Anh biết đó là Giêsu, Đấng Thiên sai Cứu thế, Người phải đến và anh la lớn kêu Người: “Xin thương xót tôi”. Người ta bảo anh câm đi: Anh càng la lớn. Không phải bao giờ cũng gặp được dịp may như thế này: Người được Thiên Chúa sai đến đã viếng thăm dân Ngài!
Đức Giêsu luôn luôn ý thức được hành động của Thánh Thần, Người đã nghe thấy tiếng van xin át cả tiếng ồn ào của đám đông. Người không từ chối biểu lộ là Đấng Thiên sai Cứu thế nữa. Trái lại, Người hành xử vai trò Cứu thế: Người truyền lệnh cho người ta dắt anh mù đến với Người.
Họ thấy quyền phép của Thiên Chúa
Đức Giêsu hỏi anh như thường lệ để trắc nghiệm lòng tin của anh. Người không áp đặt ý muốn của Người bao giờ, nhưng để kẻ khác khởi xướng hỏi xin: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”, anh đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy”. Anh mù kêu Người là Đức Kitô, như các Kitô hữu thời sơ khai đã hát: “Mọi miệng lưỡi tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa trong vinh quang Thiên Chúa Cha”.
Câu trả lời của Đức Giêsu tất nhiên cũng như mọi khi: “Anh hãy thấy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Người đến cho những mù thấy được, người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được và người chết sống lại.
Lập tức anh thấy được và đi theo Người để cảm tạ Thiên Chúa đã tỏ bày quyền năng của Ngài, và đám đông cùng hòa đồng với anh hát Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa. Đó là một dấu chỉ về Giáo hội tiến bước theo Đức Kitô để tôn vinh Thiên Chúa Cha.
RC
Suy niệm 6: Ánh sáng đức tin
Có một câu chuyện kể về hai người đàn bà điếc: buổi sáng nọ, một trong hai bà hỏi người kia rằng: “Chị đi chợ à?”, vì điếc, nên không hề nghe thấy người kia hỏi gì, chỉ nhìn miệng và đoán ý mà thôi. Tuy nhiên, người này đã đoán đúng ý và đáp lại: “Vâng! Em đi chợ”. Bà kia thốt lên: “Thế mà em cứ tưởng là chị đi chợ!”. Câu chuyện thật buồn cười, nhưng đây là cuộc sống thực của những người điếc nói chuyện với nhau.
Cuộc đời, sứ vụ và lời rao giảng của Đức Giêsu cũng bị các môn đệ hiểu sai, nên không lạ gì khi Ngài nói một đàng, các ông hiểu một nẻo theo kiểu: “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”!
Con mắt tâm linh, đức tin của các ông không còn đủ độ nhạy bén để nhận ra Thầy của mình là Thiên Chúa và Ngài đến để loan báo về triều đại của Thiên Chúa chứ không thiết lập một đất nước và vương quốc theo kiểu trần gian. Như vậy, mắt thể lý của các ông thì sáng, nhưng con mắt tâm linh thì lại mù.
Biết được cách nhìn và lối hiểu sai lạc của các tông đồ, nên Đức Giêsu đã tìm mọi cách để giúp cho các ông hiểu rõ sứ vụ của mình mà mai đây chính họ là những người tiếp bước, vì thế, Ngài quyết định đi lên thành Giêrusalem để thực hiện sứ vụ cứu chuộc nhân loại bằng chính cái chết.
Trên hành trình ấy, Đức Giêsu đã gặp anh mù thành Giêricô. Lạ lùng thay, những người sáng mắt thì không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, còn anh mù, anh ta lại nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng Giải Thoát! Khi gặp Ngài, anh ta đã biểu lộ niềm tin tuyệt đối khi cất tiếng kêu xin: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót con”. Thấy được sự tín thác của anh, Đức Giêsu đã ra tay cứu giúp khi phán: “Đức Tin của anh đã cứu anh”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ khiêm tốn để nhận ra Chúa như anh mù Giêricô khi xưa. Chỉ có thái độ khiêm nhường, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì con mắt đức tin của chúng ta mới thực sự sáng để xác tín và đi theo Chúa trọn vẹn.
Câu hỏi của Đức Giêsu với anh mù thành Giêricô khi xưa cũng là câu hỏi cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”. Khi được hỏi như thế, chúng ta sẽ trả lời Chúa như thế nào? Mong được khỏi bệnh? Được giàu có? Được sung sướng? Hay mong cho được ơn nghĩa đức tin?
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con được thêm niềm xác tín mạnh mẽ nơi Chúa như anh mù khi xưa. Xin cho chúng con được biến đổi nhờ được gặp Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Tin Chúa, anh mù Giêricô được sáng mắt
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, anh mù thành Giêricô được Chúa cho sáng mắt. Cậy nhờ Danh Chúa Giêsu mở rộng con mắt của linh hồn ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy vui mừng và hạnh phúc biết bao khi có đôi mắt sáng, để thấy được điều kỳ diệu trong thiên nhiên, để nhận biết những gì đang xảy ra chung quanh, cũng như để nhận ra khuôn mặt người thân yêu. Đôi mắt sáng, đó là một kho báu, một hồng ân lớn lao mà Chúa đã tặng ban. Thế nên con luôn chăm sóc, bảo vệ và đề phòng khỏi rơi vào cảnh mù tối.
Nhưng nghĩ kỹ lại, con thấy nhiều lúc con đang sống cảnh đui mù một cách nào đó. Nhiều lúc con mắt thân xác nhận ra vẻ đẹp thiên nhiên, nhưng mắt linh hồn lại không thấy được tình thương và sự quan phòng của Chúa qua những vẻ đẹp ấy. Lắm lúc con nhìn ra khuôn mặt của người thân, nhưng ít khi con thấy được người hành khất bên vệ đường hay kẻ con đang thù ghét, là chính Chúa và là anh em của con. Con thấy được khuôn mặt mình qua tấm gương, nhưng chẳng mấy khi thấy được tình trạng linh hồn mình. Những lúc ấy là lúc con đang mù lòa, khốn khổ và đáng thương hơn anh mù thành Giêricô.
Lạy Chúa, xin thương mở mắt linh hồn con, để con thấy được tình thương Chúa đang hiện diện khắp nơi. Xin cho mắt linh hồn con sáng suốt, để con nhận ra đâu là điều đẹp ý Chúa, và nhận ra mọi người là anh em con. Xin Chúa cho con, ngay từ bây giờ được bước đi trong ánh sáng Chúa, để mai sau con được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: “Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi ? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”.
Suy niệm 8: Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở nước Anh. Mỗi sinh viên được phát một mũ bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước mũ có gắn bóng đèn nối với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên mũ bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên mũ”. Mọi người đều làm theo. Không ai thấy gì cả. Mọi vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù”.
Tất cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
Suy niệm
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ đến gần thành Giêricô thì gặp anh hành khất mù, đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi nghe biết Đức Giêsu thành Nadarét đi qua, liền kêu lên: “Lạy ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tước hiệu “Con Vua Đavít”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng như các lời tiên báo của ngôn sứ: Đấng Cứu Thế xuất thân tự dòng dõi vua Đavít, Đấng được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần. “Xin thương xót tôi”, tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”. Sau này xuất phát một truyền thống rất lâu đời của Giáo hội Đông phương dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng sa mạc... Phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại một cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: “Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót”.
Anh mù tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu trước mặt mọi người bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Anh được sáng mắt nhờ đức tin như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”, đối tượng đức tin duy nhất là Đức Giêsu Nadarét con vua Đavít mà anh đã đặt hết niềm tin vào. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã sáng mắt.
Chúng ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối, như anh mù ở thành. Chúng ta tín thác vào Thầy Giêsu, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự sáng trong lời cầu: Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất toàn và của yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối trong cách hành xử với nhau.
Ý lực sống
Giúp con sáng mắt Chúa ơi!
nhận ra tình Chúa giữa đời gian nan.
Tin tưởng, phó thác, bình an
giã từ bóng tối, vững vàng niềm tin. (Ánh sáng niềm tin, Monica Lệ Thi).
Suy niệm 9: Chúa chữa người mù tại Giêricô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Từ Pêrê đi Giêrusalem, Đức Giêsu phải đi qua Giêricô, một người mù từ mới sinh xin Chúa chữa lành. Ngài đã làm cho anh được sáng mắt. Việc Đức Giêsu làm phép lạ mở mắt người mù này sẽ giúp các môn đệ nhìn thấy rõ và chấp nhận kế hoạch cứu độ của Ngài. Ngoài ra, việc chữa lành người mù này không chỉ là mù loà thể xác, mà còn có ý nói đến tội lỗi, tối tăm trong tâm hồn. Sứ mệnh của Đức Giêsu đến trần gian là giải thoát con người khỏi khổ đau, khỏi nô lệ, tội lỗi. Ngài luôn sẵn sàng chữa lành cho chúng ta, nhưng chúng ta chỉ được lành khi chúng ta tin vào Ngài. Như vậy, niềm tin chính là điều kiện để Chúa tha thứ và ban ơn cho chúng ta.
Ý thức thân phận của mình, anh mù đã khiêm tốn cầu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa Vít, xin dủ lòng thương tôi”. Sư mù loà thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù loà: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”, anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: “Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thật vậy, toàn dân đều ca ngợi Thiên Chúa”. Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Đức Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: “Ánh sáng của các con phải chiếu toả trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Đấng ngự trên trời” (Mỗi ngày một tin vui).
Hình ảnh người mù trong bài Tin mừng hôm nay đã phản chiếu trung thực thân phận con người trong cuộc lữ hành đức tin. Con người không thể tự cứu mình và cũng không một người nào có thể cứu giúp con người, ngoài Đức Kitô. Đấng Cứu độ duy nhất có thể giải phóng loài người khỏi bóng tối tội lỗi sự chết, và đem con người vào miền ánh sáng của ân sủng và sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Người, và trung thành bước theo Người trong cuộc hành trình đức tin của mình (Lm. Trần Hữu Thành).
Đây đó trên đường, người ta gặp những người mù với một cây gậy chuyên dụng, như một giác quan kỳ lạ giúp họ đi đến nơi họ muốn. Thật đáng thán phục! Có thể nói, cây gậy trợ lực giúp họ dò con đường họ thấy bằng trí nhớ. Cũng vậy, dù không thấy được bằng giác quan, con mắt đức tin giúp Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Trong khi dưới con mắt của đám đông, Đức Giêsu chỉ là một người làng Nazareth, thì người mù thành Giêricô nhận ra chính là con vua Đavít, là Đấng Messia. Bằng “con mắt đức tin”, anh đã thấy điều mà người khác không thấy: thấy Ngài có quyền năng tái tạo những gì đã hư mất; thấy Ngài là Đấng chia sẻ được nỗi thống khổ anh đang chịu, là chỗ dựa cho anh trong lúc mọi người bỏ rơi. Giữa đám đông anh có thể bị lẻ loi vì đức tin của anh, nhưng anh không cô độc, bởi Đấng cứu chữa anh từ nay đồng hành với anh trên mọi nẻo đường, còn anh quyết theo đường Ngài, dù là đường lên Giêrusalem để chịu thương khó (5 phút Lời Chúa).
Nhân ngày Giới trẻ thế giới lần thứ ba mươi, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Mọi người chúng ta đều là tội nhân, cần được Chúa thanh luyện. Chúng ta đến với Chúa Giêsu để nhận ra rằng: Người luôn dang rộng vòng tay đợi chờ; đến với Người để gặp gỡ lòng thương xót của Người”.
Trong câu chuyện Tin mừng, anh mù bên vệ đường đã nhận ra sự khốn khổ của mình, và chạy đến cầu cứu Đức Giêsu. Anh đã kêu đến Người, cho dù nhiều người quát mắng, bảo phải im tiếng. Anh tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương của Chúa, anh tin Người sẽ cứu chữa anh. Thế nên, anh được Đức Giêsu dủ lòng thương, cho anh nhìn thấy.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta bị mù vì thiếu cái nhìn thiện cảm đối với tha nhân, và cũng có những lúc chúng ta bị mù, vì không đủ lòng tin vào tình thương và sự quan phòng của Chúa. Như anh mù năm xưa, ta hãy chạy đến với Đức Giêsu, để được Người chữa lành.
Truyện: Đứa con mù từ 20 tháng
Một bà mẹ kể lại cái kinh nghiệm bà đã học được từ đứa con mù lòa của mình như sau:
Tôi có đứa con trai bị mù từ lúc mới sinh. Khi cháu được 20 tháng, lần đầu tiên, tôi đưa cháu đến một siêu thị gần nhà. Với những bước đi chập chững, nó không ngừng bám vào gấu áo của tôi, và cứ vài ba bước nó lại ngừng lại, để lắng nghe những tiếng động chung quanh.
Sáng hôm đó, tôi đã học được nhiều điều. Thật thế, tôi bỗng nhiên nhận ra rằng: từ tiếng chân người đi bộ đến tiếng xe, tất cả các tiếng ồn ào đều khác nhau. Cách 100 thước chúng tôi đã nghe mùi thơm của một tiệm bánh kẹo. Vừa vào tiệm, đứa con đã dừng lại mỉm cười. Tôi mua cho cháu một thanh sôcôla rồi tiếp tục đi đến một cửa hàng khác. Một con chim từ đâu bay đến gần bên chúng tôi. Con tôi dừng lại, như đương thưởng thức tiếng chim hót. Một lúc sau tôi thấy cháu lè lưỡi ra và hút thở làn gió mát từ phương Bắc thổi tới, cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa biết gió từ đâu.
Chúng tôi đi tiếp. Vào cửa tiệm bán cá, con tôi liền ném mẩu sôcôla và đưa tay sờ vào các loại cá.
Trên đường về, con tôi cười vui rộn rã hơn bao giờ hết. Nụ cười của nó nói với tôi rằng hôm ấy là một buổi sáng tuyệt vời của nó, vì nó khám phá được những điều mới mẻ kỳ diệu. Riêng tôi, tôi đã tự hỏi: tôi với con tôi, ai mới thực sự là kẻ mù loà.
Suy niệm 10: Người mù ý thức mình cần Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Anh mù đáng làm gương cho chúng ta: anh ý thức mình cần Chúa.
Anh cố gắng hết sức để được đến gần Chúa, bất chấp mọi ngăn cản. Kết quả là anh đã được Chúa đổi mới hoàn toàn; anh còn thay đổi được những lòng dạ hẹp hòi của những người chung quanh.
Có hai người bạn rủ nhau đi tắm biển. Dọc đường, họ bỗng đổi câu chuyện làng quê sang đề tài tôn giáo. Khi cả hai đã xuống nước đến tận ngực, một người vẫn tiếp tục hỏi:
- Tôn giáo và niềm tin cần thiết cho con người thế nào ?
Người bạn kia trả lời bằng một câu hỏi:
- Anh thực sự muốn biết chứ ?
Người thứ nhất gật đầu nói:
- Vâng, rất muốn, tôi…
Anh chưa kịp nói hết câu, thì đôi tay của người bạn đã ghì chặt lấy đôi vai của anh dìm mạnh xuống nước, và mặc cho anh ra sức vẫy vùng, người bạn vẫn gắng hết sức trấn nước anh cho đến lúc tưởng chừng như anh đã bị ngộp thở. Bấy giờ người bạn mới chịu buông tay ra để anh ta ngoi lên. Vừa thở hổn hển anh ta vừa giận dữ trách bạn:
- Giỡn gì mà lạ vậy ?
Thay vì trả lời người bạn hỏi:
- Bây giờ anh cảm thấy mình cần gì nhất nào ?
- Khí trời để thở chứ cần gì ? - Anh ta đáp ngay.
Lúc đó, người bạn “thích đùa” kia mới ôn tồn giải thích:
- Anh thấy đó, tôn giáo và niềm tin cần thiết cho con người, như buồng phổi của chúng ta rất cần khí trời để hít thở vậy!
Chúng ta hãy nhớ lại xem: có một ân huệ nào chúng ta đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng ta thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành. Chúng ta hãy xin Chúa tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏ bé, yếu đuối và bất toàn của chúng ta những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng ta.
2. Khi người mù thành Giêrikhô lên tiếng tỏ ý muốn gặp Chúa Giêsu thì người ta đã quát mắng anh ta phải im đi. Phải chăng đó là tình trạng trong nhiều cộng đoàn Giáo Hội chúng ta:
Có biết bao người không có cơ may gặp gỡ Chúa vì chưa thấy được tình yêu thương của Giáo Hội.
Có biết bao người vẫn tuyệt vọng vì chưa cảm nhận được tình thương từ nơi những môn đệ Chúa. Chúa đã truyền lệnh cho các môn đệ dẫn người mù đến với Ngài. Ngày nay, Ngài cũng tiếp tục đưa ra cùng một mệnh lệnh: Hãy để cho những người đau khổ, những kẻ đang kiếm tìm được đến với Ngài..”. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Đây là câu chuyện ngụ ngôn của người Trung Hoa:
Chi Chàng là một cậu bé, một hôm bị lạc vào rừng. Cậu đi mãi, không biết lối ra. Chiều đến, cậu mệt nhoài, nên ngồi nghỉ dưới gốc một cây cổ thụ cao lớn. Ngước mắt lên, cậu nhìn thấy ở đàng xa giữa mảnh vườn hoang có một túp lều nho nhỏ, tứ bề vắng lặng, không một tiếng gà cục tác, không một tiếng chó sủa. Bị thúc đẩy bởi tính tò mò và lòng ham thích mạo hiểm, cậu bé tiến về túp lều bỏ hoang.
Nhìn qua khe cửa, cậu thấy một cụ già đang nằm yên trên một cái chõng, bộ râu trắng toát. Cậu bé bỗng giật mình nghe tiếng cụ già bảo:
- Hãy bước vào cháu ơi, đừng sợ! Cụ đã nghe thấy tiếng bước chân của cháu từ xa hàng cây số.
Chi Chàng đẩy cửa bước vào, đứng bên giường cụ già và hỏi:
- Làm sao cụ có thể nghe tiếng bước chân của cháu và biết được cháu từ xa đến đây được ?
- Cháu biết không - cụ già âu yếm trả lời - khi một người già yếu như cụ suốt ngày chỉ mong đợi có ai đó ở gần bên cạnh, thì tất nhiên cả niềm ước muốn đó sẽ dồn hết vào tai, và tai trở nên thính gấp bội, có thể nghe tiếng từ xa vọng lại. Cụ nói với cháu một điều này nhé, cháu đừng ngạc nhiên: Cho đến nay, cụ đã sống rất nhiều năm, mắt đã từng xem thấy nhiều điều, cụ đã từng hoạt động không ngừng, đã từng giao chiến quyết liệt. Giờ đây, cụ chỉ còn ao ước nhớ nhung và chỉ ước vọng một điều duy nhất, đó là nhìn thấy lại nụ cười của một trẻ thơ. Cháu có thể tặng cho cụ một nụ cười trước khi cụ nhắm mắt lìa trần được không ?
Chi Chàng nở nụ cười thật tươi, và hơn thế nữa cậu còn giang tay ôm ghì lấy cụ, tặng cho cụ một cái hôn âu yếm trên vầng trán nhăn nheo vì năm tháng. Rồi cụ già nhắm mắt thiếp đi như thế để thưởng thức tình âu yếm của một cậu bé ngoan ngoãn, tốt bụng.
Tất cả chúng ta, ai ai cũng đều muốn được yêu thương và ao ước được yêu thương. Nhưng những người già yếu, tuổi tác lại cần tình thương hơn bao giờ hết, khác nào đứa trẻ sơ sinh cần sữa và thức ăn để sống và lớn lên.
Lạy Chúa, Chúa đã đốt lên ngọn lửa nơi tâm hồn anh mù để anh nhận ra Chúa. Xin Chúa cũng nhóm lên ngọn lửa tình yêu nơi trái tim con, để con thấy Chúa và nhận ra Ngài nơi những người quanh con. (Hosanna)
Suy niệm 11: Nhận ra Chúa và mọi người
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chuyện này có 3 vai:
1. Người mù:
- Ban đầu anh “ngồi” (thụ động) “ăn xin” (sống bám) “bên vệ đường” (ở ngoài rìa xã hội) (câu 35). Sau khi được Chúa Giêsu chữa, anh “đi” (chủ động), “tôn vinh Thiên Chúa” (rao giảng) và “đi theo” (làm môn đệ) Chúa Giêsu (câu 43).
- Thái độ của anh: “hỏi xem có chuyện gì” (câu 36) - khi biết là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh “kêu lên” xin Ngài dủ lòng thương (câu 38) - người ta quát nạt anh, bảo anh im đi, “anh càng kêu lớn tiếng” (câu 39) - khi gặp Chúa Giêsu, anh nói rõ điều muốn xin “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy” (câu 41). Thái độ ấy được Chúa Giêsu đánh giá là có đức tin (câu 42).
2. Đám đông:
- Lúc đầu quát nạt anh mù, bảo anh im. Họ tưởng làm như thế là vừa lòng Chúa Giêsu (vì Chúa Giêsu khỏi bị quấy rối khi đang bận đi đường).
- Mc 10,49 cho biết thêm: khi Chúa Giêsu cho gọi anh đến thì dân chúng khuyến khích anh “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
- Sau khi anh khỏi bệnh, họ “cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa”
3. Chúa Giêsu:
- Dù “đang đi” (bận rộn) và ở giữa đám đông, Ngài cũng để ý đến tiếng kêu xin của một người mù.
- Đối xử rất ưu ái với người mù: Ngài “dừng lại”, “truyền dẫn anh ta đến”, ân cần hỏi han, khen ngợi đức tin của anh mù và cứu chữa anh.
B.... nẩy mầm.
1. Anh mù đáng làm gương cho chúng ta: anh ý thức mình cần Chúa, anh cố gắng hết sức để được đến gần Chúa, bất chấp mọi ngăn cản. Kết quả là anh đã được Chúa đổi mới hoàn toàn; anh còn thay đổi được lòng hẹp hòi của những người chung quanh. Nếu chúng ta làm như anh mù này thì mặc dù mọi người ngăn cản chúng ta và mặc dù ban đầu xem ra Chúa không nghe tiếng chúng ta, nhưng cuối cùng Ngài sẽ dừng lại, ưu ái gọi chúng ta đến và biến đổi đời sống chúng ta.
2. “Khi người mù thành Giêrikhô lên tiếng tỏ ý muốn gặp Chúa Giêsu thì người ta đã quát mắng anh ta phải im đi. Phải chăng đó là tình trạng trong nhiều cộng đoàn Giáo Hội chúng ta: có biết bao người không có cơ may gặp gỡ Chúa vì chưa thấy được tình yêu thương của Giáo Hội... Có biết bao người vẫn tuyệt vọng vì chưa cảm nhận được tình thương từ nơi những môn đệ Chúa Giêsu... Chúa Giêsu truyền lệnh cho các môn đệ dẫn người mù đến với Ngài. Ngày nay Ngài cũng tiếp tục đưa ra cùng một mệnh lệnh: Hãy để cho những người đau khổ, những kẻ đang kiếm tìm được đến gần Ngài...” (trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. Chúa Giêsu là Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium). Đây là một chủ đề lớn, được chọn làm đề tựa cho một hiến chế của Công Đồng Vaticanô II. Ánh sáng của Chúa soi thẳm lòng người. Giúp con người nhìn ra ánh sáng của con tim. Giúp con người tìm về nhà Cha. Có những người mù loà, nhưng với lòng tin tưởng phó thác, đã nhìn được ánh sáng này. Ngược lại, có những con người tự phụ rằng mình sáng suốt lại chẳng nhìn ra được ánh sáng của Chúa.
4. Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả.” Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”. Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
5. “Anh muốn tôi làm gì cho anh. Anh ta đáp: Lạy Ngài xin cho tôi được thấy” (Lc 18,41)
Một thiền sư hỏi các đồ đệ rằng “Lúc nào là lúc đêm tàn và ngày đến ?” Nhiều câu trả lời được đưa ra: kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau; người thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một con bò với một con trâu… Cuối cùng chỉ có một câu trả lời làm vừa lòng thiền sư, đó là: khi ta nhìn mọi người và nhận ra đó là anh em của ta.
Quả thật, có những thứ ta không thể thấy được bằng mắt, nhưng chỉ thấy được bằng con tim, bằng tình yêu…
Lạy Chúa, Chúa đã đốt lên ngọn lửa nơi tâm hồn anh mù để anh nhận ra Chúa. Xin Chúa cũng nhóm lên ngọn lửa tình yêu nơi trái tim con, để con thấy Chúa và nhận ra Ngài nơi những người quanh con. (Hosanna)
14/11 Làm chứng cho Chúa Giêsu
- Viết bởi Mt 10, 17-22
Làm chứng cho Chúa Giêsu.
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Lời Chúa: Mt 10, 17-22
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.
Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.
Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B
Lời Chúa: Mc 13, 24-32
"Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển.
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến.
Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Lễ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Lời Chúa: Mt 10, 17-22
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32
* CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Không thuộc về thế gian. -- ‘Manna’
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,
lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.
Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy
khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,
cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.
Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc
giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt,
bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.
Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,
hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm
trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy
soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.
"Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,
Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.
Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân...
Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu
vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,
và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian,
cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,
nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,
nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng.
Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình
và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột.
Men không được tách khỏi bột,
và men cũng không được biến chất thành bột.
Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây.
Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,
thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác.
Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình
để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát,
khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
2. Để làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22 -- ‘Manna’
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm
sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải chịu
đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
"Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em"
để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:
Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ,
nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
"Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu,
cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi,
vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá.
Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt,
mất tất cả và mất chính mạng sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên,
như thánh Antôn Nguyễn Đích.
Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận.
Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân:
Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt.
Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,
như thánh Micae Hồ Đình Hy,
nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá
là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm,
của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy
tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
3. Anh em làm chứng cho Thầy. -- ‘Manna’
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ."
Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.
Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
"Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
4. Sống vì đạo – TGM. Giuse Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
5. Con đường hạt lúa – TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
6. Chứng nhân tình yêu -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen.
7. Sống chứng nhân tin mừng -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
8. Làm chứng -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể Các Thánh Tử Đạo Việt nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm. lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tực năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ là tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19-6-1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác dòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ "tử đạo" có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay "uống nước nhớ nguồn". Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những giòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quý báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của giòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quý để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quý vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần Nho giáo, các ngài đặt chữ "trung" lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao...Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỷ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Ki-tô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. là Ki-tô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
9. Chứng nhân anh dũng -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc!
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.
Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).
Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....
Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt nam vào năm 1960.
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.
Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.
Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.
(Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)
Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố: ”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.
Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán: ”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên: ”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì: ”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).
Truyện: Xin mua được một linh hồn.
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
- MỚI - quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
- Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
- Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.
- Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
- Sao? quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy mày muốn bao nhiêu?
- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.
1. Theo công đồng Vatican II.
Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).
Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr:
”Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.
Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
2. Tư tưởng chung thời nay.
Nếu như các nhà thần học nói: ”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.
Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không?
Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo.
Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:
* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.
* Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.
Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng: ”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa: ”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói: ”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
Truyện: chết theo lệnh vua.
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.
Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:
- Nhà ngươi muốn gì?
- Ta muốn nhà vua đầu hàng.
- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?
Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.
Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: ”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận: ”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.
Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat:
Cái nhà là nhà của ta,
Ông cố ông cha lập ra
Cháu con ta gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là: ”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu: ”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)
Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.
Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: ”Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.
10. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
11. Những Đấng Bậc Anh Hùng -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.
Họ là ai?
Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay. Họ là những người “dường như” không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Họ là ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?
Không! Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?
Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.
Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng
Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.
Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước khi chia sẻ)
1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn hiểu sao về câu này?
2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).
12. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Lc. 9, 23-26 -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ , (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!
Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người cũng trở thành chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam. Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?
13. Dũng cảm làm chứng cho Chúa -- Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
2. CÂU CHUYỆN: Cuộc tử đạo của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc
Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy AN-RÊ Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha AN-RÊ được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.
3. THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?
2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay?
4. SUY NIỆM:
1) Số liệu các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
2) Lý do các ngài bị vua quan bách hại:
Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.
3) Sống chứng nhân giữa đời thường:
Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.
Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:
- Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi phố chợ.
- Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông bà;
- Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
14. Tử Đạo giữa đời thường - Lc 9, 23-26
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người đề cao chủ nghĩa cá nhân, một thời đại mà người ta cạnh tranh nhau quyền cao chức trọng ở mọi lãnh vực, một xã hội mà quyền lợi cá nhân, hưởng thụ và sở hữu được ưa chuộng. Hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta "Từ bỏ chính mình, liều mất mạng sống..." để theo Chúa, điều này nghe ra thật phi lý và ngược đời! Thế nhưng, sẽ thật có lý và hợp với đời của một Kitô hữu vì đó là điều kiện tiên quyết để bước theo Chúa. Lời Chúa và mẫu gương của chính Chúa đã hy sinh mạng sống cho nhân loại, và của các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ là một bảo đảm minh chứng cho chúng ta.
Đường Trần Gian - Đường Thập Giá.
Cuộc đời được ví như một hành trình. Hành trình này chẳng thẳng ngay và không hề nhẹ nhàng êm ái. Lớn hay nhỏ đang sống trong trần gian, chúng ta đều cảm nhận trần gian đầy đau khổ và nước mắt, chẳng thế mà nhạc sĩ nào đó đã viết "Đường nhân gian đày ải chông gai, ai chưa qua chưa phải là người!" Giàu cũng khổ mà nghèo thì khốn khổ hơn! Tiền bạc, chức vị cũng không làm cho người ta hạnh phúc và cũng không mua được bình an. Đau khổ như là một thập giá gắn liền với đời người dù người đó có là môn đệ Chúa Kitô hay không. Thập giá đến với mỗi người mỗi cách khác nhau. Thập giá ấy có thể là từ trong những bất toàn của bản thân, trong bệnh tật, trong khó khăn của cuộc sống. Thập giá cũng có thể là từ những nghịch cảnh thông thường của cuộc đời...
Với người Kitô hữu, chúng ta sẽ gặp thập giá trong cuộc đời khi sống trung thành với giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Thập giá đến khi ta sống ngay thẳng trong buôn bán, thật thà và công bằng trong kinh doanh hay trong giao tiếp. Người ta có thể cho là ta điên rồ, ngược đời hay ngu xuẩn thậm chí bị loại trừ. Thập giá đến với ta trong những chọn lựa từ bỏ mình để yêu thương đón nhận tha nhân ngay cả khi họ vu oan, ghen ghét, làm hại ta... Và thập giá cũng sẽ được ta đón nhận khi ta biết cố gắng sống theo Lời Chúa dạy, biết sửa mình, ăn năn sám hối về những tính hư, nết xấu và tội lỗi của ta để xứng đáng là con cái Chúa.
Đường Thập Giá - Đường Tử Đạo.
Khi thập giá đến, chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta sẵn sàng đón nhận hay dễ dàng để ôm lấy. Đã là thập giá, thường ta luôn cảm thấy nặng nề, khó vác. Đôi khi ta không dám nghĩ tới và muốn tránh bởi không ai thích đau khổ, thất bại, bị loại trừ, nghịch cảnh, thất vọng chán nản... Và hơn thế nữa, Satan cũng tìm đủ cách lôi chúng ta xa thập giá, vì nó không muốn ta đi vào con đường của Chúa.
Lời Chúa tha thiết mời gọi ta: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Từ bỏ chính mình, không đơn giản chút nào! Từ những cái rất nhỏ trong cuộc sống: người mắng ta một câu, ta muốn đáp lại hai, ba câu. Nhưng từ bỏ mình là bỏ qua, là chấp nhận lời nói không tốt đó và đáp lại bằng lời yêu thương, lời hòa giải. Khó lắm, nó đau ở trong lòng và như nuốt cục phèn vậy, nhưng nếu ta làm được, ta sẽ cảm nhận ngọt ngào trong tâm hồn. Từ bỏ mình trong những chọn lựa theo Tin Mừng, sống yêu thương, tha thứ sẽ như là những cuộc tử đạo âm ỉ từng ngày chứ không chỉ một lần. Trong cuộc sống với những bôn ba cho cơm áo gạo tiền, nhiều khi đặt ta trước những chọn lựa theo công bằng, bác ái đòi ta phải hy sinh mối lợi, mất miếng ăn để chu toàn luật Chúa. Ta sẽ đau lắm và dằn vặt nhưng với ơn Chúa, ta chọn lựa tử đạo khi mất lợi danh và có khi mất cả mạng sống. Tôi nghĩ đến một người đàn ông Công Giáo, đã làm việc thật tốt trong một công ty sản xuất. Thế rồi, vì sống ngay thật, không theo những mánh khóe gian dối với đồng nghiệp nên anh đã lãnh nhận hậu quả là bị hại chết ngay trong chuyến công tác xa, sau bữa ăn cùng nhóm đồng nghiệp ấy. Ta có thể đi vào đường tử đạo khi sống trung thành với Chúa Kitô để bảo vệ sự sống, như một chị y tá nọ sau nhiều năm học tập, chị được chọn vào làm trong một bệnh viện lớn. Thế nhưng, ngay ngày thứ hai đi làm, người ta yêu cầu chị tham gia vào ca phá thai. Chị từ chối, lập tức người ta sa thải chị. Chị mất việc mà chị đã tốn nhiều công sức tiền của để có được. Chị đã vác thập giá cùng với Chúa Kitô! Để chọn lựa vác thập giá hàng ngày, chọn lựa tử đạo suốt đời, ta không thể thực hiện với sức riêng nhưng phải cậy nhờ ơn Thánh và nếu ta tin tưởng cậy dựa vào Chúa, Ngài sẽ luôn giúp ta vì: "Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách" (1Cr 1,4).
Đường Tử Đạo - Đường Tới Vinh Quang.
Ngày nay, trên quê hương chúng ta ít có những cuộc cấm hay bách hại đạo như xưa cha ông ta đã trải qua. Nhưng lại xuất hiện nhiều hơn những dịp thử thách về đức tin tinh vi mà nếu không tỉnh thức, ý thức và có một tâm hồn bén nhạy thì ta sẽ dễ đi vào việc chối đạo, phản đạo và bỏ Chúa qua chính cách sống, lời nói và việc làm của ta. Các Thánh Tử đạo Cha ông chúng ta đã kiên trung thực thi Lời Chúa dạy: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24). Các ngài yêu Chúa hơn yêu mạng sống mình như lời nói và máu đổ ra của Thánh Phaolo Khoan "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa và Chúa Cả Trời đất, con xin dâng mạng sống cho Ngài". Có vị thánh đã từ bỏ chức quyền để giữ vững đức tin và linh hồn như thánh Hồ Đình Hy là quan lớn, thánh Phạm Trọng Tả là chánh tổng nhưng các Ngài chọn Chúa hơn là địa vị ở trần gian. Các ngài chọn gia nghiệp Nước Trời hơn là sản nghiệp trần thế nay còn mai mất "Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời" (Thánh Phêrô Truật). Các ngài không dẫm lên Thập giá Chúa Kitô nhưng anh dũng bước đi trên đường Thập giá vì các ngài xác tín chỉ qua Thập giá mới tới Vinh quang và cuối đường, chính Chúa Kitô đón các ngài vào hưởng vinh quang hạnh phúc với Người trong Nước Trời, như sách Khôn Ngoan nói: "Người đời nghĩ rằng họ bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chan chứa niềm hy vọng được trường sinh bất tử. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời" (Kn 3,4.8)
Trải qua suốt ba thế kỷ bách hại, đã có cả trăm ngàn anh em Kitô hữu chết vì đạo. Gương chứng nhân Đức Tin và lòng hy sinh mạng sống vì Chúa Kit-tô và vì Tin Mừng của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông ta, sẽ là mẫu gương và niềm hãnh diện lôi cuốn chúng ta can trường sống chứng nhân giữa đời thường và dám chọn sống, chết vì đạo. Từ dòng máu anh hùng của cha ông, từ những khổ đau, những đắng cay của các ngài, ta có được hạt giống đức tin hôm nay. Vậy thập giá là một phần quan trọng của đời Kitô hữu và chính Chúa Giê-su đã không khước từ thập giá vì đường thập giá-đường tử đạo mới là đường dẫn tới vinh phúc: "...Người vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người..." (Pl 2,6-11). Lao nhọc, đau khổ, nghịch cảnh, hy sinh, chiến đấu và tử đạo... cần thiết để trở thành một phần của đời người môn đệ Chúa Kitô. Ước gì khi sống giữa đời, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng tin tưởng thưa lên như thánh Phaolô "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy... Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8,35-37). Để rồi chúng ta dám sống vì Chúa, chọn lựa theo Chúa, trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và can trường chết vì Chúa trong những dịp tử đạo giữa đời thường. Vì "Ai liều mất mạng sống vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." (Mc 8,35).
Nguyện xin Thần Khí Chúa ban ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng con biết chọn lựa sống vì Chúa, vì Tin Mừng. Và xin dạy chúng con biết yêu thập giá là dấu chỉ của chiến thắng, của vâng phục, của tình yêu và của con đường dẫn đến ơn cứu độ. Amen.
15. Sống đức tin kiên cường
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh Việt Nam cử hành thánh lễ kính trọng thể các thánh tử đạo Việt nam đồng thời đây cũng là dịp để tỏ lòng biết ơn các ngài, nhất là hun đúc đức tin và làm cho đức tin chúng ta càng kiên cường để vượt qua muôn ngàn gian khó của cuộc đời như các Thánh Tử Đạo xưa. Qủa thế, thánh Augustinô nói: “Việc tôn kính các Thánh tử đạo là để hun đúc tinh thần tử đạo nơi người tín hữu. Tử đạo là chứng tỏ cho lòng tin, tình yêu trung kiên đối với Thiên Chúa và cho đời sống vĩnh cửu”.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, tuy nhiên trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các vị tử đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, cho sự sống vĩnh cửu. Các ngài dám đem cái chết để minh chứng cho đức tin chân thật và duy nhất. Mỗi vị thánh tự đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn. Cho nên, thánh Tertulianô: “Nói máu các thánh tử đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bài đọc một mô tả bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và noi gương về lòng can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn như thế để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các vị tử đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống. Đức tin của các ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con thấy vậy phiền trách móc vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha còn ông trùm Quỳnh vị có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ và đớn đau, nhục nhã ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường các vị tử đạo sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo trước những thách đố của cuộc sống hôm nay. Thách đố trước hết đối với Đức Tin là kinh tế tiền bạc. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Cho nên, nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ…để có tiền. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Cho nên, chúng ta cũng phạm tội như một người chưa có đức tin. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cá nhân, cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Cho nên, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” ngày nay. Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm đức tin và làm đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng..
Ước gì mỗi người chúng ta qua thánh lễ này biết phát huy đời sống đức tin vững mạnh để tiếp tục ươm trồng và vun tưới cho Đạo Chúa tại Việt Nam ngày càng sáng tươi và rạng ngợi. Xin Chúa giúp đức tin của chúng con mạnh mẽ và can trường để sống làm chứng cho Tin Mừng của Chúa nơi xã hội chúng con đang sống. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
NOI GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO - SỐNG ĐỨC TIN HÔM NAY
Hôm nay, Giáo Hội Việt Nam kết thúc năm Thánh năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam kỷ niệm 30 năm Các Ngài được tuyên Thánh. Qủa thế, cách đây 30 năm, 19-06-1988, Giáo Hội Công giáo Việt Nam vui mừng hãnh diện với Các Thánh Tử đạo Việt Nam, hãnh diện vì đức tin sáng ngời của các Ngài trước biết bao cuộc bách hại bạo tàn. Gông cùm, đòn roi và án tử đã trở nên con đường để các Ngài cùng Chúa Giêsu tiến lên đồi Canvê. Dòng máu tình yêu của các Ngài đã tưới gội cho hạt mầm đức tin của lớp lớp con cháu được lớn mạnh trên quê hương Việt Nam con rồng cháu tiên. Các Ngài đã hát bài ca tán dương Thiên Chúa bằng chính sự sống của mình, nhờ đó, các Ngài được phúc hiển vinh trong hàng ngũ các Thánh trên Trời.
Nhìn lại lịch sử suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển Thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các Vị Tử Đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết, nhưng giờ phút hy sinh đến, các Ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, minh chứng cho đức tin về sự sống vĩnh cửu, một đức tin chân thật và duy nhất. Các thánh Tử Đạo Việt Nam chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý, yêu thương tha thứ cho kẻ bách hại và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hào hùng ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn như lời thánh Tertulianô xác tín: “Máu các thánh Tử Đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bà mẹ trong bài đọc một đã can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường lắm, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn, để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, họ đã tin rằng: “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống cũng không kém. Đức tin của các Ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các Ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông Quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con trách móc ông vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha, còn ông trùm Quỳnh vì có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ, đớn đau và nhục nhã nhưng ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường như thế cho nên các Thánh Tử Đạo đã sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các Ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa hôm nay Giêsu nói: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo Việt Nam trước muôn vàn thử thách để sống đời làm chứng cho Chúa và Tin Mừng. Thách đố trước hết là kinh tế tiền bạc. Vì đồng tiền mà nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác nhưng vẫn làm để có tiền và nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất ĐứcTin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, chúng ta bị cám dỗ và sa ngã phạm tội vì đức tin yếu kém. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt, mua vui và vứt bỏ. Vì vậy, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” này, vì nó đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm Đức tin và làm cho đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các Ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại. Vì vậy, khi chúng ta bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng…
Ước gì qua Thánh lễ này, chúng ta là thế hệ con cháu của Các Thánh tử Đạo, cũng nguyện một lòng cùng với Chúa Giêsu gieo mình vào Đất Việt tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng của Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng đã làm cho trái tim chúng ta không bao giờ mục nát, cánh hoa cuộc đời chúng ta chưa một lần úa tàn, những ánh sao không bao giờ lịm tắt, những người con Chúa sống mãi không thôi. Đó là những tâm tình Á Thánh tiên khởi Anrê Phú Yên nhắn nhủ với hậu thế chúng ta. Vì vậy, dù kết thúc Năm Thánh Tôn Vinh Ngài, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống theo những lời hướng dẫn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Làm việc lành phúc đức; sống tinh thần Tử đạo: Các gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc. Các anh chị em sống đời thánh hiến hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần “thức tỉnh thế giới” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Các linh mục hãy trung thành với lời thề hứa khi chịu chức, tận tụy thi hành bổn phận đã được trao phó trong khiêm tốn và cậy trông, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, “hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15), và hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho chúng con. Amen.
17. Thiên Hùng Ca Việt Nam
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: "Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa…
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời." Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá." Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”…
Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày 12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà Anê Lê Thị Thành cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con". ( Lm. Đào Trung Hiệu, OP, Thánh Anê Lê Thị Thành (bà thánh Đê, 1781-1841 )
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19. 6. 1988 tại Rôma, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có thánh Anê Lê Thị Thành. Các vị gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Hôm nay Giáo Hội hoàn vũ chung niềm vui với Giáo Hội Việt Nam, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng phúc cho dân Việt.
Chết đi bản thân
Các Thánh Tử Đạo đã đổ máu đào làm chứng cho Tin Mừng, cũng như trung thành thực hành Lời Chúa đến hơi thở cuối cùng. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Trong gian truân bách hại, Đức Giêsu sẵn sàng đương đầu gánh chịu, các Thánh Tử Đạo cũng noi gương Người, đã không bỏ trốn, mà từ bỏ mình đi theo Chúa, hoàn toàn phó thác, tuân thủ Thánh Ý Chúa: “Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Bà Thánh Anê đã tuyên xưng đức tin sáng ngời, xứng đáng trở thành vị Thánh nữ tiên khởi của dân Việt.
Chết đi bản thân cũng có nghĩa là chẳng thiết tha những gì dính líu đến đời sống phàm tục, của cải, tiền bạc, danh phận, chức tước, bổng lộc. “Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết.” Khi mất đi của cải là lúc được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần, chính là Nước Trời. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Chết đi cái tôi có nghĩa là hy sinh thân xác, mặc bao đòn vọt, khổ nhục, để hiên ngang làm chứng nhân Tin Mừng. Một lòng chính chuyên phó thác và cậy trông ơn trên, cầu bầu Mẹ Maria cứu giúp. "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Bà Thánh Anê còn an ủi lại người chồng xót thương đến thăm.
Chết cho tha nhân
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, tuy không công khai tái diễn thảm họa bách hại đạo Chúa, nhưng khuynh hướng thực dụng và duy vật đang thách đố tín hữu Kitô sống đạo, sống trung thực Tin Mừng. Tiên quyết để theo Đức Giêsu là tuân theo lời dạy bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Vậy xả kỷ, vị tha cũng chính là chết cho tha nhân, dấn thân phục vụ, không quản khó khăn, trở ngại, chấp nhận những hiểm họa, nhục hình có thể xảy đến.
"Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”… Dù đang chịu xiềng xích, tù đầy, roi vọt, Thánh nữ Anê vẫn không hề nao núng hãi sợ, mà còn ân cần, lo lắng khuyên nhủ con cái sống đạo chu đáo, sốt sắng và sẵn sàng tuyên xưng đức tin. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”
Khiêm nhường, nhân ái, hy sinh, phục vụ, làm chứng nhân, chính là chết cho tha nhân được nảy chồi đâm lộc, sinh hoa kết trái. Như hạt lúa chịu mục nát, thối đi, chết đi mới có thể nảy mầm, đâm chồi, sinh hoa, kết hạt, bội thu gấp chục, gấp trăm. Những giọt máu đào của chư thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã trổ sinh cánh đồng Giáo Hội xanh tươi, bát ngát, được mùa như ngày hôm nay. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.”
Chết cho Chúa
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Phúc thứ tám là phần thưởng cho những ai chịu chết vì danh Chúa, vì Tin Mừng. Người tín hữu Kitô nào dám can đảm lội ngược dòng đời để sống Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, cũng gian nan khốn khổ không kém phúc tử vì đạo. Không im lặng, đồng lõa, hùa theo, toa rập theo bầy đàn làm điều ôi ác, đê hèn, xấu xa, gian tham, háo danh, vụ lợi, không chấp nhận bất công, phân biệt, kỳ thị, không chiều theo khuynh hướng hưởng lạc, rượu chè, cờ bạc, dâm ô, khước từ văn minh sự chết, mà công khai sống theo Tin Mừng, thấm nhuần Bát Phúc, trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu, chính là chết cho Chúa.
Hôm nay, chứng nhân Tin Mừng không phải chịu đổ máu đào như xưa, nhưng vẫn quyết tâm tiếp tục chiến đấu mãnh liệt và liên tục giữa sự dữ của thế gian, ma quỷ và xác thịt, giữa một thế giới duy vật, hưởng thụ, thực dụng, sa đọa, vị kỷ, chối bỏ Thiên Chúa. Một cuộc tử vì đạo âm thầm, lặng lẽ, thách thức, dai dẳng trong suốt cuộc đời Kitô hữu, với niềm hy vọng sâu sắc, cháy bỏng, bền vững và bất tận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Còn lời hứa nào trọng đại và cao quý hơn?
“Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và Đại Diện của Ngài: Đức Thánh Cha, các giám mục, kế vị các thánh Tông Đồ. Sống và chết vì Hội Thánh như Chúa Kitô. Đứng nghĩ chết vì Hội Thánh mới hy sinh. Sống vì Hội Thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.” (Đường Hy Vọng, số 987)
Lạy Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những vị tiền nhân, đã anh dũng hy sinh cả cuộc đời, trở nên những chứng nhân Tin Mừng cho toàn thể dân Chúa. Các ngài đã nêu tấm gương thật sáng ngời, bỏ tất cả mọi sự, kể cả sinh mạng, để trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin Chúa ban ơn, giúp sức chúng con quyết tâm luôn noi gương các ngài làm chứng nhân Tin Mừng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, an ủi, khích lệ chúng con luôn làm chứng nhân cho Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Amen.
18. Tri ân và mừng kính Các Thánh Tổ Tiên -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng”.
Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.
Trước hết chúng ta cần xác nhận:
Hỏi: Các ngài là ai vậy?
Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.
Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?
Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.
Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?
Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ) … thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam mà chúng ta đang kính nhớ.
Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.
Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.
Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý. Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.
Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?
Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi: chết vì Đạo mà! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc…thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có.
Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?
Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.
Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.
19. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Ga 12,20-32
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ở mọi nơi và trong mọi lúc, người môn đệ của Chúa vẫn phải chịu chung một số phận với Thầy mình, nghĩa là bị bắt bớ và bị cấm cách, bị ghét bỏ và bị giết chết. Thời nào cũng có những vị tử đạo.
Hôm nay là ngày giỗ tổ, ngày Giáo Hội Việt Nam chúng ta long trọng mừng kính các Thánh Tử Đạo, những vị anh hùng đã bỏ mình vì Chúa, đã đổ máu đào để làm chứng cho đức tin, cũng như để xây dựng Giáo Hội.
Lịch sử cho biết: Ngày 19.3.1615, hai vị thừa sai đầu tiên đã lén lút chèo một chiếc thuyền vào cửa Bạng ngoài Thanh Hóa, để bắt đầu công việc giảng đạo. Hai đấng thấy trên một mỏm đá ở giữa giòng sông hình cây thánh giá, được vẽ bằng vôi. Các đấng ấy hiểu ra rằng: Đây là dấu Chúa cho hay sẽ có bắt bớ và cấm cách. Mà thực vậy, ba trăm năm rao giảng Tin Mừng cũng là ba trăm năm máu chảy đầu rơi. Sau Giáo Hội Rôma, thì có lẽ Giáo Hội Việt Nam đã dâng cho Thiên Chúa nhiều vị thánh tử đạo hơn cả. Trên một trăm ngàn người đã chết vì đức tin, trong đó có 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Vậy các ngài là những ai?
Có khi các ngài là những người giáo dân không tên tuổi, mà lịch sử chỉ ghi lại bằng những cử chỉ anh hùng. Có vị bị bắt, rồi bị lính lấy dùi nung đỏ khắc lên hai gò má bốn chữ “Giatô tả đạo”, rồi tống vào ngục. Trong ngục, ông đã tự thẹn cho rằng mình thiếu can đảm, không dám tỏ thái độ. Giatô đâu phải là tả đạo, mà là chánh đạo. Vì thế, ngay đêm hôm đó, ông đã xin bạn tù lấy dao rạch và bỏ đi hai chữ tả đạo, chỉ để lại hai chữ Giatô, thánh danh Đức Kitô mà thôi. Các chị em phụ nữ cũ không kém phần anh hùng. Có một thiếu phụ bị bắt và bị kết án voi giày. Gần tới ngày ra pháp trường, bà xin người nhà gửi vào cho bà một bộ áo cưới hợp thời trang nhất vì bà nghĩ rằng ngày bà chết là ngày bà được gặp gỡ Đức Kitô.
Phải. Các ngài là những người thuộc đủ mọi thành phần, mọi tuổi tác, mọi nghề nghiệp. Thế nhưng, các ngài đã làm gì? Các ngài là cha ông của chúng ta, đã sống trên đất nước mình, đã yêu mến quê hương mình, đã chia sẻ số phận với đồng bào của mình. Và cách riêng, các ngài đã chia sẻ niềm tin với chúng ta. Các ngài đã hiên ngang sống và làm chứng cho niềm tin, thà chết chứ chẳng thà chối bỏ Chúa: Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự ở trên trời.
Một ngày kia, các ngài đã phải chọn lựa: giữa mất và còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sống và chết. Cuối cùng, các ngài đã chọn Đức Kitô và đã lấy máu đào làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Tử đạo chính là chọn Chúa và làm chứng cho Chúa. Tử đạo chính là sống đạo một cách tích cực và làm tông đồ một cách nhiệt thành. Tử đạo chính là trở nên men trong bột, muối trong đồ ăn và ánh sáng trong đêm tối.
Trong ngày giỗ tổ hôm nay, chúng ta hãy ôn cố tri tân, ôn lại chuyện cũ của các ngài, đề tìm lấy một cách sống mới, phụ hợp với tinh thần Phúc âm, để rồi chúng ta cũng sẽ trở nên là những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
20. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.
Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.
21. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26 -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
22. Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh... là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.
23. Làm chứng cho Tình yêu -- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Một lãnh tụ vô thần đã tuyên bố: “Chúng ta hãy triệt phá Giáo hội, nhưng đừng tạo ra những vị tử đạo”. Khi tuyên bố như thế, một cách mặc nhiên ông ta công nhận điều mà Thánh giáo phụ Tertulianô đã nói là đúng: “Máu các Thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu”. Hôm nay, chúng ta mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Máu các Ngài đã đổ ra năm xưa, dệt nên những trang sử oai hùng giữa lòng dân tộc. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ cái chết của các bậc tiền bối cha ông và mở lòng đón nhận sứ điệp về ơn gọi tử đạo mà các Ngài chuyển giao cho con cháu là chúng ta ngày hôm nay.
Lược sử Giáo hội Việt Nam qua dòng thời gian
Hạt giống đức tin đã được gieo vào mảnh đất quê hương Việt Nam từ hơn 500 năm trước. Trong suốt chiều dài lịch sử, Giáo hội Việt Nam đã trải qua hơn 100 năm sống trong bách hại. Sắc dụ cấm đạo đầu tiên được ban hành năm 1625, kéo dài đến hết thời Văn Thân năm 1886. Hàng vạn con người đã ngã xuống do sự thù ghét. Thế gian ghét đạo, ghét Đức Giêsu và ghét luôn những môn đệ của Ngài. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu đã cảnh báo từ 2000 năm trước (Mt 5, 11; 10, 22). Trong số các anh hùng Tử đạo, đã có 118 vị được ghi tên trong sổ bộ các thánh, gồm 117 Hiển thánh và một Chân phước. Có 97 vị là người Việt Nam, 11 vị Tây Ban Nha, và 10 vị người Pháp. Họ thuộc đủ các giai tầng xã hội, gồm 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân. Trong số giáo dân, có cả những vị làm quan trong triều đình, có vị làm nghề thu thuế, làm binh lính, y sĩ hoặc chỉ là nông dân quèn. Dù là người Việt Nam hay ngoại quốc, các Thánh Tử đạo đều nói lên một chứng từ duy nhất, đó là các Ngài làm chứng về Đức Giêsu chịu hiến tế, như Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “ Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”. Cái chết của các Ngài là bài giảng sống động nhất và thâm thúy nhất. Họ rao giảng không phải trên lý thuyết, nhưng bằng chứng tá cụ thể, những chứng tá sống động và rất sâu xa. Có 6 loại án được thực hiện để hành quyết các vị tử đạo: Bá đao (cắt thân thể thành trăm mảnh) có 1 vị; Lăng trì (chặt chân tay, mổ bụng và vất xuống sông) có 4 vị ; Thiêu sinh (đốt sống) có 6 vị; Xử giảo (xiết cổ bằng dây) có 2 vị ; Xử trảm (chém đầu) có 75 vị và chết rũ tù có 9 vị. Vị Tử đạo lớn tuổi nhất là linh mục Vũ Bá Loan 84 tuổi và trẻ nhất là chủng sinh Tôma Thiện 18 tuổi. Trong thời Trịnh Nguyễn từ năm 1745 đến năm 1774 có 4 vị. Thời vua Cảnh Thịnh (1788 - 1801 ) có 2 vị. Dưới thời Minh mạng (1820 – 1840) có 58 vị tử đạo. Trong thời Thiệu Trị từ năm 1841 đến 1847 có 3 vị và thời Tự Đức từ năm 1847 đến 1883 có 50 vị. Đó là phác lược tổng quát các mốc điểm thời gian và bối cảnh dẫn đến cái chết của các Thánh Tử đạo. Nhìn lại một cách thoáng chung lịch sử của Giáo hội Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa vì gia sản đức tin mà cha ông đã để lại. Gia sản đó được đan dệt bằng máu và nước mắt, đúng như lời quả quyết của thánh Tertulianô: “ Máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu.”(Sanguis Martyrorum semens Christianorum est)
Ý nghĩa của việc tử đạo
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng bỗng có tiếng khóc ai oán vang lên nghe thật não nuột. Đứa bé sợ, ôm chầm lấy mẹ và hỏi: “ Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời thằng bé thế nào. Bà ngồi bật dậy mở Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn sau: “ Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng. Đây là hai chiều kích đặc thù nơi cái chết của Đức Giêsu, vị tử đạo đầu tiên, và cũng được lập lại nơi cái chết của các Thánh tử đạo tại Việt nam. Các Ngài đã chết để trở về nhà Cha và hoàn tất cuộc hành trình yêu thương của mình nơi trần thế. Họ ý thức Lời Chúa dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Nếu được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, nào có ích gì?” (Mc 8, 35-36)”. Thánh Phaolô Đạm nói trước tòa án Nam Định: “ Nếu tôi có hai linh hồn, tôi sẽ bán một cái cho ma quỷ để cho các ông vui lòng, nhưng tiếc quá tôi chỉ có một linh hồn, nên tôi không thể bỏ mất”.
Nhưng trên hết, hành vi Tử đạo luôn hàm ngậm ý nghĩa của việc làm chứng. Hạn từ Marturion theo nguyên ngữ Hi Lạp cũng mang chở ý nghĩa này. Các Ngài chết để làm chứng, nhưng không phải làm chứng cho một chế độ, một chủ nghĩa, mà là làm chứng cho một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người đã can đảm đón nhận cái chết khủng khiếp giống một tên cướp, để khai mở cho chúng ta chân trời ơn cứu độ. Các Thánh Tử đạo đã dùng máu của mình để làm chứng cho Đấng mà các Ngài tin theo.
Sống ơn gọi tử đạo ngày hôm nay.
Trong đại hội tu sĩ trẻ thế giới tổ chức tại Rôma đầu tháng Chín năm 2015. Ban tổ chức đã dành một tiếng đồng hồ để các tu sĩ đặt câu hỏi và Đức Thánh Cha trực tiếp trả lời. Có một anh em tu sĩ dòng DonBosco đến từ Syria đứng lên phát biểu và hỏi Ngài vài điều. Đức Thánh Cha sau khi trả lời đã hỏi ngược lại: “Con từ đâu đến đây?”. Vị tu sĩ trẻ nói là Ngài đến từ Syria. Đức Thánh Cha mở to đôi mắt nhìn vị linh mục và nói với cử tọa: “Chúng con hãy cầu nguyện cho các vị tử đạo hiện nay tại Iraq và Syria”. Cả hội trường xúc động vì tình hình chiến sự đang xảy ra rất khốc liệt tại Trung Đông, khiến bao nhiêu Kitô hữu bị giết, nhiều gia đình ly tán, các nhà thờ bị đốt phá, cả trăm ngàn người dân vô tội phải trốn tránh hoặc đi tị nạn.
Như vậy, ngày hôm nay vẫn còn các vị tử đạo, những con người bị thù ghét vì lý tưởng và niềm tin của mình. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng hơn, sống mầu nhiệm tử đạo không phải là chuyện viễn tưởng xa vời. Đó chính là bản chất ơn gọi gắn liền với căn tính Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu đã nói “Ai muốn theo tôi phải bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo tôi” (Mc 8,34).
Hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay đã bãi bỏ án tử hình, và cũng tôn trọng tự do tôn giáo, ít nhất là trên lý thuyết. Việc đàn áp tôn giáo với những màn tra tấn, tống ngục hay giết chết đang dần bị con người ngày hôm nay đào thải, vì nó đi ngược với khái niệm về nhân quyền mà xã hội luôn đề cao. Tuy nhiên lời mời gọi của Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy để sống ơn gọi tử đạo vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại, vì nó là thuộc tính nơi cuộc sống của những học trò Đức Giêsu. Ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết. Cái chết trên Thập giá theo gương Đức Giêsu là đích điểm mà tất cả mọi người chúng ta phải vươn tới. Văn hào Goethe đã viết: “ Làm một việc hy sinh to lớn trong khoảnh khắc thì dễ, chỉ cần chút can đảm nhất thời, nhưng thể hiện những hy sinh nho nhỏ và liên tục trong suốt cuộc đời thì khó hơn nhiều”. Đó là cái chết tiệm tiến, từ từ trong cuộc sống đức tin để sao chép lại chính cái chết của Đức Giêsu. Mô thức ơn gọi tử đạo của tất cả chúng ta hôm nay là như thế. Chúng ta phải đi sâu vào cái chết không đổ máu, không xích xiềng hay tù ngục qua cuộc sống hằng ngày và một cuộc sống như vậy chính là để làm chứng cho tình yêu.
Kết luận
Để kết luận, xin trích mượn tư tưởng của thánh Charles de Faucauld. Ngài nói: “Ở đời này chúng ta chỉ có thể ôm lấy Chúa Giêsu bằng cách ôm trọn Thập giá của Ngài. Ta không thể yêu mến Thập giá mà lại không có Chúa Giêsu bị đóng đinh nằm ở trên. Đồng thời chúng ta cũng không thể ôm lấy Chúa Giêsu mà lại vắng bóng Thập giá”. Hoa hồng là biểu tượng của tình yêu. Cánh hoa hồng càng rực rỡ càng có nhiều gai nhọn ẩn sâu bên dưới. Cũng vậy tình yêu đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Con đường đau khổ dẫn đến Thập giá, chính là con đường của ơn gọi tử đạo, con đường của tình yêu. Cũng như thánh Têrêsa hài đồng Giêsu đã viết: “Sống bằng tình yêu không phải là định cư mãi với Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor giữa những vinh quang sáng chói, nhưng là còn phải trèo lên đỉnh Calvê để ôm nhận Thập giá như một kho tàng”. Sống ơn gọi tử đạo là như thế.
24. Những Anh Hùng Đất Việt
Anh chị em thân mến.
Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm nay, giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.
Họ là ai mà họ can đảm thế?
Họ là ai mà họ anh hùng thế?
Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?
Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: "Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất", "ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta".
Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.
Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.
Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.
Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.
25. Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương” (Tv 63,4)
Sống yêu thương có phải là chọn lựa của tôi?
26. Sống chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
27. Tử Đạo thời công nghệ 4.0 -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng nói: “Một Giáo hội không có các vị tử đạo là một Giáo hội không có Chúa Giêsu”. Đức Thánh Cha cũng mời gọi cầu nguyện “cho các vị tử đạo của chúng ta đang đau khổ rất nhiều,” “cho các Giáo hội không được tự do để diễn tả chính mình”: “họ chính là niềm hy vọng của chúng ta.” Ngài nhắc lại lời của giáo phụ Tertullien xưa đã viết: “Máu của các vị tử đạo, là hạt giống của các Kitô hữu.” Thế nên, Đức thánh Cha cám ơn Chúa đã hiện diện với sức mạnh của Chúa Thánh Thần nơi các anh chị em đang chịu bách hại bằng nhiều cách...
Quả thực, ngày nay vẫn còn đó những cuộc bách hại bằng khủng bố đánh bom nhà thờ, và sát hại các linh mục tu sĩ, vẫn còn đó những cuộc cấm đoán biểu lộ niềm tin như giáo hội hầm trú Trung Quốc, hay tại các nước đang phát triển mà Đức Thánh Cha đãnói: “Tôi không thể quên chứng tá của Linh mục và nữ tu ở nhà thờ chánh tòa Tirana: năm này qua năm khác ở trong tù, bị lao động khổ sai, hạ nhục,”, đối với họ nhân quyền không tồn tại.
Ngày hôm nay còn có một hình thức bách hại mới mà Giáo hội Việt Nam cũng đang phải đối diện. Đó chính là sự bách hại bởi truyền thông xã hội. Chúng ta cũng thấy nhiều linh mục, Giám mục đã trở thành “các vị tử đạo” bởi truyền thông xã hội khi các ngài mạnh dạn lên tiếng nói cho sự thật và bảo vệ công lý. Có những linh mục giúp cho dân mình khởi kiện sự tàn phá môi trường của Formosa liền bị quy chụp bởi nhiều tội danh chẳng liên quan đến việc đòi lại công lý. Có những giám mục chỉ nói lên tiếng nói của sự thật liền bị truyền thông cắt xén, bóp méo và tìm cách loại trừ. Có những Giám mục bảo vệ công lý thì bị quy chụp là xem thường pháp luật, bị các thế lực thù địch xúi giục, bao che tội phạm… mà trong nhiều hệ thống báo chí, đài phát thanh và truyền hình đã từng đăng tải...
Cónhững linh mục còn bị những truyền thông giấu mặt mà người ta hay nói là đội quân DLV luôn chửi bẩn, nói bậy khi các linh mục này dám lên tiếng nói kêu gọi tôn trọng sự sống và phẩm giá con người. Đội quân DLV đa số là thành phần thất học, chỉ cần tiền nên không biết lý lẽ, phải trái... và sẵn sàng lao vào người ngay chính rủa xả và dừơng như họ luôn coi các lãnh đạo tôn giáo như kẻ thù và là mục tiêu của thách thức chế diễu, lăng mạ...
Thời nào cũng có những cuộc bách hại, nhưng Giáo hội lại càng cần những chứng nhân trong những cuộc bách hại như thế. Vì càng bị bách hại người tín hữu càng được tôi luyện mình nên tốt hơn, và là dịp thuận lợi để làm chứng cho niềm tin của mình.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà người ta sống ảo nhiều hơn sống thực. Thế giới ảo phải chăng chính là môi trường cần thiết để chứng tá tin mừng được ghi dấu nơi ấy? Thế giới ảo phải chăng là lời mời gọi cuộc cách mạng tin mừng hãy dùng chính thế giới ảo ấy lan truyền tin mừng của Chúa đến cho mọi người? Đây cũng là một thế giới công bằng và cộng đồng mạng là những người thực thi công lý. Bởi vì rất nhiều những án oan, nhưng bất công đã được cộng đồng mạng đồng tâm chia sẻ và đòi lại công bằng đã thành công.
Tại sao người Công giáo chúng ta còn ngần ngại tuyên xưng niềm tin bằng việc loan tải những sứ điệp đầy yêu thương của Chúa đến cho mọi người? Tại sao chúng ta không tận dụng truyền thông để đẩy lùi sự dữ ra khỏi xã hội loài người? Phải chăng còn rất ít người dám tuyên xưng niềm tin? Phải chăng chúng ta đã cố tình bịt mắt, bịt tai, bịt miệng để tìm an toàn cho bản thân?
Cha ông chúng ta dám đổ máu đào để bảo vệ đức tin và làm chứng cho tin mừng trong điều kiện đầy khó khăn và gian khổ. Máu của các ngài đã đổ ra để bảo vệ và truyền lại đức tin cho con cháu là chúng ta. Chắc chắn các thánh TĐVN cũng mong muốn con cháu mình phải tiếp tục bảo vệ đức tin trong thế giới hiện đại. Nhất là trong truyền thông giáo hội đang bị xuyên tạc và khủng bố, nên rất cần người tín hữu công khai bảo vệ niềm tin của mình. Như cuối năm 2017 người ta dựng nên một Đạo thánh Đức Chúa Trời với một phong trào rầm rộ cả nước Việt Nam, rõ ràng đây là một âm mưu nhằm xuyên tạc tín lý giáo hội Công giáo, và khủng bố niềm tin nơi giáo dân. Rồi người ta lăng mạ các linh mục tu sĩ trong hình dạng ma quái ghê sợ trong ngày halloween, người ta cho biểu diễn game show với hình nữ tu ăn mặc hở hang... Thế giới truyền thông cũng tiềm ẩn rất nhiều sự dữ nên cần người tín hữu phải mạnh dạn lên tiếng bênh vực công lý và đẩy lùi sự dữ cho dầu có chịu nhiều lăng nhục hay bách hại...
Chắc chắn khi chúng ta dám làm chứng cho sự thật, dầu ở môi trường nào cũng là đối kháng lại với thế gian nên sẽ gặp những chống đối, quy chụp, bách hại,... Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình vì “phần thưởng chúng ta rất lớn trên quê trời, vì Chúa Giê-su đã từng nói: phàm ai tuyên “xưng Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)
Nguyện xin các thánh TĐVN giúp sức để chúng ta can đảm tiếp nối các tiền nhân dám làm chứng cho tin mừng, cho công lý và sự thật giữa thế giới văn mình nhưng thiếu tình yêu hôm nay. Amen.
28. Con người thích thỏa hiệp -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn đầy rẫy sự thỏa hiệp. Thỏa hiệp trong giao tế, trong chính trị, trong làm ăn. Thỏa hiệp đòi hỏi sự nhượng bộ, sự nhân nhượng, nhường bước. Sự thỏa hiệp đòi hỏi phải từ bỏ một phần quan điểm của mình để nhượng bộ cho đối phương. Cách riêng, trong đời sống luân lý thì không có sự thỏa hiệp. Con người không bao giờ được thỏa hiệp với sự dữ, nghĩa là không bao giờ thỏa hiệp với Satan và bộ hạ của nó. Thỏa hiệp với ma quỷ là con người tự làm cho mình ra nô lệ tội lội.
Adam – Eva đã tự tìm đến cái chết khi thỏa hiệp với ma quỷ. Thỏa hiệp luôn là thất bại trong cay đắng. Thỏa hiệp là tự tìm đến cái chết thay vì được sống trong tự do. Biết bao người đã thỏa hiệp để bắt tay làm ăn bất chính, để làm ngơ trước sự xấu hoành hành. Họ có tiền, có quyền nhưng không bao giờ có niềm vui tâm hồn bình an.
Tuy nhiên, cuộc đời vẫn còn đó những con người từ chối thỏa hiệp. Họ là những con người thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng. Đôi khi còn được hưởng chức tước vua ban. Nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không vì ham sống sợ chết mà chà đạp lên thập giá. Các ngài cam lòng chịu đòn roi, chịu án tử hình như cơ hội để lãnh phúc triều thiên vinh quang. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Ðức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã dám chết để minh chứng niềm tin. Đây là gương sáng mà các ngài để lại cho hậu thế. Hãy sống trung thành với Chúa, với Giáo hội. Hãy can đảm từ chối mọi thỏa hiệp bất chính. Nhưng xem ra cuộc đời vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo đã chẳng giữ đạo hay chỉ giữ một cách hời hợt. Họ giữ đạo hình thức đôi khi có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng tiền bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ Giáo Hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
29. Làm chứng nhân - Lc 21, 5-19
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình để làm chứng cho đức tin của mình:
- Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bệnh và bị dã thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
- Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Như vậy các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng việc chịu chết vì đức tin và máu của các ngài đã đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội như Tertulianô đã nói: “máu của các vị tử đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Ngày nay mỗi Kitô hữu có thể làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách khác nhau và mỗi người có một cách làm chứng riêng của mình. Trên thế giới ngày nay có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực, cho nên có vô vàn vô số những phương cách thích hợp. Chính vì vậy mà Chúa đã nói với các tông đồ và cũng nói với mỗi người chúng ta rằng: “Các con là chứng nhân của Thầy” (Lc 24,48). Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất là làm chứng nhân cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta như cha Vianney. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Và đây, một bác tài xế xe taxi đã làm chứng nhân cho Chúa trong chính cuộc sống đời thường của mình:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách sống đời chứng nhân của một bác tài xế xe taxi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn "Thượng Lộ Bình An". Amen.
30. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
“Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình!"
Suy niệm:
Lịch sử Giáo hội trải qua hơn 2000 năm không thiếu những gương chứng nhân đức tin giúp củng cố lòng đạo nơi các tín hữu. Và cũng như Tin mừng mới đến trên mảnh đất Việt Nam vào giữa thế kỷ XVI, do một linh mục thừa sai tên Inêkhu truyền giáo năm 1533, thế nhưng cũng đã đóng góp vào lòng Giáo hội hoàn vũ tới 130.000 tín hữu chịu tử đạo vì danh Chúa trên khắp cả nước, mà khởi đầu là Anrê Phú Yên hay còn gọi là Anrê Trung chịu tử đạo năm 1644, và kéo dài mãi đến năm 1885 khi phong trào Cần Vương phò vua đã quyết “Bình Tây diệt Tả”, tiêu diệt người ngoại quốc, diệt trừ Kitô giáo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ XIX, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Lý do bị bách hại là vì Kitô giáo bị coi là ngoại lai, do người Tây đem vào; hoặc vua được coi là thiên tử, phải thờ phượng nhà vua trên hết mà nay Kitô giáo lại tôn thờ Thiên Chúa trến hết; hay vì lý do người Kitô hữu sống một vợ một chồng, điều này đi trái lại ý vua muốn trai năm thê bảy thiếp để có thể sinh ra cho nhà vua một dân tộc lớn mạnh với số dân đông đảo để có người bảo vệ đất nước. Và thậm chí Kitô giáo bị hiểu lầm là những người bỏ việc thờ kính cha mẹ, đi ngược lại với truyền thống tổ tiên nên gọi là Tả đạo và quyết loại bỏ đạo sai trái này.
Vinh phúc tử đạo là phần phúc cao cả nhất dành cho người tin vào Chúa Kitô Giêsu vì được chung phần đau khổ với Người, được vác thập giá mình mà theo Người. Với đa dạng những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau từ giáo sĩ tới giáo dân, từ quan lính tới thường dân, từ nhà giàu đến người nghèo bất kể nam phụ lão ấu đều can đảm dùng giá máu làm chứng cho giá trị Tin mừng. Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn vũ ghi nhận và vinh danh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức thánh cha Gioan Phaolô đệ II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, đại diện cho muôn ngàn tín hữu khác cũng chịu phúc tử đạo.
Trong số 117 vị ấy, có 8 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục thì có 13 vị người ngoại quốc và 37 vị người bản địa Việt Nam, 14 Thầy giảng; 1 Chủng sinh và 44 Giáo dân. Trong những cái chết anh dũng ấy, có 1 vị chịu bá đao (một trăm nhát dao), 4 vị chịu lăng trì (tùng xẻo: gõ tiếng trống thì lóc miếng thịt), 6 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo (siết cổ tới chết) và 9 vị chết rũ tù.
Giáo hội Công giáo Việt Nam tự hào và biết ơn cùng sự ngưỡng mộ đối với các bậc tiền bối anh dũng. Qua đó, cũng để nhắc lại gương sáng của các ngài cho hậu thế, Giáo hội Việt Nam sắp khép lại Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này, thế nhưng hào khí trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô giữa lòng xã hội không hề giảm sút nơi lòng tín hữu con dân Việt Nam, đủ để thấy như lời văn sĩ Tertulianô đã nói: “Máu các vị thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu”. Vậy chúng ta là những người hậu thế cố gắng trong mỗi ngày sống quyết luôn can đảm làm chứng cho Chúa ngay từ những việc nhỏ bé hằng ngày, từ việc làm dấu, dự lễ sốt sắng, từ đời sống chân thành, chịu đựng lẫn nhau, tận dụng những dịp đến với anh chị em là cơ hội cho mình trở nên chứng nhân cho Chúa với một đời sống tốt lành, như lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, ngài đã viết: “Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình! Amen".
31. Các thánh tử đạo Việt Nam - Ga 17, 11b-19
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là một đoạn ngắn trong lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu sau bữa Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn.
Đọc lại những lời này, chúng ta cảm nghiệm được mối liên hệ sâu xa giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài. Chúng ta cũng cảm nghiệm được mối tình đầy ắp giữa Chúa Cha và Chúa Con, khi Ngài đang là người giữa chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào giữa tình yêu của Ngài với Chúa Cha. Ngài cho thấy sự sống đầy yêu thương giữa Chúa Cha và Ngài. Tình yêu đã làm cho Ngài và Chúa Cha nên một, và Ngài muốn chúng ta nên một như thế.
Định luật tình yêu chân thật là như thế.
Ước nguyện của Ngài là chúng ta không những được nên một với nhau mà nên một với Chúa Cha. Vì thế, sống hay chết, chúng ta vẫn hiệp thông với Chúa Cha và với nhau.
Các thánh tử đạo là những người đã đạt tới đỉnh cao của tình yêu. Dù thử thách, gian nan hay nhục hình, các ngài vẫn trọn tình với Chúa.
Tử đạo là chết vì yêu, là nên một với Đấng mình yêu trọn vẹn. Các thánh tử đạo đã thực hiện trọn vẹn lời của thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu sự sống hay sự chết…bất cứ một thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Vì thế không có thánh tử đạo nào tỏ ra buồn bã hay chán nản, mà ngược lại, hiên ngang và vui tươi. Cái chết đối với các ngài không phải là một mất mát mà là vinh quang. Các ngài đã nên một với Chúa từ đời này, trong ngục tù, trong khổ nhục và họ chỉ mong được nên một với Chúa của họ trong vinh quang. Vì thế, cái chết chỉ là một cuộc vượt qua.
Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ và Ngài đã gìn giữ họ trong tình yêu của Ngài, không để cho ai bị hư mất trừ người đã tự mình chọn lấy sự hư mất.
Cái chết đối với họ cũng là dấu chỉ của tình yêu. Họ sẵn sàng chấp nhận nó trong niềm vui. Đây là điều gây ngạc nhiên cho những người không tin. Tại sao đứng trước khổ hình và cái chết, họ luôn hiên ngang và vui tươi như thế? Họ đi vào cái chết như đi vào một tiệc vui. Làm sao hiểu được niềm vui trong lòng cô dâu và chú rể trong ngày thành hôn?
Phải yêu thực sự mới hiểu được niềm vui của các thánh tử đạo.
Chính Chúa Giêsu là niềm vui bất diệt của các ngài. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ: “Bây giờ Con đến cùng Cha và Con nói lên những điều này lúc Con còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của Con.” Chúng ta hiểu tại sao cái chết trở nên nhẹ nhàng như thế. Thế gian tưởng họ là những người điên khùng hay cuồng tín. Đối với thế gian, cái chết của họ thật vô lý. Thế gian đâu hiểu được rằng cuộc sống trong trần gian, nếu không có cuộc sống hạnh phúc mai sau, thì mới thực sự là vô nghĩa.
Hơn nữa, người Công giáo có một mối tình sâu đậm và quí báu đến nỗi không bao giờ họ đổi với một cái gì khác, và đối với họ “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng chết cho bạn hữu”. Và họ dám chết cho người yêu duy nhất của họ là Chúa Giêsu. Vì thế họ xem cái chết như một cử chỉ yêu thương tuyệt hảo, cũng như Ngài đã chết cho họ vì yêu thương. Qua khuôn mặt của các ngài, chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt khác không thể tả là khuôn mặt của Đấng là Tình Yêu.
Tại sao thế gian khai trừ họ?
Chúa Giêsu nói: “Con đã truyền cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Tại sao họ phải chết? Vì họ không thuộc về thế gian. Họ chính là một cái gai trước mặt thế gian, nếp sống của họ, Thiên Chúa của họ là một lời tố cáo thế gian. Họ sống trong thế gian, như mọi người, cũng lao động để kiếm sống như mọi người, nhưng họ không thuộc về thế gian. Vì họ không chỉ xây dựng một thế giới vật chất mà thôi. Họ sống cho một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa là tất cả. Đối với họ, thế gian chỉ là phương tiện để đạt đến một cuộc sống hạnh phúc vững bền chứ không tạm bợ. Cuộc sống đó chính là Thiên Chúa. Vì thế, họ đã chọn từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống: “Ai không bỏ mình vác thập giá mà theo Ta…”
Họ cũng là những con người yếu đuối, mong manh, cũng ham sống, cũng thích cuộc sống vật chất, nhưng khi cần, họ cũng dám liều mạng, vì họ muốn đáp lại tình yêu của Đấng đã chết và sống lại cho họ và ban cho họ cuộc sống mới mà thế gian không thể hiểu được. Tình yêu đó chính là sức mạnh khiến họ có đủ can đảm chấp nhận tù tội, nhục hình và cái chết đau đớn. Có lẽ giờ này trong vinh quang, các ngài nhìn lại, chắc các ngài cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể chịu đựng được những hình khổ như vậy. Vì thật ra ai cũng biết đau đớn, biết buồn sầu lo lắng, nhưng trong lúc đau đớn như thế, có một sức mạnh nào đó đã yểm trợ họ, trong sự yếu đuối mỏng giòn của họ. Họ đã được thánh hiến trong đau khổ như Chúa Giêsu đã được thánh hiến. Thánh hiến tức là hoàn toàn thuộc về Chúa Cha, hoàn toàn phó thác trong tình yêu.
Trong cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta, Chúa đang chờ đợi chúng ta tử đạo. Tử đạo hôm nay, ngay trong cuộc sống này, đó là yêu thương đến tận cùng. Yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như Thầy đã yêu.
Cuộc sống không thương xót chúng ta đâu! Thế gian cũng không nương tay đối với chúng ta đâu! Phải can đảm dấn thân trong cuộc sống hằng ngày và can đảm vượt lên trên tất cả để trở thành những vị anh hùng tử đạo. Chúng ta được gọi trở nên anh hùng. Sống tốt giữa một thế giới đầy gian ác là một cuộc tử đạo đau đớn chứ không dễ dàng. Yêu thương giữa hận thù tranh chấp cũng là một nếp sống anh hùng. Chúa đang mong chờ những chiến sĩ can đảm như thế. Chúa đang chờ đợi những chứng nhân đáng tin cậy trong một thế giới mà Ngài trở thành cớ vấp phạm.
Chúa Giêsu không xin Cha đem chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng chỉ xin cho chúng ta khỏi ác thần mà thôi. Phải, chúng ta luôn chiến đấu không phải với con người có xác như chúng ta mà là với thần linh, như thánh Phaolô đã nói. Chỉ xin cho chúng ta can đảm đến cùng, làm chứng nhân đến cùng mà thôi. Chúng ta được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn mà thế gian không bao giờ biết, đó là thịt máu Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và đã đi trước chúng ta trong một cuộc tử đạo ghê gớm nhất. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta: “Chúng con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng thế gian bằng một thứ vũ khí mà thế gian cũng không thể hình dung được: đó là Tình yêu không sứt mẻ hao mòn, tình yêu luôn tự hiến. Chúng ta chỉ có thể thắng thế gian bằng thứ vũ khí đó mà thôi. Thắng thế gian bằng cái chết tin yêu.
32. Sống và sống dồi dào
Anh chị em thân mến,
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nước VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: "anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn..." Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẽ như sau:
Cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: "anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét." (Mt 10,18.22). "Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẵng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: "đất nước này rồi sẽ lắm đau thương." Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: "Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì.." Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ....
Bà thánh Inê Đê, thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: "các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây". Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế...
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy màThánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.
33. Sống chứng nhân.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
34. "Thà chết vinh còn hơn sống nhục" -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng satan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin #ức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng Lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
35. Truyền đạo.
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?
36. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì -Mt 10, 17-22
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
37. Can đảm nói không với tội lỗi – Lc 20, 27-38 -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
38. Tử đạo hay sống đạo?
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
39. Nhớ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Nguyễn Minh Triệu)
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận được một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.
40. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng" -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
41. Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
42. Niềm tin
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:
- Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời:
- Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên:
- Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:
- Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:
- Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: "Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ".
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: "Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con".
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: "Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm".
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: "Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi".
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: "Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn".
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: "Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu".
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: "Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô".
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: "Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng".
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: "Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé".
Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: "Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa". Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: "Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó"?
43. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
44. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:
- Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
45. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.
1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.
Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.
Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.
Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào: "Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.
Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì. Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu. Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu. Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ "
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:
- Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
"Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi... đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày... rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích"
Vâng, kính thưa anh chị em,
Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: "Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô".
2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.
Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: "Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ" (Jn 4,36-37).
Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: "Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác"
Hàng trăm ngàn các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã vất vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt máu này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhờ các Ngài mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.
3. Tâm tình thứ ba là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.
Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh" Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.
Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: "Các cháu nên nhớ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau"
Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Nhưng truyền lại bằng cách nào?
- Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.
Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.
Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan. Quan dụ:
- Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
-..........................?
- Vậy một nén vàng!
- Bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
- Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.
Nguyễn văn Lựu: "Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được."
b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.
Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ" Victor Hugo: "Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chúa Giêsu: "Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy" Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng. Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.
Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?
Ngài nói tiếp như một xác tín: "Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" Và Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rom 8,35-39). Amen.
46. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26 -- ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, - thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
47. Tử đạo
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong đền thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành.
48. Anh hùng tử đạo
Vào một ngày mùa hè năm 1839, vua Minh Mạng “vi hành” đi quan sát dân tình thế thái tại kinh đô Huế. Mọi sinh hoat nơi phố phường đều phải ngưng lại. Ai nấy đều phải tránh sang một bên để xa giá của nhà vua đi qua, rồi sau đó mới được phép tiếp tục công việc.
Nhưng rồi bỗng từ đâu xuất hiện hai quân nhân không thuộc đội cận vệ của nhà vua. Họ quì rạp xuống. Hai tay nên cao lên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Quan hầu cận nhận tờ sớ và trình lên nhà vua. Tờ sớ mang chữ ký của ba người, đó là Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể và Đinh Đạt. Riêng ông Đạt, vì bận việc nên vắng mặt.
Nội dung tờ sớ ấy như sau:
- Cha ông chúng tôi theo đạo Gia Tô. Năm ngoái các quan tra tấn, ép buộc chúng tôi phải bước qua thánh giá. Chúng tôi đã miễn cưỡng làm theo, chứ thực tâm chẳng hề muốn một chút nào cả. Nay chúng tôi xin được tiếp tục giữ đạo để làm trọn chữ hiếu với cha ông chúng tôi.
Tờ sớ mang lại một kết quả, đó là các ngài đã được diễm phúc tử đạo. Thánh Augustinô Huy và thánh Nicola Thể thì bị chém đầu và thân xác bị ném xuống biển làm mồi cho cá ở cửa Thuận An ngày 13.6.1839. Còn thánh Đa Minh Đạt thì bị xử giảo tại pháp trường Bảy Mẫu thuộc tỉnh Nam Định ngày 18.7.1839.
Tờ sớ này có một nội dung giống như lời cha Phêrô Tự đã nói với quan tòa:
- Tôi kính Thiên Chúa, như thượng phụ, kính nhà vua như trung phụ và kính song thân như hạ phụ. Nếu tôi không thể nghe theo cha mẹ ruột mà làm hại đến nhà vua, thì tôi cũng không thể vì nhà vua mà phạm đến thượng phụ của tôi là Thiên Chúa.
Hai mẩu chuyện nói trên tiêu biểu cho niềm tin của 117 vị thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh ngày 19.6.1988 tại Rôma. Và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã ấn định mừng kính các ngài cách trọng thể vào Chúa nhận thứ 33 thường niên, Chúa nhật trước lễ Đức Kitô Vua, kết thúc năm phụng vụ, đồng thời cũng để mừng kỹ niệm ngày thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Trong số 117 vị, thì gồm có: 8 giám mục, 50 linh mục, 14 thầy giảng, 01 chủng sinh và 44 giáo dân. Những cực hình dã man các ngài đã phải chịu gồm nhiều loại khác nhau, chẳng hạn như bá đao nghĩa là bị cắt ra cho đủ 100 miếng, lăng trì nghĩa là bị chặt tay chân trước rồi mới chém đầu sau, xử trảm nghĩa là bị chém đầu, xử giảo nghĩa là bị treo cổ, thiêu sinh nghĩa là bị đốt sống và rũ tù nghĩa là bị chết trong tù.
Các chết anh dũng của các thánh Tử đạo Việt Nam một lần nữa cho chúng ta thấy được rằng sự thù ghét đối với niềm tin không phải chỉ là một hiện tượng thoáng qua, mà còn là một sự kiện thuộc về bản chất của người đời, của thế gian.
Thực vậy, kẻ đau mắt nhức nhối trước ánh sáng thế nào, thì người đời và thế gian cũng nhức nhối trước tinh thần của Đức Kitô như vậy. Tinh thần của thế gian đối nghịch với tinh thần của Đức Kitô như bóng tối và ánh sáng, như lửa và nước.
Nếu như ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn bị thế gian ghét bõ, thì đó cũng chỉ là một chuyện thường tình mà thôi, bởi vì chính Đức Kitô, trong suốt quãng đời công khai cũng đã gặp phải rất nhiều những chống đối và thù ghét, để rồi cuối cùng, mặc dù chẳng có tội lỗi gì, thế mà Ngài cũng đã phải lãnh nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, một hình phạt chỉ được dành cho hạng nô lệ và phản loạn mà thôi.
Tuy nhiên, điều cần thiết đó là chúng ta phải giữ vững niềm tin của mình giữa những phong ba bão táp và những gian nan thử thách trong cuộc đời, như các thánh Tử đạo Việt Nam, là những bậc cha ông chúng ta thuở trước, bởi vì ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát.
49. Chứng nhân
Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Các con sẽ làm chứng về Thầy". Và chứng ấy là "Người ta sẽ hành hạ và giết các con". Dù không thuộc lịch sử Giáo Hội cho lắm, chúng ta đều biết rằng: Trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người, từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết rằng: Đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê gớm.
Quả thực, có thể nói: Đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm người được phúc tử đạo vào thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm 1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam đã phải đổ máu để gieo vãi hạt giống Tin Mừng.
Suốt ba thế kỷ cấm đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng khi trầm, Giáo Hội Việt Nam có được khoảng 100.000 vị tử đạo. Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử Đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay cũng có mười vị được phong "đáng kính" và 1.000 vị được kể vào bậc "tôi tớ Chúa". Cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều gì?
Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác tín rằng: Những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo Hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng, nhưng là cho một việc. Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng: Lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo: Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục.Trước cái chết, các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế, danh từ "Tử Đạo" có nghĩa là làm chứng, và dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: "Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ cho người khác chém để làm chứng".
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Tử Đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.
Người ta kể rằng: tại Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: "Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?". Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: "Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một loại nước hoa thơm quá".
Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười nói: "Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi muốn nói với quí vị rằng: Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị".
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của chúng ta.
50. Chứng nhân.
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
51. Chọn Đấng Chịu Đóng Đinh
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Hữu An)
Tin mừng Lc 21: 5-19: Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô.
Năm 1837, vua Minh Mạng triệu tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh về kinh và trao cho 40 cây Thánh Giá, rồi ra lệnh phải áp dụng gắt gao chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó, tổng đốc Khanh trở thành “Hùm xám Nam định”.
40 cây Thánh Giá trở thành dụng cụ để thử thách niềm tin của người tín hữu. Người có đạo khi bị bắt, buộc phải “quá khoá” phải bước qua Thánh Giá. Nếu bước qua sẽ được sống, được trả lại tất cả những gì đã mất, và còn được tặng thêm phú qúi vinh hoa. Không bước qua phải bị tù đày, gông cùm đòn vọt và mất cả mạng sống.
Thánh Giá chính là cột mốc để phân định giữa sống và chết, giữa Thiên Chúa và thế gian. Khi đối diện với Đấng Chịu Đóng Đinh, người tín hữu luôn phải thực hiện một sự chọn lựa có tính quyết định.Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết: “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo...Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!
Thánh Giá luôn là điểm hẹn tình yêu, là nơi gặp gỡ của những người sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng Chịu Đóng Đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác. Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các Ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.
52. Sức mạnh của đức tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận cuồng phong, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu.
Nói đến sức mạnh, chúng ta nghĩ đến những trận động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh đã giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả mà lại luôn luôn ở trong tầm tay con người. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo.
Niềm tin tôn giáo không bao giờ bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào có thể xoá bỏ được niềm tin tôn giáo. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh xác tín đó.
1. Sức mạnh đức tin vượt thắng những thách đố.
Trong chuyến hành hương Rôma, tôi có dịp đi viếng những hang toại đạo. Đi trong hang như là tìm về cội nguồn đức tin. Nơi đây biểu lộ sức mạnh đức tin của bao thế hệ tiền nhân. Giáo hội giữ vững niềm tin trên nền tảng tử đạo của biết bao con người nằm dưới hang này trong 300 năm đầu bị bách hại. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang rất lạnh lẽo. Mùi tử khí vẫn còn thoang thoảng đâu đây. Đi trong hầm mộ lạnh lùng, hoang vắng, lối ngõ ngoằn ngoèo, tôi cảm nghiệm được ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Sự chết luôn luôn đe dọa rình rập cướp lấy mạng sống con người. Bước đi trong lòng tin và lòng cảm phục nên người hành hương lại cảm nhận sự ấm áp, thân tình gần gũi với các thế hệ tiền bối. Gia sản của Giáo Hội là đây.Tại nơi này, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong ba thế kỷ. Sức mạnh đức tin thật là kỳ diệu.
Suốt ba trăm năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn trăm ngàn Vị Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà cửa, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…Với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man. Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ. Trong 117 Thánh Tử Đạo được tuyên phong, có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Người ta nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác để buộc các tín hữu chối bỏ đức tin.
- Thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích".
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Cha Điểm và Cha Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Dù chịu mọi cực hình tàn bạo, bị hành hạ tra tấn khủng bố, các ngài vẫn không chối bỏ đức tin. Vua chúa, quan quyền, binh lính phải sững sờ kinh ngạc và kính phục lòng tin sắt son của các ngài.
Thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm Trọng Khảm. Nhờ sức mạnh đức tin, các ngài chấp nhận mất chức quyền, mất danh vọng thế gian và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.
Thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhờ sức mạnh đức tin nên ngài đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Thánh Tôma Thiện, Phaolô Bột, đầu xanh tuổi trẻ, tương lai còn dài, nhiều hứa hẹn. Các ngài đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Chúa nhờ sức mạnh đức tin.
Các Thánh Tử Đạo vui lòng đón chịu mọi cực hình đau đớn, chấp nhận mọi thua thiệt, vui lòng mất hết địa vị bổng bộc và hiên ngang tiến ra pháp trường đón nhận cái chết như một mối phúc, minh chứng lòng trung thành của mình đối với Đức Kitô. Cái chết của các ngài làm sáng lên sức mạnh đức tin.
2. Những thách đố Đức Tin thời nay.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin mạnh mẽ như các Thánh Tử Đạo. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời xưa.
Nhưng ngày nay có rất nhiều thách đố đức tin với tín hữu Việt Nam.
- Vô thần duy vật
Thách đố trước hết đối với Đức Tin chính là môi trường mà chúng ta đang sống và “hít thở”, đó là một xã hội vô thần duy vật. Đây một xã hội tự bản chất chối bỏ Thiên Chúa, đề cao vật chất và quyền lực. Sự chối bỏ Thiên Chúa sẽ là nguyên nhân đưa tới sự sa đọa của con người và xã hội. Khi một xã hội vắng bóng Thiên Chúa, người ta sẽ tạo ra những “thiên chúa khác” nơi một con người hoặc nơi vật chất như người Do Thái trong Cựu Ước đã đúc ‘bò vàng” để thờ như thờ Thiên Chúa. Xã hội chạy theo sức hấp dẫn của đồng tiền. Của cải và quyền lực lên ngôi. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Người ta tìm mọi cách kiếm tiền để có quyền. Khi có chức quyền thì càng kiếm được nhiều tiền. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ… Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội.
- Gian dối và lừa lọc lên ngôi
Thách đố thứ hai của Đức Tin, đó là xã hội Việt Nam đang báo động bởi đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn. Đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực trạng xã hội:
“Nhân phẩm ngày nay giảm giá rồi,
Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực,
Chân lý chân giò một giá thôi.”
Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.
- Sự đề cao hưởng thụ cá nhân
Chúng ta đang phải đối diện với một nền văn hóa bị thống trị bởi lối sống hưởng thụ ích kỷ. Trong đó, con người chạy theo lối sống hưởng thụ cá nhân, biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Tương quan yêu thương và nhân bản bị xếp sau tương quan trao đổi và lợi ích kinh tế. Xã hội này đã sinh ra những đứa con “quái thai” trong cách sống: bằng mọi cách để kiếm tiền và hì hục hưởng thụ! Khi sống theo lối sống này, con người trở nên ích kỷ, quy ngã, hời hợt, và ít quan tâm đến người khác, thiếu khả năng liên vị, không biết tôn trọng và yêu thương người khác. Quan sát cách hành xử của người Việt Nam ở nơi công cộng và nhất là khi tham gia giao thông, sẽ thấy người ta tranh giành nhau, chụp giật và manh mún theo kiểu mạnh ai người ấy thắng, cá lớn nuốt cá bé. Cách sống nói lên não trạng và tâm tính con người. Đó là một tình trạng đáng buồn cho xã hội Việt Nam hôm nay!
- Chủ trương duy tương đối
Còn có một thách đố lớn hơn đối với Đức Tin mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn cảnh báo, đó là chủ trương duy tương đối. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo một chuẩn mực luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Tất cả là tương đối và mỗi người có thể thay đổi các chân lý và sống theo những chọn lựa và chuẩn mực cá nhân. Đây là sai lầm căn bản dẫn đến những sai lầm khác của con người hôm nay. (x. Những thách đố đối với Đức Tin trong xã hội hôm nay; lamhong.org).
Những lối sống và não trạng trên đã và đang len lỏi vào các ngõ xóm, các xứ đạo của chúng ta.
3. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô
Năm Đức Tin là thời gian và cơ hội quý báu giúp mọi Kitô hữu “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9).
Đức Giáo Hoàng Biển Đức dạy: “Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc cử hành Đức Tin”. Cử hành đức tin là tuyên xưng, sống và làm chứng cho Đức Tin. Tuyên xưng Đức Tin như Kinh Tin Kính dạy và như Hội Thánh công bố. Tuyên xưng Đức Tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng. Cử hành Đức Tin bằng việc nhiệt thành dấn thân thực hiện công cuộc truyền giáo với cách thức mới mẻ và hiệu năng hơn. Cử hành Đức Tin bằng sự chuyên cần cử hành và lãnh nhận các bí tích. Cử hành các bí tích là cử hành mầu nhiệm các đức tin, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.
Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa chúng ta đi vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người. Đức Tin là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.
Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài. Chúng ta được tiếp thêm sức mạnh Đức Tin để sống đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7), chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh Đức Tin.
53. Tử đạo
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.
54. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Bạn thân mến!
Không biết các bạn có thấy ngộ ngộ bật cười không, mỗi khi mừng lễ các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam? Tại sao máu đổ mà lại cứ vui nhỉ? Nếu như thế, thì không biết có hợp thời và hợp lý không đấy, thưa các bạn?
Vâng, có lý do chính đáng và còn thật là phải đạo nữa đấy, các bạn ạ!
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cách riêng Giáo hội Việt Nam, chúng ta hân hoan vui sướng, có khi cả nhảy nhót nữa là khác, để reo mừng các bậc Cha Anh của chúng ta đã đoạt giải chiến thắng trong trận chiến oanh liệt giữ vững Đức Tin Kitô giáo. Chúng ta vui là phải thôi, vì chúng ta đang vui cái niềm vui của Thập giá Chúa Kitô, Ông tổ sáng lập đạo Công Giáo. Vì nhờ có thập giá Chúa Kitô, mà loài người chúng ta mới có niềm vui ơn cứu độ. Cũng thế, nhờ máu các Thánh Tử Đạo đổ ra mà mùa gặt truyền giáo của Giáo hội Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục còn nở rộ trong các thế hệ mai sau.
Vậy thì, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải mừng thế nào cho đúng với ý của Giáo hội Mẹ?
Thưa, chúng ta cũng phải theo gương các Ngài để có cái nhìn tươi sáng trước mọi đau khổ thử thách trong ngoài hồn xác. Dù Tình yêu có đòi hỏi yêu sách chúng ta, chúng ta vẫn kiên trung theo Chúa đến cùng, và cho dẫu yêu sách có mang mặc nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ, nhiều khước từ trong cuộc sống, ta vẫn cứ can đảm tiến lên theo lời hiệu triệu của Đấng đã nói: Cứ tin tưởng, Ta đã thắng thế gian rồi! Vì mừng lễ đổ máu mà! Vì có đau khổ mới có vinh quang mà! Và vì không đổ máu không có ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác.
Các Thánh Tử Đạo đã hiểu rất sâu điều đó và đã làm gương rất chói sáng cho chúng ta trong việc đặt Chúa trên hết và trước hết. Với ánh nhìn đầy đức tin, các ngài đã coi các khổ hình chịu vì Chúa là một niềm vui, niềm hạnh phúc, nên các ngài hiên ngang, hiên ngang đến khó hiểu, giữa những khổ hình đủ loại do lòng độc ác con người có thể nghĩ ra. Thật đúng các ngài đã nói với con cháu là chúng ta hôm nay lời Thánh Phaolô: Không ai, không gì, không hình khổ nào có thể tách các ngài ra khỏi Tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn đức tin đã khiến các ngài coi khổ hình như là ân huệ của niềm vui Chúa trao tặng cho mình mà trường hợp của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành sau đây là một bằng chứng:
Trong 117 Thánh Tử Đạo, chỉ có một vị là Thánh Nữ, ngài là một người mẹ của sáu người con. Đó là Thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là Bà Đê.
Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại Bái Điển, tỉnh Thanh Hóa. Lên 17 tuổi, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Nhất, sinh hạ được sáu người con. Suốt đời bà âm thầm kiên nhẫn xây dựng tổ ấm yêu thương gia đình và biến gia đình thành nguồn suối tình thương. Bà sống đạo đức gương mẫu, hy sinh giúp chồng con, đặc biệt nuôi dạy con chu đáo theo tình thần giáo dục công giáo. Dù khi con cái đã lớn khôn lập gia đình, bà vẫn luôn theo dõi lòng đạo của các con, thúc giục con cái năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các bí tích. Bản thân bà rất siêng năng xưng tội rước lễ.
Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người khác, nhất là trọng kính và giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục đến trú ẩn. Chính đức bác ái cùng lòng kính yêu các linh mục và tha thiết với việc truyền giáo ấy, đã đưa bà Thánh Đê đến phúc tử vì đạo.
Số là khi quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh kéo lính đến vây làng Phúc Nhạc vào sáng lễ Phục Sinh 14.4.1841, bà Đê cùng với ông trùm Cơ vội vàng đưa linh mục Lý trốn dưới một cái rãnh sau vườn nhà bà. Nhưng sau một hồi lục soát gắt gao từ trong nhà ra tới ngoài vườn, quân của Trịnh Quang Khanh bắt được Cha Lý. Bà Thành và ông trùm Cơ cũng bị bắt làm một với Cha.
Trong lao tù, Anê Lê Thị Thành bi đánh đập, tra khảo nhiều lần. Lần kia quan quyền đánh bà bằng roi, nhưng thấy bà vẫn gan dạ chịu đựng một cách vui vẻ, nên lại cho dùng thanh củi lớn mà quất vào chân bà, bà vẫn không thối chí. Khi chồng vào thăm trong tù, bà nói với chồng lời đầy đức tin như sau: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông chưa chắc chịu nổi, nhưng tôi được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên không cảm thấy đau đớn gì” Lần khác nữa, quan dùng trò dã man hơn, buộc hai ống quần của bà lại, rồi bỏ rắn độc vào bên trong. Bà hoảng sợ, nhưng bà cầu nguyện tha thiết khiến Chúa nhận lời ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách vượt quá sức người của bà. Thế là bà vẫn giữ được bình tĩnh một cách lạ lùng. Bà đứng yên không nhúc nhích. Rắn không cắn bà và tìm cách chui ra ngoài. Quan thấy thế, điên tiết lên, càng ra lệnh đánh bà dữ dằn hơn trước.
Một nhân chứng tên là Đang về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân hình bà đầy máu mủ. Vậy mà bà vẫn vui vẻ và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Con cái đến thăm bà, thấy mẹ thương tích vì đòn vọt, khóc lóc thương mẹ, bà âu yếm vỗ về các con, khuyên chúng về kiên tâm cầu nguyện cho mẹ. Chẳng hạn cô Lucia Nụ, con gái út của bà đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần mẹ loang lổ máu, đã òa lên khóc nức nở. Bà an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy con ạ! Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc”. Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng. Rồi chẳng bao lâu nữa, mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Chồng bà cũng đến khuyên giục bà nên nghĩ đến con cháu mà về với chúng. Bà trả lời: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng, còn phần tôi, tôi sẽ phó thác và theo Chúa đến cùng…”
Vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy máu mủ, lại do điều kiện vệ sinh trong tù quá tồi tệ và không đủ thuốc thang, bà Anê Đê Lê Thị Thành kiệt sức vì đòn vọt và bị bệnh kiết lỵ, nên đã chết trong tù ngày 12.7.1841 tại Nam Định, thọ 60 tuổi, sau khi dâng lời kinh cuối cùng: “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa”.
Đức Piô X phong chân phước cho Bà ngày 2.5.1909. Và Đức Gioan Phaolô II suy tôn Bà lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988,cùng với 116 vị Thánh khác.
Các bạn ơi, các Thánh tử đạo là thế đó đấy, các bạn ạ. Các Ngài chấp nhận mọi hình khổ khác nhau, nhưng các Ngài cùng sống chết chung cho cùng một Niềm Tin, một Lý Tưởng Giêsu, với sự vui tươi hớn hở hiên ngang hãnh diện, khiến chúng ta vô cùng cảm phục và cả đến thèm khát số phận may mắn của các Ngài nữa.
Thật ra, nếu bạn và tôi để ý một chút thì sẽ nhận ra rằng: hoàn cảnh của tôi cũng như của bạn, Chúa vẫn đang cho có rất nhiều cơ hội để chúng ta thể hiện việc sống chết cho niềm tin vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, có khi cũng chẳng kém anh hùng và hiển hách so với các bậc Cha Anh chúng ta xưa đâu, các bạn!
Xin phép đan cử một vài trong muôn ngàn, bạn nhé:
* Khi các bạn đi đường mà gặp một người hành khất đáng thương lắm, dù đang vội, các bạn cũng cố gắng dừng lại để chia sẻ một chút gọi là tấm lòng với người anh chị em con cùng Cha trên trời đó, nhưng lại rơi hoàn cảnh khó khăn, để ta có dịp thể hiện lòng bác ái, để từ trời Thiên Chúa nhìn xuống thấy: anh chị em chúng nó biết thương yêu, nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong cuộc sống… Phải chăng đó cũng là một cuộc tử đạo nho nhỏ đấy, bạn nhỉ?
* Khi các bạn gặp một người mà bạn chẳng ưa, chẳng thích chút nào, nhất là họ mới xúc phạm đến mình, làm cho mình đau khổ nữa, tính tự nhiên bạn chỉ muốn quay mặt đi không nhìn, không tiếp, nhưng nghĩ tới họ cũng là anh chị em con cùng Cha Mẹ trên trời với mình, và bạn đã vì Chúa để làm ngược với tính tự nhiên đó, để sau bao nhiêu cám dỗ, giằng co, cuối cùng bạn đã chiến thắng được chính mình, để trao cho họ một nụ cười thân ái, cảm thông, tha thứ…, thì quả là bạn vừa mới thực trải qua một cuộc tử vì đạo không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng dẹp bỏ tự ái, ý riêng để làm theo điều răn mới Chúa truyền dạy trước khi Ngài chịu chết.
* Khi đang mạnh khỏe, bỗng nhiên một cơn bệnh hiểm nghèo ập tới, và bạn đã hết sức tìm thầy chạy thuốc nhưng chẳng thuyên giảm; trái lại, bệnh càng nặng thêm. Lúc đó, nếu bạn cố gắng để dần dần vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa định hoàn toàn, thì bạn ơi, bạn đang là vị anh hùng tử đạo rồi đấy!
* Mỗi khi bạn cảm thấy chán ngại đi tham dự Thánh lễ Chủ nhật, rồi sau đó vì lòng mến Chúa, bạn lại tiếp tục đi; mỗi khi bạn cảm thấy khó chịu không muốn làm điều tốt lành cha mẹ dạy bảo mà mình không thích, sau đó vì lòng kính mến Chúa, vì đức Hiếu thảo, bạn lại ép mình để vâng lời; mỗi khi ai đó làm bạn khó chịu, tính tự nhiên chỉ muốn giận, muốn sùng lên la cho bõ ghét, nhưng nghĩ tới Chúa luôn xử nhân từ với mình là kẻ có tội, bạn dịu xuống và nhẹ nhàng bỏ qua; mỗi khi ai đó nói xấu vu khống cho bạn điều bạn chẳng có, lúc đấy chỉ muốn chơi lại cho họ bẽ mặt để trả thù, nhưng vì nghĩ tới thân phận con người, cả mình nữa, ai chả yếu đuối, nên vì mến Chúa yêu người như Chúa truyền dạy, bạn sẵn lòng tha thứ cho qua phà, thì phải nói thật với bạn là bạn đang tiến vào Thiên Đàng như các Thánh tử đạo Cha Ông chúng ta đấy! *Và nếu bạn được bác sĩ cho biết là bệnh của bạn các bác sĩ bó tay, bạn chỉ còn sống tối đa có sáu tháng nữa thôi. Lúc đầu thật buồn, nhưng sau bạn lấy lại bình tĩnh chấp nhận Thánh Ý Chúa để sẵn sàng vui vẻ ra đi, ai đến thăm bạn cũng thấy bạn tươi cười, thì bạn đang là vị thánh tử đạo vì Thánh ý Chúa rồi đấy!
Mừng các Thánh Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam trong khuôn khổ Năm Đức Tin của Giáo Hội hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang thiết tha mời gọi mỗi người hãy là những chứng nhân sống động của Đức Tin trong đời sống hằng ngày hơn, bằng việc luôn sống và làm việc dưới ánh nhìn yêu thương Hiền Phụ của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình; đồng thời, can đảm mạnh bạo dấn thân hy sinh làm theo lời Chúa truyền dậy qua Giáo hội, qua các Bề trên, qua các biến cố to nhỏ trong ngoài hồn xác… Có như vậy, mới thật đúng là chúng ta đang bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa; có như vậy, chúng ta mới đang là những môn đệ đích danh của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.
55. Các chứng nhân Kitô giáo
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào dịp đại lễ kính nhớ Tổ tiên ông bà Tử Đạo Việt Nam, đoàn tín hữu, con dân đất Việt lại thêm một lần được củng cố niềm tin. Ít ra, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Để sống xứng danh là cháu con các anh hùng tử đạo, Kitô hữu Việt Nam cần hiên ngang, anh dũng một cách nào đó trong niềm tin, trong cách sống đạo của mình. Trong tâm tình ấy, xin phác họa đôi nét về chân dung các Thánh Tử đạo Việt Nam như là những chứng nhân Kitô giáo.
1. Chứng từ khả tín của các chứng nhân: Xin được gọi các Ngài bằng nghĩa gốc của từ “tử đạo” là “chứng nhân” (martyr).
Thiết tưởng cần trở về với nghĩa gốc là chứng nhân hơn là tử đạo, cho dù hai từ tử đạo đã quá phổ biến trong cách dùng. Bởi vì hai từ tử đạo có vẻ như đang bị méo mó ý nghĩa một cách nào đó khi mà vô tuyến truyền hình tường thuật những người ôm bom tự sát để giết hại nhiều người, trong đó có cả thường dân vô tội, và họ cũng tự cho là tử vì đạo. Hơn nữa một thánh tử đạo trong tôn giáo này chưa chắc được kính trọng bởi người của tôn giáo khác cho bằng các thánh hiển tu hay các thánh xả thân vì tình yêu đồng loại.
Nói đến chứng nhân là nói đến những người dùng chính cuộc sống của mình, dùng cả sự sống và sự chết của mình để làm chứng cho một lý tưởng cao đẹp như nền hòa bình của nhân loại hay sự độc lập tự do của dân tộc… hoặc cho một niềm tin tôn giáo. Khi có ai, có một tập thể nào hiến dâng cả cuộc sống, hiến dâng cả mạng sống để làm chứng về một chân lý nào đó thì chứng từ ấy có tính khả tín nghĩa là chân lý có tính thuyết phục và đáng tin theo. Tuy nhiên mức độ khả tín của các chứng từ còn tùy thuộc vào cách thế làm chứng của các chứng nhân.
Qua cuộc sống, nhất là sự hiến dâng mạng sống của các chứng nhân Kitô giáo, của cha ông anh hùng hy sinh vì đức tin, chúng ta nhận ra mức độ trỗi vượt của tính thuyết phục nơi cách làm chứng của các Ngài. Nếu xét về hình thức chịu cực hình cho đến chết như bị “rũ tù” (bị tra tấn và giam tù cho đến chết), “xữ giảo” (bị thắt cổ cho chết),”xữ trảm” (bị chém đầu), “lăng trì” (bị ném cho voi chà đạp, xé xác), hay “bá đao” (bị róc từng mãnh thịt cho đến chết), thì các bậc cha ông chúng ta tuy có bị khổ hình ghê rợn, thế nhưng các anh hùng dân tộc nhiều khi cũng đã can đảm đón nhận các cực hình tương tự không kém.
Nét trổi vượt và cũng là nét khác biệt nơi chứng từ của cha ông chúng ta đó là cách thế đón nhận khổ hình. Không một ai tự mình quyên sinh và nhất là khi bị khổ hình, không một ai căm phẩn, hận thù hay hô đả đảo những người bắt bớ, giết hại mình. Các Ngài khoan thai, an bình, có khi tỏ vẻ hân hoan và cầu nguyện cho cả người giết hại mình đến độ nhiều “đao phủ” đã phải thành khẩn xin tha thứ trước khi hành hình các Ngài. Một thái độ làm chứng nhân khó thấy, hiếm thấy và có thể nói là không thấy có nơi các anh hùng dân tộc khi chịu cực hình, chịu chết vì lý tưởng. Và đây chính là nét khả tín tuyệt vời của nhứng chứng nhân bỏ mình vì “danh Đức Kitô”.
2. Nội hàm chứng từ của các chứng nhân Kitô giáo: Nghĩa là các chứng nhân Kitô giáo, cách riêng tổ tiên anh hùng Việt Nam chúng ta đã hiến dâng cả cuộc sống, cả mạng sống để làm chứng về những điều gì? Xin thưa đó là về “chân lý đức tin” và “Tin Mừng cứu độ”.
- Chân lý đức tin: Chân lý đức tin Kitô giáo thì nhiều, nhưng có thể nói một chân lý nền tảng mà tổ tiên ta đã anh dũng làm chứng đó là: Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, ta phải tôn thờ và yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ta, vì ngoài Người ra thì không có đấng nào khác (x.Dnl 6,4-7; Mc 12,28-34).
Tôn thờ một ai đó, một Đấng nào đó là nói lên sự thần phục, sự lệ thuộc của mình với Đấng ấy, với người ấy. Môt trong những hình thức biểu lộ sự thần phục hay thờ phượng đó là sự phủ phục. Ta phủ phục trước một Đấng nào đó là ta nhìn nhận những gì ta đang là, ta đang có đều do Đấng ấy ban tặng. Kitô hữu chỉ dâng tâm tình thần phục, phượng thờ này lên một mình Thiên Chúa mà thôi. Và dĩ nhiên tâm tình, thái độ ấy kéo theo hệ quả tất yếu là xem các loài khác như mặt trời, mặt trăng, sông núi…chỉ là loài thọ tạo do Chúa dựng nên. Ngay cả loài thọ tạo cao trọng nhất trong các loài hữu hình là loài người thì dù là kẻ quyền thế, nhiều tiền, cao đức, trọng vị…cũng chỉ là loài phàm hèn không hơn không kém. Có thể có người, có vị đáng trọng, đáng kính vì tài đức cao dầy, nhưng không phải là người để ta phải lệ thuộc hay thần phục, nghĩa là bày tỏ sự tôn thờ.
Sự thường một ai đó, khi đã ở ngôi cao, khi đã nắm trong tay quyền lớn thì rất dễ bị cám dỗ muốn tuyệt đối hóa uy quyền của mình. Và một trong những cách thế để tuyệt đối hóa quyền lực và danh phận của mình thì phải tự phong thần, phong thánh cho mình bằng cách này cách khác. Các vua chúa ngày xưa đã từng tự xưng là thiên tử (con trời) và thế là bắt mọi người thần phục mình cách tuyệt đối. Nếu sống và hành xử như “con của trời” thì vẫn tốt, đằng này họ lại hành xử như là những“ông trời con”. Xưa vua Nabunôcônôdo của đế quốc Ba Tư ngày xưa đã cho tạc tượng mình để bắt thần dân thờ lạy. Và nay vẫn có người, có tập thể muốn kẻ khác lệ thuộc mình bằng việc “thần thánh” hóa bản thân hay luật pháp hóa cái thể chế, cái tổ chức, cơ cấu của mình.
Ngày nay người ta khi đã có quyền, có thế cũng có thể bắt kẻ khác suy tôn mình, suy tôn tập thể của mình…là muôn năm, là bất diệt… Và thế là hễ có ai không chịu thần phục, không chịu lệ thuộc thì tức khắc sẽ bị bắt bớ, đàn áp, thậm chí là loại trừ. Vác thập giá là thân phận của Kitô hữu mọi thời, mọi nơi. Tuy nhiên đó là niềm vinh dự cho đoàn con cái Chúa, vì là cách thế tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất hùng hồn và rõ nét.
- Tin Mừng cứu độ: Đây cũng là một điều chính yếu nữa mà các anh hùng “tử đạo” đã làm chứng bằng giá máu của mình. Tin mừng cứu độ là tình yêu của Thiên Chúa đuợc thể hiện cách hoàn hảo, trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô chính là Tin Vui, Tin bình an cho nhân loại và cho mọi loại. Cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Đức Kitô là Tin vui, tin an bình cho con người. “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Không phải chỉ yêu thương những người dễ yêu, yêu những người thân cận, người làm ơn làm phúc cho mình…mà còn yêu cả những người bé mọn, cô thế, cô thân, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ hay chính kiến và yêu cả những người thù ghét mình, làm hại mình (x.Lc 6,27-35).
Tổ tiên ông bà “tử đạo” chúng ta đã mình chứng cho Tin vui cứu độ ấy bằng cuộc sống của mình cho dù phải bị hiểu lầm là bỏ ông, bỏ bà, bỏ tổ tiên, cho dù phải bị gán ghép là phản quốc, bán dân hại nước. Quả thật với một tình yêu không biên giới ấy, xưa kia Đức Giêsu đã từng bị nhiều người đồng hương Nagiarét căm phẩn tìm cách xô xuống vực thẳm (x.Lc 4,28-29). Người cũng đã từng bị nhiều người tự cho mình là công chính tố cáo là hay lui tới và cùng ăn uống với “quân thu thuế và phường tội lỗi” (x.Lc 15,1-2).
Trò không thể hơn thầy. Nếu người ta đã đối xử với Thầy Giêsu ra sao thì các môn đệ cũng sẽ chung số phận ấy nếu họ sống chứng nhân cho Chân lý đức tin và cho Tin Mừng tình thương (x.Ga 15,18-27). Chân dung các chứng nhân đã được một tác giả vô danh khoảng đầu thế kỷ thứ II mô tả cách sống động như sau:“ Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian, nhưng là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt lên trên những đòi hỏi của luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, nhưng lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi sự, nhưng lạ dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng. Khi làm điều thiên, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ làm như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như những kẻ ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, còn những kẻ ghét họ thì không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ” (Trích thư gửi ông Điônhêtô – Bài đọc 2 – Kinh Sách Mùa Phục Sinh – Thứ Tư – Tuần V).
56. Các tôi trung kiên cường
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Từ ngữ "tử đạo" vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng. Các Thánh Tử đạo là những vị đáng tôn kính cách đặc biệt. Trong Kitô giáo, các Ngài được xếp sau hàng các Thánh Tông đồ và một vài Đấng đặc biệt như Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả. Thế nhưng, chúng ta cần chân nhận một thực tế đó là hàng Thánh Tử đạo thường mang tính cục bộ của từng tôn giáo. Một vị tử đạo trong tôn giáo này chưa hẳn được trân trọng bởi người tôn giáo khác so với các bậc Thánh hiển tu, nhất là những vi Thánh có đời sống nổi bật về đức ái. Hơn nữa hai từ tử đạo ngày nay xem ra đang bị lợi dụng và cả lạm dụng khiến người ta dễ nghi ngờ, khi mà đang có đó những người ôm bom tự sát làm thiệt hại mạng sống của nhiều người vô tội.
Nói rằng các Thánh Tử đạo là những người chịu chết vì đạo thật không sai. Tuy nhiên cái nhìn này còn hạn chế và mang dáng vẻ tiêu cực. Xin mạo muội gọi các Ngài là những vị "Thánh sống đạo bằng cả giá máu". Các Ngài sống đạo kính mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng cả mạng sống mình.
"Chúa Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 23-24). Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu ngõ những lời ấy với tất cả mọi người. Chính vì thế, đã là Kitô hữu thì chúng ta phải là những người sống đạo bằng cả giá máu. Dĩ nhiên là có người đổ máu ra cách hữu hình và có người đổ máu ra cách vô hình. Theo nội dung của bài Tin Mừng trong Thánh Lễ này, xin được gợi ý về một trong những cách thế sống đạo đến hy sinh bằng cả giá máu, đó là trung thành một cách hiên ngang với Chúa Kitô và Lời của Người. "Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy..." (Lc 9 26).
Trung thành một cách hiên ngang với Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế: Theo Chúa Giêsu là phải trung thành với công cuộc cứu thế, độ nhân, phải thực thi đức bác ái với hết mọi người, bất phân chủng tộc, màu da hay chính kiến, phải sống yêu thương trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp nghịch cảnh. Quả thật cái tâm lý tìm kiếm hiệu năng trước mắt, đã khiến chúng ta tính toán quá nhiều theo cách nghĩ suy nhân loại. Một đôi khi ta cần biết khôn ngoan "đừng quẳng ngọc trai trước mặt heo". Nhưng cũng đừng quên Thiên Chúa không ngần ngại gieo hạt giống trên các thửa đất, có khi rơi vãi trên cả vệ đường. Chỉ cần có hạt rơi vào đất tốt thì kết quả thu được sẽ lợi hơn nhiều so với phần xem như hoang phí. Hơn nữa, với ơn Chúa và sự cộng tác của con người thì dù là vệ đường, là đất cằn khô, đất gai góc đều có thể trở nên đất tốt. Khi trong tay đã đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần, khi điều kiện ngoại cảnh đang thuận lợi thì sẽ có đó nhiều người tuy khác niềm tin vẫn có thể thi hành việc độ thế cứu nhân. Khi điều kiện còn thiếu, hoàn cảnh còn khó khăn mà ta vẫn kiên trì trong đức ái thì đức ái của ta mới nên giống tình Chúa đã yêu thương ta. Vì khi ấy tình yêu ta dành cho tha nhân mới đậm nét vị tha.
Trung thành và hiên ngang với Lời cứu độ: Một trong những cơn cám dỗ tinh tế ma quỷ gieo vào lòng chúng ta đó là cải biến nội dung lời mạc khải cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Dù rằng Hội Thánh dạy ta cần học hỏi, nghiên cứu để phân biệt đâu là ý tác giả Thánh Kinh muốn trình bày theo hình thức văn chương, theo nền văn hóa của từng thời kỳ và đâu là Thánh ý Chúa muốn dạy. Có thể có sự không trùng khớp giữa những gì các tác giả nhân loại trình bày với Ý Chúa muốn dạy. Điều này ta dễ nhận ra trong Cựu Ước và cả trong Tân Ước. Tuy nhiên luôn có đó những lời mà các nhà nghiên cứu đã đồng thuận đúng là những lời đích thị từ miệng Đấng Cứu Thế (ipsisima verba). Lời Chúa, cách riêng lời của của Giêsu như lưỡi gươm sắc bén, phân rẽ tâm hồn. Chính vì thế tính thách đố luôn có trong Lời Chúa. Chúng ta nhận ra điều này nơi miệng các sứ ngôn thời Cựu Ước và cách rõ nét nơi Lời của Đấng Cứu độ. Tin Mừng tường thuật rằng khi nghe những lời của Chúa Giêsu, nhiều Biệt Phái và luật sĩ đã phải tím bầm ruột gan.
Không một ai được phép tự tiện uốn nắn nội dung Lời Chúa vì bất cứ lý do gì. Hãy để cho Lời Chúa trực diện với lòng ta, với tha nhân, với môi trường xã hội, với mọi thể chế, luật lệ của con người. Xin đừng nhân danh hiệu năng mà cắt xén hay cải biên lời Chúa. Xin chớ nhân danh đức ái mà uốn ép lời Chúa cho "mềm mại" và "dễ nghe". Những điều "dễ nghe" và "mềm mại" thường là thiếu sự thật, ít trung thực và nếu có thì chỉ là phiếm diện. Ánh sáng thì chói chang. Sự thật thì mất lòng. Khi ta trung thành cách hiên với lời cứu độ thì thập giá luôn có đó.
Các tiên tổ anh hùng Tử đạo của chúng ta quả thực là những vị đã sống đạo yêu thương cho đến cùng. Martinô Thọ, Phanxicô Trung, Micae Hy, Emmanuel Triệu...không chỉ yêu thương vợ con, cha mẹ nhiệt tâm, nhiệt tình mà còn yêu thương bà con lối xóm, những người khốn khổ bất hạnh, yêu thương quê hương dân tộc, yêu cả vua quan, những người đang hành hạ mình. Và trên hết các Ngài yêu mến Đấng các Ngài tôn thờ, Thiên Chúa toàn năng, chí tôn, chí thiện. Các Ngài đã trung thành với Thầy Chí Thánh và lời của Người một cách dũng cảm, hiên ngang. "Tâu bệ hạ, đánh Tây thì hạ thần đánh hết mình, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ" (Thánh Phanxicô Trung) " Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước, chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu" (thánh Phaolô Khoan). Dòng máu đào đổ ra chỉ là điểm đến của một cuộc đời sống đạo đến cùng mà thôi. Quả thật nếu như máu có đổ đến giọt cuối cùng mà không sống đạo yêu thương thì chỉ là tử nạn chứ không có tử đạo.
57. Làm chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
58. Tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Thế nhưng, trong những thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.
Như thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến.”
Chúa Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.
Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24)
Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn thân.” (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc tổ tiên của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc… để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.
Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam.
Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.
59. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới -- PM. Cao Huy Hoàng
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong Giáo Hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, Giáo Hội lữ hành, và đặc biệt Giáo Hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
60. Lửa yêu - Trầm Thiên Thu
Lửa rất mềm mà cũng rất mạnh. Một đốm lửa có thể dập tắt bằng một hơi thổi nhẹ hoặc làn gió nhẹ, nhưng ngọn lửa lớn thì rất khó dập tắt. Lửa càng chia sẻ càng tăng thêm nhiều. Và “lửa yêu” cũng vậy!
Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử”, dám liều mạng sống vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu.
Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin của ngài đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta quen đọc kinh Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy”.
Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3:1). Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì.
Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông”, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3:2-4). Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là nghịch-lý-thuận. Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút”, và rồi “họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao” (Kn 3:5). Đó mới là mục đích của họ!
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3:6-7). Rồi họ sẽ được quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, chính “Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3:8). Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển chọn” (Kn 3:9).
Tác giả Thánh vịnh vui mừng trong niềm tín thác: “Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1). Tại sao? Vì “Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144:2). Chẳng có gì có thể làm cho người tôi trung phải khiếp sợ, họ vẫn thản nhiên tôn thờ Chúa và vững tin: “Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. Chính Ngài cho các vua thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt” (Tv 144:9-10).
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?. Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:31-32). Thánh nhân tiếp tục chất vấn một loạt: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:33-35). Chính những câu hỏi đó đã ngầm chuyển tải những câu trả lời.
Có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Thánh Phaolô tin chắc: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tất cả chỉ là “số không”, và chẳng gì cản bước hoặc ngăn cấm được người ta yêu mến Thiên Chúa. Lúc này “lửa yêu” đã bùng cháy, không gì có thể dập tắt!
Trong một lần rao giảng, Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa yêu của ai mạnh thì là dễ, nhưng lửa yêu của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ, nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn”.
Chúa Giêsu nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24). Đặc biệt là cách đặt vấn đề của Ngài: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc 9:25). Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định mạnh mẽ hơn.
Rồi Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất dễ hiểu. Nhưng Ngài vẫn tôn trọng tự do của mỗi người, chứ Ngài không hề ép buộc bất kỳ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin-cậy-mến và lòng can đảm cho chúng con, và giúp chúng con biết noi gương sáng các nhân chứng đức tin là tiền nhân của chúng con. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay chúng con hôm nay và mãi mãi, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
61. Những tên lý hình thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các Thánh Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, “những tên lý hình thời đại” với cách bức bách Đức Tin của ta còn kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của họ?
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên”, họ cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh…như “Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”.
- Các em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng sinh con thật – giết người thật.
- Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn…. Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…
- Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
“ … Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập giá của những tên lý hình thời đại ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và … rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu.
Bỗng dưng, chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”, “không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin Công Giáo.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho.
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.
* CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
1. Thế giới này sẽ qua đi - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc chúng ta nghĩ đến ngày cùng tận của thế giới. Chẳng có gì thuộc về thế gian mà tồn tại vĩnh viễn, trái lại tất cả sẽ sụp đổ. Chỉ có những gì thuộc về Chúa mới trường tồn.
Thực ra, chẳng ai biết lúc nào thì tận thế. Cho nên có lẽ chúng ta sẽ không gặp ngày đó. Tuy nhiên, ai cũng sẽ gặp phải ngày tận thế của đời mình, đó là ngày chúng ta chết. Vì thế ai cũng phải chuẩn bị cho ngày đó.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta quá bám víu vào thế gian này, tưởng như nó không bao giờ qua đi.
Chúng ta quá bám víu vào cuộc sống này, làm như chúng ta không bao giờ chết.
Chúng ta ít khi chuẩn bị cho cuộc sống đời sau.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Ðn 12,1-3
Ngôn sứ Ðanien nói về thời cùng tận: khi đó Thiên sứ Micae, Tổng lãnh đạo binh các thiên sứ, sẽ đứng lên chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực gian tà. Nhưng đó cũng chính là lúc những người công chính được giải thoát và ban thưởng phúc trường sinh.
Thực ra chúng ta không cần coi đoạn sách Ðanien này là những lời tiên tri về ngày tận thế. Hãy coi đây là một việc thường xuyên diễn ra trong lịch sử chung và cuộc đời riêng của mỗi người: luôn có một cuộc giao tranh giữa cái xấu và cái tốt; khi cái xấu sụp đổ thì cũng là lúc cái tốt lên ngôi.
2. Ðáp ca Tv 15
Bài ca bày tỏ lòng phó thác vào Chúa: "Số mạng con chính Ngài nắm giữ... được Ngài ở bên con chẳng nao núng bao giờ"
3. Bài đọc II Dt 10,11-15.18 (Chủ đề phụ)
Tiếp tục so sánh các thượng tế Do Thái với Ðức Giêsu Thượng Tế: (1) Những thứ lễ tế mà thượng tế Do Thái dâng lên chẳng thể nào xóa bỏ được tội lỗi; còn hiến lễ của Ðức Giêsu Thượng tế xóa sách mọi tội lỗi của loài người; (2) Do đó các thượng tế Do Thái phải mỗi ngày dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; còn Ðức Giêsu Thượng tế chỉ dâng duy nhất một lần và sau đó lên ngự bên hữu Chúa Cha đến muôn đời.
4. Tin Mừng Mc 13,24-32
Ðức Giêsu nói về ngày Ngài quang lâm trở lại. Ngài không mô tả ngày đó nhưng cho biết những nét chính:
Ngày Chúa quang lâm cũng là ngày bắt đầu một cuộc tạo dựng mới: "mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển" là đối ảnh của St 1,1.16 mô tả lúc Thiên Chúa tạo dựng: "Lúc khởi nguyên, Thiên Chúa dựng nên các tầng trời và trái đất. Ngài làm 2 chiếc đèn lớn, chiếc lớn hơn để cai ngày, chiếc nhỏ hơn để cai đêm, rồi các ngôi sao".
"Lúc đó Ngài sẽ sai thiên sứ đi và tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất đến cuối chân trời: khi vũ trụ cũ đầy gian tà sụp đổ thì cũng là lúc quyền lực của Chúa lên ngôi. Những kẻ lành được Ngài tuyển chọn sẽ làm thành nhân loại mới.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ngày cuối cùng - Ngày Chúa đến
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong những đoạn Thánh Kinh khó hiểu nhất. Nó thuộc văn thể Khải Huyền, là một loại văn thể bóng gió, nghĩa là không nói thẳng ý tưởng ra, nhưng diễn tả ý tưởng một cách gián tiếp qua trung gian những hình ảnh. Những hình ảnh này không quan trọng vì chỉ là phương tiện diễn tả, cái quan trọng chính là ý tưởng mà những hình ảnh ấy muốn diễn tả.
Vậy ý tưởng chính của bài Tin Mừng này là gì? Thưa là nói về ngày cùng tận.
Ngày cùng tận ấy sẽ đến vào lúc nào? Có nhiều người không biết đã học giáo lý kiểu nào, hoặc đã đọc ở những sách nào mà dám quả quyết rằng ngày ấy sẽ đến vào năm 2000. Quyết toán như vậy là hoàn toàn không có cơ sở. Bởi vì trong bài Tin Mừng này, chính Chúa Giêsu đã nói "Còn về ngày hay giờ đó thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Chúa Con đi nữa cũng không ai biết được, trừ một mình Chúa Cha mà thôi".
Ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay mô tả "Khi ấy mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống. và các tinh tú bầu trời bị lay chuyển". Những hình ảnh ấy khiến cho nhiều người cho rằng ngày ấy sẽ là một ngày khủng khiếp. Có người còn tô vẽ thêm rằng ngày đó sẽ có nắng lửa mưa dầu. Có người khác lại giải nghĩa rõ hơn nữa, rằng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao rung chuyển và nắng lửa mưa dầu ấy là hậu quả của một cuộc chiến tranh nguyên tử; rằng thế giới này sẽ tận diệt bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử. Thế nhưng, như tôi đã lưu ý ngay từ đầu: đây là văn thể Khải Huyền, trong đó những hình ảnh không quan trọng vì chúng chỉ là phương tiện để diễn tả một ý tưởng. Thực ra ngay cả những hình ảnh được dùng trong bài Tin Mừng này cũng không phải là do chính Chúa Giêsu đưa ra, mà Chúa chỉ lấy lại những hình ảnh mà các tiên tri quen dùng để nói về ngày cùng tận. Mà theo các tiên tri thì những hình ảnh trên mang một ý nghĩa rõ ràng. Ý nghĩa đó là gì? Ðây ta hãy nghe một đoạn trong sách tiên tri Isaia: Ngày ấy sẽ không cần mặt trời soi sáng ban ngày, cũng không cần mặt trăng soi sáng ban đêm, cũng không cần ánh sáng của các ngôi sao hoặc ánh sáng của đèn đuốc, vì chính Chúa Cứu Thế sẽ là Ánh Sáng soi chiếu khắp nơi. Nghĩa là các tiên tri và cả Ðức Giêsu đều không quan tâm ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào, chỉ quan tâm đến sự kiện quan trọng nhất trong ngày ấy, đó là Chúa sẽ đến. Tới ngay cùng tận thì Chúa sẽ đến. Ngày Chúa đến có thể là một ngày khủng khiếp đối với những kẻ tội lỗi, mà cũng là một ngày hân hoan vui mừng cho những người công chính.
Tại sao Phụng vụ lại chọn bài Tin Mừng này để đọc trong ngày hôm nay? Hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ. Tuần tới sẽ là Chúa nhật cuối cùng. Sau đó là qua Mùa Vọng bắt đầu một năm Phụng vụ khác. Vậy trong ngày chúa nhật áp chót, Phụng vụ chọn đọc bài Tin Mừng nói về ngày cùng tận thì cũng là hợp lý.
Thời giờ thắm thoát thoi đưa, nói đi đi mãi có chờ chờ ai!
Thế giới này không phải là vô tận, thế nào rồi cũng có ngày tận cùng.
Cuộc đời con người cũng không phải là vĩnh cửu, thế nào rồi cũng có ngày chấm dứt. Một năm trôi qua là thế giới càng tiến gần đến ngày tận cùng của nó. Một năm trôi qua, đời người cũng càng tiến gần đến ngày cuối cùng của mình. Ngày cùng tận ấy sẽ đến lúc nào? Không ai biết. Nó sẽ diễn ra như thế nào? cũng chẳng ai biết trước được. Chỉ biết chắc là ngày đó Chúa sẽ đến. Chúa sẽ đến với mọi người để kiểm điểm đời sống mỗi người, để đánh giá xem mỗi người đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào.
Người ta thường ví cuộc đời như một chuyến đi, thời gian như một con đường, và con người như một kẻ lữ hành. Người lữ hành thực hiện chuyến đi cuộc đời trên con đường thời gian. Và cũng như con đường phải dẫn đến một đích điểm, thì người lữ hành phải biết tận dụng thời gian để nhanh chân tiến bước đến đích điểm ấy. Không thể là một người lữ khách lang thang, cứ vô tình bước những bước vô địch, không biết đã đi qua đâu mà cũng chẳng biết sẽ đi về đâu.
Hết một năm là hết một đoạn đường. Giáo Hội muốn chúng ta hôm nay tạm dừng chân lại để kiểm điểm cuộc hành trình của mình.
Một năm qua, thế giới đã có những bước tiến tốt đẹp: Nhiều nước thù nghịch nhau đã tiến gần tới nhau để hoà giải hoà hợp với nhau. Một năm qua, đất nước chúng ta cũng có nhiều bước tiến, có đổi mới nhiều mặt để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Còn cuộc đời mỗi người chúng ta, một năm qua có tiến bước gì không?
Ðối với bản thân: con người chúng ta có trở nên tốt hơn không.
Ðối với tha nhân: liên hệ giữa chúng ta có công bình hơn, bác ái hơn?
Ðối với Chúa: sau một năm chúng ta có đến gần Chúa hơn không? Có thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa nhiều hơn không? Ðức tin của chúng ta có vững vàng hơn không? Ðức cậy chúng ta có chắc chắn hơn không? và đức mến của chúng ta có nồng nàn hơn không?
Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta tạm dừng chân để suy nghĩ về những điểm trên, để nếu cần thì điểu chỉnh lại cho cuộc hành trình của mình được vững bước hơn. Có như vậy chúng ta mới có thể sẵn sàng và vui mừng hân hoan đón Chúa khi Ngài đến.
2. Ngày tận thế (CN 33 TN-B)
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Ðức Chúa Trời: "Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết". Ðó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Ðiều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: "Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Ðức Giêsu cũng quả quyết: "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi" (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: "Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha". Nói khác, ngài còn nói: "Ðức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người".
Ðứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong "tỉnh thức và cầu nguyện", trong niềm mong chờ "ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào".
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Ðó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai "bền đỗ đến cùng". Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói "Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu".
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: "Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao".
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Ðấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: "Con sắp trở về cùng Cha". Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Ngày tận thế
Một bà kia vừa kết thúc một ngày làm việc chạy vội về nhà. Ðêm nay bà sẽ đi đánh bài. Nhưng vừa chạy tới cửa nhà, bà gặp một thanh niên cầm một tấm bảng ghi dòng chữ "Ngày tận thế gần đến rồi". Bà hỏi:
- Cậu nói là ngày tận thế gần đến rồi hả?
- Thưa bà đúng vậy.
- Nhưng cậu có chắc không?
- Thưa bà chắc chắn.
- Cậu nói nó gần đến?
- Ðúng vậy.
- Gần như thế nào?
- Rất gần.
- Cậu có thể nói rõ hơn không?
- Thưa bà, ngay đêm nay.
Người đàn bà dừng lại suy nghĩ một lúc. Rồi với giọng lo lắng, bà hỏi tiếp: "Nó đến trước hay sau ván bài vậy?".
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới không ổn định. Hết cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác. Tình trạng không ổn định như thế khiến người ta sợ hãi lo âu. Và giữa cái thế giới không ổn định đầy lo âu sợ hãi như thế, người ta cần có một cái gì đó vững chắc để dựa vào.
Ðối với kitô hữu, chỗ vững chắc nhất có thể dựa vào là Thiên Chúa. Bài đáp ca trong Thánh lễ hôm nay có câu: "Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ". Còn trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu nói: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Tất cả những gì vững chắc mà chúng ta có, và tất cả những gì chúng ta cần là bấy nhiêu đó: ta an tâm vì biết rằng mọi sự đều nằm trong bàn tay Chúa, biết rằng chương trình Chúa vạch sẵn cho cuộc đời chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Ðức Kitô sẽ thống trị. Thiên Chúa sẽ thống trị. Chúng ta sẽ cùng ngự trị với Thiên Chúa mãi mãi. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dịp cuối năm phụng vụ, Hội thánh nhắc ta nhớ ngày Ðức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để xét xử toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy vui mừng và tin tưởng dâng lời cầu nguyện:
1. Ðức Giêsu Kitô sẽ trở lại để đem tất cả những người được cứu độ vào hưởng hạnh phúc Nước Trời với Người / Chúng ta hãy cầu xin cho Hòa Bình luôn vui mừng loan báo niềm hy vọng hạnh phúc ấy cho mọi người.
2. Trời đất và thế giới này sẽ qua đi như lời Chúa phán / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà lãnh đạo các dân tộc hiểu biết rằng quyền bính của họ cũng sẽ qua đi / để họ biết xây dựng công lý và hòa bình cho mọi người / là những việc sẽ không qua đi.
3. Thiên tai, chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói, đã làm cho biết bao người đau khổ và phải chết / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người biết tin tưởng và hy vọng vào ơn cứu độ do Ðức Giêsu đem đến / để không tuyệt vọng với những tình trạng bi đát đó.
4. Không ai biết ngày giờ Ðức Giêsu sẽ đến / chúng ta hãy cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện / để sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, chúng con không biết ngày giờ nào Chúa trở lại, xin cho mỗi người chúng con luôn chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa, bằng một đời sống thật tình mến Chúa yêu người. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị.
2. Sẵn sàng đón Chúa lại đến -- Lm. Đan Vinh
Tin mừng Mc 13:24-32: Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su”. Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế.
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.
CHÚ THÍCH:
- C 24-25:
+ Trong những ngày đó: Ngày nói đây là ngày Đền Thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ bị tàn phá bình địa.
+ sau cơn gian nan ấy: Cơn gian nan như một điềm báo trước về Ngày Tận Thế.
+ Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển: Những hình ảnh trong các sách Cựu Ước này nói về “Ngày của Đức Giavê”. Ở đây các hình ảnh này nhằm đề cao sự uy nghiêm của Đức Ki-tô trong Ngày Tận Thế: bấy giờ các tầng trời sẽ bị rung chuyển, công trình sáng tạo xưa kia sẽ biến mất và một Trời Đất Mới sẽ xuất hiện.
- C 26-27:
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến: Con Người là hình ảnh một nhân vật trong sách Đanien, trổi vượt hơn hình ảnh “Đấng Mê-si-a Con Vua Đavít”. Ngài đến trong đám mây trời, tiến lên trước toà Thiên Chúa và nhận lãnh một vương quyền phổ quát (x Đn 7,13). Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su đã xưng mình là Con Người tới 70 lần (x. Mt 8,20; Ga 3,13...): Người tự xưng là Con Người với 2 ý nghĩa. Một là Người Tôi Tớ của Đức Giavê: “Tôi, Người Tôi Tớ bị loại bỏ, bị giết chết nhưng sẽ được tôn vinh và sẽ cứu độ muôn người” (x. Mc 8,31). Hai là Chúa Con, được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Tv 110,1) và đến ngày tận thế, sẽ lại đến (x. Đn 7,13).
+ “Đến trong đám mây”: Mây không phải là một phương tiện di chuyển, nhưng chỉ là một biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 13,21; Mt 17,5) + Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: Từ khắp nơi, Đấng Ki-tô sẽ ra lệnh cho các thiên thần qui tụ tất cả những người lành thánh được tuyển chọn tập trung lại.
- C 28-29:
+ Lấy thí dụ cây vả... khi thấy những điều đó xảy ra: Các ngôn sứ thường dùng hình ảnh mùa hè và mùa gặt để diễn tả ngày cánh chung hay ngày tận thế. Ở đây Đức Giê-su dùng hình ảnh cây vả báo trước mùa hè sắp tới, để ám chỉ về ngày cùng tận của Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh tiên báo về ngày tận thế (x Mc 13,4-19).
- C 30-31:
+ Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra: Việc tàn phá Đền Thờ Giêrusalem xảy ra vào năm 70, là thời điểm những ai nghe lời Đức Giê-su giảng vẫn còn sống và chứng kiến những điều Người tiên báo được ứng nghiệm.
+ Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu: Vũ trụ vật chất sẽ có ngày tan biến (x Is 24,19.23), nhưng Lời Đức Giê-su sẽ luôn tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
- C 32:
+ Về Ngày Giờ đó: câu này nói về ngày tận thế sẽ xảy ra.
+ chỉ có Chúa Cha biết mà thôi: Ngày Giờ cánh chung hay tận thế thuộc quyền Chúa Cha định liệu. Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (x. Pl 2,6), với tư cách là Ngôi Lời, đồng bản tính vơi Chúa Cha nên dĩ nhiên Người biết mọi sự giống như Chúa Cha. Nhưng với tư cách là Đấng Thiên Sai (x. Pl 2,8), Người “nên giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ không có tội” (x. Gl 4,4), nên Người không biết được Ngày Giờ ấy, hầu mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị cho ngày ấy (x. Mc 13,33).
CÂU HỎI:
1) Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã tự xưng là “Con Người” mấy lần? Đức Giê-su muốn mặc khải mình là ai khi tự xưng mình là Con Người?
2) “Con Người ngự trong đám mây mà đến”: Phải chăng đám mây là phương tiện Đức Giê-su dùng để di chưyển?
3) Đức Giê-su có biết rõ ngày cùng tận của thế giới là ngày nào không? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 14,26).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Dọn mình chết lành:
Khi Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình của ngài, nhưng ngài biết mình khó sống thêm nên thường nói với những người chung quanh: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Đến ngày cuối cùng khi giờ chết sắp đến, thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài cảm thấy trong mình thế nào. Đức Gio-an trả lời: - Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: - Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: - Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: - Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
- Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời.
2) Tránh nghe những tin đồn nhảm về ngày tận thế:
Vào cuối năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ của một giáo phái tại Hàn quốc đã tụ tập nhau trong hơn 150 nhà thờ để đón chờ ngày tận thế, đón Đức Giê-su tái lâm trong vinh quang để phán xét chung. Theo những người lãnh đạo của giáo phái này thì chính xác ngày tận thế là vào lúc nửa đêm ngày 28/10/1992. Các tín đồ của giáo phái trương lên biểu ngữ: ”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”. Đồng thời hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc cũng được đặt trong tình trạng báo động cao trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu ngày tận thế không xẩy ra. Bởi vì, rất nhiều người do quá tin tưởng đã bán hết nhà cửa và phát tán mọi tài sản gia đình… để chuẩn bị cho ngày tận thế này. Nhưng cuối cùng ngày tận thế đã không xẩy ra, nên sau đó giáo phái này đã tự giải thể.
Đây chỉ là một trong nhiều tiên báo không chính xác về ngày tận thế trên thế giới. Sở dĩ người ta đóan sai là do đã hiểu lời Chúa cách lệch lạc và không đúng theo Lời Chúa Giê-su dạy. Đối với các tín hữu chúng ta: nhân dịp cuối năm phụng vụ, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không xác định cụ thể ngày giờ. Việc đề cập đến ngày này nhằm giúp chúng ta canh tân đời sống và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến viếng thăm trong giờ chết của mỗi người.
3. THẢO LUẬN:
1) Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế?
2) Chết là gì?
3) Bạn làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến trong giờ chết mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai?
4. SUY NIỆM:
1) Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến:
Tin mừng Mác-cô hôm nay nói về ngày tận thế: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giê-su thấy cảnh huy hoàng của Ðền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giê-su đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, vì dân Giêrusalem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.
Ðức Giê-su đã dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách ngôn sứ để diễn tả cảnh tàn phá của Giêrusalem. Từ đó, Người đề cập đến ngày cùng tận của thế giới. Nhưng lời của Đức Giê-su được các thánh sử ghi lại sau khi Ðền Thờ đã bị sụp đổ và Hội Thánh bị bách hại khắp nơi. Qua Lời Chúa hôm nay, Mác-cô muốn trình bày các điều sau: Một là các hiện tượng trời đất như mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển… là điềm báo Chúa đến trong ngày tận thế. Hai là mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống… cho thấy vũ trụ này sẽ quay trở lại lúc khởi nguyên hỗn mang khi chưa có ánh sáng. Và như thế, ngày tận thế là lúc vũ trụ sẽ biến mất để cho “trời mới và đất mới” xuất hiện. Ba là người ta sẽ thấy “Con Người đến trong đám mây”. Con Người chính là Ðức Giê-su Cứu thế. Hình ảnh mây trời nhấn mạnh tính cách "hiển linh" của việc Người đến. Và như vậy "ngày của Chúa" sẽ trở thành ngày của Thiên Chúa đến “trong” và “nhờ” Con Người là Đức Giê-su. Bốn là Vua Ki-tô sẽ sai các thiên thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, để đưa họ vào hưởng vinh quang của Người trên trời.
2) khi nào điều ấy xảy ra?
Đây là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo Tin mừng Mác-cô: Ðức Giê-su dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29).
Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Ðền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các Ki-tô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v... cho thấy tính không bền vững của vũ trụ vật chất.
Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giê-su đã khẳng định: "Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được... cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha" (Mc 13,32).
Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ đó là ngày nào.
3) Chúng ta phải làm gì?
- Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến:
Đức Giê-su báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: ”Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô” (Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: ”tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: ”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
- Chuẩn bị cho giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai:
Người Ki-tô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi biết thanh luyện tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và góp phần xây dựng một thế giới mới yêu thương, trong đó mọi người luôn quan tâm, cảm thông và chia sẻ phục vụ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cho gia đình, cộng đòan và môi trường sống ngày một tốt đẹp hơn.
- Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ:
Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là con đường chung cho hết mọi người. Trong ngày phán xét, Đức Ki-tô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai dựa trên tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3).
- Ma-ra-na-tha: Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến:
Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Ma-ra-na-tha - Lay Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: ”Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Mỗi tín hữu chúng ta cần năng hồi tâm sám hối và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng việc làm các việc bác ái chia sẻ phục vụ cho tha nhân nhằm “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện như sau: “Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến“.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người chung quanh ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đòan, xã hội… trở nên công bình yêu thương và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ Chúa sẽ tái lâm và biến trần gian trở thành một “Trời Mới Đất Mới” vào ngày tận thế.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Ngày tận thế - Thiên Phúc -- "Như Thầy Đã Yêu"
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Ðức Chúa Trời: "Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết". Ðó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Ðiều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: "Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Ðức Giêsu cũng quả quyết: "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi" (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: "Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha". Nói khác, ngài còn nói: "Ðức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người".
Ðứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong "tỉnh thức và cầu nguyện", trong niềm mong chờ "ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào".
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Ðó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai "bền đỗ đến cùng". Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói "Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu".
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: "Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao".
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Ðấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: "Con sắp trở về cùng Cha". Amen.
4. Ngày Con Người ngự đến - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ. Các Chúa Nhật trước chúng ta lần bước theo Đức Giêsu nói các dụ ngôn, chữa mọi bệnh tật, trừ khử quỷ ám, trả lời các kinh sĩ, đào tạo môn đệ. Chúng ta tưởng đã biết rõ về Đức Giêsu. Thực ra, chỉ có Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu mới mặc khải cho chúng ta thấy chân dung Ngôi Vị của Người rõ nét nhất.
“Khi Người ra khỏi đền thờ để không bao giờ trở lại đó nữa thì một môn đệ thưa Người rằng: Thưa Thầy, Thầy xem: những tảng đá đẹp tuyệt vời! Công trình kiến trúc vĩ đại chừng nào! Đức Giêsu đáp: Tại đây, sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, tất cả đều sẽ bị phá tan tành”.
Lúc Đức Giêsu đến ngồi trên núi Ôliu, đối diện với đền thờ, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi riêng Người: Xin Thầy cho chúng con biết bao giờ các sự ấy xảy ra? Đức Giêsu đã trả lời bằng một bài giảng về ngày tàn phá Giêrusalem, ngày tận thế và ngày Con Người ngự đến trong vinh quang, cũng gọi là ngày Quang lâm. Đức Giêsu loan báo ba tai họa xảy đến trước ngày tàn phá đền thờ (Mc. 13, 5-13):
1. Những tiên tri giả và Kitô giả làm lung lạc nhiều người.
2. Những tai họa, chiến tranh, động đất, đói kém.
3. Các môn đệ bị bắt bớ.
Tiếp đến, những ngày cực khốn cho đền thờ. Lịch sử đã cho biết đền thờ Giêrusalem đã bị quân La mã dưới quyền tướng Titô phá hủy vào năm 70 và dân Do thái mất nước, đi tản mát khắp nơi, mãi tới 1945 một số người trở về lập quốc, nhưng vẫn bị chiến tranh tàn sát.
Về ngày tận thế, Đức Giêsu loan báo vũ trụ đều sụp đổ từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đến các quyền lực trên trời. Đây là kiểu nói ám chỉ không thể diễn tả được sự biến đổi phi thường từ “trời cũ đất cũ sang trời mới đất mới” (Kh. 21, 1). “Cái cũ qua, cái mới đã tới” (2Cor. 5, 17). Ví như lúc chưa dựng nên trời đất, chỉ là đen tối mông lung: “Chaos” để biến sang một cuộc sáng tạo mới: Con Người ngự đến trong vinh quang.
Từ khi sinh ra khó nghèo trong máng cỏ bò lừa ở Belem đến ngày này, Đức Giêsu chưa bao giờ nói về mình như thế. Bỗng chốc, Ngài trở nên vĩ đại, vinh hiển trên nền trời bao la, cao xanh thăm thẳm! Ngài tuyên bố: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”.
Ngài tuyên bố mình là Chánh Án tối cao của ngày tận thế, ngày phán xét chung. Vai trò phán xét xử muôn dân đó chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, mà chính Đức Giêsu đang nắm quyền. Mấy ngày sau đó, Người lại tuyên bố y như thế trước những quan tòa của Thượng hội đồng Do thái (Mc. 14, 62).
Danh xưng Con Người đã quá quen tai chúng ta rồi, nhưng theo bản văn, danh xưng ấy luôn luôn tiên báo về cái chết của Đức Giêsu. Người đã dùng danh xưng ấy để nhắc nhở đến lời tiên tri thời danh của Daniel (7, 13-14). Sách tiên tri Daniel đã quả quyết sự chiến thắng của Thiên Chúa trong cuộc chống lại sự bách hại dưới thời Antiôkút 4 Êpiphan. Nay, Đức Giêsu muốn báo cho muôn thế hệ biết: các lực lượng sự dữ, những bọn bách hại dân lành, những quân dữ không thể có chiến thắng cuối cùng trong lịch sử. Chiến thắng cuối cùng sẽ về phía Thiên Chúa và kẻ lành.
Đó là niềm hy vọng làm vang lên lời cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” của các tín hữu ban đầu, và ngày nay trong Thánh lễ, sau truyền phép, chúng ta đồng thanh dâng lên lời cầu xin tha thiết như thế: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Theo truyền thống Khải huyền, những thiên tai trong vũ trụ báo trước những hình phạt nặng nề của Thiên Chúa chống lại kẻ dữ nhưng với Đức Giêsu, thì không phải thế: Đó chỉ là lúc “Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người tập họp những kẻ được tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Đó là lúc Người ngự đến trong vinh quang, ngày đại hội quang lâm của muôn dân, ngày tôn vinh Đức Giêsu là Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc. Những ai theo Người thì cũng được chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc với Người.
Chấm dứt mọi tai họa, chiến tranh, bách hại, kỳ thị, ghê tởm, thảm khốc và những tàn phá, tục hóa và bội giáo của kẻ dữ.
Đó là một phép lạ tuyệt diệu nhất. Vậy hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mc. 13, 37). Phúc cho kẻ bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát (Mt. 24, 13).
Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến. Trong cơn gian nan, trong cơn khủng khiếp, tất cả đều qua đi, đều chết đi. Vâng, lạy Chúa, chúng con biết rằng mùa hè trong sáng tươi đẹp sẽ đến cho cây cối đâm bông kết trái. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến cho những người được tuyển chọn tập họp lại chung quanh Chúa. Amen. (Phỏng theo Parole de Dieu, Noel Quesson).
5. Khi Chúa thương gọi con về
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm này mà suy giảm trí nhớ ít được quan tâm tại các nước đang phát triển. Theo báo cáo tại hội thảo Sa sút trí tuệ trong thực hành y khoa của Trường Đại học Y Dược Sài gòn, kết hợp với Công ty Dược phẩm Janssen-Cilag tổ chức vừa qua, khoảng 50% người bị suy giảm trí nhớ sẽ chuyển sang thành bệnh sa sút trí tuệ 3 năm sau đó.
Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm mức trí tuệ đã đạt được từ trước. Bệnh nhân sẽ bị suy giảm trí nhớ, khả năng xét đoán, định hướng không gian và thời gian, ngôn ngữ, tư duy nhận thức, hành động... ảnh hưởng nặng nề đến chức năng và chất lượng cuộc sống.
Quá trình phát triển của hệ thần kinh từ trong phôi thai đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Sau lứa tuổi này, mỗi ngày khoảng 3.000 nơron thần kinh bị hủy đi mà không có sự sinh sản thêm. Càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết cho não hoạt động. Vì vậy, bước vào tuổi trung niên bạn đã có thể phải đối mặt với tình trạng suy giảm trí nhớ. Nguyên nhân do tình trạng lão hóa nhanh của các tế bào thần kinh, môi trường sống, stress, thiếu một số chất quan trọng trong cơ thể... (Thanh Niên)
Tuy khoa học đã minh chứng sự lão hóa của cơ thể theo năm tháng, cụ thể như các nơ rôn, tế bào não chỉ mất dần đi theo tuổi tác, chứ không còn khả năng tái sinh. Nhưng mấy ai chịu tin rằng mình sắp chết dần, đang chết dần, chết mòn, mà hầu như ai cũng nghĩ mình còn sống mãi, sống dai, sống dài, sống hoài!
Dù vài chục năm ký cóp chút của cải, chút danh vọng, rồi cũng phải bỏ lại tất cả trên cõi trần. Dù tình yêu có mặn nồng cách mấy, thì cũng phai nhạt dần theo năm tháng với người quá cố. Như vậy, cái chết là dấu chấm hết cho đời người? Đúng với người vô thần. Nhưng sai với người Kitô hữu chúng ta, vì cái chết là khởi điểm cho cuộc đời mới, hoàn toàn tùy thuộc vào nhân quả của đời trước.
Chết đi để sống mãi
Chúa Giêsu còn nâng cao tầm quan trọng của cái chết. Không phải chỉ cái là chết thể lý đơn giản, mà còn là cái chết của các ham muốn, đam mê, dục vọng, bản năng, thú vui xác thịt, hy sinh, quên mình vì phục vụ tha nhân, vì Bát Phúc, vì Danh Cha Cả Sáng. Như thế, cái chết mới phát sinh sức sống mới, tràn trề hoa thơm trái ngọt, gặt hái mùa bội thu, như dòng máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo đã giúp cho Giáo Hội thêm bền vững, phát triển.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 24)
Thiên hạ nói: “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng.” Nhưng cái danh để lại có khi chỉ là xú danh, chứ không phải thanh danh. Dẫu thế, tốt hay xấu thì cũng chẳng nghĩa lý gì với người quá cố, chỉ có chút ảnh hưởng nào đó đến thân bằng quyến thuộc.
Nhưng với lẽ đạo, Thiên Chúa bao giờ cũng công bằng chánh trực, thưởng phạt phân minh từng người theo công đức và tội lỗi vấp phạm.
Như thế chết đi để được sống viên mãn mãi, hay là trầm luân muôn kiếp, đều tùy thuộc cuộc đời dương thế. Một khi sống để hưởng thụ, góp nhặt, chiếm đoạt, say mê danh lợi, bon chen của cải phù vân, thì đâu còn hy vọng chi đời sau? Một nắm xương tàn kết thúc cuộc đời, chẳng mang gì theo, ngoài những tam độc, lục dục và thất tình chăng?
Do vậy Chúa Giê su khuyên bảo hãy chết đi cái tôi mau hư nát, hãy mau mắn đổi của hèn, cuộc sống phù du ngắn ngủi, lấy của của trọng, cuộc sống vinh hiển muôn đời:
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25)
Thánh Phaolô cũng tha thiết khuyên nhủ tín hữu Philipphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki tô, và được kết hợp với Người.” (Pl 3, 7-9)
Sống theo Thầy
Đề được hưởng phúc trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi sống theo Thầy, phục vụ Thầy mọi nơi, mọi lúc. Phục vụ Chúa cũng có nghĩa là phục vụ tha nhân đồng loại bất cứ khi nào và ở đâu.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. (Ga 12, 26)
Tuy nhiên, không phải dễ dàng sống theo Đấng Ki tô, một khi còn nặng tính xác thịt, nặng đam mê phù vân thế gian. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã phải khóc thét lên, cảnh báo về sự chọn lựa quan trọng và dứt khoát sống còn này.
“Bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. (Pl 3, 18 -21)
Theo Thầy sống mãi
Phần thưởng cao quý vô ngần, đó chính là Đức Chúa Cha yêu quý, khen thưởng trên Nước Trời những ai quên mình, bỏ mình, phục vụ Chúa Giêsu Kitô, cùng tha nhân bất kể bạn hay thù.
“Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy." (Ga 12, 26)
Con người vốn bất toàn, thiếu sót và tội lỗi, nay được vinh hạnh diện kiến Thánh Nhan nhờ ơn Cứu Rỗi của Chúa Giêsu, thì còn hồng phúc nào dưới thế này có thể sánh nổi?
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đồi”của thiệt” lấy toàn “đồ giả” (Đường Hy Vọng, 676)
Các Thánh Tử Vì Đạo chúng ta đã sáng suốt phó dâng mạng sống, từ bỏ bản thân và mọi cám dỗ xác thịt, để anh dũng tuẫn đạo, theo chân Chúa đến hơi thở cuối cùng. Các ngài đã được ân thưởng trên cõi phúc viên mãn muôn đời. Các ngài đã hiệp thông cùng Chúa Giêsu mà đồng thanh ”Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha!”
Lạy Chúa, con vẫn biết Chúa luôn mời gọi phục vụ, nhưng lòng dạ con còn nặng nề thế tục, xin cứu giúp con biết từ bỏ ý riêng, chết đi tà tâm, để trung thành và bên vững phục vụ Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành, che chở con thoát khỏi cạm bẫy danh lợi, quyền thế, dục vọng, để mãi vững tâm đi theo Chúa, Amen.
6. Thời gian Yêu Thương và thời gian Công Thẳng
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Con người có sinh có tử. Vũ trụ này có ngày khởi đầu chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đó là chân lý. Hôm nay, Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, Giáo hội cho chúng ta suy niệm Lời Chúa liên quan đến ngày cánh chung. Chúng ta thấy được hai khung cảnh của ngày tận thế.
Khung cảnh thứ nhất ở bài đọc I, do sách Đanien diễn tả. Tác giả nói tới một thời gian kinh hoàng “Đó là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ”. Trong ngày đó, có tổng lãnh sứ thần Micae can thiệp. Người lành sẻ được thưởng. Đó là những người được “Ghi trong sổ sách”, là “Những người thông minh” và “Những kẻ khuyên dạy sự công chính”. Còn kẻ dữ sẽ bị luật phạt. Họ “Phải tủi nhục muôn đời”.
Khung cảnh thứ hai do Tin mừng hôm nay diễn tả, tác giả Thánh Marcô cho biết: “Trời đất sẽ qua đi”. Nghĩa là có ngày cùng tận của vũ trụ. Nhưng ngày đó đến khi nào chúng ta không biết được: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi". Tuy vậy, tác giả cho chúng chúng ta biết có những dấu hiệu báo cho biết ngày đó sắp đến: (1) “Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển”. (2) “Thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang”. (3) “Và bấy giờ Người sẽ sai các Thiên thần của Người đi qui tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất”.
Qua hai khung cảnh mà bài đọc I và bài Tin mừng diễn tả chúng ta xác tín hơn: Có ngày Tận Thế, Thiên Chúa sẽ phán xét nhân loại và kẻ lành được thưởng, kẻ dữ bị phạt. Đó cũng là tín điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Vậy, khi chúng ta tin chắc có sự chết, có ngày tận thế và ngày đó lại đến cách bất ngờ thì chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất, phải sống tỉnh thức và sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu đã từng nhắc nhở: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Tỉnh thức như chủ nhà canh phòng kẻ trộm (Mt 24, 43-44). Tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể chuẩn bị dầu đèn đầy đủ (Mt 25, 1-3). Tỉnh thức và sẵn sàng chính là biết chu toàn bổn phận: Bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với tha nhân, đó là thực thi trọn vẹn Mười điều răn của Chúa và các điều răn Hội thánh, tóm lại trong hai điều: Mến Chúa và Yêu Người. Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo một tiêu chuẩn duy nhất đó là Tình Yêu (x. Mt 25, 31-46).
Thứ hai, phải tỉnh thức và sẵn sàng khi còn có thể. Trần gian chỉ là quán trọ. Thiên Đàng mới là ngôi nhà vĩnh cửu. Thời gian chúng ta đang sống trên trần gian này là thời gian của Ân Sủng. Thời gian của Thiên Chúa Yêu Thương chúng ta. Trong thời gian này, Thiên Chúa ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm lành lánh dữ: Ban thời gian, ban sức khoẻ, ban khả năng, ban phương tiện, như những nén bạc để chúng ta sử dụng mà lo phần rỗi. Thời gian này thật đáng quý. Quý đến nỗi có thể chỉ cần một tích tắc thôi cũng có thể biến tội nhân thành thánh nhân. Thời Gian tạm bợ quyết định cho số phận vĩnh cửu. Thánh Gioan Viannay đã nói với một phụ nữ có người chồng mới chết rằng: "Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội...".
Chết là hết thời gian Yêu Thương, Thiên Chúa cứ Công Tội mà thưởng hay phạt chúng ta, đó là thời gian của Công Thẳng. Thiên Chúa chỉ dựa vào công để thưởng và dựa vào tội để phạt: “Những ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (x. Ga 5, 28-29). Vậy hãy sử dụng thời gian Yêu Thương để làm những gì có thể làm được “Việc gì làm hôm nay đừng để đến ngày mai”, để khi bước sang thời gian Công Thẳng sẽ không còn hối hận và nuối tiếc.
Câu chuyện sau đây phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về chân lý trên: Một cô bá tước nọ rất xinh đẹp nhưng lại mồ côi cha mẹ lúc còn bé, nàng lớn lên trong một lâu đài tráng lệ và rất hãnh diễn về gia tộc quí phái của nàng. Một hôm có một cô bé, con của bác thợ gặt nghèo, hổn hển chạy đến lâu đài của cô bá tước và thưa: “Thưa cô, ba cháu sắp chết, và ba cháu xin cô tới ngay vì ba cháu có một điều rất quan trọng cần nói cho cô biết trước khi nhắm mắt”.
Cô bá tước kiêu căng đáp lại: “Ta không hiểu tại sao một bác thợ gặt nghèo hèn như ba của mày, lại có điều gì phải nói với ta”. Và cô bá tước tức giận, đóng cổng, đuổi đứa bé đi. Một lúc sau đứa bé lại hổn hển đến gõ cửa lâu đài và run sợ phân trần một lần nữa với cô bá tước kiêu hãnh: “Xin cô đến mau trước khi ba cháu chết. Ba cháu nói là trước khi má cô qua đời, trong trận chiến tranh cuối cùng, bà đã chôn dấu rất nhiều vàng bạc và một kho tàng lớn cho cô. Ba cháu định để tới khi cô đến tuổi trưởng thành sẽ tỏ cho cô biết má cô đã nhờ ba cháu chôn dấu ở đâu, nhưng bây giờ ba cháu sắp từ trần nên muốn trối lại cho cô kho tàng đó”.
Nghe vậy, cô bá tước vội vàng đi theo đứa bé, vừa đi vừa chạy, nhanh bao nhiêu có thể. Nhưng khi cô bá tước vừa bước chân đến cửa nhà người thợ gặt nghèo khổ, thì ông ta cũng vừa tắt thở không kịp nói cho cô biết kho tàng được cất dấu ở đâu. Kế đó, cô bá tước cho đục khoét nhiều lộ trong phòng, trong tường, nhưng đã quá trễ, không tìm thấy kho tàng chôn dấu ở đâu cả.
Cô bá tước trong câu chuyện trên đây vì kiêu hãnh nên bỏ lỡ cơ hội không lấy được kho tàng quí báu mà mẹ để lại. Nước Trời là kho tàng quí giá, nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội tức là nếu chúng ta không biết sử dụng Thời Gian Yêu Thương để lo phần rỗi thì chúng ta cũng có nguy cơ đánh mất kho tàng quý giá đó. Amen.
7. Tin và hy vọng vào Lời Chúa -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm, nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào chính lời Chúa.
Chúa nhật thứ XXXIII thường niên B làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng Vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Và Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu loan báo về sự chung cuộc, mời gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến lần thứ hai (x. Mc 13,24-32).
Nghe đoạn Tin Mừng Marcô (13, 24-32), chúng ta có thể nghĩ rằng "Ngày ấy còn xa, chưa cần phải làm gì hết", nhưng "hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi" (Mc 13,29). Tuy nhiên, trong xã hội chúng ta đang sống, có những quan niệm lệch lạc về sự chung cuộc của thế giới. Quả thật, chúng ta không thể nói về sự sống lại mà không nghĩ rằng chúng ta phải chết. Ngày chung cuộc của thế giới bắt đầu với mỗi người chúng ta ngay ngày chúng ta chết, thời giờ thật cấp bách để chúng ta lựa chọn.
Nói đến Tin Mừng là nói đến Tin Vui, tự bản chất của Tin Mừng là Tin Vui, nên Tin Mừng luôn mang đến Tin Vui và Tin Vui ấy là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hằng sống: Cớ gì chúng ta phải sợ? Có phải vì chúng ta thiếu niềm tin và hy vọng không?
Sống trong thời đại không thiếu những thiên tai và rất tiếc cả những nhân tai như chiến tranh và bạo lực, làm cho cuộc sống con người bị đảo lộn, cộng thêm sự xâm nhập của chủ nghĩa tương đối khiến lòng người khó tin và thất vọng. Nếu như thời Chúa Giêsu đã xảy ra việc làm cho người ta xao xuyến trước những biến động về thế giới và vũ trụ: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển” (Mc 13, 25), thì trước đó, tinh thần của dân Chúa thời tiên tri Đaniel cũng đã trải qua cuộc khủng hoảng tương tự, lúc ấy Thiên Chúa chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc của họ. Họ thưa cùng Chúa rằng: “Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa” (Tv 15,5).
Khi có khốn đốn kinh hoàng như Daniel loan báo: “Thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ” (Dn 12, 1-3 ). Nhưng nếu họ tin tưởng và cậy trông vào Chúa, "khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát". Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài là niềm vui và là chỗ dựa vững chắc của mỗi chúng ta. Vị Thiên Chúa ấy hiện thân nơi con người Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Đấng nối liền hiện tại với tương lai; các lời tiên tri xưa kia sau cùng đã tìm thấy một trung tâm nơi con người của Ðấng Cứu Thế người thành Nagiarét, chính Người là biến cố đích thật, là điểm chắc chắn và ổn định giữa các chao đảo của thế giới. Chính Chúa Giêsu khẳng định: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Ta sẽ không qua đi" (Mc 13, 31).
Thật thế, chúng ta biết rằng trong Thánh Kinh, Lời Chúa là nguồn gốc của việc tạo dựng; mọi tạo vật, bắt đầu từ các yếu tố vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, bầu trời đều vâng phục Lời Thiên Chúa, hiện hữu trong tư cách "được gọi" bởi Lời Chúa. Quyền năng tạo dựng đó của Lời Chúa đã được tập trung nơi Ðức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và cũng qua các lời nói của Người mà "bầu trời" đích thật hướng dẫn tư tưởng và lộ trình của con người trên trái đất này.
Giáo hội tiếp tục loan báo cho chúng ta một Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Ít sợ hơn nhưng liên kết giữa cách sống với niềm tin của chúng ta hơn! Đức Hồng Y Newman JH nói: "Khi chúng ta đến trước tòa Chúa, chúng ta sẽ được hỏi về hai điều: nếu chúng ta là phần tử của Giáo hội và nếu chúng ta làm việc trong Giáo hội Chúa. Mọi thứ khác chẳng có giá trị gì". Giáo hội không chỉ dạy chúng ta cách chết thế nào, mà còn dạy chúng ta về cách sống ra sao sau phục sinh. Bởi vì những gì Giáo hội dạy không phải là sứ điệp của riêng mình, nhưng sứ điệp của Đấng là nguồn mạch sự sống. Chỉ trong niềm hy vọng này mà chúng ta có thể thanh thản đối mặt với sự phán xét của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tin cậy vào Lời Chúa, Lời Chúa là ngọn Đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sánh chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi.
8. Quê Trời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập như nước Vatican, Taiwan và Kosovo không là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nói đúng hơn là có tất cả 196 nước trên thế giới. Có những Nước lớn, đất rộng người đông như Trung Hoa có trên 1 tỷ 341 triệu người, Ấn Độ có trên 1 tỷ 210 triệu và Hoa Kỳ có trên 314 triệu người. Tổng số dân trên thế giới khoảng trên 7 tỷ. Có những quốc gia nhỏ xíu như Nước Vatican rộng (0.2 square miles) với dân số 770 dân và Nước Monaco (0.7 square miles) có 32 ngàn dân. Số dân tăng dần mỗi năm. Số người qua đời ít hơn số trẻ sơ sinh. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia hướng đến cùng đích. Bước vào thế kỷ thứ 21, nhờ khoa học kỹ thuật siêu vượt, con người đã mở rộng tầm kiến thức và tạo mối liên hệ tới mọi quốc gia. Sự truyền thông đa chiều đã nối kết con người xích lại gần nhau hơn.
Sống trên trần gian là cuộc lữ hành đi về quê thật. Có biết bao con đường mở ra giúp dẫn đưa con người đi đến cùng đích. Con người mọi thời đã suy tư giác ngộ ra nhiều thứ đạo, nhiều tôn giáo và nhiều cách thế để đạt mục đích. Có 20 tôn giáo chính thức, đang là chỗ cậy dựa tinh thần cho nhiều người: Kitô giáo đông nhất có trên 2 tỷ tín đồ, Hồi Giáo khoảng trên 1 tỷ 570 triệu, Hinduism có khoảng 950 triệu, Buddhism (Phật giáo) số thống kê không chính xác (350-1,600 triệu tín đồ)…Ngoài ra còn rất nhiều các nhóm tôn giáo khác nhau. Tất cả các tôn giáo cùng đi tìm ý nghĩa và cùng đích cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Đa số các tôn giáo đều tin có cuộc sống hạnh phúc mai hậu nơi thiên đàng, niết bàn, cõi tây phương cực lạc, quê trời, cõi trời và nơi trường sinh bất tử.
Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta những dấu chỉ về ngày cánh chung. Nước Trời khởi đi từ trần thế và kết thúc trên quê trời. Chúa Giêsu chỉ dậy: Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần (Mc 13, 28). Chúa quan phòng cho chúng ta thấy những dấu chỉ của thời gian, không gian và vạn vật muôn loài. Mọi thứ đều có khởi đầu và có ngày cùng tận. Mọi loài thụ tạo được phát triển trong thời gian, đừng mong có những bước nhảy vọt. Cuộc sống của con người cũng như thiên nhiên cần phát triển theo những chặng đường rất tự nhiên, từ trẻ tới già, từ non nớt tới sự chín mùi, từ ngây thơ tới tuổi trưởng thành và từ khởi sinh đến cùng đích. Chúng ta được mời gọi bước tới trên con đường trọn lành để chiếm hữu quê thật.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm đối diện với những người tốt, kẻ xấu. Mỗi người đều có cơ hội thay đổi để nên tốt lành hơn. Sự thật ở đời, chúng ta khó tìm được một người hoàn toàn tốt hay một người toàn xấu. Trong tâm con người, có phần tốt và chút thói xấu lẫn lộn. Nghèo cùng tâm trí và không biết gieo duyên lành sẽ dễ bị cuốn lôi theo dòng chảy. Đôi khi vì qúa chủ quan, chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình. Mỗi người cần xét mình và biết mình để tìm cách sửa sai và thăng tiến mỗi ngày.
Trong thế giới ngày nay, xuất hiện rất nhiều tôn giáo dẫn đường cuộc sống. Mỗi tôn giáo với những linh đạo riêng có thể giúp các tín đồ của mình tu thân và tu tâm để thoát vòng loạn ly. Đời sống con người hiện đại đang dần bị tục hóa. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ và tương đối đang bủa vây và kéo chìm con người trở về với bản năng hưởng thụ. Qua truyền thông nối mạng, hình như các tệ nạn và gương xấu đang tràn lan một cách mạnh mẽ như sóng triều. Sức mạnh của sự thỏa mãn vật chất mạnh hơn các lý tưởng tinh tuyền của tôn giáo. Nhiều người tìm kiếm thỏa mãn những đòi hỏi vật thể và vui hưởng cuộc sống trong hiện tại, thay vì hướng đến cuộc sống hạnh phúc tương lai. Chúng ta cần thức tỉnh cả trong ý tưởng, tâm linh và thân xác để nhận diện ý nghĩa thật của cuộc sống.
Nhiều bạn trẻ thả trôi cuộc đời lênh đênh không có đích điểm. Thật đáng thương cho kiếp phận con người. Hằng ngày tôi gặp gỡ nhiều người trẻ tự thắt nút cuộc đời qua những biến cố xảy ra. Đang trong tuổi đẹp trăng tròn, nhiều bạn trẻ đã bắt đầu tìm hưởng thụ tính dục, rồi sớm có con, không hôn nhân, không gia đình, thay bạn đổi bồ như thay áo. Qua năm tháng, những nút thắt cuộc đời đan kết chất chồng lên nhau như mối tơ vò. Nhìn một người mẹ trẻ có ba đứa con với hai hoặc ba người bạn tình. Tương lai tại thế của các bạn trẻ này thật mờ mịt khó đường giải quyết. Xảy một ly đi một dặm, làm lại cuộc đời thế nào bây giờ. Làm sao chúng ta có thể nói với họ về tương lai của ngày sau? Các bạn trẻ tự giới hạn viễn tượng sống để giải quyết vấn đề hiện tại với nhiều điều nan giải. Cứ thế cuộc đời bị luẩn cuẩn trong mạng lưới ràng buộc, cả nể cho nên sự dở dang.
Ngày cánh chung sẽ đến giống như dấu chỉ của cây vả xanh tươi, chúng ta biết mùa hè sắp đến. Mỗi người chúng ta nên nhìn dấu chỉ của thời đại để chuẩn bị cho đời sống mai hậu. Chúng ta biết rằng một việc tốt dù nhỏ cũng có thể sinh ra hoa trái tốt lành. Chúng ta phải gieo nhân tốt mới có thể sinh qủa tốt được. Giữa ngã ba cuộc đời, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. Chọn lựa con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Từ bỏ đi những bận vướng của cuộc sống. Cuộc đời có nhiều vương vấn nên cần có thái độ dứt khoát. Ai cũng có thể làm lại cuộc đời. Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Chấp nhận thực tại, chúng ta tháo cởi từng những nút thắt để cuộc sống tâm linh được thanh thản và an vui. Những việc làm tốt nho nhỏ hằng ngày sẽ lớn dần và đâm bông kết trái.
Chúa Giêsu biết thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của con người, nên Ngài đã dâng hiến lễ đền tội để giao hòa. Thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo (Dt 10, 14). Dù con người có sa phạm, lầm lạc và tội lỗi, Chúa vẫn có cách dẫn đưa họ trở về như mẫu gương của thánh Augustinô. Nếu chúng ta chỉ hối tiếc về sự sa ngã lầm lạc thì chưa đủ. Muốn làm lại cuộc đời, chúng ta cần thành tâm nhận lỗi, rồi hối lỗi, thật lòng sửa lỗi, chuộc lỗi, xin tha lỗi và tu luyện tâm tánh. Đây là một sự thách đố quyết tâm đổi đời. Hãy chạy đến với lòng Chúa thương xót xin ơn tha thứ. Chúa sẽ tẩy sạch tâm hồn, đổi mới trái tim yêu thương và thánh hóa trở nên con người mới trong ân sủng.
Niềm tin vào Thiên Chúa là niềm hy vọng viên mãn. Tiên tri Đaniel đã có thị kiến về ngày thế mạt: Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (Dn 12, 2). Chúng ta không thể coi thường những chỉ thị, huấn lệnh và lời giảng dạy trong Giáo Hội. Niềm tin tôn giáo là cửa ngõ dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta cần phải đi, phải bước tới và thực hành những điều Chúa truyền dạy. Nước Trời mở cửa đón nhận tất cả mọi người, nhưng chỉ những kẻ kiên trì phấn đấu đến cùng mới đáng hưởng phần phúc thiên đàng. Chúng ta không biết được ngày giờ Chúa đến, nên luôn phải sẵn sàng: Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mc 13, 32).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày để ngày sau được chung hưởng hạnh phúc đời đời.
9. Chết trong tình yêu Thiên Chúa
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1. Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh - lợi - thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình...kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là "phù vân", như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ "Thập Giá' chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy:"Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo". Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác".
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng "Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô" (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể "xử trảm" chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không... đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh, chúng ta cũng xác tín "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Amen.
10. Ngày phán xét
Vũ trụ này đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc kết thúc. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần lưu ý, đó là nhân loại này luôn luôn được chia làm hai giới tuyến, tin và không tin. Đón nhận và từ chối lời Ngài. Hai giới tuyến này vẫn tồn tại và tồn tại mãi cho đến ngày tận cùng của trời đất. Đúng thế, trong ngày tận cùng của trời đất Đức Kitô sẽ xuất hiện, không phải với thân phận nô lệ, nhưng với tất cả quyền năng của Ngài để phân xử ngay cả những tư tưởng thầm kín nhất của chúng ta.
Chính lúc ấy, hai giới tuyến này mới thực là rõ rệt. Một bên thì sáng ngời và hạnh phúc vì họ là những người đã trung thành gắn bó với Chúa… Còn một bên thì khổ đau và tuyệt vọng, bởi vì họ đã từng là những kẻ thù, chống đối và phỉ báng Chúa.
Lúc bấy giờ, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Trong khi đó những người lành thì hân hoan vui sướng, bởi vì họ đã trung thành gắn bó với Chúa, không bao giờ họ bán rẻ đức tin của mình cho những đam mê và những khát vọng trần tục. Bấy giờ Chúa sẽ phán với họ: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã được chuẩn bị cho các ngươi từ trước muôn đời. Bấy giờ cánh cửa Nước Trời được mở rộng để họ tiến vào, ở đó họ sẽ được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời với Chúa, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xác tín rằng Nước Trời mới là quê hương đích thật, mới là nơi cư ngụ vĩnh viễn của chúng ta. Còn trần gian thì chỉ là quán trọ mà chúng ta là những lữ khách. Bởi đó, không được từ khước một hy sinh, một gian khổ nào. Trái lại, bằng mọi giá phải chiếm cho được quê hương Nước Trời.
Hãy nghĩ đến Nước Trời mỗi khi chúng ta gặp phải những cám dỗ và thử thách. Hãy nghĩ đến Nước Trời giữa những vất vả và mệt mỏi, giữa những buồn phiền và cay đắng của cuộc sống thường ngày. Hãy nghĩ đến Nước Trời trong những lúc nghèo túng, bệnh tật và cô đơn. Bởi vì Nước Trời trổi vượt trên mọi thực tại trần gian.
Đừng bán quyền trưởng nam bằng một bát cháo. Đừng bán cuộc sống vĩnh cửu bằng một vài giây phút vui thú chóng qua. Đời sống thì ngắn ngủi. Danh vọng và vui thú thì chóng tàn. Việc quan trọng chúng ta cần phải làm trước tiên, đó là tìm kiếm Nước Trời như lời Chúa đã nói: Sau cuộc sống trần gian này, thì hạnh phúc Nước Trời đang chờ đón chúng ta, thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để chúng ta xứng đáng được Chúa đón nhận vào chốn quê hương vĩnh cửu?
11. Ngày cùng tận – Cố Lm. Hồng Phúc
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. Trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động. Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.”
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: “Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa.”
Phải chăng những điều ấy phù hợp với những gì Đức Mẹ đã nói với ba em thụ khải ở Fatima! Nhất là trong một số bí mật được trao phó? Có một bí mật Đức Mẹ dạy chỉ được tiết lộ năm 1960. Năm đó, Lucia đã viết lại và đệ trình Đức Gioan XXIII. Ngài coi xong, suy nghĩ và quyết định không tuyên bố. Phải chăng là những gì quan trọng sẽ xảy ra trong Giáo hội và thế giới, cách riêng về dấu chỉ lòng đạo đức sẽ sa sút! Một dấu tiên báo ngày thế mạt sắp đến.
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (IITim. 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn.” Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt. 2,13).
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh. 2,10).
12. Tận Thế - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Về Ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa, trừ phi là Cha” (Mc 13:32).
Cách đây không lâu, một cuốn sách nhỏ do một người Việt tên TTĐ phát hành đã làm hoang mang không ít người. Cuốn sách nói về ngày tận thế sẽ xảy ra năm 2000. Tác giả trích dẫn nhiều tài liệu và nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới như chiến tranh, giặc giã, lụt lội, và ngay cả điều bí mật Fatima thứ ba (lúc đó chưa được Toà Thánh công bố) để khẳng định tận thế sắp xảy ra.
Đi giúp cho giáo dân đó đây, tôi cứ được nghe những câu hỏi có cùng một nội dung: “TTĐ nói có đúng không? Tận thế sẽ xảy ra trong năm 2000 chăng?”
Trước những câu hỏi đó, tôi tự nhủ: ngày tận thế hay năm tháng cuối cùng của nhân loại, không ai biết được. Ngay Chúa Giêsu ngày xưa cũng phán: “Về ngày giờ đó thì các thiên thần trên trời và cả Con cũng không biết được.” Đức Giêsu không thể nói ra ngày nào tận thế xảy đến, ấy thế mà TTĐ lại nói được thì quả là ông ta hay hơn Chúa Giêsu mất rồi. Mà nếu thế thì tại sao người ta không thờ TTĐ cho rồi?
Thêm một suy tư khác: thường đi đâu mà đi một mình, lẻ loi đơn độc, thì mới buồn, mới sợ. Ra đi mà để lại vợ chồng con cái, hay những người thân yêu, mới là đau khổ vì bị chia ly. Nếu như có tận thế, mọi người cùng đi chung với nhau thì đáng lẽ ta phải vui chứ cần gì phải lo.
Cho nên, lắm khi mình cứ “lo bò trắng răng.” Điều đáng lo thì lại không để ý, còn chuyện không đáng quan tâm thì lại cứ ngay ngáy, sống chết với nó.
Thiết tưởng điều đáng lưu ý nhất hiện nay không phải là ngày cánh chung của thế giới, nhưng là ngày cuối cùng của mỗi người trên cõi đời này. Đó chính là ngày tận thế của mỗi người. Đây là điều chắc chắn hơn bất cứ một lời tiên đoán nào.
Thánh Augustino đã từng nói: Một đứa bé sinh ra, sau này nó giàu hay nó nghèo, khoẻ mạnh hay đau yếu, chết non hay chết già, chẳng ai biết được. Chỉ có một điều chắc nhất là nó sẽ chết. Dù sang hay hèn, vua chúa hay bần dân, đàn ông hay đàn bà, xấu hay đẹp, rồi cũng phải chết thôi.
Thánh Anphongsô cũng xác quyết: “Không biết ta có sống trên thế gian được 100 năm như lòng ước nguyện không. Nếu được thì cũng sẽ có một ngày, ngày đó sẽ có một giờ, giờ đó sẽ có một phút, phút đó sẽ có một giây. Đó là giây phút cuối cùng của đời ta.” Và từ lời xác quyết này thánh nhân đã nhắc nhở người ta hãy nhớ đến các bậc tiền nhân, dù họ có quyền cao chức trọng, tài giỏi thông thái, vợ đẹp con khôn đến đâu thì giờ đây cũng chỉ là nắm tro bụi trong lòng đất, trên đó được ghi dấu bởi một tấm bia mà thôi.
Cho nên thật là phù phiếm biết bao khi chỉ biết quan tâm đến sự sống ngắn ngủi của đời này mà quên mất rằng mình còn có một cuộc sống đời đời kiếp kiếp mai sau, cuộc sống bắt đầu ngay lúc chết. Dại dột biết bao khi chỉ nhắm đến cái có cùng mà quên đi cái vô cùng. Chỉ tìm cái tương đối mà quên đi cái tuyệt đối.
Trong cùng một ý nghĩa như thế mà kho tàng văn học của Ấn độ có kể về một ông vua được tiếng là thông minh khôn ngoan nhất thiên hạ nhưng cũng là người dại dột nhất trần gian.
Tại cung vua có một anh khờ chuyên làm trò cho nhà vua xem. Vua thích lắm vì thường có được những trận cười nắc nẻ do những lời nói ngớ ngẩn hay điệu bộ khờ khạo của chàng hề. Một hôm để pha thêm trò, vua gọi anh ta đến bên ngai vàng, trao cho một chiếc gậy và một vương miện rồi phán: “Ta phong cho ngươi làm thằng khờ hạng nhất. Ngươi sẽ giữ chức này cho đến khi có người khờ hơn ngươi. Lúc đó ngươi hãy trao gậy và vương miện lại cho nó.”
Ngày tháng trôi qua, nhà vua già cả và suy nhược theo tuổi tác. Lúc nằm trên giường hấp hối, cả gia đình, quần thần, vương hầu tề tựu chung quanh. Sau khi cố lấy chút hơi tàn, nhà vua thều thào: “Ta gọi các ngươi đến để nói lời từ biệt. Ta sắp xa các ngươi rồi. Ta sắp đi vào một cuộc hành trình mà không bao giờ có ngày gặp lại rồi.” Nghe vua nói thế, ai cũng sụt sùi. Bỗng thấy anh hề tiến đến bên long sàn và thưa: “Muôn tâu đức vua, tôi xin được hỏi ngài một câu trước lúc ngài ra đi… Hồi xưa mỗi lần đi đâu xa, dù đến các vùng hẻo lánh của nước nhà, hay đô thị phồn hoa của nước bạn, ngài đều cho sứ giả hoặc cảnh binh đi trước dọn đường. Còn cuộc hành trình xa xôi mà ngài sắp lên đường kia, thì xin hỏi, ngài đã chuẩn bị gì chưa?” Nghe hỏi thế, nhà vua mở mắt ra đáp: “Ừ, ta chẳng biết chuẩn bị gì cả.” “Thế thì xin nhà vua nhận lại chiếc gậy và chiếc vương miện này, vì tôi vừa tìm ra một kẻ khờ hơn tôi rồi.” Nói xong anh trả tất cả lại cho nhà vua.
Nếu chỉ biết vui chơi hưởng thụ hôm nay mà đánh mất tương lai cuộc đời, nếu chỉ nhìn đến những công danh, thế lực, tiền tài, quyền lợi của hôm nay mà quên đi hay không lo gì cho kiếp sống đời đời mai sau thì quả ta là những kẻ khờ dại vô cùng.
Trong Thánh kinh cũng có kể câu chuyện một phú ông kia, gặp năm may mắn được mùa, lúa thóc tràn trề. Ông suy tính làm cách nào để có thể cất giữ được thóc lúa. Thế rồi sau nhiều hôm suy nghĩ ông quyết định phá các kho cũ, xây một kho mới, to lớn hơn để chứa thóc. Khi hoàn tất công việc, ông ung dung sung sướng nói với lòng mình: “Hồn ta ơi, hãy ăn đi, uống đi, nghỉ ngơi đi, vì từ nay của cải đã dư tràn cho nhiều năm.” Nhưng Chúa phán với người ấy rằng: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn của ngươi, vậy tất cả những thứ kia sẽ về tay ai đây?” (x. Lc 12:16-21)
Do đó, chớ gì ta biết tỉnh thức. Thức tỉnh lại giữa những lo toan, khao khát, kiếm tìm để hỏi lòng mình “Tôi đang làm gì và tôi đang tìm gì?” Có thể với sự chủ quan tôi nghĩ mình đang làm việc này công kia cho Chúa đấy, nhưng lại chẳng phải là công việc của Chúa. Có thể tôi đang tìm tự do, danh dự, quyền lợi, vật chất, tình cảm, nghề nghiệp…, nhưng thử hỏi tôi có tìm kiếm Chúa không? Có Chúa trong những gì tôi đang có không?
Nếu mục tiêu của mọi sự tôi trăn trở kiếm tìm là một thứ gì đó rất hay, rất có lý, nhưng không phải là Chúa, thì tôi quả là một kẻ khờ dại vô cùng.
Nếu tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì đời vẫn mãi thiếu vắng khát khao. Bởi như lời Thánh Augustino nói: Tôi đã tìm nhiều thứ nhưng “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.”
Và rồi nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui và nguồn hy vọng duy nhất của đời, thì thật đáng lo biết bao. Vì như thế ngày tận thế của đời tôi đã xảy ra rồi-tôi đang chết và tôi đã chết.
Còn nếu như có Chúa trong mọi tâm tư, ước muốn, kiếm tìm, và cuộc sống của tôi, thì ngại ngùng gì mà không hát vang lời Ca Vịnh:
“Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi ai. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không lo thiếu gì.”
13. Tận thế – Trầm Thiên Thu
Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.
Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.
Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Đn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.
Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có người sợ hãi và có kẻ vui mừng.
Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9).
Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Chúa!
Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12).
Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).
Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!
Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:32).
Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá vô lý!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
14. Ngày vô tận: cửa không đóng - đêm không về
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Phụng niên của Giáo Hội bao giờ cũng được kết thúc với tuần lễ Chúa Kitô Vua. Nếu Phụng Niên được mở màn với Mùa Vọng, thời điểm Giáo Hội trông đợi Chúa Kitô đến, không phải đến lần thứ nhất, vì Người thực sự đã đến rồi, thì Lễ Chúa Kitô Vua ở Chúa Nhật kết thúc Phụng Niên của Giáo Hội hằng năm là mục tiêu ngưỡng vọng của Giáo Hội, là tột đỉnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng đã Nhập Thể, Vượt Qua, Thăng Thiên và chắc chắn sẽ Tái Giáng. Nếu Chúa Kitô không phục sinh, đức tin Kitô giáo là đồ bỏ, là mê tín dị đoan, là điên cuồng ngu xuẩn (x. 1Cor 15:13-15), thì nếu Chúa Kitô không tái giáng, việc Người phục sinh quả thực, đúng như tin đồn trong dân Do Thái, chỉ là một câu chuyện giả tạo do thành phần môn đệ của Người lấy xác của Người đi vậy thôi, cho ứng nghiệm những gì Người phán khi còn sống (x Mt 28:11-15). Tuy nhiên, biến cố Phục Sinh lịch sử của Đấng Tử Giá còn có thể chứng minh bằng chứng từ là ngôi mồ trống cộng với các lời tiên tri (nhất là của chính Đấng Phục Sinh), còn biến cố Người tái giáng sẽ xẩy ra của Người, cũng trong lịch sử của loài người, lại hoàn toàn không có gì chứng thực cả, chỉ hoàn toàn phát xuất từ lòng tin tưởng được căn cứ vào mạc khải thần linh là những gì được ghi lại trong Phúc Âm vậy thôi, như được thấy trong bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này, Chúa Nhật ngay trước Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua kết phụng niên tuần tới.
Thật vậy, bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 33, dù ở chu kỳ phụng vụ nào, bình thường cũng đều là bài Phúc Âm nói tới ngày tận thế hay tả cảnh tận thế, tức những gì xẩy ra trước khi Con Người đến trong vinh quang, trừ chu kỳ năm A, vì chu kỳ này có bài Phúc Âm thuật lại cảnh phán xét chung ở Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua rồi. Tuy nhiên, nếu liên kết ba bài Phúc Âm của cả ba chu kỳ A, B, C cho Chúa Nhật 33 lại với nhau, chúng ta thấy ý nghĩa về ngày thế mạt xẩy ra hay diễn tiến rất ăn khớp với nhau như sau: Chúa Kitô sẽ trở lại sau một thời gian vắng bóng là để tính sổ với bày tôi của mình (Phúc Âm năm A), và khi Người trở lại sẽ có những biến động trên không trung, những gì xẩy ra ngay trước khi Người xuất hiện (Phúc Âm năm B), cùng với những biến loạn xẩy ra nơi xã hội loài người, nhất là cảnh thành phần môn đệ của Người bị thử thách về đức tin (Phúc Âm năm C), thành phần phải thanh toán trách nhiệm với Người và trình nộp lợi nhuận cho Người khi Người đến (Phúc Âm năm A).
Riêng về bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này chúng ta thấy có bốn điểm chính theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, hiện tượng biến động trên không trung xẩy ra ngay trước khi Con Người đến; thứ hai, sự kiện Con Người tái xuất hiện là để triệu tập thành phần được tuyển chọn; thứ ba, biến cố thế mạt được Người khẳng định là chắc chắn sẽ xẩy ra; thứ bốn, biến cố này xẩy ra khi nào cũng được Người xác nhận là chỉ có một mình Cha biết mà thôi.
Bài suy niệm này vừa viết xong thì tin tức thiên văn cho biết Hiện Tượng Nguyệt Thực, Sao Băng và Nhật Thực trong Tháng 11/2003 như sau. Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu sẽ được thấy vầng trăng rằm trở thành một bầu tối hồng vào cuối tuần này Thứ Bảy ngày 8/11/2003, khi mặt trăng lướt qua vùng tối của trái đất trong biến chuyển mới nhất của bầu trời năm nay. Hiện tượng nguyệt thực này sẽ kéo dài trong vòng 24 phút và lên tới hết cỡ của nó vào lúc 8 giờ 6 phút EST, lúc mặt trăng, trái đất và mặt trời chập vào nhau và mặt trăng băng ngang qua vùng tối nhất của Trái Đất. Hiện tượng nguyệt thực không gây tác hại cho mắt trần của người coi, không giống như hiện tượng nhật thực. Hiện tượng nguyệt thực diễn ra với nhiều mầu sắc, từ nâu đậm và đỏ đến mầu cam sáng, vàng và nâu, tùy theo nhiều ít mây và bụi trong không khí của trái đất lúc ấy. Vào cổ thời hiện tượng nguyệt thực này được cho rằng bị gây ra bởi con quái vật nào đó làm cho mặt trăng đẫm máu, dấu hiệu tai họa xẩy ra. Nếu mây mù che khuất biến cố Thứ Bảy này, người ta sẽ không phải đợi chờ lâu để thấy được một trận mưa sao băng Leonid xẩy ra hằng năm. Ở Tây Á, Nam Dương và Úc Đại Lợi sẽ thấy trận mưa sao băng này vào sáng sớm ngày 14/11/2003. Còn ở vùng Tây Phi, Tây Âu, Bắc Mỹ và những phần đất phía tây của Nam Mỹ sẽ được thấy trận mưa sao băng này vào ngày 19/11/2003. Cảnh mưa sao băng này xẩy ra rất ngoạn mục với cả hằng trăm ngôi sao chuyển chỗ trên bầu trời trong một tiếng đồng hồ. Ngày 23/11 cũng sẽ diễn ra hiện tượng nhật thực mà chỉ thấy được ở Nam Cực Cầu thôi.
Ở đây chúng ta không bàn đến vấn đề thiên văn mà là suy nghĩ và các vấn đề liên quan đến 4 câu của Lời Chúa phán trong bài Phúc Âm như sau: “Bấy giờ (tức sau biến động trên không trung), người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”; “Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”; “Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”; và “về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”. Nói chung, nếu hai lời đầu liên quan đến chính ngày tận thế thì hai lời sau liên quan đến đức tin đối với ngày tận thế này. Vậy chúng ta cần phải hiểu thế nào về 4 lời chân thật “sẽ không qua đi” này của Chúa Giêsu về ngày thế mạt.
“Bấy giờ, người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”:
Qua câu lời Chúa này chúng ta biết được, trước hết, ngày tận thế xẩy ra rồi Con Người mới đến, chứ không phải khi Người xuất hiện thì bấy giờ là ngày tận thế. Ngày tận thế là ngày không trung xẩy ra biến động, ở chỗ “mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các tinh tú sẽ rơi rụng, và các cơ ngũ trên trời bị rung chuyển”. Và những biến động trên không trung đây, những biến động cuối cùng trong ngày tận thế và vào chính ngày tận thế đây, chỉ xẩy ra sau những biến loạn trên trái đất mà thôi: “Sau các cuộc thử thách đủ mọi thứ xẩy ra vào giai đoạn đó”, như được Thánh Ký Marcô thuật lại ở phần Phúc Âm, cùng đoạn 13, từ câu 5 đến câu 23 ngay trước bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, giai đoạn biến loạn trên trái đất, với hiện tượng tiên tri giả, chiến tranh loạn lạc, động đất đói khát và bách hại sát đạo. Cũng qua câu lời Chúa trên, chúng ta còn hiểu được rằng, sau ngày tận thế, thân xác con người ta sẽ được phục sinh, và bấy giờ, với con mắt của thân xác phục sinh, con người, dù lành hay dữ, mới có thể thấy được chính Đấng Phục Sinh đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời.
Vấn đề được đặt ra ở đây là cái gì đã khiến cho không trung bị biến loạn để thế gian phải đi đến ngày cùng tháng tận của mình vô cùng kinh hoàng như thế? Chính không trung chi phối trái đất, (trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh trái đất), chẳng lẽ lại bị tình trạng biến loạn trên trái đất xẩy ra trước đó chi phối đến bị biến động gây ra thế mạt hay sao? Thật ra, nếu tất cả mọi sự trên thế gian này được Thiên Chúa dựng nên vì loài người và cho loài người thì mọi sự quả thực lệ thuộc vào loài người, đến nỗi, như Thánh Phaolô nhận thức và diễn tả: “Tất cả mọi tạo vật ngong ngóng trông đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Tạo vật bị làm tôi cho hư hoại, không phải tự chúng, mà là bởi Đấng bắt chúng phải chịu như thế, song không phải là không có hy vọng, vì chính thế gian sẽ được giải thoát khỏi cảnh làm tôi cho hư hoại hầu được thông phần vào quyền tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19-21). Vậy có thể suy ra rằng, một khi lòng người hay xã hội loài người hoàn toàn băng hoại hay băng hoại hết cỡ, đến nỗi, đối với văn minh vô thần duy vật của họ, mặt trời công chính là Chúa Kitô đã trở nên tối tăm, mặt trăng Giáo Hội không còn chiếu sáng được ảnh hưởng của mình nữa, các người lành thánh như những vì tinh tú cũng sẽ rơi rụng vào thời kỳ chưa từng có từ tạo thiên lập địa ấy, một thời kỳ nếu không được rút vắn lại thì kẻ lành cũng sẽ bị hư đi (x Mk 13:19-20), và các cơ ngũ trên trời là tất cả mọi thứ lề luật tự nhiên cùng với các nguyên lý luân lý phổ quát bị rung chuyển, thì cũng là ngày cùng tháng tận của thế gian này, hay nói theo đức tin Kitô giáo, cũng là ngày thế gian cần phải được hay đến lúc được canh tân biến đổi, để trở thành một trời đất mới, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị (x 2Pt 3:13).
“Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”:
Câu lời Chúa này cho chúng ta thấy lời Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định quả là chí lý: “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi nữa mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28). “Những ai thiết tha trông đợi Người” đây không phải chỉ là những ai sống vào ngày cùng tháng tận, những ai bền đỗ đến cùng trong những ngày khủng khiếp vô tiền khoáng hậu ấy (x Mk 13:13), bởi vì, như trên đã nhận định, tận thế rồi Chúa Kitô mới xuất hiện, tức mọi người chết hết rồi và sống lại rồi bấy giờ Người mới tới, chứ không phải chỉ tới với những kẻ chưa chết nói chung, nhất là những kẻ thiết tha trông đợi Người nói riêng. Dụ ngôn 10 cô phù dâu đều thiếp ngủ như nhau, nhưng Chúa Kitô chỉ mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người là những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu hy vọng theo với cây đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến để ra nghênh đón Đấng bất chợt đến vào lúc nửa đêm mà thôi (x Mt 25:1-13).
Đúng thế, Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người, thành phần được Người cứu độ qua phép rửa, từ lúc Người thăng thiên (đi xa) cho tới khi Người lại đến (trở về), như ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 chu kỳ năm A cho thấy. Tuy nhiên, vì ơn cứu độ của Người là một ơn cứu độ phổ quát, ơn cứu độ được Thiên Chúa Hóa Công hứa cho tất cả loài người ngay sau nguyên tội (x Gen 3:15), mà tất cả những ai, dù sinh ra trước khi Lời hóa thành nhục thể, hay sau khi Chúa Kitô Vượt Qua song chưa được tái sinh bởi Giáo Hội Người qua Phép Rửa cứu rỗi (x Mk 16:16), một khi biết thiết tha trông đợi Người, được tỏ ra qua việc họ sống chân chính hợp với lương tâm ngay lành và lề luật luân lý phổ quát, cũng sẽ được Người giải cứu (x Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 16). “Thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời” đây có thể được hiểu hay cần phải được hiểu theo nghĩa này.
“Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”:
Như trên vừa nhận định, chính vì Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ cho thành phần thiết tha trông đợi Người, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế, mà ba chữ “thế hệ này” ở đây không chỉ áp dụng cho những người đương thời với Chúa Kitô, với các tông đồ, thành phần dân Do Thái bấy giờ, mà là cho chung nhân loại. Qua lời Chúa Giêsu khẳng định trên đây, chúng ta thấy rằng tận thế là một sự thật chứ không phải chỉ là một lời đe dọa, một cái gì không thể nào xẩy ra hay không bao giờ xẩy ra. Triết lý và khoa học cũng không thể chối cãi được sự thật cùng tận này. Theo triết lý và luận lý, ai dám cho rằng tất cả mọi sự hữu hình và vật chất này sẽ kéo dài đến vô hạn, bằng không chính vật chất hữu hạn này là Thiên Chúa, là Hóa Công, vô thủy vô chung, vô cùng bất tận. Theo khoa học, ai có thể chứng minh được rằng mọi sự tự dưng mà có, hay chỉ có thể biết được, qua các giả thuyết, rằng thiên nhiên vạn vật ngay từ đầu từ từ được biến đổi mà thành hình; thế nhưng, không ai dám cả quyết một cách chắc chắn 100% như chân lý rằng trời đất này sẽ không bao giờ hoàn toàn qua đi, sẽ luân hồi không bao giờ cùng, tức sẽ muôn đời tồn tại thiên thu vạn đại, tức không có vĩnh hằng, không có đời sau, không có thiên đàng hỏa ngục…
Thực tế cho thấy, con người luôn khao khát và tìm kiếm chân thiện, tìm kiếm những gì vĩnh hằng bất biến. Kẻ gian dối nhất, đánh lừa cả thiên hạ, cũng vẫn không muốn bị đánh lừa, cũng vẫn muốn biết sự thật. Kẻ chán đời đến tự tử đi nữa, cũng vẫn, qua chính quyết định tử tử và việc tử tự của họ, cho thấy họ hết sức khao khát được sống hạnh phúc, một hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc thực sự, một thứ hạnh phúc họ không tìm được ở đời này. Vậy nếu con người chân nhận là có sự thật, và sự thật tối hậu là một thực tại bất biến, một thực tại toàn thiện, sự thật làm thỏa mãn tất cả mọi khát vọng của loài “nhân linh ư vạn vật”, một sự thật sẽ làm sáng tỏ tất cả mọi tranh chấp và phải trái của loài người, thì quả thực là thế gian này, vũ trụ này, lịch sử này sẽ có ngày cùng tháng tận, thời gian có thủy có chung tự nó không phải là vĩnh hằng và sẽ đi đến ngày cùng tháng tận. Chỉ có sự thật hay những gì là sự thật mới là thực tại duy nhất vĩnh hằng. Nếu tất cả những gì Chúa Giêsu đã truyền dạy về luân lý đều không bao giờ lỗi thời, đến nỗi những gì con người không làm theo như lời Người dạy sẽ không bao giờ được bằng an và phúc thật, thì những gì Người nói về ngày tận thế cũng là sự thật, chắc chắn sẽ xẩy ra. “Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”, vì lời Thày là sự thật, là thực tại, một sự thật bao gồm tất cả mọi sự, cho thấy tất cả mọi sự; và mọi sự được tỏ hiện theo lời của Người và như lời của Người, cho thấy rằng lời Người quả là sự thật, vì mọi sự từ từ được hiện thực trong thời gian, được lịch sử ghi nhận. Nếu thời gian là tiến trình sáng tỏ sự thật thì lịch sử chính là chứng nhân cho sự thật. Vì thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật mà một khi sự thật hoàn toàn được sáng tỏ thì cũng là lúc năm cùng tháng tận. Vì lịch sử là chứng nhân ghi nhận sự thật mà tận cùng thời gian phải là một cảnh chung thẩm cho thấy tất cả sự thật.
“Về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”:
Nếu thực sự có ngày tận thế thì những gì Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết, như được các Phúc Âm Nhất Lãm ghi lại, không phải phát xuất từ sự suy đoán của Người, như chúng ta vừa suy diễn trên đây về vấn đề có ngày tận thế hay chăng. Bởi vì, Chúa Giêsu chẳng những đã mạc khải cho chúng ta biết có ngày tận thế, một sự thật hợp với lập luận của triết lý cũng như khoa học, mà còn cho chúng ta biết ngày tận thế ấy sẽ xẩy ra hay sẽ diễn tiến trước sau ra sao nữa. Như thế, chẳng lẽ chính Người, như Người đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 Thường Niên tuần này, cũng không biết rõ được ngày giờ dứt khoát và nhất định xẩy ra sự thật về ngày cùng tháng tận này hay sao? Nếu Cha đã ban cho Con tất cả mọi sự, kể cả sự sống là những gì cao quí nhất (x Jn 3:35, 5:26), thì chẳng lẽ chi tiết về ngày cùng tháng tận của thế gian này lại quan trọng đến nỗi giấu cả Con của mình hay sao, Đấng phải biết trước ngày giờ Người sẽ vinh hiển đến trên mây trời, chứ không phải tới ngày giờ mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người rồi mà Người vẫn không biết, vẫn phải đợi cho đến khi Cha Người công khai ra lệnh thì Người mới biết! Nếu Chúa Giêsu quả thực biết đích xác ngày giờ như Cha Người biết thì chẳng lẽ lời Người khẳng định ở cuối bài Phúc Âm về việc chính Người cũng không biết là giả dối, đánh lừa thiên hạ sao, hay ít là Người cố ý nói thế để tránh né những câu hỏi cặn kẽ đầy tò mò của các tông đồ bấy giờ? Phải chăng Người biết hết mọi sự về ngày giờ thế mạt như Cha, song không phải để tỏ lộ cho bất cứ con người nào biết, nên những gì Người biết cũng kể như không biết? Tương tự trường hợp tôi giữ một đồ vật của người khác, và khi có ai thấy món đồ ấy thì xin tôi, tôi nói với họ rằng tôi không có vậy.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây, quan trọng không phải là biết được ngày cùng tháng tận, mà là biết sẵn sàng đón chờ ngày đó, thì ngày đó đến bất cứ lúc nào cũng được. Ngày đó ở ngay trong lòng của con người khao khát Chúa, luôn sống trước nhan Chúa, phó thác mọi sự trong tay Chúa. Ngày đó là chính sự thật họ đang sống. Những ai sống trong sự thật là sống một Ngày vô tận, cửa không đóng, đêm không về (x Rev 21:25).
15. Sống sót.
Cuốn phim “Biến cố xảy ra trên nhịp cầu” kể lại câu chuyện sau đây: Có một tên tử tội bị treo cổ trên một nhịp cầu. Người ta thòng sợi dây từ đỉnh cầu xuống và quấn vào cổ anh. Khi mọi sự đã sẵn sàng, viên chỉ huy ra lệnh, người ta sẽ kéo lên và sợi dây xiết vào cổ anh. Thế nhưng, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và anh rớt xuống dòng sông. Anh bắt đầu lặn, rồi bơi vào một đám lục bình. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những chiếc lá xanh và của những bông hoa tim tím. Một lúc sau, anh nhìn thấy chú nhện giăng tơ. Và một lần nữa, anh lại xúc động trước vẻ đẹp của chiếc màng nhện và những giọt nước bám vào đó, lấp lánh như những hạt kim cương. Bỗng nhiên, đám lính đứng trên cầu bắn xối xả. Anh cố gắng lướt tới dưới làn mưa đạn. Cuối cùng anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Khẽ mở mắt, anh trông thấy một cánh hoa dại. Anh thầm nghĩ: Mọi sự sao mà đẹp thế. Nhưng liền sau đó, anh nghe thấy tiếng đạn rít qua bụi rậm. Thế là anh đứng lên, cắm cổ chạy một mạch về đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ và nàng vội vã mở cởng và dang tay đón anh.
Ngay khi họ vừa ôm nhau, thì nhà đạo diễn mang chúng ta trở lại với nhịp cầu. Và chúng ta không thể nào tin được vào mắt mình khi thấy xác anh ta đang đong đưa với sợi dây xiết chặt vào cổ. Thì ra anh đã chết. Chi tiết này làm cho mọi người sững sờ. Thế là mọi nỗ lực trốn chạy và mọi cơ may được sống sót của anh chỉ là sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng mà thôi. Anh mơ thấy mình được sống lần thứ hai và anh cảm nhận sự sống ấy bằng đôi mắt hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên anh cảm thấy thế gới này quả là tuyệt hảo. Lần đầu tiên anh cảm thấy cuộc sống là một món quà quý giá. Phải chi anh được sống sót thì chắc hẳn anh đã sống cuộc đời mới này một cách khác thường biết bao.
Thế nhưng đâu là chủ đích của nhà đạo diễn. Ông muốn nhắn gởi gì với chúng ta? Theo tôi nghĩ, người tử tội trong câu chuyện chính là mỗi người chúng ta, bởi vì một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên chúng ta lại không biết mình sẽ chết lúc nào? Cái chết thì chắc chắn nhưng giờ chết thì bấp bênh vô định, nhưng rồi một lúc nào đó nó sẽ đến với chúng ta, như đã đến với người tử tội.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.
16. Hiện thực
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức Kitô hứa ban cho những ai trung tín trong đức tin. Món quà hiện thực này Đức Kitô hứa ban khi Kitô hữu hoàn thành viên mãn cuộc lữ hành trần thế. Hoàn thành viên mãn khi Kitô hữu sống trung thành với đức tin, giữ trọn lời hứa khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Món quà hằng sống có được không phải do sự khôn ngoan hay cố gắng của con người mà chính là kết quả của đời sống yêu Thiên Chúa, mến tha nhân và thiết tha với lời Đức Kitô giảng dậy. Thánh Mark cho biết món quà hằng sống được trao ban nhưng khi nào được lãnh nhận là điều không ai biết. Bởi không biết ngày giờ được trao ban nên Kitô hữu cần chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận. Thái độ đón nhận rất khác nhau nơi tâm hồn con người. Có người chuẩn bị hàng ngày đợi đến khi gọi thì đáp lại ngay. Kẻ khác thì lơ là, lúc sốt sắng, lúc thờ ơ. Họ cần thay đổi lối sống, thái độ sống đón nhận Lời Chúa với tất cả tâm tình, nếu không sẽ gặp rắc rối khi giờ chết ập đến. Kẻ khác đã không đón nhận còn chối bỏ món quà hằng sống. Bởi từ chối đón nhận quà hằng sống nên khi thời gian đến họ sống trong kinh hoàng, sợ hãi. Từ chối tin vào lời Đức Kitô khi gặp khốn khó không có nơi nương tựa, đau khổ. Khi biết sự khôn ngoan của con người bị giới hạn, con người không thể giúp hơn được nữa, lúc đó họ không còn lối thoát và sợ hãi xâm chiếm tâm hồn họ, đau khổ đè nén tâm can họ. Thất vọng ào tới tấn công tinh thần. Đau khổ, bất hạnh ào đến tứ phía. Họ phải trả giá rất đắt cho việc từ chối niềm tin. Tin vào Đức Kitô mất rất ít, lợi rất nhiều. Mất vì phải từ bỏ í riêng, mất vì phải tiêu diệt cái tôi. Lợi đầu tiên và quan trọng nhất chính là ơn cứu độ. Khi giờ chết đến có nơi nương tựa, không phải ra đi trong cô đơn nhưng có Đức Kitô đồng hành đó là điều lợi thứ hai. Đến giờ phán xét tránh được sợ hãi ngàn trùng vì có Chúa ở cùng ta, ai hãm hại được. Đó là điều lợi thứ ba. Được mọi người yêu mến khi còn sống đó là điều lợi thứ tư. Hàng năm có cả tháng cầu nguyện cho các linh hồn đó là điều lợi thứ năm. Quan trọng hơn cả là không phải sống mồ côi nhưng có Thiên Chúa là Cha hằng sống, yêu thương, bao bọc.
Bởi không biết ngày giờ phán xét nên Kitô hữu sống tinh thần chuẩn bị đón chào ngày Chúa đến và sống trong hy vọng. Đức Kitô còn cho biết trước khi ngày Chúa xuất hiện sẽ có dấu chỉ, làm rung chuyển tấm lòng con người và cả vũ trụ rên xiết. Cùng dấu chỉ nhưng điều đó gây kinh hoàng cho người không có niềm tin, cũng dấu chỉ đó lại mang lại an ủi, niềm hy vọng cho Kitô hữu vì họ nhận biết ngày giờ Đức Kitô đến đón họ vào thiên quốc. Sợ hãi, kinh hoàng thường đi chung với thần dữ vì thế có thể coi đây là sự vùng vẫy cuối cùng của thần dữ trước khi chúng buông tay đầu hàng để chui vào ngục tối của chúng. Đức Kitô sai thiên thần đón nhận kẻ trung tín trong đức tin và chân thành trong bác ái. Sợ hãi, lo lắng biến mất và Kitô hữu sống trong hào quang chiến thắng huy hoàng của Đức Kitô. Thánh Mark nhắc nhở chúng ta mỗi ngày luôn nhớ đến ơn hằng sống và coi đó là ưu tiên hàng đầu trong ngày. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai bởi món quà hằng sống được trao ban nhưng chưa lãnh nhận.
Kitô hữu tin vào sự chết thân xác và sự chết tâm linh. Người ta không thể chứng minh được tình yêu nhưng nhìn vào kết quả tình cảm con người dành cho nhau để nhận biết tình yêu. Qua hành động bác ái, yêu thương và sự hiện hữu của chính mình mà ta nhận biết tình yêu Chúa. Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa tạo dựng nên ta và cuối đời ta thuộc về Chúa bởi Ngài hứa không bỏ chúng ta mồ côi. Kẻ không tin vào Thiên Chúa không có câu trả lời đích thực về đời người. Với họ chết là hết, ngay cả câu trả lời này họ cũng bán tín, bán nghi, không hoàn toàn tin là sự thật.
17. Dấu chỉ
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Căn cứ vào Phúc Âm Mc 13, 24-32 chúng ta biết rõ Thiên Chúa yêu thương cho biết có những dấu chỉ báo hiệu việc trọng đại xảy đến cho cả nhân loại lẫn Con Người.
‘Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi’.
Dấu chỉ đó bao gồm:
‘mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trởi bị lay chuyển’.
Thiên Chúa yêu thương còn cho biết ngoại trừ Chúa Cha ra, không một ai dưới trần và không một ai trên thiên quốc biết rõ năm tháng ngày giờ các dấu chỉ kia sẽ xảy đến.
‘Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi’.
Chúng ta đã chứng kiến nhiều tiên đoán vô căn cứ. Bản nhạc với câu năm hai ngàn năm tôi còn lại gì đã sai. Dự đoán đệ tam thiên niên kỉ bắt đầu tận thế đã đi vào dĩ vãng. Những người tiên tri về ngày Cánh Chung và những người tin về những tiên đoán đó cho thấy họ đều hoặc là không đọc Phúc âm. Nếu đọc họ không tin điều Chúa Jesu dậy. Không tin Chúa Giêsu nhưng muốn làm công ciệc của Chúa Cha khi đưa ra lời tiên đoán. Kinh Thánh ghi rõ không ai biết trừ Chúa Cha.
Ngày cánh chung có dấu chỉ riêng, khác thường. Vũ trụ chúng ta sống có dấu chỉ riêng và mỗi người có dấu chỉ cá biệt. Mục đích của dấu chỉ là thông tri sự việc đang đến. Dấu chỉ mặt trời, mặt trăng ra tối tăm, các vì sao di chuyển bỏ quỹ đạo. Mục đích điềm lạ báo ngày Chúa quang lâm.
Dấu chỉ thuộc về vũ trụ
Không thể căn cứ vào chiến tranh, loạn lạc, hay thiên tai mà tiên đoán là ngày cánh chung gần kề. Những điều đó xảy ra đó đây liên tục. Lịch sử nhân loại mấy khi vắng bóng chiến tranh. Lịch sử vũ trụ năm nào thiếu thiên tai, động đất, cháy rừng, lũ lụt và bão gió. Những điều đó cho biết chúng ta đang sống trong một vũ trụ sống động, không phải một vũ trụ chết, nằm yên, bất động. Động đất, núi lửa, bão táp là bằng chứng cho thấy vũ trụ đang chuyển mình, đang lớn lên và rất có thể đang tự chữa những vết thương do bàn tay con người tàn phá. Cũng có thể là dấu chỉ báo nguy cho biết con người lạm dung thiên nhiên thái quá. Cần xét lại cách khai thác và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Thay đổi thời tiết theo mùa, mưa to, gió lớn với mây đen, sấm chớp cũng là những dấu chỉ bình thường của vũ trụ.
Dấu chỉ thuộc cá nhân
Cuộc sống cá nhân bao gồm những chuỗi dấu chỉ liên tục. Ăn không phải vì đến giờ nhưng vì đói. Uống không phải trời nắng mà là khát; không phải tối trời đi ngủ mà là báo hiệu của mắt. Cản thấy đói, khát, buồn ngủ, mệt mỏi là dấu chỉ cơ thể báo cho biết cần nhu cầu đó. Con người có bản năng nhận biết dấu chỉ cần thiết của cơ thể để sống còn. Ngoài ra còn những dấu chỉ tiềm ẩn, kín đáo hơn con người cần để ý mới nhận ra. Dấu chỉ về thể chất dễ nhận. Dấu chỉ tinh thần tiềm ẩn khó nhận hơn và dấu chỉ về tâm linh khó nhận nhất vì chìm sâu nhất nhưng cũng quan trọng nhất vì nó liên kết ta với Chúa.
Khi một người không đọc được dấu chỉ cho chính mình Thiên Chúa yêu thương ban những dấu chỉ khác rõ ràng hơn, lộ diện trên da thịt cho thân nhân, chuyên gia cảnh tỉnh giúp. Nhìn vẻ mệt mỏi trên mặt, vàng vọt xanh xao của da, bạc nhược, bơ phờ râu tóc, thần sắc xấu trên người là những dấu chỉ bên ngoài cảnh giác sức khỏe, tình cảm nội tâm bên trong. Dấu chỉ phục vụ như lời mời gọi con người quan tâm đến nhau, hỗ trợ nâng đỡ, khuyến khích về ba phương diện: thể chất, tinh thần và tâm linh.
Dấu chỉ về tâm linh
Trong tôn giáo có nhiều dấu chỉ cho biết con người đó gần Chúa, thuộc về Chúa hay lưỡng lự trong chọn lựa yêu mến Chúa và ngay cả xa lánh Chúa. Dấu chỉ rõ ràng nhất là mức độ thánh thiện. Không thể đo lường mức độ thánh thiện nhưng cứ nhìn vào cách đối xử với tha nhân để biết mức độ thánh thiện một người.
Người có lòng đạo thật sự luôn cố gắng trở nên thánh thiện trong lời ăn, tiếng nói. Họ không dựa vào sức riêng nhưng dựa vào ơn thánh múc được nơi bí tích thánh, Lời Chúa và nhận ra Chúa nơi anh chị em khác. Dấu chỉ tâm linh chính là tiếng nói của lương tâm khuyến khích ta làm điều tốt lành mang bình an nội tâm. Ngăn cản ta làm điều thất đức tạo cho nội tâm bất an. Đay nghiến tâm hồn, tạo nên sợ sệt khi tiếng nói lương tâm bị chèn ép, đè bẹp. Dấu chỉ này thực hiện qua tiếp xúc, đón nhận và phục vụ anh chị em đồng loại.
Nhờ vào dấu chỉ tâm linh để tự sửa sai con đường đang đi, đổi hướng, xoay chiều hay tiến thêm trên đàng nhân đức. Sửa sai thứ nhất cần ơnChúa. Thứ hai cần thời gian. Thứ ba quan trọng nhất là nghị lực vì thiếu nghi lực người đó chối bỏ ơn thánh nên không thể nào sửa sai. Nghị lực đây không phải là sức mạnh cá nhân, hay sức mạnh của ý chí mà chính là sức mạnh nội tâm để nhận ơn Chúa hầu thay đổi hoàn cảnh.
Tóm lại dấu chỉ thể lí cho biết nhu cầu cần thiết để sống còn và sống hạnh phúc. Dấu chỉ tâm lí thỏa mãn tình cảm cần có trong cuộc sống và là vùng đất giúp chúng ta chu tòan luật yêu tha nhân. Dấu chỉ tâm linh giúp chúng ta chu toàn luật mến Chúa.
18. Suy niệm của Jean Yves Garneau.
“CHÚNG CON CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN TRONG VINH QUANG”
Bí mật của Chúa Cha.
Chúa Kitô đã đến ở giữa chúng ta, và Ngài sẽ trở lại. Ngài sẽ trở lại. “Trên mây trời với quyền uy và vinh quang lớn lao”. Biến cố đặc biệt này sẽ được đánh dấu bởi những hiện tượng trong vũ trụ. Nó sẽ trùng hợp với một cuộc biến đổi vũ trụ. “Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng nữa, tinh tú sẽ rơi xuống…”. Những hiện tượng này –không nên hiểu theo mặt chữ- Không muốn ám chỉ về một thiên tai, nhưng là một thời điểm quyết định trong lịch sử nhân loại.
Khi nào chuyện đó sẽ xẩy ra? Người ta luôn luôn tự đặt câu hỏi này. Chúa Giêsu gạt qua tất cả các giả thiết. Không người nào biết được ngày đó! Bản thân Ngài cũng không biết! Chỉ mình Chúa Cha biết. Và đây là bí mật của Ngài.
Ngày của sự thật và công bình.
Vả lại điều quan trọng không phải biết lúc nào Chúa Giêsu quang lâm, nhưng là chú ý đến những gì sẽ xẩy ra lúc đó. Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Sự phong phú của thời gian đang trôi qua.
Không phải để làm cho người ta sợ mà Chúa Giêsu loan báo ngày Ngài quang lâm sẽ là ngày phán xét, nhưng để giúp mỗi người ý thức về tầm quan trọng của thời gian đang trôi qua.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Giá trị của sự trung thành.
Do đó những gì chúng ta làm hoặc không làm, những câu xin vâng hoặc những lời từ chối đối với Thiên Chúa hàng ngày đều có một tầm quan trọng lớn lao. Những sự trung thành của chúng ta –lớn và nhỏ, những cố gắng của chúng ta để sống lương thiện, công chính và ngay thẳng trong một thế giới thường bất công và gian tà, lòng kiên trì của chúng ta để giáo dục con cái cách tốt nhất có thể được, những khi chúng ta tha thứ cho những kẻ đã làm chúng ta bị tổn thương, những lần chúng ta đọc kinh sốt sắng, những khi chúng ta bố thí, khi chúng ta cố gắng chu toàn công việc hằng ngày, những khi chúng ta sẵn sàng quan tâm đến tha nhân, đón tiếp họ. Tất cả đều chuẩn bị chúng ta cho ngày Thiên Chúa phán xét.
“Chúng con mong chờ Chúa quang lâm…”.
Hơn chúng ta, các Kitô hữu sơ khởi đã biết sống hướng mắt và hướng lòng về ngày quang lâm của Chúa Kitô. Vì họ xác tín rằng ngày ấy sẽ đến nhanh, nên họ đã cố gắng sống mỗi giây phút trong sự trung thành tuyệt đối đối với Chúa Kitô. Ý thức về ngày Chúa quang lâm và tâm quan trọng của nó đã mai một đi với thời gian. Bây giờ người ta sống ngày qua ngày mà không bận tâm lắm về ngày cuối cùng. Uổng thật! Nếu sống nhiều hơn trong sự mong chờ Chúa, người ta sẽ sống mãnh liệt hơn. Mỗi ngày sẽ có giá trị hơn đối với chúng ta.
Trong mỗi Thánh lễ, sau khi bánh và rượu được thánh hiến để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chúng con mong chờ Chúa trở lại. Ước gì đây không chỉ là những lời nói, nhưng là một thái độ sâu xa quyết định cách sống của chúng ta và mang ý nghĩa cho tất cả cuộc đời chúng ta.
19. Chúng ta sẽ nghe và nhìn trên thiên đàng.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy. Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe một nốt nào. Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ. Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình. Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình và Edison ở trong phát minh của mình. Beethoven biết tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên trời”. Ông ta nói rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận. Shakespeare biết rằng tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa. Edison liều lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo ngoại quốc. Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết sống lại.
Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa. Chúng ta đã hầu như không hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết được.
Trong lúc chúng ta không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi sự chiếm đóng của người Syrie. Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời sống con người. Nó tấn công chính tình bạn con người khi họ rất dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong tuổi già. Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin Công Giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham lam. Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành. Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.
20. Hy vọng có giúp chúng ta thấy Đức Kitô không?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thời kỳ thánh Marco chép Phúc Âm, loại văn chương mệnh danh là văn chương mạc khải được những giới Do Thái nào đó ưa chuộng, coi là hợp thời trang. Có những tập sách được lưu huỳnh, thường gồm những đoạn mô tả những tai họa thảm khốc, nhắm mục đích mạc thị về Đấng Cứu Thế sẽ quang lâm, để lãnh đạo Israel dân Người. Hai thắc mắc: Ngay chính Đức Kitô có dùng thứ ngôn ngữ mạc khải đó không trong những bài giảng về ngày tận thế? Trong chừng mực nào thánh Marco đã sử dụng loại văn thể đó? Điều ấy không quan hệ lắm ở đây. Ta ghi nhận rằng không nên hiểu những đoạn trong bài giảng của Chúa theo nghĩa đen và cụ thể. Người ta có quyền nghĩ rằng Chúa Giêsu loan báo trực tiếp thảm họa năm 70 sẽ tàn phá Giêrusalem. Nhưng quan trọng hơn nữa là cần khai triển ý nghĩa thiêng liêng bài đọc hôm nay.
Chúng ta đứng trước một vấn đề. Thật vậy, nếu bài đọc cho ta thấy ẩn hiện bóng dáng một thảm họa sẽ xảy đến lúc chung cục trong vũ trụ hữu hình, thì ta cũng có thể nhờ Lời Chúa trong Phúc Âm theo thánh Lc soi sáng để hiểu thêm về đoạn Phúc Âm hôm nay: Con Người quang lâm có sẽ tìm thấy đức tin trên trái đất không?
Chúng ta đối diện với một bí nhiệm đáng cho ta khiếp sợ. Mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, các tinh tú từ trời sa xuống, tất cả ám chỉ những gì diễn ra ngày cánh chung trong lĩnh vực đức tin? Chúng ta ao ước phỏng đoán tương lai Giáo Hội như là một sự tiến dần của nhân loại đến ánh sáng. Như vậy, vào ngày tận cùng, tương lai đó sẽ kết liễu trong một thảm họa mịt mùng ư? Trong viễn tượng đó, làm thế nào để bảo toàn niềm hy vọng? Để dễ dàng trả lời, chúng ta đặt câu hỏi rõ hơn. Hy vọng của chúng ta phải hướng về mục tiêu nào? Hy vọng thúc giục chúng ta phải có thái độ thực tiễn nào?
1) Hy vọng của chúng ta phải hướng về sự hiển trị của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trong ngày sau hết. Người ta sẽ thấy Con Người đến với quyền năng cao cả và vinh quang. Những kẻ nào làm cho ánh sáng đức tin ra tối tăm sẽ bị khai trừ, không được hiệp thông vinh hiển với Đức Kitô. Trái lại, những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu, những kẻ ‘được tuyển chọn’ sẽ được thu họp từ bốn phương, từ tận cùng mặt đất đến tận cùng chân trời, để được hiển trị với Chúa. Do đó, bất kể những thăng trầm trong lịch sử loài người, và cả trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta trên sự kiện Đức Giêsu Kitô, Chúa tể vũ trụ. Người tác động để nhân loại nhìn nhận Người là tâm điểm vũ trụ. Ngày tận cùng, sự kiện cơ bản ấy sẽ hiển hiện trong khải hoàn, và sẽ là niềm hân hoan của những kẻ được chọn.
2) Về thực thực tế, chúng ta nắm chắc được phần nào của sự hy vọng? Chúng ta có trách nhiệm xây dựng tương lai nào? Chúng ta xây dựng tương lai chúng ta và tham dự tương lai Giáo Hội trên sự thật hiện hữu nào? Thưa, trên điều sau. Trong con người chúng ta, một thế giới phải cáo chung để Chúa hiện đến. Thế giới phải chấm dứt đó là tập thể gồm nhiều lầm lạc, những ảo tưởng, những ích kỷ, những tội lỗi của chúng ta. Điều chúng ta cần quan tâm không phải là những việc lành phúc đức, những nhân đức, những chiến thắng trong việc tông đồ của chúng ta, nhưng chính là niềm hy vọng và ước nguyện Chúa sẽ hiển hiện trong chúng ta, xuyên qua chúng ta, nhờ vào sức cường nhiệt của đức tin và đức ái chúng ta lúc này.
21. Với uy quyền và vinh quang – Gm. Arthur Tonne.
Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niên trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em xuống đường. Làm em trượt té trên sân trường, và còn lấy cắp tiền ăn trưa của em nữa. Chúng dọa đánh em, đâm em bằng con dao sáng loáng. Jim không bao giờ nói cho ai hay. Một hôm, đám du côn làm quá, em phải thốt lên: “Tao sẽ méc anh tao cho tụi bay”. Chúng chế nhạo: “Đem nó lại đây, càng lớn té càng đau”. Ít ngày sau, đám du côn thấy Jim đi trên phố, bên cạnh một người lực lưỡng, cao một mét tám trong bộ đồng phục nhà binh với những giây chiến thắng. Đó là anh của Jim tên Bob. Bất thần Bob ra lệnh: “Nhãi con, trả tiền cho em tao”. Chúng móc hết túi ra và còn phải hứa trả tiền ăn cắp còn lại.
Chợt nhớ câu chuyện khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói về Người trong bài Phán Xét Chung: “Họ sẽ thấy Con Người đến trong mây trời với uy quyền và vinh quang”.
Thường thường ý tưởng về ngày phán xét chung gợi cho chúng ta lòng kính sợ Chúa. Như hôm nay, tôi nghĩ rằng: “Ngày phán xét chung cho những người phụng sự Chúa: một hy vọng lớn lao, một niềm cậy trông vui mừng, một cái gì giông giống niềm hy vọng của Jim: Anh của Jim sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Với chúng ta, những người theo Chúa Kitô: ý tưởng về ngày phán xét tận cùng phải là một ngày hạnh phúc, vui mừng.
Đó là đề tài của lời cầu nguyện sau kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ: “Trong lòng nhân từ của Cha, xin giữ chúng con khỏi tội lỗi và che chở chúng con khỏi mọi nỗi lắng lo. Trong khi chúng con trông đợi, trong hy vọng hân hoan sự trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con”.
Rồi linh mục và giáo dân hô to: “Vì Nước Trời, uy quyền và vinh quang là của Cha. Bây giờ và mãi mãi”.
Lời kinh nguyện thứ ba dùng thành ngữ: “Sẵn sàng đón mừng Người khi Người trở lại”.
Cũng trong lời kinh nguyện ấy, trong việc tưởng nhớ Người chết, chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô sẽ làm cho thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Người trong vinh quang… Chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa. Khi mọi nước mắt của chúng con được lau sạch”.
Chúng ta trông đợi trong niềm cậy tin và hy vọng hân hoan sự trở về của người anh cả: Đức Giêsu đầy quyền uy và vinh quang với tình yêu vô hạn đối với các em nhỏ của Người là bạn và tôi. Người chỉ đáng sợ đối với những kẻ khinh thường Người; Những kẻ coi nhẹ Người và các kẻ theo Người. Nhưng Người đầy uy quyền và vinh quang đối với những kẻ ca tụng Người, tôn vinh Người và theo Người như chúng ta hôm nay và ngày mai.
Xin Chúa chúc lành bạn.
22. Con Người sẽ đến trên đám mây – Noel Quesson.
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình, nhưng người biết khó sống và thường nói: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Vào ngày cuối cùng, vị thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài biến chuyển ra sao. Đức Gioan trả lời: - Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: - Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: - Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: - Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
- Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời. Kết thúc cuộc sống trần gian, cũng như ngày tận thế mà Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay, chính là lúc Chúa đến trong vinh quang. Dĩ nhiên diện kiến Chúa bao giờ cũng là một phần thưởng và muốn được thuởng thì phải qua thử thách, và cũng chắc chắn nếu ta cầu xin và cố gắng. Chúa sẽ ban ơn để ta thắng vượt cơn thử thách này.
Những thử thách trước tận thế thuộc ba loại: Trước hết là các ngôn sứ giả hiệu và cả Mêsia giả nữa, họ tìm cách lừa dối, lung lạc niềm tin các tín hữu. Rồi đến các tai nạn tự nhiên: đói khát, chiến tranh, thiên tai động đất… Sau cùng các Kitô hữu sẽ bị bách hại.
Những thử thách này cốt thanh luyện niềm tin các tín đồ, người nào trung kiên sẽ được vui mừng đón Chúa trong vinh quang. Đây là lần đầu tiên Chúa nói tới uy quyền của Người: Chúa sẽ ngự trên mây cao xét xử trần gian. Kiểu nói này vốn dành cho Thiên Chúa, và như vậy Chúa Giêsu đã xưng mình là Thiên Chúa.
Trong bài giảng này Chúa nói về hai biến cố một lúc: biến cố phá hủy thành đô Giêrusalem và việc tận thế. Người Do Thái coi việc phá hủy Giêrusalem là hình ảnh ngày thế mạt. Khi thánh Marcô viết Tin Mừng thì việc đó đã xảy ra rồi. Nhưng trong tư tưởng người Do Thái lúc đó, thì ngày thế mạt cũng sắp tới, và trong kinh nguyện các tín hữu, ta thường nghe nhắc lại lời cầu: Xin Chúa đến! Mọi người nóng lòng chờ ngày Chúa quang lâm như lịch sử đã ghi nhận Chúa xuống trần. Chúa đến lại lần thứ hai như người cha đi vắng trở về nhà, như ông chủ đã gieo vãi hạt giống Tin Mừng, bây giờ tới thu hoạch hoa lợi.
Chúng ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Lạy Cha, xin giúp chúng con sẵn sàng chờ đón Chúa, với tâm hồn trong sạch và cuộc sống bác ái, như người tôi trung, như người con thảo, mong được Cha đón nhận vào vinh quang Chúa muôn đời.
23. Ngày cùng tận – Lm. Hồng Phúc.
"Con Người đã gần đến..."
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động, Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa "không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào".
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: "Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa".
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng "đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến" (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: "Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn". Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì "sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô" (Tt 2,13).
"Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống" (Kh 2,10).
24. Phán xét chung.
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả. Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày linh hồn chúng ta sẽ lộ hết chân tướng.
Đúng thế, vào ngày lễ Giáng sinh năm 1541, người ta mở tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của Michel Ange. Bức tranh về ngày phán xét chung. Nếu được nhìn ngắm, hẳn chúng ta sẽ rùng mình khiếp hãi. Khuôn mặt của Chúa Giêsu không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng là khuôn mặt của một vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300 hình ảnh: nào là các thánh Tông đồ, nào là các thánh Tử đạo,nào các thánh Tiến sĩ, nào là các Đức Giáo hoàng, nào là những người giáo dân…Theo tiếng kèn thiên sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của mình. Bạn bè tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của họ hiện rõ một sự lo âu sợ hại vì số phận đời đời sắp được ấn định. Nhưng đó mới chỉ là một bức tranh do óc tưởng tượng của nhà nghệ sĩ.
Nếu những điều Chúa tiên báo về số phận bi thảm của Giêrusalem đã được thực hiện vào năm 70, khi tướng Titus đem quân vây hãm và tàn phá, đến mỗi không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, thì những lời Chúa nói trước về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ xảy ra. Thế nhưng, có những người đã tự lừa dối mình khi nói: Thiên Chúa nhân lành, Ngài không nỡ trừng phạt chúng ta trong lửa đời đời. Họ đã lầm. Đúng thế, lòng nhân lành của Thiên Chúa không phải là một cái gì nhu nhược và yếu đuối và bản thân Ngài cũng không phải là kẻ thiếu khả năng, không thực hiện được những ý định của mình. Mặc dù là một người cha giàu lòng thương xót, nhưng Ngài vẫn là một vị thẩm phán công bằng, trừng trị những kẻ phản bội Ngài bằng án phạt hỏa ngục muôn kiếp.
Trong khi tạc một một bức tượng, nhà nghệ sĩ thường dùng màn để che phủ, nhưng lúc đã tạc xong, ông ta sẽ vén bức màn đó lên để mọi người chiêm ngắm. Trong ngày phán xét chung cũng vậy, búc màn che dấu cuộc đời chúng ta cũng sẽ được vén lên và lúc đó câu hỏi duy nhất được đặt ra cho mỗi người, đó là hàinh ảnh Thiên Chúa có rõ ràng và sáng chói trong tâm hồn chúng ta hay không? Trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã dùng áo quần và son phấn cũng như địa vị xã hội để che dấu con người thực sự và ngay cả những người bạn thân thiết nhất cũng không thể nào nhìn thấy khuôn mặt thật của chúng ta. Nhưng khi giờ phán xét đến, tất cả bức màn ấy sẽ bị rơi xuống, để chúng ta hiện nguyên hình trước tôn nhan Thiên Chúa. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta, dù thầm kín nhất cũng sẽ bị phơi bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào chạy tội hay chối cãi được nữa. Đó là một giây phút quyết liệt, giây phút đứng trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã sống được bao nhiêu năm, nhưng sẽ hỏi chúng ta đã sống như thế nào?
Lúc bấy giờ sứ thần Chúa sẽ mở cuốn sổ cuộc đời chúng ta. Bao nhiêu ngày là bấy nhiêu trang. Đây là những ngày chúng ta còn thơ ấu với những trang được viết bằng nét chữ vàng ghi nhận những giờ kinh sốt sắng, những lần rước lễ thật trang nghiêm và những tâm tình sám hối ăn năm. Sứ thần Chúa tiếp tục mở những trang kế tiếp. Không một tư tưởng, không một lời nói cũng như không một việc làm nào bị quên sót. Tất cả những việc tốt cũng như những việc xấu.
Nhưng rồi nét mặt của vị sứ thần Chúa bắt đầu buồn bã và chúng ta lo sợ. Trên những trang giấy ấy, đã xuất hiện những vết đen đầu tiên, đó là những lầm lỗi của chúng ta. Tiếp đến là một trong đen kín, đó là tội trọng đầu tiên chúng ta đã vấp phạm. Rồi lại đến những trang đen kín khác và ngay cả trang cuối cùng cũng đen kín. Sứ thần Chúa bỏ đi, nước mắt chan hòa và ma quỷ tiến đến. Nó thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, là vị thẩm phán công minh. Chính Chúa đã xuống thế làm người vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu lạnh rét nơi hang đá Bêlem cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã sống nghèo hèn suốt 30 năm cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá cũng vì kẻ tội lỗi này. Thế nhưng, kẻ tội lỗi này vẫn ngoan cố, không chịu phụng sự làm tôi Chúa, nhưng đã chạy theo tội lỗi. Vậy xin Chúa phán quyết xem: hắn thuộc về Chúa hay là thuộc về tôi?
Bởi đó, hãy thuộc về Chúa trong giây phút hiện tại, để rồi chúng ta sẽ thuộc về Chúa mãi mãi trong cuộc sống vĩnh cửu, và chúng ta sẽ không còn lo sợ khi Chúa đển để xét xử chúng ta.
25. An tâm.
Khi còn ở Tập Viện, một hôm thánh Louis Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn hỏi ngài rằng: “Giả sử bây giờ chỉ còn ít phút nữa bạn sẽ chết, bạn sẽ làm gì?” Thánh Louis dừng lại một chút rồi mỉm cười trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục chơi”.
Nhiều người ngày nay lo sợ về ngày tận thế. Bởi vì có nhiều dấu hiệu giống như những điều đã được tiên báo trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn như loạn lạc chiến tranh, tình trạng hỗn độn, nạn đói kém, các dịch bệnh, động đất và việc xuất hiện các ngôn sứ giả (Mt 24:4…) Đó là những dấu chỉ của những ngày sau cùng và chúng liên hệ đến các biến cố trong thời đại của chúng ta. Đây không phải là một giả định. Với tư cách là những Kitô hữu, theo quan điểm của Giáo hội, niềm tin của chúng ta là chúng ta đã và đang sống những ngày sau cùng từ hai ngàn năm nay rồi. Bắt đầu từ ngày Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh, cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang, thời gian này được gọi là những ngày sau cùng.
Đối với những người Kitô hữu chúng ta, sự kiện tận thế không phải là sự hủy diệt trái đất mà chúng ta đang sống, như một số nhà khoa học tin như thế, nhưng là việc Chúa Giêsu Kitô đến lần thứ hai. Đó là lúc kẻ chết sống lại và mọi người đều phải trình diện trước Chúa Kitô để chịu phán xét. Chúng ta gọi biến cố này là ngày của Chúa, bởi vì ngày đó chấm dứt sự hoành hành của Thần Dữ. Nó đã bị đánh bại.
Vì thế, bạn đừng lo lắng chuyện tận thế, nhưng vấn đề là ở chỗ bạn có giữ vững đức tin của mình không? Bạn có sống đúng là một Kitô hữu hay không? Thay vì phí mất thời giờ quí báu để lo lắng về chuyện tận thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô khuyên chúng ta hãy sống đúng tư cách là người Kitô hữu trong hiện tại. Vấn đề là ở chỗ này.
Theo Kinh Thánh, ngày phán xét chúng ta chỉ bị hỏi một câu thôi: “Con đã làm gì cho những anh chị em nhỏ mọn nhất của Ta?”
Lạy Chúa, xin cho con sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết của đời con.
26. Hãy chuẩn bị.
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Chỉ tích tắc có một vài phút trước khi chiếc máy bay tông vô thành núi thì các hành khách được báo là chiếc máy bay sẽ tận số. Ngay sau đó thì cái tai ương đã xảy ra.
Khi các nhân viên cấp cứu đến chỗ chiếc máy bay bị rớt thì họ tìm thấy một cuốn lịch nhỏ bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong cuốn lịch nhỏ đó, người thương gia đã ghi lại một vài mấy hàng chữ vội vàng trong giây phút cuối cùng trước khi chết. Thí dụ như, "Chúng tôi không thể thoát được rồi... tôi buồn quá!"
Hàng chữ khác thì cho gia đình của ông ta, "Tôi nghĩ rằng bữa tối hôm qua là bữa ăn cuối cùng với nhau."
Hàng chữ khác ghi cho ba người con của ông, "Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ mẹ các con."
Những hàng chữ viết vội vàng là những hàng chữ của một người sắp chết. Không có một điệu nhạc nào kéo dài cả giờ hay cả ngày để báo trước cho ông biết cái tai ương này. Nó đến bất chợt giống như tên trộm cắp trong đêm.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả cho chúng ta cách Chúa Giêsu chuẩn bị cho con người về những tin tức xấu. Ngài nói với họ rằng một tai ương sẽ xảy ra vào thời đại của họ. Hơn nữa, nó sẽ được báo trước bằng những dấu chỉ.
Theo như lịch sử thì cái tai ương mà Chúa Giêsu nói đến đây là sự sụp đổ của Đền Thờ Thành Giêrusalem. Cái tai ương này đã xảy ra sau 40 năm từ lúc Chúa Giêsu chịu chết.
Điều này cũng nhắc nhở cho chúng ta đến cái ngày mà toàn thể thế giới phải đến: đó là ngày tận thế. Cái ngày này là cái ngày mà Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta hôm nay.
Không một ai trên thế gian này có thể biết được ngày nào hoặc giờ nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ có Chúa Cha.
Tuy nhiên, sẽ có những điềm báo trước ngày tận thế. Một số người cho rằng những điềm báo trước đã xảy ra cho nên ngày tận thế sắp đến.
Một trong những điềm đó là sự phát triển nhanh chóng của các loại vũ khí, đặc biệt nhất là một số quốc gia đang gặp chiến tranh. Thí dụ như trên thế giới ngày nay có đến cả hàng chục quốc gia, với những mưu toan chiến tranh, chất chứa những chất nổ nguyên tử có thể làm cho thế giới trở nên tối tăm. Chỉ cần một lầm lỗi hoặc một người nào đó tức giận thì cả hàng triệu người, thậm chí cả thế giới, có thể sẽ biến mất. Không một người khôn ngoan nào có thể gây ra những điều điên khùng như vậy.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra trước mắt chúng ta hai chủ đề. Thứ nhất, cuộc sống của chúng ta có thể kết thúc bất chợt, và thứ hai, sự chuẩn bị cho kết cuộc đó.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội lại đặt để những chủ đề này vào cuối năm Phụng Vụ.
Hai chủ đề trên nhắc nhở chúng ta, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ Ngài trước khi Ngài rời bỏ thế gian, rằng cuộc sống ngắn ngủi ở thế gian này chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu sau này.
Vì thế, chúng ta không nên dính líu quá sâu vào vào cuộc sống thế gian này mà đánh mất đi cái nhìn về cuộc sống mai sau.
Không một ai biết được lúc nào thì cuộc sống của mình sẽ chấm dứt hoặc lúc nào là tận thế, nhưng chỉ có một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn tỉnh thức chuẩn bị để đón chờ giây phút tận cùng đó. Nó sẽ đến khi chúng ta không ngờ. Nó sẽ đến cách bất chợt mà chúng ta chỉ có một ít thời gian hoặc là không có thời gian để chuẩn bị.
Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Không một ai trong chúng ta có thể biết được khi nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng.
27. Chúa sẽ đến.
Trong những ngày cuối đời Chúa Giêsu đã nói tiên tri về hai biến cố, đó là sự tàn phá Giêrusalem và ngày Con Người trở lại trong vinh quang.
Trước hết là về sự tàn phá Giêrusalem.
Thành phố này đã giết Đấng Cứu Thế để chạy theo những thần tượng giả trá cũng như có những lời nói lộng ngôn phạm thượng. Thảm cảnh bắt đầu từ việc họ chống lại binh đội La mã, để rồi tướng Titus đã đem quân vây hãm thành vào năm 70. Cùng với cuộc vây hãm này là một nạn đói thê thảm xảy ra trong thành vì mọi con đường tiếp tế đều bị cắt đứt khiến cho những người mẹ có khi phải ăn thịt chính đứa con của mình.
Khi đoàn quân của Titus đã làm chủ tình hình và thành phố hoàn toàn thất thủ thì có đến gần một triệu người bị giết, hơn một trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ, đến nỗi một sử gia đã ghi lại: Không có đủ thập giá để hành quyết và không có đủ chỗ để dựng thập giá lên.
Tiếp đến là ngày tận cùng của vũ tru, ngày Con người ngự đến trong vinh quang.
Chúa Giêsu đưa ra hai loại dấu chỉ. Loại thứ nhất là những dấu chỉ trong phạm vi luân lý: Sẽ có những tiên tri giả, họ là những dụng cụ của ma quỉ nhưng lên tiếng nói về Thiên Chúa. Sẽ có những Kitô giả, nhờ quyền phép ma quỉ để làm những việc lạ lùng hầu lung lạc đức tin của những môn đệ Chúa. Họ là loài lang sói mặc lốt chiên để rồi cắn xé đoàn chiên.
Loại thứ hai là những dấu chỉ trong phạm vi vật chất: Mặt trời sẽ trở nên tăm tối, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng. Các vì sao sẽ rơi xuống và sức mạnh của trời đất sẽ rung chuyển.
Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ ngự đến trên đám mây với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài. Những người chết sẽ sống lại để chịu phán xét. Cuộc phán xét này bổ túc cho cuộc phán xét riêng tư khi cùng với cái chết chúng ta giã từ cuộc sống. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ đứng bên trái. Tất cả đều lắng nghe phán quyết của Đấng Tối Cao. Hạnh phúc muôn đời hay khổ đau mãi mãi. Tại sao lại có cuộc phán xét chung xảy ra như thế?
Lý do thứ nhất là để Chúa Giêsu tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Ngài.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã khiêm nhường chịu đựng mọi khổ đau, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhiều người tưởng rằng Ngài đã thất bại. Rồi từ đó đến nay, Ngài không ngừng bị xua đuổi, bị bách hại và cấm cách, thì giờ đây Ngài xuất hiện trước mặt mọi người như là vua muôn vua với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài.
Lý do thứ hai là để vạch mặt những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, sống trên trần gian họ đã khéo léo che dấu những tội lỗi của mình và không chừng còn được người đời tung hô. Giờ đây những chiếc mặt nạ ấy sẽ bị rơi xuống, để con người thực của họ được phô bày. Họ sẽ xấu hổ và tuyệt vọng mà kêu lên:
- Tôi đã lạc đường và ánh sáng công lý không còn chiếu tỏa cho tôi. Tiền bạc và địa vị trần gian ích gì cho tôi trong giây phút đớn đau này.
Và sau cùng là để ân thưởng vinh quang cho những người lành thánh.
Rất có thể trong cuộc sống họ đã bị khinh bỉ, bị chèn ép, bị bóc lột. Tội ác đã chiến thắng, những chiến thắng của nó chỉ thoáng qua trong chốc lát. Giờ đây họ được vinh hiển trước mặt những kẻ mà xưa kia đã từng khinh bỉ, chn ép và bóc lột họ. Họ sẽ chiến thắng cho đến muôn ngàn đời vì Chúa Giêsu đã phán với họ:
- Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời…
Đừng để đến ngày mai vì e rằng ngày mai thì đã quá muộn nhưng ngay từ hôm nay, hãy chọn cho mình con đường dẫn tới Chúa và hãy can đảm bước theo Ngài.
28. Chúa sẽ đến.
Theo lịch phụng vụ, Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật 33 Thường niên. Chúa nhật tới là Chúa nhật 34 Thường niên, là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, được dành đặc biệt để mừng kính Chúa Kitô Vua. Vì thế, phụng vụ lời Chúa hôm nay, được coi như là Chúa nhật cuối cùng, nên Giáo Hội muốn hướng tâm trí chúng ta về ngày cuối cùng, ngày tận thế, ngày cánh chung, ngày chấm dứt lịch sử nhân loại.
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng: bất cứ cái gì ở trần gian, nếu đã có lúc khởi đầu thì chắc chắn sẽ có lúc chấm dứt, và như vậy tức là có lịch sử. Đối với chúng ta là những người sống trong trần gian và là những người tin theo Chúa Kitô, chúng ta có hai lịch sử: lịch sử trần thế và lịch sử cứu rỗi. Hai lịch sử này song hành với nhau. Hay nói đúng hơn, lịch sử có hai mặt chìm và nổi khác nhau. Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các hoạt động kinh tế, các tiến bộ khoa học kỹ thuật… Đây là mặt nổi ai cũng có thể thấy được hay quan sát được. Còn lịch sử cứu rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần, xây dựng nước Thiên Chúa trong lòng người. Lịch sử này đang khai triển âm thầm dưới chiều sâu, trong các tâm hồn, theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ những ai có đức tin mới nhận ra.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra rằng: có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có ý nghĩa. Lịch sử loài người có giới hạn. Chúng ta không thể biết bao giờ lịch sử sẽ chấm dứt, nhưng chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đúng vậy, theo Kinh Thánh, cục diện trái đất này sẽ qua đi, nghĩa là thế giới vật chất này sẽ tan biến đi để nhường chỗ cho một thế giới mới. Và khi lịch sử chấm dứt là lúc Chúa Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ, để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.
Chúng ta nói “Chúa Giêsu trở lại”. Đó chỉ là một kiểu nói mà thôi. Thực ra Ngài không trở lại, vì Ngài luôn hiện diện trong trần thế và trong lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay Ngài hiện diện một cách vô hình, che giấu, chúng ta không thể thấy Ngài bằng giác quan. Ngài chưa bộc lộ quyền năng và vinh quang của Ngài. Vương quyền của Ngài còn âm thầm kín đáo. Vì thế, Chúa Giêsu trở lại có nghĩa là Chúa Giêsu biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Tình trạng ẩn danh của Ngài trong lịch sử chấm dứt.
Ngày Chúa Giêsu trở lại hay quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều cách: ngày cuối cùng, ngày của Chúa, ngày Chúa đến, ngày của Đức Kitô, ngày viếng thăm, ngày xét xử…Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến ngày tái lâm này. Ngày đó được mô tả như ngày đổ vỡ của thế giới vật chất. Tuy nhiên, không ai biết bao giờ sẽ đến ngày đó, kể cả Chúa Giêsu về mặt nhân tính, tức là với tư cách là người, Chúa Giêsu cũng không biết được. Ngày đó sẽ xảy đến bất ngờ. Theo nhiều dụ ngôn, Thiên Chúa sẽ đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. Dầu vậy, chúng ta có thể nói rằng: ngày cánh chung đối với cả nhân loại có lẽ còn lâu mới tới. Trong khi chờ đợi, mỗi người phải nỗ lực xây dựng nước Thiên Chúa dưới trần. Mặt khác, đối với riêng mình, mỗi người phải coi như ngày của Chúa đang tới gần.
Như vậy, để trả lời câu hỏi của các môn đệ cũng là câu hỏi của mọi thế hệ, Chúa Giêsu đã chẳng làm thỏa mãn sự tò mò của con người sống trong lịch sử, nhưng Ngài chỉ muốn dạy một thái độ sống trong lịch sử. Nghĩa là thay vì tò mò băn khoăn vô ích về ngày lịch sử kết thúc, hãy sống cho tròn đầy tất cả những gì lịch sử cho mình. Nói khác đi, đứng trước những vấn đề tương lai, con người tò mò muốn biết trước, Chúa Giêsu đã khước từ không cho biết trước, nhưng bảo cho biết thái độ phải có, đó là đừng bận tâm khi nào tận thế, nhưng hãy lo sống cho đàng hoàng trong hiện tại và hãy kiên trì. Cũng đừng tin những lời đồn đại xuyên tạc trước những biến cố khủng khiếp của lịch sử. Điều quan trọng duy nhất là trung thành làm chứng cho Chúa, và làm thế nào để mỗi ngày sống, mỗi hành động của chúng ta đều chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa quang lâm.
Tóm lại, tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc bảo cho chúng ta biết: lịch sử luôn đưa chúng ta về phía trước. Nhưng nó không phải là một khoảng không, nó là con đường chúng ta phải đi để tiến về phía trước. Vì thế, chúng ta luôn hướng về tương lai, chờ đợi lời hứa cứu rỗi đã được thực hiện trong lịch sử sẽ được hoàn tất. Chờ đợi, hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng là yếu tố giúp cho chúng ta sống và phấn đấu trong tin tưởng. Hy vọng luôn gắn liền với niềm tin. Hy vọng là phần thưởng của lòng tin. Lòng tin là nền tảng cho hy vọng. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi. Ai thấy trước tương lai tốt đẹp đang chờ đợi mình, thì càng nóng lòng góp phần làm cho thế giới này chóng tốt đẹp hơn. Con đường ấy chúng ta phải bước đi bằng cách sống cho thật tích cực, sống cho thật tròn đầy mọi trách nhiệm của mình đối với Thiên Chúa, đối với anh em, đối với loài người, đối với thế giới vật chất đãđược Thiên Chúa trao vào tay chúng ta.
29. Qua đi.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là những lời của Đức Giêsu mà chúng ta nghe trong Tin Mừng hôm nay.
Trong một cuộc đời, chúng ta nghe rất nhiều lời, và cũng nói nhiều lời. Dù chúng ta có thể quên phần lớn những lời chúng ta nghe, có những lời chúng ta cần giữ lại mãi. Thật vậy, một số lời tan biến trong ký ức của chúng ta, mà cho đến ngày chúng ta chết, chúng ta chưa chắc đã nhớ lại. Có những lời làm chúng ta bị tổn thương vẫn luôn ám ảnh chúng ta. Những lời khác là những lời an ủi vẫn tạo cảm hứng cho chúng ta.
Lời nói có thể rất xúc phạm, và làm đau buồn sâu sắc, vết thương đó còn nhức nhối lâu dài. Tuy nhiên, đôi khi không phải chính lời nói, mà là cách chúng được nói ra gây thương tổn.
Một phụ nữ nhớ lại: “Khi chúng tôi còn trẻ, có những lúc mẹ chúng tôi nói những lời rất xúc phạm đến chúng tôi, những lời mỉa mai, phê bình, lên án. Và bà cũng không bao giờ xin lỗi vì những lời đó. Nhiều năm sau, khi chúng tôi nêu vấn đề ấy ra, bà xin lỗi và nói: “Nhưng mẹ không bao giờ muốn nói những lời ấy”. Và chúng tôi kinh ngạc: “Thôi được, nếu mẹ không muốn nói những lời ấy, vậy tại sao mẹ đã nói ra?”
Những lời nói có thể luôn tạo cảm hứng cho chúng ta. Một nữ tu đã tham dự một lớp học thần học nhớ lại:
“Trong suốt khóa học về các bài giảng thần học, tôi đã nghe được nhiều điều. Với thời gian tôi đã quên phần lớn những lời ấy. Dĩ nhiên, tôi đã quên nhiều điều. Nhưng có một lời mà một giáo sư đã nói tôi sẽ không bao giờ quên. Ông nói: “Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp. Tôi biết rằng điều này có vẻ là một điều đơn giản, tuy nhiên nó đi thẳng vào tâm hồn tôi và từ đó ở lại mãi mãi”. Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp.
Lời nói rất quan trọng và rất mạnh mẽ. Một khi được nói ra, nó có một đời sống của riêng nó, tốt hoặc xấu. Chúng có thể đem lại một lời chúc lành hoặc một lời nguyền rủa, một sự chữa lành hay làm tổn thương, sự sống hay sự chết. Lời nói có thể tiếp tục làm hại chúng ta hoặc giúp đỡ chúng ta trong nhiều năm sau khi đã được nói ra. Vì thế chúng ta phải cẩn thận trong cách sử dụng lời nói.
Khi chúng ta tức giận, tốt hơn nên giữ im lặng. Lời được nói ra là sự giận dữ có thể gây ra thương tổn sâu xa và làm cho sự hòa giải rất khó khăn. Khi chọn sự sống thay vì cái chết, sự chúc lành thay vì nguyền rủa – thường người ta phải bắt đầu bằng việc giữ im lặng, hoặc bằng việc lựa lời để mở ra con đường chữa lành. Như có người đã nói: “Đôi khi yêu thương người khác có nghĩa là giữ im lặng và để họ là họ”.
Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Những lời của Đức Giêsu được duy trì đến ngày nay, an ủi, hướng dẫn và thách đố chúng ta. Lời Chúa làm đảo lộn những giá trị của chúng ta. Một khi đã nghe, thì người ta sẽ không bao giờ quên được.
Nhưng vì thế, nếu chúng ta hành động theo Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ sinh lợi ích cho chúng ta. Lời Chúa là những hạt giống quí giá. Nếu cất giữ ở trong kho, lời ấy vẫn cứ thế như bao nhiêu hạt giống khác. Nhưng được đưa ra ngoài để gieo trồng, chúng sẽ trổ sinh mùa gặt bội thu.
Không có gì chắc chắn hay trường tồn trong thế gian này khi so sánh với đức tin. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những vẻ bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không thay đổi và qua đi. Chúng ta phải xây dựng ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
30. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
KIÊN NHẪN ÐỢI CHỜ NGÀY SAU HẾT MÀ KHÔNG AI BIẾT
Vào cuối năm Phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc Thánh kinh đề cập đến những tai hoạ xẩy ra trong vũ trụ, khiến người nghe liên tưởng đến ngày tận thế. Hôm nay là Chúa nhật áp cuối cùng của năm phụng vụ. Chúa nhật tới là lễ Chúa Kitô Vua. Chúa nhật sau nữa là Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, đánh dấu ngày đầu năm của Giáo hội trong niên lịch phụng vụ mới. Tuy nhiên chủ đề của ba Chúa nhật này đều có những điểm tương đồng: Chúa Kitô là trung tâm điểm của lịch sử loài người. Chúa đến để khởi sự kỷ nguyên Kitô giáo và người sẽ trở lại để kết thúc lịch sử loài người, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Khi dùng ngày sinh nhật của Chúa cứu thế đẻ tính niên hiệu, người ta nói năm nọ trước Chúa giáng sinh hay năm kia sau Chúa giáng sinh.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay dùng ngôn ngữ khải huyền, một loại ngôn ngữ biểu tượng đặc biệt. Ðó là loại ngôn ngữ mà ngôn sứ Ðanien dùng để nói về thời gian thử thách sẽ qua, và Thiên Chúa sẽ đến cho người công chính được chiếu sáng muôn đời như những vì sao (Ðn 12:3). Phúc âm thánh Mác-cô hôm nay cũng dùng ngôn ngữ và tư tưởng khải huyền trong sách Ðanien. Bài Phúc âm cũng bàn bàn về ngày sau hết: Trong những ngày ấy sau cơn gian nan lớn lao, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các vì sao không còn chiếu sáng, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển (Mc 13:24-25). Rồi bài Phúc âm kết luận: Còn về ngày đó và giờ đó, thì không ai biết được (c. 32).
Khi bàn về ngày sau hết, tác gỉả Thánh kinh thường nại đến loại ngôn ngữ khải huyền, nghĩa là ngôn ngữ hay mẫu tư tưởng biểu tượng khó hiểu về ngày sau hết, gợi lại những tai hoạ với những hình ảnh tàn phá xẩy ra trong vũ trụ như chiến tranh, động đất, bão tố, lụt lội và chết chóc. Những hình ảnh tàn phá mà tác giả Thánh kinh dùng để nói về ngày sau hết đã có thể xẩy ra trong quá khứ ở đâu đó trên thế giới rồi, chứ không hẳn được tiên đoán sẽ xẩy ra trong tương lai. Văn chương khải huyền được giả sử viết vào thời quá khứ trước khi tai hoạ xẩy ra, nhưng thực sự được viết sau khi tai hoạ đã xảy ra để cảnh giác người đọc. Như vậy những hình ảnh tàn phá trong ngôn ngữ khải huyền, không hẳn nói về những biến cố sẽ xẩy ra trong tương lai. Ý nghĩa của ngôn ngữ khải huyền chỉ có dụng ý là cảnh giác người đọc rằng sẽ có ngày sau hết và Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Ðó là điều ngày sau hết sẽ xẩy ra và là điều người tín hữu phải tin. Còn ngày sau hết xẩy ra như thế nào thì không hẳn xẩy ra như được diễn ta trong ngôn ngữ khải huyển. Việc dùng ngôn ngữ khải huyền chỉ nhằm mục đích để cảnh tỉnh những tâm hồn lơ là hay ham mê sự đời mà thôi..
Do đó không phải hễ có chiến tranh, động đất và tai hoạ xẩy ra là ngày sau hết sắp đến. Tuy nhiên nếu hiểu cái chết của cá nhân mỗi người là ngày sau hết của người đó thì khi những thiên tai hoặc tai hoạ xẩy ra có thể giúp cảnh tỉnh, báo hiệu cho cá nhân liệu mà sửa soạn tâm hồn. Như vậy ngày sau hết được hiểu theo nghĩa của ngày kết thúc đời sống cá nhân của mỗi người tại thế, hoặc ngày kết thúc lịch sử loài người nói chung. Việc phán xét trong ngày tận thế dựa trên căn bản là người ta có chấp nhận và sống lời Chúa không? Theo khuynh hướng tự nhiên của loài người, người ta thường sống thờ ơ, lãnh đạm, nghĩ rằng người ta có nhiều giờ để sửa soạn tâm hồn. Sự thực thì người ta không biết ngày nào, giờ nào Thiên Chúa sẽ gọi họ ra khỏi thế gian, lại càng không biết ngày kết thúc lịch sử loài người, quen gọi là ngày tận thế.
Ðối với người Kitô giáo, khi nào ngày giờ đó đến và đến như thế nào, thì không phải là điều quan trọng. Người ta không thể làm gì được về thời giờ và cách thế xẩy ra trong ngày tận thế, hay ngày người ta lìa bỏ thế gian. Ðiều quan trọng là người ta phải kiên nhẫn chờ đợi ngày đó. Việc kiên nhẫn chờ đợi này sẽ giúp người tín hữu khỏi nản lòng thoái chí trước những cám dỗ thử thách.
Vậy thì ta phải có thái độ nào đối với ngày sau hết? Có những người nghĩ rằng ngày sau hết sẽ đến nay mai. Họ nghĩ rằng ngày tận thế sắp xẩy đến cho nên lúc nào họ cũng lo âu, sợ hãi, yếm thế. Một số giáo phái Kitô giáo cũng chủ trương như vậy. Có một vài giáo phái kia tiên đoán ngày tận thế đến vào năm nọ năm kia trong đời họ. Và khi năm đó qua đi mà không có gì xẩy ra, họ lại đề nghị thời điểm khác cho ngày tận thế. Việc tiên đoán ngày tận thế mà người ta đồn gần đây là vào năm hai ngàn, ngay trước khi bước sang thiên niên kỉ thứ ba. Trước ngưỡng cửa năm hai ngàn, có những người tích trữ nhiều đèn nến để sửa soạn đốt cho những ngày đen tối. Những người khác lại xin nước thánh, nhiều nước thánh để rảy, sợ rằng qủi dữ sẽ xuất hiện trong ngày sau hết. Lại có những người nghĩ rằng ngày sau hết không bao giờ đến, và đời sống họ sẽ kéo dài mãi mãi. Vì thế họ cứ ăn uống, vui chơi buông thả. Dĩ nhiên cả hai quan điểm này đều vô trách nhiệm và không thực tế.
Như vậy ý tưởng hàm chứa trong Phúc âm là mỗi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Và nếu là người khôn ngoan, ta phải hoà giải tâm hồn với Chúa vì mỗi ngày tháng trôi qua là mỗi lúc ta tới gần cuối đời. Nghề bói toán đã xuất hiện trên địa cầu hàng chục thế kỉ - một nghề khá ăn khách bởi vì khuynh hướng loài người là tò mò, muốn biết về tương lai thế nào, duyên số và sự nghiệp ra sao? Tuy nhiên xét về phương diện gặp gỡ Chúa trong ngày sau hết thì không ai biết được ngày giờ nào thiên thần Chúa sẽ đến gõ cửa nhà linh hồn. Vì thế mà có những người tập thành thói quen như mỗi khi đi máy bay đều xin hoà giải với Chúa qua bí tích giải tội.
Tư tưởng cũng như văn chương của loài người chứa đầy những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc. Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Không nên bỏ phí thời giờ. Ðùng đợi tới ngày mai điều mà bạn có thể làm hôm nay. Thường khi ta nhìn đi thì thấy lâu, nhất là khi ta đang mong đợi một điều gì đó. Khi nhìn lại, ta lại cảm thất thời giờ đi rất mau lẹ, nhất là khi phải gò bó vào công việc làm trong xã hội kỹ nghệ hoá. Ta không thể đi trước thời gian, cũng không thể kéo dài thời giờ vì thời giờ là của Chúa. Do đó kiên nhẫn đợi chờ trong niềm tin tưởng, hi vọng và cậy trông phải là tâm niệm của mỗi người tín hữu.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn kiên nhẫn chờ đợi ngày sau hết:
Lạy Thiên Chúa là Ðấng con thờ!
Chúa là hi vọng, là cùng đích
và là lẽ sống của mọi loài, mọi vật.
Con xin phó tác toàn thân trong tay Chúa:
thân xác, trí khôn, linh hồn cùng các quan năng.
Xin dạy con biết sống mỗi ngày
như là ngày cuối hết của đời con
để con sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa. Amen.
31. Chỉ nam.
Mỗi ngày Chúa nhật, trong ngôi nhà thờ này, chúng ta lắng nghe Lời của Đức Giêsu, những lời mà các Kitô hữu tiên khởi đã ghi chép lại và được Hội thánh giữ gìn cho chúng ta trải qua bao thế kỷ. Vậy, lời hứa của Đức Kitô đã trở thành sự thật: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Tin Mừng bao gồm một loạt các câu chuyện, tất cả được liên kết lại để tạo thành một câu chuyện lớn – câu chuyện của Đức Giêsu. Chúng ta thích nghe những câu chuyện nhưng chúng ta sẽ chán nếu nghe kể đi, kể lại cùng một câu chuyện. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ tắt đài ngay. Sự việc như thế có thể xảy ra với câu chuyện Tin Mừng. Nó có thể trở nên cũ kỹ, nhạt nhẽo và không sự sống.
Chúng ta làm thế nào để cho sự quen thuộc không còn mang ý nghĩa cũ kỹ, chán ngắt? Chúng ta phải cố gắng nghe câu chuyện cao cả nhất được kể lại qua mọi thời đại. Và chúng ta cần nắm bắt lại sự kỳ diệu của nó. Chúng ta cần giải phóng năng lượng chứa trong đó, nếu chúng ta muốn cảm nghiệm sức mạnh lôi cuốn, làm ngạc nhiên, gây xúc cảm, thách đố và tạo cảm hứng của Tin Mừng.
Chúng ta cần lắng nghe Tin Mừng theo cách chúng ta được chiếu sáng và như nghe chính câu chuyện của chúng ta khi điều đó xảy ra, những câu chuyện của chúng ta kết hợp với câu chuyện của Tin Mừng và được Tin Mừng chiếu sáng.
Mọi việc chúng ta cần đều chứa đựng trong Tin Mừng. Ở đó, chúng ta có lời của chính Đức Giêsu. Những người chép lại cuốn sách này của Thầy xác nhận những điều họ viết không bao giờ lầm lạc.
Trở lại Tin Mừng trong những khi bất hạnh chưa đủ. Trở lại Tin Mừng như một đối tượng để tôn thờ (như cuốn sách của Kells) cũng chưa đủ. Chúng ta phải xem xét đời sống chúng ta đối chiếu với những lời trong cuốn sách ấy. Những lời này thắp lên một ngọn lửa trong tâm hồn chúng ta và người khác cũng cảm thấy sự ấm cúng của ngọn lửa đó.
Tin Mừng chỉ chứa đựng những điều tốt nhất và sâu xa nhất trong đời sống. “Những người khác băn khoăn lo lắng những phần Kinh Thánh mà họ không hiểu được. Còn tôi băn khoăn lo lắng về những phần mà tôi hiểu được” (Mark Twain).
Có một vị thánh luôn tự hỏi mình bất cứ lúc nào ông đối diện với một quyết định khó khăn: Sách thánh sẽ khuyên bảo điều gì? Lời đáp đến từ nội tâm sâu thẳm của ông: bạn phải làm điều gì đúng và tốt nhất. Vì thế Sách thánh có một ảnh hưởng to lớn trên ông. Nó làm cho ông mạnh mẽ trong những lúc yếu đuối. Nó tạo cảm hứng cho ông trong những lúc quảng đại. Nó làm cho ông hổ thẹn trong những lúc hèn nhát. Nhưng qua mọi việc ấy, ông đã nắm chắc điều chủ yếu là Tin Mừng phải được sống.
Tin Mừng là sách chỉ nam cho mỗi người Kitô hữu. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những cái bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không qua đi. Chúng ta sẽ xây dựng vững chắc ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
32. Ngày tận thế.
Một phụ nữ vội vã trở về nhà từ sở làm. Đêm nay cô sẽ có một dạ tiệc. Thình lình, cô phát hiện một anh chàng giương cao một tấm bảng có ghi: Ngày Tận Thế Đã Đến Gần. Cô đến gặp anh chàng và nói: “Anh nói ngày tận thế đã đến gần”. - “Đúng thế, thưa cô”, anh ta đáp.
“Nhưng anh có chắc chắn không?” - “Hoàn toàn chắc chắn, thưa cô”
Và anh nói: “đã gần rồi” - “Vâng, thưa cô”
“Gần làm sao?” - “Ồ, rất gần”
“Anh có thể nói chính xác hơn không?” - “Ngay đêm nay, thưa cô”
Cô ngừng lại một lúc để suy nghĩ về điều đó. Rồi với một giọng đầy lo lắng, cô hỏi: “Này cậu, hãy nói cho tôi rõ. Tận thế sẽ xảy ra trước hay sau bữa dạ tiệc?”
Chúng ta đang sống trong một thế giới rất bất ổn. Dường như nó chao đảo từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác. Một cách mơ hồ, điều này có thể gây ra những nỗi sợ hãi và lo lắng to lớn. Ở giữa thế giới bất ổn và thay đổi ấy, chúng ta cần có một sự gì vững chắc để trông cậy phó thác. Đối với người Kitô hữu, điều đó chỉ có nghĩa là tin vào Thiên Chúa. Thánh vịnh trong thánh lễ hôm nay cũng nói về điều đó: “Tôi luôn luôn nhìn lên Đức Chúa còn Người ở bên tay phải của tôi. Tôi sẽ đứng vững vàng”. Và dĩ nhiên chúng ta có Lời của Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta cần. Sự bảo đảm là tất cả những điều ấy đều ở trong bàn tay Thiên Chúa. Vả lại kế hoạch của Người cho chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ trị vì. Thiên Chúa sẽ trị vì. Chúng ta sẽ trị vì với Người trong đời sống vĩnh cửu. Nhiều người đã yêu cầu muốn biết khi nào tận thế sẽ đến. (Yêu cầu này xem ra đã trở nên liều lĩnh khi chúng ta vừa kết thúc một thiên niên kỷ để bắt đầu một thiên niên kỷ mới). Một số người yêu cầu Thiên Chúa hoặc Đức Maria ban cho họ một mạc khải đặc biệt, một số người khác lấy Kinh Thánh ra để tính toán ngày tận thế. Tất cả những yêu cầu ấy quả là dốt nát. Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta một sứ điệp đúng lúc về ngày tận thế. Đức Giêsu nói với chúng ta rằng không một ai biết được khi nào tận thế trừ Chúa Cha trên trời. Và hướng về ngày tận thế, chúng ta phải hy vọng mà đừng sợ hãi. Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để cứu chuộc chứ không phải để kết án chúng ta. Đức tin cho chúng ta niềm xác tín rằng thế giới này không hướng về sự chấm dứt, một tai họa không thể thay đổi được. Nó cũng không hướng về một chung cuộc nào đó, mà nó hướng về một sự thành tựu viên mãn. Bởi vinh quang Phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Chúng ta nên lo lắng nhiều hơn về chung cuộc đời mình khi chết đó là một điều chắc chắn thay vì lo lắng về ngày tận thế là một điều ở ngoài tầm tay.
33. Ngày cùng tận của mỗi cá nhân và của toàn thế giới -- JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chết có phải là điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra cho ta không? Chết là gì, có phải là chấm hết hoàn toàn không? Nếu không thì có gì đáng ta lo ngại?
2. Đời ta chắc chắn có ngày tận cùng. Còn đời sống của thế giới thì sao? Có tận cùng không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày tận cùng đó?
3. Thiên Chúa có thường xuyên nhắc nhở để ta ý thức và chuẩn bị cho cái chết của mình không? Ngài nhắc nhở ta thế nào? bằng những dấu hiệu nào?
4. Cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Chúa là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Một chân lý chắc chắn nhất trong cuộc đời: ta sẽ chết
Có một điều mà ta có thể quả quyết chắc chắn hơn tất cả mọi điều, đó là sẽ có ngày ta phải chết, phải từ giã cõi đời, lìa bỏ mọi người kể cả những người thân yêu nhất mà ta không bao giờ muốn rời xa. Đây là một chân lý mà ta vẫn thường xuyên chứng nghiệm mỗi khi gặp đám ma hay dự lễ an táng của một ai đó. Đó là một chân lý chắc chắn nhất trên đời, nhưng nhiều khi ta sống như thể không hề có chân lý ấy, như thể chúng ta sẽ không bao giờ chết, mà cứ sống mãi sống hoài cùng với trời đất. Mỗi lần thấy có ai qua đời, thiết tưởng ta nên nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ tới phiên chúng ta. Và ngày ấy không ai có thể xác định được: có thể là 30,40 năm nữa, nhưng cũng có thể là 10,5 hay 1 năm nữa, và cũng rất có thể là tháng sau, tuần sau, ngày mai, hay chút xíu nữa. Nhiều người đã chết bất đắc kỳ tử, những người này thường không ngờ được mình lại chết sớm và nhanh như vậy! Còn ta, ta không thể quả quyết rằng mình không thuộc số những người này! Và ngày ta chết chính là ngày cùng tận của riêng ta!
Nếu cá nhân mỗi người đều có ngày cùng tận, thì toàn thế giới hay toàn nhân loại này cũng có ngày cùng tận của nó. Và đó cũng là một chân lý chắc chắn không kém gì sự chết cá nhân. Vì trong thế giới hiện tượng, cái gì có sinh thì cũng có diệt theo định luật “thành, trụ, hoại, không”. Và bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở ta về chân lý bất di dịch này, đồng thời cho ta biết những dấu hiệu báo trước ngày tận diệt ấy.
2. Những dấu hiệu báo trước
a) Ngày tận cùng của cá nhân
Theo niềm tin Kitô giáo, chết là bắt đầu một đời sống khác, và đời sống mai hậu ấy là một đời sống vĩnh cửu. Điều hết sức nghiêm trọng là đời sống mai hậu ấy nếu hạnh phúc thì là hạnh phúc vĩnh cửu, và nếu đau khổ thì cũng là đau khổ vĩnh cửu. Mà hạnh phúc hay đau khổ trong đời sống ấy hoàn toàn tùy thuộc vào cách ta sống, cách ta tin, cách ta hành xử trong đời sống hiện tại. Vì thế, cách ta sống trong đời sống hiện tại này thật quan trọng, nó quyết định số phận vĩnh cửu của ta. Chính vì đời sống hiện tại có tính quyết định vĩnh cửu như thế, nên vì yêu thương ta, Thiên Chúa thường xuyên gửi đến ta những sứ điệp cảnh báo ngày chết của ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta coi thường những sứ điệp ấy để rồi cuối cùng phải lâm vào tình trạng đau khổ vĩnh cửu.
Sau đây là những sứ điệp của Thiên Chúa nhắc nhở ngày tận số của ta:
a) Những đám ma, những lễ an táng mà ta gặp hay tham dự là những dấu hiệu nhắc nhở ta rằng chắc chắn một ngày nào đó sẽ tới phiên ta từ giã cuộc đời như người trong đám ma ấy.
b) Những dấu hiệu của cơ thể suy thoái như tóc bạc, răng long, đau lưng, mệt mỏi, bệnh tật, hay những biến cố đến từ bên ngoài như tai nạn, dịch tễ… đến với chính ta hay người khác đều là những sứ điệp của Thiên Chúa gửi đến để cảnh báo ta.
Liệu khi Thiên Chúa gọi ta ra khỏi cuộc đời, ta sẽ xuất hiện trước Thiên Chúa trong tình trạng nào? tốt lành thánh thiện hay xấu xa tội lỗi? đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu hay đáng chịu trầm luân mãi mãi? Tự hỏi như thế thì còn quá xa vời. Hãy tự hỏi: nếu ngay bây giờ Chúa gọi tôi đi thì tôi sẽ ra đi trong tình trạng nào? tôi đã sẵn sàng mọi sự để xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu chưa? Cách tốt nhất để bảo đảm là ta sẽ ra đi trong tình trạng tốt đẹp là luôn tỉnh thức để luôn luôn trong tình trạng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Mc 13,33; Lc 21,36). Hãy luôn luôn tự nhủ: bất kỳ một tư tưởng xấu, một hành động xấu nào trong đời ta cũng đều ảnh hưởng tai hại đến tình trạng cuối cùng của cuộc đời ta, là tình trạng lúc ta ra khỏi thế gian này. Tình trạng này quyết định số phận cuộc đời mai hậu của ta. Người ta vẫn nói: “Cây xiêu đằng nào, đổ đằng nấy”. Vết mực một khi đã dính vào áo thì dù có giặt kỹ đến đâu cũng không tránh khỏi làm áo bị cũ, bị hoen ố, bị kém giá trị đi.
b) Ngày tận cùng của thế giới
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Điều đáng lo ngại cho thế giới này chính là sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực, của thú vui xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo - kể cả Kitô giáo - có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần phải có ở bên trong. Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ bị tục hóa đến nỗi nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp để sinh sống… Đó là những điều khiến Đức Giêsu đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).
3. Thái độ cần phải có
Trước sự chắc chắn và bất ngờ của sự chết, của việc Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện “chân lý, công lý và tình thương” (x. Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (x. Mt 25,31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, “những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ai cũng chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai chắc chắn được chút nào về ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, thậm chí không mấy ai ngờ trước được. Vì thế, con muốn chuẩn bị thật chu đáo ngày con ra trước tòa Cha. Con muốn ngày ấy phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Cha bất cứ giây phút nào. Xin giúp con sống thật sự tinh thần chuẩn bị đó.
34. Đi tìm sự vĩnh cửu - Lm. Thu Băng.
Công Chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 trước Thiên Chúa Giáng sinh, nhưng người sinh sống cùng thời với bà có một niềm tin là xác bà sẽ nguyên vẹn trường cửu vì bà được liệm xác trong một quan tài bằng Ngọc Thạch. Chồng bà cũng đã lìa đời 9 năm trước đó và cũng được liệm xác trong một quan tài tương tự như của bà.
Hai vợ chồng đều được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong một vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969, người ta mới khám phá ra và cả thế giới đều ngạc nhiên về sự giầu sang của thời đại ấy được biểu lộ bằng 2800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng. Đặc biệt hơn nữa là hai cỗ quan tài, mỗi cái gồm 2000 hạt Ngọc Thạch nhỏ dát quang quan tài và kết chung với nhau bằng một sợi chỉ vàng ròng 24 cà rá.
Những người sống đồng thời trong thời đại của Công Chúa đều tin rằng Vàng và Ngọc Thạch là hai loại quí nhất vì không bị thời gian làm hư hại. Vì thế chúng được coi là bảo chứng an toàn giữ cho thân xác được nguyên vẹn trường cửu, không bao giờ bị phải rữa và như thế bà sẽ sống muôn kiếp sau cái chết ở trần gian.
Không phải chỉ có con người ngày xưa mới khiếp cái chết, mà con người ngày nay cũng không thích gì chết. Họ không thích quan niệm "sinh ký tử qui - sống gửi thác về". Họ không muốn nghe đến tiếng "chết chóc, bệnh nạn, yếu đau". Họ muốn có liều thuốc tiên "sống khỏe không già" và nếu có chết người ta phải trang điểm cho khác hẳn sự chết, để người nhìn vào khỏi sợ sự thật của chính mình... Bởi thế Thiên Chúa luôn phải nhắc nhở chúng ta về "cái chết của chúng ta" để sửa soạn và canh chừng cuộc sống.
Trên ba vòng hoa bán nguyệt của khung cửa sổ nhà thờ Milanô bên nước Ý có khắc ba dòng chữ: - Phía dươi vòng bán nguyệt của vòng hoa hồng có chử "Mọi hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát". - Bên vòng bán nguyệt của cửa thứ hai, dưới hình thánh giá có khác chữ "Mọi đau khổ, cực hình trần gian, chẳng mấy chốc sẽ qua". - Vòng thứ ba của khung cửa giữa dẫn vào Vương cung Thánh đường có khắc chữ:"Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Người thời xưa quan niệm dùng ngọc thạch để ướp cho được trường sinh.
Người sống vật chất ngày nay quan niệm cuộc đời chấm dựt bằng cái chết. Còn người theo Chúa Trời quan niệm chết là ngưỡng cửa đi về cuộc sống vĩnh cửu và chính cuộc sống này mới thật sự quan trọng. Bởi thế chúng ta xây dựng cuộc sống vĩnh cử ấy bằng những giây phút sống tốt, sống thật ở hiện tại. Bằng cách áp dụng hai đạo luật vàng: "Phụng sự Chúa hết tâm hồn và yêu thương mọi người như yêu chính mình". Thực thế, chỉ có những gì được làm bằng tình yêu thương mới có giá trị vĩnh cửu mà thôi.
Hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát. Đau khổ, cực hình trần gian chẳng mấy chốc sẽ qua. Và chỉ có hy sinh vì Chúa và phục vụ vì yêu thương mới trường tồn vĩnh cửu. (11.2003).
35. Con Người sẽ đến (13,24-37) -- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
“Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn…” (c.24a), những chữ này đánh dấu sự liên tục cũng như đứt đoạn với những điều đã nói trước đó. Từ trước tới đây, diễn từ của Chúa Giêsu chỉ chú tâm nhiều nhất đến các dấu chỉ phải xảy tới “trước khi” tận thế. Ngài lưu ý đến “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại” sẽ đến. Và nếu muốn, ta có thể gọi nó là “phản Kitô” (13,14-24). Bây giờ vấn đề là: điều gì sẽ xảy ra “sau” các biến cố đó? Từ ngữ “bấy giờ”, dù mơ hồ, vẫn chỉ về những ngày giờ cuối hết: thời giờ đã hết rồi. Ta cũng không ngỡ ngàng khi thấy thời ấy khởi đầu bằng một loại tai họa (c. 24b-25). Đó chính là một cuộc đảo lộn mang tính vũ trụ. Mặt trăng và mặt trời tắt lụi đi. Tinh tú quay cuồng rối loạn. Nhưng độc giả ngày nay phải đặt mình vào tâm trạng người Do Thái sống ở thế kỷ 1 mới hiểu thấu đáo được các điều ấy.
Vào thời đó, trong các vững bền đề cập đến tận thế, sự hỗn loạn như thế trong thiên nhiên không có gì đáng ngạc nhiên cả. Đấy là thứ ngôn ngữ truyền thống thường dùng để loan báo rằng Con Thiên Chúa sẽ can thiệp, Ngài sẽ chiến thắng các thế lực sự dữ (x. Is 13,10; 34,4). Thực vậy, chớ quên rằng đối với các dân tộc cổ đại Đông phương (trừ dân Israel) thì tinh tú là các vị thần chủ chốt của vũ trụ. Do đó nếu cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng tắt lụi đi, các tinh tú bị sa xuống có nghĩa là xác nhận sự chiến thắng của Thiên Chúa độc tôn đối với các ngẫu thần ngoại giáo. Thế giới cũ kỹ phải biến đi hầu nhường chỗ cho thế giới mới. Tin Mừng loan báo việc “Con Người” đến trong vinh quang, sau khi thế giới tội lỗi đã bị triệt hạ. Hình ảnh này được lấy từ sách tiên tri Daniel, ở đó ta thấy hình ảnh bí ẩn của “Con Người” –một người-vinh quang tiến gần Thiên Chúa (Đnl 7,13-14). Đặc tính huyền nhiệm của vị này khiến ta phải nghĩ đến lối nhìn theo sách khải huyền. “Con Người” được mây trời che phủ và xuất hiện trong khung cảnh thiên giới. Thiên Chúa đã ban cho Ngài một uy quyền tối thượng hầu đánh bại hoàn toàn các thế lực gian tà. Ở bước ngoặt thời đại chúng ta, hình ảnh con người được phác họa thành Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã giao phó nhiệm vụ phải thiết lập Vương Quốc của Ngài trên thế gian này. Ta thấy rằng Chúa Giêsu đã tự nhận tước hiệu này hơn mọi tước hiệu khác (2, 10.28; 8,31; 9,31; 10,33,45). Ở đây Ngài công bố việc Ngài sẽ đến trong khải hoàn để xét xử và cứu chuộc vào thời cuối cùng. Trong thực tế, hành động cứu độ của Ngài được vạch ra tức khắc (c. 27). Sự cứu chuộc thường được coi là sự quy tụ các tín hữu trên toàn trên toàn thế giới quanh Đấng Mêsia quang vinh. Đó chính là sự thực hiện cách triệt để lời đã hứa với dân Israel trong Cựu ước, sau khi họ bị phân tán đi khắp nơi (x, Dt 30,3-5; Dcr 2,10-17).
Lời công bố Con Người sẽ đến trong khải hoàn để cứu chuộc vũ trụ chính là một nốt nhạc chủ đạo của bài ca bắt đầu từ câu 5 chương 13. Cho dù các tín hữu có chịu thử thách nặng nề tới đâu chăng nữa – kể cả bị đem ra trước Tòa án Tối cao (14-20) – thì tất cả những điều tệ hại đó đều phải quy hướng hoàn toàn về mục đích hạnh phúc này là: Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang để cứu độ loài người. Nhưng “khi nào” thì việc đó xảy ra? Câu hỏi này vẫn hằng ám ảnh mọi người. Và đây là lần đầu tiên các bài diễn từ Chúa mới trả lời họ (c. 28-37).
Dụ ngôn ngắn gọn về cây vả nói lên nhiều điều (c. 28). Cây vả này ra trái trễ (11,13). Nhưng không ai có thể lầm nó cả, chồi lá xuất hiện là dấu chỉ chắc chắn rằng mùa hè đã đến gần. Mùa hè là mùa nóng bức và là mùa hoa trái. Dụ ngôn này như thế là quá rõ ràng: thời gian tiếp tục trôi đi, tiến về phía chung cuộc. Nhưng thật khó mà áp dụng (c. 29). Những chữ “những điều đó” rất mơ hồ. Trong tiếng Hy Lạp, chúng ở hình thức số nhiều. Có thể nó thay cho “những biến cố” vừa kể đến trên đây. Hoặc là về sự phá hủy đền thờ? Hoặc những đảo lộn khác nhau mà cốt đinh là sự bắt bớ khốc liệt? (c. 14-23). Tất cả những biến cố đó đều có thể so sánh được với sự đâm chồi của cây và trong mùa xuân. Dưới vẻ lộn xộn bề ngoài, chúng hẳn loan báo một thời kỳ mới.
Một lần nữa, ta thấy văn bản Phúc Âm này gạt bỏ lối chú giải “về các tai họa” dành cho Tin Mừng loan báo. Con Người đang đến, sự cứu độ của Ngài đã “gần kề, trong tầm tay”. Ngay đến Chúa Giêsu cũng trịnh trọng xác nhận điều này (c. 30). Sự gần kề của ơn cứu độ còn được quả quyết chính xác hơn: sẽ xảy ra ngay trong “thế hệ này” đã qua rồi mà vẫn chưa có gì xảy đến. Người ta cũng đã thấy có một lần khác (x. 9,1). Chúa Giêsu nói như thể là thời buổi tận cùng sắp xảy đến tới nơi rồi. Có lẽ Chúa Giêsu nói thêm công thức khái quát này để xua tan sự mong chờ đó (c. 31).
Ý niệm về trời đất phải qua đi là một ý niệm chung cho mọi văn bản nói về “tận thế” (x. Kh 21,1). Nhưng niềm mong chờ một thế giới mới, Nước Chúa, được dựa trên lời Chúa Giêsu: ở đây Ngài đã nói nhân danh uy quyền của Thiên Chúa chí thánh (Is 40,8). Tuy có xác định thời điểm cận kề của việc kết thúc lịch sử nhưng Chúa Giêsu không bỏ quên thời điểm lúc bấy giờ (c. 32). Luca đã bỏ câu gây nhiều rắc rối này đi, còn Mathêu lại xóa đi. Chỉ riêng Maccô giữ lại. Nó nói rõ ràng không ai biết chính xác được ngày giờ tận thế. Ngay cả “Chúa Con” cũng không biết. Chính sự “bất tri” của “Con” làm các nhà thần học cũng phải lúng túng. Đó là xét về mặt nhân tính của Chúa Giêsu. Theo Maccô thì đó chính là lý lẽ hỗ trợ cho việc chấm dứt các tính toán vô bổ, các thắc mắc vô ích về “thời điểm tận thế”. Ngày giờ tận thế mãi mãi là một bí mật tuyệt đối của Chúa Cha, còn người phàm trần không thể biết trước được.
Đó chính là lý do Chúa Giêsu kêu gọi, phải tỉnh thức (c. 33). Không nên vì sự trễ nải mà bỏ qua việc này. Trái lại càng phải tỉnh táo hơn. Kiểu nói “coi chừng” trong tiếng Hy Lạp mang một ý nghĩa cụ thể hơn: “Hãy mở mắt ra” (13,5.9.23). Chính vì không có sự xác định chính xác thời điểm mà ta càng phải tỉnh thức hơn. Chúa Giêsu kể thêm một dụ ngôn ngắn để nói rõ hơn về việc tỉnh thức ấy (c. 34). Lối so sánh này của Maccô rất gần gũi với Luca (12,36-40). “Hãy bắt chước những tôi tớ đợi chờ chủ đi dự tiệc cưới về hầu ra mở cửa ngay khi nghe tiếng gõ cửa... bởi vì Con Người sẽ đến vào ngày giờ không ngờ”. Còn Tin Mừng Maccô thì lại nói ông chủ trẩy đi xa (chắc là đi ra nước ngoài). Người ta hiểu trước rằng ông sẽ vắng mặt lâu dài. Nhưng không nên lơ là tỉnh thức. Bởi lẽ ông có thể trở về thình lình, không báo trước. Dụ ngôn vừa mới được kể sơ sơ, lại bị ngắt quãng một lúc để nhắn nhủ độc giả (c. 35-36). Phải tỉnh thức luôn, bởi vì ông chủ sẽ trở về vào lúc không ngờ đến. Maccô nhắc đến bốn thời điểm: chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, tảng sáng. Như thế đêm đó người ta chẳng chợp mắt được tí nào. Người ta phải thức trắng đêm không phải để chờ đợi một biến cố đơn giản, mà chờ đợi một Đấng nào đó, kể từ 13,24-25, Đấng ấy ám chỉ cho chính Chúa Giêsu, Ngài là Con Người chắc chắn sẽ quang lâm.
Thánh sử kết luận bằng cách trích dẫn lời khuyến dụ của Chúa Giêsu “Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải canh thức!” (c. 37). Diễn từ trước đó là dành riêng cho các môn đệ (13,3-4), Ngài muốn thông tri cho một ít người thôi. Đó là cách thức hoàn toàn mang tính “cánh chung”, được mã hóa và cố tình sử dụng kiểu nói bí ẩn. Chỉ những người bị bắt bớ mới hiểu được, còn kẻ ra tay áp bức thì không! Nhưng ở đây, lúc kết thúc, lời khẩn cấp kêu gọi phải tỉnh thức lại nói với “tất cả mọi người”, bởi vì nó liên quan đến nhiều thế hệ sau nữa.
Đã đến lúc phải kết thúc chương 13 của Maccô. Khi nhìn lại một lượt, ta sẽ thấy rõ hơn những điểm chính trong bài diễn từ của Chúa Giêsu. Trong thực tế, hầu như ta không thể nào không lẫn lộn giữa lời do Chúa Giêsu đã nói với những suy tư nảy sinh trong cộng đoàn Kitô hữu của Maccô. Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ về sự phá hủy đền thờ: khi nào xảy ra chuyện đó? Câu trả lời vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Tóm lại, người ta không còn xem Đền thờ là nơi quy tụ nữa. Nó sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền thờ, Ngài sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự Ác: Ngài là Chúa Kitô Quang Vinh Phục SInh.
Cách nhìn đầy hạnh phúc này không cho phép người ta loại đi được mối ám ảnh về ngày “tận thế”, là một đại họa cho vũ trụ, cho toàn thể thế giới. Bí nhiệm của sự dữ và những tai họa xấu xa do nó đem lại đã là một phần không thể tách khỏi lịch sử. Nếu đọc “các dấu chỉ thời đại” và xem chúng là những biến cố “tiên báo” cho ngày tận thế thì thật là vô bổ. Rất nhiều người đã phạm sai lầm này trong những lúc lịch sử khủng hoảng trầm trọng (sự hoảng sợ năm 1000 chẳng hạn). Và rất có thể nó lại sắp sửa xảy ra khi nhân loại đang tiến gần đến thiên niên kỷ thứ 3 này. Tuy nhiên ta thấy đó, việc Chúa Kitô quang lâm là hoàn toàn nằm trong bàn tay Thiên Chúa, chỉ phụ thuộc độc nhất vào quyền tự do của Ngài. Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối của lịch sử. Chỉ duy một mình Ngài biết được ngày giờ.
Toàn bộ diễn từ về ngày tận thế nói lên một cách dứt khoát bản chất lạc quan của nó. Dĩ nhiên có những thời lỳ sự Ác thắng thế. Nhưng nó không thể tạo mầm mống khai sinh ra một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Chúa Kitô và nhờ Thánh Thần ban cho, một mầm mống mãnh liệt sẽ khai sinh một vũ trụ mới. Ta cũng đừng quên rằng kiểu văn chương “cánh chung” bao giờ cũng kể về các tai họa u ám chồng chất để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước gì độc giả đừng bối rối khi đọc thấy sự Ác lan tràn dữ dội. Mà nên nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang triển nở.
36. Chú giải của Noel Quesson.
Chúng ta sắp kết thúc năm Phụng vụ. Từng Chúa nhật một ta đã đi theo Đức Giêsu, dựa theo Tin Mừng Thánh Máccô. Chúa đã nói qua dụ ngôn, đã chữa lành nhiều người bệnh, giải thoát những người bị quy ám, trả lời những kinh sư, huấn luyện các môn đệ. Chúng ta có thể có cảm thông biết rõ người. Nhưng chỉ hôm nay, Người mới mạc khải cho ta biết tất cả tầm vóc con người của Chúa. Chỉ còn vài ngày nữa là Người sẽ chết. Người ra khỏi Đền Thánh Giêrusalem, để không bao giờ trở lại đó nữa. Một trong các môn đệ của Người đã lưu ý Người về vẻ đẹp của tòa nhà này, “Thưa Thầy, xin Thầy nhìn xem, những phiến đá đẹp làm sao! Kiến trúc lộng lẫy biết bao" (Mc 13, 1). Để trả lời Chúa chỉ nói; Tất cả sẽ bị phá hủy sẽ không còn viên đá nào trên viên đá nào ". Lúc bấy giờ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi Người khi nào thì chuyện ấy sẽ xảy đến. Để trả lời câu hỏi đó, Đức Giêsu, đã công bố một diễn từ cuối cùng rất quan trọng thường gọi là diễn từ cánh chung" hay là diễn từ về thời gian cuối cùng”
Bài đọc hôm nay là phần giữa của diễn từ đó.
Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn.
Phải đọc phần trước để hiểu chữ "tai họa". Trước khi Đền Thánh bị phá hủy, Đức Giêsu đã tiên báo ba tai họa như những điềm báo trước.
1. Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6).
2. Những tai ương, chiến tranh động đất, đói kém (Mc 13,7-8).
3. Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13). Lúc bấy giờ sẽ xảy ra tai họa ghê gớm là sự tàn phá Đền Thánh, nỗi đau buồn kinh khủng (Mc 13,14) đã được các ngôn sứ báo trước (Đn 9,27). Theo lịch sử chúng ta biết rằng Đền Thánh đã bị tục hóa và phá hủy, bởi những đoàn quân ngoại đạo của Titus, vào năm 70. Chúng ta đừng quên rằng Máccô đã viết trình thuật này gần thời gian đó, lúc mà mọi sự đều có vẻ sụp đổ. Sự bách hại của Hoàng đế Nêron suýt làm tan biến Giáo Hội phôi thai: Vị giáo hoàng đầu tiên, tông đồ Phêrô đã bị đóng đinh đầu ngược xuống đất... Phao lô cũng bị chặt đầu... Các Kitô hữu ở Rôma đã bị thiêu sống trong vườn Vatican. Và cũng chính đế quốc La Mã phá hủy nơi linh thiêng Thiên Chúa luôn hiện diện, đó là Đền Thánh Giêrusalem. Sự lo âu của các tín hữu lên đến tột độ: Đức tin của chúng ta không phải là vô ích sao? Những lời hứa của Thiên Chúa phải chăng chỉ là một giấc mộng đẹp những không hiện thực? Có phải đó là nước Thiên Chúa không?
Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng các ngôi sao từ trời sa xuống và các tinh tứ bầu trời bị lay chuyển.
Đức Giêsu dùng kiểu nói “khải huyền" theo truyền thống, những hình ảnh phóng đại được khuôn đúc sắn, kiểu nói biểu tượng rất thông dụng trong Kinh thánh (Is 13,10 - 34,4; Ge 2,10 - 4,15; Ed 32,1- v.v...).
Trong những khải huyền của thời đó, những hình ảnh còn mạnh bạo hơn: "Mặt trời sẽ chiếu sáng ban đêm, mặt trăng chiếu sáng ban ngày, máu sẽ từ cây cối chảy ra và những hòn đá sẽ kêu la" (Esdras 5,4).
Ta không nên hiểu những miêu tả trên theo nghĩa vật chất, chúng chỉ muốn nói lên một thực trạng không thể tả được. Đó là sự trở về với tình trạng "hỗn mang" nguyên thủy: Sẽ có một sáng' tạo mới, một khai sinh mới, một thế giới mới. "Thế giới cũ đã qua đi, và một thế giới mới đã được hình thành". Thánh Phaolô đã nói thế (2 Cr 5, 17).
Quả thực, những hình ảnh trên rất ý nghĩa. Con người luôn có khuynh hướng "tự biến mình thành thượng đế", và thích dùng những từ vĩ đại: "xây dựng thế giới", "thống trị vũ trụ chinh phục không gian"... nhưng một ngày nào đó tất cả những gì chúng ta cho là vững chắc sẽ trở nên vô nghĩa. Trước những sự xáo trộn của vũ trụ hay các nền văn minh, chúng ta mới khám phá ra rằng chúng ta là những cá nhân nhỏ tí. Nên chúng ta ngước cao hơn chân trời trái đất chúng ta một chút, chúng ta sẽ trở lại đúng chiều kích của mình. Chúng ta là gì với mặt trời và các tinh tú? Với một vài câu nói, Đức Giêsu đã mở rộng chân trời của chúng ta. Có biết bao điều không tùy thuộc chúng ta, ở ngoài tầm tay chúng ta. Có hàng tỷ mặt trời trên kia, mà ở đó chúng ta đâu có chút quyền lực nào, đang nói cho ta biết sự nhỏ bé của mình. Chỉ có Chúa mới có thể lay chuyển vũ trụ tinh tú! Các bạn cứ thử xem!
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến.
Chưa bao giờ, từ lúc Người sinh ra một cách nghèo nàn trong chuồng bò ở Bê lem cho đến hôm nay, Đức Giêsu đã nói về Người như thế. Bỗng nhiên, Người trở nên cao cả vĩ đại, vinh hiển, từ trên cõi trời! Người tự nói Người là thẩm phán ngày cánh chung, mà vai trò này chỉ dành cho Thiên Chúa. Rõ ràng là thế, Người sẽ lặp lại điều này trước Thượng Hội đồng, vài ngày nứa (Mc 14,62).
Cho đến đây, Người đã làm chúng ta quen dần với tước vị Con Người nhưng luôn luôn trong bối cảnh loan báo cái chết của Người (Mc 8,31 - 9,31 - 10,33-35). Qua tước vị này, Đức Giêsu ứng dụng cho mình lời sấm nổi tiếng của Đanien (7,13-14). Đây là tác phẩm của một người "kháng chiến" dưới thời bách hại của Vua Antiochus 4 Ephiphane sách này khẳng định sự chiến thắng của Thiên Chúa, nhờ một "con người từ trên mây trời xuống". Vâng những lực lượng của sự ác, những kẻ áp bức người nghèo, những kẻ dữ sẽ không thể chiến thắng được trong lịch sử.
Tất cả ngôn ngữ khải huyền mà chúng ta vừa nghe chỉ được dùng để làm nổi bật tiếng kêu hy vọng này: Đức Giêsu đến... Như một Đấng chiến thắng, những giáo phái đủ loại những kẻ "cuồng tưởng" trong những thời kỳ có khủng hoảng lớn, cứ lảm nhảm bên tai chúng ta những lời ngăm đe", những "lời sấm giáng họa" và những "câu lên án" của họ. Đối với Đức Giêsu, sự phá hủy Đền Thánh biểu tượng cho sự phá hủy thế giới, là một "Tin mừng" nghịch lý như trong bài tụng ca ngày nay.
Bầu trời đối với chúng con đã tối sầm lại, không còn một ngôi sao nào trong đêm nhưng chúng con biết rằng ngày đã đến nó rất gần.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến Maranatha! Xin hãy đến!"
Những Kitô hữu đầu tiên đã mong ước mãnh liệt ngày “trở lại của Chúa" tiếng Hý Lạp là "parousie". Trong Tân ước người ta gặp nhiều lần từ huyền nhiệm này. Maranatha (I Cr 16,22; Kh 22,20). Đó là một kiểu nói Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, đã được đưa vào phụng vụ ban đầu, và có nghĩa là "Lạy Chúa, xin hãy đến". Từ Công đồng Vatican II, mỗi Thánh lễ của chúng ta đã lặp lại lời cầu xin, mong đợi trên, trong câu tung hô sau phần truyền phép: "Chúng con mong đợi ngày Chúa lại đến trong vinh quang. Chúng con mong đợi Chúa đến."
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến! Tại sao chúng ta lại không hát với những Kitô hữu đầu tiên trong cùng một âm tiếng của Đức Giêsu "Maranatha!”
Người sẽ sai các thiên sứ tập hợp những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn từ bốn phương về từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Có một vài tác giả hiện nay muốn giảm thiểu Đức Giêsu Na-za-rét chỉ còn là một người Na-za-rét bình thường mà thôi! Chúa có những "thiên thần" những kẻ thuộc về người, sẵn sàng phục vụ Người. Người muốn tập hợp tất cả mọi người trên toàn trái đất lại. Thế mà nhân vật nhỏ bé này lại chưa hề rời khỏi đất nước Palettin. Trong những khải huyền cổ truyền mà Đức Giêsu đã dùng lại những hình ảnh thì những xáo trộn vũ trụ báo trước cho sự trừng phạt vĩ đại của Thiên Chúa giáng trên những kẻ phản đạo. Nhưng ở đây, không có những lời như thế trên môi miệng Đức Giêsu. Người chỉ nói đến việc tập họp những người được tuyển chọn. Việc tái lâm của Chúa Giêsu trong vinh quang, vào ngày thế mạt, đó là để tập họp những người thuộc về Chúa từ bốn phương trời, đó sẽ là một đại lễ thế giới, toàn vũ. Đức Giêsu nhìn thấy Người thật cao cả vĩ đại, thần thánh, thế mà Người sẽ phải chịu chết trong vài hôm nữa.
Ở cùng với Đức Giêsu.
Đó là tận thế, những chiến tranh tai ương, bách hại, diệt chủng, sự tàn phá ghê gớm, sự phá hủy đền thánh, sự phạm thường những nơi thánh bởi bọn phản đạo vô luân... tất cả những điều đó chỉ chuẩn bị cho việc tập hợp kể trên. Đây là tiếng kêu hy vọng kỳ diệu nhất mà con người có thể nghe được, ngay cả khi mọi sự sụp đổ quanh mình, ngay cả khi cái chết đến gần kề và có vẻ chiến thắng.
Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi nó đâm chồi nảy lộc thì anh- em biết là gần đến mùa hè. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần.
Người ta thực sự không hiểu gì về tư tưởng của Đức Giêsu, khi người ta tỏ ra mình là "ngôn sứ báo động tai họa". Rõ ràng, Đức Giêsu muốn mở ra cho nhân loại niềm trông cậy vào một thế giới mới.
Đó là mùa hè đang đến. Đó là "mùa tươi đẹp" tới gần khi cây cỏ xanh tươi trở lại. ÔI, đó là một dụ ngôn thật đẹp dụ ngôn cuối cùng trước khi Người chết. Trong cơn nguy nan và sợ hãi, vâng, tất cả mọi sự đều qua đi và chết hết. Nhưng chúng con biết mùa hè sắp đến, trên những cành lá xanh tươi của cây vả.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! Maranatha!
Thầy bảo thật anh em; thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Chân dung Đức Giêsu thật là vĩ đại! Đây là một cao vọng quá cỡ đối với một người hay chết như chúng ta. Chúng ta chớ quên, vài ngày nữa Người sẽ chết. "Tất cả đều qua đi" Người đã nói thế... Chúng Ta vẫn tồn tại, Ta hiện hữu; và các ngươi sẽ ở với Ta. Bên kia cái chết của Người, sự Phục sinh đang ló dạng, như bình mình sau đêm mù tối.
Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả người Con đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi.
Người vẫn là một "con người". Người không biết bí mật của Chúa Cha, Đấng vượt lên trên tất cả. Đáng kinh ngạc thay! Thế mà cũng con người đó quả quyết sẽ đến từ mây trời để "tập hợp tất cả những người được tuyển chọn". Đây là một nhân vật phi thường, ngoài quan niệm thường tình của chúng ta.
37. Sự tái lâm (13,7-8.24-27) -- Chú giải mục vụ của William Barclay
Tại đây chắc chắn là Chúa Giêsu đang đề cập sự tái lâm của Ngài. Điểm quan trọng là Ngài khoác lên ý niệm của Ngài ba hình ảnh vốn là những phần của cơ cấu liên hệ với Ngày Của Chúa.
1/ Ngày của Chúa sẽ đến sau một thời gian chiến tranh. Trước ngày của Chúa sẽ có: “Động đất nhiều nơi, các dân tộc náo loạn. Các nước mưu đồ, các lãnh tụ bối rối, các vua chúa lo âu”.
“Vào giữa số dân chúng sống trên mặt đất, sẽ có sự kinh ngạc sửng sốt. Họ âm mưu gây chiến tranh với nhau, thành phố này chống lại thành phố nọ, địa điểm này chống địa điểm khác, dân nọ chống dân kia, vương quốc chống với vương quốc”.
Sách Các Sấm ký của Sybille thấy trước: “vua này cướp đất và bắt vua kia làm tù binh, dân tộc này cướp phá dân tộc khác và áp bức nhân dân, các nhà cầm quyền trên đất xông vào xứ của nhau, và đất nước biến thành người và một đế quốc dã man sẽ tàn phá Hellas và lấy đi sự giàu có của vùng đất phì nhiêu của nó, và người ta sẽ đối mặt để tranh chiến nhau” (3,633-647).
Sách Barúc 27,5-13 kể ra 12 việc sẽ đến trước kỷ nguyên mới “Trước hết sẽ có sự náo động khởi đầu, thứ hai sẽ có các nhân vật quan trọng bị giết. Thứ ba sẽ có nhiều người chết và thứ tư, gươm sẽ được gửi đi khắp nơi. Thứ năm sẽ có đói kém, hạn hán. Thứ sáu sẽ có động đất và nhiều chuyện kinh hoàng (trong bản thảo có một khoảng để trống), thứ tám sẽ có một đám đông vô số những bóng ma và sự tấn công của ma quỷ. Thứ chín, sẽ có lửa sa xuống. Thứ mười sẽ có cướp bóc và nhiều áp bức. Thứ mười một sẽ có sự gian ác và loạn dâm. Thứ mười hai sẽ có hỗn loạn vì tất cả những gì đã được nói trên đây đều hòa lẫn vào nhau”.
“Toàn dân trên đất đều bị thúc đẩy để chống nghịch lẫn nhau” (48,31). Và họ sẽ thù ghét nhau, gây chiến với nhau… Và ai thoát được chiến tranh thì lại chết vì động đất. Ai thoát khỏi động đất sẽ bị lửa thiêu rụi. Và ai thoát được lửa sẽ bị đói kém tiêu diệt”.
Rõ ràng khi Chúa Giêsu đề cập chiến tranh và tiếng ồn ào của chiến tranh là Ngài dùng các hình ảnh từng là những phần về các viễn ảnh tương lai của dân Do Thái.
2/ Trước ngày của Chúa, mặt trời, mặt trăng sẽ tối tăm. Chính Cựu Ước cũng đầy dẫy những câu như thế (Am 8,9; 2,10; 3,15; Is 13,10; 34,4).
Một lần nữa rõ ràng Chúa Giêsu đã sử dụng phần ngôn ngữ phổ thông mà ai cũng biết.
3/ Một phần của hình ảnh vẫn thường xuất hiện, là dân Do Thái từ bốn phương trời sẽ được thâu gọn về Palestine. Cựu Ước vốn đầy những ý niệm như vậy (Is 27,13; 35,8-10; Mk 7,10; Dcr 10,6-11). Nền văn chương đại chúng cũng rất thích ý niệm đó “Hãy thổi kèn trong Siđôn để kêu gọi các thánh, hãy làm cho trong cả Siđôn, người ta đều nghe tiếng Đấng đem Tin Mừng đến, bởi Thiên Chúa đã thương xót dân Israel và thăm viếng họ. Hãy đứng trên đỉnh núi, hỡi Giêrusalem và nhìn xem con cái Người từ phương Đông và phương Tây được Đức Chúa tập họp lại (Tv 11,1-3).
Khi đọc những lời lẽ đầy hình ảnh của Chúa Giêsu về sự tái lâm, chúng ta phải nhớ Ngài không hề ban cho chúng ta một bản đồ về cõi đời đời hay một thời biểu cho tương lai, nhưng Ngài chỉ dùng ngôn ngữ và các hình ảnh người Do Thái đã từng biết và sử dụng từ nhiều thế kỷ trước Ngài.
Nhưng điều vô cùng lý thú là những điều Chúa Giêsu tiên báo đã thật sự xảy ra. Ngài nói tiên tri về chiến tranh và trên thực tế, đạo quân đáng sợ của dân Batthê đang gây áp lực tại các biên giới của đế quốc Roma. Ngài đã nói tiên tri về động đất thì trong vòng bốn mươi năm, thế giới thuộc đế quốc Roma đã phải kinh hoàng vì cơn động đất tàn phá Laodikia và vụ núi Vesuvius phun lửa và phun thạch chôn vùi thành phố Pompeii. Ngài nói tiên tri về đói kém, thì dưới thời Claudius, thành phố Roma đã bị nạn đói. Thật đó là một thời kỳ đầy kinh hoàng, đến nỗi lúc Tacitus bắt đầu viết sử, ông đã bảo dường như mọi chuyện sắp xảy ra đều chứng tỏ các thần đang tìm cách báo thù chứ không phải cứu vớt đế quốc Roma.
Trong đoạn này, điều duy nhất chúng ta phải giữ là sự kiện Chúa Giêsu đã nói trước rằng Ngài sẽ tái lâm.
HÃY TỈNH THỨC (13,28-37)
Trong đoạn này có hai điểm cần đặc biệt cần ghi nhận.
1/ Thỉnh thoảng có người nghĩ rằng Chúa Giêsu bảo các việc này xảy ra trong vòng một thế hệ là Ngài nói sai. Nhưng Chúa nói đúng, vì câu này không hề ám chỉ tái lâm. Câu này không thể nói như thế vì ngay câu tiếp theo đó, Ngài bảo không có ai biết ngày giờ nào việc ấy sẽ xảy ra. Nó ám chỉ về những lời tiên tri của Chúa Giêsu và việc thành Giêrusalem thất thủ và Đền Thờ sẽ bị tàn phá, là những việc đã ứng nghiệm.
2/ Chúa Giêsu bảo rằng Ngài không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ tái lâm. Có nhiều điều Ngài giao trọn vào tay Thiên Chúa mà không thắc mắc. Không có lời cảnh cáo và quở trách nào nghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chúa tái lâm. Chắc chắn nếu chúng ta muốn truy tìm, tra vấn cho ra điều mà chính Chúa bằng lòng không tìm biết, thì tội đó quả là tội phạm thượng.
3/ Cho nên Chúa Giêsu rút ra một kết luận thực tiễn. Chúng ta cũng giống như những người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không biết lúc nào. Chúng ta đang sống trong bóng tối của cõi đời đời. Không có lý do gì để sợ hãi hoặc suốt ruột chờ trông. Điều có ý nghĩa nhất là hàng ngày chúng ta chu toàn bổn phận của mình, chúng ta phải sống, coi việc Ngài tái lâm lúc nào là việc rất bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc để Ngài sẽ xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp Vua!
Khi mở Phúc Âm Maccô 13, chúng tôi nói ngay đây là chương sách khó hiểu, nhưng cuối cùng một chân lý để lại cho chúng ta, vài điểm của chân lý đó là:
1/ Nó cho chúng ta biết chỉ có người của Chúa mới nhìn vào những bí mật của lịch sử. Chúa Giêsu đã thấy số phận của Giêrusalem mặc dù những người khác mù quáng, chẳng thấy gì. Một chính khách thật sự phải là người của Chúa. Một người muốn hướng dẫn xứ sở thì chính mình phải được Chúa hướng dẫn. Chỉ có người biết Chúa, mới có thể tham gia phần nào trong kế hoạch của Chúa.
2/ Nó cho ta biết hai điều về giáo lý Chúa tái lâm. (a) Đoạn này cho biết nó hàm chứa một sự kiện mà nếu ta quên hoặc xem thường, sẽ vô cùng nguy hiểm. (b) Nó cho biết bức tranh chứa đựng là hình ảnh của thời Chúa Giêsu, cho nên suy đoán về nó là điều vô ích, khi chính Chúa Giêsu cũng bằng lòng với sự không biết. Điều ta có thể chắc chắn là lịch sử phải đi về một điểm nào đó, phải có một kết thúc xảy ra.
3/ Nó cho ta biết trong mọi sự, việc làm điên dại hơn hết là quên Chúa mà đắm chìm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên rằng mình phải sẵn sàng để nghe tiếng kêu gọi. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cục sẽ không kinh khủng, nhưng là niềm vui đời đời.
- 13/11 Cầu nguyện là sức mạnh
- 12/11 Sống trong ngày của Chúa
- 11/11 Sống giây phút hiện tại
- 10/11 Biết Tạ Ơn Thiên Chúa.
- 09/11 Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ
- 08/11 Bổn phận với đồng loại
- 07/11 Hai đồng tiền của bà góa nghèo
- 06/11 Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn
- 05/11 Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
- 04/11 Lòng thương xót vô biên của Chúa