Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
18/02 Chúa Giêsu chịu cám dỗ
- Viết bởi Mc 1, 12-15
Chúa Giêsu chịu cám dỗ.
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY năm B.
"Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người".
Lời Chúa: Mc 1, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY B
Lời Chúa: St 9,8-15; 1Pr 3,18-22; Mc 1,12-15
1. Vào hoang địa--‘Manna’
2. Hãy hối cải--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Vào hoang địa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. “Tội lỗi và tình thương”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Nơi hoang địa--GM. Arthur Tonne
6. Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
7. Sám hối và tin vào Tin Mừng--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
8. Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Hãy sám hối--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
11. Mùa Chay: Hãy sám hối--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
12. Chiến thắng cám dỗ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
13. Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Inhaxio Hồ Thông
14. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
15. Cám dỗ thời nay--Lm. Xuân Hy Vọng
16. Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ--Lm. Tôma Aq. Trầm Phúc
17. Chiến thắng lòng tham--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Sự cám dỗ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
19. Sống hai mặt--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
20. Say nắng trong tình yêu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
21. Ba cạm bẫy của ma quỷ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
22. Cạm bẫy--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
23. Sống là chiến đấu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
24. Sám hối thì được cứu rỗi--Anmai, CSsR
25. Tái sinh--Lm. Vũ Đình Tường
26. Chay tịnh và cầu nguyện--AM Trần Bình An
27. Lòng thương cảm sâu xa--Peter Feldmier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
28. Hàng ngày vào hoang địa--AM Trần Bình An
29. Thần lành, thần dữ--Lm. Vũ Đình Tường
30. Ăn chay--Lm. Vũ Đình Tường
31. Thách đấu--Lm. Vũ Đình Tường
32. Cám dỗ trong hoang địa--Lm. Hồng Phúc
33. Đức Giêsu trong hoang địa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
34. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Văn Phan
35. Những cám dỗ của Mùa Chay--Lm. Thu Băng, CRM
36. Đọc lại câu chuyện cám dỗ từ sách Sáng Thế--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
37. Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
38. Con số 3 trong Mùa Chay--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
39. Món ăn năn--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
40. Biết mình đang đi về đâu--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
41. Cát bụi tuyệt vời--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
42. Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Suy niệm Lễ Tro----Lm. Ignatiô Trần Ngà
43. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Trần Ngà
44. Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng--JKN
45. Sống với chính mình--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
46. Hãy cải thiện và hãy tin--Lm. Mark Link
47. Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người--Lm. Giuse Lê Danh Tường
48. Câu chuyện hồng thủy--Lm. Anphong Trần Đức Phương
49. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
50. Đức Giêsu chiến thắng Satan--Lm. FX. Vũ Phan Long
51. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Alfonso
52. Cám dỗ và thử thách--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
53. Sống là chiến đấu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
54. Người ở trong hoang địa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
55. Trung thành với lời giao ước phép Rửa--Lm.Trần Bình Trọng
56. Chống trả tên cám dỗ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
57. Cùng Chúa Giêsu lên Giêrusalem--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
58. Suy niệm Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
59. Chọn lựa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
60. Thiên Chúa yêu thương tất cả thụ tạo. chúng ta cũng nên yêu thương như vậy--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển
61. Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ--Lm. Đan Vinh
62. Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa--LỄ TRO--Jos. Vinc. Ngọc Biển
63. Kiếp người vô thường--LỄ TRO--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
64. Lịch sử Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
65. Xét tật mình--THỨ TƯ LỄ TRO--JM. Lam Thy ĐVD
66. Tro bụi--Lm. Vinh Sơn
67. Chúa Nhật I Mùa Chay--Giáo phận Nha Trang
68. Chúa Nhật I Mùa Chay--Học viện Piô Giáo hoàng
69. Nhân phẩm là bụi tro--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
70. Tin là chấp nhận đường thập giá--Noel Quesson
71. Chúa Nhật I Mùa Chay--Noel Quesson
72. Ta yêu các ngươi từ lâu rồi. Hãy trở thành dân của Ta--Camille Gagnon
73. Tầm quan trọng cùa một phản ứng tốt--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
74. Chiến đấu để khỏi sa cơn cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
75. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
76. Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
77. Canh tân đời sống
78. Cải thiện
79. Nơi hoang dã
80. Chiến đấu!
81. Chúa Nhật 1 Mùa Chay
82. Cám dỗ
83. Chúa Nhật I Mùa Chay
84. Chúa Nhật I Mùa Chay
85. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào tin mừng
86. Cám dỗ
87. Hoang địa
88. Cuộc chiến
89. Dã thú
90. Cám dỗ
91. Đứa con của kẻ vô thần
92. Yếu tố con người
93. Ngoại trừ tội lỗi
94. Bị cám dỗ bởi việc lành
95. Tái tạo cuộc sống
96. Cầu nguyện để vượt qua cám dỗ--Huệ Minh
1.Vào hoang địa--‘Manna’
Suy Niệm
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay,
Hội Thánh lại mời chúng ta vào hoang địa với Đức Giêsu.
Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi đó,
ngay sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan
và nhận được Thánh Thần để lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu nguyện.
Một cuộc tĩnh tâm để định hướng tương lai,
qua đó Đức Giêsu thấy rõ con đường Ngài phải đi,
và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa
và nhận ra những cám dỗ đang bủa vây tôi,
những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới.
Nếu đời tôi là một chuỗi những chọn lựa,
thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái xấu.
Giữa những cái tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn.
Biết mình đã lạc hướng hay lệch hướng là điều cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn ngày xưa.
Nhưng có lẽ nó bị cám dỗ nhiều hơn xưa,
vì cuộc sống tiến bộ cho người ta nhiều chọn lựa.
Tôi phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video,
chọn một loại vải, một kiểu áo, chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa của tôi:
áp lực của quảng cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư luận...
Có những mời mọc nhắm vào các giác quan của tôi.
Các giác quan như những cánh của mở của căn nhà trống trải.
Bao kích thích khêu gợi như luồng gió lùa vào nhà.
Thắng được những đòi hỏi vô độ của thân xác
đòi hỏi một sự tự chủ lớn lao.
Thắng được những đam mê mù quáng của con tim
cần có một thái độ anh hùng từ bỏ.
Thắng được sự cứng cỏi, cố chấp của trí tuệ
cần có một lòng khiêm tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không ngừng,
vì con người vẫn nghiêng như tháp Pizza.
Cần phải tập nghiêng về điều ngược lại
để tạo lập được sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín,
chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình.
Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy.
Cám dỗ giả mù trước sự thật rành rành.
Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.
Cám dỗ sống một đời sống tầm thường và buông thả.
Cái cao cả của con người là chiến đấu và chiến thắng.
Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm,
con người mới thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu
để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của mình.
Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?
Cầu Nguyện
Như đoá sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết.
2.Hãy hối cải--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Giáo Hội bước vào Mùa Chay cùng với cả thế giới.
Cả thế giới đã sống Mùa Chay của mình từ hơn một năm qua.
Đến nay đã có hơn 110 triệu người bị nhiễm,
và 2,4 triệu người chết vì dịch bệnh Covid.
Cơn dịch bệnh kinh hoàng đã tác động đến toàn bộ cuộc sống
của hầu hết mọi người trên thế giới.
Đời sống tôn giáo cũng chịu ảnh hưởng nặng nề.
Nhà thờ đóng cửa, Thánh lễ Chúa nhật và các bí tích bị ngừng.
Nghi thức tiễn biệt người qua đời cũng làm trong vội vã.
Lo âu, buồn thảm, hoang mang, thất vọng.
Cả người có đức tin mạnh cũng thấy mình bị dao động.
Chúng ta đã và đang sống trong một Mùa Chay dài.
Mùa Chay của năm phụng vụ đi với Mùa Chay cuộc đời.
Điều đó làm cho Mùa Chay năm nay mang nét rất riêng.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thật ngắn,
kể lại chuyện Đức Giêsu bị Xatan cám dỗ, thử thách.
Nơi thử thách là hoang địa, vắng người ở, ít sự sống.
Đức Giêsu không tự ý đi vào hoang địa,
Ngài được Thần Khí dẫn vào, đẩy vào nơi vắng vẻ đó.
Có thể nói Thần Khí đưa Đức Giêsu vào một cuộc tĩnh tâm,
kéo dài nhiều ngày, trước khi bắt đầu thi hành sứ vụ.
Hoang địa vừa là nơi gần gũi thân tình với Thiên Chúa,
vừa là nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt với Xatan.
Hoang địa là nơi Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện,
nhưng cũng là nơi Ngài nghe những mời mọc của Xatan,
trước khi quyết định hướng đi sắp tới của mình.
Khi chịu phép rửa, Đức Giêsu là Người Con mà Cha hài lòng.
Ngài cũng là Đấng Mêsia được Thần Khí ngự xuống.
Còn nơi hoang địa, Xatan cám dỗ Ngài không sống theo ý Cha,
không sống theo Thần Khí, không đi vào con đường hẹp.
Đây là một thử thách thật sự khó khăn.
Đức Giêsu đã vượt qua được cơn thử thách này.
Thế giới hôm nay cũng đang ở trong một cơn thử thách lớn.
Thiên Chúa cho phép những thử thách đau khổ xảy ra
trong đời các Kitô hữu (1 Pr 1,6; 4,12; 1 Cr 10,13; Gc 1,13-15),
đời từng người, và trong cả dòng lịch sử nhân loại.
Chúng ta không hiểu, và cũng khó chấp nhận thử thách,
vì nó quá tàn nhẫn, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa độc ác,
vì nó đầy ngạo nghễ, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa bất lực.
Nhưng thử thách dạy chúng ta nhiều điều.
Bất chấp mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật,
một con vi-rút nhỏ bằng một phần bảy mươi ngàn sợi tóc
đã làm náo loạn cả thế giới, và cho thấy con người mong manh.
Nhẫn nại và khiêm tốn cầu xin trong cơn thử thách
là điều phải làm song song với nỗ lực dập tắt dịch bệnh.
Thiên Chúa nói với con người qua những thử thách.
Thái độ của chúng ta là khiêm tốn lắng nghe.
Thử thách đưa đến những hậu quả khủng khiếp,
nhưng chúng ta tin “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích lợi
cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28).
Thử thách là lời mời gọi khẩn thiết của Thiên Chúa.
Ngài mời chúng ta liên đới với nhau hơn,
cùng nhau chống lại những bệnh dịch mới đe dọa sự sống
hơn là chạy đua vũ trang và gây chiến tranh khắp nơi.
Ngài mời chúng ta lo cho nhau hơn, coi nhau như người nhà,
phá đi những bức tường ngăn cách giữa các quốc gia.
Ngài mời chúng ta sống nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn,
bớt mua sắm, bớt giờ cho internet, thêm giờ cho Chúa.
Ngài mời chúng ta phong tỏa cái xấu, giãn cách với tội lỗi,
tránh xa mọi lây nhiễm bằng thứ khẩu trang nhiều lớp,
và cẩn thận rửa tay mình cho sạch mọi ô nhơ.
Nạn đại dịch là một lời mời, một nhắc nhở
của Người Cha đầy yêu thương dành cho con cái.
Nếu chúng ta đáp lại lời mời đó bằng hoán cải, canh tân,
thì đại họa có thể trở thành cơ hội tuôn trào ân phúc.
Và Mùa Chay này thành thời gian tuyệt vời dẫn đến Phục Sinh.
Lời Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là vị Thượng Tế nhân từ,
chắc Chúa buồn và thương
khi thấy chúng con đang vật vã với cơn thử thách.
Chúa cảm thông với những gì chúng con đang trải qua,
vì chính Chúa đã nếm nỗi đau của cuộc Khổ nạn.
Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
đã khẩn khoản nài xin Cha cất chén đắng,
và cảm thấy bị Cha bỏ rơi khi hấp hối trên thập giá.
Chúa đã chịu thử thách về mọi mặt như chúng con,
nhưng vẫn giữ một niềm trung tín.
Lạy Chúa Giêsu là cây nho thật,
xin cho chúng con chấp nhận sự cắt tỉa của Chúa Cha,
để cành nho chúng con thêm trĩu quả.
Xin cho chúng con đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa,
Đấng không để chúng con bị thử thách vượt quá sức mình.
Xin cho chúng con trưởng thành hơn, cứng cáp hơn
qua những thử thách đau thương,
để trở nên như lưỡi gươm thép được tôi luyện
cho cuộc chiến chống lại quyền lực của ác thần. Amen.
3.Vào hoang địa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?
4.“Tội lỗi và tình thương”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2). Sống tinh thần Mùa Chay là khiêm tốn nhìn nhận mình còn nhiều tội lỗi, đồng thời nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Nhờ tình thương, chúng ta được canh tân đổi đời và nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được mời gọi thực hành những việc đạo đức truyền thống như chay tịnh, hãm mình, hy sinh, cầu nguyện. Thoạt nghĩ đến những thực hành này, chúng ta thường coi đó là những ràng buộc nặng nề, làm giảm tự do ngăn cản ham muốn hưởng thụ của chúng ta. Tuy vậy, những việc đạo đức của Mùa Chay, nếu được thực hiện có ý thức, sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em mình.
Bài đọc I trích sách Sáng thế giúp chúng ta rút ra bài học từ một biến cố trong quá khứ. Đây cũng là một kinh nghiệm về lòng từ bi hay thương xót của Thiên Chúa, mặc dù con người tội lỗi phản nghịch. Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi. Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người. Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6). Ngài đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi loài người và mọi loài thụ tạo, để thiết lập một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn. Dòng giống này phát sinh từ gia đình ông Nôê, người sống đạo đức và kính sợ Chúa. Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại có cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi. Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới. Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đoạn sách Sáng thế chúng ta được nghe hôm nay là kế hoạch của Thiên Chúa sau khi nước hồng thủy đã rút đi. Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy. Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây. Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II). Thánh nhân còn diễn tả: “Lãnh nhận phép Rửa, không phải để được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”. Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa. Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới. Đây là giao ước được ký kết trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là trưởng tử.
Việc cảm nhận thân phận tội lỗi sẽ dẫn chúng ta tới sự sám hối chân thành để cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay sẽ giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, được trở nên con người mới. Chúa nhật đầu tiên này của Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu để tìm lại chính mình. Bởi lẽ, giữa biết bao bon chen giành giật của cuộc sống, nhiều khi chúng ta trở thành vong bản, tức là đánh mất bản thân, sống trong lầm lạc, không có định hướng và tương lai. Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, Thánh Máccô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa – Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn. Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa lòng đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính. Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em. Tinh thần sa mạc giúp ta có sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bủa vây xung quanh chúng ta.
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách. Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộc sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành. Nhờ sám hối, chúng ta được hòa giải với Chúa và với anh chị em, để cùng nhau tiến bước trên con đường về nhà Cha, Đấng luôn yêu thương và chúc phúc cho chúng ta.
5.Nơi hoang địa--GM. Arthur Tonne
Richar Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật, Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne - O’neil viết vào năm 1933 tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được trình diễn rộng rãi vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Có gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa chay đầu, với bạn và tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống trong một nơi “hoang dã” một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại - sát nhân không gớm tay cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào giết hại hàng triệu người mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể xác, mà còn đặc biệt sự sống tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu của chúng ta nữa; Xin kể một vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma tuý, người xuất bản sách báo đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều sự dữ Chúa Kitô đến cứu chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến thắng những sự dữ này bằng đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện xin Chúa giúp, bằng sự hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế, thuần hoá những thú dữ ở giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú tính trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay. Trong tinh thần chúng ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày nay. Với Người, chúng ta thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã chiến thắng sự dữ trong thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
6.Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ”
1. Hoang địa
Tại sao Thần Khí đưa Đức Giê-su vào sa mạc hay hoang địa, chứ không phải là nơi nào khác? Đó là vì, trong bối cảnh lịch sử cứu độ và nhất là khởi đi từ kinh nghiệm Xuất Hành và hành trình tiến về Đất Hứa của Israen, hoang địa là nơi Thiên Chúa dẫn con người vào để gặp gỡ Ngài. Và để gặp gỡ Ngài, con người phải bỏ lại tất cả phương tiện, công việc, những lo lắng, những ràng buộc, những ngẫu tượng hay thần tượng như tiền bạc, danh vọng, lạc thú, để được tự do và bình tâm. Như xưa kia, Dân Chúa đã phải bỏ lại “Ai Cập” và tất cả những gì thuộc về “Ai Cập” ở đàng sau. Nhưng như chúng ta đều biết, điều này không dễ dàng, vì họ bỏ ra đi, nhưng trong lòng còn đầy quyến luyến.
Vì thế, hoang địa còn là nơi của thử thách, nhất là thử thách về lòng tin. Thật vậy, hoang địa là nơi không nhiều lương thực hay nước uống, để con người chỉ sống bằng của ăn, của uống, như là ơn Chúa ban từng ngày, giống như em bé được mẹ nuôi nấng từng ngày. Đó cũng chính là trường hợp của chúng ta trong thời gian tĩnh tâm, hay cách chúng ta sống bốn mươi ngày của Mùa Chay. Ngoài ra, hoang địa còn là nơi không có đường đi, để chỉ nhận Lời Chúa là:
Ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường cho con đi.
(Tv 119, 105)
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giê-su được nhìn nhận là Con Thiên Chúa; nhưng điều này không miễn cho Người khỏi chịu thử thách trong hoang địa, do chính Thần Khí dẫn đưa. Đức Giê-su Ki-tô, dù là Con Thiên Chúa, vẫn để cho mình được dẫn đi chịu thử thách, dù mang thân phận Thiên Chúa, Người vẫn muốn chia sẻ thân phận đầy thử thách của loài người chúng ta. Trong khi đó, loài người chúng ta lại ham muốn thân phận thần linh của Ngài, khi tin và làm theo lời của Ma Quỉ: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4-5)
Ngài chịu thử thách để cảm thông với thân phận và số phận đầy thử thách của loài người và từng người chúng ta, và nhất là để chia sẻ chiến thắng thử thách cho chúng ta; bởi vì cả loài người và từng người chúng ta, không ai đứng vững được trước thử thách. Hình ảnh Đức Giê-su sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người, diễn tả và loan báo chiến thắng của Đức Giê-su đối với thú tính, Xa tan, sự dữ và sự chết.
Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
(c. 12-13)
2. “Chịu Xa tan cám dỗ”
Sau khi chịu phép rửa, “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.” “Cám dỗ”, trong tiếng Hi lạp, còn có nghĩa là “thử thách”. Tương tự như trong tiếng Anh hay tiếng Pháp, động từ to tempt hay tenter vừa có nghĩa là “cám dỗ” vừa có nghĩa là “thử thách”; tùy theo chủ thể hay nội dung mà chúng ta hiểu đó là cám dỗ hay thử thách.
* Thiên Chúa thử thách con người (chứ không thể cám dỗ!); còn Xa tan thì cám dỗ. Và con người cũng thử thách Thiên Chúa nữa; như Đức Giê-su nói với Xa tan trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7); và như Dân Chúa trong sa mạc, thử thách Đức Chúa tới mười lần (x. Ds 14, 22).
* Và khi cám dỗ liên quan đến lòng tin, chứ không phải là các vấn đề luân lí (trộm cắp, giết người…) hay dục vọng, thì nên dịch là thử thách. Trong trường hợp của Đức Giê-su, Xatan “cám dỗ” Ngài về lòng tin mà Đức Giê-su đặt để nơi Thiên Chúa, chứ không phải là hay không thể là vấn đề luân lí hay giới tính (x. Mt 4, 1-11). Tương tự như Dân Chúa trong sa mạc, họ chịu thử thách về lòng tin. Bởi vì, theo sáng Sáng Thể (x. St 3) mặc khải cho chúng ta về tội nguyên tổ, thái độ nội tâm nghi ngờ Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ngay trong lòng của mình, mới là gốc của mọi tội, tội luân lí hay dục vọng.
Thiên Chúa “thử thách” con người, không chỉ qua những biến cố cuộc đời, nhưng qua chính thân phận và ơn gọi làm người, nhưng với mục đích khác hẳn. Giống như những thử thách trong sư phạm huấn luyện, đó chính là để cho chúng ta lớn lên trong tương quan tình yêu và nhưng không với Chúa. Còn Ma Quỉ, và những người hành động theo Ma Quỉ, ý thức hay không ý thức, thử thách người khác nhằm mục đích lên án; theo nghĩa này “thử thách” được gọi là “thử” hay “giăng bẫy”, như những người Pha-ri-sêu và luật sĩ hay làm để hại Đức Giê-su. Và ở mọi thời, nhất là thời nay, người ta hay làm hại nhau theo kiểu này[1].
Ngoài ra, loài người chúng ta cũng “chuyên môn” thử thách Chúa và thử thách nhau; trong trường hợp này, thử thách có nghĩa là: không tin, nên thử cho biết. Nhưng vì đã không tin, nên loài người chúng ta sẽ thử thách Chúa và thử thách nhau không cùng (rõ nhất là trường hợp của người ghen tương). Bởi lẽ, tin không phải đến từ biết, vì người ta không biết hết về Chúa và về nhau, nhưng đến từ quyết định tự do của con tim; tin là quà tặng của con tim (điều này được minh họa thật rõ trong tình yêu nam nữ).
Công trình của Thiên Chúa là con người tin vào Đấng Ngài sai đến (x. Ga 6, 29 theo bản văn Hi-lạp). Tin là cả một công trình; chính vì thế, công trình của ma quỉ cũng phải là làm cho con người không tin, nghi ngờ; và không tin vào Thiên Chúa, sẽ tất yếu tin vào những điều khác, thuộc về ma quỉ và sự chết. Không tin nơi Thiên Chúa, thì người ta sẽ thuộc về sự chết, làm việc sự chết, bởi vì sự chết là mạnh nhất, có khả năng xí xóa tất cả, giải quyết mọi vấn đề, và nhất là làm cho mọi người “huề cả làng”.
3. “Sau khi ông Gio-an bị nộp”
“Sau khi ông Gioan bị nộp”, điều này có nghĩa là bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công. Đó là kế hoạch của con người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận những gì thuộc sự thật và ánh sáng. Nhưng đồng thời đó cũng là, một cách mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế; Ngài nương theo hành trình của sự dữ và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của mình. Thật vậy, sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giê-su, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ: “Anh em hãy nhận lấy mà ăn. Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.
Và ngay sau khi Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại. Nhưng đó lại là là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, bày tỏ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa: “Người ta sẽ nộp anh em…, nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết” (Mc 13, 9). Hay đúng hơn, đó là những cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những khó khăn và thử thách của chúng ta.
------------
[1][1] Trong tòa án Thượng Hội Đồng, câu hỏi của vị Thượng Tế: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63), cũng là một hành động giăng bẫy. Trước đó, Đức Giê-su luôn phá bẫy người ta giăng ra, nhưng lần này, Ngài để cho mình bị mắc bẫy và bị kết án: “Hắn nói phạm thượng… Hắn đáng chết” (c. 65-66). Đó thực sự là cái bẫy chết người, vì mang dáng vẻ bề ngoài “đi tìm sự thật”, hơn nữa còn đưa cả “Thiên Chúa Hằng Sống” vào làm “mồi” giăng bẫy! Biến Thiên Chúa thành “mồi giăng bẫy”, với ý đồ giết chết, đó mới là phạm thượng! Giống như Con Rắn nói với bà E-và: “Có thật Thiên Chúa bảo…” (St 3, 1). Vậy thì ai phạm thượng? Loài người chúng ta, ngang qua hình ảnh Vị Thượng Tế cao quí, hay Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó? Giăng bẫy kiểu này, chính là hành động đặc trưng của Satan. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây thì được thoát khỏi” (Tv 141, 10; sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ loại bỏ lời này; lời loan báo mầu nhiệm Vượt Qua!)
7.Sám hối và tin vào Tin Mừng--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Sám hối và tin vào Tin Mừng có thể diễn tả cụ thể như câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần”. Hay câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Muốn được ăn bát cơm dẻo thơm, nhà nông phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, đổ ra bao nhiêu công sức gian khổ, muốn được cây kim xinh đẹp, người công nhân phải gò lưng mài dũa cây sắt han rỉ bao nhiêu ngày tháng!
Muốn tin được Tin Mừng, chúng ta phải sám hối với tâm hồn cay đắng, xót xa: “Họ phải thú nhận tội lỗi và ông Gioan làm phép rửa cho họ trong giòng sông Giócđan” (Mc. 1,5). Thú tội là việc làm cay đắng, xót xa, không còn lên mặt tự phụ và kiêu ngạo, chỉ còn khiêm tốn chôn mình dưới giòng sông, nơi sâu thẳm nhất, để chuẩn bị đón rước Tin Mừng Đấng Cứu Thế.
Ông Noe cũng phải thanh tẩy trong Đại hồng thủy sau một thời gian dầy công sám hối. Ông và cả gia đình sám hối bằng việc làm, bằng bao nhiêu ngày tháng gian khổ băng rừng đốn cây, chẻ gỗ đóng tầu. Một công việc to lớn kỳ dị bị chê cười, nhạo báng như một lũ điên không giống ai. Mặc cho thế gian nguyền rủa khinh bỉ, Noe tin vào Lời Chúa sống đức nghĩa vẹn toàn giữa những người đồng thời đầy tội ác. Noe hằng đi đứng rập theo ý Thiên Chúa (St. 6, 9), nên ông sẵn sàng chịu muôn ngàn đắng cay, muôn ngàn hy sinh để chiến thắng mọi thử thách cam go. Noe và gia đình đã thực sự sám hối bằng đức tin có việc làm, chứ không chỉ đau đớn hối hận. Nhờ đó, cả gia đình ông và bao nhiêu muôn chim cầm thú đã được cứu sống. Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước mới. Ông là cha một dòng dõi mới, một dân tộc mới.
Noe và dòng dõi ông là hình bóng tạm thời của Đức Giêsu là đầu một dân tộc mới, một dân tộc trường tồn muôn đời, là dân Chúa, là Giáo hội Chúa Kitô.
Bài Tin Mừng và bài đọc 2 cho thấy rõ chân lý hiển nhiên đó. Đức Giêsu, dầu là Thiên Chúa, đã đến chịu phép rửa sám hối của ông Gioan, Người cũng phải khiêm tốn chôn mình dưới sông Giócđan. Hơn nữa, Người còn phải chịu rửa bằng Thánh Thần và lửa (Mt. 3, 11); “Thánh Thần đã thúc đẩy Người vào hoang địa, ở đó lâu ngày, chịu satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú”. Hoang địa là nơi phải sống khắc khổ, thiếu thốn, nghèo khổ, nhưng trong lành, và thanh thoát mọi tham lam phàm tục. Sống nghèo khó thì lại được chúc phúc: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì nước Trời là của họ. Sống trong khóc lóc đắng cay thì lại được Thiên Chúa an ủi (Mt. 5, 3-5).
Satan là tướng quỷ dữ, gieo rắc chống lại Thiên Chúa, lôi kéo vào tội lỗi, vào cực hình. Phép rửa bằng Thánh Thần sẽ giúp chiến thắng Satan đem ta trở về Thiên Chúa, hướng dẫn ta vào con đường thánh thiện vinh phúc muôn thuở.
Sống giữa dã thú là sống giữa loài hung dữ, dã man, tàn ác, bằng phép rửa Thánh Thần sẽ thanh luyện ta sạch mọi dã man, gian tà, tội ác trở nên hiền hòa khả ái, nhân từ, yêu thương, an lành.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trở nên Con chí ái của Đức Chúa Cha, mọi sự vâng theo thánh ý Cha như Người đã cầu nguyện: “Một theo ý Cha, đừng theo ý con”. Và Đức Chúa Cha đã hoàn toàn hài lòng về Người. Người không còn một chút bẩn nhơ bụi trần, hoàn toàn siêu thoát mọi tham lam, cho nên chiến thắng và tiêu diệt tướng quỷ dễ dàng. Người sống giữa những quân thù như dã thú mà vẫn vô cùng dịu dàng nhân ái, không ai nghe thấy tiếng Người dức lác, Người không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không nỡ tắt tim đèn còn khói.
Thánh Phêrô còn nói: “Đức Kitô đã chịu chết vì tội chúng ta, Đấng công chính đã chết cho kẻ bất chính. Thân xác Người bị giết chết, nhưng nhờ Thánh Thần Người được phục sinh … Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, Người đã tiêu diệt sự chết cho chúng ta được hưởng sự sống đời đời”.
“Đức Kitô đã chịu chết”, đó chính là phép rửa bằng lửa. Lửa bừng lên trong trái tim Người vì yêu thương chúng ta. Người đã nói: “Không có tình yêu cao quý nào bằng tình yêu chết cho người mình yêu”. Lửa tình yêu mà Đức Giêsu đã thực hiện như Người nói: “Thầy đem lửa đến trần gian, Thầy ước mong lửa ấy bừng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc. 12, 49-50).
Đức Giêsu đã khắc khoải sám hối thay cho nhân loại qua chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa. Người đã hoàn tất. Các Tông đồ cũng đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần (Lễ Hiện Xuống). Thánh Thần đã thúc đẩy các ông đem lửa tình yêu của Đức Giêsu bừng cháy lên, tỏa sáng khắp thế gian, hoang địa và đã chiếu tỏa trên chúng ta, thúc đẩy chúng ta sám hối và tin vào Tin mừng. Để chúng ta cũng được chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng kiên tâm sám hối và tin vào Tin mừng, cho chúng con được thanh tẩy, để sống trong Thánh Thần và trong lửa tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
8.Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.
I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu
Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?
Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?
Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.
Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn người khác...
Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.
Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.
Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. "Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?". "Ơn Ta đủ cho con" (2Cor.12, 8-9).
Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: "cứ xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt.7,7).
Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.
II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới
Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.
Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.
Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa
Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?
Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.
Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.
Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.
Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, "Ngài là đường, là sự thật và là sự sống". Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia "chức thầy" của Đức Giêsu.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài.
9.Hãy sám hối--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Yêsu: “Thời điểm đã đến, Nước Trời đã gần bên, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
1. Đã đến thời: đây là thời ân sủng, đây là ngày cứu độ
Ngày xưa thời Noah, Thiên Chúa đã dủ lòng thương xót cứu một số nhỏ tám người khỏi chết vì nước lụt. Và rồi qua biến cố đó, Thiên Chúa đã hứa sẽ không bao giờ hủy diệt loài người bằng nước lụt như vậy nữa. Thiên Chúa đã lập giao ước với loài người và với mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa cùng Noah và mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ nhắc nhớ để Thiên Chúa không hủy diệt con người cho dù con người có phạm tội. Cầu vồng là dấu chỉ và bảo đảm tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Thời điểm hiện tại, hôm nay, còn có điều quý hơn cầu vồng rất nhiều. Đó là lý do Đức Yêsu nói: “thời đã đến.” Ngày xưa cầu vồng là dấu chỉ và bằng chứng Thiên Chúa không hủy diệt con người ngay cả khi người ta phạm tội, thì hôm nay “có điều gì đó” bảo đảm Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người nữa. Thánh Phaolô diễn tả thời điểm này bằng câu: “Đây là ngày giải phóng, đây là thời cứu độ.” Cái gì rất quý đã xuất hiện; và “điều quý” đó cho thấy Nước Thiên Chúa đang tới.
Đức Yêsu xuất hiện như dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Qua Đức Yêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người khi con người phạm tội đáng chết, nhưng còn nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Đức Yêsu là dấu chỉ và là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở giữa con người: Nước Trời đang đến gần. Hãy trở lại với Thiên Chúa, vì Nước Trời đang đến gần, vì Thiên Chúa đang yêu thương con người.
2. Hãy sám hối
Đức Yêsu trước khi đi rao giảng, Ngài đã tới sông Yordan cúi đầu nhận phép rửa thống hối từ tay Yoan Tẩy Giả. Đức Yêsu sám hối không phải vì tội lỗi của Ngài, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nên Ngài đại diện con người cúi đầu sám hối trước Thiên Chúa. Sám hối là nhận biết mình lỗi lầm, sai phạm, xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em, để trở lại với Thiên Chúa và với anh chị em, để xin lỗi Thiên Chúa và anh chị em mình, để bắt đầu một đời sống mới.
Tội là lỗi đức công bình, vi phạm quyền lợi của người khác, xúc phạm đến ngôi vị khác, dù đó là Thiên Chúa hay con người. Thiên Chúa tạo dựng nên con người, nên theo công bằng, con người phải tôn kính Thiên Chúa như Đấng tạo dựng. Con người phải tùy thuộc Thiên Chúa như Đấng tạo dựng nên mình, đó là công bình. Nếu con người muốn độc lập với Thiên Chúa, là phủ nhận quyền tạo dựng của Thiên Chúa, là bất công với Thiên Chúa. Mười giới răn Thiên Chúa, là những giới hạn cho con người biết mình đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị khác, dù của Thiên Chúa hay của con người. Chẳng hạn, cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng mình, thì mình phải có thái độ tôn kính các ngài; không tôn kính các ngài, là không tròn đạo hiếu, là lỗi đức công bình đối với cha mẹ. Mỗi người đều được quyền sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn, nếu ai không nói sự thật, lường gạt người khác và làm tổn thương người ta, là xúc phạm đến họ. Không ai được quyền bắt người khác nói điều họ không muốn; mỗi người cũng được quyền tự do làm theo điều mình muốn mà không xúc phạm đến quyền lợi của người khác.
Sám hối, là nhận ra sự thật về chính mình; nhận ra và thú nhận mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và con người, muốn bắt đầu lại cuộc sống mới, hoàn trả lại cho Thiên Chúa và cho tha nhân điều những ngôi vị đó có quyền được, đó là sám hối. Không thể coi là sám hối nếu không thấy mình thực có lỗi; nếu cứ xin lỗi mà không thật sự thấy mình có lỗi, e rằng đó không là hành vi khiêm tốn thật sự. Đức Yêsu chịu phép rửa sám hối, vì Ngài gánh tội trần gian; Ngài thấy Ngài cần sám hối vì Ngài đại diện tất cả con người.
3. Tin vào Tin Mừng
Nước Thiên Chúa đã gần, là cách nói để chỉ Thiên Chúa đang hiện diện, cần con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, để Thiên Chúa hiện diện nơi lòng mình, và qua mình để Thiên Chúa hiện diện trong môi trường mình sống, với những người mình tiếp xúc. Thiên Chúa vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi và ở mọi thời điểm, qua thiên nhiên và mọi tạo vật như dấu chỉ của Ngài. Tuy nhiên, qua Đức Yêsu, Thiên Chúa hiện diện với con người một cách rất đặc biệt. Chính Đức Yêsu cũng ý thức điều này ở những giây phút cuối đời Ngài: “ai thấy thầy là thấy Cha.”
Sám hối, trở lại với Thiên Chúa và con người, là điều kiện cần để con người có thể đón nhận Tin Mừng là chính Đức Yêsu Kitô. Đón nhận Đức Yêsu, cũng là đón nhận lời rao giảng của Ngài, là để Ngài giáo huấn hầu trở nên con Thiên Chúa, để có thể sống hạnh phúc không chỉ đời sau nhưng ngay hiện tại. Đức Yêsu là đường, là sự thật, và là sự sống. Đức Yêsu như người mẫu, sống theo Ngài con người sẽ tìm được bình an và hạnh phúc thật sự.
Đức Yêsu là Tin Mừng cho con người không chỉ từ khi Ngài sống lại, nhưng Ngài là Tin Mừng cho con người ngay từ biến cố nhập thể. Đức Yêsu là Tin Mừng Thiên Chúa ban cho con người; điều này con người vẫn phải tin chứ không thể chứng minh như một chân lý toán học. Những lý chứng về Đức Yêsu chỉ có tính gợi ý và soi sáng. Mỗi người đều phải tin và phó thác cho Thiên Chúa khi tin Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể và là Tin Mừng cho tất cả con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đâu là điểm yếu của bạn, dễ làm bạn xúc phạm Thiên Chúa và con người nhất?
2. Bạn có cảm thấy tâm tình sám hối, muốn bắt đầu một đời sống mới trong Thiên Chúa không? Xin chia sẻ điều này.
10.Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người (Mc 1,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Mùa Chay là "lúc thuận tiện" để lãnh nhận ơn Chúa, là "thời cứu độ". Nhưng để có thể lãnh nhận ơn Chúa, chúng ta phải "sám hối và tin vào Tin Mừng".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa và xin Ngài giúp chúng ta thực hiện lời Ngài.
II. Gợi ý sám hối
· Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối?
· Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không?
· Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: St 9,8-15
Sau cơn hồng thuỷ (theo St 7,12 thì kéo dài 40 ngày), Thiên Chúa lập giao ước với Nôê.
· Nội dung giao ước: sẽ không còn xảy ra một tai họa nào tương tự như thế nữa cho loài người.
· Kẻ được hưởng giao ước: "mọi xác phàm", tức tất cả các sinh vật.
· Điều kiện: đây là một giao ước đơn phương. Chỉ một mình Thiên Chúa cam kết với loài người; loài người không bị buộc điều gì cả.
· Dấu chỉ giao ước này: cầu vòng trên trời.
2. Đáp ca: Tv 24
Tv 24 là lời cầu nguyện của một người công chính: ông bày tỏ niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa; ông xin Chúa cho biết đường lối của Ngài.
Tv này áp dụng rất đúng cho Nôê: Ông là người công chính được Chúa cứu khỏi nạn hồng thuỷ và dẫn đưa ông tới một thế giới mới.
Tv này cũng có thể dùng làm lời cầu nguyện cho các tín hữu bước vào Mùa Chay: cũng như Nôê, họ bước vào thời gian thử thách 40 ngày; nếu họ theo đường lối Chúa thì họ sẽ tới được một thế giới mới và lập giao ước mới với Chúa.
3. Tin Mừng: Mc 1,12-15
Đoạn Tin Mừng này có 2 ý lớn:
a/ Đức Giêsu ăn chay: Ngài ăn chay 40 ngày (như thời gian xảy ra cơn lụt). Trong thời gian đó Ngài tìm hiểu đường lối Thiên Chúa (như Tv 24), và sau đó Ngài bắt đầu sứ vụ công khai.
b/ Đức Giêsu loan báo Tin Mừng: "Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
4. Bài đọc II: 1 Pr 3,18-22
Thánh Phêrô nhắc lại chuyện Hồng thuỷ xưa và coi đó là hình bóng của phép rửa tội: Ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống Nôê và gia đình; ngày nay phép rửa cũng cứu thoát con người như vậy nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Quà và ơn
Sứ điệp thứ nhất mà Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay gởi đến chúng ta là: Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.
Người ta thường tặng quà vào những dịp nào? Những dịp tặng quà là Tết, đám cưới, sinh nhật v.v. Thường thì ai tặng quà cho ai? Người tặng quà thường là người có liên hệ tình nghĩa thế nào đó với người được tặng, chẳng hạn cấp dưới đối với cấp trên, học trò đối với thầy cô, người chịu ơn đền đáp cho người thi ơn. Vì thế có thể nói "quà" thường là thứ "có qua có lại".
Khi "có qua" mà không "có lại" thì gọi là "ơn" (Tiếng hy lạp Charis luôn bao hàm tính cách miễn phí). Các bài đọc hôm nay kể đến 2 ơn mà Thiên Chúa ban cho loài người:
· Ơn ban sự sống (xem phần giải thích bài đọc I): vì loài người tội lỗi nên bị phạt phải chịu nạn hồng thuỷ. Nhưng Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Nôe. Sau khi cơn hồng thuỷ kết thúc, Thiên Chúa lập giao ước rằng từ nay sẽ không bao giờ Ngài cho xảy ra một đại họa như thế nữa. Đây là một giao ước đơn phương: Thiên Chúa không buộc loài người làm gì cả, chỉ một mình Ngài hứa và cam kết giữ lời hứa ấy. Sau này loài người lại tiếp tục phạm tội nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành với lới cam kết đơn phương ấy.
· Ơn ban sự sống mới qua bí tích Rửa tội (Xem phần giải thích Bài đọc 2): chúng ta đâu có công gì để được ơn này, nhưng Thiên Chúa đã ban chỉ vì yêu thương chúng ta.
Khi nhận quà thì ta mừng, khi nhận ơn thì ta cảm động. Vậy, Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, chúng ta có mừng không? Và còn hơn quà nữa, Thiên Chúa luôn ban ơn cho chúng ta, chúng ta có cảm động không?
* 2. Ý nghĩa Mùa Chay
a/ Một thời gian cầu nguyện: Ngày xưa, Môsê đã ở trên núi Sinai 40 ngày, ngôn sứ Êlia cũng ở trên núi Horép 40 ngày. Trong thời gian đó, các ngài đã cầu nguyện và đã gặp được Thiên Chúa. Trong thời gian 40 ngày Mùa Chay, việc đầu tiên chúng ta phải để ý làm là cầu nguyện như các ngài.
b/ Một thời gian chiến đấu: Ngày xưa ông Nôê ở trong tàu 40 ngày chiến đấu với phong ba bão táp của cơn hồng thuỷ; Đức Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan. Noi gương các Ngài, chúng ta cũng hãy chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ trong Mùa Chay này.
c/ Một thời gian sám hối và đón nhận Tin Mừng: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám hối là từ bỏ con đường sai lạc cũ để quay về con đường chính. Trong Mùa Chay, chúng ta cũng quan tâm hơn đến việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa.
* 3. Chiếc cầu vồng
Hình ảnh chiếc cầu vồng của bài đọc I vừa đẹp vừa gợi rất nhiều ý cho chúng ta suy gẫm trong Mùa Chay:
· Chiếc cầu vồng là một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất. Chính vì thế mà Thiên Chúa dùng nó làm dấu chỉ giao ước giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với loài người.
· Sau cơn mưa, trời lại sáng và chiếc cầu vồng xuất hiện rực rỡ. Như thế, chiếc cầu vồng còn là dấu chỉ giao ước được tái lập, trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.
· Cầu vồng mang 7 sắc rất đẹp. Nó còn là dấu chỉ tương giao tốt đẹp giữa Thiên Chúa với con người.
Phải chăng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng rất tốt đẹp hồi thuở ban đầu, nhưng rồi do tội lỗi, chúng ta như rơi vào cơn bão lụt. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu thoát chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta tái lập liên hệ thân thương với Ngài trong Mùa Chay này, để rồi tình nghĩa giữa chúng ta với Ngài lại tươi đẹp như trước?
* 4. Thiên đàng đánh mất và thiên đàng gặp lại
Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào sa mạc.
Trong phòng triển lãm tưởng tượng của chúng ta hôm nay, có bày bức tranh tứ bình, gồm hai cặp tranh đôi một đối xứng. Hai bức đầu, một bên vẽ cảnh sa mạc hoang vắng, Chúa đang bị Satan thử thách. Một bên vẽ cảnh bình yên thanh thản. Chúa đang ngồi giữa bầy dã thú đã trở nên hiền như chiên cừu. Hai bức sau, bên phải vẽ cảnh vườn địa đàng tươi đẹp. Ađam Eva trẻ trung đầy sức sống vui hưởng những ngày hạnh phúc giữa một thiên nhiên hài hòa hoa thơm quả ngọt. Bên trái, vẫn là Ađam, Eva, nhưng khuôn mặt hốc hác, trán nhăn nheo ướt đẫm mồ hôi, dáng hao gầy mòn mỏi vì mệt nhọc và già yếu, giữa một thiên nhiên khô cằn gai góc.
Đó là thân phận con người sau khi sa ngã. Con người không còn thể sống hài hòa với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình.
Nhưng Đức Giêsu đã đến để đảo ngược tình thế. Ngài sống giữa sa mạc, một thiên nhiên thù nghịch. Ngài bị thử thách gay go. Nhưng rồi Ngài đã thắng nghịch cảnh và quỉ dữ: Ngài sống yên bình hài hòa giữa một vũ tụ đã được cảm hóa.
Chỉ bằng một câu ngắn, Marcô đã vẽ nên bức tranh tứ bình đó: "Ngài ở trong hoang địa bốn mươi này, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và các Thiên sứ hầu hạ Ngài".
Công trình tạo dựng thứ nhất của Thiên Chúa đã bị loài người phá hỏng. Chúa đến để tái tạo lại, làm công trình tạo dựng thứ hai. "Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng".
Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, bắt đầu sứ vụ, Thần Khí Chúa đã ngự trên Ngài. Thần Khí ấy, cũng như trong ngày đầu cuộc tạo dựng, đang bay là là trên những vùng đất khô cằn khắc nghiệt, và hoang mạc đang dần dần trở nên xanh tươi, trổ hoa thơm quả ngọt.
Vậy ra thiên đàng mà Ađam và Eva đã đánh mất vẫn còn đó, phía trước mỗi người. Nếu chúng ta biết "sám hối" và tin vào Tin mừng Đức Kitô" chúng ta sẽ gặp lại thiên đường đã mất.
Mùa Chay 40 ngày thinh lặng sa mạc, hãy để lòng chúng ta lắng xuống để bị cám dỗ, bị lôi cuốn bởi lòng cậy trông hy vọng tìm lại thiên đường đã mất, nhờ Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta.
5. Dã thú và thiên thần
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh rất lạ: "Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người"
Câu này gồm 2 phần mang hai sắc thái khác hẳn nhau nhưng có liên hệ nhân quả với nhau:
· Phần đầu là một cảnh khó khăn "Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ": Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, như ngày xưa hai nguyên tổ Ađam Evà trong vườn Địa Đàng, và như dân Do Thái trong sa mạc. Nhưng Ngài chiến đấu với những cám dỗ đó và đã chiến thắng.
· Phần sau là một cảnh thoải mái "sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người": (1) Trước khi hai nguyên tổ phạm tội, các ngài đã sống an hòa giữa các dã thú (xem St 2,19-20); Sau này khi mơ tới ngày tìm lại địa đàng đã mất, ngôn sứ Isaia cũng tưởng tượng cảnh con người và dã thú sống chung hòa thuận với nhau (xem Is 11,6-8: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng... Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang..."; (2) Còn về hình ảnh các thiên sứ hầu hạ, Tv 91,9-12 hiểu rằng đó là ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho người nào biết nương tựa nơi Ngài ("Vì ngươi đã chọn Giavê làm nơi ẩn náu, Đấng Tối cao làm chốn dung thân... nên Người ra lệnh cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên mọi lối ngươi đi..."
Vì Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng chúng nên Ngài được hưởng sự an vui như đang sống trong vườn địa đàng và được Thiên Chúa đặc biệt che chở giữ gìn. Phần thưởng của Đức Giêsu khuyến khích chúng ta can đảm chiến đấu với các cám dỗ.
6. Cạm bẫy
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông làm áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
*
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: "Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ" (Mc.1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: "Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ".
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẫn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: "Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình". Vì chưng có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
*
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Đổi mới
Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.
Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh sống bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp tục ăn xin.
Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay đổi cách sống rất khó; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong rất chậm; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.
Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài mà phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói quen xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.
8. Mùa Chay và Mùa Xuân
Mùa Xuân là mùa đổi mới: cỏ cây hoa lá đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa. Nhưng muốn có thế thì trước đó chúng phải chịu đựng một mùa thu ảm đạm, lá rụng, cành xơ xác... rồi một mùa đông trơ trụi, lạnh giá.
Mùa Chay đến đúng vào Mùa Xuân và cũng chính là Mùa Xuân của tâm hồn, có thể biến chúng ta thành những con người mới.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng sợ hãi chấp nhận để cho những chiếc lá thói quen cũ phải rụng đi
Xin giúp con đừng sợ hãi phải đối diện với cảnh nghèo nàn trơ trụi của tâm hồn
Bởi vì có như thế thì Chúa mới có thể đổi mới con thành con người mới, xứng đáng là môn đệ tốt của Chúa.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong suốt mùa chay, Hội thánh mời gọi chúng ta cùng với Đức Giêsu trải qua hai kinh nghiệm là: gặp gỡ Thiên Chúa và đấu tranh với sự dữ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / nhờ Mùa Chay này biết sám hối thành thật / mạnh dạn đổi mới suy nghĩ và hành động / để việc truyền giáo cho thế giới được kết quả tốt đẹp hơn.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết thành thật sám hối và sửa sai những lỗi lầm / để có thể sớm đem lại cho người dân ám no, tự do, và hạnh phúc thật.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang ngụp lặn trong những đam mê tiền của, xác thịt, danh vọng / được nghe lời kêu gọi sám hối để quay về với đời sống công chính và lương thiện.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta, nhất là những người còn đang rối rắm, bỏ mùa Phục Sinh / biết mau mắn trở về để sống xứng đáng với công ơn cứu chuộc của Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa xin giúp chúng con trong Mùa Chay này, biết cố gắng siêng năng cầu nguyện và đi dự lễ, để được nhiều ơn Chúa mà vượt qua mọi cơn cám dỗ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong Mùa Chay này: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ".
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...
VII. Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em được bình an.
11.Mùa Chay: Hãy sám hối--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Chúng ta bước vào Mùa Chay thánh. Đây là thời gian mà thánh Phaolô gọi là thời gian thuận tiện, ngày cứu độ (2Cr 6,2b). Mùa chay là thời gian thuận lợi để chúng ta rà xét lại con người của chúng ta để biết chúng ta đang như thế nào, có đi đúng con đường Chúa đã chỉ cho không, mà nếu chúng ta đã đi lệch khỏi con đường Chúa chỉ dạy thì phải ăn năn sám hối trở về con đường lành. Sám hối là trở về với Chúa.
I. SÁM HỐI THEO THÁNH KINH
Ngay từ đầu, con người đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa luôn kêu mời họ. Lời đáp trả tiếng mời gọi của Thiên Chúa sẽ đòi họ phải biến cải, rồi trong suốt cuộc sống phải có thái độ sám hối. Do đó, hoán cải và sám hối chiếm một địa vị đáng kể trong mạc khải Thánh kinh.
Từ ngữ thông dụng nhất là động từ sub diễn đạt ý tưởng thay đổi hướng đi, trở về. Trên bình diện tôn giáo, nó biểu thị việc người ta từ bỏ những gì xấu và quay về Thiên Chúa. Ngày nay người ta hay dùng danh từ metanoia chỉ sự thống hối, ăn năn, trở về với Chúa.
1. Trong Cựu ước
a) Thực hành trong cuộc sống
Người dân hiểu rằng mình đã ký giao ước với Thiên Chúa và giao ước đã bị vi phạm do tội lỗi của dân, cần phải nối lại giao ước ấy. Để nối lại giao ước ấy người ta đã khẩn nài Thiên Chúa tha thứ bằng cách thực hành những việc khổ chế và những phụng vụ sám hối: chay tịnh (Tl 20,26; 1V 21,8tt), xé áo mình ra và mặc áo nhặm (1V 20,31t; Is 22,12; x. Ga 3,5-8), nằm trên tro (Is 58,5; Sm 12,16). Trong các buổi cử hành phụng vụ, người ta rên siết và than khóc như trong đám tang (Tl 2,4; Gl 1,13).
b) Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ
Các ngôn sứ đã tuyên sấm lời Chúa cho dân giúp họ nhận ra sự phản bội của mình mà sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.
Trước tiên, ngôn sứ Nathan đã được sai đến cùng vua Đavít cảnh cáo về tội ngoại tình. Đavít đã được hướng dẫn thú nhận tội lỗi mình (2Sm 12,13), đoạn đền tội theo qui luật và sau cùng chịu Thiên Chúa sửa phạt (Sm 12,13-23).
Tuy nhiên sứ điệp sám hối của các ngôn sứ, nhất là từ thế kỷ thứ 8 nhắm tới toàn thể dân chúng, Israel đã vi phạm giao ước, “đã bỏ Giavê và khinh rẻ Đấng thánh của Israel” (Is 1,4). Giavê có quyền bỏ họ nếu họ không hoán cải. Thế nên, việc kêu gọi sám hối sẽ là một khía cạnh cốt yếu trong cuộc rao giảng của các ngôn sứ.
Amos, ngôn sứ của sự công chính, không chỉ hài lòng với việc tố cáo tội lỗi của người đương thời mà còn phải sự lành chứ không phải sự dữ, phải “chê ghét sự dữ và yêu mến sự lành” (Am 5,14 t). Điều đó bao hàm việc chỉnh đốn hạnh kiểm và thực thi nghiêm chỉnh sự công chính, chỉ có sự quay đổi như vậy mới có thể được Thiên Chúa dủ lòng thương xót “nhóm còn lại của Giuse” (Am 5,15t)
Cũng thế, Osée đòi buộc phải thực sự dứt bỏ tội lỗi và đặc biệt là dứt bỏ sự sùng bái ngẫu tượng. Ông loan báo: Thiên Chúa sẽ ban lại ân huệ của Ngài và sẽ nguôi giận (Os 14,2-9).
Isaia tố cáo mọi tội lỗi nơi dân Giuđa: vi phạm công bình, làm sai lạc phụng tự, bám víu vào chính trị loài người vv... Chỉ có việc hoán cải chân thực mới mang lại sự cứu rỗi, vì nơi nào không qui phục thánh ý của Thiên Chúa, thì phụng tự chẳng có giá trị gì cả (Is 1,11-15; x. Am 5,21-25). Isaia bị phản đối, nhưng ông cũng có thể xác quyết một điều là: ”Nhóm còn lại sẽ trở về... với Thiên Chúa hùng mạnh” (Is 10,21). Dân tộc sau cũng được hưởng ơn cứu rỗi sẽ toàn những người hối cải mà thôi.
Việc nhấn mạnh đến những tâm tình bên trong phải dâng tiến Thiên Chúa đã chóng trở thành một đề tài thông dụng trong giáo huấn của các ngôn sứ.
Mika rao giảng công chính, hiền từ và khiêm nhường (Mk 6,8).
Xophonia lặp lại khiêm nhường và thành thật (Xp 2,3; 3,12t).
Nhưng Giêrêmia theo đường hướng tư tưởng của Osée, đã quảng diễn rộng rãi chủ đề hoán cải. Sở dĩ ngôn sứ loan báo các tai họa đe dọa Giuđa, chính vì để mỗi người từ bỏ con đường bất chính trở về và để Giavê có thể tha thứ họ (Gr 36,3).
Ezechiel, trung thành với truyền thống ngôn sứ, đặt trọng tâm sứ điệp của ông vào việc cần phải hoán cải trong lúc thực hiện những lời đe dọa của Thiên Chúa, “Hãy vứt xa tội lỗi của các ngươi đã vấp phạm, hãy tạo cho mình một quả tim mới và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi phải chết? Ta có muốn cho ai phải chết đâu! Hãy hoán cải và các ngươi sẽ được sống” (Ed 18, 31t).
Vậy từ Amos đến Ezechiel, giáo thuyết về hoán cải vẫn được nghiên cứu sâu xa, song song với mức độ hiểu biết về tội lỗi. Vào cuối thời lưu đầy, sứ điệp an ủi ghi nhận Israel đã hoán cải hữu hiệu, được cứu độ. Và sau Israel, đến lượt chư dân cũng sẽ hoán cải: từ bỏ các ngẫu tượng, họ đều quay về với Thiên Chúa hằng sống (Ed 45,14t; Gr 16,19tt).
2. Trong Tân ước
a) Gioan Tẩy giả
Đây là ngôn sứ bản lề giữa Cựu ước và Tân ước. Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ hội tụ lại với tất cả vẻ tinh tuyền của nó trong lời giáo huấn ông, vị ngôn sứ cuối cùng. Luca đã tóm lược sứ mệnh người như sau: “Người sẽ dẫn dắt nhiều con cái Israel về với Chúa, Thiên Chúa họ” (Lc 1,16t). Sứ điệp của người được đúc kết trong câu: ”Hãy hoán cải vì Nước Trời đã gần kề” (Mt 3,2).
Gioan khuyên mọi người phải tự nhận là kẻ có tội, phải sinh hoa trái xứng với lòng thống hối (Mt 3,8), chấp nhận một nếp sống mới thích hợp với tình trạng mình (Lc 3,10-14). Để đánh dấu cuộc hoán cải này, Gioan trao ban một phép rửa bằng nước để chuẩn bị các hối nhân nhận lãnh phép rửa bằng lửa và bằng Thánh Thần mà Đấng Messia sẽ ban (Mt 3,11tt).
b) Đức Giêsu
Ngài cũng là một đại ngôn sứ trong Tân ước. Mở đầu việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài cũng dùng lời mời gọi hoán cải mà ông Gioan Tẩy giả đã rao giảng trước: ”Hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 1,15; Mt 4,17), Ngài đã đến chính là để kêu gọi tội nhân hoán cải (Lc 5, 32) Đó chính là một khía cạnh cốt yếu của Tin Mừng Nước Trời.
Nhưng sứ điệp hoán cải gặp nhiều chống đối từ việc dính bén của cải (Mc 10,21-25) cho tới tính kiêu căng của Pharisêu (Lc 18,9). Quả thật, tính ngoan cố hiện tại của Israel là dấu chỉ sự cứng lòng (Mt 13,15tt; x. Is 6,10). Nếu không thay đổi nếp sống, thì các kẻ nghe lời Đức Giêsu mà vẫn còn cố chấp trong tội lỗi sẽ bị hủy diệt (Lc 13, 1-5).
Khi đòi hỏi hoán cải, Đức Giêsu không có ý nhằm tới phụng vụ sám hối với hình thức bên ngoài, mà chính là sự thay đổi con tim khiến ta lại trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,3tt), tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt 6,33) nghĩa là chỉnh đốn lại cuộc sống của mình theo Luật mới.
c) Các Tông đồ
Lúc sinh thời, Đức Giêsu đã sai các sứ đồ đi rao giảng sám hối và loan truyền Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Mc 6,12). Sau khi sống lại, Ngài đã nhắc lại cho họ sứ mệnh ấy: Nhân danh Người, các ngài sẽ đi rao giảng sự thống hối cho chư dân để họ được tha tội (Lc 24,47), vì tội lỗi sẽ được tha thứ cho những ai được các ngài tha thứ (Ga 20,23). Sách Công vụ tông đồ và các thư cho ta thấy mệnh lệnh này được chu toàn thế nào. Tuy nhiên, tùy trường hợp là Do thái hay lương dân, mà việc hoán cải này mặc hình thái khác biệt nhau.
d) Hội thánh Công giáo
Hành vi hoán cải mà phép rửa niêm ấn được hoàn tất cách dứt khoát một lần mà thôi. Không thể lặp lại ơn sủng ấy lần nào nữa (Dt 6,6). Thế nhưng những người đã chịu phép rửa vẫn có thể sa ngã phạm tội: cộng đoàn sơ khai ngay từ lúc đầu đã có kinh nghiệm về điều đó. Trong trường hợp này, dù sao chăng nữa sự ăn năn cũng vẫn cần thiết nếu người ta muốn tham dự vào ơn cứu rỗi, ví dụ Phêrô đã kêu gọi nhà ma thuật Simon hoán cải (cvtđ 8,22), Giacôbê hối thúc các Kitô hữu nhiệt thành lo dẫn đưa những người tội lỗi ra khỏi sự lầm lạc của họ (Gc 5,19t). Phaolô vui mừng vì các tín hữu Corintô đã ăn năn (2Cr 7,9t). Sau cùng, trong sứ điệp gửi bảy Giáo hội mà sách Khải huyền nói tới, thấy hiện rõ những lời mời gọi ăn năn, những lời mời gọi cho thấy đã có những người sa ngã không còn sốt mến như xưa (Kh 2,5; 16,21t).
3. Sám hối là điều cần thiết
Trong Cựu ước và Tân ước, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi con người hãy bỏ con đường tội lỗi mà trở về với Ngài. Lòng sám hối được biểu lộ ra qua những dòng nước mắt ăn năn. Điếu này rất tốt đẹp, hữu ích và làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Truyện: nước mắt sám hối
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: ”Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: ”Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: ”Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.
(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
II. NHU CẦU PHẢI SÁM HỐI
Ta hãy đọc một đoạn Phúc âm theo thánh Luca nói về dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,44-47). Trong bài Phúc âm này, ta thấy Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về con chiên lạc. Con chiên bị thất lạc hoặc tự ý riêng mà bị thất lạc hoặc người khác làm cho bị lạc, cả hai cần được tìm về trong đàn. Nếu con chiên lạc mà được tìm thấy thì chủ vui mừng biết bao! Người chủ phải tổ chức tiệc ăn mừng. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cũng kêu gọi những người đã lạc đường hãy ăn năn trở lại; và Thiên Chúa vui mừng biết bao khi có người tội lỗi ăn năn trở lại (Lc 15,4-7).
Trong mùa Chay, ta hay nghe cái từ ngữ Sám hối. Sám hối có nghĩa là trở về, trở về nơi mình đã xuất phát. Nói trở về là nói mình đang ở xa. Xa nhà, nay tôi trở về. Khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự cách biệt.
Khi định nghĩa trở về trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa. Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ, thì dường như tôi không xa Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.
Đọc dụ ngôn con chiên lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn. Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Phúc âm trên, ta thấy sự trở về có thể là cần thiết cho những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong nhà thờ.
Do đó, chúng ta đừng nghĩ rằng: chỉ những người không tin Chúa hay đã bỏ Chúa mới cần trở về; còn chúng ta là những Kitô hữu đích danh, hằng ngày vẫn đi lễ, xưng tội, rước lễ, làm các việc lành phúc đức thì chẳng cần phải trở về vì chúng ta đang ở trong đạo, trong Giáo hội mà!
Nhưng rất có thể chúng ta đã trở nên vô đạo hoặc tệ hơn nữa là vô thần lúc nào không biết; tuy mang danh là Kitô hữu mà đời sống còn tệ hơn người vô đạo. Người ngoại đạo tuy ở ngoài đạo, ngoài Giáo hội mà lòng họ vẫn liên kết với đạo, vẫn có lòng tin, vẫn muốn sống vươn lên trong tâm tình ước muốn:
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Cũng như bây giờ, có người ở trong nhà thờ mà lòng trí họ đang ở ngoài nhà thờ, trong khi đó có nhiều người đang ở ngoài nhà thờ mà lòng trí họ đang ở trong nhà thờ.
Vì vậy trong mùa Chay này ta thử xét lại, tuy mình là Kitô hữu đấy mà có thực sự gắn bó và ở trong Giáo hội không. Tuy là con cái Chúa đấy mà có sống trong ân tình của Chúa không hay là ta đã xa Chúa? Nếu thành thực xét mình thì không ai dám nói mình là người sống thánh thiện, sống khăng khít với Chúa, chỉ có những người Pharisêu và Luật sĩ thì mới dám nói như vậy (x. Lc 16,15). Vì thế, chúng ta phải rà xét lại cuộc sống của chúng ta xem như thế nào, sống xa Chúa bao nhiêu và quyết tâm trở về. Sự trở về đòi ta phải thành thực và can đảm nhìn nhận những lỗi lẫm của mình để xin Chúa ban ơn tha thứ.
Truyện: ông Mahatma Gandhi
Mahatma Gandhi có kể về cuộc đời ông như sau: Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, không cho tôi được giây phút bình an. Tôi không thể sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn.
Muốn sám hối, điều kiện cần là phải biết mình, có biết mình có tội, có biết mình mắc lỗi lầm thì mới có thể sám hối được; nếu không có tội thì làm gì phải thống hối? Những người Luật sĩ và Pharisêu là những người không biết mình, họ luôn tự hào là những người đạo đức thánh thiện thì làm gì phải sám hối, làm gì phải quay trở lại? Những lời kêu mời của Chúa Giêsu chẳng có tác dụng gì đối với họ, trái lại càng làm cho họ thêm thù ghét.
Truyện: thủ tướng Bốphốp nhận lỗi
Theo một bản tin của hãng thông tấn Amsa truyền đi, thì vị thủ tướng của nước Úc là Bốphốp đã bị cảnh sát công lộ phạt 100 Úc kim vì đi xe hơi mà không đeo giây an toàn. Sự kiện xẩy ra sau khi đài truyền hình số 9 của Úc trình chiếu cảnh thủ tướng đang ngồi trong chiếc công xa chở ông đến thành phố Besthen mà không thắt dây an toàn. Theo dõi hình ảnh ấy, nhiều khán thính giả đã gọi dây nói đến sở cảnh sát của tiểu bang Besthen để phản đối việc thủ tướng của họ không giữ luật giao thông. Cũng ngày hôm đó, giám đốc sở cảnh sát bang Uyheslen đã nhận được một cú điện thoại của thủ tướng Hốp, người được xem là có quyền lực cao nhất tại Úc, đã nhìn nhận lỗi lầm vì không giữ đúng luật giao thông, và ông đã xin được xử lý như tất cả mọi người công dân khác. Kết quả là sở cảnh sát của tiểu bang đã phạt ông 100 Úc kim.
(Hạt giống âm thầm (bản ronéo), tr 320)
III. THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THA THỨ
1. Trong Cựu ước
Lịch sử dân Israel xưa là lịch sử của một dân phản bội và của lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Dân Chúa luôn phản bội giao ước nhưng Thiên Chúa không thất vọng, Người luôn kêu mời họ trở lại để sống trong ân tình của Người. Chúng ta hãy nhìn qua cách cư xử của dân.
a) Trong sa mạc
Sau phép lạ lớn lao làm cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân, dân Chúa tiếp tục cuộc hành trình đi về đất hứa. Trong sa mạc, dân Chúa luôn càm ràm và phản đối ông Maisen như trường hợp ở Meriba và ở Massa. Có lần Thiên Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhieu người. Dân chúng hồi tâm, nhờ ông Maisen can thiệp với Chúa. Chúa nhận lời và bảo ông Maisen đúc con rắn bằng đồng treo trên cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn sẽ được khỏi.
b) Nơi đất hứa
Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ của Ai cập, đem họ vào đất hứa chảy sữa cùng mật, phân phát cho dân Ngài phần đất của dân ngoại làm cơ nghiệp. Thiên Chúa chỉ đòi buộc dân Ngài phải trung thành, không được thờ các thần của dân ngoại. Nhưng dân Chúa đã bất trung với giao ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa, nên Ngài để cho dân ngoại đến giầy xéo đất nước và bắt họ đi lưu đầy. Vua Nabuchodonosor bắt họ đi lưu đầy ở Babylon từ năm 721 đến năm 538 họ mới được trở về với chỉ dụ của vua Cyrô (2V 17,6), cuộc lưu đầy kéo dài 83 năm.
c) Cảnh cáo và khuyên răn
Khi dân Chúa đã trở về quê hương sau thời gian lưu đầy, trùng tu lại đền thờ Giêrusalem, dân vui mừng vì được giải phóng, lo việc thờ phượng Chúa. Nhưng chứng nào tật ấy, dân lại bất trung, đi vào vết xe cũ, Thiên Chúa sai nhiều tiên tri đến cảnh cáo và khuyên răn như thời còn bị lưu đầy:
“Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (Ed 18, 30b-31).
d) Thiên Chúa tha thứ
Tuy con người phản bội, Thiên Chúa vẫn luôn tha thứ. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều đó:
Thiên Chúa xúi ngôn sứ Osée đi kiếm một con điếm về làm vợ. Lẽ thường thì không ai làm như vậy. Thanh niên họ có chơi thì chơi với gái điếm, còn khi lấy vợ thì phải tìm đến con gái nhà lành chứ! Đàng này ông Osée nghe lời Chúa đi lấy một cô gái điếm về làm vợ. Hai người thương yêu nhau thắm thiết. Bà ta sinh ra cho ông được ba đứa con và đặt cho mỗi đứa một tên kỳ quặc, nếu dịch ra tiếng Việt thì có nghĩa như là “Nguyễn-văn-Chúa-không-thương-mày-nữa”.
Ngày tháng trôi qua, nhớ lại cảnh sống xưa, bà ta bỏ ông để đi theo cái nghề cũ. Chúng ta thử xem ông ta có đủ can đảm mà tha thứ và còn đi rước bà ta về, lại còn yêu thương như trước không? Khó quá!
Thiên Chúa lại xúi ông Osée đem tiền đem bạc đi để chuộc bà ta về. Ông ta đã làm như vậy. Khi đã trở về, ông ta lại tiếp tục yêu thương vợ như cũ.
Đây là câu chuyện có thật trong Thánh kinh và cũng là hình ảnh nói lên Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta mặc dầu chúng ta phản bội Ngài. Xin lỗi ông bà anh chị em, tôi có thể nói rằng: trước mặt Thiên Chúa chúng ta đều là gái điếm cả, vì gái điếm thì theo hết người này tới người khác, còn chúng ta thì theo hết thần này đến thần khác: thần tình ái, thần sắc dục, thần tiền của, thần danh vọng, thần cờ bạc, và không biết bao nhiêu thần khác nữa.
2. Trong Tân ước
Chúng ta là dân Israel mới, tiếp nối dân Israel cũ, chúng ta lại đi vào con đường cũ: bất trung, phản bội. Chúa Giêsu đã chịu chết chuộc tội cho chúng ta và đã lấy máu đổ ra trên thập giá để ký kết giao ước vĩnh cửu với loài người. Chúa luôn trung thành với lời hứa, nhưng con người lại phản bội. Tuy thế, Ngài vẫn thương yêu và tha thứ, kêu gọi con cái hãy trở về trong tình thương của Ngài.
Thánh Luca đã kể ra ba dụ ngôn; con chiên lạc, đồng tiền đánh mất và nhất là câu chuyện đứa con phung phá (Lc 15, 11-32) đã chứng tỏ: tuy người con đã từ bỏ cha mà đi hoang nhưng người cha vẫn nóng lòng chờ đợi con trở về:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Nhớ ai hết đứng lại ngồi không yên.
(ca dao)
Khi người con hối hận trở về, người cha vội sai gia nhân mặc áo mới cho cậu, xỏ giầy vào chân, xỏ nhẫn vào tay, giết con bò đã vỗ béo ăn mừng. Tại sao lại có sẵn áo mới, giầy mới và bê đã vỗ béo? Điều đó chứng tỏ người cha hy vọng cậu con trai sẽ trở về nên đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ đó. Người cha không thất vọng về người con. Cũng thế, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, Ngài vẫn luôn giang cánh tay ra chờ đón.
3. Chúa Giêsu, nguồn ơn tha thứ
Thiên Chúa là người Cha giầu lòng thương xót sẵn sàng tha thứ cho những sự bội bạc của con cái như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15). Ta hãy đặt mình vào tình trạng của đứa con trong bước đường cùng và hãy tự nhủ mình: ”Thôi, ta đứng lên, đi về cùng Cha và thưa với Ngài: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như người làm công cho cha vậy” (Lc 15, 18-19).
Đức hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận trong bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô 2 và giáo triều Roma đã trình bầy đề tài “các khuyết điểm của Chúa Giêsu” để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Ngài.
a) Đức Giêsu không có trí nhớ tốt
Trên thập giá, trong lúc hấp hối. Đức Giêsu nghe tên trộm bên phải nói: ”Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi ông vào nước của ông” (Lc 23,42). Giả sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời: ”Tôi sẽ không quên anh nhưng anh phải đền bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục”. Trái lại, Chúa trả lời anh ta: ”Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Điều tương tự cũng xẩy ra với người đàn bà tội lỗi đã xức dầu thơm cho chân Chúa: Chúa Giêsu chẳng hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ nói: ”...tội của con tuy nhiều, nhưng chúng đều được tha hết vì con đã yêu nhiều” (Lc 7,47).
Cũng tương tự như đứa con hoang đàng (Lc 15)
Chúa Giêsu không có một trí nhớ như trí nhớ của tôi, không những Ngài tha thứ, và tha thứ cho mỗi người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.
b) Chúa Giêsu đi thi toán chắc rớt
Giả sử Chúa Giêsu đi thi toán, chắc Ngài bị đánh rớt. Dụ ngôn người mục tử nhân lành chứng tỏ điều đó. Một người mục tử có một trăm con chiên. Một con chiên bị lạc và không chần chờ gì, ông ta đi tìm chiên ấy, bỏ 99 con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác lên vai (x. Lc 15,4-7)
Đối với Chúa Giêsu, 1 có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế nữa! Có ai chấp nhận được điều đó không? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng từ đới này sang đời khác...
c) Chúa Giêsu chả biết gì về Triết học
Ngài không hiểu gì về Luận lý học khi đưa ra dụ ngôn: một người đàn bà có 10 đồng bạc, rủi rớt mất một đồng, bèn thắp đèn mà tìm. Khi bà tìm được thì hớn hở gọi hàng xóm láng giềng: ”Bà con ơi, hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất” (Lc 15, 8-10)
Thật chẳng hợp lý tí nào khi mời hàng xóm như vậy vì bà phải chi phí còn hơn đồng bạc tìm được. Nhưng, đó lại là chính cách Chúa đã dùng để chỉ sự vui mừng của Thiên Chúa khi một người ăn năn trở lại.
Ở đây chúng ta có thể nói như Blaise Pascal: ”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết được”.
d) Chúa Giêsu không biết tài chính và kinh tế
Ngài chả có ý tưởng gì về kinh tế và tài chính. Trong dụ ngôn những kẻ làm vườn nho, ông chủ trả cùng một số tiền cho những kẻ làm đầu tắt mặt tối từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, và những kẻ gần chiều mới bắt tay vào việc. Không biết Ngài có tính toán sai không? Không! Ngài chú ý làm như vậy vì Ngài không thương chúng ta vì công trạng của chúng ta. Tình yêu của Ngài là hoàn toàn miễn phí và vượt xa trí hiểu của chúng ta. Ngài đã có những “khuyết điểm” vì Ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thực sự không có tính toán so đo, không biên giới, không điều kiện, không ngăn cách và không nhớ những sai phạm (x. Mt 20, 1-16)
e) Chúa Giêsu là một người phiêu lưu
Chúa Giêsu là người mua lấy rủi ro về phần mình. Người ta muốn chiêu dụ nhiều người theo mình thì hứa cho thật nhiều những điều tốt lành, trong khi Ngài lại hứa những gian lao thử thách, bắt bớ và giam cầm cho những kẻ theo Ngài. Trong 2000 năm qua, chúng ta đã chứng kiến bao rủi ro, thiệt thòi cho những kẻ muốn theo Ngài, nhưng số người theo Ngài càng đông, họ dám hy sinh cả mạng sống cho Ngài (x. Mt 820; Lc 9-23)
Để kết luận chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế - Vì Ngài là Tình yêu (cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không so đo tính toán, không đặt điều kiện.
(Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, tr 39-44)
IV. THỰC HÀNH SÁM HỐI
1. Hãy can đảm trở về
Lời Chúa trong đầu Mùa Chay cũng nhắc nhở cho mọi người chúng ta, là những con cái yêu thương của Ngài: ”Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 4,15). Sám hối ở đây theo ngôn sứ Giêrêmia là thay đổi hướng đi, thực tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới.
Trong sứ điệp gửi giới trẻ thế giới mùa Chay năm 2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã lấy đề tài: ”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập gía hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo ý ngài, Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để tới vinh quang. Ngài đã vạch cho chúng ta con đường phải đi theo. Chỉ có một con đường duy nhất do Chúa đã đi, người môn đệ phải theo con đường đó mà không được vạch ra một con đường nào khác. Nếu chẳng may đã đi trệch đường thì phải có can đảm trở lại, không ngại khó khăn.
Nhà chí sĩ Phan bội Châu đã nói: ”Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đôi khi chúng ta thấy chưa có kết quả sau bao cố gắng, nhưng không sao, hãy bắt đầu lại, Chúa không đòi chúng ta phải thu được kết quả trước mắt, Ngài chỉ đòi chúng ta cố gắng, cố gắng không ngừng. Theo tôi nghĩ: cố gắng là đã thành công rồi, vì không cố gắng là lùi. Bao lâu còn cố gắng là còn tiến.
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của một danh nhân? Mới nghe thì có vẻ không đúng, nhưng suy cho kỹ thì nó nói cho chúng ta biết rằng: không một cố gắng nào mà vô ích, mỗi cố gắng tuy ít ỏi nhưng đều góp vào thành công chung:
“Một ngàn việc tiến,
Chín trăm chín mươi chín việc lùi:
Đó là TIẾN BỘ”.
(Henri Frédéric Amiel)
Truyện: phải biết bắt đầu lại
Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một vị Linh mục và nói:
- Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả: Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu con đều phạm hết. Con nản quá! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng, hơn là nằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào.
Vị Linh mục cười và nói:
- Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi.
Cả hai cha con cười xòa.
Vị Linh mục nói tiếp:
- Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Nguời cha an ủi: Thôi con ạ, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông thì nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sơm mai vác cuốc ra đồng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ.
Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con:
- Mỗi ngày con làm cho cha 20 mét vuông thôi, con làm được không?
- Dạ, ít vậy thì được.
Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.
Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi.
Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào Linh mục, rồi nói:
- Cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
Câu chuyện trên đây nhắc cho chúng ta: biết mình lạc đường cần trờ về, đó là điều tốt nhưng thực hiện cuộc trở về thì khó, vì chúng ta bị cám dỗ tháo lui. Chính Đức Giêsu cũng bị cám dỗ để đi xa con đường sứ mạng cứu thế của Ngài như ta đã suy niệm trong bài Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa chay (x. Lc 4,1-13).
Cám dỗ cũng cần thiết vì nó có lợi cho ta, nhờ đó mới biết lòng trung thành của ta đối với Chúa và làm cho chúng ta càng thêm công trạng như lời Sách Thánh nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức” (Hc 2,5).
2. Đừng bao giờ trì hoãn
Có những người chi biết sống với quá khứ để luyến tiếc, có những người chỉ biết hướng về tương lai để hành động, nhưng nhiều người lại quên hiện tại. Hiện tại là hậu quả của quá khứ và nguyên nhân của tương lai. Tương lai nằm trong hiện tại. Muốn có một tương lai sáng sủa thì phải được chuẩn bị trong hiện tại.
Một lỗi lầm thông tường của tuổi trẻ là hay xem thường NGÀY NAY. Người bạn trẻ hay nghĩ rằng những công việc to lớn, những cái gì đáng làm đều thuộc ở NGÀY MAI. Còn NGÀY NAY là tầm thường, là không đáng kể nên họ không muốn bắt tay làm gì cả.
Thực tế hơn, nhà văn hào Anh J. Ruskin cho khắc vào phiến đá hai chữ: ”TO DAY” (Ngày nay) và đặt nó trên bàn viết để mỗi ngày ông ta có việc chiêm nghiệm về bổn phận của mình là làm xong những công việc của NGÀY NAY. Một thi nhân Hy lạp thời xưa cũng đã viết “CARPE DIEM” để khuyên chúng ta hãy biết dùng một cách đầy đủ ngày hôm nay.
(Phạm cao Tùng, Tôi có thể nói thẳng với anh, in lần 3, tr 106)
Kinh nghiệm cho hay: chúng ta có những chương trình qui mô, những dự tính tốt đẹp cần thực hiện, nhưng chúng ta lại rùi rắng, không muốn bắt tay vào việc ngay. Người ta thường nói: những gì có thể làm được hôm nay thì đừng để đến ngày mai theo phương châm “carpe diem”. Muốn sửa đổi con người của mình, muốn làm thánh thì hãy bắt tay vào việc, chớ bao giờ trì hoãn kẻo bỏ lỡ cơ hội.
Truyện: kế hoạch trì hoãn
Ngày kia Satan hỏi các đồ đệ:
- Làm thế nào để chiếm đoạt được các linh hồn?
Quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ rỉ tai: không có Chúa đâu.
Satan bảo:
- Họ đâu có tin, nhìn vào vũ trụ, không thể nào chối là không có Thiên Chúa được.
Qủi nhỏ thứ hai bảo:
- Tôi sẽ rỉ tai: chết là hết, chết là hết.
Sa tan bảo:
- Không được, vì sự sống đời đời đã được khắc ghi vào chính giữa trái tim con người.
Thế là cả bọn cùng trầm ngâm suy nghĩ.
Bỗng một con qủa đen đủi đứng lên nói:
- Tôi có cách: tôi sẽ nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết: Chúa có thật và chết chưa phải là hết. Tôi bảo họ phải sám hối ăn năn và trở về với Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ: gấp gì, còn chán thì giờ! Để gần chết rồi lại ăn năn, thế là được hưởng cả đời này lẫn đời sau, phải không nào?
Qủi vương đập bàn cười ha hả:
- Tuyệt, thật tuyệt, theo kế hoạch này, chúng ta sẽ thành công.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện, thời gian cứu độ, Chúa luôn yêu thương chúng ta, luôn kêu gọi chúng ta trở về, sẵn sàng tha thư mọi lỗi lầm. Đừng ai hồ nghi về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, hãy đứng dậy trở về cùng Chúa, đừng sợ quá muộn vì trơ về trong tình yêu thì không bao giờ quá muộn.
Truyện: trở về trong tình yêu
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuỵện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng: ”Bấy giờ mới trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói: ”Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng thương yêu tha thứ cho con cái tôi.
(Thiên Phúc, Tình yêu mạnh hơn sự chết. tr11-12)
Tình yêu thương cao cả vô vị lợi đó, chính là hình ảnh lu mờ của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chúng ta sống ngay lành, thánh thiện, chúng ta không giúp ích gì hay tăng thêm một chút gì cho Chúa, nhưng khi chúng ta lầm lỗi, chính lúc chúng ta làm phiền lòng Người chỉ vì Chúa yêu thương chúng ta, những lúc đó Chúa luôn mong mỏi chúng ta trở về.
Vậy trong cuộc đời làm con Chúa, đừng bao giờ ngã lòng thất vọng, vì với tình thương thì không bao giờ quá muộn, chỉ cần chúng ta mở rộng cõi lòng để yêu thương, để hoán cải và ước ao nên trọn lành.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm lời ngôn sứ Ezechiel: ”Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết? Quả thật. Ta không thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng. Vậy, hãy TRỞ LẠI và hãy sống” (Ed 18,30b-32).
12.Chiến thắng cám dỗ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.
13.Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm B nêu bật Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ cõi chết để bước vào cõi sống.
St 9: 8-15
Đoạn trích sách Sáng Thế gợi lên hình bóng của Phép Rửa qua việc một nhân loại mới được cứu thoát khỏi trận Hồng Thủy. Thiên Chúa lập giao ước với nhân loại mới này qua ông Nô-ê.
1Pr 3: 18-22
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người lãnh nhận Phép Rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ việc họ tham dự vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô và đó cũng là dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.
Mc 1: 12-15
Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn cuộc thử thách mà Đức Giê-su đã kinh qua trong hoang địa: Ngài chiến thắng các chước cám dỗ, tức thế lực của sự Ác.
BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)
Chữ “Ước”, để chỉ hai phần của bộ Kinh Thánh: “Cựu Ước và Tân Ước”, được dịch từ nguyên ngữ Hy-lạp sang tiếng La-tin: “Testamentum”, có nghĩa là “Giao Ước”. Vì thế, “Cựu Ước và Tân Ước” phải được hiểu trọn nghĩa là “Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới”.
Quả thật, chữ “Giao Ước” tóm gọn tinh thần của toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là, những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt đoạn giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân. Nhưng chỗ đứt đoạn này về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa chắp lại: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và tái lập giao ước với nhân loại.
1. Giao Ước với ông Nô-ê
Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Hồng Thủy như án phạt của Thiên Chúa trên khắp toàn cõi địa cầu. Giao Ước với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, được thiết lập cách mặc nhiên; Giao Ước với ông Nô-ê được thiết lập cách minh nhiên. Qua ông Nô-ê và hậu duệ của ông, Thiên Chúa giao ước với toàn thể nhân loại.
Chiều kích hoàn vũ của Giao Ước với ông Nô-ê này càng đáng chú ý hơn khi so sánh với những giao ước sau này. Thật vậy, Giao Ước với tổ phụ Áp-ra-ham cũng như Giao Ước với ông Mô-sê bị thu hẹp, chỉ còn liên quan đến một dân tộc được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn này có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ cho hết mọi người).
Mặt khác, sau trận Hồng Thủy, Thiên Chúa ban cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đây đích thật là một công trình sáng tạo mới.
2. Ơn cứu độ phổ quát dưới dấu chỉ của nước
Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Hồng Thủy này dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài Giao Ước và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế (có lẽ trong thời kỳ lưu đày hay sau đó ít lâu) nêu bật đề tài Giao Ước.
Bài Đọc I được trích từ chuyện tích thuộc truyền thống tư tế này, trong đó chúng ta gặp thấy đề tài Giao Ước. Tác giả của chuyện tích này khoác cho chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít một quan niệm thần học. Khi phân biệt giáo huấn của Thiên Chúa trong chuyện tích thuộc truyền thống Gia-vít, tác giả tư tế đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho hết mọi người, ở đó nước sẽ đóng một vai trò quan trọng. Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, thì cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, vì lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này, gợi lên chuyện tích này là hình bóng Phép Rửa.
3. Giao ước với tất cả mọi sinh vật
Giao Ước của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi sinh vật. Cử chỉ này là một hành vi sáng tạo trong các chuyện tích về nguồn gốc nhân loại (St 1-11). Ông Nô-ê, A-đam mới, cũng như những sinh vật đều đã được cứu thoát, từ nay được bảo tồn. Thiên Chúa không từ bỏ bất cứ gì từ cuộc sáng tạo ban đầu.
Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng đại họa Hồng Thủy đã đến hồi kết thúc, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc sáng tạo đầu tiên. Mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, Phép Rửa có ý nghĩa của một cuộc vượt qua từ cõi chết bước vào cõi sống.
4. Cầu vồng
Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái đặt trọng tâm trên vấn đề về những mối quan hệ giữa trời và đất, vì thế thấy ở đây một dấu chỉ của việc Thiên Chúa giao hòa với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời với đất biểu thị chiều kích phổ quát của Giao Ước, một lời giải thích mang đậm nét thi ca về lời hứa của Thiên Chúa. Từ nay, Thiên Chúa “gác cây cung lên mây”, tức là không còn dùng khí cụ tiêu diệt nữa. Việc cầu vòng xuất hiện trên không trung loan báo điềm lành: cơn mưa đã tạnh.
BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)
Đoạn trích thư này vang dội Bài Đọc I, nhắc lại trận Hồng Thủy và Giao Ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Nô-ê. Qua đó, thánh Phê-rô nêu bật hình bóng Phép Rửa.
1. Hoàn cảnh
Thư thứ nhất của thánh Phê-rô này được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (thánh nhân được phúc tử đạo vào năm 64). Thư được gửi đến cho tất cả Ki-tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đoàn chiên của mình. Trong thư, thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin.
Bức thư này đã được một cộng tác viên của thánh Phê-rô là ông Xin-va-nô biên soạn: “Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em…” (5: 12). Ông này cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì thế mà những dấu ấn của thánh Phao-lô được gặp thấy ở nhiều đoạn trong thư này; như trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận “chết vì tội lỗi chúng ta”, hay việc đối lập giữa “thân xác và thần khí”, hoặc “Phép Rửa” đồng nghĩa với việc “tham dự vào cuộc Phục Sinh của Đức Ki tô”.
Thánh Phê-rô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu đang phải hứng chịu những lời chế nhạo và vu khống của dân ngoại. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki-tô, Người đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó, thánh nhân gợi lên ơn Cứu Độ và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.
2. Đối với những người đã qua đời
Đây là một đoạn văn đặc thù trong các bản văn Tân Ước gợi lên Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông. Việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông muốn nói lên rằng việc cứu độ những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, nhưng cũng có hiệu lực trở về trước nữa. Đức Ki-tô đã đến “loan báo Tin Mừng” cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị quên lãng và bị nguyền rủa, thậm chí vào thời ông Nô-ê, ông là người công chính duy nhất (3: 19-20). Những vong nhân này xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô viện dẫn họ để ca ngợi quyền năng Cứu Độ và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.
Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị của việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”. Vinh quang tuyệt mức tương ứng với sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.
3. Đối với những người đang sống
Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau này), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ Phép Rửa. Thánh Tông Đồ nhấn mạnh không cốt “được tẩy sạch vết nhơ thể xác” như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng nhất là “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô”.
Cùng với những bản văn của thánh Phao-lô, bản văn này làm chứng rằng vào những năm 60, thần học Phép Rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét.
TIN MỪNG (Mc 1: 12-15)
Đoạn trích Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật việc Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật việc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài.
1. Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai (1: 12-13)
Tin Mừng Mác-cô thuật lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa. Dù bài trình thuật của thánh Mác-cô rất giản dị so với thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca, nhưng những điều cốt yếu đều được nói ở đây: Thánh Thần thúc đẩy; bốn mươi ngày trong hoang địa, chịu Xa-tan cám dỗ; Đức Giê-su chiến thắng thế lực sự Dữ. Trong phần thứ nhất này, thiết tưởng phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa và chịu Sa-tan thử thách.
A. Rút vào hoang địa (1: 12)
Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa để chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khởi sự cuộc đời của một nhà giảng thuyết lưu động, khiêm hạ và hoàn toàn tuân phục mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thánh Thần.
Về phương diện nhân loại, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua nỗi sợ hãi và xao xuyến, bởi lẽ Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Ngài đặt mình vào trong sự liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như cách thức huấn luyện mình để “làm chủ bản thân mình”, đồng thời như một hành vi “phụ thuộc vào Thiên Chúa”.
Trong cuộc đời của mình, vào những giây phút mang tính quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện. Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình (Lc 6: 12). Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi các môn đệ Ngài là ai và đón nhận lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Lc 9: 18). Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện (Ga 6: 15) trước khi công bố rằng bánh mà Ngài ban chính là Mình Ngài làm của ăn để nuôi sống chúng ta (Ga 6: 51).
B. Chịu Xa-tan thử thách (1: 13)
Tại sao Đức Giê-su phải chịu Xa-tan thử thách? Xin được đưa ra ba lý do để soi sáng vấn đề này.
a. Chấp nhận thân phận con người
Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ theo tiến trình hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa này khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và. Qua kinh nghiệm của mình, Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, chúng ta, được ơn phù trợ của Thánh Thần như Ngài, có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: “Lạy Cha… xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ…” (Mt 6: 13).
b. Kinh qua những cơn cám dỗ của Dân Chúa
Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, thì Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa. Ngài đã trải qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời. Ngài cũng đã kinh qua những chước cám dỗ trong hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm truân chuyên mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.
c. Khúc dạo đầu cho cuộc chiến thắng tối hậu
Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Đây là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực sự Dữ. Về phía mình, Xa-tan đã tiên cảm rằng Đức Giê-su là một đối thủ đáng gờm; vì thế nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu Thương Khó của Ngài. Nhưng cuối cùng, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã chiến thắng trên mọi quyền lực của sự ác.
2. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài (1: 14-15)
Phần thứ hai cũng gồm có hai khía cạnh: Khung cảnh (1: 14) và sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):
A- Khung cảnh (1: 14)
Sau khi nghe tin “ông Gioan bị nộp”, Đức Giê-su biết rằng sứ vụ của Ngài bắt đầu. Thông tin này cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài khi vị Tiền Hô chấm dứt sự vụ của thánh nhân. Như vậy, có một mối quan hệ mật thiết giữa sứ vụ của vị Tiền Hô và sứ vụ của Đấng mà vị Tiền Hô có sứ mạng dọn đường. Trong Tin Mừng Mác-cô, động từ “bị nộp” nêu bật cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Động tự này xuất hiện ở đây cho thấy số phận của thánh Gioan báo trước số phận của Đức Giê-su.
– “Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê”: Đức Giê-su đã đến bờ sông Gio-đan để chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả; sau đó, Ngài đi vào hoang địa Giu-đê để chịu những chước cám dỗ; giờ đây, Ngài trở về miền Ga-li-lê để khởi đầu sứ vụ của mình. Nói chung, miền Ga-li-lê thuận tiện cho sứ vụ của Đức Giê-su hơn miền Giu-đê. Miền Ga-li-lê là ngã tư quốc tế, là nơi giao thương giữa các dân tộc chung quanh, là nơi người Do thái không chỉ sống chung với lương dân nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân, nên từ xưa miền này được ngôn sứ I-sai-a gọi là “miền đất ngoại bang” (Is 8: 23). Vì thế, khi coi miền Ga-li-lê là địa bàn hoạt động chính của Đức Giê-su, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh sứ điệp phổ quát của Đức Giê-su.
– “Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”: Diễn ngữ: “Tin Mừng của Thiên Chúa” muốn nói rằng Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giê-su là hiện thân của Tin Mừng này. Vì thế, Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô; nói cách khác, Đức Giê-su Ki-tô chính là Tin Mừng của Thiên Chúa.
B- Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):
Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su được tóm kết ở đây: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
– “Thời kỳ đã mãn”: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ: thời hiện tại và thời sẽ đến. Thời sẽ đến là thời điểm quyết định dứt khoát của Thiên Chúa, mọi sự đều tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7: 22; Ed 7: 12; 9: 1; Ac 4: 18; Kh 1: 3; 1Pr 1: 1). Với động từ: “đã mãn”, Chúa Giê-su loan báo thời hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa ấn định để thực hiện và thành tựu các lời hứa và các sấm ngôn của Ngài.
– “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”: Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân tộc (Mk 4: 7; So 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang có mặt ở đây. Như thế, Triều Đại Thiên Chúa đã đến rồi, đến trong con người của Đức Giê-su.
– “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”: Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi thay đổi đời sống, như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói rõ ra: “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (1: 4). Trong lời rao giảng của mình, Đức Giê-su mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, nghĩa là “Hãy sám hối tức là tin vào Tin Mừng”. Lòng sám hối phải được bày tỏ ra qua việc tin vào Tin Mừng, mà tin vào Tin Mừng đồng nghĩa với việc tin vào Đức Giê-su, Đấng là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa. Đó cũng là lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ được ân huệ là Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 38). Đó cũng là lời rao giảng của thánh Phao-lô như ở Ê-phê-xô: “Tôi kêu nài những người Do thái và Hy-lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giê-su” (Cv 20: 21).
14.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Sau những ngày đón Tết vui Xuân, chúng ta lại bước vào một hành trình mới, hành trình của Mùa Chay. Liệu rằng những thú vui, những đồ ăn thức uống và những vướng bận của cuộc sống hiện tại có làm khó, gây cản trở trên hành trình của chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay hay không? Khởi đầu Mùa Chay bằng việc được xức tro, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng đã phần nào ý thức hơn về chính thân phận yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi của mình; đồng thời qua tro bụi, giúp chúng ta cần xác tín hơn, đây là thời gian của ơn thánh Chúa, mà lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải có nhiều ơn sủng của Chúa để nhờ đó mà đủ sức thi hành thánh ý Chúa, cùng thực thi những việc lành phúc đức hầu giúp chúng ta trở nên những người được Chúa chúc phúc. ACE rất thân mến, trong hành trình Mùa Chay năm nay, chúng ta đã có quyết tâm và hành động như thế nào để trở nên người hạnh phúc, hay nói khác hơn là để trở nên người được Chúa chúc phúc? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay như đã khai mở, linh ứng và soi sáng cho chúng ta cần có những tinh thần, thái độ sống và quyết tâm như thế nào.
Tin mừng theo Thánh Marcô cho chúng ta mẫu gương, thái độ và cách sống của Chúa Giêsu; để khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cách công khai, Chúa đã chọn một cách sống để kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha qua việc cầu nguyện và ăn chay, để từ đây, sứ vụ của Chúa Giêsu phải thực sự là sứ vụ của Đấng được sai đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha. Bốn mươi ngày Chúa chọn để đi vào trong sa mạc cũng chính là thời gian mà Chúa Giêsu hòa mình với mọi người chúng ta trong kiếp nhân sinh; giờ đây, Ngài lại đi vào con đường mà năm xưa dân Chúa đã đi trong sa mạc 40 năm để tiến về đất hứa, đây cũng là hành trình mà tổ phụ Êlia đã mất 40 ngày đã tiến về núi thánh Horep của Thiên Chúa, và đây cũng chính là hành trình mà trong bài đọc một ông Nôe đã cùng với con cháu mình cũng như mọi sinh vật đã ở trong tàu 40 đêm ngày để thoát cơn đại hồng thủy. Như vậy, hành trình của Chúa Giêsu thật là một hành trình nối kết giữa Thiên Chúa và con người, giữa cựu ước và tân ước, giữa những tội ác, tai ương và ơn tha thứ, cứu sống, chữa lành. Chúng ta đã khởi đầu lại các công việc thường nhật trong năm mới Tân Sửu này sau khi chọn đến với Chúa trong những Thánh Lễ đầu xuân, chúng ta cũng đến với anh chị em và những người thân quen để nối kết nhau hơn; đây thực sự là một truyền thống tốt đẹp, mong ước rằng sẽ giúp chúng ta có đủ sức để hăng say dấn thân, tiến bước trên hành trình mới.
Trên hành trình cuộc sống hiện nay, chắc hẳn không ai mà không phải lo lắng vì đại dịch vẫn đang diễn tiến rất phức tạp; thế nhưng, chúng ta đã có những lời hứa ban ơn thánh và sức mạnh của Chúa cho chúng ta. Thánh vịnh 24 trong bài đáp ca đã xác tín và mời gọi: “Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa”. Thật vậy, Chúa luôn trung tín và yêu thương chúng ta, dẫu cho con người thất tín, bất trung và ngay cả khi con người loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta không phải chỉ bằng những lời hứa, nhưng bằng những gương sáng, qua cách sống cụ thể. Chúa Giêsu đã chấp nhận Thánh ý của Chúa Cha để nên giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi hầu làm điểm tựa vững chắc và ban ơn cứu sống chúng ta. Điều còn lại là tùy thuộc vào mỗi người chúng ta với những quyết tâm, cách sống trên hành trình đức tin và sứ vụ ơn gọi của mỗi người.
Ý thức được thân phận yếu đuối, tội lỗi của kiếp người, Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã mời gọi và nêu gương cho chúng ta phương thế để sống đúng căn tín là người con của Chúa, người môn đệ của Chúa Giêsu đó là: Trước hết, hãy tin vào ơn Chúa và biết nhận ra những dấu chỉ Chúa ban như ông Noê. Thứ đến, hãy bám víu vào Chúa Giêsu, như Noê đã bám trụ vào con tàu mà được sống. Vì Đức Kitô Giêsu đã vì yêu thương mà chết cho tội của chúng ta và Ngài đã Phục sinh, cho nên, những ai tin, bám víu vào Ngài, sống kết hiệp với Ngài trong niềm tin yêu thì sẽ được cứu sống.
Ðược Thần Khí Chúa thúc đẩy, trước khi thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ; khởi đầu Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng được chính Thần Khí của Chúa qua Lời Ngài, qua mẫu gương, cách sống của Chúa Giêsu trao ban. Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con ý thức hơn về ơn thánh và hạnh phúc đích thực của chúng con là ở nơi Chúa qua những việc đạo đức, lành thánh, hầu loại bớt những tính hư nết xấu cùng yếu đuối, tội lỗi. Amen.
15.Cám dỗ thời nay--Lm. Xuân Hy Vọng
Nhiều người trong chúng ta có thể đã hỏi ít nhất một lần trong đời rằng: Đức Giê-su vào hoang địa, chịu cám dỗ để làm gì? Ngài là Ngôi Lời, là Thiên Chúa, thì chắc chắn sẽ chiến thắng mọi cơn xúi giục, lôi kéo, cám dỗ của ma quỷ, điều này không đúng sao? Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời cách công khai, biến cố Đức Giê-su chịu cám dỗ có ý nghĩa gì? Hơn hết, cuộc chiến chống lại cám dỗ của Ngài có cần thiết và hệ trọng đối với chúng ta, đặc biệt trong đời sống đạo của mỗi người chúng ta chăng?
Đây chỉ là một số câu hỏi, thiết nghĩ chúng ta đôi lần cũng tự đặt ra cho mình, cũng như cho những ai có trách nhiệm giảng dạy, đào tạo và đồng hành thiêng liêng. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không cố gắng tìm lời giải đáp cho tất cả mọi nghi vấn, câu hỏi mà chúng ta đặt ra. Cho bằng, chúng ta cùng đặt bản thân mình vào các bài đọc hôm nay, nhất là đoạn Tin Mừng ngắn ngủi này, hy vọng chúng ta sẽ tìm thấy, sẽ khám phá điều gì Chúa muốn nói với chúng ta trong Mùa Chay Thánh này: “Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giê-su vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài” (Mc 1, 12-13).
Như chúng ta biết, sau khi Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, thì Ngài được Thần Khí thúc đẩy đưa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ, nơi đó Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày (x. Mt 3, 16 - 4, 2; Lc 3, 21- 4, 2). Như thế, đây không đơn giản là cuộc chiến chống lại cơn cám dỗ đơn thuần, mà đúng hơn, qua biến cố này, Đức Giê-su để lại tấm gương quý giá, và bộc lộ khả năng thần thiêng nơi con người, bởi lẽ con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài và theo hình ảnh Ngài (Imago Dei). Thật sự, con người đã sa ngã, phạm tội, không giữ lời hứa với Thiên Chúa (x. hình ảnh A-đam và E-và ăn trái cấm), nhưng tiềm ẩn trong con người vẫn không mất đi tính thần thiêng, cũng chẳng mất đi khả năng chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ. Thánh Sử Mác-cô không kể chi tiết Đức Giê-su đã chịu cơn cám dỗ ra sao, và Ngài đã chiến đấu với những cơn cám dỗ thế nào; nhưng Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu và Lu-ca cho chúng ta thấy rõ ba loại cám dỗ chính liên quan đến vật chất (tiền bạc), quyền lực và danh vọng (x. Mt 4, 2-11; Lc 4, 2-13). Đức Giê-su đã dùng Lời Chúa, dùng việc ăn chay cầu nguyện và sự tín thác kiên vững của Ngài mà chống lại sự xúi giục của ma quỷ. Đây chính là cách chúng ta soi vào, noi gương Ngài mỗi khi bị cám dỗ, hoặc có những xu hướng lệch lạc, khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa, hoặc đối nghịch với giáo lý Giáo Hội.
Giữa thời đại này, có quá nhiều kiểu cám dỗ, vô vàn loại hình lôi kéo chúng ta bỏ đàng công chính, sống buông thả theo lối ‘đến đâu hay đến đấy’. Một trong nhiều thứ cám dỗ mà chúng ta cảm nhận rõ rệt ngày nay, đó là: ‘chẳng sao đâu, anh (chị) vẫn còn nhiều thời gian/thời giờ mà!’, ‘để sau cũng được mà! Chứ vội vàng (xưng tội, ăn năn sám hối…) làm chi!’, ‘hôm nào tiện thì làm (ví dụ: chần chừ đi xưng tội, phạm hết tội nhẹ đến tội trọng, nhưng dự định gộp một lần rồi xưng tội) luôn một thể’, đặc biệt khi sống làm việc ở xứ người, vừa không biết ngôn ngữ vừa biếng nhác, chưa trưởng thành trong đời sống đạo. Ngoài ra, một loại cám dỗ khác cũng khá phổ biến thời nay, đó là: ‘hành vi/hành động sai/xấu nhưng nếu chẳng ai bắt được tận tay, thì xem như bình thường’, ví dụ: ăn cắp vặt, ăn trộm vặt, nếu không ai thấy thì hành vi sai trái ấy vẫn coi như chẳng có gì nghiêm trọng cả. Như chúng ta biết hành vi sai trái, tội lỗi ở bản chất nó thì cho dù khi thực hiện có ai bắt được hay có ai thấy hay không, hành vi đó vẫn sai trái, tội lỗi. Hơn thế, một thứ cám dỗ khác như thể ‘vàng thật vàng thau lẫn lộn’, ấy là: hành động sai ngay tại bản chất của nó, nhưng nếu nhiều người làm thì nó lại trở nên bình thường như ‘bình chân như vại’! Một hành vi xấu xa ở bản chất của nó, thì cho dù nhiều hay ít người làm đi chăng nữa, nó vẫn là hành vi sai trái. Tuy ba kiểu cám dỗ thời đại này tinh vi, và hầu như phải chiến đấu nội tâm, nhưng ở mức độ nào đó, chúng vẫn liên quan đến tiền-tài-tình hoặc tiền tài-quyền lực-danh vọng-sắc dục.
Với tấm gương kiên định chống lại cám dỗ của Đức Giê-su, và trong niềm tín thác “Chúa Ki-tô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Ngài là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa” (1Pr 3, 18), thì chúng ta vượt thắng mọi cơn cám dỗ. Nhờ vào lòng nhân từ Chúa, gia đình ông No-ê (gồm tám người) được cứu khỏi lụt đại hồng thuỷ (x. St 8-9) và Ngài đã ký kết giao ước với ông qua dấu chỉ ‘chiếc cầu vòng’ (‘cái mống’ hoặc ‘cây cung trên trời’ như một số bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt sử dụng), rằng: Thiên Chúa sẽ không trừng phạt như vậy nữa; thay vào đó, Ngài khoan dung, nhân từ, nhẫn nại, chờ đợi con người. Ngài thanh tẩy và ban cho con người một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa hằng sống (x. 1Pr 3, 21-22). Nhờ đó, chúng ta thêm mạnh sức, chống chọi với mọi cám dỗ, mọi xúi giục, mọi lôi kéo của ma quỷ, hòng tách rời chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Với đời sống cầu nguyện liên lỉ bền bỉ, ăn chay hãm mình đền tội, và tận tâm làm việc bác ái yêu thương trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta sẽ luôn cảm nghiệm Chúa nâng đỡ, và đồng hành qua Giáo Hội; chúng ta sẽ được thông phần vào mầu nhiệm Thương Khó-Tử Nạn-Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Giờ đây, chúng ta thành tâm dâng lời nguyện cầu:
Chúa đã chiến thắng cám dỗ thế nào
Xin cho chúng con chẳng nao lòng vậy
Kiên vững chống lại ma quỷ xấu thay
An chay, cầu nguyện, tháng ngày yêu thương. Amen!
16.Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ--Lm. Tôma Aq. Trầm Phúc
Chúng ta bước vào Mùa Chay với Chúa Giêsu, vì “sau khi chịu phép rửa, Thần Khí đẩy Ngài vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú…” Thánh sử Maccô không nói đến việc Chúa Giêsu ăn chay, nhưng các thánh sử khác đều nói đến điều đó. Ngài khai mạc cuộc đời công khai của Ngài bằng những ngày chay tịnh và chiến đấu chống ma quỷ. Thánh Maccô cũng không nói đến Chúa chịu cám dỗ như thế nào. Đối với thánh Maccô, cám dỗ không phải chỉ là một giai đoạn mà suốt cả cuộc đời Chúa Giêsu. Cuộc đời của Ngài là một cuộc chiến liên lỉ chống lại Satan cho đến ngày chiến thắng cuối cùng là phục sinh.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta vào cuộc chiến triền miên của Ngài, vì chúng ta sẽ phải chống lại ma quỷ đến cùng, cho đến ngày chúng ta toàn thắng trong Chúa.
Mùa chay chính là lúc khai mạc một thời điểm quan trọng, thời chiến đấu, vì “ma quỷ luôn như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Nó là kẻ thù số một của loài người. Ngay từ buổi đầu ma quỷ đã cám dỗ Ađam và Evà, và đã khuất phục tổ tông chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ của nó. Chúa Giêsu đến để triệt hạ kẻ thù nguy hiểm đó, giải thoát chúng ta, đưa chúng ta trở về với Cha chúng ta là nguồn mọi hạnh phúc và bình an. Ngài bắt đầu cuộc giải phóng của Ngài bằng một thời gian sa mạc, thời gian cầu nguyện thân mật với Cha Ngài.
Bốn mươi ngày là một thời gian dài. Con số 40, của người Do Thái chỉ là con số tượng trưng chỉ một thời gian dài vô định. Con số nầy được sử dụng nhiều lần trong Kinh thánh. Môsê lên núi Khoreb với Chúa bốn mươi đêm ngày. Dân Do Thái phải sống trong sa mạc suốt bốn mươi năm, tiên tri Êlia đi trong sa mạc bốn mươi ngày để đến điểm hẹn của Chúa là núi Khoreb…
Một thời gian dài như thế để làm gì? Đối với người Do Thái chay tịnh là để cầu nguyện và đền tội. Chúa Giêsu cũng vào sa mạc là để sống với Cha Ngài. Mối liên hệ nầy là sức sống của Ngài. Ngài với Cha Ngài là một như Ngài đã nói, Ngài luôn làm theo ý Cha, dìm mình trong thánh ý của Cha. Vì thế, trước khi bước vào rao giảng Tin Mừng, Ngài cảm thấy cần được sống với Cha trong tình yêu của Cha. Trước khi thuộc về loài người, Ngài thuộc về Chúa Cha.
Bước vào Mùa Chay là bước vào sa mạc với Chúa. Chúng ta cũng đi vào con đường cầu nguyện. Tâm hồn không cầu nguyện như một mảnh đất khô, làm sao bông hoa nhơn đức có thể mọc lên và trổ hoa được? Chúng ta chỉ là tro bụi làm sao có thể sinh hoa trái nếu không có mưa ơn thánh?
Chúng ta thường hay lấy lý do không có thì giờ hay bị ngăn trở nhiều bề, không thể cầu nguyện. Buông bỏ mọi sự để vào sa mạc của tâm hồn để gặp Cha trên trời, không phải là xa xỉ mà là sức mạnh. Một chiếc xe chạy mãi cũng phải dừng lại đổ xăng. Linh hồn chúng ta cũng cần nhiên liệu để đi tới. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy nhu cầu đến với Chúa Cha. Hãy theo Ngài vào sa mạc để cho lòng mình lắng xuống, để cảm thấy sự bình an lan tỏa vào tâm hồn, vượt lên trên mọi lo lắng để vươn cao. Chúa mời gọi chúng ta: “Hỡi những ai lao nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bồi dưỡng cho”. Hãy vào sa mạc với Ta…
Chúa Giêsu vào sa mạc cũng để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài bắt đầu bước vào cuộc chiến công khai với ma quỷ, và cuộc chiến nầy sẽ kéo dài suốt cuộc đời trần thế của Ngài cho đến giây phút trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha. Và Ngài đã toàn thắng.
Chúng ta đang xung vào trận mỗi ngày. Ma quỷ không mệt mỏi, nhưng chúng ta mệt mỏi. Lắm khi chúng ta cũng bại trận, nhưng Chúa không để chúng ta thất bại mãi đâu. Ngài luôn trợ lực. Ngài là thuẫn đỡ khiên che, Ngài là nơi chúng ta nương ẩn, là thành lũy bảo vệ. Bám vào Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã lao vào cuộc chiến với tất cả nghị lực của ngài. Có lúc ngài phải la lên: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết nầy”? Ngài bám sát vào Chúa Kitô đến nỗi đối với ngài sống là Chúa Kitô và thập giá của Người: “ Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô”. “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh đối với tôi, và tôi đối với thế gian”. Chúng ta không thể chiến thắng ma quỷ nếu không có thập giá, cũng không thể có sự thánh thiện mà không có chiến đấu. Thánh Phaolô đã kiên trì chống lại mọi cám dỗ và bắt thân thể ngài phải cực nhọc và phục tùng. Ngài đóng đinh tính xác thịt với những dục vọng của nó vào thập giá. Cuộc chiến cam go và dai dẳng, nhưng hiệu quả sẽ huy hoàng. Con đường thập giá dẫn đến phục sinh.
Mùa Chay mang một màu sắc không mấy vui tươi, nhưng nó cho chúng ta cơ hội để rèn luyện tâm hồn xứng đáng đón nhận tình yêu của Đấng đã yêu chúng ta và đã liều mạng cứu chúng ta. Hãy cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc chiến chống lại tất cả những gì là xấu xa nhơ nhớp để sống một cuộc đời thanh trong tươi đẹp hơn. Nếu tất cả những người tin Chúa đều cương quyết bước vào cuộc chiến chống lại sự dữ thì thế giới của chúng ta đã tươi đẹp hơn rồi.
Sau khi cầu nguyện và chay tịnh, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Thánh Maccô chỉ nói ngắn gọn bao nhiêu đó nhưng chính đó là cả chương trình dài hạn của Chúa Giêsu mà đây mới chỉ là khởi đầu. Ngài tiếp nối sứ vụ của Gioan Tẩy Giả và của các tiên tri, tức là liếp tục chương trình của Chúa Cha và Ngài sẽ đưa đến chung cuộc là cứu vớt nhân loại, đưa nhân loại trở về nguồn sung mãn là Tình yêu của Chúa Cha: “Thời đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng chính là Ngài, là Con Thiên Chúa đến khai mở thời cứu độ.
“Thời đã mãn” tức là Nước Thiên Chúa đã được khánh thành nơi Chúa Giêsu., chương trình cứu độ của Chúa Cha đã được thực hiện. Muốn cho Nước Thiên Chúa được hoàn thành, chúng ta phải đi vào con đường sám hối, nghĩa là thay đổi nảo trạng và cuộc sống để phù hợp với ý định của Chúa. Sám hối, thay đổi não trạng không là một việc dễ dàng. Con người không thích bị xáo trộn, chỉ thích ngủ yên trong những thói quen của mình, nhất là những thói quen xấu. Chúa Giêsu đã dám liều thân cho chúng ta, không lẽ chúng ta lại để cho những công trình của Ngài ra vô hiệu. Hãy đứng dậy, chúng ta hãy đi, đi vào cuộc chiến để dành lại hạnh phúc mà ma quỷ đã tướt đoạt của chúng ta. Mùa Chay chỉ có ý nghĩa khi chúng ta dám dấn thân với Chúa vào công cuộc đổi mới cuộc sống để “nên trọn lành như cha trên trời”.
Chúa Giêsu vẫn còn ở giữa chúng ta cho đến khi chương trình của Ngài được hoàn tất. Ngài vẫn thiết tha mời gọi. Ngài vẫn tiếp tục nâng đỡ chúng ta, nuôi dưỡng ý chí và mọi khả năng của chúng ta bằng chính bản thân Ngài. Ngài dám cho chúng ta ăn lấy Ngài. Chúng ta không thể từ chối hồng ân cao cả đó. Ăn lấy Ngài để cùng Ngài cứu vớt anh em chúng ta, những người chưa được hạnh phúc biết Ngài, những anh em đau khổ hồn xác, những người bị thiệt thòi trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa đến trong trần gian hôm nay qua tình yêu của chúng ta, qua những cố gắng hằng ngày, qua niềm tin chân thành của chúng ta.
17.Chiến thắng lòng tham--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà, tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?
Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ, cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có tiền là có tất cả.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Thật vậy, có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu: "Ông tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.
Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống hình ảnh Chuá. Xin cho con biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn xem Thiên Chuá. Amen.
18.Sự cám dỗ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người. Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ. Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.
Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.
Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người ở da đen:
“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”
Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới thôi”.
Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.
Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.
Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.
19.Sống hai mặt--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là: Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa - đi với ma mặc áo giấy”?
Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:
“Biết mặt khó biết được lòng
Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.
Đôi khi xoáy giữa sang hèn
Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ
Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù... Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa...
Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
20.Say nắng trong tình yêu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một Status ‘Say nắng’ viết thề này:
“Số phận đã cho chúng ta vô tình lướt qua nhau nhưng lại không trao cho chúng ta quyền được yêu nhau. Em không trách anh, cơn say nắng của em. Vì tất cả là do lỗi của em dại khờ. Em sẽ nhớ đến anh, người đã làm cho em say nắng và chao đảo mọi thứ vì cơn say nắng đó. Chúc anh luôn vui và hạnh phúc. Chúc cho em sớm thoát khỏi mê cung do mình tự dựng nên.
Ai trong đời cũng từng có vài lần say nắng, rồi thời gian sẽ chữa lành vết thương. Ai cũng có một hiện tại đáng trân trọng, đừng để chút ngọt ngào giữa dòng đời cám dỗ. Vợ anh tốt, và chồng em cũng vậy. Chúng ta không thể có lỗi với họ. Say nắng thôi anh nhé! Tình yêu đích thực hay say nắng chỉ là cơn say nắng”
Lần đầu tiên tôi được nghe từ “say nắng” từ một cô gái kể chuyện chồng bị “say nắng”. Cô ta nghĩ rằng chồng cô khi tiếp xúc bên ngoài phải gặp nhiều người thì cũng có thể “say nắng” ai đó là chuyện bình thường. Nhưng rồi không phải vậy, chồng cô đã phản bội cô thật, chứ không chỉ là say nắng một chút rồi sẽ tỉnh lại để về với vợ con.
Hóa ra “say nắng” là căn bệnh của những người đã có gia đình nhưng lại đem lòng tương tư một ai đó. Tìm cách làm quen, nhắn tin, hẹn hò ăn tối, nghe nhạc... Dù có thể chưa đi tới sự phản bội nhưng nó cũng đủ làm cho người “say nắng” bỏ bê gia đình để đi tìm niềm vui riêng.
Vốn dĩ tình yêu là "mù quáng". Bởi vậy khi yêu, ai cũng có thể trở nên "ngu muội". Vì khi trong tim mình, trong mắt mình chỉ cần người mình yêu là đủ thì người ta dễ quên cả lối về. Khi yêu người ta không sống bằng lý trí mà là bằng con tim chỉ lao vào vòng tay của nhau và vượt qua mọi rào cản của đạo lý.
Xem ra trung thành tuyệt đối với tình yêu thật khó. Bởi vì hằng ngày ta phải tiếp xúc với bao nhiêu người rất đẹp, rất dễ thương, rất chiều chuộng khiến ta dễ bị say nắng. Nếu không hồi tỉnh và một lúc nào đó cơn say sẽ dẫn ta vào con đường lạc lối lúc nào chẳng hay.
Trong tương quan với Thiên Chúa càng khiến con người dễ “say nắng” bởi những cám dỗ trần gian. Có biết bao cám dỗ bởi tiền, bởi tình, và bởi quyền khiến ta say nắng chỉ nghĩ và tơ tưởng về nó. Có khi cơn say khiến ta quên cả luật Chúa để lao vào cơn say của danh lợi thú. Cơn say nào rồi cũng tỉnh nhưng hậu quả của nó đôi khi khiến ta mất hết tất cả: danh dự, gia đình và của cải. Khi tỉnh ngộ đôi khi đã quá muộn màng.
Trong năm 2017, dư luận như sôi lên sau khi một người phụ nữ ở Bình Dương khai nhận đã giết rồi chặt xác chồng thành nhiều mảnh. Đấy là một câu chuyện thực sự rùng rợn, nếu xét về tình tiết và hành động, nhưng xét cho cùng, thì với bất cứ lý do gì, đấy là một kết cục rất buồn, với sự tan nát của một gia đình, với cái chết của một người, và người kia đối diện với tù tội và tòa án lương tâm. Người phụ nữ này dám làm điều ác cũng từ cơn say tình dẫn đến chuyện gì cũng dám làm.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta “say nắng” mà bỏ nhà thờ, bỏ bê bổn phận với gia đình. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta biết chế ngự cơn say của mình, dẫu biết rằng cám dỗ vẫn luôn có nhưng quan yếu là dám từ khước để sống trung thành với Chúa. Xin cho các gia đình trẻ đang khi phải bươn trải với cuộc sống mưu sinh nhưng luôn biết chế ngự cơn say của mình, để đừng vì “say nắng” ai đó mà phá vỡ hạnh phúc gia đình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.
21.Ba cạm bẫy của ma quỷ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói rằng cư dân miền Bắc Cực có cách bẫy chó sói rất độc đáo. Họ mài những con dao thật bén, rồi đem nhúng dao đó vào máu súc vật cho đến khi lưỡi dao bọc toàn máu. Đêm đến, họ đem dao đó cắm ngoài đồng. Chó sói thính hơi nghe mùi máu, chạy đến liếm lưỡi dao tới tấp. Đến khi chính lưỡi nó bị dao cắt đứt, máu chảy ra, nó vẫn mải mê cắm đầu liếm mà không biết mình đang liếm máu mình cho tới lúc kiệt sức ngã lăn ra chết.
Con sói vì khát máu mà chết. Con người chúng ta đôi khi cũng khát tiền, khát tình, khát danh vọng, quyền lực mà chết. Quả đúng là “mật ngọt chết ruồi”. Danh lợi thú luôn là cạm bẫy của ma quỷ vây bắt linh hồn con người. Con người chúng ta đôi khi cũng vì những hào nhoáng bên ngoài mà vướng vào cạm bẫy của ma quỷ. Con người chúng ta đôi khi cũng đang bị chết dần mòn trong những đam mê cuồng si của mình. Bài phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy sự chọn lựa dứt khoát của Chúa Giê-su trước những cạm bẫy của ma quỷ. Ngài không lập lờ nước đôi. Ngài cũng không tìm thoả hiệp với ma quỷ. Ngài luôn chọn lựa Chúa và ý Chúa Cha để sẵn lòng loại bỏ những gì nghịch với ý định của Thiên Chúa Cha. Ngài đã chiến thắng cám dỗ nhờ tình yêu trung tín với Chúa Cha. Ngài đã tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha đến nỗi “lương thực của Ngài chính là thi hành ý muốn Chúa Cha.
Kính thưa, Quý OBACE
Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn con người hôm nay.
Cám dỗ thứ nhất đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày. Cha ông ta vẫn nói:
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần cho ta”
Đó chính là sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày tháng lặn lội ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương đồng mới có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không ý thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền mà đánh mất tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.
Cám dỗ thứ hai chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những đam mê sở thích của mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người ta vẫn sợ các cậu ấm cô chiêu. Con của những người giầu có và quyền thế. Từ nhỏ đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên chỉ biết đua đòi, phóng khoáng. Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù đó là những trò mạo hiểm gây hại cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma túy, mại dâm, đua xe, lạng lách... Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào lòng người: “cứ gieo mình xuống đi.... và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo liệu...”. Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở họ: “chớ thử thách Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ trước mặt Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma qủy luôn cám dỗ con người “coi trời bằng vung”. Họ hành động như thể không có Thiên Chúa. Họ sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những đam mê sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn hưởng thụ tất cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò mộng, lợn vàng là danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn nên con người cũng có những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.
Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính của con người. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo nên chẳng có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải cúi mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa, con người mới sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì “nhân linh ư vạn vật”. Chỉ khi con người thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con người mới sống an bình hơn.
Ước gì Mùa chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của chính mình. Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.
22.Cạm bẫy--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
***
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đồi, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
***
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
23.Sống là chiến đấu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: - Hôm nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?
- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi giục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh chị em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà”. Đức Thánh Cha còn nói: “Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương”.
24.Sám hối thì được cứu rỗi--Anmai, CSsR
Mở đầu những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài muôn vật. Đỉnh điểm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa đó là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Không chỉ dựng nên giống hình ảnh mình mà thôi, Thiên Chúa còn cho con người được ơn, được quyền sử dụng tất cả những tạo vật mà Chúa đã dựng nên ấy. Thiên Chúa một mực yêu thương con người ngay từ những ngày đầu tạo thiên lập địa nhưng con người, con người mãi quay lưng lại với Thiên Chúa.
Cũng ngay những chương đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên Chúa ban đầu cảm thấy vui khi tạo dựng con người. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, con người cứ mãi hận thù, ganh tỵ, chém giết lẫn nhau như Ca-in đã giết A-ben em mình. Không chỉ có như vậy mà lòng con người cũng bắt đầu thay đổi. Lòng con người không được như trước nữa mà lòng con người đã trở nên chai đá trước tình yêu của Thiên Chúa. Sách Sáng Thế đã ghi lại: "Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng."(St 6, 5-7)
Giận thì giận mà thương thì thương. Thiên Chúa thấy Nôê là người công chính nên Ngài đã thương và Ngài đã bày tỏ tình thương của Ngài với Nô-ê và gia đình của ông.
Như sách Sáng Thế đã thuật lại, chúng ta thấy Thiên Chúa giận thì có giận đấy nhưng mà Ngài không nỡ bỏ con người. Ngài vẫn chờ đợi sự hoán cải, sự hối lỗi của con người.
Nhìn vào Thiên Chúa và con người, cách hành xử của Thiên Chúa và con người chúng ta thấy rất ư là buồn cười. Con người thì cứ mãi miết đi trong tăm tối, đi trong tội lỗi còn Thiên Chúa thì cứ mãi biểu lộ tình thương, sự tha thứ của mình. Một trong những người cảm nhận được lượng từ bi lân tuất, tình yêu thương hải hà của Thiên Chúa đó chính là vua Đa-vít. Vua Đa-vít hơn một lần đã dâng lời chúc tụng Chúa, chúc tụng về tình thương bao la của Thiên Chúa:
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
Chúa phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. (Tv 103, 1-13)
Thiên Chúa là Cha hay thương xót, chạnh lòng thương và chờ đợi con người đáp trả.
Trở về với trường hợp của Nô-ê. Thiên Chúa giận, Ngài đã quyết định số phận mọi xác phàm và rồi Ngài bảo Nô-ê chuẩn bị cho quyết định ấy. Nô-ê tin tưởng vào lời của Thiên Chúa và ông đã thực hiện những gì Thiên Chúa bảo ông làm. Nếu như ông không tin tưởng và không kiên nhẫn chờ đợi trong trong 150 ngày thì số phận của ông cũng như những người kia. Thiên Chúa không những cứu sống cho đại gia đình của Nô-ê mà Thiên Chúa còn chúc phúc cho đại gia đình ấy nữa.
Để được sống, được hưởng chúc như ông Nô-ê không đơn giản như chúng ta nghĩ. Phải thật kiên nhẫn, phải thật tin tưởng, phải thật tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa. Đâu có đơn giản để sống 150 ngày lênh đênh trên sóng nước? Phải chiến đấu, phải đối diện với biết bao nhiêu gian nan khốn khó của cuộc đời thì gia đình của Nô-ê mới được đi vào trong vinh quang với Thiên Chúa.
Trong thư của mình, Thánh Phêrô nhắc nhở mỗi người chúng ta về ơn cứu độ, về sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Ngài viết: "Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương - hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh" (1 Pr 3, 18-19). Đức Kitô muốn vào vinh quang phục sinh với Cha của Ngài, Ngài cũng phải trải qua nhiều đau khổ và nhất là phải đón nhận cái chết và cái chết tủi nhục trên thập giá. Chúng ta thừa biết rằng, cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra cho đến khi chịu chết, Ngài phải chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ.
Để thi hành sứ vụ rao giảng công khai của mình về Nước Trời, Chúa Giêsu đã phải đối diện với biết bao nhiêu đau khổ, biết bao nhiêu là thử thách.
Để bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào hoang địa để chịu sự cám dỗ của ma quỷ. Không đơn giản để vượt qua những cám dỗ đó dẫu đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng mang trong mình phận của một con người yếu đuối, mỏng dòn, cũng biết cảm thương, cũng biết giận, biết hờn... Chúa Giêsu cũng có trong mình cảm nghĩ về sự đau khổ, về sự thử thách mà chúng ta đã từng được nghe Thánh Kinh thuật lại. Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha là cất khỏi Ngài chén đắng mà Chúa Cha trao ban nhưng xin đừng theo ý của Ngài nhưng là theo ý Cha. Với tâm tình đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng quá vất vả, quá khó khăn khi đối diện với ma quỷ, với cám dỗ. Thế nhưng, chung cuộc, kết cục của cơn cám dỗ mà ma quỷ đưa ra đó Chúa đã thắng.
Tại sao Chúa đã thắng được những cơn cám dỗ của ma quỷ? Chúa đã sống kết hợp mật thiết với Cha, Chúa đã cầu xin Chúa Cha ban ơn cho mình và đặc biệt Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong tay của Cha. Hơn một lần chúng ta nghe Chúa Giêsu thỏ thẻ với Cha: "Lạy Cha! Nếu có thể được xin Cha cấy cho con khỏi chén này nhưng xin theo ý Cha chứ đừng theo ý con". Qua câu thỏ thẻ ấy, chúng ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, Ngài phải đón nhận những cơn cám dỗ của cuộc đời nhưng Ngài đã thắng.
Bước vào Mùa Chay Tịnh, chúng ta bước vào hoang địa với Chúa Giêsu để sống thời gian đặc biệt: Thời gian sám hối.
Đừng như một số người suy nghĩ về cuộc đời họ thường nói là "kệ nó! tới đâu thì tới!" hay là "sao cũng được!". Nếu nghĩ như thế, nếu nói như thế thì chẳng còn gì phải bàn, phải bận tâm nữa. Cuộc đời con người mau qua chóng tàn, nay còn mai mất. Mất và tàn ấy không phải là chuyện của chúng ta mà là của Thiên Chúa. Và nếu như người khôn ngoan thật thì luôn luôn hướng đến ngày mau qua chóng tàn ấy để cân chỉnh cuộc đời của mình cho tốt hơn.
Chúa luôn luôn chờ đợi, Chúa luôn luôn bao dung tha thứ. Phần chúng ta là ăn năn sám hối, sửa đổi cuộc đời.
Mùa Chay là mùa thuận tiện, mùa cơ hội để chúng ta hồi tâm quay về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót thương mở rộng vòng tay ra để ôm chầm chúng ta là những con người tội lỗi biết quay về với Chúa.
25.Tái sinh--Lm. Vũ Đình Tường
Tái sinh trong Đức Kitô là mục đích cuối cùng của mùa chay. Hàng năm Giáo Hội mời gọi Kitô hữu tái sinh trong Đức Kitô, học biết về tình yêu Chúa nhiều hơn, trở nên giống Đức Kitô hơn trong lối sống, cách cư xử, cách yêu thương, cách tha thứ và nhất là xin cho được con tim biết nhạy cảm trước đau khổ của đồng loại. Hiểu biết về Đức Kitô nhiều hơn chính là hiểu biết về đời sống của chính mình, hiểu rõ hơn mục đích của cuộc sống nơi dương thế. Hiểu biết í nghĩa cuộc sống nơi dương thế chính là hiểu rõ hơn mầu nhiệm tình yêu Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn ta. Để khám phá ra tình yêu Chúa trong ta cần dùng đến chìa khoá được đề nghị thực hiện trong mùa chay. Chìa khoá đó bao gồm cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Giáo Hội ước mong trong hy vọng Kitô hữu thực thi ba điều trên suốt mùa chay thánh sẽ trở thành thói quen tốt lành, tập quán đạo đức được thực hiện thường xuyên trong cuộc sống. Đây không phải là điều mới lạ mà chính là những gì ta tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, sống yêu Chúa, mến tha nhân, từ bỏ ma quỷ và những quyến rũ bất chính của chúng.
Cầu nguyện đẩy xa cám dỗ, dẫn ta đến gần Chúa, chặt đứt liên hệ với sa đoạ, liên kết mật thiết hơn với Chúa và giúp hiểu rõ hơn về con người mình. Cầu nguyện hàng ngày giúp tâm hồn trong sáng, con tim thanh thản nên có thể nhìn rõ hơn đời sống nội tâm; ăn chay giúp kiềm chế tính mê, tật xấu nghiện ngập để thay đổi trở nên tốt hơn, công chính hơn trong cả lời nói lẫn hành động; bác ái giúp nhận ra giá trị, nhu cầu cuộc sống của mình và của anh chị em. Giúp ta yêu thương họ nhiều hơn bởi chính mình cũng là thành phần trong cộng đồng nhân loại được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Kết hợp cả ba điều trên: cầu nguyện, chay tịnh và bác ái giúp ta nhận biết tình yêu Đức Kitô. Tình yêu chân thật đến từ Đức Kitô, điều mà trí tuệ không đủ khả năng phán đoán, xác định hay chối bỏ bởi tình yêu đó vượt trên những gì con người có thể dùng để so sánh, cân nhắc. Nhận biết tình yêu Chúa chỉ có một đường lối duy nhất đó là niềm tin, ngoài niềm tin ra, rất khó có thể nhận ra tình yêu Chúa bởi niềm tin vào Đức Kitô khởi đầu bằng yêu mến Ngài và tình yêu đó phát sinh niềm tin nhờ tác động của Thánh Thần.
Phúc Âm cho biết Đức Kitô được Thánh Thần dẫn vào sa mạc. Điều này cho biết Đức Kitô chay tịnh 40 đêm ngày không phải chỉ mình Ngài mà có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với Ngài. Vì thế chúng ta tin chắc là khi chúng ta thực hiện cuộc sống chay tịnh Thánh Thần Chúa cũng hiện diện với chúng ta. Nói cách khác chay tịnh là lời mời gọi Thánh Thần Chúa vào trong tâm hồn ta. Chúng ta mở tấm lòng ra đón nhận Thánh Thần Chúa để đón nhận chỉ bảo, hướng dẫn, soi sáng giúp ta làm điều lành, điều ngay thẳng, điều công chính bởi Thánh Thần là nguồn tình yêu và kho tàng khôn ngoan không cạn của Thiên Chúa. Thánh Mathew thuật lại chính ma quỷ cũng nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần khi chúng nói Thánh Thần Chúa luôn nâng đỡ để Ngài khỏi vấp ngã (Mt 4, 6)
Nơi đâu có Đức Kitô hiện diện nơi đó có Thánh Thần Chúa hiện diện. Đôi khi Phúc Âm ghi lại rõ ràng sự kiện này, khi khác Phúc Âm không ghi rõ nhưng giúp ta nhận biết có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa tiềm ẩn đâu đó vì Thánh Thần luôn cùng đồng hành với Đức Kitô.
Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào vùng sa mạc đức tin. Mùa chay mời gọi chúng ta đi qua kinh nghiệm chính Đức Kitô đã trải qua. Mùa chay mời gọi chúng ta học cùng Đức Kitô khi gặp cơn cám dỗ đừng cậy vào sức riêng mình nhưng tin tưởng vào sức mạnh Lời Chúa trong Phúc Âm. Mùa chay mời gọi chúng ta xét mình từ bỏ lối sống bê tha, đổi mới, bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống tin yêu phó thác đời mình cho Chúa để nhận rõ hình ảnh Chúa trong ta. Đổi mới là làm cho cái tôi trong tôi nhỏ lại; làm cho tha nhân lớn lên trong tôi.
26.Chay tịnh và cầu nguyện--AM Trần Bình An
Tháng Ba năm 1976, người ta chở Má từ nơi quản thúc tại gia ở Cây Vông đến nhà biệt giam Nha Trang… Má bị đưa vào ở trong một căn phòng giam nhỏ không cửa sổ, ngột ngạt, dưới chân tường chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi. Má thường nằm xuống đất để mũi gần đó và thở. Vài tuần sau Bảy cũng bị bắt đưa vào phòng biệt giam, cách Má bức tường ngăn. Ban đầu hai phòng hoàn toàn cách biệt, nhưng về sau người ta cho đục một cửa sổ nhỏ giữa bức tường ngăn cách, và có lệnh cấm Má và Bảy không được liên lạc với nhau qua nơi này…
Một ngày nọ qua cửa sổ, Má bảo Bảy:“Má và Bảy không biết sống chết ra sao. Má có thể ra đi bất cứ lúc nào! Má xin Bảy cho Má một ân huệ được không?” “Má cứ tự nhiên, con có thể làm gì để giúp Má?” Bảy đáp. “Má muốn tĩnh tâm ba mươi ngày, nhờ Bảy giảng cho Má.” “Má nói sao? con giảng tĩnh tâm cho Má? Con làm gì có đủ khả năng giảng cho Má. Chính Má giảng cho con chứ?” Bảy ngạc nhiên vô cùng và tưởng chừng mình nghe lầm nên hỏi lại. “Bảy cứ làm theo ý Má đi. Vì đây là ân huệ Má xin.” Má ôn tồn và nhỏ nhẹ bảo… “Má nói vậy thì con xin khiêm tốn vâng lời Má.” Bảy đáp lại. Thế là mỗi ngày Bảy giảng cho Má ba bài, bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu sinh ra, sống cuộc đời ẩn dật và công khai rao giảng Tin Mừng, đối đáp lại những bắt bẻ của người Do Thái, dạy dỗ, kể dụ ngôn và làm phép lạ, đến lúc bị bắt, chất vấn, sỉ nhục, đánh đập, con đường khổ nạn và chết trên thập giá, rồi vinh hiển sống lại và hiện ra cho các tông đồ nhiều lần, trước khi về trời gởi Thánh Thần xuống. Mỗi bài giảng kéo dài từ hai mươi đến ba mươi phút, sáng trưa chiều. Sau đó Bảy còn kéo thêm được bài thứ tư vào buổi tối trước khi ngủ. Cứ vào những giờ giấc cố định Bảy đến bên cửa sổ, phía bên kia Má đã đứng chực đó từ lúc nào rồi. Má chăm chú lắng nghe các bài giảng, sau mỗi bài Má đều góp ý rồi cả hai cùng hát thánh ca có khi bằng tiếng Việt, hoặc La Tinh và Má dâng lời cầu nguyện kết thúc. Mỗi ngày lúc ba giờ chiều là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Má dâng thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay với mẫu bánh nhỏ được bẻ vụn ra. Bên kia bức tường của phòng giam Bảy cũng làm như thế… Cuộc tĩnh tâm linh thao theo phương pháp thánh Ignatiô Loyola của Má kéo dài đúng một tháng… (Nguyễn Hồng Phúc, Câu chuyện của Má và Bảy)
ĐGM Fx Nguyễn Văn Thuận (Má) đã mời Lm Giuse Nguyễn Quang Thạnh (Bảy) giảng cấm phòng cho ngài, để chuẩn bị cuộc lữ hành gian lao ròng rã 13 năm. Ngài noi gương Thầy Giêsu vào sa mạc 40 ngày đêm, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, chay tịnh cầu nguyện, chuẩn bị đi gieo Tin Mừng.
Hoang địa
Sau khi vào hoang địa 40 ngày đêm chay tịnh, Đức Giêsu vẫn còn luôn ra nơi hoang vắng để cầu nguyện trong suốt thời công khai rao giảng. Hiện nay, trong cuộc sống ồn ào, xô bồ hiếm khi được thực sự hưởng những giây phút im lặng. Có lẽ vì người ta đâm ra sợ hãi sự thinh lặng, tránh né nỗi cô đơn, không dám đối diện chính mình, nên luôn thích sống trong không gian ô nhiễm tiếng ồn. Tuy nhiên tĩnh lặng lại rất cần thiết cho tâm hồn thư giãn, tái lập quân bình. Cũng như một bản nhạc luôn cần có những dấu lặng thiết yếu, để thay đổi, chuyển sang giai điệu, tiết tấu, hòa âm, lời ca, ý nhạc mới.
Trong Thánh Lễ, có những khoảng lặng quan trọng trước kinh Cáo Mình, sau khi nghe Lời Chúa và Hiệp lễ. Đó là những giây phút nhìn lại mình, suy niệm Tin Mừng và tâm tình cùng Thánh Thể. Tất cả sự thinh lặng đó tựa như không gian thông thoáng, tĩnh mịch của hoang địa, bỏ qua, quên đi những vướng mắc, bận tâm đến thân xác, thế gian, cám dỗ phù phiếm, để có thể gần gũi, cầu nguyện, tâm sự với Chúa.
Ngoài ra, ai cũng có thể tận dụng những giây phút trước khi ngủ, hay khi vừa thức dậy để vào hoang mạc tâm hồn. Xét mình, ăn năn, sám hối và tâm tình với Chúa hằng ngày.
Chay tịnh
Theo nghĩa phổ thông, chay tịnh là giữ mình sạch sẽ, thanh khiết qua việc kiêng ăn thịt động vật, chỉ dùng rau quả cùng các sản phẩm thực vật, và nhất là qua việc giữ tâm hồn yên tĩnh, vô ưu, không vương vấn tham, sân si, lục dục, thất tình. Theo Kitô giáo, chay tịnh tuy cũng có sắc thái tương tự, nhưng kèm thêm ý nghĩa tích cực hơn nữa, là hy sinh, hãm mình, ăn năn, sám hối, xả kỷ vị tha, yêu thương và phục vụ tha nhân, hòa giải, bác ái từ thiện.
Chay tịnh là thoát ra khỏi sự chế ngự, kiềm hãm của thân xác, của bản năng, của cái tôi nhỏ mọn, vị kỷ, để hướng thượng, nâng hồn lên với Thiên Chúa, để hướng ngoại với tha nhân. Đó là hành vi bày tỏ lòng khiêm cung, niềm hy vọng và tình yêu trước Thiên Chúa và tha nhân.
Chay tịnh để hướng về Chúa với một thái độ lệ thuộc, phó thác hoàn toàn, trước khi khởi đầu một nhiệm vụ khó khăn, hay nài xin tha thứ tội lỗi đã vấp phạm, để mở lòng đón nhận ánh sáng Thiên Chúa, xin ơn cần thiết hầu hoàn thành sứ vụ.”Đaniel đừng sợ, bởi ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và chính vì những lời ấy mà ta đến.” (Đn 10, 12)
Cầu nguyện
Khi giữ chay tịnh thật sự thì mới có thể thành tâm cầu nguyện, như Thánh Phêrô khuyên nhủ. “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được.” (1Pr 4, 7) Mặc dù đã tràn đầy Chúa Thánh Thần khi vào hoang mạc, Đức Giêsu vẫn siêng năng cầu nguyện sớm tối, hầu nhận được hồng ân, Thánh Ý từ Thiên Chúa Cha.
Người dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện khiêm tốn, kín đáo và chân thành. “Khi cầu nguyện hãy vào trong phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt 6, 6) Hơn nữa, Người còn ban cho các môn đệ Kinh Lạy Cha, một mẫu mực hoàn chỉnh để cầu nguyện.
“Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.” (Đường Hy Vọng, số 120)
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn chúng con vào hoang mạc hằng ngày, qua những phút thinh lặng, cô đơn, để hãm mình, hy sinh và cầu nguyện với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, suốt cuộc đời Mẹ là chuyến lữ hành âm thầm, chay tịnh và cầu nguyện, luôn kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, Con Mẹ, để lắng nghe và thực hành Thánh Ý Chúa. Kính xin Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn, giúp đỡ chúng con noi gương Mẹ hy sinh hãm mình và cầu nguyện với Chúa luôn. Amen.
27.Lòng thương cảm sâu xa--Peter Feldmier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1 P3, 19)
Sự thương hại mang dáng dấp giống như lòng thương xót, nhưng thật sự hoàn toàn khác nhau. Nhiều phật tử còn coi sự thương hại như là kẻ thù của lòng xót thương chân thật. Sự thương hại nhìn từ bên ngoài, dễ khiến chúng ta ngộ nhận, dễ bị đồng hòa với những rung cảm sâu tận từ con tim. Sự thương hại xảy ra khi nhìn thấy một người bị đau khổ, nhưng chúng ta chỉ đứng ngoài cuộc để bàng quan nhìn vào những khổ đau đó như một người hoàn toàn xa lạ. Nhiều khi chúng ta còn thốt lên “ Cám ơn Chúa, rất may là tôi không gặp những bất hạnh giống như thế’’.
Nhưng sự thương xót chân thật thì trái ngược lại. Nó đặt nền tảng trên tình yêu chân thành. Nó lôi kéo chúng ta đến với những người đau khổ, đồng hành với họ, cảm thương họ, và chia sẻ với họ về những thống khổ họ đang gánh chịu. Tín hữu phật giáo diễn tả sự thương xót đó bằng thuật ngữ Karuna, có nghĩa là “ Mang chở nơi mình một con tim biết rung động”. Trong Tân ước, chúng ta cũng gặp hạn từ Splanknizomai, nghĩa là “ Cảm thấu đến tận ruột gan” trước nỗi khổ đau của kẻ khác. Sự thương xót mời gọi chúng ta đi vào chiều sâu, biết cảm thông và biết sẻ chia một cách sâu xa trong chính trạng huống thực sự của cuộc sống con người.
Sự đồng cảm đó là một sợi dây vô hình gắn kết con người lại với nhau. Ví dụ khi chúng ta đang gặp đau khổ, tâm hồn bị bầm dập và tan nát, có một ai đó đã quảng đại, sẻ chia và thông sự vào chính đời sống chúng ta một cách cụ thể. Hoặc ngược lại, có bao giờ chúng ta đã trải nghiệm việc đồng cảm và chia sẻ thực sự với những đớn đau của người khác? Làm sao chúng ta có thể xem nỗi khổ của người khác như là nỗi đau của chính mình để thực sự biết thương cảm một cách sâu xa.
Tin mừng hôm nay kể lại biến cố Đức Giêsu lui vào hoang địa và ở đó 40 ngày, trước khi khởi sự sứ vụ rao giảng công khai. Marcô diễn tả sự kiện này chỉ với 2 câu giản đơn “ Thần khí đẩy Ngài vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Ngài.” Nhìn nơi Đức Giêsu, Đấng được Thần khí đưa vào sa mạc, chịu sự tấn công của Satan, và sống giữa loài dã thú, giữa những con vật khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, chúng ta cảm nhận ra đó là một thân phận rất bi thương trong kiếp người. Cuộc sống của Ngài 40 ngày trong sa mạc đã không còn là cuộc sống của chính Ngài nữa.
Bài đọc hai hôm nay trích trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ gửi đến các Kitô hữu mới được lãnh nhận phép rửa. Trong đoạn văn này, thánh nhân diễn tả cái chết của Đức Kitô như là phương cách chuộc tội cho con người, và cơn đại hồng thủy năm xưa là một hình ảnh tiên báo (bài đọc 1). Trận lụt phác vẽ trước hình ảnh của bí tích rửa tội, và chính qua giếng rửa tội chúng ta được cứu chuộc. Thánh Phêrô còn nói thẳng thừng một điều xem ra rất khó hiểu: Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3,14), tức là những con người trước đây đã phạm tội vì bất tuân phục. Tôi không có ý cắt nghĩa bản văn theo nghĩa đen của từng câu từng chữ, giống như chúng ta vẫn thường tuyên tín trong kinh Tin Kính, “sau khi chết, Người xuống ngục tổ tông đem các thánh lên thiên đàng”, hoặc cũng phản ánh một điều mà Đức Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi. Tôi muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Con người Chịu- Đóng-Đinh, Đấng đã đem sự hiện diện cứu độ của Ngài đến những vùng tối tăm nhất của phận kiếp con người. Sheol hay cõi “lâm bô” như được nói đến trong cựu ước, được trình bày như là một thế giới mênh mông ngập trong nước, nơi không còn hy vọng, nơi không có sự sống và không có cả Thiên Chúa. Đức Giêsu đã sẻ chia kinh nghiệm của chính Ngài. Với tình yêu giải thoát, Ngài đã đi vào thế giới con người, xuống tận vực thẳm ngập sâu trong tối tăm của kiếp sống làm người.
Vào Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được mời gọi để cử hành suốt thời gian này để đi vào sự thương cảm với anh chị em đồng loại. Tức là chúng ta phải tiến sâu vào thân phận con người để nhìn ra những khổ đau, những bầm dập và cay đắng, hầu biết diễn bày lòng thương xót sâu xa, và để con tim chúng ta luôn biết rung động. Ba hình thái theo truyền thống của mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và bố thí sẽ giúp chúng ta bắt đầu mùa chay thật ý nghĩa. Chúng ta cầu nguyện để thông hiệp sâu xa hơn với Đấng đã đem chúng ta vào hiện hữu, và lôi kéo chúng ta đến với tình yêu vô tận của Ngài. Chúng ta thực hành việc chay tịnh để cảm thông với 2 triệu người trên thế giới đang đói, đang khát vì chẳng có cái gì để ăn. Chúng ta giang rộng đôi tay bố thí để giải thoát chúng ta khỏi sự keo kiệt ích kỷ, hầu chúng ta được liên đới chặt chẽ hơn với những người đang cần đến chúng ta.
Mùa chay là thời gian đặc biệt để giúp chúng ta ý thức, đồng thời khơi dậy nơi chúng ta lòng thương cảm sâu xa. Đây là thời kỳ mà Giáo hội gọi mời chúng ta phải tiến sâu hơn, đi vào sự chia sẻ đồng phận trong kiếp người, với những ai đang gặp khổ đau, để với một tình yêu chân thành, chúng ta biết sống chan hòa, và con tim chúng ta biết rung động trước những khổ đau của anh chị em mình.
28.Hàng ngày vào hoang địa--AM Trần Bình An
Hôm nay Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào hoang địa, nơi tứ bề yên tĩnh, vắng vẻ, hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt, ngày nóng đêm lạnh, môi trường chẳng thân thiện, chỉ có dư giả nắng và gió, cùng thú dữ tình rập đe dọa.
Chúa vẫn thường hay đi ngược dòng đời thực dụng, thay vì mời gọi chúng ta nghỉ dưỡng tại bãi biển nắng ấm, hay lên cao nguyên mát mẻ, lại muốn chúng ta đồng hành với Người đến chỗ khô chồi, cằn cỗi, cùng hứa hẹn bao nguy hiểm bất ngờ. Nhưng đấy lại là yêu cầu chính đáng để chúng ta có thể trở nên môn đệ chân truyền của Người.
Chính trong hoang mạc cô đơn, thoát ra khỏi môi trường quen thuộc, khỏi đám đông xô bồ, con người mới có dịp đối diện với chính bản thân, mới có cơ hội nhìn lại, tự kiểm, xét mình. Đây là giờ phút phản tỉnh, một bước dừng trong cuộc sống hối hả, tất bật mưu sinh, quay cuồng với dục vọng, ham muốn, hay say sưa chức tước bổng lộc, tựa như một dấu lặng trong bản nhạc, để thăng hoa cuộc sống thêm ý nghĩa.
Đồng thời, nơi đây mỗi người còn phải đối mặt với các cuộc chiến trường kỳ và ác liệt, phải chiến đấu với môi trường nghiệt ngã, chiến đấu với bản năng sinh tồn, chiến đấu với cám dỗ xác thịt, chiến đấu với đam mê, dục vọng, do ma quỷ ra sức khêu gợi, dụ giỗ. Dẫu vậy, đây cũng là cơ hội may mắn, nếu thành tâm tìm đến nương tựa bên Người Cha Nhân Lành, để được nâng đỡ, an ủi và chúc phúc.
Tiếc thay, mang tiếng xét mình, nhưng ta lại kiêu căng, tự phụ, cứ nhiệt thành xét tội người khác, đổ vấy bao lỗi lầm, tội lỗi lên đầu thiên hạ, còn mình chẳng thấy có chút tỳ vết gì. Mang tiếng ăn năn sám hối, nhưng lòng ta vẫn tôn thờ cái tôi vĩ đại, cứ mãi manh nha, toan tính dối gian, đắn đo bao lẽ hơn thiệt. Tưởng chừng mau mắn tìm đến Thánh Ý, hóa ra toàn là đi tìm tà ý!..
Từ xa xưa, ngôn sứ Giô en đã tha thiết kêu gọi dân Israel trở về với Chúa, cũng không ngần ngại lật tẩy cái thói đạo đức giả hình: “ Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng! Hãy trở về cùng Đức Chúa, là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Ngài từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương... (Ge 2, 12-13)
Có lẽ chẳng cần đi đâu xa xôi, mà vẫn có thể vào hoang địa. Hằng ngày cứ sốt sắng dành chút thời gian với Chúa Giêsu, ngay trong căn phòng vắng lặng, trước giấc ngủ khuya, hay sáng sớm tinh mơ vừa tỉnh giấc, để kiểm điểm, sám hối và tin vào Tin Mừng. Tiếng Chúa chắc chắn sẽ vang vọng trong tâm hồn, mỗi khi thành tâm chạy đến cùng Ngài.
“Thinh lặng bên ngoài, nhất là thinh lặng bên trong là bầu khí của cuộc sống nội tâm.” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 86)
“Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến lên. Lâu nay con để dành mấy phút?” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 98)
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin dẫn dắt con vào hoang địa, để con biết ăn năm, sám hối, thanh tẩy, hầu nhận biết được Thánh Ý nhiệm mầu trong cuộc sống của con.
Lạy Mẹ chí thánh, xưa kia Mẹ đã đồng hành cùng Chúa trong suốt 33 năm, xin nhắc con hằng ngày vào hoang địa, để con chừa bỏ tội lỗi yếu đuối, mà nhận lấy bao hồng ân Chúa luôn sẵn lòng thương ban. Amen.
29.Thần lành, thần dữ--Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc đời rao giảng nơi trần thế của Đức Kitô cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa thần lành và thần dữ. Thần lành hướng dẫn Đức Kitô vào hoang địa chuẩn bị cho cuộc đời rao giảng công khai. Trái lại thần dữ rình rập tìm cơ hội cám dỗ Đức Kitô nơi hoang địa. Còn một thần nữa Kinh Thánh không nhắc đến đó chính là thần khí của Đức Giêsu. Kinh Thánh dường như không phân biệt sự khác biệt giữa Thần Khí Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Kitô nhưng thường dùng chung, hoán đổi cho nhau.
Trong bài giảng đầu tiên nơi hội đường, người ta đưa cho Đức Kitô sách thánh, Ngài mở ra đúng đoạn tiên tri Isaiah nói về Ngài.
Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18)
Sách tiên tri Isaiah chương 62,1-2 tiên đoán về cuộc đời rao giảng của Đức Kitô trong đó nhấn mạnh đến việc
Ngài đến để mang Tin Mừng đến cho người nghèo khó, giải thoát kẻ bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải thoát kẻ bị đoạ đầy và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Sứ mạng của Đức Kitô được hiểu một là ích lợi về phần xác và hai là ích lợi phần tâm linh. Đức Kitô mang thân phận con người như chúng ta nên con tim Ngài cũng có cảm giác như chúng ta cảm nghiệm. Con tim Ngài cũng biết đau khổ, sợ sệt khi đối đầu với thập giá. Con tim Ngài cũng quằn quại, dằn vặt trước bất công của xã hội, đè nén, chèn ép con người dành cho nhau. Con tim Ngài cũng thấm cảnh con người hành hạ con người, mệt mỏi khó khăn của kẻ tìm công việc. Con tim Ngài cũng biết chán nản, biết mệt mỏi khi phải mong chờ. Những lúc như thế Ngài thường tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Chúa Cha. Con tim Ngài cũng rung động khi ban phát tình yêu và vui mừng đón nhận yêu thương và những lúc như thế Ngài trở về hoang địa tâm hồn, tìm nơi thanh tịnh cảm tạ Chúa Cha. Vì thế để hiểu tâm tình của Đức Kitô chúng ta cũng cần có con tim biết cảm thông của Ngài. Để biết được tâm tình của Thiên Chúa Cha chúng ta cần biết tâm tình của Đức Kitô. Để trở thành môn đệ trung tín của Đức Kitô chúng ta cần tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Đức Kitô.
Về phương diện tâm linh Đức Kitô công bố năm hồng ân của Thiên Chúa và kêu gọi con người thống hối và tin vào Tin Mừng Mc 1,15.
Hành trình thống hối gặp khó khăn, chống đối mãnh liệt từ thần dữ vì thống hối chính là từ bỏ đường lối sống của thần dữ để trở thành con cái sự sáng. Thần dữ coi việc từ bỏ này là hành động phản bội lại chúng và chúng sẽ tìm mọi cách để cám dỗ và nếu cần phải tiêu diệt kẻ phản bội chúng sẽ không ngần ngại. Vì thế hành trình thống hối luôn gặp khó khăn, nội chiến trong tâm hồn xảy ra. Bao nhiêu tư tưởng ma quỷ đưa ra khiến ta ngập ngừng, tìm cơ hội kéo dài thời gian quyết định mong ta dùng giằng trước ngã ba hầu mệt mỏi, buông xuôi theo con đường ma quỷ muốn ta đi theo. Quyết tâm đầu tiên trong hành trình thống hối là tiến vào sa mạc, nơi thanh vắng, chỗ không người đề tâm hồn được an nghỉ. Chính nơi đó ta nghe tiếng mời gọi của Thiên Chúa rõ ràng hơn, mạch lạc hơn, trong sáng hơn bởi thế sa mạc tâm hồn là nơi ta tìm được tiếng Thiên Chúa và tình yêu Chúa.
Đức Kitô không cần thống hối, không cần vào sa mạc nhưng Ngài tự nguyện vào sa mạc để chỉ cho con người con đường thống hối, con đường sa mạc. Chính nơi đó Ngài gặp Chúa Cha nhưng vừa bước chân ra khỏi samạc ma quỷ đã chờ sẵn để cám dỗ. Đức Kitô dùng Lời Chúa đáp trả chúng và chúng đã thua. Chúng ta cũng cần học hỏi Lời Chúa để đáp trả ma quỉ khi chúng đến cám dỗ. Thống hối thật cần đi chung với Lời Chúa, không có lời Chúa đi kèm không có thống hối thật sự vì tự chúng ta không đủ sức chống lại cám dỗ của ma quỉ.
Có sự khác biệt giữa thần khi của Đức Giêsu trần thế và thần khi của Đức Kitô Phục Sinh. Thần khi nơi trần thế của Đức Giêsu nhấn mạnh đến con tim yêu thương của Thiên Chúa; Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh nhấn mạnh đến việc làm cho vinh quang Thiên Chúa rạng rỡ hơn. Vì thế khi nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh là nhắc đến vinh quang, khải hoàn, chiến thắng và triều thiên vinh hiển nơi thiên quốc. Nhắc đến thần khí Đức Giêsu trần thế là nhắc đến tâm tình yêu thương, tha thứ và bác ái, từ bi, nhẫn nại.
30.Ăn chay--Lm. Vũ Đình Tường
Có người ăn chay nhưng không hãm mình.
Có người hãm mình nhưng không ăn chay.
Có người vừa ăn chay vừa hãm mình.
Có người không chay cũng chẳng hãm.
Ăn chay và hãm mình thuộc về tâm hồn, nội tâm. Thực tâm đến mức nào chỉ mình mình biết, mình mình hay. Ăn chay hãm mình thật phải là việc làm tự nguyện, thành tâm và làm với lòng mến. Ăn chay thực cần đi đôi với hãm mình. Thiếu hãm mình không thể nào là ăn chay vì bản chất của chay tịnh là tự chế, tự chủ. Tuy nhiên không phải tất cả các tự chế, tự chủ đều là ăn chay. Do vậy người ta có thể hãm mình nhưng không cần ăn chay. Ăn chay thiếu hãm mình là ngoài mặt ăn chay nhưng tâm nghĩ mặn.
Nói đến ăn chay chúng ta nghĩ đến việc kiêng ăn, kiêng uống. Sự việc không đơn giản thế. Ăn chay là việc làm tự nguyện, tự chủ và làm với lòng yêu mến Thiên Chúa. Điều răn quan trọng nhất Chúa Giêsu dậy là: Mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Toàn thể con người từ trong ra ngoài đều thể hiện lòng mến và việc làm đi đôi với yêu tha nhân. Ngoài việc kiêng ăn, bớt uống và hạn chế hút sách chúng ta cần kềm hãm các giác quan khác trong con người.
Hãm mắt nhìn sự việc xấu.
Hãm tai nghe điều tệ hại.
Hãm miệng nói điều chua ngoa, gian xảo.
Hãm chân đi đến những nơi tồi bại.
Hãm tay làm những việc bất công.
Hãm óc nghĩ đến những tư tưởng gian tà.
Hãm cảm nhận những cảm xúc bất chính.
Hãm chiều theo đòi hỏi của thân xác.
Hãm không cho cái tôi làm chủ.
Ăn chay chính là làm chủ con người anh em. Mọi tư tưởng lời nói, việc làm và ngay cả cảm xúc đều bị kềm hãm. Trước đây anh em nghe theo chúng giờ đây bắt chúng phải lắng nghe lời anh em. Chúng phải làm theo mệnh lệnh của anh em. Chúng phải là công cụ phục vụ anh em để điều răn Chúa dậy được thể hiện trong cuộc sống của anh em đó là mến Chúa và yêu tha nhân.
Như thế ăn chay có giới hạn nhưng hãm mình thì vô hạn vì lúc nào con người cũng cần làm chủ đời mình.
31.Thách đấu--Lm. Vũ Đình Tường
Thách đấu là một hình thức khiêu chiến. Một bên muốn đánh, bên kia muốn hoà. Để diễn tả một cách ôn hoà, văn vẻ hơn chính là câu nói,
Cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng.
Kẻ thách đấu thường là kẻ hiếu chiến. Vì hiếu chiến nên mới thách thức, thích bạo động. Hiếu chiến đến từ tính kiêu ngạo. Tự cho mình hơn người. Tự nhận tài giỏi và tự tin là sẽ chiến thắng vinh quang.
Trong tu đức thách đấu luôn khởi nguồn từ ma quỉ vì bản chất hiếu chiến, hung hăng, thích bạo động của chúng. Đó là những hình thức khác nhau của các cơn cám dỗ, chước cám dỗ phát sinh bởi bản tính tính kiêu ngạo của ma quỉ. Bản chất của chúng là tự kiêu, cao ngạo, kiêu căng nên không từ cơ hội nào, không chừa ai, lớn bé, già trẻ chúng đều trêu ghẹo tìm cách cám dỗ.
Ma quỉ cám dỗ con người dưới nhiều hình thức, đa dạng. Chúng không thách thức con người một cách vô í thức mà có chủ trương, thủ đoạn của từng lần cám dỗ. Thủ đoạn của chúng là nghiên cứu con người đó mạnh yếu phần nào. Đâu là yếu điểm, đâu là nhược điểm của con người đó. Chúng lợi dụng cả người thân, bạn đường, người ta tin tưởng, tình bạn để lung lạc mong đạt cơn cám dỗ. Rất nhiều trường hợp lạc đường, sai lối do bạn bè quyến rũ, rủ rê, dẫn vào cuộc đời ăn chơi trác táng, sa đọa. Không phải người đó cố tình gây tai ương cho mình mà chính là động lực ngầm của ma quỉ thúc đẩy, bày mưu, gài bẫy.
Yếu điểm chính là các điểm trọng yếu của người đó. Bởi là điểm trọng yếu nên ma quỉ thường tránh không muốn đụng chạm đến. Chúng không ngu dại gì húc đầu vào tường đá, bể sọ chết. Như thế ma quỉ thường tấn công, triệt để, khai thác nhược điểm của người đó bởi vì nhược điểm là điểm dễ tấn công và kết quả thành công cao hơn nhiều. Như thế ma quỉ vừa kiêu ngạo, vừa ranh mãnh. Chúng lại có nhiều thời gian và cơ hội để tấn công một người. Vì thế ta không lấy làm lạ một người trước đây đạo đức, sau này gặp lại, lại trở thành sa đọa. Từ tình trạng đạo đức, tốt lành, thánh thiện biến sang tình trạng khô khan, nguội lạnh, biếng nhác.
Trái lại cũng nhiều trường hợp trước đây coi thường đạo nghĩa, sống buông thả. Một thời gian sau thay đổi biến thành đạo đức sốt sắng, tốt lành. Tình trạng này có được vì người đó may mắn sau những lần thua các cơn cám dỗ nhận biết nhược điểm của mình. Khiêm nhường nhận biết mình tài hèn, sức mọn không đồng nghĩa với nhu nhược mà là hiểu rõ con người mình hơn. Biết mình, biết người là bước đầu của thành công. Bởi biết mình yếu đuối nên không tự cậy sức riêng mà phó thác trong tay Chúa, phó dâng cuộc đời cho Chúa và cậy trông vào sức mạnh của lời cầu nguyện và ân sủng của các bí tích thánh, giúp họ sống trên con đường lành thánh. Một cách để nhận biết ta thuộc về Chúa hay thuộc về ma quỉ chính là nhìn vào các cơn cám dỗ. Từ chối cám dỗ là dấu hiệu cho biết ta còn thuộc về Chúa. Sa chước cám dỗ là dấu chỉ cho thấy ta đang bị ma quỉ cầm giữ, trói buộc.
Phúc âm thánh Marcô hôm nay cho biết không ai tránh khỏi chước cám dỗ. Kẻ chiến thắng chước cám dỗ là kẻ biết tự lượng sức mình. Lượng sức bằng cách vừa chống lại chước cám dỗ vừa dựa vào sức mạnh Lời Chúa tăng sức. Như thế sau mỗi chiến thắng chước cám dỗ người đó luôn sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì nhờ sức mạnh Lời Chúa mà có được chiến thắng, tránh khỏi sa chước cám dỗ. Đây là một kinh nghiệm quí báu cho các Kitô hữu tin cậy vào Chúa. Bài học quí trọng này cho biết sức mạnh của ta đến từ Chúa. Ta tự tin lần cám dỗ kế tiếp ta cũng sẽ chiến thắng vì có sức mạnh Lời Chúa hỗ trợ. Kinh nghiệm sống đạo này một ngày một giầu mạnh và gắn bó ta mật thiết hơn với Chúa. Điều này rất cần vì ma quỉ không dễ đầu hàng, từ bỏ cám dỗ. Thua keo này chúng rình rập, tìm cơ hội bày keo kế tiếp. Thua nữa, chúng lại bày kế khác vì bản tính hung hăng kiêu ngạo trong chúng luôn thúc đẩy chúng tấn công ta. Càng thua, chúng càng bực dọc, càng trở nên hung bạo đến điên cuồng. Cơn cám dỗ, lời thách đấu của kẻ điên nằm ngoài giải thích hợp lí, lí lẽ bình thường. Kinh nghiệm bị cám dỗ thường xuyên cho biết ma quỉ đang thua đặm, càng thua chúng càng hung hăng. Chúng càng hung hăng ta càng cần trông cậy vào Chúa nhiều hơn.
Các thánh khi còn sống tại thế cầu nguyện hàng ngày, cầu nguyện liên tục là vì các ngài luôn phải tranh đấu, triền miên chống lại các cơn cám dỗ.
Sống thánh thiện chính là gắn bó đời ta với Lời Chúa. Chúng ta xin ơn biết lắng nghe Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc.
32.Cám dỗ trong hoang địa--Lm. Hồng Phúc
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài”.
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.
33.Đức Giêsu trong hoang địa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13).
Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.
Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc…
Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).
Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.
Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.
Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.
Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
34.Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Văn Phan
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã 'nói trúng tim đen của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày... Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc...? Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói "không " với bản thân và nói "có " với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
35.Những cám dỗ của Mùa Chay--Lm. Thu Băng, CRM
Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa "Chữa bệnh" hơn là mùa "đền tội". Mùa Chay theo thể lý, người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích... Đó là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc...), hãm dẹp những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác...), để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo....
Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ Ngài.
Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép cho đá thành bánh - Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.
Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40 đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.
1. Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình. Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.
2. Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ phục quyền Đấng có quyền thật.
3. Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.
Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều Chúa dạy cách bền chí.
36.Đọc lại câu chuyện cám dỗ từ sách Sáng Thế--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
Đọc lại câu chuyện Sáng Thế (St 3, 1-7): Cám dỗ và sa ngã.
Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví rắn là quỷ dữ (Satan): “Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế gian” (St 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).
Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (3,1b). Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:
Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.
Không được ăn cây nào cả.
Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện.
Người nữ phản kháng: Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.
Con rắn ngọt ngào dụ dỗ: Chẳng chết chóc gì đâu! quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo, rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình. Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.
Người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan - cảm giác), mát mắt (thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống Chúa.
Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu, con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán đoán và quyết định.
Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã.
Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.
Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn (3,12). Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa: chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở với tôi.
Người nữ đổ tội cho rắn: Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.
Ý nghĩa “con rắn” và “trái cấm”
Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? Còn “trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không?
a. Con rắn
Trước tiên, hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ”. Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” theo nghĩa rộng như là một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.
Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Phải đợi đến thời Kitô giáo, “trái cấm” được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà , người nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam”. Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước và Tân Ước. Tư tưởng “máu đào tử đạo là hạt giống đức tin” có lẽ cũng mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.
Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Hy Lạp có thần Asklepios chữa bệnh mang dấu hiệu hình rắn mà ngày nay vẫn thấy tại các tiệm thuốc tây, văn phòng bác sĩ, hoặc nhà thương. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).
b. Trái cấm
Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem “trái cấm” đến dụ dỗ con người. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.
Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây.
Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.
Giai đoạn “Ađam và Evà bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm.
Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ”. (x. Nội san chia sẽ, số 52, tháng 12, năm 2006, trang 79-82).
Chiến thắng cám dỗ theo gương Chúa Giêsu
Trong hành trình về đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Con người “già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng Lời Chúa và đời sống chay tịnh cầu nguyện, luôn tín thác vào Chúa Cha.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỉ đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
-Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
-Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
-Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
Dường như suốt cả cuộc đời, Chúa Giêsu luôn bị Satan tấn công: “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỹ bỏ đi, chờ đợi thời cơ ”. (Lc 4,13). Nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với khổ nạn và cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi mồ hôi đổ ra như máu. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ”. (Mt 26, 39b); “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ”. (Mt 26, 42b).
Chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của mình với Chúa. Dựa vào sức mình, vào khả năng của mình… mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì chúng ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để xét mình, để sám hối canh tân bản thân, nhờ đó mà sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày.
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: "Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?" Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?". Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!" - "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" - "Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa" - "Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!".
37.Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm thấy đói. Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ. Chúa đã chiến thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.
1. Ba cơn cám dỗ
– Cơn cám dỗ thứ nhất phát xuất từ cái đói. Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3). Cơn cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của con người. Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.
– Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi! Bởi đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5). Ma quỷ dùng Tv 91,11 để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có biểu lộ quyền năng của Người hay không. Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân. Đó là bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh. Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình. Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…
– Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9). Một cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina. Đó là thờ lạy các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các quốc gia khác. Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi một con người. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật chất, tiện nghi, sắc dục.
Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.
Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3.17). Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ nơi Chúa Cha (GLTC #394).
Cơn cám dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc một (St 2,7-9;3,1-7). Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.
Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer. Không vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.
Thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Người dạy phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”.
2. Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.
– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)
– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với các thánh trên trời.
Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
3. Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?
– Khi thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những websites của Trư Bát Giới… Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).
– Khi thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự thật, lừa bịp thiên hạ … tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).
– Khi thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét đoán người kia, lên án người nọ … thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,37).
– Khi bị thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả … tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng “[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8-9).
– Khi thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại … thì tôi xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục … kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).
– Khi thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ … thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt (Mt 5,22).
– Khi thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ bừa bãi … tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé! Chớ có làm cho nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19).
Sau khi chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thánh tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
38.Con số 3 trong Mùa Chay--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mỗi năm, vào đầu Mùa Chay, tôi đặc biệt nhớ tới con số 3 vì nó hiện diện ở ngay ngày thứ tư đầu Mùa Chay và ở ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay.Thứ tư Lễ Tro, trong Phúc âm Thánh Matthêu (Mt 6,1-6.16-18), Chúa dạy 3 điều cần phải làm ba việc này:
Thứ nhất: Bố thí: làm việc lành, việc phước thiện, để nâng đỡ tha nhân, như thăm viếng người bệnh, người già, giúp công, giúp của cho những người cùng túng, lâm nạn, những người cô thân, cô thế và tàn tật…
Thứ hai: cầu nguyện: có thời giờ sống bên Chúa, thưa chuyện với Chúa, lắng nghe tiếng Người, đọc sách báo linh đạo, suy niệm về Ơn lành Cứu Ðộ và về những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu tại Giêrusalem, về cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Cầu nguyện để phát triển đời sống nội tâm, trong thinh lặng, với tâm tình cảm tạ và kính mến.
Thứ ba: Ăn chay: hãm dẹp các vọng động, giảm bớt tiêu pha và hưởng thụ, như bớt ăn, bớt uống, bớt coi điện ảnh, ngưng hút thuốc, bỏ ăn quà vặt, không chơi bài bạc và không chè chén say sưa…
3 điều trên đây có liên hệ mật thiết với nhau, như nhân với quả, như hoa với trái. Ví dụ: ta chỉ có thể có tiền và có thời giờ để giúp đỡ tha nhân, nếu ta đã tự hãm mình, dẹp bớt các nhu cầu và bỏ đi lòng vị kỷ. Hơn nữa, sự cầu nguyện và lòng kính mến Chúa sẽ thúc đẩy ta biết mở rộng lòng ra, biết cảm thông với những người đang gặp đau khổ về vật chất và tâm linh.
Vậy, nếu thực sự chúng ta kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, thì chúng ta chú trọng thực hành 3 việc là ăn chay, cầu nguyện và bố thí, một cách vui vẻ, âm thầm và kín đáo, như Chúa Giêsu dạy: “tay trái không biết việc tay phải làm”. Khi cầu nguyện, ăn chay và làm việc từ thiện, bác ái, chúng ta không tìm tiếng khen của người khác, mà chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa là Cha của chúng ta mà thôi.
Trong Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay (Lc, 4,1-13) ta gặp lại con số 3 một lần nữa: Đức Giêsu bị Satan dụ dỗ về 3 điểm, tức là 3 ước muốn mãnh liệt nhất của cái tôi giả tạo: thụ-hưởng, danh-vọng và quyền-lực. Đó là 3 điều dụ dỗ rất mực tế nhị và độc hại, đã từng làm cho loài người điên đảo, phạm những điều ngang ngược, phi nhân, phi nghĩa. Đức Giêsu đã dùng thần lực của Thánh Kinh mà khử trừ 3 dụ dỗ thâm hiểm đó của Satan. (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tịnh, FD).
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta sống 3 thực hành quen thuộc của Mùa chay: “Ăn chay, cầu nguyện và bố thí, như lời rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mt 6,1-18), là điều kiện giúp chúng ta hoán cải và thể hiện sự hoán cải. Nẻo đường khó nghèo và bỏ mình (ăn chay), quan tâm và yêu thương chăm sóc người nghèo (bố thí), và như trẻ thơ trò chuyện với Chúa Cha (cầu nguyện) làm cho chúng ta có thể sống đức tin chân thành, đức cậy sống động và đức ái tích cực.” (Sứ điệp Mùa chay 2021, dẫn nhập).
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có 3 phương thế để có thể chiến thắng.
1. Lời Chúa.
Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.
Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
* Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
* Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
* Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nỗi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b); “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
2. Ăn Chay
Ăn chay giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. Ăn chay đi đôi với sự hãm mình. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại ăn chay hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu người. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.
3. Cầu Nguyện.
Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay. Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Ghi nhớ con số 3 của Mùa Chay để thực hành sám hối, canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.
39.Món ăn năn--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.
Món ấy là món gì? Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Mùa Chay.
Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân. (1)
1. Ăn năn sám hối
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối ăn năn, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người. Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro”. Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.
Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì? Thưa là để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc. Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!
Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, hãy tỏ lòng ăn năn sám hối và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.
2. Năm bước ăn năn (2)
Mùa Chay là mùa đặc biệt dành cho sự trở về của người biết ăn năm sám hối. Sự trở về này gồm nhiều giai đoạn, phần lớn xảy ra trong nội tâm. Ăn năm sám hối bắt đầu từ nội tâm, từ cõi lòng.
- Bước đầu tiên của hành trình ăn năn sám hối là ý thức tội lỗi. Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có tội, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.
- Bước thứ hai là sự hối hận, đau buồn, ray rứt trong lòng vì những điều xấu mình đã làm. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều ác, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.
- Bước thứ ba là sự gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm, là một sự gặp gỡ trong tin yêu. Khi đã lỡ phạm tội, nhiều người rất hối hận, vì yêu Chúa. Càng yêu Chúa, chúng ta càng hối hận, càng hối hận chúng ta càng yêu Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa, thú nhận tội lỗi với Chúa và xin Chúa tha thứ. Chắc chắn Chúa tha thứ và ban lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Giai đoạn này Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được Tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
- Bước thứ tư là quyết tâm thú nhận tội lỗi của mình, không những với Chúa, mà còn với Giáo Hội. Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc xưng tội, nói ra sự thật và tất cả sự thật với cha giải tội là đại diện cho Chúa và cho Hội Thánh. Giai đoạn này cũng rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.
- Bước thứ năm là thực sự sửa đổi đời sống. Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều ác nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Chính vì thế mà cần rất nhiều ơn Chúa, cần sự giúp đỡ của những anh chị em đồng đạo với mình.
Để có thể canh tân đổi mới đời sống cách hữu hiệu và bền bỉ, phải cầu nguyện rất nhiều như lời Chúa dạy. Cầu nguyện âm thầm kín đáo trong lòng, chứ đọc kinh bên ngoài thôi chưa đủ. Rồi phải ăn chay, nghĩa là phải nhịn, không chỉ nhịn ăn mà thôi, có khi còn phải nhịn nói, nhịn thỏa mãn sở thích của mình, kiềm hãm tình cảm nóng giận. Và cuối cùng hãy tập làm việc lành, tập giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình.
3. Chuyện kể ăn năn
Thánh Kinh kể nhiều câu chuyện ăn năn sám hối rất cảm động.
- Vua Đavít phạm tội ngoại tình với Bát Seva, vợ của tướng Urigia. Sau khi phạm tội vua Đavít cố tình che đậy tội lỗi của mình. Nhà vua sai chồng bà đang ở ngoài mặt trận về nhà với vợ, để mai mốt bà có sinh con, thì thiên hạ sẽ cho rằng đó là con của vị tướng. Tuy nhiên tướng Urigia nhất định không chịu về nhà vì ông là một tướng lãnh chuyên nghiệp, muốn sống chết với binh sĩ ngoài mặt trận. Giấu giếm bằng cách này không được, vua Đavít lại toan che đậy tội lỗi của mình bằng cách lập kế cho giết vị tướng là chồng bà ngoài trận địa để vua có thể cưới bà.Đến đây Thiên Chúa sai ngôn sứ Nathan đến để làm thức tỉnh lương tâm của nhà vua. Được thức tỉnh lương tâm, vua Đavít liền ăn năn sám hối, vội trở về với Chúa. Nhà vua thốt lên: Tôi đã đắc tội với Thiên Chúa (2 Sm12,13). Vua tỏ lòng ăn năn sám hối cho tội lỗi đã phạm được bầy tỏ trong Thánh vịnh 51 mà truyền thống cho rằng vua Đavid là tác giả.
- Câu chuyện người phụ nữ tội lỗi được trong Phúc âm. Tội lỗi đã đọa đầy chị ra ngoài vòng xã hội. Cuối cùng chị đến xin Chúa Giêsu ban cho chị đời sống mới và một tình yêu đổi mới. Chị ta chứng tỏ cho Chúa thấy biểu hiệu của tình yêu bằng cách rửa chân Chúa bằng nước mắt và dùng tóc lau chân Chúa và sức dầu thơm cho Chúa. Do đó tội lỗi của chị đã được tha thứ nhiều vì yêu nhiều (Lc 7,47). Hành vi của Chị biểu lộ tâm tình ăn năm sám hối. Để có được tâm tình sám hối, người ta phải tỏ lòng khiêm tốn, chấp nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Người biết sám hối là người ý thức về sự yếu hèn và tội lỗi của mình. Người đàn bà tội lỗi khi nhận thức được mình là kẻ có tội, đã ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt. Chỉ khi nào người ta ý thức được về tội lỗi của mình, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa. Còn người Pharisêu tự coi mình là công chính nên mới không cảm thấy cần sám hối.
- Khi còn thuộc nhóm Pharisiêu, Phaolô kiêu ngạo, cứng lòng và bách hại các tín hữu. Nhờ ăn năm sám hối, ngài đổi mới hoàn toàn, ngài có được kinh nghiệm sống trong tình yêu lòng nhân từ và tha thứ của Đấng đã quật ngã mình khỏi lưng ngựa.Thánh Phaolô yêu Chúa trên hết mọi sự và đã trở thành Tông đồ dân ngoại.
- Thánh Phêrô chối Chúa. Chúa thức tỉnh ký ức của Phêrô bằng tiếng gà gáy và ánh mắt tha thứ nhân từ. Nhờ ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt hối hận “ Phêrô ra ngoài khóc lóc thảm thiết”(Lc 22,62), Phêrô đã nên vị lãnh đạo chăm sóc đàn chiên của Chúa.
Câu chuyện về những người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối và được tha thứ như vua Đavít, như người đàn bà tội lỗi và như thánh Phaolô hay như thánh Phêrô nói lên lòng thương xót thứ tha của Chúa. Tâm tình ăn năn sám hối ở đây khác với mặc cảm tội lỗi. Được tha thứ rồi, ta không cần mang mặc cảm tội lỗi. Mang mặc cảm tội lỗi có thể khiến ta nghi ngờ lòng thương xót tha thứ của Chúa. Tuy nhiên ta nên duy trì tâm tình sám hối vì sống trong tâm tình sám hối sẽ giúp ta sống gần bên Chúa mãi.
Để có thể sám hối, cần phải có ơn biết kính sợ Chúa. Không phải sợ mà không dám đến gần Chúa, nhưng sợ làm điều mất lòng Chúa như sách Huấn ca dạy: Kính sợ Chúa là bước đầu của khôn ngoan (Hc1,14). Ơn biết kính sợ Chúa là cần thiết để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
4. Muốn ăn năn phải hãm mình
Xã hội càng duy vật và giàu có, người ta càng có khuynh hướng quên đi một số quy luật cơ bản của đời sống tinh thần. Quy luật xem ra bị lãng quên nhiều nhất chính là ăn năn sám hối, để rèn luyện ý chí hầu có thể làm chủ bản thân. Trong mọi cuộc đấu tranh, sự đấu tranh với bản thân là gay go hơn cả. Chính vì thế có một số người, sau khi đã đấu tranh thất bại với bản thân thì hoàn toàn nản chí, không còn muốn đấu tranh với chính mình nữa và thường xuyên chiều theo con người hư đốn của mình. Có những người khác, vì không bao giờ đấu tranh với chính mình, nên chỉ dành thời giờ và sức lực để đấu tranh chống tha nhân và ức hiếp người yếu thế.
Mùa Chay là mùa ăn năm sám hối. Mục đích của việc ăn năn sám hối là hãm mình. Hãm con người mình lại, hãm bớt dục vọng, hãm bớt đam mê, hãm bớt thói hư tật xấu, hãm bớt sự tham lam của cải, hãm bớt sự hung hăng gây chiến, hãm bớt lòng tự cao tự đại, hãm bớt cả những sở thích thường nhật. Sự hãm bớt như thế có một tác dụng rất lớn, nếu được thực hành thường xuyên sẽ tạo cho ta một nội lực một sức mạnh giúp ta làm chủ bản thân khi cần thiết. Đức tính tự chủ dễ nảy sinh và phát triển nơi những con người quen hãm mình. Và chính đức tính ấy làm cho con người thực sự tự do, làm chủ bản thân, không nô lệ chính mình vào bất cứ điều gì. Thoạt nghĩ tới thì sự hãm mình có vẻ là một sự gò bó, giới hạn, cắt xén, làm cho con người không còn được tự do thoải mái. Chính vì thế mà nhiều người trong xã hội hôm nay, kể cả những người có đạo, thậm chí cả những người sống đời tu trì, không thích hãm mình, và hầu như không còn hãm mình nữa. Đó là lý do của sự xuống dốc về đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội. (3)
Giáo Hội biết rõ cứ sự thường người ta không thích hãm mình, nên thường dạy hy sinh đi đôi với sự hãm mình. Hy sinh là tự nguyện chết đi, là thông phần với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, kết hợp với hiến tế thập giá của Ngài. Hy sinh làm những điều mình không thích quả thật là từ bỏ chính mình để bước theo Chúa. Hy sinh là liều mất sự sống, thì sẽ được sống, là đánh mất bản thân, thì sẽ gặp lại bản thân. Hy sinh là chết đi để được vui sống muôn đời. Hy sinh là đi con đường thập giá dẫn tới vinh quang Phục Sinh. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại hy sinh hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu những người khác. Chính vì thế mà hãm mình hy sinh thường đi chung với cầu nguyện. Có cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng hy sinh nhiều thứ, và dễ dàng làm chủ bản thân mình. Đời sống cầu nguyện thường được nuôi dưỡng bằng những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thực tế mỗi ngày.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để cầu nguyện, để ăn năn sám hối để hy sinh hãm mình, nhờ đó mà canh tân bản thân mình ngày mỗi hoàn thiện hơn.
5. Mùa Chay linh thiêng
Mùa Chay linh thiêng lại về với đời sống tín hữu Công Giáo. Mùa chay là thời gian 40 ngày dọn lòng mừng lễ Phục Sinh, trải dài từ Lễ Tro cho đến Tuần Thánh, lặp lại thời gian 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu năm xưa khi chuẩn bị bước vào đời công khai rao giảng Tin Mừng (Mt 4,2). Con số 40 còn lặp lại nhiều biến cố khác trong lịch sử cứu độ như 40 ngày của Êlia trên núi Horeb dọn mình thực thi sứ vụ Chúa trao (1 V 19,8), như 40 ngày của Môsê trên núi Sinai chuẩn bị đón nhận thập điều Chúa dạy (Xh 34,28), và như 40 năm dân Chúa lưu lạc trong hoang địa dọn lòng đặt chân vào đất hứa. Mùa Chay như vậy là thời điểm thuận lợi để sống mầu nhiệm Tử Nạn của Chúa Kitô thông qua việc chay tịnh để sẵn sàng mừng lễ Phục Sinh. Nhưng Mùa Chay không chỉ là việc chay tịnh, cho dẫu khởi đầu và kết thúc Mùa Chay được diễn ra bằng việc buộc ăn chay và kiêng thịt thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Mùa Chay còn là mùa xuân tâm hồn với những sinh hoạt đổi mới đời sống đức tin.
Cầu nguyện, canh tân, chia sẻ: đó là ba sinh hoạt mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện trong Mùa Chay năm nay, cũng là ba chiều kích với Chúa, với mình, với tha nhân dệt nên nhịp sống Giáo Hội.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt như lời Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. “Giữa biển cả thờ ơ” của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo Hội sẽ “trở nên những hòn đảo lòng thương xót”. (4)
____________
(1) Làm Nụ Hoa Trắng. ĐGM Vũ Duy Thống.
(2) Bài giảng lễ Tro 2007, ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(3) ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(4) Sứ Điệp Mùa Chay 2015.
40.Biết mình đang đi về đâu--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.
Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo: "Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau" (Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi” (Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Có gì bền vững đâu. Thánh Vịnh ví von đời người như hoa cỏ:
“Đời sống con người giống như hoa cỏ.
Như bông hoa nở trên cánh đồng.
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi.
Nơi nó mọc không còn mang vết tích” (TV 102).
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ĐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ĐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư.
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Đâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa.Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Với tình yêu Chúa Kitô, ta không còn là bèo bọt, là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
41.Cát bụi tuyệt vời--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý, Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi.
Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Sách Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Adam, sau khi Adam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi (x St 1,26-3,24).
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh, sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.
Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?
Một vòng quay, một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Không phải là trắng như bông, như mây hay như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Đó là một thực tế,nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”.Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo. Nhưng người Kitô hữu thì không, vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại, đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời người chỉ có một lần, được mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối.Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Roma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm….Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm … Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?” (Rm 7,15.19.21-24). Tiếng kêu của Phaolô cho thấy ngài đang muốn trở về với chính mình. Khát khao tìm về một thủa bình yên đã mất. Từ xa xưa, con người là Adam đã ăn trái cấm để mong trở nên thần thánh. Đó là cuộc nổi loạn nơi chính mình không muốn chấp nhận mình là mình. Nguyên tổ bị con rắn cám dỗ trở nên thần linh chứ không phải là cám dỗ nhan sắc, giàu có. Đó cũng chính là cám dỗ Lucifer đã đi qua. Lucifer muốn trở thành Thiên Chúa để có quyền trên mọi tiêu chuẩn tốt xấu. Đây là ước mơ vượt quá bản chất con người. Tội là một hành trình đưa con người đi khác con đường của Thiên Chúa. Vượt qua giới hạn của mình để làm thần thánh. Trong con người có một cuộc phân ly như Phaolô đã kêu lên: “Điều tôi muốn làm tôi không làm. Điều không muốn tôi lại làm”. Trong dân gian có câu đố về con muỗi rất thú vị: Vì mày tao phải đánh tao. Vì tao, tao phải đánh tao, đánh mày. Vui mừng khi giết được con muỗi cắn mình, nhưng máu của mình hay máu con muỗi? Phaolô thốt lên: “Tôi là người khốn nạn”. Ngài vỡ oà trong tiếng kêu: ‘Ai giải thoát tôi khỏi cái xác chết này?”. Thánh nhân reo vui niềm hạnh phúc: “Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Kitô”. Không có ơn sủng đời sống sẽ nhiều bất hạnh. Có ơn sủng Chúa Kitô, con người sẽ đong đầy niềm vui hạnh phúc.
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ. Đó là lối đi của ơn sủng.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi, mênh mông. Ở đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí,lo ra”. Chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội; chỉ còn ta với ta và buộc ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình. Trong sự quay về đó ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ. Con người Mùa Chay là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng. Và Ngài đã chiến thắng.
Người Kitô hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng “ Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song đứng trước điều xấu,dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi….Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào. Nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi, nhưng là “cát bụi tuyệt vời”. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều “lá úa trên cao rụng đầy”, chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy” mà thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi” là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng. Nhưng cuối cùng, sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.
Ước chi mỗi gia đình và cộng đoàn Kitô hữu biết tận dụng thời gian Mùa Chay này, để gạt bỏ một bên những điều gì gây lo ra cho tâm trí và tăng trưởng trong những điều nuôi dưỡng tâm hồn, hầu yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Tôi đặc biệt nghĩ tới một sự dấn thân lớn hơn cho việc cầu nguyện, lectio divina, chạy đến bí tích hòa giải và tham dự tích cực vào bí tích Thánh Thể, đặc biệt Thánh lễ ngày Chúa nhật. Với thái độ bên trong ấy, chúng ta hãy đi vào tinh thần sám hối của Mùa Chay. Nguyện xin Đức Trinh nữ Maria, “Nguồn hoan lạc của chúng ta,” đồng hành và trợ giúp chúng ta trong nỗ lực giải thoát tâm hồn khỏi nô lệ tội lỗi, biến nó thành “nhà tạm sống động của Thiên Chúa.” (Sứ điệp Mùa Chay 2009).
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.
42.Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Suy niệm Lễ Tro----Lm. Ignatiô Trần Ngà
Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.
Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.
Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)
Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).
Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…
Cá thì dễ ươn, thây ma thì mau thối, con người thì rất dễ hư!
Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo." Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.
Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của người. Người than thở: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!”
Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.
Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.
Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su
Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.
Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Người cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Người cũng đã từng chịu, có khác là Người đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Người luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).
Ý chí chúng ta thì bạc nhược. Xác thịt lại ươn hèn. Đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.
Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su và dùng Lời Người như khí giới thần diệu chống lại ác thần.
Ước gì mỗi người thường xuyên rước lấy Mình Máu thánh Chúa Giê-su để kết hiệp mật thiết với Người hơn. Và một khi có Người ở với chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa đến cùng, như Người đã từng chiến thắng vẻ vang.
43.Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Trần Ngà
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta, "Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta' (Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng...
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp "khẩu vị" của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.
44.Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng, Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ? Việc đó có cần thiết hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích của Thánh Thần là gì?
2. Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám dỗ hay thử thách có cần thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước mặt Thiên Chúa, một người giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không?
3. Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai không? Tại sao?
4. Cám dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình những dịp để “được” cám dỗ không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống để chúng ta có thể chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao ta có thể biết tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, tinh thần siêu thoát, lòng đạo đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta không được thử thách? Tương tự như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao ta có thể biết được những đồ trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là nguyên chất hay bị pha tạp? và nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết rõ một người trước khi dùng người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng, giám đốc nhân sự của các công ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng những viên giám đốc công ty biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản thân người được thử thách ấy cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã qua được thử thách một cách thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ đạt được thành quả tối ưu trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc thử thách để biết bản lãnh về tài và đức của mình hay của người là một việc cần thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc “Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa” để “chịu Xa-tan cám dỗ” trong “bốn mươi ngày” trước khi Ngài khai mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất yếu phải có. Qua thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi người thấy bản lãnh của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và cứu chuộc nhân loại.
2. Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay “con người cũ” – vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ đó, ta mới quyết tâm “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4,22; x. Cl 3,9) để “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng rằng mình tội lỗi, dù rất thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình, để rồi cuối cùng, chúng ta chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là “mèo vẫn hoàn mèo”. May thay, nhờ có những cám dỗ xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức, thánh thiện, vì ta cảm thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội. Ta có cảm tưởng ta rất tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta thấy mình cư xử rất lịch thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay không hề cư xử bất công với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa, nghĩ mình là người luôn luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh nào: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Khi nói như thế, các ông rất thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không thể ngờ được phản ứng của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết với Thầy mình nhất thì “gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần” (Mt 26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của ta tương tự như độ trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để lắng trong nhiều ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly nước suối. Nhưng khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối có quậy đến đâu cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có cảm tưởng nước ở trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết được ly nào là trong thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được ai đạo đức sâu xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt?
3. Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi người đều an bình, thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử chẳng khác gì người không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa hay a-xít thì chẳng sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính trong cơn hoạn nạn ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: “Friend in need, friend indeed” (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ khi gặp những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức hay không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản ứng của ta thế nào…
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một cách bất công: lúc đó ta nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét xem nguyên nhân tại đâu, suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất, khôn ngoan nhất, bác ái nhất?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể phân chia xảy đến giữa ta và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi ấy về cho mình? hay biết nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó có vẻ quấn quít và yêu thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái xương, thì chúng quay ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng yêu thương nhau không? Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không nếu không có miếng xương để thử?
– khi đứng trước một người gặp nguy khốn đang cần cứu giúp, nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều: lúc đó ta sẽ cứu giúp người ấy bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy cho người khác?
– khi đứng trước những bất công trước mắt mà việc lên tiếng của ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu lên tiếng thì ta sẽ bị sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ coi sự đau khổ của đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược lại?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta bị đe dọa nếu ta làm theo lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao nồi cơm của những gia đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia đình kia quan trọng hơn nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?
– khi có hai người giàu và nghèo đến với ta một lúc, người giàu đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ ta một việc khá khó khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở như nhau? hay ta sẽ đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?
– v.v…
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành thánh thiện chỉ vì thấy mình chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự vô tội của mình họ chê bai người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ là người chưa phạm tội vì chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám dỗ, chứ không phải họ là những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn những người đã từng bị họ chê trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách của họ chẳng nặng nề bằng những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên khả năng không phạm tội khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình trạng vô tội trong hiện tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh lắm, hoặc được mọi người coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì tu hành đã lâu năm, hay vì được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, v.v… Nhưng khi gặp những thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất cần thiết cho việc nên thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự tìm cho mình những cám dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa các dịp tội, những điều kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu “dĩ đào vi thượng sách” là một phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và cũng nên nhớ lời khuyên của Phao-lô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của ta, ta nên sẵn sàng đón nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại. Rồi dù thắng hay bại, ta cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp ta hiểu rõ mình hơn, khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị trí nào trên con đường nên thánh.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo đức hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.
45.Sống với chính mình--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
“Tôi lạc quan giữa đám đông, nhưng khi một mình thì lại không
Cố tỏ ra là mình ổn, nhưng sâu bên trong nước mắt là bể rộng”.
Đây là những lời mở đầu trong đoạn rap của ca khúc “Người lạ ơi” một thời được bao bạn trẻ yêu thích. Lần đầu tiên tôi nghe ca khúc này, tôi rất ấn tượng với những lời trên đây. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã diễn tả tuyệt vời tâm trạng của phần đông chúng ta. Chúng ta hay cảm thấy rất ổn khi sống với đám đông. Nhưng khi trở về với chính mình, chúng ta lại thấy vô cùng bất ổn. Có cái gì đó khiến ta luôn không hài lòng với chính bản thân mình.
Mười hai năm học phổ thông, và đôi khi là cả bốn năm đại học, chúng ta đã được nhồi nhét đủ thứ kiến thức. Những kiến thức ấy khiến chúng ta có khả năng làm việc và hòa nhập với cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, không một thầy cô giáo nào dạy chúng ta học sống với chính mình. Không có ai gần gũi mình cho bằng chính bản thân mình, thế mà chúng ta luôn lãng quên điều đó. Chúng ta học sống với tha nhân, với bạn bè, với cộng đồng. Chúng ta được dạy để tranh đoạt, để làm cho mình thành công trong mọi lãnh vực. Có một nhận xét rất sâu sắc của một tác giả mà tôi không thể nhớ được tên của ông. Đại khái ông nói rằng nền giáo dục vô thần của chúng ta đã tước đoạt đi của các em một cái gì đó thiêng liêng. Thay vì nở hoa thì tâm hồn các trẻ em lại mọc lên những gai cùng góc. Tôi thấy thật chí lý. Con em của chúng ta đã bị nhồi sọ và đánh mất đi cái phần Thần Linh, cái làm cho con người thực sự là con người.
Chúa Nhật thứ nhất mùa chay năm B, Chúa Giê-su dạy ta cách sống với chính mình. Ngài được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu Satan cám dỗ 40 đêm ngày. Thánh Marcô chỉ mô tả vắn gọn rằng Chúa sống chung với dã thú và được các Thiên Thần hầu hạ Người (Mc 1,12). Có một chi tiết mà cả ba Tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến đó là Chúa được Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Đây là chi tiết rất quan trọng. Con người chúng ta thường lãng quên Thánh Thần. Chúng ta để cho bao thứ hướng dẫn và thúc đẩy chúng ta. Điều đó khiến con người chúng ta cứ loay hoay không biết đâu là bến bờ. Chúa được Thánh Thần đưa vào hoang địa. Suốt 40 ngày, Chúa ở đó trong thinh lặng cô tịch. Hoang địa là vùng đất không có người ở. Nhưng lại có dã thú đến sống chung với Chúa. Và cả các Thiên Thần hầu hạ Chúa. Có một cái gì đó thật đẹp đã xảy ra. Khi con người để cho Thần Linh hướng dẫn, con người sẽ sống hòa hợp với mọi tạo vật. Ngay cả dã thú cũng trở thành bạn. Không có chiến tranh và thù hận mà chỉ có tình yêu thương ngự trị. Ma quỷ cũng phải bị khuất phục một cách dễ dàng.
Giữa cuộc sống xô bồ hôm nay, con người đã dần lãng quên Thiên Chúa. Cũng như thời Nôe, tội lỗi đã lan tràn (St 9,8-15). Điều đó khiến Thiên Chúa phải thanh lọc. Ngài chọn Nôe để làm mới lại tương quan với con người. Ngài nhắc lại giao ước từ ngàn xưa với con người để tái tạo một nhân loại mới. Nhưng rồi con người lại sa ngã và cứ đi sai đường lối Chúa. Chúa đã sai chính Con Một của mình đến để nhắc lại một lần cho tất cả rằng con người chỉ có thể hạnh phúc khi trở về với Chúa. Trước khi công bố sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa vào hoang địa để sống thân mật với Chúa Cha. Chúa dạy ta một bài học vô cùng quan trọng. Trước khi đi vào hội nhập với cuộc sống xã hội, con người cần phải hòa hợp với Tạo Hóa. Khi con người hòa hợp với Tạo Hóa, con người sẽ thông suốt để hòa hợp với bản thân và với muôn loài muôn vật.
“Người lạ ơi xin giúp tôi mượn bờ vai, người lạ ơi xin giúp tôi mượn niềm vui…”. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã kêu gọi người lạ đến trợ giúp mình. Nhưng chẳng người lạ nào làm được. Người lạ có đến thì rồi cũng sẽ bỏ đi để lại ta một mình. Hôm nay tôi muốn chỉ cho các bạn người lạ đó không ai khác mà chính là Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện kín ẩn trong chính cung lòng của các bạn. Đấng đó hằng yêu thương bạn. Đấng đó luôn chờ đợi bạn. Bạn đã lãng quên Ngài. Tôi muốn mời bạn trong mùa chay thánh này, hãy quay trở lại với chính bản thân mình. Hãy tự tạo ra sa mạc của cuộc đời mình. Trong thinh lặng nội tâm, bạn sẽ tìm được sự thanh thản và bình yên. Hãy trân trọng và yêu thương bản thân mình. Đừng tự đầy đọa chính mình. Học sống với chính mình là bước nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Đừng lãng quên điều đó.
Lạy Chúa, xin giúp con kết nối lại với Chúa để con không bao giờ lạc lõng cô đơn giữa cuộc đời này. Amen.
46.Hãy cải thiện và hãy tin--Lm. Mark Link
Chủ đề: "Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, và xin Đức Giêsu cứu giúp để từ bỏ tội lỗi đó"
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Trong Những Con Đường Xấu Xa” (Down These Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một người bị kết án tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở thành một Kitô hữu gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của mình. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm cùng giường với một tù nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm”. Vì thế anh chờ đợi. Sau khi đoán chắc rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường và quì xuống nền bê tông lạnh ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ không phải những lời hoa mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi có thể khóc được… Đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp: “Amen”. Đó là tiếng của “thằng ròm”. Piri nói: “Thế là hắn nằm sấp xuống, đầu úp trên đôi tay khoanh lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu không ai nói với ai. Rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ: “Tôi cũng tin Chúa!”. Hai người bạn trẻ nói chuyện với nhau một lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói: “chúc Chico ngủ ngon nhé. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
***
Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp, minh hoạ những gì Đức Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo: “Hãy cải thiện đời sống và hãy tin vào Phúc Âm”. Giáo huấn của Đức Giêsu gồm hai điều: trước hết là “cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào Phúc Âm”, chúng ta hãy bắt đầu với điểm thứ nhất: cải thiện đời sống.
“Cải thiện” hay “cải tà qui chánh” nghĩa là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống của chúng ta, và sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không tái phạm nữa. Như thế có nghĩa là bắt chước Piri Thomas nhìn nhận tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời sống của anh và quyết định làm một điều gì tốt đẹp để sửa lại chuyện đó.
Tất cả chúng ta đều có thể có những kinh nghiệm tương tự như Piri Thomas. Chúng ta cũng ý thức về những khuynh hướng xấu thỉnh thoảng làm hỗn loạn đời sống chúng ta. Chẳng hạn chúng ta ý thức về tính ích kỷ khiến chúng ta đặt quyền lợi của mình lên trên nhu cầu của tha nhân. Chúng ta ý thức về tính cao ngạo khiến chúng ta không muốn nhìn nhận những sai trái của mình. Chúng ta ý thức về tính lười biếng khiến chúng ta ngại giúp đỡ tha nhân. “Cải thiện” nghĩa là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.
Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai trong giáo huấn của Đức Giêsu. Ngòai việc cải thiện đời sống ra, Đức Giêsu còn yêu cầu chúng ta “tin vào Phúc Âm”. Nghĩa là tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và Ngài đến để cứu chúng ta. Nghĩa là tìm kiếm Đức Giêsu đặc biệt trong Bí Tích Hoà Giải, và nhận nơi Ngài sự tha thứ và chữa lành. Nghĩa là làm những gì Piri đã làm sau khi nhìn ra những gì xấu xa trong cuộc sống của anh. Anh đã quay về với Thiên Chúa để cầu cứu. Anh tin vào “Tin Mừng” cho biết rằng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến thế giới này để cứu chuộc những người tội lỗi như anh. Chính vì thế, câu chuyện của Piri Thomas là hình ảnh rất đẹp minh hoạ hai điểm trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm thứ nhất là “cải thiện” đời sống. Điểm thứ hai là “Tin vào Tin Mừng” tin rằng Đức Giêsu đến để cứu giúp chúng ta.
Cách đây ít lâu, tác giả Kilian Mc Donnell đã thực hiện một cuộc thăm dò sâu sắc về những cuộc trở lại. Cuộc thăm dò ấy đã đáp ứng câu hỏi này: Tại sao có một vài nhà rao giảng Tin Mừng lại rất thành công trong việc làm cho thính giả hối cải như thế? Theo Mc Donnell, có một điều là họ theo giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Họ làm cho quần chúng nhìn nhận rằng mình là những kẻ tội lỗi, và họ giúp quần chúng quay về với Đức Kitô để được cứu độ. Ông nói: “Nhiều người không nhìn nhận Đức Kitô vì họ không nhìn nhận rằng chính họ là những kẻ tội lỗi. Nếu tôi không phải là người tội lỗi thì tôi đâu cần đến Đức Kitô”
Mc. Donnell kết luận: “Không ai mừng kính những mầu nhiệm của Đức Kitô một cách vui mừng, nếu trước tiên người đó không buồn rầu nhìn nhận rằng mình là kẻ có tội”. Bài Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta thực hiện hai điểm quan trọng ấy. Nó mời gọi chúng ta nhìn nhận mình là những kẻ có tội, và quay về với Đức Giêsu để được cứu độ.
Điều đó khiến chúng ta đi đến một nhận xét quyết định. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta như thể dẫn chúng ta vào mùa chay một cách tốt đẹp. Qua các thế kỷ, các Kitô hữu đều nhận thấy mùa chay là thời gian Thiên Chúa ban ân sủng cách đặc biệt, nhất là để giúp ta cải thiện đời sống
Nếu chúng ta muốn tìm một phương thế đặc biệt để sống tinh thần mùa chay năm nay, thì không có phương thế nào tốt hơn là coi mùa chay như một cơ hội thuận tiện để tái khám phá ra quyền năng của Bí tích hoà giải và sự bình an này, chúng ta thực hiện những gì mà Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta làm, chúng ta hãy nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Ngài làm cứu Chúa của ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về một đoạn như thư của thánh Phaolô nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Đức Giêsu làm Cứu Chúa của mình. Thánh Phaolô viết:
“Tôi không hiểu những gì tôi làm, vì tôi không làm những gì tôi muốn làm, mà lại làm những gì tôi không muốn làm,…vì ngay cả khi tôi muốn làm điều tốt thì tôi cũng không làm được. Tôi không làm điều tốt tôi muốn làm mà lại làm điều xấu tôi không muốn làm… Thật tôi là người vô phúc biết bao. Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác đang dẫn tôi tới cái chết này?….. Tạ ơn Thiên Chúa… người đó là Đức Giêsu Kitô!” (Rm 7: 15-25)
47.Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Thiên, địa, nhân hay Trời, đất, và con người mang một mối dây liên kết kỳ diệu. Một khi Thiên thời địa lợi nhân hòa thì mọi sự hanh thông. Con người được đặt để giữa trời và đất: đầu đội trời, chân đạp đất. Ông Trời đã tác tạo nên con người và làm mọi sự cho con người. Ông Trời cũng dựng nên đất để đất phục vụ con người. Trời và đất luôn nặng tình với con người. Mùa Chay về, chúng ta cùng ngồi lại ngẫm về tình Trời với người. Trong Chúa nhật thứ nhất này, Sách Thánh bộc lộ một cuộc tình đơn phương của Thiên Chúa với con người.
Đơn phương tỏ tình
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Sáng Thế (St 9, 8-15) là trình thuật về việc Thiên Chúa ký kết với ông Noe sau trận Đại Hồng Thủy. Gọi là ký kết, nhưng thực ra chỉ có một mình Thiên Chúa đơn phương kết ước với ông Noe cũng như với toàn thể sinh vật trên mặt đất. Ông Noe đã chẳng nói gì, chẳng thề hứa gì với Chúa. Còn Thiên Chúa thì hứa bảo vệ ông cũng như mọi loài: “Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi…: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”.
Không những Chúa đã tự đưa ra lời hứa mà còn đặt để một dấu chỉ để không quên lời kết ước: “Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật”.
Từ ngày con người phạm tội, muốn ngoi lên bằng Trời thì con người đã trở nên sa đọa. Nó không còn được sống trong cảnh thái bình của vườn Địa Đàng nữa. Con người lang thang vô định và ngày càng trở nên tồi tệ, tội lỗi lan tràn khắp mặt đất. Lụt Hồng thủy là phương thế để Chúa Cả trời đất dùng mà tẩy xóa tội lỗi của con người. Nhưng cho dù thế nào, Thiên Chúa vẫn giữ lại dòng giống loài người, giữ lại gia đình ông Noe. Với số sót ấy, Thiên Chúa gầy dựng lại dân của Ngài.
Cho dù con người đã chống lại Ngài, nhưng Thiên Chúa đã không tận diệt con người. Ngài vẫn âm thầm, lẽo đẽo đi theo con người, tìm cách giúp đỡ con người. Ta chỉ có thể cắt nghĩa hành vi ấy là vì tình yêu. Chỉ có thể là vì yêu con người thì Chúa mới làm như vậy. Mà quả thực, Thiên Chúa đã mặc khải rất rõ cho con người trong Tin mừng Gioan “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Với việc ký kết với ông Noel, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người; Với hình ảnh cầu vồng làm dấu chỉ để hằng nhắc lại lời kết ước, Thiên Chúa đã đặt nơi con người nguồn hy vọng lớn lao; Việc con người im lặng trong nghi lễ kết ước càng làm cho Thiên Chúa hiện lên với hình ảnh đơn độc, hình ảnh của một người tình đơn phương đang bị người mình yêu ngó lơ.
Hiện thực hóa lời hứa
Dọc theo chiều dài của Cựu Ước là hành trình Thiên Chúa tìm đến với con người. Bước sang Tân Ước, với sự hiện diện của chính Thiên Chúa trong thân phận một con người, chúng ta được chiêm ngắm hiện thực của tất cả những lời hứa của Chúa trong Cựu Ước.
Bài Tin mừng theo thánh Marco trong Chúa nhật này (Mc 1, 12-15) là trình thuật về việc Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày.
Hình ảnh sa mạc với con số 40 gợi lại khung cảnh dân Do thái đi trong sa mạc suốt 40 năm. Chính 40 năm trong sa mạc là thời gian dân cảm nếm lòng trung thành và sự yêu thương dìu dắt của Thiên Chúa đối với họ. Nhưng cũng nơi ấy đã chứng kiến biết bao lần dân sa ngã trước cám dỗ, bao lần rời bỏ Thiên Chúa, bao lần phản bội Đấng hằng yêu họ hết lòng.
Trước khi công khai rao giảng về Trời, Đức Giêsu đã ở trong sa mạc 40 ngày. Ngài đã cảm nếm mọi cung bậc tình cảm của con người trong sa mạc 40 năm xưa kia với sự khắt khe của thiếu thốn, sự cám dỗ của ma quỷ, sự rình rập của thú dữ. Nhưng với sự xuất hiện của các thiên thần đến hầu hạ Ngài ở cuối trình thuật đã khiến ta gợi nhớ đến một khung cảnh khác. Nó không còn là sự ô nhục của cảnh xa ngã và phản bội, nhưng là cảnh thái bình mà tiên tri Isaia đã tiên báo về khung cảnh ngày cứu độ: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.” (Is 11,6).
Ngày mà Thiên Chúa công khai ngỏ lời với con người qua chính Ngôi Lời làm người, Thánh Marco đặt để Đức Giêsu trong một khung cảnh cô đơn thực sự. Chúa Giêsu đã đơn thân một mình trong sa mạc. Một Thiên Chúa xuống thế làm người để ngỏ lời với con người, để tỏ tình với con người. Nhưng ngày ngỏ lời lần đầu công khai ấy sao cô đơn vắng lặng một tình yêu đơn phương.
Ngẫm
Hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người. Khi hỏi như vậy dường như tôi đã xúc phạm đến chính Ngài. Làm sao tôi có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa yêu con người. Nếu như tôi cố tình tìm câu trả lời thì chính khi tôi trả lời là tôi đã khuôn đúc tình yêu của Ngài vào một cái khuôn cứng nhắc của lý trí. Tình yêu không phải là những phạm trù của lý trí. Nó là những rung cảm của những thớ thịt nóng bỏng của một trái tim đang sống. Khi lý giải tình yêu là tôi không còn coi tình yêu ấy mang đầy sức sống.
Thánh Gioan tông đồ là người được mô tả đã gục đầu vào ngực Chúa trong bữa Ăn cuối cùng; Là người được gọi là “Người môn đệ Chúa yêu”; Và cũng là người môn đệ duy nhất được nhắc đến dưới chân cây Thập tự. Ngài đã cảm nhận tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, một Thiên chúa trong hiện thân là chính Đức Giêsu. Chính ngài đã chốt hạ cho chúng ta câu trả lời tại sao Thiên Chúa lại yêu con người. Câu trả lời đơn giản là: Bởi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).
Lạy Chúa, khi dừng lại suy tư con nhận biết Chúa đã yêu con. Chúa đã yêu con từ ngàn đời xa trước. Nhưng vì quá đam mê trần thế, vì quá ham vui thế gian nên trái tim con thường xuyên loạn nhịp rời xa nhịp đập với trái tim Ngài. Xin Chúa hãy ôm ghì lấy con, cho con được cảm nếm tình yêu của Ngài, để trái tim con luôn hòa cùng nhịp đập với tình yêu nồng nàn trong trái tim Tình Yêu viên mãn.
48.Câu chuyện hồng thủy--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Mùa Chay Thánh bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Chúa Nhật Lễ Lá; mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15) nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả nhân loại và mọi sinh vật "trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số sinh vật được đưa lên tàu".
Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.
Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do khuynh hướng con người chúng là 'ham danh, ham lợi, ham lạc thú!'. Mọi người đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ, nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.
Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta đã nghe ca đoàn hát: "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro..." (Bài "Hỡi Người Hãy Nhớ" của Kim Long) để nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do "bụi tro, và khi chết, thân xác chúng ta cũng sẽ trở về 'tro bụi'. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta 'bi quan yếm thế'; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên, chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là 'thể phách, hồn là tinh anh" và 'sống gửi thác về', 'sinh qúy tử quy'. Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã "được dựng nên theo hình ảnh Chúa!' (Sáng thế 1, 26).
Mùa Chay chính là "thời gian thuận tiện" (2 Corintô 6,2) để chúng ta 'làm các việc lành phúc đức'. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là 'làm phúc bố thí'), giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta, gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới hôm nay.
49.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Hoang địa: Trường đào luyện công dân Nước Trời.
Anh chị em thân mến,
Một xã hội trọng học vị, bằng cấp, thường ưu tiên tuyển dụng cán bộ, chuyên viên, các ứng viên xuất thân từ những đại học danh tiếng, có bằng cấp.
Quan niệm xã hội đã tác động mạnh mẽ trong nếp suy nghĩ của chúng ta. Các bậc làm cha mẹ cố gắng tối đa tìm trường danh tiếng cho con theo học: du học Mỹ, Úc, Âu Châu... hy vọng một tương lai rực rỡ chào đón sau khi mãn trường.
Đầu tư cho con học tập là một chọn lựa đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược hoàn hảo: “Để lại cho con một rương vàng, không bằng để lại cho nó một cuốn sách” (Danh ngôn).
Tuy nhiên, việc đào tạo phải toàn diện: trí dục, đức dục, thể dục, thiêng liêng, cùng thực hiện đồng bộ, mới dám chắc việc đầu tư của chúng ta không vô ích.
Thật đáng buồn tình trạng giáo dục tại Việt Nam: quá chú trọng đến kỹ thuật, thời lượng là một cực hình, xem nhẹ hoặc không còn giờ cho các việc đào tạo khác, nhất là vấn đề tôn giáo... đó là những lỗ hổng tạo tiêu cực, bất ổn, bạo lực trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy cách thức tìm kiếm Nước Trời, nhờ chăm chỉ học trong trường “Hoang địa” Chúa thiết lập huấn luyện dân Người.
Ngôi trường này huấn luyện đời sống thiêng liêng, dạy kiên nhẫn vượt thắng thử thách gian truân, dạy tinh thần hiền lành cậy trông tín thác vào Chúa, vì tại nơi đó nếu lãng quên huấn lệnh Ngài, con người sẽ gục ngã và thất bại thảm thương.
Hoang địa, ngôi trường độc đáo, nơi hoang vu không cây cối vườn tược, nhà cửa, không người thân hàng xóm láng giềng, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào phục vụ sự sống. Hoang địa chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thử thách chất chồng, bắt con người phải chiến đấu để tồn tại.
Hoang địa hay thánh giá giúp con người trưởng thành toàn diện, nhất là đời sống thiêng liêng. Ai không chấp nhận con đường đào luyện này sẽ không thể là công dân Nước Trời: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24).
Vậy trường “Hoang địa” dạy chúng ta những gì?
Thứ nhất dạy vượt thắng thiên nhiên: Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Sa mạc chỉ toàn cát đá, đêm lạnh thấu xương, ngày nóng như thiêu, hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu nóng, chịu lạnh và mọi thiếu thốn. Dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Thứ hai dạy cách thắng ma quỷ: Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ tin vào Thiên Chúa, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ bày ra nhờ Người vững lòng tin vào Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ.
Thứ ba dạy từ bỏ ý riêng: Nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Cha, Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để chọn con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư, đi vào con đường Cha đã định, Người đã toàn thắng mọi thử thách, cám dỗ.
Thế nhưng, hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách, nó còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Cha, đã tìm được ý Cha và đã kết hiệp mật thiết với Cha, đến độ, từ nay Ngài thuộc trọn về Cha. Thánh ý Cha đã trở thành lương thực đời sống Người. Giê-su hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để thánh ý Cha được nên trọn. Vì thế, Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu chúng ta chuyên tâm rèn luyện trong trường “Hoang địa” Giê-su, tâm hồn sẽ trở nên vững mạnh, có khả năng chống lại được những cám dỗ, nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức, không ngại khó, ngại khổ và nhất là, quen từ bỏ ý riêng, thực thi ý Chúa, chúng ta sẽ trở nên Con hiếu thảo của Cha trên trời.
Xin Chúa chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong mùa chay thánh này. Amen.
50.Đức Giêsu chiến thắng Satan--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15), kể lại những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số “40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây, hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định một địa điểm theo địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas; x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
- cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t; 20,2.10).
- sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41).
- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi đến lúc đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối cùng.
- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.
2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: “sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.
4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại Người.
51.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Mt 1: 12-15: Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.
Suy niệm
Bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bước vào 40 ngày Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Mùa Chay lấy ý hướng từ việc khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần dẫn dắt vào hoang địa. Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày để được tập luyện trước cuộc chiến đấu thiêng liêng, hầu vượt thắng sự cám dỗ của ma quỷ khi thi hành sứ vụ cứu độ Chúa Cha trao cho.
Con số 40 này tương ứng với thời gian ông Noê đã chiến đấu 40 ngày trước phong ba bão táp của trận Đại hồng Thủy thời Cựu ước, nhằm thanh tẩy hết những con người tội lỗi. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã tái lập cho trái đất này trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu. Với hình ảnh chiếc cầu vồng, một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất làm dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Quả thật, sau cơn mưa trời lại sáng, trong sự âm u ảm đạm ấy, Thiên Chúa cứu vớt nhân loại khỏi sự chết. Ngài đơn phương ký kết với loài người giao ước, và hứa sẽ không bao giờ cho nạn hồng thủy tiêu diệt loài người nữa. Nhờ đó, cho dẫu tội lỗi của thế gian có thế nào đi nữa, con người chúng ta không được thất vọng, nhưng hãy tin tưởng Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt.
Mùa Chay Thánh là một hành trình nhắc nhở chúng ta hãy sám hối và trở về để đón nhận Tin mừng. Chúa Giêsu là Đấng mà Chúa Cha sai đến để tái lập lại giao ước cứu độ của Thiên Chúa. Người đã được chính Thánh Thần liền đưa vào hoang địa, nơi tập luyện sống khắc khổ, nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.
Xã hội càng tiến bộ và văn minh không có nghĩa là con người không phải chạm trán với cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy. Cám dỗ cho người sống đời thường cũng như với người sống đời tu, cho người già và trẻ nhỏ, cho thanh niên lẫn thiếu nữ. Cám dỗ của ma quỷ không trừ ra một ai. Vì thế mà thánh Phêrô Tông đồ khuyên bảo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Một vị tu sĩ đạo đức nọ có lần được thấy ma quỷ ngồi khắp ở mỗi góc tu viện, cả ở nhà nguyện nữa. Khi ngài bước ra phố thì thấy rằng chỉ có một tên quỷ đi cám dỗ mà thôi. Lấy làm lạ, vị tu sĩ mới hỏi bậc thầy về tu đức của mình thì được vị ấy trả lời: “Sở dĩ chỉ một tên quỷ cũng đủ cám dỗ các linh hồn ở ngoài phố, vì người ta dễ lơ là, tìm kiếm táy máy, ngó nghiêng ngó dọc, không cố gắng chống lại, thậm chí ma quỷ chưa cám dỗ thì người ta đã tự đưa mình sa ngã vào cám dỗ hay tìm kiếm thú vui, buông mình ầu ơ dí dầu nơi những cám dỗ. Và với những tâm hồn lành thánh thì không phải tránh xa được ma quỷ đâu, thậm chí cả một đạo binh ma quỷ đang rình rập tìm dịp”. Cũng như ông bà ta có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”.
Vâng, như cây mai biểu tượng của mùa Xuân, để có những cành cây trổ bông báo hiệu Xuân về, trước đó nó đã chịu cảnh tuốt trụi lá cũ, lá già, tưới nước hạn chế, cành cây xơ xác, đã vậy cây còn chịu cảnh cắt tỉa để được đổi mới, hầu cây có thể đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa rực rỡ. Vậy, Mùa Chay cũng là dịp để chuẩn bị cho mùa Xuân Phục Sinh, biến chúng ta thành những con người mới. Chúng ta hãy tập sống khiêm nhường và nhận ra sự yếu hèn của mình trước sự tấn công của ma quỷ để luôn trông cậy vào Chúa. Siêng năng cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn vì Ngài không ngừng ban cho ta bảy Hồng ân: “Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức, kính sợ Chúa Trời”. Để rồi, khi noi gương Chúa Giêsu, sống theo sự dẫn dắt của Thánh Thần, chúng ta sẽ gặt hái được những hoa trái nhân đức của Thần Khí là “bác ái, hoan lạc, bình an, đại lượng, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5,22)
Lạy Chúa, xin cho con tập quen chấp nhận những điều khó chịu xảy đến với mình và tập sống thiếu thốn một chút, để nhận ra ơn Chúa luôn đủ cho con. Amen.
52.Cám dỗ và thử thách--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 1: 12-15: Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn.
Ma quỷ là loại cám dỗ xảo quyệt nhất. Thánh Thomas cho biết: “ma quỷ rất tinh khôn khi cám dỗ chúng ta. Nó hành động như một vị tướng tài ba khi sắp tấn công một thành kiên cố. Nó tìm các nơi yếu thế để tấn công, nên ma quỷ cũng tấn công chúng ta vào chỗ nào yếu nhất. Nó cám dỗ những tội nào chúng ta dễ phạm nhất… xem ra nó không “gợi ý” điều gì xấu, nhưng là điều có vẻ rất tốt lành. Nó làm cho chúng ta không hướng tới mục đích chính, và điều đó sẽ dễ dụ dỗ chúng ta phạm tội, nó chuyển hướng chúng ta một cách rất tinh vi”.
Có câu chuyện kể rằng: "sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt, tướng quỷ Luxiphe rất tức giận, lửa căm thù sôi sục trong lòng hắn nên đã tìm cách để cám dỗ các tín hữu. Một hôm, hắn cho rằng phải lấy vợ gấp để có nhiều con gái gả cho loài người, nhờ đó sẽ kéo nhiều người xuống hỏa ngục.
Luxiphe kiếm được cô nàng Bất Chính và lấy làm vợ. Rồi họ sinh được bảy cô con gái.
- cô thứ nhất tên là Kiêu Ngạo được gả cho những nhà cầm quyền,
- cô thứ hai tên là Hà Tiện được gả cho những người giàu có,
- cô thứ ba tên là Giả Dối được gả cho những người nghèo khó,
- cô thứ tư tên là Ghen Tương được gả cho những nghệ sĩ,
- cô thứ năm tên là Giả Hình được hắn đặt vào các cộng đoàn tu trì,
- cô thứ sáu tên là Háo Danh được hắn cho làm bạn với các phụ nữ,
- cô thứ bảy tên là Dâm Ô nhưng không được gả cho người nào vì hắn muốn cô này sẵn sàng ở với tất cả mọi người.
Mỗi ông chồng đều thích thú với cô vợ của mình, và họ cũng biết mình có họ hàng bà con với các chị em khác. Luxiphe khôn khéo như thế đó! Luxiphe đã chống lại Thiên Chúa và nó cũng đang cám dỗ chúng ta chống lại Thiên Chúa. Nó rất khôn ngoan và xảo quyệt, nên với các mưu chước của Luxiphe, chúng ta cần lưu ý những điểm sau đây:
1. Tránh cho xa
Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi tìm một người tài xế chở bà mẹ già đi dạo mát mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó. Người nhà giầu nói: "tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông đưa mẹ tôi đi dạo mát. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát bên vực thẳm bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.
- Người tài xế thứ nhất tự nhủ: "cái đó thì dễ ợt". Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách vực thẳm một tấc.
- Người thứ hai thầm bảo: "mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc". Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách vực thẳm có nửa tấc.
- Trong khi đó, người thứ ba chậm rãi lái cách vực thẳm những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người nhà giầu lại nói với bác tài xế thứ ba: "tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái quá sát vực thẳm vì sẽ dễ bị cám dỗ lôi cuốn”.
2. Khi gặp cơn cám dỗ, hãy chống trả ngay
Chúng ta phải đặc biệt cảnh giác chống lại với những cám dỗ lúc ban đầu, vì kẻ thù dễ bị khuất phục hơn nếu nó bị khước từ không cho vào tâm trí và khi gõ cửa nó đã bị chặn ngay từ ngưỡng cửa. Quả thế phải chống trả ngay từ đầu, vì sự trì trệ sẽ khiến qủy thần thêm mạnh mẽ.” Lúc đầu, chỉ một ý nghĩ trong đầu, sau đó sự tưởng tượng mạnh mẽ, tiếp theo là khoái lạc, vui sướng xấu xa, và thỏa thuận. Do đó, vì nó không bị chống trả ngay từ đầu, Satan ra vào tự do. Và càng chậm trễ chống trả, chúng ta càng yếu sức trong khi kẻ thù lại càng tăng sức mạnh.
3. Ba cấp của cơn cám dỗ
Cấp thứ nhất là gợi ý: chỉ mới có gợi ý thôi, nên chưa có tội phúc gì cả.
Cấp thứ hai là vui thích: lâu hay mau, tuy chưa bằng lòng hoàn toàn, nhưng đã có sự vui thích và ý tưởng đã xâm nhập vào tâm trí, nên phần nào đã có tội.
Cấp thứ ba là ưng thuận hoàn toàn: khi cám dỗ tiến tới cấp độ này thì luôn luôn có tội, vì cám dỗ đã đi tới phần sâu thẳm nhất của linh hồn.
4. Lợi ích của Cám Dỗ
"Cám Dỗ" trong tiếng Anh là to Tempt, tiếng Hy Lạp là Peirazein. Trong tiếng Anh luôn luôn có nghĩa xấu, là dỗ dành, dụ dỗ người ta làm điều xấu. Trái lại trong tiếng Hy Lạp Peirazein chỉ có nghĩa là thử thách (to test), do đó, chúng ta không nên quá lo lắng khi bị cám dỗ.
Cám dỗ cũng có thể đưa chúng ta tới sự sống nếu ta không sa ngã, nghĩa là ta thắng được cám dỗ. Hơn nữa đây còn là dịp để chúng ta tỏ lòng trung thành với Chúa. Khi bị cám dỗ, ai chọn cái xấu tức là sa ngã đầu hàng cám dỗ, còn ai cương quyết chọn cái tốt tức là chiến thắng, khi đó cám dỗ chẳng những không làm hại được người đó mà càng làm cho người đó thêm công nghiệp. Do đó, chúng ta không nên thất vọng khi bị cám dỗ, nhưng hãy mau mắn cầu xin Chúa để Người trợ giúp chúng ta.
Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn. Như vậy, sự tiến bộ của một người được đo lường bằng những cám dỗ và thử thách, vì đó là cơ hội để lập công và tu tập nhân đức. Khi không gặp khó khăn, người ta ít hăng say và đạo đức, nhưng khi gặp nghịch cảnh, nếu kiên nhẫn chịu đựng, họ sẽ tiến bước mạnh mẽ trên con đường theo Chúa.
Tôi xin kể một số điều cần biết có liên quan đến cơn cám dỗ nhờ đó chúng ta sẽ cảnh giác trước những cám dỗ của Satan. Tuy nhiên còn một điều tối quan trọng là mỗi khi lâm cơn cám dỗ, chúng ta phải chạy ngay đến với Chúa Giêsu, chính Người cũng đã bị ma quỉ cám dỗ nhưng Người đã chiến thắng vẻ vang. Chúa đã chiến thắng vẻ vang, chắc chắn Chúa cũng giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ. Amen.
53.Sống là chiến đấu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Mc 1: 12-15: Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta.
Một buổi chiều, Cha Bề Trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ:
- Hôm nay con đã làm gì?
- "Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nỗi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân".
- Con nói gì thế? Cha Bề Trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?
- Thưa Cha Bề Trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập vào và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu . Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách - tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden - Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi dục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quỵ lụy Satan để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa Tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: "Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng" (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gủi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ở ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm ! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy ! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm nay (1997), Đức Thánh Cha đã nói: "Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nổ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy những nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà". Đức Thánh Cha còn nói: "Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu"… "Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà kitô hữu, với tính cách riêng rẻ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương".
54.Người ở trong hoang địa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Tin Mừng của Chúa nhật nầy gồm hai đoạn nối tiếp nhau, nói đến hai sự kiện ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: vào hoang địa (1,12-13) và rao giảng sứ điệp đầu tiên (1,14-15). Chúa Giêsu tiếp tục gắn bó với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người được Chúa Thánh Thần đẩy vào hoang địa (1,12), và sau đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (1,14-15). Marcô chỉ mô tả tình trạng của Chúa Giêsu trong hoang địa, không nói gì đến chuyện cám dỗ và phản ứng của Người. Rất ngắn, chỉ trong hai câu (x. Mt 4,1-11; Lc 4,1-13). Trong hoang địa, Người đã sống giữa mọi tương quan: với Thiên Chúa, con người, thiên thần, Satan, dã thú và thiên nhiên.
Hoang địa được hiểu là một nơi xa chỗ con người sinh sống (6,35-36; 8,4). Là nơi trú ẩn của những dã thú và Satan (1,13). Chúng tượng trưng cho những sức mạnh thù nghịch và nguy hiểm cho sự sống của con người (Ezk 14,21; Kh 6,8). Ở đây, hoang địa gắn liền với một thời gian: bốn mươi ngày. Con số gợi nhớ bốn mươi năm thử thách của dân Israel (Dnl 8,2). Sống trong hoang địa bốn mươi ngày, Chúa Giêsu liên đới với con người trong việc bị cám dỗ, để Người có thể giúp những ai bị cám dỗ (Dth 2,18; 4,15). Nhưng dân Israel đã không bị cám dỗ triền miên suốt bốn mươi năm, họ còn kinh nghiệm nhiều điều khác hơn thế trong hoang địa.
Hoang địa là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa giải thoát dân tộc nầy khỏi nô lệ Ai cập, Người liền đưa họ vào hoang địa để lập quốc, giao ước và để nói những lời yêu thương (Os 11,1). Nên thời gian trong hoang địa cũng là thời gian của tình yêu ban đầu. Sau nầy, mỗi khi thấy dân chạy theo ngẫu thần, Thiên Chúa muốn dẫn dân vào lại hoang địa để làm lại kinh nghiệm tình yêu của thưở ban sơ (Os 2,14; Giê 2,2). Bởi đó, Chúa Giêsu không bị cám dỗ suốt bốn mươi ngày. Người sống trong hoang địa để kéo dài kinh nghiệm tình yêu với Thiên Chúa, đã khởi đầu từ biến cố chịu phép rửa, và để từ nơi Người sẽ phát xuất một dân mới sống theo Tin Mừng mà Người sẽ rao giảng (1,14-15).
Hoang địa luôn là nơi thuận lợi để gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi nào có các thiên thần hiện diện, nơi đó có Thiên Chúa (8,38). Việc các ngài hầu hạ Chúa Giêsu cho thấy Chúa Cha lo lắng cho Người chừng nào (1,13). Chúa Giêsu ở giữa dã thú, mà không bị chúng làm hại. Người bị cám dỗ, mà không bị thua cuộc. Như thế, hoang địa ấy đã trở thành thiên đàng (x. Is 11,6-8; 65,25; Os 2,18; Gióp 5,22), và Chúa Giêsu đã trở thành một Ađam mới, luôn tín trung với Thiên Chúa. Kinh nghiệm sống trong hoang địa đã làm Chúa Giêsu lớn lên và mạnh mẽ trong tinh thần (Lc 1,80). Từ đó, Người thường lui tới hoang địa để cầu nguyện và cũng dạy các môn đệ của Người làm như thế (1,35.45; 6,31).
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng nầy là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Tin Mừng gắn liền với nhau như là một. Có hai cách sám hối và tin vào Tin Mừng rất cụ thể: vác thánh giá và từ bỏ bản thân vì Chúa Giêsu và Tin mừng (8,34-35), bỏ mọi sự và đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu và Tin Mừng (10,29). (Xin xem thêm giải thích đoạn 1,14-15 ở Chúa Nhật III Thường Niên B).
Tiếng kêu từ hoang địa là tiếng gọi của tình yêu. Mời gọi tin và trở về với tình yêu ban đầu (x. 1,3-4).
55.Trung thành với lời giao ước phép Rửa--Lm.Trần Bình Trọng
Theo Thánh kinh, thì mỗi thoả thuận giữa Thiên Chúa và loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự cái giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả cái tình yêu đó. Cái giao ước đầu tiên được ghi lại trong Thánh kinh là giao ước giữaThiên Chúa và ông No-e. Còn cái giao ước quan trọng nhất trong thời Cựu Ước là giao ước trên núi Si-nai.
Trong thời Cựu Ước, qua các tiên tri, Thiên Chúa luôn nhắc nhở cho dân phải trung thành với lời giao ước. Tuy nhiên dân riêng Chúa không mấy khi giữ lời giao ước. Họ thường bất trung, phản bội. Sau cùng Thiên Chúa làm một giao ước vĩnh cửu với nhân loại qua chính Con Một Người. Và giao ước đó được ký kết, không phải bằng máu hiến tế của chiên cừu trong Cưu Ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa, đổ ra để chuộc tội nhân loại.
Trong bài trích thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ, Thánh nhân cho thấy có sự song hàng giữa giao ước Chúa kí kết với ông No-e và giao ước Chúa thiết lập trong Bí tích Rửa tội. Theo Thánh Phê-rô thì cái việc gia đình ông Noe được cứu thoát khỏi nạn lụt đại hồng thuỷ, là cái dấu báo hiệu " cũng được cứu thoát qua nước rửa tội" Hôm nay Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta một biến cố đã xẩy ra cho mỗi người khi còn ở tuổi măng sữa: đó là Bí Tích Rửa Tội. Bí tích Rửa tội là một biến cố vĩ đại, bất kể khi rửa tội, ta còn nhỏ bé như thế nào. Các nhà tâm lý học thường nhấn mạnh đến những gì ta có kinh nghiệm, bất kể lúc còn nhỏ tuổi thế nào đi nữa, đều có ảnh hưỏng đến đời sống hiện tại. Hoặc ta chịu phép Rửa tội khi còn ở tuổi măng sữa, hay khi đã lớn, ta phải tìm cho ra cái ý nghĩa và sống ý nghĩa đó. Bài Trích Sách Sáng Thế hôm nay ghi lại sau khi Chúa cứu gia đình ông Noe khỏi nước lụt hồng thuỷ, thì Chúa cho cái cầu vồng xuất hiện như là một biểu hiệu của lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Cái cầu vồng là biểu hiệu của giao ước giữa Thiên Chúa và ông No-e có nghĩa là bão táp đã qua đi và nước lụt đã rút xuống. Bí Tích Rửa tội cũng là một giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Trong Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa ban tình yêu và lòng thương xót, còn người chịu phép rửa tội hứa giữ lòng trung tín, lo tròn bổn phận làm con.
Theo truyền thống cổ xưa, thì Giáo hội luôn nhấn mạnh việc rửa tội người dự tòng trong mùa chay. Ngay từ đầu, Giáo hội đòi hỏi người dự tòng phải dùng suốt mùa chay để học đạo, sửa soạn cho việc rửa tội trong đêm thánh vọng phục sinh. Ngày nay giáo hội khuyến khích ta giữ cái truyền thống tinh thần mùa chay, cái thời gian ăn năn sám hối và đền tội. Cũng vào cuối mùa chay, Giáo hội mời gọi ta ôn lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma quỉ và tội lỗi và những lời hứa hão huyền của ma quỉ.
Giáo hội thiết lập mùa chay kéo dài 40 ngày để ghi nhớ 40 ngày Chúa Giê-su ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc, cũng để giúp ta từ bỏ tội lỗi, cải tạo đời sống và thực thi đức tin. Để sửa soạn cho cái giao ước trên núi Si-nai, Mai sen cũng ăn chay 40 ngày... Elia, vị tiên tri vĩ đại cũng ăn chay 40 ngày trong cuộc hành trình lên núi Horeb. Gio-an tiền hô cũng ăn chay 40 ngày trước khi được gọi để sửa soạn cho việc Chúa đến bằng cách kêu gọi dân chúng chịp phép rửa thống hói. Trong đêm thánh vọng Phục sinh, ta sẽ lặp lại lời hứa khi chịu phép rửa tội. Để cho cái việc ôn lại lời hưá khi chịu phép rửa tội khỏi trở thành trống rỗng, ta cần sống tinh thần mùa chay: đó là tinh thần ăn năn sám hối.
56.Chống trả tên cám dỗ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hôm nay Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay Thánh. Phúc âm trình bày cho chúng ta một cuộc chiến đấu làm theo ý Chúa Cha hay là theo ý của Satan. Quả thật, trước khi sứ vụ cứu thế khai mào, Chúa Giêsu đã vào hoang địa, ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và ở đó chịu Satan cám dỗ.
Satan lợi dụng thời gian này để tấn công và cám dỗ Chúa đi khác đường lối của Chúa Cha, đây cũng là cám dỗ bất tuân giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam. Satan muốn Chúa Giêsu là một con người hoàn toàn thuộc về thế gian, thế giới mà hắn làm chủ. Vì là con người, Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13).
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta phải ý thức rằng, những quỉ kế mà ma quỉ dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách chúng cám dỗ chúng ta ngày hôm nay.
Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Có người không tin có Satan, họ cho rằng, Satan là một sản phẩm do trí tưởng tượng của con người hoặc là sự dữ trừu tượng pha trộn trong con người và thế giới. Không!
Kinh thánh nói nhiều lần về Satan như một hữu thể cụ thể và có thực. Hắn là một thiên thần sa ngã. Chúa Giêsu khẳng định khi nói: "Hắn là kẻ nói dối và là cha của sự dối trá" (Ga 8,44). Thánh Phêrô ví ma quỉ như con sử tử gầm thét: "Đối thủ của anh em là ma quỉ như sư tử rống, nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai" (1Pr 5,8). Và Chân phước Phaolô VI, Giáo hoàng dạy chúng ta: "Ma quỉ là kẻ thù số một, nó cám dỗ rất tinh vi. Chúng ta biết rằng nhân vật tối tăm và phá rối này thực sự tồn tại và tiếp tục hành động".
Nó làm thế nào? Thưa, nó nói dối, lừa dối chúng ta. Baudelaire viết: "Chiến thắng lớn nhất của ma quỉ là làm cho chúng ta tin rằng ma quỉ không hiện hữu". Nó nói dối chúng ta thế nào? Hắn trình bày hành động xấu như thể là tốt, hắn thúc giục chúng ta làm điều xấu, hắn gợi lên những lý do để biện minh cho tội lỗi của chúng ta. Sau khi lừa dối chúng ta rồi, hắn làm cho chúng ta lo lắng và buồn bã. Hỏi chúng ta có bao giờ cảm thấy điều đó không?
Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết; sự bất tuân ấy được diễn tả như thế nào? Nội dung của sự cám dỗ ấy là gì? Chúa Giêsu là con người hoàn toàn như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, nên những thử thách mà Người phải đương đầu, những cám dỗ Người phải chịu, cũng là những thử thách, những cám dỗ của nhân loại hôm nay. Cám dỗ ấy là cám dỗ về vật chất tư lợi, uy quyền danh vọng, và về hưởng thụ thỏa mãn các đam mê trần tục.
Tiền bạc và của cải vật chất là một cám dỗ lớn, mãnh liệt, không trừ một ai, từ em bé mới có trí khôn cho đến người già sắp lìa cõi thế, từ người buôn bán giữa chợ cho đến vị bậc vị vọng ở nơi nhà thờ. Tự bản chất, tiền bạc không xấu; xã hội phải làm ra của cải thì mới tồn tại và phát triển được; con người phải có tiền bạc tối thiểu mới có thể sống. Nhưng tiền là một người đầy tớ tốt, và là một ông chủ xấu. Biết sử dùng và làm chủ tiền bạc, chúng ta có thể làm rất nhiều việc, kể cả những việc ích Nước lợi Dân. Trái lại, khi nô lệ tiền bạc, để tiền bạc làm chủ, nó sẽ hủy hoại tất cả những giá trị đạo đức, từ tình nghĩa gia đình, vợ chồng, cho mẹ con cái, cho đến những giá trì về công bằng xã hội, về đạo đức và tôn giáo.
Danh vọng là một cám dỗ cũng mạnh không kém. Con người ngày hôm nay có khuynh hướng lẫn lộn danh dự với danh vọng. Thực ra danh dự thì ai cũng cần; có danh dự thì mới có thể sống vui, sống xứng đáng là con người. Mất hết danh dự, con người nhiều khi không còn thiết sống nữa. Nhưng danh vọng thì khác; danh vọng thường phát xuất từ một địa vị cao, hoặc một đời sống giầu có, hoặc từ sự thành công được nhiều người biết đến và khen ngợi. Người ham mê danh vọng là người thích được người khác vỗ tay đề cao, thích được nổi bật giữa đám đông. Có người ham mê danh vọng đến mức sẵn sàng hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh cả những giá trị đạo đức, chạy theo danh vọng nhiều khi là thả mồi bắt bóng và dẫn tới những sụp đổ bi đát nhất.
Cám dỗ thứ ba là quyền lực. Ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, cám dỗ về quyền lực vẫn là một cám dỗ đáng sợ nhất. Thường khi đã có tiền và danh vọng, điều mà người ta ao ước là có quyền trên những người khác, điều khiển người khác. Các tranh chấp về quyền hành làm nảy sinh những biến động xã hội rất tai hại, có khi còn phát sinh giặc giã chiến tranh và gieo rắc đau khổ tan tóc trên nhiều người. Có những người đang nắm quyền cố gắng giữ chặt quyền bính bằng mọi giá, kể cả những thủ đoạn bất chính và phi nhân.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan; nên Người được các thánh Giáo phụ gọi là Ađam mới, sinh ra một nhân loại mới, sống bằng sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ mình là con người mới được tái sinh nhờ Phép rửa, được kêu mời sống ơn gọi đó. Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ đã đập vỡ đầu con rắn độc ác, giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ mỗi ngày. Amen.
57.Cùng Chúa Giêsu lên Giêrusalem--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh, đánh dấu 40 ngày (không kể ngày Chúa nhật) chuẩn bị đến lễ Phục Sinh.
40 ngày Chay Thánh
Trong Kinh Thánh, con số 40 ngày là một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).
Như vậy, 40 ngày chay thánh gợi cho chúng ta nhớ lại 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do Thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa
Sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
Với những lời trên cho thấy, trước khi khai mào sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đương đầu “giáp lá cà” với Satan trong 40 ngày cô tịch, một khoảng thời gian đầy thử thách. Nhưng Chúa Giêsu đã đã chiến thắng khi vạch trần Tên Cám Dỗ, đem lại cho chúng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng để chiến thắng trong cuộc sống đầy những cám dỗ hàng ngày bủa vây quanh chúng ta.
Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Nó đã cám dỗ Chúa Giêsu đi khác đường lối của Chúa Cha, giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam và Evà. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết. Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13). Những quỉ kế mà Satan dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách hắn dùng để cám dỗ chúng ta ngày hôm nay. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta sống triệt để Lời Chúa dạy.
Theo Chúa lên Giêrusalem
Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: “Này chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.
Bước vào Mùa Chay 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cùng lên Giêrusalem với Chúa trong niềm tin, yêu, và hy vọng mới. Đức Thánh Cha viết: “Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta” (Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).
Vậy chúng ta bước vào Mùa Chay với một thái độ như thế nào? Chúng ta chuẩn bị ra làm sao để cho việc cử hành Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đạt được nhiều ý nghĩa và sinh ích lợi cho đời sống chúng ta? Nói khác đi, chúng ta lên Giêrusalem với Chúa bằng tâm tình nào, vui hay buồn, hy vọng hay thất vọng, yêu thương hay hận thù?
Hướng về lễ Phục Sinh, cuộc chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết là ý nghĩa Chúa Nhật thứ I Mùa Chay. Chúng ta nhất quyết bước theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống, theo Chúa tiến qua hoang địa của lòng ta. Nơi đây, ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và cũng nghe thấy cả tiếng nói của Tên Cám Dỗ.
Nơi hoang địa, giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta.
Theo Chúa Giêsu vào hoang địa. Chúng ta có Chúa Giêsu, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ðúng hơn, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay này.
Chúng ta cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse trợ giúp, để chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng ta.
58.Suy niệm Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG
KHAI MẠC MÙA CHAY THÁNH
(Mt 6, 1-6; 16-18)
Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van" (Joel 2,12).
Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.
- Ăn chay
- Cầu nguyện
- Và bố thí
Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Trước hết phải khiêm nhường
Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: "Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào". Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, "hạ mình" trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: "Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” (Tv 34, 13).
Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: "Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Đức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Đức Chúa" (x. Tl 20, 26); "Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Đức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!" (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: " Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van". (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: " Chúng nói: "Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?"... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? " (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.
Đừng phô trương
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy… khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người " (Mt 6, 1-6).
Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: "Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng" (1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.
Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.
Thực hành bác ái
Xem ra con người ngày càng ích kỷ, đến nỗi Đức Thánh Cha gọi đó là sự “thờ ơ toàn cầu hóa”. Xóa bỏ sự thờ ơ là điều Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh trong sứ điệp Mùa Chay năm nay. Ngài viết: “Mong mỏi lớn lao của tôi là tất cả nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ”. Ngài viết tiếp: “Dửng dưng với đồng loại và với Thiên Chúa cũng là một sự cám dỗ đối với Kitô hữu chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
Đức Thánh Cha dựa trên ba trích đoạn Kinh thánh và đề nghị mỗi tín hữu, mỗi giáo xứ và giáo hội suy niệm để canh tân.
- Giáo hội
Giáo hội và mỗi tín hữu cần tái khám phá “trong cùng một thân thể, không có chỗ cho sự dửng dưng, thứ thường hay chế ngự trong tim chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
- Các giáo xứ và các cộng đoàn
Câu hỏi nêu lên trong sách Sáng thế “Em ngươi đâu?” là một khởi điểm. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tất cả những gì chúng ta đang nói về Giáo hội hoàn vũ bây giờ phải được áp dụng trong đời sống cộng đoàn và giáo xứ. Mỗi người tự hỏi mình có phải là những chi thể của Chúa Kitô không? Ngài nhắn nhủ: “mỗi cộng đoàn tín hữu phải đi ra và hòa mình vào cuộc sống của xã hội, đặc biệt nơi những người nghèo và những vùng ngoại biên xa xôi. Tự bản chất Giáo hội là truyền giáo; Giáo hội không tự đóng mình lại nhưng đi đến mọi miền đất nước và mọi dân tộc” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
- Mỗi tín hữu
Đức Thánh Cha nhận xét: “Là những cá nhân, chúng ta bị cám dỗ bởi sự dửng dưng. Nhìn thấy những tin tức ngập tràn những hình ảnh đau khổ nơi nhân loại, chúng ta cảm thấy bất lực trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta có thể làm gì để tránh cảm giác bất lực này?” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay. Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.
59.Chọn lựa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Mc 1: 12-15: Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã không được miễn chuẩn cho quy luật đó
Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã không được miễn chuẩn cho quy luật đó: Người đã bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, Người đã chiến thắng Satan và trở lại với tình trạng của con người trước khi sa ngã: sống hài hòa với dã thú và được các thiên thần phục vụ. Chính vì thế, Người là khuôn mẫu cho cuộc chiến đấu đức tin của chúng ta, đặc biệt trong mùa Chay thánh này.
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Mc 1,12-15
Không giống như Tin mừng Matthêu (4,1-11) và Luca (4,1-13), Tin mừng Maccô không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào lời Chúa thì đứng vững ; nếu không tin tưởng vào lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, đã sống hòa bình với dã thú, và được các thiên thần hầu hạ.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào lời Chúa.
* Cám dỗ trong sa mạc.
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Maccô đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Maccô nhắm làm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê.
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Maccô tóm tắt hoạt động của Người bằng các câu 14-15. Biến cố Gioan Tẩy giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin mừng của Thiên Chúa: Tin mừng đến từ Thiên Chúa và Tin mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng. Chúng ta được mời gọi "hoán cải và tin vào Tin mừng": thật ra "hoán cải" là "tin vào Tin mừng" và "tin vào Tin mừng" thì đương nhiên phải "hoán cải", rời bỏ nếp sống cũ để bước theo Đức Kitô.
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Kể từ Giáo hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng[1] của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hòa với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó hẳn là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9 ; 32,14-20 ; 65,25).
III. Gợi ý bài giảng
1. Đức Giêsu là Ađam mới.
Bản văn Maccô không kể lại các "chước cám dỗ" Satan đã bày ra cho Đức Giêsu như hai Tin mừng Matthêu và Luca, mà chỉ nói vắn tắt là "Người chịu Satan cám dỗ" và lại thêm chi tiết "sống giữa dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ". Khi viết như thế, một đàng Maccô cũng cho hiểu là Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, nhưng còn cho thấy Người như là Ađam mới sống hài hòa với dã thú tại vườn Địa đàng và với thế giới của Thiên Chúa. Tất cả những điều này xảy ra trong suốt 40 ngày chứ không chỉ khi kết thúc ngày thứ bốn mươi. Với Đức Giêsu thời cánh chung đã bắt đầu như các bản văn Is 11,60 và 65,25 đã từng loan báo. Như thế, các tín hữu có thể tin tưởng vào Đức Giêsu theo lời Chúa Cha đã khẳng định: "Con là Con yêu dấu của Cha" (Mc 1,11), và tuyên xưng niềm tin rằng Người là Con Thiên Chúa (x. 15,39). Đồng thời họ có thể coi Người như là gương mẫu cho mình. Khi đã chọn Đức Kitô và xin chịu phép Rửa tội, Kitô hữu cũng chia sẻ số phận của Đức Kitô ; Satan sẽ tấn công tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, như đã từng tấn công, đã từng cám dỗ chính Đức Kitô. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô, vì Đức Kitô đang thực thi nhiệm vụ của Người với quyền năng, Người chế ngự kẻ mạnh (3,27) và loan báo Tin mừng về triều đại Thiên Chúa. Vì Tin mừng Đức Giêsu mang đến là Tin mừng tuyệt hảo, Tin mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
2. Thái độ phải có để được tham dự vào triều đại Thiên Chúa.
"Thời kỳ đã mãn": Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: "sám hối và tin vào Tin mừng", tức là biết chọn lựa.
"Triều đại Thiên Chúa" có nghĩa là lúc Thiên Chúa bung mở quyền làm chủ của Người ra. Thiên Chúa là Chúa tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta ; chúng ta không thể coi Ngài như ngang vai ; chúng ta không thể áp đặt cho Ngài bất cứ chuyện gì. Ngài có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh ; Ngài quyết định và qui định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
Thiên Chúa là Chúa tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Ngài có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và triều đại Ngài không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với triều đại của Ngài và các hoa trái của triều đại Ngài.
IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, mở đầu mùa Chay, Họi thánh để ra cho chúng ta một Giêsu như Ađam mới, đã thắng được ma quỷ, trở lại sống tư cách con người đúng như Thiên Chúa muốn và ra đi loan báo Tin mừng, mời gọi hoán cải và tin vào Tin mừng. Tin tưởng rằng Đức Giêsu luôn trợ giúp chúng ta trong nỗ lực sống đời Kitô hữu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện
1. Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai Thiên Chúa phái đến để cứu độ nhân loại. Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh, chủ chăn và đoàn chiên, biết tin tưởng vào Đức Kitô và làm chứng về Người trước toàn thể nhân loại.
2. "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần". Qua việc Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ, Thiên Chúa đang bày tỏ quyền làm chủ của Ngài ra, bằng việc rao giảng sứ điệp tình yêu và xua trừ ảnh hưởng của ma quỷ. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo luôn xác tín vào sứ mạng được ký thác cho mình, để luôn hăng say và quảng đại dấn thân.
3. "Hãy sám hối và tin vào Tin mừng". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể các tín hữu biết gắn bó với Tin mừng là chính Đức Giêsu, để sống sự hoán cải chân thành, và ra sức sửa đổi đời sống để ngày càng hiểu biết và tin yêu Đức Giêsu hơn.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, vào đầu mùa Chay thánh, Chúa đã được giới thiệu như là điển hình cho chúng con bắt chước, và như Đấng dẫn đường đầy uy quyền. Xin ban Thánh Thần uốn nắn lòng dạ chúng con và giúp chúng con ngoan ngoãn bước theo Chúa, là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
60.Thiên Chúa yêu thương tất cả thụ tạo. chúng ta cũng nên yêu thương như vậy--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển
Hôm nay là Chúa nhật I Mùa Chay, khoảng thời gian 40 ngày để chúng ta chuẩn bị tâm trí và thân xác cho Lễ Phục sinh, bằng cách chú tâm vào việc cầu nguyện, ăn chay, bố thí và phục vụ tha nhân. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về mối tương quan tình yêu của Thiên Chúa với tất cả thụ tạo.
Trong bài đọc I, chúng ta được nghe về giao ước mà Thiên Chúa thiết lập với tất cả thụ tạo đang sống, con người cùng với các loài vật khác. Đây là giao ước Noê vì ông là đối tác chính. Theo bối cảnh của trình thuật Kinh thánh, trái đất và gần như tất cả mọi loài sinh sống ở đó đều đã bị lũ lụt tàn phá. Một cách ẩn dụ, nước lũ hủy diệt đã tẩy sạch sự hư hỏng và tội lỗi của trái đất, một sự gột rửa mà bài đọc thứ hai giải thích là giống như những gì được rửa sạch trong nước của phép rửa. Sau trận hồng thủy, Thiên Chúa khẳng định mối tương quan của Ngài với các thụ tạo đang sống qua việc sử dụng ngôn ngữ giao ước mang tính pháp lý để thể hiện sự cam kết của Ngài đối với sự sống còn của tạo thành. Mối quan tâm đặc biệt đến sự sống của cả con người và các loài vật khác là trọng tâm của giao ước Noê và nó được ghi nhớ bằng cầu vồng trên đám mây. Khởi đầu Mùa Chay là thời điểm tuyệt vời để cùng suy ngẫm về những hàm ý của trang Kinh thánh này. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thụ tạo được tái lập trong giao ước này và nó nên ảnh hưởng đến chúng ta trong việc thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đối với tất cả thụ tạo.
Bài Tin mừng cũng nêu bật mối liên hệ của Thiên Chúa với thụ tạo, mặc dù có thể bỏ qua chi tiết này vì có một số yếu tố quan trọng khác trong bài Tin mừng ngày hôm nay. Phù hợp với Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe về 40 ngày thử thách của Đức Giêsu trong hoang địa. Máccô không mô tả bản chất của những cám dỗ như được mở rộng trong các Tin mừng Matthêu và Luca. Thời gian trải nghiệm trong hoang địa của Đức Giêsu trở thành khuôn mẫu cho 40 ngày của Mùa Chay, vì con số này mang ý nghĩa trong suốt truyền thống Kinh thánh như là thời gian của cầu nguyện, thử thách và thông thường là biến đổi.
Máccô miêu tả Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, được các thiên thần phục vụ và ở giữa các loài muông thú. Hiển nhiên, có thể bị bỏ sót khi cho rằng mỗi thành phần Satan, ma quỷ, dã thú trên đây không phải là con người. Học giả Tân ước, Richard Bauckham cho rằng Đức Giêsu đã đi vào hoang địa để gặp gỡ những hữu thể của thế giới không phải con người nhằm thiết lập ở đó một mối tương quan trước khi rao giảng cho thế giới loài người. Trong cuộc chạm trán với Satan, Đức Giêsu thiết lập quyền lực và khả năng của mình vượt trên những cám dỗ mà Ngài có thể phải đối mặt ở ngoài hoang địa. Mối tương quan của Đức Giêsu với các thiên thần thì được minh định là tích cực và hiệu quả, vì các ngài nâng đỡ Đức Giêsu. Việc Đức Giêsu sống cùng với bầy dã thú có thể báo hiệu rằng Ngài đã thiết lập một mối tương quan hài hòa với mọi thụ tạo, ngay cả những loài thường bị coi là nguy hiểm. Bauckham lưu ý tầm quan trọng của mối tương quan hòa bình này như một dấu chỉ của thời thiên sai. Chẳng hạn, trong sách ngôn sứ Isaia, một vị vua thiên sai trong tương lai sẽ mang lại thời kỳ hòa bình giữa loài người và các loài vật khác (Is 11,6-9). Qua việc miêu tả Đức Giêsu ở cùng với các loài dã thú, Máccô cho thấy rằng Đức Giêsu có một mối tương quan với tất cả các thụ tạo và rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai được trông đợi.
Khi bắt đầu cuộc hành trình Mùa , các bài đọc hôm nay thôi thúc chúng ta lưu tâm và hòa hợp với tất cả loài thụ tạo cũng như những cách thế mà chúng ta hỗ trợ hoặc gây hại cho các thụ tạo. Là Đấng Tạo hóa, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu thương và sự tác động đối với mọi sinh vật, và đây là điều chúng ta cũng nên noi gương bắt chước. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ chúng ta, “Tất cả chúng ta đều có thể cộng tác như những khi cụ của Thiên Chúa cho việc chăm sóc thụ tạo” (“Laudato Si’,”số 14).
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/first-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239719
61.Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi được tấn phong làm Đấng Thiên Sai (Mê-si-a), Đức Giê-su đã được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ và Người đã dùng vú khí Lời Chúa để chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Đến khi Gio-an Tẩy Giả bị bắt, thì Đức Giê-su mới bắt đầu thi hành sứ mạng Thiên Sai, bằng việc Người đi khắp miền Ga-li-lê để kêu gọi người ta ăn năn sám hối tội lỗi và tin vào Tin Mừng Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập.
CHÚ THÍCH:
- C 12-13: + Thần Khí liền đẩy Người: Khi chịu phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su đã được Thánh Thần lấy hình chim câu đậu xuống trên mình, để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Từ đây Người luôn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hành động mà việc đầu tiên là vào trong sa mạc ăn chay cầu nguyện và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. + Vào hoang địa (sa mạc): Khi giải thoát con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, Đức Chúa đã đưa họ “vào sa mạc” 40 năm, để ký một giao ước công nhận họ là dân riêng của Người, thanh luyện họ khỏi tội tôn thờ tà thần. Đây cũng là thời gian thử thách lòng trung tín của họ đối với Người. Đến thời các ngôn sứ, Hô-sê đã diễn tả đúng ý nghĩa của sa mạc khi ông trình bày Đức Chúa yêu thương dân Ít-ra-en giống như một người chồng yêu vợ, đã dẫn đưa dân này vào sa mạc để sống thân mật với Người (x. Hs 2,16). + Đức Giê-su “vào sa mạc”: Sau khi được công nhận là Con Yêu Dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha và được đầy Thần Khí, Đức Giê-su đã được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc, để sống thân tình với Chúa Cha bằng việc cầu nguyện và ăn chay suốt 40 ngày. Đây cũng là thời gian Người chịu ma quỉ thử thách. Nhờ luôn chọn làm theo lời Chúa Cha, Đức Giê-su đã chiến thắng Xa-tan cám dỗ, và chứng minh lòng trung thành với sứ mạng Thiên Sai được Cha trao phó. + Bốn mươi ngày: Con số 40 tượng trưng cho một thời gian dài. Chẳng hạn: Trong Đại Hồng Thủy, ông No-e đã mở cửa sổ tàu sau khi nước rút được 40 ngày (x. St 8,6); Trong cuộc Xuất Hành, Mô-sê đã lên núi tiếp xúc với Đức Chúa suốt 40 ngày đêm (x. Xh 34,28); Dân Ít-ra-en phải lưu lạc trong sa mạc suốt 40 năm trường (x. Ds 14,34); Vua Đa-vít đã cai trị trong thời gian 40 năm (x 2 Sm 5,4); Ngôn sứ Ê-li-a đã chạy trốn lên núi Khô-rếp mất 40 ngày đêm (x. 1V 19,8); Đức Giê-su đã vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 ngày (x. Mc 1,13). + Xa-tan: Xa-tan nghĩa là “kẻ thù”, “kẻ chống đối”, hay còn được gọi là “ma quỉ” hay Di-a-bo-los nghĩa là “kẻ kiện cáo”, “kẻ vu khống”. Đây là nhân vật vô hình có hai hoạt động là: nhập vào một người để bắt họ nói hay làm theo ý của nó và cám dỗ, xúi giục họ phạm tội chống lại Thiên Chúa. + Cám dỗ: Cơn cám dỗ của ma quỉ gồm 3 giai đoạn như sau: Một là gợi lên trong đầu người ta một hình ảnh hợp với nhu cầu của họ. Hai là làm cho người ta vui thích với hình ảnh ấy hoặc ước muốn làm điều xấu xa. Ba là người bị cám dỗ sẽ quyết định chiều theo hay không theo sự xúi giục của ma quỉ. Quyết định làm theo ma quỉ là đã phạm tội. Đối với Đức Giê-su, Xa-tan chỉ có thể cám dỗ ở giai đoạn thứ nhất, nghĩa là gợi lên trong tâm trí Người một tư tưởng hay một hình ảnh phù hợp với nhu cầu. + Sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người: Đức Giê-su đã chiến thắng cơn thử thách cám dỗ của Xa-tan. Dấu chỉ cụ thể của cuộc chiến thắng ấy là Người đã được Thiên Chúa che chở để sống hòa hợp với dã thú và còn được các thiên thần đến hầu hạ phục vụ (x. Tv 91,11-13). Đây là quang cảnh của thời Thiên Sai: một thời kỳ thái bình và đầy tình yêu thương huynh đệ, trong đó mọi loài vật sẽ sống hòa hợp với nhau và sẽ không có chỗ cho sự ganh ghét hận thù nhau (x. Is 11,6-9; 65,25).
- C 14-15: + Sau khi Gio-an bị nộp: Việc Gio-an bị bắt nói lên sứ mạng của ông là tiền sứ hay tiền hô của Đấng Thiên Sai đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ Đức Giê-su thực hiện ơn cứu độ. + Ga-li-lê: Ga-li-lê là miền Bắc nước Do Thái, nơi đây có nhiều dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do Thái. Đức Giê-su đã bỏ miền Giu-đê đến Ga-li-lê để bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. + Lời rao giảng của Đức Giê-su: được tóm kết trong 3 tư tưởng sau: Một là: Thời kỳ đã mãn: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ là thời hiện tại và thời cánh chung. Giờ đây Đức Giê-su loan báo thời kỳ hiện tại đã kết thúc để bắt đầu một thời kỳ mới cánh chung, trong đó Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Hai là: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Cựu Ước nói đến Vương Quyền của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en là dân riêng của Người (x. Is 43,15; Tv 47,3). Từ đó, dân Ít-ra-en luôn trông chờ Thiên Chúa sẽ sớm thiết lập Vương Quyền của Người. Giờ đây, Đức Giê-su đã khẳng định rằng: Nơi Người, Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Ba là: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối hay Mê-ta-noi-a, một từ Hy lạp có nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, Sám Hối chính là thay đổi hướng đi, triệt để từ bỏ tội lỗi để quay về với Giao Ước, và bước vào một đời sống mới. Ngoài ta còn phải tin vào Tin Mừng Đức Giê-su rao giảng nữa.
CÂU HỎI: 1) Trong cuộc sống công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã hành động theo sự thôi thúc hướng dẫn của ai? 2) Thời kỳ Xuất Hành. Đức Chúa đã hạ lệnh cho Mô-sê đưa dân Do thái vượt qua biển Đỏ vào trong sa mạc suốt thời gian 40 năm để làm chi? Còn Đức Giê-su được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc làm gì? 3) Đức Giê-su đã dùng phương thế thiêng liêng nào để chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ? 4) Hãy kể một số sự kiện trong Thánh Kinh có liên quan đến con số 40? 5) Xa-tan là ai? 6) Ma quỷ thường cám dỗ người ta qua mấy giai đoạn? 7) Sau khi chiến thắng ma quỷ, Đức Giê-su đã làm gì để mặc khải các đặc điểm về thời Thiên Sai mà Người muốn thiết lập? 8) Đức Giê-su bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ lúc nào? 9) Ga-li-lê là miền đất có đặc điểm thế nào? 10) Nội dung những lời rao giảng của Đức Giê-su được tóm gọn trong ba điều chính yếu nào? 11) Sám hối nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sống là chiến đấu không ngừng:
Vào một buổi tối, cha bề trên đã hỏi một tu sĩ trong dòng như sau:
- Hôm nay từ sáng đến giờ thầy làm gì?
Tu sĩ trả lời rằng:
– Hôm nay cũng như mọi ngày, con bận bịu với công việc mà nguyên sức con sẽ không thể làm nổi, nếu không được Chúa trợ giúp. Mỗi ngày con đều phải trông chừng hai con chim ưng, kềm giữ hai con nai, kiểm soát hai con diều hâu, điều khiển một con cá sấu, trừng trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
Cha bề trên cười hỏi lại:
– Con nói gì lạ thế? Những con vật mà con vừa nói trong tu viện của chúng ta làm gì có?
– Thưa cha bề trên, thật đúng như vậy: Hai con chim ưng chính là hai con mắt của con, con phải giữ chúng luôn trong sáng, không để chúng tự do thu nhận những hình ảnh xấu vào đầu. Hai con nai tức là đôi chân của con, con phải luôn trông chừng chúng trong từng bước đi, để chúng luôn đi trong nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay con, con phải luôn bắt chúng làm việc hữu ích. Còn cá sấu là cái lưỡi trong miệng con, con phải kiềm chế để nó khỏi thốt ra những lời lẽ thâm độc hại người. Con gấu chính là trái tim con, con phải coi chừng để nó khỏi mắc thói ích kỷ và thích phô trương công đức để tìm tiếng khen. Còn bệnh nhân chính là thân xác con, con phải canh phòng để cho xác thịt khỏi trỗi dậy và luôn khỏe mạnh.
Cuộc sống của chúng ta luôn phải chiến đấu với ba kẻ thù nguy hiểm là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Trong ba kẻ thù đó thì nguy hiểm nhất lại chính là xác thịt mình, vì nó ở ngay trong lòng mình. Mùa chay là thời kỳ chúng ta hãm mình đền tội và tập sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su. Trong thời gian này luật dạy chúng ta ăn chay hai ngày đầu và cuối Mùa Chay là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sau Tuần Thánh. Khi ăn chay, chúng ta giảm ăn và tránh ăn những món ngon, để cộng tác với ơn Chúa làm chủ bản thân, tập sống tiết độ như kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy: “Kiêng bớt chớ mê ăn uống”. Ăn chay là hãm mình đền tội và để có điều kiện chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói và tích cực góp phần phục vụ các việc công ích với Hội Thánh.
2) Bị cám dỗ hay không là tùy sự cầu nguyện, ăn chay và làm việc nhiều ít:
Một hôm Thánh Ephrem nằm mơ thấy một thành phố kia rất đông người qua lại, nhưng ở cổng thành, ngài chỉ thấy có một tên quỉ đang ngồi ngáp ngủ. Rồi ngài lại thấy mình có mặt tại một khu rừng vắng chỉ có một vị ẩn sĩ đang sống, nhưng chung quanh vị này lại có cả một bầy quỉ rất đông đang tìm đủ cách tấn công vị tu sĩ. Bấy giờ thánh nhân liền la mắng lũ quỷ như sau: “Lũ quỷ các ngươi thật không biết xấu hổ khi kéo cả bầy đến tấn công một người. Còn trong thành phố kia có rất đông người thì các ngươi lại chỉ bố trí có một tên đứng không và còn ngáp đứng ngáp ngồi nghĩa là làm sao?”
Tên quỷ đầu đàn liền trả lời như sau: “Thành phố tuy đông người nhưng chẳng cần lũ quỷ chúng ta phải ra tay cám dỗ mà chúng vẫn phạm hết tội này đến tội khác, nên chỉ cần một tên đứng canh là đủ. Còn tại khu rừng vắng này dù chỉ có một tên tu sĩ, nhưng hắn ta lại rất kiên cường chiến đấu. Đến nay sau nhiều ngày tấn công cám dỗ mà chúng ta vẫn chưa cám dỗ được hắn ta phạm tội, vì hắn luôn ăn chay cầu nguyện, năng đọc Kinh Thánh và chăm chỉ làm việc”.
Thánh Phêrô dạy các tín hữu như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,8-9).
3) Một mẫu gương thực lòng sám hối:
Piri Tômát (Piri Thomas), từ một tên tội phạm đang thi hành án trong nhà tù, một con nghiện ma túy đã từng nhúng tay vào tội ác giết người... cuối cùng đã sám hối trở thành một tín hữu đạo đức thánh thiện đầy lòng nhân ái như sau: Một đêm nọ, Pi-ri đang nằm trong một phòng giam đặc biệt, cùng chung giường với một tên tội phạm biệt hiệu là “Thằng Ròm”, đột nhiên anh suy nghĩ về tình trạng tội lỗi của mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt phải trỗi dậy cầu nguyện với Chúa. Nhưng lúc đó anh lại đang nằm chung giường với một bạn tù là “Thằng Ròm”. Do đó, chờ cho “Thằng Ròm” ngủ say, anh mới từ từ bò ra khỏi giường, quì gối xuống nền nhà bằng bê-tông lạnh ngắt. Rồi anh say sưa nói với Chúa như đứa con thưa chuyện với cha mình.
Về sau anh đã thuật lại tiến trình trở lại của anh như sau: “Khi ấy tôi bày tỏ với Chúa những gì chất chứa trong lòng tôi. Tôi thưa với Ngài bằng những lời đơn sơ mộc mạc. Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những lầm lỗi thiếu sót của tôi, những hy vọng và thất vọng. Lúc đó tôi cảm thấy xúc động đến nỗi suýt bật khóc, một sự xúc động mà trước đây chưa bao giờ tôi cảm thấy. Khi kết thúc lời cầu nguyện, bỗng tôi nghe thấy có tiếng đáp: “Amen”. Thì ra đó là tiếng của “Thằng Ròm”. Lúc đó hắn đang nằm sấp trên giường, trán tựa trên hai cánh tay khép lại. Sau một lúc lâu im lặng, rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ với tôi: “Này Pi-ri, tớ cũng tin Chúa!” Rồi tôi leo lên giường và hai đứa chúng tôi tiếp tục nói chuyện về niềm tin từ hồi còn thơ ấu của mình. Trước khi ngủ tiếp, tôi đã nói với “Thằng Ròm”: “Chúc Chi-co ngủ ngon nhé! Tớ nghĩ rằng: Thiên Chúa vẫn luôn ở với chúng ta. Chỉ có chúng ta là không muốn ở với Ngài mà thôi!”
4) Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò:
Một tên cướp nhà băng kia đã dùng súng giết chết một viên cảnh sát và sau đó hắn bị bắt và bị tòa kết án tử hình. Bây giờ hắn đang bị cột vào chiếc ghế điện trong nhà tù Sing Sing chờ tới giờ thi hành án. Trên đầu hắn có đeo một chiếc vòng bằng kim loại cột nhiều thanh sắt. Khi cho dòng điện mạnh chạy qua là hắn sẽ lập tức bị chết ngay. Người thi hành án hỏi tử tội xem có muốn nhắn gửi điều gì trước khi chết không? Bấy giờ hắn mới tâm sự với giọng điệu đầy hối hận muộn màng như sau: ”Tất cả tội lỗi lớn lao của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng năm xu trong túi áo của mẹ tôi hồi còn nhỏ. Rồi khi đi học tôi tiếp tục ăn cắp các vật dụng của chúng bạn như bút vở, nhặt được đồ đánh rơi không trả cho người bị mất, đi xe buýt hay xe lửa trốn không mua vé. Rồi khi lớn khôn tôi bắt đầu sa vào các thói hư chơi bời hút xách bài bạc. Do thua cá độ một món tiền lớn, tôi và hai thằng bạn thân rủ nhau đi cướp giật túi xách người đi đường, rồi lên kế hoạch cướp nhà băng. Một ngày kia khi thực hiện việc cướp này và bị cảnh sát truy đuổi, tôi đã dùng súng bắn chết một viên cảnh sát và bị tòa kết án tử hình. Như vậy, tội cướp của giết người dẫn đến cái chết của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng bạc năm xu” (A. Tonne).
Tin Mừng hôm nay cho thấy khi cám dỗ Đức Giê-su, ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật tương tự. Nó không xúi Người tôn thờ nó ngay, mà yêu cầu Người hãy biến những viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, nhằm thỏa mãn nhu cầu cơm áo vật chất thường ngày. Rồi tiếp đến nó xúi Người nhảy từ nóc đền thờ xuống để được khen, thỏa mãn các ước muốn về danh vọng chức quyền trần gian. Cuối cùng nó xúi Người sấp mình thờ lạy nó, để được nó ban cho của cải giàu sang. Đối với loài người chúng ta cũng thế: “Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò”. Do đó, chúng ta đừng coi thường những lỗi nhỏ, vì từ một lỗi nhỏ hôm nay sẽ biến thành tội ác chối bỏ Thiên Chúa và làm hại tha nhân sau này.
5) Lòng tham lam tiền bạc làm mờ mắt linh hồn:
Ngày xưa, có người ở nước Tề có lòng say mê vàng bạc. Một hôm đi chợ, khi tới gần cửa hàng bán vàng bạc, anh nhìn thấy một thỏi vàng để trong quầy, liền chạy tới đập bể tủ kính chộp lấy thỏi vàng mang đi. Khi bị nhân viên cửa hàng đuổi theo bắt lại và bị hạch hỏi: “Tại sao ở giữa chốn đông người ban ngày ban mặt mà anh lại dám công khai cướp vàng là làm sao?”
Anh ta liền thú nhận: “Khi nhìn thấy thỏi vàng, thì tôi không còn thấy bất cứ người nào khác, mà chỉ thấy thỏi vàng trong quầy cần lấy bằng được với bất cứ giá nào!”
Đồng tiền liền khúc ruột nên nhiều người sẵn sàng lao vào lửa, bất chấp mọi khó khăn, không từ bất cứ thủ đoạn nào, miễn sao chiếm đoạt được nó mới thôi.
3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện trên, bạn thấy vị tu sĩ đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ nhờ dùng các phương thế nào? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư tật xấu quan trọng nhất của bạn trong mùa chay này?
4. SUY NIỆM:
Tin Mừng hôm nay đã ghi lại lời Đức Giê-su rao giảng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ăn năn sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là “cải thiện đời sống”, “cải tà qui chánh”. Là nhìn nhận những điều xấu xa tội lỗi trong đời sống của mình và quyết tâm trừ khử. Nói cách khác: Sám hối là nhận ra thân phận tội nhân của mình và thực lòng hoán cải, bằng cách làm những việc tốt trái ngược với các thói hư như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” đã dạy.
1) Mọi người đều phải chịu ma quỷ cám dỗ:
Đức Giê-su là Đấng Thánh vô tội, nhưng mang thân phận loài người giống như chúng ta, nên Người muốn chịu ma quỷ cám dỗ để nêu gương chống trả cho chúng ta. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Chúa muốn dạy chúng ta rằng: Mọi người ai cũng đều phải trải qua các cơn cám dỗ của ma quỷ, và càng thánh thiện người ta lại càng bị cám dỗ nặng hơn để chứng tỏ lòng mến Chúa nhiều hơn. Thánh Grê-gô-ri-ô khi đã bước sang tuổi 90 đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: "Ở tuổi này mà tôi vẫn thường xuyên bị ma quỷ cám dỗ giống như lúc tôi đang còn trong tuổi đôi mươi! "
Đức Cha Ti-a-mer Toth cũng nói: "Ma quỉ đã dám đụng đến cả thủ lãnh Giê-su... thì chắc chắn chúng cũng sẽ không buông tha cho các đồ đệ của Người là chúng ta".
2) Phương diện tích cực của cơn cám dỗ:
a) "Lửa thử vàng - Gian nan thử đức":
Sống trên đời, chúng ta không thể tránh được các cơn cám dỗ của ma quỷ. Tuy nhiên cám dỗ cũng có mặt tích cực của nó là giúp củng cố đức tin của chúng ta hầu mang lại lợi ích cho tâm hồn. Cám dỗ giống như phương thế tập luyện giúp chúng ta nên người lính thiện chiến, một lực sĩ mạnh mẽ của Thiên Chúa, có khả năng chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ.
Ta có thể ví cám dỗ giống như một mũi chích ngừa bệnh để bạch huyết cầu của chúng ta có dịp chiến thắng những vi trùng yếu, tiết ra kháng thể giúp chúng ta miễn dịch và sẽ dễ dàng chiến thắng các vi trùng mạnh hơn về sau.
b) “Ơn Thầy đủ cho con”:
Cần ý thức rằng: Chúa luôn ban đủ ơn để giúp ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ, miễn là luôn có Chúa ở trong lòng ta. Thánh nữ Ca-ta-ri-na một hôm bị một cơn cám dỗ rất nặng. Sau đó được Chúa Giê-su hiện ra an ủi. Vừa gặp Chúa, thánh nữ liền hỏi: “Lạy Chúa. Khi con bị cám dỗ thì Chúa ở đâu?”. Người trả lời: “Ta ở ngay trong lòng con đó”. Về phần thánh Phao-lô Tông đồ có lần đã xin Chúa cất khỏi cơn cám dỗ của ma quỷ luôn quấy rầy, giống như một cái dằm đâm vào cơ thể làm cho đau đớn. Ngài còn bị một thủ hạ của Xa-tan đến vả mặt rất khó chịu và nhiều lần ngài xin Chúa giúp thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Chúa đã an ủi Phao-lô như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Về sau Phao-lô còn viết như sau: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9).
c) Về các loại cám dỗ của ma quỷ: Có nhiều loại cám dỗ nhưng quan trọng nhất là cám dỗ của ma quỷ về lòng tham tiền bạc. Thực vậy, tình cảm gia đình cũng có thể bị đảo lộn vì bị đồng tiền chi phối: Cha mẹ có thể từ bỏ con cái, con cái có thể bỏ rơi cha mẹ; Vợ có thể tố cáo chồng, chồng có thể ruồng rẫy vợ; Anh em bạn bè có thể chém giết nhau vì tranh chấp của cải như một căn nhà, mảnh vườn hay thùng quà người thân gửi về… Thật đúng như người ta thường nói về giá trị của đồng tiền: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi" hoặc như câu tục ngữ: "Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".
3) Vào mùa chay là bước vào sa mạc lòng mình:
Dù đang sống cuộc sống đời thường hằng ngày nhưng chúng ta vẫn có thể sống tinh thần Mùa Chay bằng cách:
a) Kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, luôn vững tin vào Chúa dù gặp bao thử thách gian nan.
b) Bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi theo ý Chúa Cha, dù phải chịu đau khổ, bị thiệt thòi, như Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha: ”Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” (Lc 22,42 b).
c) Sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn gặp phải trong cuộc sống: Dù bị đói nghèo nhưng tâm hồn vẫn tự do, không chịu khuất phục làm nô lệ cho của cải vật chất.
d) Giữ tâm hồn luôn bình an nhờ năng cầu nguyện với Chúa Cha: Nhờ đó chúng ta sẽ trở nên “Con yêu dấu” luôn làm vui lòng Cha như Đức Giê-su.
Nếu trong Mùa Chay chúng ta quyết tâm vào sa mạc để thanh luyện bản thân, thì tâm hồn chúng ta sẽ nên vững mạnh; Sẽ có khả năng chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ; Sẽ quyết tâm dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân không quản ngại bất cứ khó khăn gian khổ nào; Sẽ tập thành thói quen bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa hầu nên con thảo của Chúa Cha noi gương Đức Giê-su.
4) Các phương thế giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ:
a) Năng ăn chay và cầu nguyện: Nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su đã được tăng sức mạnh để đương đầu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Hội Thánh dạy chúng ta hãy cầu nguyện và ăn chay để hãm mình đền tội trong Mùa Chay như phương thế hữu hiệu gia tăng nội lực thiêng liêng hầu giúp ta đủ sức chống trả và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.
b) Năng học sống Lời Chúa: Lời Chúa như thanh gươm hai bên đều là lưỡi sắc bén để giúp chúng ta chống lại ma quỷ. Noi gương Đức Giê-su khi bị ma quỷ cám dỗ, đã sử dụng Lời Chúa làm phương thế chống trả và đã chiến thắng ma quỷ. Ba câu Lời Chúa ấy như sau: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi” (Mt 4,7); “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10).
c) Tham dự các buổi tĩnh tâm và năng lãnh nhận các phép bí tích: Dự tĩnh tâm để được nghe biết cách chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xét mình xưng tội và dọn mình rước lễ sốt sắng, để luôn có Chúa ở cùng. Cầu xin Chúa giúp trừ khử các thói hư bằng việc quyết tâm tập các nhân đức đối lập theo kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy. Nhờ ơn Chúa giúp và nhờ nỗ lực phấn đấu của bản thân, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng ma quỷ cám dỗ và sẽ ngày một nên hoàn thiện hơn.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con ý thức rằng: Xưa Chúa đã vào sa mạc để gặp gỡ và sống thân tình với Chúa Cha. Mùa Chay chính là thời kỳ thuận tiện để chúng con vào sa mạc với Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dành ra ít phút thinh lặng để tâm sự với Chúa Cha, cho chúng con biết lắng nghe lời Chúa dạy trong giờ kinh tối gia đình, và các buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay tại nhà thờ. Nhờ Thần Khí Chúa thôi thúc, chúng con quyết tâm thực thi ăn chay hãm mình đền tội trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con biết chu toàn các việc bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân, biết chủ động đi bước trước làm hòa với những ai đang bất bình với con... để mỗi ngày con được Thần Khí thanh luyện và được biến đổi nên người mới trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
62.Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa--LỄ TRO--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay được kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, có điều là: Mùa Chay đã diễn ra hằng năm, nhưng tại sao đời sống đạo của chúng ta vẫn chỉ dừng lại nhiều ở góc độ bên ngoài mà đời sống tâm linh không có gì thay đổi lắm! Nguyên nhân tại đâu và việc chúng ta ý thức về nó như thế nào? Đâu là điều Chúa và Giáo Hội muốn nơi người tín hữu mỗi khi Mùa Chay về? Nhân ngày thứ Tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Đức Chúa sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự trai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Tro còn nói đến một điềm gở, mà cụ thể là cái chết của mỗi người và nhân loại. Vì thế, tiên tri Giêrêmia đã mô tả như: “Thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (x. Gr 31, 40). Nói như thánh Phaolô: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1 Cr 15, 31). Vì thế, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, không thể trần chừ. Chuẩn bị tức là sống theo tinh thần của Chúa.
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người, để dâng cho Người một phân nửa của cải (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc để trừ quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn thể hiện tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), để thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ rột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay. Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt. Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì chót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa... Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, thì hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”. Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều...
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa về ý thức nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bửu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng thì toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ, chẳng khác gì “gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”. Nói cách khác, chúng ta là con đẻ của nhóm hình thức vụ luật. Thiết nghĩ, ăn chay như vậy, hẳn chúng ta chẳng khác gì những Pharisêu! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đấng thấu suốt mọi điều kín nhiệm là Đức Giêsu đã quả trách họ cách nặng nề: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6). Ăn chay kiểu như thế quả thật vô nghĩa vì đã đánh mất đi ý nghĩa thánh thiêng của ngày Thánh, ngày dành cho Thiên Chúa và vì ơn cứu độ của mình và tha nhân.
Việc ăn chay của Kitô giáo phải gắn liền cuộc đời, lời nói và hành vi của mình với Đức Kitô, nếu không, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, như chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành danh hài hay con hề trên sân khấu. Thánh Phaolô đã cẩn trọng nhắc nhở những kẻ như trên trong thời của Ngài, khi nói: “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng” (Gl 5,4) khi chỉ lo giữ luật mà không có đức mến và đức ái đi kèm.
Người Công Giáo ăn chay, ngoài việc liên đới với Thiên Chúa, chúng ta còn gắn liền với các mối tương quan nơi tha nhân. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dành ra một chút hy sinh về của cải vật chất mà lẽ ra chúng ta được hưởng để chia sẻ cho người túng nghèo, lo truyền giáo, giúp đỡ các bệnh nhân... Nói cách khác, việc ăn chay phải nhằm xây dựng Nước Trời ở trần gian này, nghĩa là phải biến việc ăn chay thành một phong cách sống nhằm xây dựng xã hội hay Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn, công lý và tình thương hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo " (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện" (2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con hiểu rằng: muốn được phục sinh với Chúa, chúng con phải qua con đường thập giá. Phải chiến đấu và tập luyện các nhân đức cách sốt sắng, để thêm lòng yêu mến Chúa và liên đới với tha nhân. Amen.
63.Kiếp người vô thường--LỄ TRO--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa. Đẹp về cây nẩy lộc đâm chồi...; Đặc biệt sắc màu và hương thơm của trăm hoa đã hoà vào nhịp sống tất bật của con người, từ vùng ngoại ô thôn dã đến chốn phồn hoa đô thị, tạo nên một không khí vui tươi, một quang cảnh ấm áp và thiêng liêng của ngày xuân. Muôn hoa làm đẹp cho đời, muôn hoa xoa dịu buồn đau, muôn hoa khích lệ tinh thần, muôn hoa chia sẻ mừng vui… Nhưng đáng tiếc, những nụ hoa và cả mùa xuân đều mong manh, sớm nở chiều tàn. Tất cả dường như đều đi theo định luật của vạn vật là vô thường. Chẳng có gì bền vững với thời gian. Chẳng có gì vĩnh cửu nhưng luôn chịu cảnh phù vân mong manh.
Những điều vô thường này chúng ta có thể thấy qua vạn vật và cả qua những cảnh huống cuộc đời:
Hoa đẹp....... Hoa thơm... Hoa vẫn tàn
Tình nặng.....Tình sâu... Tình vẫn tan
Rượu đắng.... Rượu cay... Rượu vẫn hết
Người hứa.... Người thề... Người vẫn quên
Trăng lên......trăng tròn... trăng lại khuyết
Tuyết rơi......tuyết phủ... tuyết lại tan
Hoa nở.......hoa rơi..... hoa lại tàn
Tình đẹp......tình sâu..... tình lại tan!
Người đẹp…... người xấu…... rồi cũng chết
Người giàu …..người nghèo….rồi cũng hết (ST)
Tình yêu đôi lứa là tình thề non hẹn biển. Một cái tình tưởng chừng như trường cửu nhưng vẫn cứ mong manh. Trong tình yêu nó vẫn có mầm chia ly. Nó vẫn làm cho bao người vỡ mộng để rồi ôm hận sầu đông.
Đò tình anh đã sang sông
Sao không ngoảnh lại nhìn hàng lệ rơi
Hoa kia sớm nở chiều tàn
Tình ta cũng vỡ theo chiều hoàng hôn.
Cảnh đời là cảnh vô thường. Những lời thề non hẹn biển cũng đi vào lãng quên. Cuộc đời con người cũng vô thường như vạn vật. Có hiện hữu hữu rồi cũng có từ giã. Có sum họp rồi cũng chia ly. Xem ra cuộc đời thật mong manh. Mong manh như nụ hoa sớm nở chiều tàn. Đây là phi lý của cuộc đời khiến người ta mong được có kiếp sau, với mong ước được là cây thông để tự do tự tại, tự vui thú trần gian.
Kiếp này, ta ở nơi đây
kiếp sau xin được làm cây thông buồn
mặc giông tố
mặc mưa tuôn
mặc cho thế thái quay cuồng xung quanh
Thông reo, reo giữa ngàn xanh
vui cùng gió mát trăng thanh địa đàng.
Hôm nay, ngày lễ tro như muốn nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của kiếp người. Thân phận tro bụi rồi cũng trở về bụi tro. Kiếm tìm công danh sự nghiệp rồi cũng có ngày buông tay để trở về với bụi đất. Vun quén của cải trần gian rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quá mải miết tìm kiếm danh lợi thú để rồi cũng có ngày nuối tiếc vì mình quá bận tâm với của phù vân. Cuộc đời thật vắn nhưng con người lại chẳng an hưởng hiện tại mà lao công vất vả tìm kiếm những thứ chẳng trường tồn.
Khi nhìn nhận sự mong manh của kiếp người sẽ giúp chúng ta biết sống thanh thoát với cõi trần. Đừng vì danh lợi thú mà làm điều sai trái. Trái với đạo đức. Trái với lương tâm. Đừng tưởng rằng mình trường sinh nên lao đầu vào đại hội trần thế chỉ để bon chen, vui chơi, trụy lạc; Đừng gieo vào cuộc đời những ngang trái, bất công và tội lỗi.
Khi nhìn nhận thân phận mỏng dòn của kiếp người cũng mời gọi chúng ta hãy đấm ngực ăn năn về những lạc lối của kiếp người. Hãy nhớ rằng “mọi sự là phù vân”, hãy ăn năn trước khi quá muộn, hãy sám hối và sửa lại hướng đi trước khi trở về với bụi đất. Lời bài hát của cha Kim Long như vẫn tha thiết nhắc nhở chúng ta: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.
Ước gì mỗi khi chúng ta cúi mình nhận lãnh những hạt tro không chỉ là hành vi sám hối, mà còn là dịp để nhìn nhận thân phận tro bụi của mình. Một thân phận thật mỏng giòn nên hãy biết sống cho trọn ý nghĩa của kiếp người. Một thân phân mong manh sớm nở chiều tàn như loài hoa nên hãy sống có ý nghĩa với giây phút hiện tại. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối về những lạc lối của mình và hoàn thiện mình thay vì chỉ mải miết chạy theo thế trần. Amen.
64.Lịch sử Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo cũng có chu kỳ xoay vòng luân chuyển.
Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa?
Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?
Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày chúa nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.
Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các tân tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gô-lơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước mùa chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa chay, Chúa nhật bẩy tuần, Chúa nhật sáu tuần và Chúa nhật năm tuần, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và các nhà thần học cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo hội Công giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui ầm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?
Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc latinh là “quadragesima” có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môi-Sen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4,2).
Như vậy Mùa chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các Kitô-hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiên ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phần yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.
65.Xét tật mình--THỨ TƯ LỄ TRO--JM. Lam Thy ĐVD
I.- CHUYỆN BÊN TA: Khoảng đầu thế kỷ XX, trên “Đông Dương tạp chí” có mở mục “Xét tật mình” do chính chủ báo – học giả Nguyễn Văn Vĩnh – phụ trách. Mục này chuyên nêu ra những thói hư tật xấu, những hủ tục của người Việt Nam, nhằm mục đích xây dựng một nếp sống văn minh theo trào lưu đổi mới của đất nước, trước làn gió mới từ phương Tây đưa lại. Ảnh hưởng của phong trào khá mạnh, có sự tham gia của “Nam Phong tạp chí”, “Tân Văn”. “Đăng cổ tùng báo” và sau này, “Phong Hoá”, “Ngày Nay” (Tự Lực Văn Đoàn) cũng nhập cuộc.
Xã hội Việt Nam chuyển mình thấy rõ. Quả thực, muốn tiếp thu cái mới, cái tốt đẹp, thì trước hết phải biết “nhìn lại mình” mà “xét tật mình”, mạnh dạn từ bỏ những thứ đã lỗi thời ngăn cản bước tiến hoá của dân tộc. Tất nhiên khi “nhìn lại mình” sẽ thấy rõ cả ưu và khuyết điểm. Mạnh dạn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, dung hoà hai nền văn hoá Đông Tây, ấy mới là “đổi mới”. Với đích điểm canh tân, không thể chấp nhận thái độ “bảo thủ” giữ nguyên cái cũ, nhưng cũng không thể một sớm một chiều đổi mới cái rụp theo trào lưu “cấp tiến”. Ấy cũng bởi vì “dục tốc bất đạt” (muốn nhanh thì không thành công).
II.- CHUYỆN BÊN TÂY: Trong “TẢN MẠN VỀ SỐNG ĐẠO CHÚA GIỮA ĐỜI” của Đức Giám mục Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (xuất bản năm 2003), có bài “Bảo thủ và cấp tiến” (trang 21-23) kể một câu chuyện xảy ra ở … bên Tây, vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Ngày 30-6-1988, ĐGM Lefèbre – người sáng lập Huynh đoàn Linh Mục Thánh Pi-ô X (tháng 11-1970) – đã tự ý truyền chức giám mục cho bốn linh mục của Huynh đoàn mà không có phép của Toà Thánh. Lý do:
Thứ nhất, Huynh đoàn vốn chủ trương chống lại “tinh thần của Va-ti-ca-nô II và các cải cách do Công Đồng ấy khởi xướng…”, và “chúng tôi cảm thấy tuyệt đối cần thiết phải có những thẩm quyền Giáo Hội ủng hộ các lo lắng của chúng tôi và giúp chúng tôi dự phóng chống lại tinh thần của Va-ti-ca-nô II và tinh thần của At-xi-di” (Thư ĐGM Lefèbre gửi Thánh GH Gio-an Phao-lô II ngày 02-6-1988).
Thứ hai, Không những chỉ chống lại Công đồng Vat. II, mà giám mục Lefèbre còn chống lại cả Toà Thánh đương thời nữa. Trong thư ngày 29-8-1988 gửi 4 giám mục nói trên, ông viết: “ngai Toà Thánh Phê-rô và những vị thế thẩm quyền của Rô-ma hiện nay do những người phản-Chúa-Kitô chiếm giữ” đang bách hại Huynh đoàn, vì “Rô-ma đi theo chủ nghĩa duy tân và phóng khoáng ấy đang đeo đuổi việc huỷ diệt Nước Chúa chúng ta, như (biến cố) At-xi-di và việc thừa nhận các luận đề phóng khoáng của Vat. II về tự do tôn giáo chứng tỏ”. Giám mục Lefèbre nhấn mạnh: “Xác tín rằng chỉ hoàn thành Thánh ý Chúa, qua thư này, tôi đến xin các cha nhận chịu lấy ơn thánh của chức giám mục Công Giáo như tôi đã truyền ban cho linh mục khác trong những hoàn cảnh khác… Tôi sẽ ban cho các cha ơn thánh đó vì tin rằng Ngai Toà Thánh Phê-rô không lâu nữa sẽ được chiếm giữ bởi một đấng kế vị Thanh Phê-rô hoàn toàn là Công Giáo”.
Cuối bài viết, đức GM Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh nhận định: “Quả là ‘bảo hoàng hơn vua’! Một Ki-tô hữu muốn bảo vệ đức tin tinh tuyền hơn Đức Giáo Hoàng! Có những người Công Giáo tưởng mình là tín đồ đạo Công Giáo chính tông hơn cả Đức Giáo Hoàng khi muốn bảo thủ quan điểm của mình hơn là ‘khiêm tốn và vâng lời đầy đủ đối với Đấng thay mặt Chúa Ki-tô’ (thư của Thánh GH Gio-an Phao-lô II gửi giám mục Lefèbre, ngày 9-6-1988)”.
III.- CHUYỆN TRONG NHÀ: Cũng không thiếu những chứng liệu cho thấy, nhiều khi tôi cứ chỉ lo chăm chăm nhìn người để xét đoán, để phê phán, trách móc, mà quên đi “xét tật mình”. Khi đọc kinh cáo mình, mỗi lần cúi đầu đấm ngực, miệng thì lớn tiếng “lỗi tại tôi” nhưng sao tôi lại cứ ngó nghiêng sang người bên cạnh, và hình như chỉ thấy “lỗi tại anh, tại chị, tại … ai ai ấy!” Cọng rác nơi mắt người thì nhìn thấy rất rõ, nhưng cái xà tổ chảng chắn ngay mắt mình thì lại không thấy. Rồi thì … mau mắn đem Lời Chúa ra nhắc khéo anh em, để quên đi cái khó là tự nhắc nhở mình hãy sống Lời Chúa. Vậy đó! “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” (Mt 23, 4). Phê bình người thì rất sốt sắng, nhưng tự phê bình thì … hãy đợi đấy!
Cách đây không lâu, ở Việt Nam đã rộ lên tin tức về hiện tượng “Đức Mẹ khóc” tại nhà thờ Đức Bà Saigon. Rồi thì rủ nhau đi xem, đi ngắm, làm cho dư luận càng thêm xôn xao. Ôi chao! Cứ cho là Đức Mẹ khóc thực sự đi, rồi hãy tự đặt câu hỏi: “Tại sao Mẹ khóc? Phải chăng vì con cái hư hỏng, tội lỗi?” Chuyện trong gia đình, sao không đóng cửa lại, “nhìn lại mình’’ mà ăn năn, hối cải cho Mẹ bớt đau buồn, bớt khóc; lại đi hô hoán lên cho mọi người xa gần biết Mẹ mình khóc như thế? Tập trung để cầu nguyện ư? Đức Mẹ ở khắp mọi nơi, sao không cầu nguyện nơi kín đáo (Mt 6, 5-6) mà lại cứ phải ra ngã ba ngã tư đường làm chi vậy? Quả nhiên, “nhìn lại mình” khó thật! Nhìn lại mình đã khó, làm sao mà “xét tật mình” cho được. Chẳng thế mà Thánh I-nha-xi-ô đã phải thốt lên: “Lột trần chính con người của mình để gặp gỡ Thiên Chúa và giải thoát mình khỏi những quyến luyến lệch lạc, là xét mình”. Ngài còn nói: “Thà bỏ việc nguyện ngắm, còn hơn là bỏ việc xét mình” (xc “Những bài linh thao” – chủ đề Thánh I-nha-xi-ô khuyên hướng dẫn viên đưa vào bất cứ cuộc tĩnh tâm nào – Thanhlinh.net).
Ai cũng thấy là nói với tha nhân, khuyên tha nhân “sống Lời Chúa” dễ hơn gấp trăm ngàn lần tự mình “sống Lời Chúa”. Đức Ki-tô đâu có khuyên là “hãy mang theo thật nhiều của cải – thậm chí cả danh vọng nữa – mà theo Thầy”, nhưng Người dậy “Hãy từ bỏ tất cả, vác thánh giá mình mà theo Thầy”. Vác thánh giá hẳn nhiên không dễ chịu bằng “vai mang bị bạc kè kè”, giống y chang những ông kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu "ưa dạo quanh, súng sính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ." (Mc 12, 38-40). Mà một khi đã “Vai mang bị bạc kè kè” thì “Nói lếu nói láo chúng nghe rầm rầm” (ca dao VN) liền. Cũng vì thế, nên Người Thầy chí thánh mới khuyên: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 2-3).
IV.- XÉT TẬT MÌNH: Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Trong tiếng La-tinh, Mùa Chay thánh được gọi là "Quadragesima" (bốn mươi), tức là thời kỳ gồm 40 ngày, kéo dài từ Thứ Tư Lễ Tro đến hết Thứ Năm Tuần Thánh (Thánh lễ Tiệc Ly). Thời gian 40 ngày là để nhớ lại thời gian ngôn sứ Mô-sê dẫn dân Do-thái ra khỏi đất Ai-cập, băng qua Biển Đỏ, lưu lạc trong sa mạc 40 năm (1280-1240) và trở lại vùng Đất Hứa. Đó cũng là thời gian 40 đêm ngày Mô-sê cầu nguyện trên núi Si-nai và được Đức Chúa trao cho Thập Điều (10 điều khoản giao ước – Xh 24, 18; 34, 28), hoặc để kỷ niệm thành Ni-ni-vê sám hối và được tha thứ khỏi án phạt ("Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ." – Gn 3, 1-10). Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của tiên tri Ê-li-a, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu I-de-ven, để tiến về Núi của Thiên Chúa, nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1V 19, 8). Và quan trọng nhất là sự kiện Đức Giê-su được Chúa Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4, 1-11).
Như vậy Mùa Chay là mùa Phụng vụ Giáo Hội mời gọi tất cả các tín hữu hãy “xét tật mình” mà ăn năn trở lại. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa tâm linh, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thích hợp cho các Ki-tô hữu noi gương Đức Ki-tô, dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và đây cũng là dịp người tín hữu được liên kết mật thiết hơn với các mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô. Cũng vì thế, nên ngày mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội cho tiến hành nghi thức Xức Tro và kêu gọi tín hữu ăn chay, thực hiện việc “sám hối ăn năn” như Lời truyền dạy của Đức Giê-su (“Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.” – Cv 3, 19). Với nghi thức xức tro và ăn chay, người Ki-tô hữu có cơ hội nhìn nhận mình là kẻ có tội, xin Thiên Chúa tha thứ, đồng thời diễn tả uớc muốn thành thực trở lại cùng Người. Nói cách cụ thể, đây là dịp thuận tiện để người tín hữu bắt đầu đi trên con đường khổ hạnh cho đến "Tam Nhật Vượt Qua", trung tâm điểm của Năm Phụng Vụ. Nghi thức Xức Tro nhắc nhở người tín hữu “Ngươi là bụi tro, và sẽ trở về với tro bụi" (St 3, 19), vì thế “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).
Theo Thánh Kinh, tro được dùng làm biểu tượng của sự hối tiếc, ăn năn. Một số nhân vật trong Thánh Kinh đã phủ bụi tro lên người để bày tỏ lòng sám hối về những tội lỗi và sai lầm của mình. Ông Gióp đã thưa với Chúa: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.” (G 42, 6); ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã kêu gọi dân It-ra-en thể hiện sự ăn năn: “Thiếu nữ dân tôi ơi, quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi.” (Gr 6, 26); Tiên tri Đa-ni-en cũng bày tỏ lòng thành khẩn của mình với Đức Chúa: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9, 3); vua Ni-ni-vê bày tỏ lòng ăn năn sám hối bằng cách ngồi trên tro (Gn 3, 6). Chính Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh “mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” để nhắc nhở các thành (Kho-ra-din và Bết-sai-đa) đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Mt 11, 21; Lc 10, 13).
Ngoài ra, theo truyền thống xa xưa của Giáo Hội, tất cả mọi tín hữu, trong ngày thứ tư lễ Tro, đều phải giữ chay và kiêng thịt. Việc ăn chay có một giá trị lớn trong đời sống Đạo của người Ki-tô hữu, là một đòi hỏi của tinh thần, nhắm đến tương quan mật thiết với Thiên Chúa (được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng Cứu Tinh Giê-su Ki-tô – Rm 8, 29; Pl 3,10). Thật vậy, những khiá cạnh bên ngoài của việc ăn chay, dù quan trọng, nhưng chưa nói lên đầy đủ ý nghĩa của việc thực hành nầy. Điều quan trọng hàm chứa bên trong mới thực sự là chiều kích tối hậu: Đó là ao uớc chân thành muốn được thanh tẩy nội tâm, muốn sẵn sàng vâng nghe thánh ý Thiên Chúa và sống tình liên đới với anh chị em, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay với mục đích thờ phượng Thiên Chúa, để được Người nhậm lời khi cầu nguyện, đồng thời để khu trừ ma quỉ, để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Thánh Gio-an Tẩy Giả thi vào hoang địa mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong sa mạc” loan báo Tin Mừng. Đức Giê-su Thiên Chúa thì ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.
Thật không thể ngờ cách đây hơn 25 thế kỷ, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (Is 58, 6-7). Ngài lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để đôi co cãi vã, hoặc đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?” – Is 58, 3-5).
Cách ăn chay của ngài khác hẳn một trời một vực: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể. Ăn chay còn thể hiện những khao khát hòa bình: Thiên hạ "sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” (Is 2, 4).
Ăn chay phải là: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2, 12-13). Xé áo chính là hình thức ăn chay của bọn đạo đức giả như Lời dạy của Đức Giê-su: "Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 16-18).
Vâng, Mùa Chay chính là mùa nhìn lại chính mình, xét tật mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát bụi tro mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Xét tật mình để thấy rằng mình tội lỗi ngập đầu, cần phải biết ăn năn sám hối, hoán cải cuộc đời, nói cách khác là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm sám hối)”.
Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” – 1Cr 13, 3).
Trong Sứ điệp Mùa Chay 2015 (phần kết), ĐTC Phan-xi-cô viết: “Vì thế, anh chị em thân mến, tôi muốn cùng với anh chị em cầu xin Chúa Ki-tô trong mùa Chay này: "Fac cor nostrum secundum cor tuum”, xin làm cho trái tim chúng con được nên giống Trái Tim Chúa” (Lời cầu trong Kinh cầu Thánh Tâm Chúa Giê-su). Như thế chúng ta sẽ có một con tim mạnh mẽ và từ bi, tỉnh thức và quảng đại, không để nó khép kín vào mình, không rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng.” Người Ki-tô hữu cần nhận chân việc “xét tật mình” chính là để nhìn cho rõ con người thật của mình, không khép kín trong tính vị kỷ để “rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng”, mà là mở rộng trái tím ra với Chúa và với tất cả anh em.
Vâng, hãy thực sự nhìn lại mình, xét tật mình, mà ăn năn sám hối những điều sai phạm đã mắc phải (đối với Thiên Chúa và với anh em), quyết tâm đổi mới con người của mình trong “mùa chay cuộc đời”. Chỉ có như vậy mới xứng đáng là con Thiên Chúa và là bạn của Trưởng Tử Giê-su (Ki-tô hữu). Cũng bởi vì: “Mùa Chay là một mùa canh tân đối với Giáo hội, các cộng đoàn và mỗi tín hữu. Nhưng trên hết mùa Chay là một mùa ân thánh (2Cr 6, 2). Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta điều gì mà trước đó Ngài không ban cho chúng ta.” (Mở đầu sứ điệp Mùa Chay 2015). Ước được như vậy.
Ngày nay Giáo Hội Công Giáo chỉ buộc các tín hữu ăn chay mỗi năm 2 lần mà thôi. Điều ấy thật hữu lý vì ăn chay phải mang tính tự nguyện chứ không thể ép buộc. Phải tin chắc rằng Chúa muốn người tín hữu ăn chay nhiều hơn, thậm chí ăn chay trong suốt cả lộ trình trần thế, bằng cách ăn năn sám hối vì tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời thực hành đúng Lời Chúa dạy: “Gặp anh em đói thì cho ăn, khát thì cho uống, anh em là khách lạ thì tiếp rước tử tế, anh em trần truồng thì cho mặc, đau yếu thì tới viếng thăm, bị tù đày thì hỏi han chia sẻ” (Mt 25, 35-37).
Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng và thêm sức cho chúng con để chúng con dám mạnh dạn XÉ LÒNG CHỚ KHÔNG XÉ ÁO khi bước vào Mùa Chay Thánh. “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro).
66.Tro bụi--Lm. Vinh Sơn
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Thưa cha, cha biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Cha có biết tại sao con mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
- Đây là tội của con. Tội con không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào con có thể được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha... bắt đầu bằng tâm tình sám hối qua việc xức tro.... Tại sao phải xức tro và tro có ý nghĩa như thế nào?
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng con người đầu tiên là nguyên tổ Ađam (x. St 2, 7) và sau khi nguyên tổ phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa đã phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19), thân phận con người thật mỏng dòn rồi sẽ thoáng mất đi, nhà thơ Miên Du xác tín khi dẫn vào bài thơ Rồi Mai Đây:
“Rồi mai đây, ta đi về cát bụi,
Đời bâng khuâng, chỉ một thoáng ngậm ngùi.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dù không là người Kitô hữu, có lẽ ông lấy nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh khi dùng hình ảnh "hạt bụi" để nói về thân phận con người được cát bụi hóa kiếp thành con người rồi sẽ trở về với bụi đất:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi…
… Ôi cát bụi phận nầy,
vết mực nào xóa bỏ không hay”
(Trịnh Công Sơn, Cát Bụi)
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro, bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi, sự mỏng dòn của con người, sự khiêm tốn, nỗi đau khổ và cả sự thống hối ăn năn khi con người đã lỡ vấp phạm.
Trái tim và tấm lòng của người tội lỗi được ví như là bụi tro, sách Khôn Ngoan có nói rằng: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15, 10), không gì tệ hơn bùn đất, tro bụi, con người tội lỗi được ví như tro bụi. Cho nên người tội lỗi sẽ bị tiêu hủy thành bụi đất như Ngôn sứ Edêkien loan báo Sấm ngôn: “Vì ngươi chồng chất tội…. Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu rụi ngươi; Ta biến ngươi thành tro bụi trên mặt đất…” (Ed 28, 18).
Tro bụi biểu hiện sự khiêm tốn bé nhỏ, Tổ Phụ Abraraham nhìn nhận mình trước Thiên Chúa: “con chỉ là thân tro bụi….” (St 18, 2).
Tro bụi được sử dụng để nói nên sự thống hối: Sau khi nghe tiên tri Giona loan báo sự trừng phạt của Thiên Chúa xuống thành Nivive do tội lỗi, Vua và toàn Dân xức tro để tỏ lòng thống hối vì lỗi lầm mà mình đã phạm, xin Thiên Chúa xót thương (x. Gn 3, 6). Dù là người vẹn toàn giữa thử thách, Gíop cũng biểu lộ lòng thống hối: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn (G 42, 6). Tro bụi với sự biểu hiện lòng hối tiếc khi phạm tội (x. Gdt 4, 11-15; Ed 27, 30).
Tro bụi nói lên sự buồn phiền đau khổ: bị người đời khinh chê, Thamar đã xức tro trên đầu (x. G 42, 6; Gn 3, 6; Mt 11, 21); theo sách Étte, người Do Thái xức tro khi lo sợ trước cái chết đe dọa (Et 6, 1-4).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng Thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “Bụi Tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Đức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590-604). Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây Phương vào thế kỷ 10, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội tại Công Đồng Benevento năm 1091. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết: trở về với tro bụi và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng dòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, Thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: "Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất" (St 3,19), hay Thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đổi mới theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với Dấu Thánh Giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người Tín Hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được liệt vào con cái của Thiên Chúa (x. Rm. 6, 3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết và phục sinh với thập giá, con người sẽ tham dự vào vinh quanh với Ngài.
Cho nên việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong Sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Kitô khải hoàn, như Enzo Bianchi đã suy niệm về Tro bụi: “Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hay nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale: “một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh” (Donner sens au temps, Bayard (2004).
Cho nên, thật là ý nghĩa trong ngày thứ tư đầu mùa chay, khi lãnh nhận tro, chúng ta nhớ lại lời dạy của ĐTC Gioan Phaolo II: "Việc đặt tro rõ ràng và một cách nhấn mạnh đến thân phận thụ tạo, nhìn nhận mình hoàn toàn lệ thuộc vào Tạo Hóa. Hành động khiêm tốn lãnh nhận tro thánh trên trán… ngược lại hoàn toàn với cử chỉ kiêu ngạo của Adam và Eva, bởi sự bất tuân phục, đã phá hủy mọi quan hệ tình bạn hữu với Thiên Chúa tạo hóa" (Thứ tư Lễ Tro 1998).
Xức tro nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá…
Vâng, với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với Dấu Thập Giá - trở nên dấu vinh quang.
67.Chúa Nhật I Mùa Chay--Giáo phận Nha Trang
"Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ và các thiên thần hầu hạ Người"
I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay có hai ý tưởng chính:
- Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó.
- Chúa Giêsu khởi sự Tin Mừng bằng việc rao giảng để nói lên mệnh của Người ở trần gian.
II. SUY NIỆM:
1/ "Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa":
+ Thánh Thần thúc đẩy: Sự kiện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã nhận Thánh Thần dưới hình chim bồ câu. Thánh Thần chỉ sức mạnh, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và chịu sự cám dỗ: Điều này nói lên việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với ma quỉ bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
+ Hoang địa: Theo nghĩa Thánh Kinh thường dùng là nơi sống thần linh với Thiên Chúa, đồng thời cũng là nơi thử thách để thấy rõ lòng người có trung tín hay không (Ga 18, 2 - 3). Ở đây Mc muốn nói lên ý nghĩa thứ hai này hơn là nghĩa thứ nhất: Cuộc thử thách Chúa Giêsu chịu là cuộc thử thách về lòng trung tín đối với Cha Người trong thân phận tôi tớ nhân loại mà Người đã đảm nhận.
+ Và Người ở đó suốt 40 đêm ngày: Người Do thái có thói quen ăn chay ban ngày, rồi ăn uống về đêm. Ở đây nói 40 đêm ngày để chỉ ý tưởng ăn chay liên tục cả đêm lẫn ngày.
+ Chịu Satan cám dỗ: Satan là tên Kinh Thánh gắn cho các lực lượng thù nghịch với Thiên Chúa mà mỗi người đều gặp phải trong thế gian. Nhận lấy thân phận con người, Chúa Giêsu cũng gặp phải sự cám dỗ của Satan. Nhưng cần phân biệt ba giai đoạn của một cơn cám dỗ:
+ Gợi lên một hình ảnh.
+ Làm cho thích thú hoặc hướng chiều về sự ác.
+ Sau cùng là ưng thuận.
Satan chỉ có thể làm được nơi Chúa Giêsu giai đoạn thứ nhất: gợi một hình ảnh hoặc một vật ở giác quan hoặc ở trí tưởng tượng. Ở đây Mc không ghi lại sự diễn tiến cơn cám dỗ của Chúa như Mt và Lc (Mt 4, 1 - 11 ; Lc 4, 1 - 13).
+ Sống chung với dã thú: Nói lên tình trạng an ninh, thái bình trong một thế giới mới trong tương lai do Chúa Giêsu thiết lập, trong đó con người được giao hoà lại với toàn thể tạo vật. Thế giới này đã được các tiên tri loan báo (Is 11, 6 - 7 ; 65, 25...)
+ Và các Thiên thần hầu hạ Người: Việc các Thiên thần hầu hạ Chúa Giêsu muốn nói lên rằng trong thế giới mới mà Chúa Giêsu đến để thiết lập cho nhân loại do sứ mệnh Thiên Sai của Người, con người được giao hoà lại với tạo vật (sống chung với dã thú) và giao hoà lại với Thiên Chúa (có các thiên thần hầu cận). Đó là Nước thiên đàng.
2/ "Sau khi Gioan bị bắt":
Việc Gioan bị bắt nói lên sứ mạng Tiền sứ của ông được chấm dứt chuyển sang thời Chúa Giêsu, thời thực hiện ơn cứu chuộc, thời Thiên sai, thời thực hiện những gì Gioan đã dọn đường.
3/ "Chúa Giêsu sang xứ Galilê rao giảng Tin Mừng":
Sau khi sứ mạng của Gioan chấm dứt, Chúa Giêsu khởi sự sứ mạng Thiên sai của Người bằng việc rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa.
Nội dung của Chúa Giêsu rao giảng:
+ Thời giờ đã mãn: Thời giờ Thiên Chúa dự liệu từ đời đời để Nước Người trị đến thì nay đã đến. Hay nói cách khác, thời gian chuẩn bị cho việc Chúa Cứu Thế đến cứu rỗi nhân loại nay đã hết. Gioan Tiền hô là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu ước.
+ Nước Thiên Chúa đã đến gần: Kiểu nói "đã đến gần" ở đây diễn tả một hành động đã xẩy ra nhưng hiệu quả chưa hoàn tất. Nước Thiên Chúa được hiểu là Thiên đàng (Nước ở trên trời) và Giáo Hội ở trần gian được Chúa Giêsu thiết lập ở dưới đất để làm nơi Thiên Chúa ngự trị. Nước này đã gần đến vì Chúa Giêsu sắp bắt đầu rao giảng để dọn lòng con người thực hiện những điều kiện để vào Nước đó.
+ Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng:
Sám hối: Là hối tiếc lỗi lầm để làm biến đổi cuộc sống, ghét bỏ con người cũ đầy tội lỗi của mình để biến đổi thành con người mới, con người thuộc về Tin Mừng của Thiên Chúa. " hãy sám hối " mang ý nghĩa mời gọi và chất vấn, đòi hỏi người nghe phải có thái độ lựa chọn để quyết định cho số phận của mình.
+ Tin vào Tin Mừng: Tin Mừng có nghĩa là tin vui từ trời đem xuống làm cho con người biết được thánh ý của Thiên Chúa, tin đó chính là đức Giêsu Kitô. Tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, đã đến thế gian để cứu chuộc nhân loại.
Chú ý: Chúa Giêsu khởi sự rao giảng giống như Gioan Tiền hô: Thời giờ đã đến, hãy thống hối (Mc 1, 4). Nhưng Chúa Giêsu đã đi xa hơn, Người đòi hỏi phải tin vào Tin Mừng, tức là tin vào Người.
III. ÁP DỤNG ;
A) Áp dụng theo Tin Mừng:
Khởi đầu mùa chay, Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để nhắc nhủ chúng ta rằng: Muốn tham dự vào Nước Trời, cần phải ăn năn thống hối và phải tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và quyết tâm thực hành những điều Người dạy.
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy: Chúa Giêsu sống và chiến đấu do sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng ta muốn sống trung thành với Chúa và chiến đấu với những cám dỗ hằng ngày do ma quỉ gây ra, chúng ta cần khiêm nhường cầu xin và sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta qua tiếng lương tâm chân chính, qua những trung gian là Giáo Hội, là bề trên, là những gương sáng...
Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng cám dỗ. Nhờ đó Chúa đã làm gương và dạy ta những bài học chiến đấu cách can đảm với những cơn cám dỗ do những lôi cuốn của trần gian làm cho ta xa Chúa và xa lý tưởng hiến dâng cuộc đời...
B) Áp dụng thực hành:
Nhìn vào Chúa Giêsu để noi gương bắt trước:
1/ Chúa Giêsu đã mang tất cả những điều kiện hiện sinh của con người. Chịu cám dỗ nhưng Người vẫn sống trong tình trạng an ninh thái bình " sống chung với dã thú và được các thiên thần hầu hạ ". Nếu chúng ta bám chặt vào Chúa và mang trong cuộc sống tất cả tinh thần của Chúa Giêsu thì dù có trải qua thân phận, hoàn cảnh bi đát nào chăng nữa, thì chúng ta cũng luôn chiến thắng và bình an trong tâm hồn.
2/ Chúa Giêsu vào hoang địa: là nơi tiếp xúc và sống thân tình với Thiên Chúa Cha. Điều này cho chúng ta thấy rằng: Những yếu tố như tĩnh tâm, thinh lặng cầu nguyện, khổ chế... đều là những điều kiện giúp chúng ta dễ dàng tiếp xúc với Thiên Chúa. Dễ dàng nghĩ thấy và nhận ra đường lối Chúa muốn ta đi. Mùa Chay là bầu khí thuận tiện để ta làm việc đó.
3/ Chúa Giêsu chịu cảnh cám dỗ để dạy chúng ta rằng cám dỗ là thử thách để tôi luyện lòng trung tín của ta đối với Chúa. Cám dỗ có lợi cho ta vì:
+ Lập công phúc khi chiến thắng cám dỗ.
+ Sống khiêm nhường và nhận ra sự bất lực của mình để trông cậy vào Chúa.
+ Thúc đẩy cầu nguyện: Vì trong khi bị cám dỗ, Chúa ban nhiều ơn hơn để giúp chúng ta biết cầu nguyện.
+ Sau cám dỗ có an ủi vì "Gieo trong đau thương, gặt trong vui mừng" (Is 125, 5).
68.Chúa Nhật I Mùa Chay--Học viện Piô Giáo hoàng
CHIẾN THẮNG Ở SA MẠC – CHIẾN ĐẤU TẠI GALILÊ
Tin mừng Mc 1: 12-15: Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu khởi sự Tin Mừng bằng việc rao giảng để nói lên mệnh của Người ở trần gian.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Trình thuật kép này (Chúa Giêsu chịu cám dỗ- Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng) là kết luận của Bài tựa Tin Mừng Mc. Phải hiểu điều ấy ra sao?
2. Đâu là văn thể của trình thuật? Thần thoại? Khải huyền? Lịch sử? Thần học –lịch sử?
3. Các yếu tố chính của trình thuật được xếp đặt quanh yếu tố chủ chốt nào?
4. Trong ngôn ngữ biểu tượng của Mc, "dã thú" và "thiên thần" có ý nghĩa gì?
5. Dựa vào đâu để biết trình thuật có nền tảng lịch sử?
6. Trình thuật có thể đưa ra sứ điệp nào cho con người thời nay?
(Xin lưu ý: các tiểu đề trong bài này là của dịch giả)
Với vẻ vắn gọn của trình thuật, Mc đã nhắm trình bày Chúa Giêsu như là một con người đã từng đương đầu với hoàn cảnh bi đát chung của nhân loại hay không? Để biết được ý hướng Mc về điểm này, cần tìm hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ biểu tượng ông dùng khi nói đến thiên thần và dã thú, cùng khảo sát xem tại sao Chúa Giêsu, vừa được loan báo báo , bởi Gioan Tẩy giả và được xác nhận trong phép rửa như Đấng Messia, lại phải chịu thử thách như thế.
Ít nhất, có một điểm khá rõ rệt là thánh sử không nhắm mục đích thỏa mãn mọi hiếu kỳ của độc giả ông, vì ông không tường thuật ngay cả cuộc cám dỗ. Điều này đã khiến các nhàchú giải đặt ra câu hỏi như sau: phải chăng Mc đã loại bỏ phần này của trình thuật, vốn có trong Mt và Lc, hay Mt và Lc đã tán rộng yếu tố căn bản mà họ có chung với thánh sử thứ hai? Đặt vấn đề như vậy, ý hướng Mc, theo các nhà chú giải ấy sẽ lộ ra dễ dàng; nhưng điều quan trọng vẫn là ông đã đưa ra bản văn như hiện thấy và chính vào cái hình thức dứt khoát này mà ta phải chú ý hơn cả.
Giai thoại cám dỗ, trong sách bài đọc hiện tại, được một câu nói về việc rao giảng của Chúa Giêsu đi kèm theo. Sự chắp nối này có thể làm vài người ngạc nhiên, vì giọng văn có vẻ thay đổi. Xin độc giả hãy xem đó như một lời mời gọi đừng lướt nhanh qua các câu vốn có một tầm mức và ý nghĩa rất hiện thực này.
I. VĂN MẠCH CỦA TRÌNH THUẬT
Nếu rảo qua văn mạch trực tiếp của hai trình thuật "cám dỗ" và "Chúa Giêsu rao giảng" hôm nay, ta sẽ thấy chúng là kết luận của Bài tựa Mc gán cho Tin mừng của ông, và chính đấy là điểm làm cho ý nghĩa của chúng được sáng tỏ.
Cuộc cám dỗ là thành phần của bài nhập đề cho "Tin mừng Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1). Nó rõ ràng gắn liền với phép rửa nhờ chi tiết "Thần khí", Đấng can thiệp trong cả hai trường hợp. Thành thử phải hiểu nó trong tương quan với việc ban Thần khí biểu lộ nơi kẻ mà Gioan Tẩy giả đã loan báo như là "Đấng quyền thế hơn". Sở dĩ Chúa Giêsu được mặc khải trong phép rứa như là kẻ Thần khí chiếm lấy, chính là để tỏ ra "mạnh mẽ" trước Satan. Thành thử mục đích của trình thuật là phải cho thấy Người chiến thắng, để Tin mừng không chỉ được loan báo nhưng còn tỏ ra là đang được thể hiện. Đấy là điều được xác nhận trong giai thoại tiếp theo
giai thoại cho thấy sức mạnh của Chúa Giêsu bộc phát thành hành động trong việc xua trừ ma quỷ (1,23). Tin mừng là sự tỏ mình cụ thể của Đấng thánh Thiên Chúa, Đấng chiến thắng sự dữ, Satan.
Còn bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Chúa Giêsu thì xuất hiện như một suy tư rút ra từ những kết luận từ những điều được đề cập trong hai giai thoại trước là phép rửa và Cám dỗ: nếu Nước Thiên Chúa (Triều đại Thiên Chúa) đã bắt đầu hoạt động trong giai đoạn mời và dứt khoát của nó, và Nước ấy là mạnh nhất, thì phải công nhận và tin vào Tin Mừng. Các câu này hai lần nhấn mạnh đến Tin mừng vì kêu mời hối cải; chúng lặp lại, dưới hình thức đóng khung, điều đã được nói ở nơi các câu 1 và 4. Thành thử rõ ràng chúng nằm đúng trong văn mạch, không thể chối cãi, và ta nên lấy làm hối tiếc là, trong một vài bản dịch, chúng xem ra quá bị tách rời với những gì đi , về phép rửa cũng như về cơn cám dỗ Chúa Giêsu chịu, các độc giả Tin Mừng đã biết Chúa Giêsu là ai, quyền lực Người thế nào và một thời đại mới đã bắt đầu với Người ra sao, thì ta hiểu được Tin mừng đó sẽ gây nên những gì cho con người, khi nó bắt đầu được loan báo cho họ. Mỗi một chi tiết của bản văn đều đáng giải thích để làm nổi bật tất cả ý nghĩa của giai đoạn này.
Trước hết là những chi tiết thời gian và không gian mở đầu cho lời kêu gọi Chúa Giêsu tung ra. Để hiểu tất cả tầm quan trọng của các chi tiết này, phải tìm xem đâu là ý nghĩa thần học chúng có thể chứa đựng. Lời Chúa Giêsu kêu gọi sắp đánh dấu khởi điểm cho một thời đại mới. Thời gian đi trước là Cưu ước mà tâm điểm là Gioan Tẩy giả, với những yếu tố phải nói là riêng biệt của ông. Thật vậy, Gioan không còn ngỏ lời, như các ngôn sứ tiền bối, cho một dân tộc, nhưng cho những cá nhân là thêm vào lời mình một phép rửa; sau cùng, ông loan báo một người mà trên đó Thần khí sẽ đậu lên. Suốt một thời gian ngắn, Chúa Giêsu đã đồng hành với ông, nhưng phép rửa Người chịu đã dẫn một trật tự cũ đến chỗ hoàn hảo của nó, thành thử đã đến lúc mặc khải thời đại mới đang bắt đầu: thời đại của "Triều đại, cánh chung trong con người Chúa Giêsu. Từ ngữ "Triều đại này xem ra đáng chuộng hơn từ ngữ "Vương quốc" (nước) là tiếng đúng ra chỉ thực tại phát xuất từ triều đại đó. Bảo rằng Chúa Giêsu đến trong một vùng khác và rằng việc này trùng hợp với việc tống giam Gioan Tẩy giả, ấy là gợi lên những tương đồng dị biệt giữa lối sống và lời rao giảng của hai con người tương ứng với hai thời đại. Cả hai đều loan báo một biến cố đảo lộn sắp xảy ra; cả hai cùng rao giảng sự hối cải. Nhưng, ngoài việc đã làm những điều trên với một sắc thái riêng, Chúa Giêsu còn mang đến nhiều yếu tố mới. Gioan đã nói ở thì tương lai: "người sẽ thanh tẩy các ngươi" (c.8), Chúa Giêsu nói ở thì hiện tại: "Nước Thiên Chúa đã gần đến" (c 15); hơn nữa, Người yêu cầu hãy "Tin vào Tin mừng". Thành ra không còn vấn đề chuẩn bị cho một biến cố, nhưng là tiếp đón nó vì nó đã ở đấy rồi.
Còn về vùng đất mới nơi xảy ra cuộc tấn công đầu tiên nhằm giải phóng con ngươi khỏi đau khổ, sự ác và cái chết, làm sao lại không thấy có ý nghĩa đối với Kitô hữu? Theo truyền thống mà Mc tùy thuộc, chẳng phải là ở tại Galilê mà Chúa Giêsu đã hẹn tái ngộ với các môn đồ để cho thấy mình vẫn sống sau Phục sinh sao (16,7)? Đối với thánh sử, vùng đất này có một ý nghĩa thần học. Ông coi nó là nơi mà cuộc sống Chúa Giêsu đạt tới một cao điểm. Đó là nơi đã bắt đầu việc rao giảng Nước Trời" (cc. 14-15), nơi mà các môn đồ đầu tiên được kêu gọi (1,17), nơi dân chúng từ khắp chốn tuôn đến (3,7-8), nơi mà sự thống nhất đất nước sẽ được tái lập (7,31). Rồi nó tạm thời xuống giá vì cái chết Gtêrusalem. Nhưng sau đó một thời đại mới sẽ bắt đầu trên dân Galilê, nghĩa là trên mọi nơi mà Tin mừng Thiên Chúa sẽ vang dội. Thành ra thánh sử, đầy niềm xác tín như vậy khi đọc lại lịch sử quá khứ, muốn làm nổi bật điều này là Tin Mừng đó, trong thực tế, dã bắt đầu vang dội từ thời gian sống tại thế của Chúa Giêsu khi, lần đầu tiên, Người khởi sự tại Galilê sứ vụ của Người. Vì vậy ông thêm câu "rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa" (c.14) và đặt trong những chữ này tất cả nội dung toàn vẹn của đức tin Kitô giáo.
Nhưng Tin Mừng này đã bắt đầu như thế nào? Thời buổi đã mãn và Nước thiên Chúa đã kề bên", bản văn nói. Các từ ngữ này chất chứa nhiều ý niệm chính xác và nhiều mầu nhiệm. Nhiều ý niệm chính xác vì nước Thiên Chúa" là một yếu tố cốt yếu của Cựu ước nói lên quyền tối thượng của Thiên Chúa trong việc hiện diện giữa lịch sử con người là ta thu hút tất cả niềm hy vọng của lịch sử đó. Ban đầu, nỗi mong chờ được quy hướng về việc xuất hiện của một người con Đavít, từ thời lưu đày là của một tôi tớ chưa mang ơn cứu rối và niềm vui Is 61, 11 và, sau cùng trong giai đoạn gần nhất là của một "Con người", hữu thể thiên giới, sự nhân cách hóa của thế giới con người được thông ban chính các ân huệ thần linh, và là Đấng sẽ xét xử mọi vương quốc trần thế (Đn 7,13-l4) khi thời buổi đã mãn. Niềm hy vọng này càng trở thành mãnh liệt hơn khi dân phải đương đầu với những nghịch cảnh và khốn khó đủ loại. Nhưng nó đã mang hình thức sự mong chờ một biến cố khả giác, có tính cách đảo lộn bên ngoài.
Chính Gioan, theo lời Mt và Lc, cũng tỏ ra chia sẻ quan niệm này (Mt 3, 12 ss). Thế mà đó chính là chỗ nổi bật khía cạnh mầu nhiệm của nước Chúa Giêsu nói. Người không trình bày nó như trên; Người bảo nó "đã tới rồi" và tuy thế "vẫn còn sẽ đến". Thật vậy, đấy chính là ý nghĩa của thành ngữ "đã gần bên" (hay đang đến gần"), một động từ hy lạp ở thì parfait, nghĩa là ở một thì diễn tả một hành động đã xảy ra song hiệu quả còn tồn tại. Thành thử đây là một thực tại mọi, tự phô bày một cách chẳng ai ngờ. Không hẳn là vô hình hay nội tâm, đặc điểm của thực tại này là đang xuất hiện. Nó xem ra nhắm chính Chúa Giêsu nhắm bản thân của Người, vốn đang khởi sự mặc khải một điều gì đó về thần tính ở trong Người, về tình yêu vô biên đang xuất hiện dưới hình thức dấu chỉ qua các hành vi và lời Người nói. Thành ra Nước Trời đã có đó với Người. Nhưng để sinh công hiệu, nó cần phải được tiếp đón.
Mầu nhiệm Nước Trời nằm trong thái độ của con người đứng trước việc nó xuất hiện. Nó là hồng ân ban nhưng không cho con người dầu-con người chẳng đáng. Nhưng nó chỉ trở nên hữu hiệu nếu đtíợc tiếp đón và, do đó, tất cả đều tuỳ thuộc con người. Nó được trao ban chứ không được áp đặt. Muốn tiếp nhận nó thì phải cưỡng bức chính mình (như Mt 11,12 có nói), phải chấp nhận chiến đấu vì chính mình, phải cởi mở ra với một thực tại vượt quá tất cả những gì mà con người có thể đạt tới tự sức riêng.
Chính so với thực tại này mà tất cả mọi thành ngữ khác như "thời buổi đã mãn", "hãy hối cải" mới có được ý nghĩa.
"Thời buổi đã mãn là thành ngữ lấy lại một trong những tiếng mà các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã áp dụng (x Gl 4,4; Ep 1,10) vào việc Chúa Giêsu thực hiện ơn cứu độ trong cuộc khổ nạn vinh hiển của Người. Khi đưa từ ngữ này về lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu, thánh sử muốn nói lên, như khi dùng chữ "Tin mừng của Thiên Chúa", cái suy tư của Kitô hữu về tính cách thời sự của các sự kiện và cử chỉ Chúa Giêsu. Ông lấy lại, để khai triển, ý nghĩa của thời sau cùng" là Cựu ước đã chờ mong, hay nói cách khác của "việc Thiên Chúa giá lâm" để chia sẻ cách dư tràn các điều thiện hảo của Ngài cho nhân loại. Như vậy lịch sử có hai chiều kích ; một thuộc thời gian thực tế mà con người có thể ghi dấu bằng dụng cụ hay bằng tâm lý, và một thuộc thời gian thần học, thời gian được sống khi đón nhận Nước Trời, nghĩa là khi mặc cho hoạt động nhỏ bé nhất của nó một giá trị vĩnh cửu. Thời gian này không thuộc về niên biểu: bất cứ lúc nào nó cũng gần gũi con người. Để đi vào đó, chỉ cần đón nhận Nước Trời. Nhưng đi vào đó là đi vào trong một biến chuyển, bởi vì Nước Trời là một thực tại không ngừng đến là chẳng phải được đón nhận một lần là xong nhưng cứ luôn mãi. Nó là một thực tại đang triển nở, một lịch sử phải hoàn thành cách tự do chứ không là một cái gì đóng kín, chỉ nhận một lần là xong xuôi. Chúa Giêsu không ngừng đến. Cái xuất hiện bên ngoài, chính là các dấu chỉ, các lời kêu gọi của thế giới thời mới mà Người mang tới, những đau khổ, tội ác và sự chết vẫn không biến mất đi. Thành thử thời đại "cuối cùng" đã đến nhưng nó chỉ mới bắt đầu và những kẻ đi vào đó bằng đức tin thì vẫn luôn hướng về sự hoàn thành dứt khoát của nó. Tin, chính là tung mình vào cuộc mạo hiểm đó vậy.
Đứng trước thực tại này, ta có thể hiểu ý nghĩa lời rao giảng hãy hối cải. Động từ Hy lạp dịch ra như thế chẳng có nghĩa là "hối tiếc lỗi lầm" những tiên vàn là "thay đổi tất cả não trạng". Đây là lời mời gọi chọn một thái độ trước cái tin chưa từng nghe: trong Chúa Giêsu tỏ hiện một quyền năng siêu phàm, quyền năng của chính Thiên Chúa, một quyền năng phục vụ con người bất cứ mọi lúc. Nói cách khác, một địa hạt được mở ra cho con người, để họ đi vào một sự sống cao hơn. Họ phải làm gì trước cái đang trình bày cho họ như một biến cố hiện thực ấy? Họ hãy hối cải! Thật vậy, "hãy hối cải chính là lời của những người đầu tiên rao giảng tin vui "Chúa Giêsu phục sinh" (x.Cv 2,38; 3,19...). Sở dĩ họ kêu gọi hối cải, chính là vì họ loan báo trước tiên một biến cố có tính cách chất vấn, mời gọi.
"Hãy tin vào Tin mừng''. Đây là tất cả chương trình được thảo theo cách nói Kitô giáo, của những chiến dịch Chúa Giêsu tung ra tại Galilê. Người kêu gọi hãy tin vào cái tin này là: Thiên Chúa ở đây, bây giờ, với Người, để đưa nhân loại vào một thực tại có sức đánh đổ đau khổ. Sự ác và cái chết mà họ không ngừng vấp phải. Con người được kêu mời tin tưởng hơn hết vào sự sống, là quyền năng đang hoạt động trong thế gian nhưng không bị giam hãm trong thế gian, mà còn vượt lên trên nó và đang hiện diện trong biến cố Giêsu. Tóm lại, đây là một lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu. Đang liên kết và hiệp thông với một vị cao cả hơn loài người mà Người gọi là Thiên Chúa.
IV. NỀN TẢNG LỊCH SỬ CỦA TRÌNH THUẬT
Như ta đã thấy, trình thuật Cám dỗ, được Mc thu gọn thật đơn giản, và bản toát yếu dẫn vào giai đoạn tiếp theo đều phản ảnh một suy tư của cộng đoàn Kitô giáo. Phải chăng vì thế mà chúng thiếu nền tảng lịch sử?
1. Nếu cuộc cám dỗ Chúa Giêsu chịu xảy ra lúc người ở "trong sa mạc", thì không ai khác chứng kiến được ngoài người. Thành thử để sự kiện được biết, Người đã cần phải nói cho hay. Trong trường hợp này, các thánh sử có thói quen chỉ rõ bằng cách đặt giáo huấn trên miệng Chúa Giêsu. Vậy mà ở đây chẳng có gì như thế. Trình thuật ở ngôi thứ ba, thành thử người ta bắt buộc phải tìm trong Tin mừng xem chỗ nào xuất hiện một lời tâm sự của Chúa Giêsu liên quan đến chướng ngại mà sứ mệnh Người phải chịu do sa tan. Và tự nhiên, quang cảnh Xêdarê hiện ra trong trí (8,27-34). Chắc chắn chính nhân cơ hội điều chỉnh những quan niệm quá ư nhân loại của các sứ đồ về sứ mệnh Messia của Người, mà Chúa Kitô đã mặc khải được tính cách chiếu đấu của sứ mệnh đó hầu may ra giáo huấn Người ít nhất được giữ lại. Và vẫn biết sau đó, trong ánh sáng dứt khoát của Phục sinh, giai thoại cám dỗ đã mặc ý nghĩa một cuộc chiến đấu điển hình mở đầu cho mọi cuộc chiến đấu khác Chúa Giêsu đã phải trải qua cho đến lúc lìa đời. Nhưng chỗ đứng của nó ở nơi này có lẽ đã chẳng được truyền thống bịa đặt. Chắc chắn nó bắt nguồn từ một sự kiện Chúa Giêsu đã sống. Ngoài ra kể cũng lạ nếu cộng đoàn sơ khai, vốn xác tín vào quyền năng của Chúa mình, lại sáng tác một câu chuyện cho thấy Người phải khổ sở với thân phận chung của nhân loại.
Có nhiều lý do bắt ta phải nhận là sự kiện đã có. Vì Chúa Kitô đến thiết lập trong bản thân Người một Israel mới, nên ta hiểu được là theo gương của Israel cũ sau khi vượt qua biển đỏ. Người cũng nếm biết thử thách của sa mạc và cơn cám dỗ sau khi chịu rửa xong. Sự kiện có tính cách biểu tượng thật, nhưng chỉ bộc lộ tất cả ý nghĩa nếu nó đã thực sự xảy ra.
Nó nằm trong đường hướng của một ý thức hy sinh của Chúa Giêsu về sứ mệnh mình. Thường thường nơi mỗi còn người sắp bước vào một cuộc đời chiến đấu, thì trước lúc đó, bao giờ họ cũng cảm thấy phải thử sức mình đã. Tại sao Chúa Giêsu lại không tuân theo định luật nhân loại này? Ngược lại, ta có thể nghĩ rằng Người đã ám chỉ điều đó trong dụ ngôn của Người về kẻ mạnh (3,27).
Sau hết, nếu nhìn lại bối cảnh lịch sử của việc Chúa Giêsu xin Gioan làm phép rửa và ý thức một cách dứt khoát sứ mệnh Người sẽ như thế nào, thì ta sẽ có thể hiểu được cám dỗ của Chúa Giêsu. Thật vậy, dầu đã tiêm nhiễm những trào lưu nào chăng nữa não trạng bình dân vào quan niệm Đấng Messia như là kẻ đến biểu dương một quyền lực trực tiếp có tính cách chính trị và xã hội. Thành thử Chúa Giêsu thấy mình bị bắt buộc phải từ khước nhtĩng ngụy tạo về sứ mệnh mà chung quanh sẽ không ngừng khiêu khích Người.
Trên bình diện lịch sử tính, chẳng có gì lạ lùng nếu ta đi xa hơn nữa và đặt câu hỏi xem trong cụ thể, cuộc cám dỗ Chúa Giêsu trải qua đã xảy ra như thế nào. Kitô hữu mọi thời đã không lầm lẫn khi đặt vấn đề như vậy. Câu trả lời của Tin mừng không nằm trên bình diện tâm lý, nhưng trên bình diện xác quyết thần học: Chúa Giêsu tỏ mình như tôi tớ, nghĩa là như kẻ liên đới với nhân tính mà Người đã nhận, kể cả việc có thể ở trong tình trạng thử thách chung của mọi người. Bối cảnh của những lời người tâm sự và việc chống trả Satan cho thấy rằng cuộc thử thách, luôn luôn có trong người và như vậy ngay từ đầu sứ mệnh người, là sự chống đối mà Tin mừng Người mang trong bản thân, đã gặp Phải. Thành thử cám dỗ hẳn là cám dỗ dùng các phương tiện để tránh thất bại ấy, hay đơn giản hẳn, để từ chối sứ mệnh ấy; tựu trung là tách khỏi Đấng Người vẫn gọi là Thiên Chúa Cha. Thế mà Tin mừng bảo: dù đã ở trong những điều kiện cám dỗ như vậy, Chúa Giêsu vẫn không siêu lòng, khiến cho thử thách của Người chẳng những trở thành một gương mẫu cho nhân loại, mà còn là một biến cố mà hiệu lực tính là có thực và bao gồm các cơn cám dỗ của hết thảy mọi người.
2. Còn bản toát lược về thời đầu sứ vụ Chúa Giêsu tại Galilê, thì mặc dầu phản ảnh những cách nói ("hãy tin nào Tin mừng"...) của Kitô giáo và rõ ràng có lối trình bày theo hình thức lược đồ, vẫn không kém cho thấy nền tảng lịch sử trên đó nó đã dựa vào.
Vẫn biết chi tiết Gioan Tẩy giả "bị nộp" (nghĩa là bị tù) và chi tiết về Galilê được Mc nêu lên với một ý nghĩa biểu tượng. Nhưng chúng vẫn đưa ta tới những sự kiện rất chắc chắn, có tính làm sáng tỏ nhờ so sánh với các Tin mừng khác.
Thật vậy, giữa lúc Chúa Giêsu chịu rửa và chịu cám dỗ với lúc Gioan Tẩy giả bị tống ngục có một thời gian. Chính Tin mừng thứ 4 cung cấp nhiều tin tức về thời kỳ này (Ga 4,1-2): Chúa Giêsu, cho đến lúc đó, hãy còn được liên kết với vị Tẩy giả đồng thời thành công hơn ông. Việc ông này bị bỏ tù do đó có thể hiểu như là sự kiện bắt buộc vị ngôn sứ đi ra khỏi thời kỳ sửa soạn và bắt đầu một cách công khai những cuộc chiến đấu tiên khởi của Người. Có thể hiểu như thế trong bối cảnh lịch sử của nó cái câu nói "thời buổi đã mãn...''.
V. SỨ ĐIỆP BẢN VĂN
Hai đoạn văn tí xíu này của Tin mting Mc như vậy xem ra có một tầm mức nghịch với tính cách vắn gọn của chúng. Chúng chất vấn độc giả về một điểm nằm trong chuỗi những lời kêu gọi đã được đưa ra qua trình thuật Phép rửa, một điểm liên hệ với Tin mừng, nghĩa là với cái đặc biệt nhất của đức tin Kitô giáo.
Trước hết, đối tượng của đức tin là nhìn thấy trong Chúa Giêsu con người theo chương trình của Thiên Chúa, là tin rằng vào một lúc nào đó của lịch sử, trong một nơi xác định, đã hiện hữu một con người từng giao tranh với những quyền lực của sự ác và đã chiến thắng chúng. Do đó là tin rằng mỗi một phần tử của nhân loại, mà Chúa Giêsu liên đới và bao hàm trong Người, có thể đi qua lỗ hổng mà người đã mở để đạt tới một đời sống cao hơn.
Đối tượng của đức tin nhắm vào cái tin hạnh phúc đó. Tin, chính là thừa nhận Chúa Giêsu không chỉ là kẻ mạnh nhất trong loài người, nhưng đặc biệt là con người mang lấy trong mình chính mãnh lực thần linh, để chiến thắng một cách chắc chắn, an toàn và tự do.
Nhận ra trong mình khả năng đi đến một đời sống cao hơn, nghĩa là đến tự do đích thực, và nhận biết Chúa Giêsu là Đấng vừa kêu mời vượt qua ngưỡng cửa đó vừa cho phép mỗi con người trở nên hữu hiệu, đó là nét riêng biệt thứ hai của đức tin Kitô giáo.
Dầu thái độ này có biểu lộ một cách nào đi nữa, thì cái con người phải đương đầu trong cuộc chiến đấu nội tâm với những mãnh lực thù nghịch đang hoạt động trong thế giới, có thể nhận ra trong tình thế bi thảm là tình thế của mình đây, một lời mời gọi hãy "vượt lên" và tin rằng sự "thắng vượt" này có thể có một nơi nào đó trong thế giới. Lúc ấy Nước Trời gần với họ.
Nhưng, và đây là nét đặc biệt thứ ba của đức tin Kitô giáo, kẻ đón nhận Tin mừng ấy của Thiên Chúa, cái Tin mừng về chính Chúa Giêsu và về Lời mà sứ mệnh Người đã khiến Người công bố ra, thì bắt đầu được sống một kinh nghiệm mới đánh dấu bằng một niềm hy vọng đặc biệt.Kinh nghiệm này thay đổi một cái gì đó trong thái độ của kẻ ấy, nhưng nó vẫn luôn luôn trên đường chuyển thành, vẫn luôn là cuộc mạo hiểm không ngừng tái diễn và quy hướng về sự thực hiện trọn vẹn trên kia thế gian.
Nói cách khác, niềm hy vọng của Kitô hữu vừa không ngừng thúc đẩy họ tham gia cuộc chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn, vừa giúp họ thắng vượt cơn cám dỗ muốn giam hãm mãi lý do hiện hữu của mình trong thế giới hiện tại.
Gilles Becquet, Lecture d'évangiles…année B. Trang 168-181
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu, Con thiên Chúa, đã mang lấy tất cả điều kiện hiện sinh của con người: vui sướng, đau khổ, chết chóc, tủi nhục... , tình trạng bị tách ra khỏi nguồn sống, tình trạng phóng thể, nhưng vẫn luôn luôn nối kết mình với Thiên Chúa. Chính nhờ đó mà Người đã vượt thắng Satan, đã vượt lên tội lỗi, vượt lên mọi phóng thể và trở lại với yếu tính của mình; trở lại với Thiên Chúa, với tình trạng thanh bình hạnh phúc, được sống lại trong mảnh vườn tình yêu của Thiên Chúa và của vũ trụ mà Mc, mượn tư tưởng Is 11.8-9, đã diễn tả qua câu: "Người sống chung với các dã thú và được các thiên thần hầu hạ". Nếu ta luôn bám vào Thiên Chúa, đặt Ngài như cùng đích đời mình, thì dù phải trải qua thân phận, hoàn cảnh bi đát nào chăng nữa, ta cũng luôn chiến thắng và được bình an trong nơi sâu thẳm. Và chiến thắng cùng bình an này sẽ chiếu tỏa chung quanh ta. Hãy xem cuộc đời các thánh.
2. Những yếu tố: thinh lặng, khổ chế, cầu nguyện, được nói lên qua hình ảnh sa mạc, đều là những điều kiện giúp con người dễ dàng tiếp xúc với Thiên Chúa, dễ dàng nghe thấy và nhận ra đường lối Ngài muốn ta đi. Các tổ phụ, tiên tri, sứ đồ, thánh nhân, và nhất là chính Chúa Giêsu đều đã trải qua sa mạc ấy đời sống Kitô hữu cũng phải vậy. Mỗi ngày, ta phải rút vào sa mạc của lòng mình, tạm lại gác mọi ưu tư, lo lắng, hoạt động, để gặp gỡ Thiên Chúa, múc lấy nguồn lực nơi Ngài, thanh lọc lại ý hướng, hầu có thể thi hành sứ vụ cách hữu hiệu và đúng ý Thiên Chúa hơn giữa trần gian.
3. "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên. Hãy hối cải và tin vào Tin mừng". Với Chúa Giêsu, bắt đầu một thời đại mới. Nước Trời, nước hạnh phúc đã đến với và trong Ngài. Nhưng Nước ấy chỉ đến cho mỗi người chúng ta khi chúng ta ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng", khi ta biết biến đổi đời sống, biết loại trừ những tư tưởng ích kỷ, vụ lợi. Ơn cứu độ đã được Chúa Kitô mưu cầu sẵn cho ta, nhưng chính ta phải sẵn sàng tiếp nhận bằng những thái độ thích hợp như Chúa đòi hỏi. Thiên đàng chỉ được ban cho những ai muốn chọn lấy.
69.Nhân phẩm là bụi tro--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Bụi tro, bụi đất nhỏ li ti không có gía trị sức nặng kí lô nào đáng kể.
Bụi tro, bụi đất bay vất vưởng trong không khí gây ô nhiễm làm ngột ngạt khó thở có hại cho sức khoẻ.
Bụi tro, buị đất người ta quét vun lại rồi quăng vất ra góc vườn ngoài đồng ruộng cho sạch sẽ lối đi.
Nhưng theo kinh thánh thuật lại con người được Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất.
Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro, ngày bắt đầu mùa chay 40 ngày, theo tập tục nếp sống đức tin của đạo Công Giáo, mọi người tín hữu Chúa Kitô đến trước bàn thờ cúi đầu xin lãnh nhận bỏ tro trên đỉnh đầu, trên trán. Dấu chỉ này nói lên lòng ăn năn thống hối xin Chúa ban ơn tha thứ những tội lỗi đã vấp phạm.
Dấu chỉ này cũng nói lên tâm tình từ nay xin từ bỏ cung cách nếp sống kiêu ngạo tự khoe mình, lấy mình làm trung tâm điểm.
Dấu chỉ khiêm cung lãnh nhận được rắc tro bụi trên đầu nói lên lòng kính trọng chân nhận mình là con cháu của Ông Bà nguyên tổ Adong và Eva, người được tạo dựng nên từ bụi đất.
Là tro bụi con người không có thể làm được tất cả. Con người là một tạo vật có khả năng giới hạn sống trên mặt đất. Đời sống con người như dòng sông, dòng điện trôi qua đi mau. Họ không thể kéo giữ lại những gì đã xảy ra ngay cả những gì cho là hay đẹp nhất. Tất cả tuần tự trôi qua đi như cát trôi dạt ngoài biển khơi, như bụi tro bay lưu lạc trong không khí.
Tâm tình lòng tin tưởng nhớ mình được tạo thành từ bụi tro nhắc nhớ mình là một tạo vật mỏng dòn. Nhưng mang trong mình hơi thở mầm sự sống của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh thần thánh Thiên Chúa khắc ghi vào nơi mỗi con người.
Vì thế con người có gía trị hơn tro bụi nhiều. Hơi thở hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người là sự sống, là ơn kêu gọi, những khả năng, cơ hội tiềm tàng trong thân xác, trong tâm trí chờ được phát triển bung nở vươn ra.
Ngày xưa bên bờ sông Jordan dân chúng xắp hàng đến xin Thánh Gioan làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối trở về với Thiên Chúa.
Ngày thứ Tư lễ Tro, người tín hữu Chúa Kităô cũng sắp hàng đến xin nhận lãnh bụi tro rắc trên đầu tỏ lòng ăn năn thống hối.
Trong Thánh lễ Misa người tín hữu cũng thứ tự xắp hàng với hai bàn tay trắng lên tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kito cho tâm hồn đức tin của mình.
Điều này nhắc nhớ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người từ tro bụi, đã trở nên Bí tích Thánh Thể cho con người.
Tấm bánh Thánh Thánh nhắc nhớ đến tấm bánh ngày xưa Thiên Thần đã mang đến cho Thánh Tiên Tri Elia trong sa mạc hoang vắng. Tấm bánh này cũng được nướng trong lò lửa có tro bụi. Như thế trong tro bụi tấm bánh đã được nung nướng thành, mà Thiên Thần mang đến cho Eilia trong lúc đói lả mệt nhọc giữa đường đi.
Trong tro bụi Chúa Giêsu cũng đã nằm, ngài chính là bánh sự sống. Ngài đã chia sẻ thân phận nếp sống tro bụi của con người. Ngài đã sinh xuống trần gian làm người nơi hang chuồng xúc vật ở Bethlehem. Ngài đã đi bộ đó đây trên khắp nẻo đường quê hương đất nước Do Thái, dính bụi đất dọc đường, và sau cùng vác thập gía chịu khổ hình đến nơi chịu chết vì tro bụi dơ bẩn tội lỗi của con người.
Bụi tro đất làm nên thân xác hình hài con người có giá trị tốt. Vì được Thiên Chúa chúc phúc thánh hóa cùng ban hình ảnh hơi thở sự sống của Ngài cho con người.
Bụi tro đất làm nên con người có gía trị cao qúi mang lại sự sống. Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chia sẻ thân phận đời sống tro bụi làm người với con người. Và Ngài đã trở nên bánh sự sống đức tin cho con người.
Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và được kêu gọi cùng sống lại với Chúa Kito phục sinh.
70.Tin là chấp nhận đường thập giá--Noel Quesson
“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc sống".
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối” (1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1, 22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
71.Chúa Nhật I Mùa Chay--Noel Quesson
Đức Giêsu vừa chịu phép rửa.
Thực vậy, cần phải lưu ý mối liên hệ giữa cảnh cám dỗ và cảnh chịu phép rửa. Ba Tin Mừng nhất lãm đều đã đặt hai cảnh trên gần kề nhau.
"Vừa lên khỏi nước. Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con" (Mc 1,10)
Trong ngôn ngữ thông thường, từ "Cám dỗ" thường bị giảm nghĩa và mang vẻ ấu trĩ. Đối với trẻ nhỏ, "bị cám dỗ" nghĩa là "thèm làm một điều gì mà cha mẹ cấm đoán": như ăn mứt, ăn kẹo... lấy cắp tiền... Đối với người lớn, vì được huấn luyện trong khung giáo dục cấm ky, nên "bị cám dỗ" quen hiểu là "thèm làm những việc tình dục bị cấm đoán". Trong Tin Mừng cám dỗ mang vẻ quan trọng khác hẳn thế ! Cám dỗ cơ bản nhắm tới thái độ "tin " hay "không tin" nơi Thiên Chúa. Cơn cám dỗ đích thực liên hệ tới "Phép rửa": đó là một cám dỗ của "những con cái Thiên Chúa". Đức Giêsu sẽ yêu cầu ta chiến thắng cơn cám dỗ này, bằng cách cầu nguyện mỗi ngày: "Xin Chúa đừng để cho con lâm cơn thử thách... tin Chúa để chúng con đừng thua cơn cám dỗ…"
Người Do Thái, thính giả đầu tiên của Đức Giêsu... và những Kitô hữu tiên khởi, vào lúc mà Mác-cô viết trình thuật cám dỗ này... cũng như chúng ta hôm nay, đều phải thú nhận rằng, chúng ta đã vỡ mộng về Thiên Chúa l Đáng lẽ ra Người phải tỏ mình ra một ít nữa, phải tỏ ra Người là ai ! Cơn "cám dỗ" này căn bản, và thường xuyên: chúng ta có khuynh hướng coi thường ông Giêsu, Con Thiên Chúa này, mà tư cách Mê-si-a không được hiển nhiên, nhất là vào lúc Người chết trên thập giá. Thực sự, chính chúng ta, người "tín hữu" lại thử thách Thiên Chúa, bằng cách yêu cầu Người thể hiện khác với điều Người đã chọn để hiện diện: một Thiên Chúa kín ân... Cơn thử thách tiêu biểu trong Kinh thánh đó là yêu cầu Chúa làm phép lạ": xin Người ra khỏi nơi kín ẩn ! "Trong hoang địa, cha ông các người đã từng cám dỗ Ta và khiêu khích ta..Trong suốt bốn mươi năm, thế hệ này đã làm ta thất vọng (Tv 94,9). Biết bao lần, họ đã thách thức ta trong hoang địa... và một lần nữa, họ lại thử thách Thiên Chúa (Tv 77, 40-41). Đó cũng là cớn cám dỗ thường xuyên của những người đồng thời với Đức Giêsu: "Một nhóm Pha-ri-sêu kéo đến và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu. Để thử người, họ xin Người một dấu lạ từ trời" (Mc 8,11).
Vậy hãy tỏ ra ông là Con Thiên Chúa đi ! Chính ông vừa mới được công bố là Người con đó, nhờ các tầng trời mở ra và qua việc Thánh Thần đáp xuống mây? "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá xem coi !" (Mt 27,40). Cơn cám dỗ của các tín hữu, cơn cám dỗ của Giáo Hội, đó là làm cho Đức Giêsu xuống khỏi thập giá: biểu lộ một Thiên Chúa quyền năng hơn, một Thiên Chúa hiển nhiên, một Thiên Chúa thống trị, một Thiên Chúa không còn "kín ẩn" nữa, một Thiên Chúa không còn "nhập thể" và trở nên "yếu đuối" nữa (1 Cr 1,25), một Thiên Chúa hợp với suy luận, hợp với lý trí nhiều hơn. Thiên Chúa quen thuộc của mọi tôn giáo... chớ không phải một Thiên Chúa bị đóng đinh ! "Trong khi những người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 22-23).
Ngay sau khi dược tuyên bố là: "Con Thiên Chúa" lúc chịu phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa.
Động từ được dịch ở đây là "thúc đẩy" nhưng trong bản văn Hy Lạp còn có nghĩa mạnh hơn nhiều. Mác-cô đã viết: "Đức Giêsu đã bị Thánh Thần xua đuổi vào hoang địa". Ong cũng dùng từ này để chỉ Đức Giêsu "Xua đuổi quỷ".
Thật vậy trong Kinh thánh Thần khí Thiên Chúa thường xuất hiện như một thứ "sức mạnh", Cơn giông bão thổi tới , mãnh liệt như sấm sét không thể cản nổi". Cơn cám dỗ Đức Giêsu chịu đựng, hẳn là rất quan trọng, cần thiết trong cuộc đời của Người, nên chính Thần Khí Thiên Chúa mới dẫn Người vào trong hoang địa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng sợ cám dỗ: Vì cám dỗ là điều không thể tránh được, là cần thiết và hữu ích cho mọi người. Giao chiến thiêng liêng là một yếu tố cần thiết của đời sống tín hữu. Người của Xa-tan cũng là một thành phần của trần đời chúng ta. Xa-tan không ngừng khơi gợi cho ta biến Thiên Chúa thành cái gì khác với Người. Khác với những gì Người đã mạc khải về Người trong Đức Giêsu Kitô... biến Thiên Chúa thành một Đấng có thể giải quyết mọi vấn đề của ta với "quyền lực" của Người.
Nếu Đức Giêsu đã nhượng bộ cơn cám dỗ đó, nếu Người đã nghe theo lời yêu cầu của ta, nếu Người đã thuận theo lời đề nghị của Xa-tan, thì Người đã tỏ lộ cho ta một Thiên Chúa giả tạo.
Nhưng Thần Khí Thiên Chúa đích thực, thuộc Thiên Chúa duy nhất chân thật, đã thúc đẩy Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, thoát - khỏi những quảng cáo rầm rộ, xa hẳn đám đông, tránh những thành công ồn ào trước mắt... để bước vào hoang địa ! Thiên Chúa duy nhất đích thực, chính là Thiên Chúa "kín ẩn". Thánh Vịnh đã nói: Chúa còn giấu ẩn đến bao giờ nữa?" (Tv 88,47). Tôi chiêm ngưỡng Thiên Chúa "trong hoang địa"... Đức Giêsu cô độc...
Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày.
Thật là một thời gian dài!
Nếu chúng ta đã làm quen đôi phút với Kinh thánh, từ điều biết rằng người Phương Đông cổ rất thích những con số... Những con số không có nghĩa toán học như chúng ta ngày nay thường gán cho chúng: Chúng thường có giá trị "tượng trưng". Chẳng hạn, theo ước định, con số "40" chỉ "thời gian của một thế hệ con người": và như thế, con số này ám chỉ "một thời kỳ khá dài mà ta không rõ độ dài chính xác". Từ "Mùa chay" là một biến thể của từ "Bốn mươi ngày chay tịnh", nói gọn là "Bốn mươi". Một người Do Thái, hiểu biết Kinh thánh, mỗi khi nghe nói đến tiếng "Bốn mươi" đều nghĩ ngay đến cuộc xuất hành, đến cuộc giải phóng, đến thời gian hành trình trong hoang địa kéo dài "Bốn mươi năm". Môsê đã ở lại miền núi "Bốn mươi ngày" (Xh 34,28). Ngôn sứ Ê-li-a đã bước đi trong hoang địa "Bốn mươi ngày" (I V 19,8).
Trong Mùa chay này, chúng ta có đủ khả năng "hành trình" 40 ngày không?
Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.
Máccô không nói đến "chay tịnh" như Mát-thêu và Luca đã bàn. Ong cũng không nói cơn cám dỗ đã xảy ra vào gian đoạn cuối của khoảng thời gian bốn mươi ngày...mà trong suốt thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa...Người chịu.Xa-tan cám dỗ trong bốn mươi ngày". Người còn chịu trong suốt cuộc đời trần gian... đặc biệt trong lúc người bắt đầu thi hành sứ vụ của "Con Thiên Chúa".
Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu đã ở "một mình" trong hoang địa. Không có một người nào khác đã chứng kiến những cơn cám dỗ của Người, cơn cám dỗ khiến Người "Làm Người Con" theo quan niệm trần gian, theo quan điểm của Xa-tan. Vì thế, chắc một ngày nào đó, chính Đức Giêsu đã tâm sự kể lại biến cố đó cho các bạn hữu Người. Nhiều giáo phụ của Giáo Hội nghĩ rằng, đó là dịp "Phêrô tuyên tín ở Xê-da-rê", chính lúc Phêrô nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và lúc Đức Giêsu loan báo thập giá, Con Người sẽ bị đóng đinh... cũng chính lúc đó Đức Giêsu đã găp cơn cám dỗ do Phêrô bịa ra và Người buộc phải lập lại với ông: "Đồ quỉ sứ Xa-tan? xéo đi, lui ra đàng sau (Mc 8,27-33).
Chúng ta có lý để nghĩ ra rằng, trong trường hợp đó Đức Giêsu đã "thú nhận" với các tông đồ, Người thường bị cám dỗ "thể hiện những dấu hiệu của Đấng Cứu độ cách lạ thường" , không còn giữ vai trò của Thiên Chúa nhập thể trong sự yếu đuối của xác thịt"... tự rơi vào bẫy mà Xa-tan không ngừng giăng bủa (và ngay cả môn đệ của Người cũng như Giáo Hội vẫn còn thử thách Người như vậy !) Xui khiến Người "thể 'hiện uy quyền", biểu lộ thiên tính của Người. Thỏa mãn những mong muốn chính trị của dân chúng.
Người sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
Kiểu nói trên là cách nói của Kinh thánh, vẫn có vẻ khó hiểu, con phải tìm hiểu ý nghĩa. Khác với Mát-thêu và Luca, Máccô không nói rõ ra rằng, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ của Người. Nhưng ông nói về tình trạng đó qua hai kiểu nói trên: "loài dã thú" và "các thiên sứ ". Đó là một kiểu nói tượng trưng cổ truyền: như Ađam xưa kia ở trong vườn địa đàng, sống cùng với dã thú (St 2,19) niềm hy vọng cứu độ cũng mong chờ cảnh "thanh bình địa đàng" đó trở lại: "Bấy giờ sói ở với chiên, beo nằm bên cạnh dê con... Bé con còn bú giỡn bên hang hổ, trẻ con hôi sữa thọc tay vào hang mãng xà" (Is 11, l-9). Vâng, trong khi con người đầu tiên là Ađam đã sa ngã trước cơn cám dỗ "làm Thiên Chúa", "trở nên như Thiên Chúa"... thì chính Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ đó: nhờ vậy, cuộc hòa giải vĩ đại đuợc thực hiện, và khởi sự nếp chung sống hòa bình giữa con người với tạo vật. Khi con người từ chối "thống trị", từ chối hình ảnh của một "Thiên Chúa nào đó", khi con người chấp nhận "sự bất lực" của mình, khi con người đống bằng "đức tin"... thì chỉ lúc đó con người mới tìm lại được quang cảnh địa đàng, mới làm người theo ý Thiên Chúa ! Chỉ lúc đó con người mới lại sống hiệp thống an bình với anh em mình, với vũ trụ với "dã thú" và "Thiên sứ ", với "đất" với "trời"... Chỉ lúc đó con người mới thực sự là "con" Thiên Chúa, theo như lòng Người mong ước, Đấng 'không thống trị, không áp đặt ai, vì Người là tình yêu cho đến độ từ bỏ mình, chết trên thập giá vì chúng ta.
Sau khi ông Gioan bị bắt giam, Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi"
Đó là khởi sự một công cuộc sáng tạo mới, một lịch sử mới của loài người. Xa-tan đã bị đánh bại. Đức Giêsu đã chiến thắng nó. Không phải Xa-tan là 'Thiên Chúa. Không phải kẻ "thống trị" là Thiên Chúa ! Không phải kẻ thù nghịch" là Thiên Chúa? Vì Thiên Chúa đích thực chính là Tình Yêu... Và đó là trước Thiên Chúa duy nhất đích thực. Đó là Tin Mừng.
Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng.
Cuộc giao chiến "đức tin" không bao giờ chấm dứt.
Xa-tan vẫn tiếp tục đề nghị với ta chấp nhận ý kiến của nó về Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi ta không nên thuận theo ý đó: cần phải luôn khước từ một hình ảnh giả tạo nào đó về Thiên Chúa, để nhờ đức tin, ta mở lòng hướng về Thiên Chúa đích thực. "Lạy Chúa, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
72.Ta yêu các ngươi từ lâu rồi. Hãy trở thành dân của Ta--Camille Gagnon
Mùa Chay, một thời gian yêu mến.
Lễ tro vừa rồi, chúng ta đã mang một bộ mặt mùa chay hơi buồn bã, nghiêm khắc và nghiêm túc, như phải có. Thứ tư lễ tro không phải là một ngày hội hóa trang. Nó nhắc nhở chúng ta nhớ đến tội lỗi và sự mỏng dòn của chúng ta. Chúng ta là tro bụi, những gì chúng ta làm được đều bấp bênh; chúng ta có một con tim nặng trĩu vì những ích kỷ và thiếu tế nhị, thậm chí phản bội nữa. Hàng năm người ta cử hành lễ thánh Valentin, lễ tình yêu trước hoặc sau ngày thứ tư lễ tro. Tình yêu càng khó kéo dài thì người ta lại càng ham thích ca ngợi chúc mừng nó! Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, bắt đầu mùa chay bằng lễ thánh Valentin không phải là điều vô ích. Điều quan trọng là hiểu được đề tài và sự năng động của khẩu hiệu được nêu ra cho mùa chay này: “Ta yêu các ngươi từ lâu rồi”.
Đúng vậy! Mùa chay là thời gian để nghe nói về tình yêu. Một mùa chay tình yêu xem ra mới mẻ, nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc. Chúng ta hãy nhớ lại ngôn sứ Ôsê đã đặt lời than thở này nơi miệng Đức Giavê để khơi lại tình yêu của dân Ngài: “Ôi! Ta sẽ dẫn ngươi vào nơi thanh vắng và sẽ quyến rũ ngươi”. Chẳng phải đây là lời yêu thương tốt đẹp cho mùa chay sao: “Ta sẽ quyến rũ ngươi?”. Phải Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta từ lâu rồi. Ngài muốn nhắc lại điều đó để ta nhớ và để cho nó trở thành nơi chúng ta như một bài ru con được nhiều người biết đến: “Ta đã yêu con từ lâu và Ta sẽ không bao giờ quên con”.
Trong mùa chay này, Thiên Chúa sẽ nhắc lại với chúng ta điều đó bằng rất nhiều cách. Một trong những cách đó là nói với chúng ta hôm nay Tin Mừng này: chúng ta là dân của Ngài.
Hãy trở thành dân của Ta. Gần đây một người bạn của tôi được nhận quốc tịch Canada với niềm tự hào lớn đến độ làm tôi phải ngạc nhiên. Sự kiện đó đã khiến tôi suy nghĩ lại xem: Một xứ sở, một dân tộc là những gì; Có những quyền được nhìn nhận và được bảo vệ và có thể thực thi những quyền này quan trọng đến mức nào; Nhu cầu cảm thấy được liên kết với những người khác mạnh làm sao; Được chia sẻ cùng một cuộc sống xã hội gây phấn khởi dường nào.
Từ kỷ niệm này, chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ lại về quốc tịch “Thiên quốc”của chúng ta: Chúng ta là một dân tộc thánh, là công dân nước trời, dân của Thiên Chúa.
Dân tộc của giao ước. Nền tảng của một quốc gia trước hết là người ta chấp nhận sống chung với nhau, tuân theo những qui luật chung. Một quốc gia được xây dựng trên những thỏa thuận của các thành phần xã hội.
Trong câu chuyện đại hồng thủy và cầu vồng vào thời gọi là của Nôê. Thiên Chúa bày tỏ sự đồng ý liên kết lịch sử của chúng ta với lịch sử của Ngài, dùng sức mạnh của Ngài để hỗ trợ và cứu độ chúng ta. Lịch sử Thánh Kinh tương đương với một hiệp ước hoặc với hiến pháp trong một quốc gia. Nó đặt nền tảng cho dân Chúa: “Này đây Ta ký kết một giao ước với các ngươi, với hết thảy con cháu các ngươi, và hết thảy các vật sống động…” Trong những lời này, có một hiệp đồng, một giao ước.
Nghĩa vụ công dân. Thiên Chúa lập một hiệp ước với chúng ta. Nhưng một hiệp ước đòi hỏi sự tương hỗ. Hai bên cùng ký vào đó. Một công dân mới tuyên thệ. Một Kitô hữu ký vào bản hiệp ước đó nhờ phép rửa. Thánh Phaolô nhắc lại rõ ràng: Phép rửa là một sự cam kết chứ không phải là một việc tẩy rửa những vết nhơ bên ngoài. Ta hãy nghe ngài nói: “Chịu phép rửa, không phải là được tẩy sạch những vết nhơ bên ngoài, nhưng là cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng”. Ta hãy hiểu rõ ý nghĩa của những từ quan trọng này: Cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng.
Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu vào hoang địa.
Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng, sau khi chịu phép rửa Chúa Giêsu đã vào hoang địa. Và ở đó, các thiên thần phục vụ Ngài. Ta có thể thấy rằng, sau khi đã cam kết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để bày tỏ tình yêu của mình đối với Cha, đã được quyến rũ bởi dự án của Chúa Cha chứ không phải bởi dự án của ma quỷ. Vậy nên, không lạ gì khi kết thúc mùa chay của mình, Ngài đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đã đến, hãy tin vào Tin Mừng”.
Vào đầu mùa chay này, chúng ta hãy xác tín rằng chúng ta là dân Thiên Chúa. Triều đại của Ngài đang ở giữa chúng ta.
73.Tầm quan trọng cùa một phản ứng tốt--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Điều mà trong ngôn ngữ thông thường chúng ta gọi là “cám dỗ” thực ra trên bình diện tôn giáo lại là một thực tại rất phức tạp. Vì tính cách phức tạp đó chúng ta không thể nhận ra cách dễ dàng Chúa Giêsu đã muốn bị cám dỗ về sự gì và cách nào. Có nhiều yếu tố trong cách thức thông thường để hiểu sự cám dỗ
- cái gợi lên lòng ước muốn;
- động lực thúc đẩy có căn nguyên nội tâm hay từ bên ngoài, lôi cuốn vào một hành động;
- phát hiện bằng một cuộc thử thách, những đức tính hay là những nết xấu của một người nào;
- xúi giục phạm tội, hoặc bằng sự kích thích các thú vui xác thịt, hoặc bằng cách lường gạt, thúc đẩy làm điều xấu nguỵ trang với những bề ngoài của sự tốt lành (một sự tốt lành giới hạn nào đó).
Con người đầy dục vọng, chúng ta luôn luôn sẵn sàng thức dậy. Tội nguyên tổ đã làm rối loạn sự diễn tiến của các dục vọng đó, thành thử các dục vọng ấy ngày nay lan tràn đến cả những việc xấu cũng như những việc tốt. Khi một việc xấu đề nghị với chúng ta một ước muốn, thì đó là một sự cám dỗ. Nhưng đến chừng nào việc xấu ấy còn ở ngoài chúng ta và đến khi nào nó vào hẳn bên trong chúng ta? Nhiều sự dơ bẩn có thể làm hoen ố một con người song vẫn không làm thiệt hại gì. Để so sánh, tục ngữ có câu: “Nước đổ đầu vịt” là thế. Trái lại, sự rấy lên của lòng ước muốn một điều xấu xa, có thể khuấy rối hay gây ra một tâm trạng mù mờ nửa phạm tội nửa không. Tình trạng đó người ta cho là chưa hẳn có tội, nhưng làm lo ngại. Chúng ta không nói đến sự ưng thuận tất nhiên dẫn đến tội rồi.
Trong giới hạn nào, chúng ta có thể suy tư về sự cám dỗ của Chúa Giêsu?
Mà đây là một sự kiện. Chúa Giêsu muốn biết sự cám dỗ. Người ở trong sa mạc 40 ngày, chịu satan cám dỗ. Người để cho ma quỷ đề nghị với nhân tính của Người, những gì mà nơi chúng ta, gợi lên lòng kiêu ngạo, tính xác thịt và máu tham lam. Chúa Giêsu có bị thử thách bởi sự quyến rũ nào vào sự tội không? Sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa Giêsu bắt buộc ta trả lời ngay là không. Nhưng Người muốn thử chịu sự nung đốt của những cái thường làm cho các dục vọng của chúng ta cuống quýt. Người muốn dìm thứ vàng ròng của sự thánh thiện Người vào trong lò lửa, ở đó sự yếu đuối của chúng ta tan chảy như chì và nhất là Người muốn cho chúng ta thấy phải phản ứng thế nào?
Chúa Giêsu đã phản ứng như người ta phản ứng khi bị bỏng, nghĩa là bằng phản ứng tự vệ và đề phòng. Người không có bàn cãi với sự cám dỗ. Người đã nhận ra nó tức khắc, và tức khắc người đuổi nó đi, không tranh luận. Đó là bài học thực hành chính yếu mà chúng ta có thể rút tỉa từ câu chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Đâu là phương cách tốt nhất để nhận ra và đẩy lùi cơn cám dỗ? Phương cách tốt nhất, đó là hãy duy trì nơi mình một ý chí tích cực trung thành với Thiên Chúa. Chúa Giêsu phản ứng bằng bản năng và phản ứng, tại sao vậy? Vì Người là một con người hoàn toàn bị thu hút bởi Con Thiên Chúa. Cũng là người thật như chúng ta, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa. Người chống cự lại sự dữ với sự mãnh liệt, và sức mạnh của Thiên Chúa. Người phản ứng lại như thế, vì Người là con ngừơi và là Thiên Chúa. Nếu chúng ta đem gương Chúa Giêsu vào trình độ chúng ta, Chúa dạy chúng ta rằng, chúng ta phải chống cự lại cơn cám dỗ tuỳ theo sức loài người chúng ta nếu chúng ta mang Chúa trong mình cách sâu đậm, chúng ta sẽ phản ứng chống lại cơn cám dỗ với sự sáng suốt và nghị lực mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta được ơn không thể bị sa ngã, trái lại là khác, song qua sự việc trên Chúa dạy chúng ta bằng những danh từ nào, chúng ta phải dùng để đặt vấn đề sự cám dỗ. Cuối cùng, chỉ còn lại cho chúng ta việc chính yếu phải lo, đó là lòng trung thành với Chúa, chuyện không chiều theo chước cám dỗ tất nhiên sẽ đến
Chúng ta chỉ còn phải lo cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta hãy cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và khi mặc dầu vậy, Chúa vẫn cho phép cơn cám dỗ kéo đến, chúng ta hãy kêu xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại sự dữ.
74.Chiến đấu để khỏi sa cơn cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
Sau ba ngày Tết, hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay. Mùa chay kéo dài 40 ngày. Con số 40 tượng trưng cho một cuộc khởi đầu mới: lụt đại hồng thủy 40 đêm ngày; 40 năm dân Do Thái đăng trình trong sa mạc để tiến về Đất Hứa; 40 ngày 40 đêm ngôn sứ Elia đi bộ về núi Hôrép để lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước. Và Chúa Giêsu làm cuộc hành trình cá nhân 40 đêm ngày trong hoang địa để sau đó bắt đầu một cuộc xuất hành mới dẫn dân mới về Đất Hứa là Quê Trời. Bốn mươi ngày cũng là hình ảnh của cuộc đời mỗi người chúng ta. Thật vậy, như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chịu phép rửa, liền được Thần khí đẩy vào sa mạc chịu Satan cám dỗ, chúng ta cũng vậy, sau phép rửa tội liền bắt đầu chiến đấu với các cám dỗ.
Chúa Giêsu là Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ nhưng Ngài đã chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ nhờ Ngài liên lỉ lựa chọn giữa ý Cha và ý Người. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Mác-cô nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chúa Giêsu quay lưng lại với Chúa Cha; khước từ sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cơn khát – đói và thèm muốn xác thịt và tinh thần của mình. Cụ thể, qủy đã hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Ðức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma quỷ nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Tuy ma quỷ đã thất bại với Chúa Giêsu, nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước hết nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra phương tiện để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Ðó là những mối tội đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và cho những người xung quanh. Chẳng hạn, ngày 28/1 vừa qua một vụ cướp của giết người gây chấn động thành phố Hồ Chí Minh đó là tên Nguyễn Công Bảo 15 tuổi giết nghệ sĩ cải lương Đỗ Linh để cướp tài sản. Đau đớn thay cho xã hội nay đó là kẻ giết người chưa đến tuổi thành niên!
Hôm nay khởi đầu Mùa Chay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của ma quỷ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chúa. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chúa bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện như Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện. Vì thế, trong bài đọc 2, Thánh Phêrô khẳng định: “Khi chúng ta Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Biết cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại và khỏi sa chước cám dỗ. Amen.
75.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Hằng năm, vào Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe Tin mừng kể lại câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ.
Năm A, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Mathêu. Năm C, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Luca. Cả hai tác giả tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ khá dài và đầy đủ các chi tiết về ba phương diện: danh, lợi, thú. Còn năm B, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Marcô, tác giả tường thuật câu chuyện này chỉ vỏn vẹn có hai câu như chúng ta vừa nghe: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” (Mc 1,12-13).
Như vậy, cả ba Tin mừng đều tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ và Ngài đã chiến thắng. Nhưng nhiều người thắc mắc tại sao Đức Giêsu cũng bị cám dỗ? Thưa, vì Ngài có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Với bản tính loài người, Ngài cũng mang trong mình thân phận con người, vẫn phải chấp nhận những gì thuộc về con người ngoại trừ tội lỗi. Nên Ngài vẫn bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu từ bỏ sứ mạng Chúa Cha trao phó để theo đường lối của thế gian. Nhưng đứng trước cơn cám dỗ của Ma quỷ, Ngài đã cương quyết chống lại và Ngài đã chiến thắng. Không những Ngài chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ mà Ngài còn có quyền trên Ma quỷ nên đã nhiều lần Ngài đã xua trừ Ma quỷ ra khỏi con người.
Với bản tính loài người, mỗi chúng ta cũng bị Ma quỷ cám dỗ. Nhưng cơn cám dỗ của Ma quỷ sẽ không làm hại được chúng ta khi chúng ta không ưng thuận, hay nói cách khác Ma quỷ không thể làm hại chúng ta khi chúng ta không chiều theo cơn cám dỗ của chúng. Thông thường, cơn cám dỗ xảy đến bằng ba giai đoạn: Thứ nhất, Ma quỷ gợi lên nơi tâm trí chúng ta một tư tưởng xấu như: hình ảnh đồi trụy, lòng tham của cải, tiền bạc, vi phạm những điều luật cấm…; Thứ hai, Ma quỷ xúi giục chúng ta thích thú hoặc hướng chiều về những điều vừa kể trên; Thứ ba, nếu chúng ta ưng thuận là sa chước cám dỗ của chúng, còn nếu chúng ta chống trả thì chúng ta thắng được chước cám dỗ của Ma quỷ. Ngày xưa, Ma quỷ cám dỗ Evà ăn trái cấm. Evà đã ưng thuận nên hái trái cấm mà ăn. Evà đã phạm tội. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã cương quyết chống lại. Đức Giêsu chiến thắng. Cứ như thế, Ma quỷ vẫn tiếp tục cám dỗ con người, có những người thắng được chước cám dỗ như Đức Giêsu, nhưng cũng có vô số những người thua chước cám dỗ của Ma quỷ như Evà.
Ngày hôm nay, Ma quỷ vẫn cám dỗ chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau về các phương diện danh, lợi, thú. Thông thường ma quỷ không cám dỗ chúng ta phạm tội trọng ngay nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm tội cách tiệm tiến từ tội nhẹ đến tội nặng. Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say; hai là đốt nhà của mình; ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra. (Sưu tầm)
Trong cuộc sống thường ngày, Ma quỷ cũng dùng những chiêu thức trên đây để cám dỗ con người và có rất nhiều người đã sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, về tội lỗi đức công bằng: Mới bắt đầu, Ma quỷ cám dỗ con người phạm các tội nhẹ như ăn cắp vặt, dần dần chúng cám dỗ con người ăn trộm những thứ giá trị hơn, rồi tham ô tham nhũng, trở thành kẻ cướp lúc nào không hay. Về tội dâm ô: Lúc đầu, Ma quỷ cám dỗ con người bằng những tư tưởng xấu, xem hình ảnh xấu, rồi đến xem phim đen, quan hệ bất chính, cuối cùng là phá thai, giết người.
Chính vì thế, phải luôn đề phòng với chước cám dỗ của Ma quỷ. Thánh Phêrô đã lưu ý chúng ta rằng: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma qủi, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”(1 Pr 5,8-9a). Hãy sống tiết độ trong lời nói. Hãy sống tiết độ trong việc làm. Hãy sống tiết độ trong ăn uống. Tiết độ bằng cách ăn chay hãm mình. Ăn chay theo luật Giáo hội. Ăn chay luân lý là nhịn ăn, nhịn nói, nhịn những thú vui chơi không lành mạnh, nhịn đi tới những nơi, gặp gỡ những người có thể làm cho chúng ta sa ngã phạm tội.
Hãy tỉnh thức trước những mưu chước cám dỗ mà Ma quỷ bày đặt ra. Ma quỷ không hiện hình một cách công khai để cám dỗ con người, nhưng chúng bày ra những chước cám dỗ như những cái bẫy giăng sẵn mà chúng ta khó nhận ra để làm hại chúng ta.
Vì vậy, Thánh Phêrô bảo chúng ta hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự. Đứng vững trong đức tin mà chống cự bằng cách siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Đức Giêsu đã từng mời gọi các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(Mc 14,38). Chính Ngài đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Mt 6,13).
Xin cho tất cả mọi người chúng ta biết noi gương Đức Giêsu luôn cương quyết chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của Ma quỷ. Amen.
76.Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
Sau khi chịu phép Rửa, Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa, ở đó Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ nhưng Ngài đã chiến thắng. Chúa Giêsu đi vào hoang địa là ý muốn của Thiên Chúa, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Chúa Giêsu không bao giờ hành động một mình mà luôn có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng hiện diện trong hoạt động của Chúa Giêsu.
Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ? Đây là dịp cho chúng ta thấy thêm ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm nhập thể nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu vốn là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và tệ hơn nữa là làm một người nghèo cô thế cô thân, không có một ngôi nhà đàng hoàng ấm cúng để sinh ra, rồi lại phải sớm chạy nạn trốn sang Aicập để tránh hoạ sát thân.
Khi hoà nhập vào dòng người tội lỗi đang bước xuống dòng sông Gioa-đan để chịu thanh tẩy mình bởi phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những con người tội lỗi trong thế gian dù Ngài chẳng có tội tình gì.
Hôm nay Chúa Giêsu chịu cám dỗ là Ngài đứng trong thân phận con người để cùng với con người Ngài cũng chịu cám dỗ để đồng thân phận với con người tro bụi, mỏng dòn yếu đuối, dễ thay đổi, dễ sa ngã. Nhưng có một điều khác là con người chúng ta thì dễ sa ngã truớc cám dỗ; còn Chúa Giêsu đã mở môt con đướng mới: đó là Ngài đã chiến thắng cám dỗ nghĩa là chiến thắng ma quỷ.
Ma quỷ vốn là tên cám dỗ đã có mặt trong lịch sử, đã gieo mầm tội lỗi nơi con người và nó vẫn còn họat động mạnh mẽ trong nhân loại nhưng nay tên cám dỗ đã bị Chúa Giêsu đánh gục, và trong tương lai nó vẫn còn tiếp tục thất bại dài dài.
Chiêm ngưỡng hành động của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hay dâng lên Chúa tâm tình vui mừng và lời cảm tạ vì tình thương lớn lao Chúa đã dành cho nhân loại tội lỗi chúng ta. Trong thân phận con người Chúa Giêsu đã không ngừng đi sâu vào mầu nhiệm nhập thể mỗi ngày một triệt để hơn, để cảm thông, để yêu thương, để mở đường cho con người đi về cùng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chiến thắng tên cám dỗ, bước theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hạ tên cám dỗ như Thầy của mình.
Ngoài tâm tình tạ ơn, chúng ta còn phải học nơi Chúa bài học chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ. Trong đời sống con người, chúng ta phải đối diện với vô vàn những cám dỗ lúc nào cũng vây quanh chúng ta với nhiều hình thúc khác nhau có khi còn rất tinh vi, có khi cám dỗ được nguỵ trang kín đáo bằng một việc xem ra hoàn toàn tốt đẹp kiến chúng ta không thể nhận ra được đó là một cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ đó có thể là miếng ăn, tấm áo, có thể là danh vọng quyền lực hay là tiền bạc, cũng có thể là một thứ tình cảm nào đó....Cám dỗ thì vô vàn vì đó là việc làm của ma quỷ mà, nó phải ra sức làm việc để lôi kéo con người về phía nó, để những ai nghe theo chúng thì sẽ dần dần xa lìa Thiên Chúa và thuộc trọn quyền của ma quỷ.
Chúng ta phải làm gì đây? Phải đề cao cảnh giác, phải nghe Lời Chúa và Hội Thánh dạy trong Mùa Chay là hãy thường xuyên chay tịnh, hãm mình ép xác, nhìn nhận thân phận mòng giòn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội của chúng ta; làm thế không phải để mạc cảm nhưng để ý thức rõ về mình để bám chặt vào Chúa hơn. Siêng năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể, làm các việc lành phúc đức, đem Lời Chúa thực hành trong đời sống để múc lấy sức mạnh từ trên cao hầu chiến thắng mưu mô của tên cám dỗ.
77.Canh tân đời sống
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn mày đến và xin nhà vua chút ít tiền. Nhà vua không hề cho anh ta một đồng nào cả. Thay vào đó, nhà vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn mày nhận lời mời của nhà vua. Đến ngày hẹn, người ăn mày tìm đường tới cung điện và được gặp nhà vua. nhưng anh ta bỗng nhận ra bộ quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh. Vốn là một người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng hậu, tỏ lòng thương xót, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn mày vẫn lê lết trên đường phố trong bộ quần áo rách nát của mình. Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh ta phải sống một cuộc sống mới, phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn mày. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh ta. Nó rất hấp dẫn. Nhưng chỉ vì anh ta đã quá quen thuộc với lề thói cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình tuỳ thuộc vào những thói quen đã có từ nửa trước cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa và kiên nhẫn.
Nếu muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Hãy dẹp bỏ chiếc áo rách của tội lỗi, để mặc lấy tấm áo mới của ân sủng và sự sống.
78.Cải thiện
Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma tuý, lại can tội giết người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm trên giường tại phòng giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Đợi cho người bạn nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim con. Anh nói với Ngài bằng những lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh muốn, từ những hy vọng đến những thất bại, từ những vui mừng đến những khổ đau. Sau khi anh cầu nguyện xong, người bạn tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài mà thôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời Chúa truyền dạy: Hãy sám hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú nhận những gì xấu, không tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với những tội lỗi trong đời sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.
Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã ý thức về những hỗn loạn xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn về tính ích kỷ, luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của người khác. Chẳng hạn về tính kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của mình. Chẳng hạn về sự lười biếng, không muốn giúp đỡ một ai.
Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền giáo thành công nhất trong việc làm cho người khác hối cải, đều là những người thực hiện theo đoạn Tin Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình chỉ là những kẻ tội lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại cuộc đời. Bởi vì nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.
Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng nhau bước vào mùa Chay, là thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố gắng cải thiện đời sống, uốn nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc này chúng ta đã trở nên một con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn.
79.Nơi hoang dã
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang dã, kể lại câu chuyện như sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm. Thế nhưng cha nàng không ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức dập tắt mối tình của chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia, sau khi đã uống rượu, chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên bị chủ quán tống cổ ra ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng rãi và đã thu hút được nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung, vừa nhân bản, lại vừa gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh hoang dã mà chúng ta đang sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào sa mạc, nơi hoang dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm ngày. Theo Kinh Thánh, sa mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ, của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang sống trong một nơi hoang dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con người thời đại. Giết người không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành động gian tham, trộm cướp bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người mỗi năm? Thế nhưng, việc phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huy không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt phá huỷ sự sống tinh thần của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng hạn như những phim ảnh và sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn hay không?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách của Chúa Giêsu. Bởi vì chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì thế mà Ngài đã vào hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong thế giới ngày hôm nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh, chúng ta mới có thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy sinh hãm mình, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt dọc cuộc đời chúng ta.
80.Chiến đấu!
Sống là một cuộc chiến đấu trường kỳ và cam go. Và cuộc chiến đấu cam go nhất của con người là cuộc chiến đấu đối với bản thân mình. Kẻ thù không ở đâu xa, kẻ thù đó đang ấn núp ngay trong bản thân mình. Bởi vậy, khi làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi nguyên lý này. Ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang.
Khởi đầu Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, hôm nay, thánh sử Macco trình bày việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với sự dữ. Cuộc chiến đấu này không mấy dễ dàng. Tuy nhiên, Ngài đã can đảm chiến đấu và đã chiến thắng. Bởi lẽ, mang thân phận con người, Chúa Giêsu không tránh khỏi cám dỗ của ma quỷ, của sự dữ. Macco trình bày một bức tranh thời Tân Ước có đôi nét giống thời Cựu Ước. Trong bức tranh đó, nhân vật nổi bật là chính Chúa Giêsu, Ngài được ví như Ađam mới, khác xa Ađam cũ. Ađam xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo xúi giục của ma quỷ đội lốt con rắn, đã bất tuân không vâng lệnh Thiên Chúa, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa, chối bỏ tình thương Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả thảm hại muôn đời cho con cháu loài người. Bên cạnh đó, dân Do Thái đi trong Samạc bốn mươi năm cũng đã sa ngã. Đó là thời gian thử thách lâu dài đối với họ. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách, bao lần phản loạn, chống đối Môisen, kêu trách Thiên Chúa; bao lần họ bị cám dỗ muốn trở lại Ai Cập làm kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa. Tất cả đã sa ngã trước thử thách.
Ngược lại, còn Chúa Giêsu khi khởi đầu bước vào đời sống công khai, Ngài được Chúa Thánh Thần đưa vào Samạc để chịu thử thách. Sống trong sa mạc bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép và danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng Lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng ma quỷ phải rút lui. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Phần chúng ta, là những người Công Giáo, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Lời Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu đã cho chúng ta bài học kinh nghiệm là con người chúng ta có thể chiến thắng các thế lực sự dữ và các cám dỗ của ma quỷ nếu chúng ta một lòng biết cậy dựa vào sức mạnh chủa Thiên Chúa. Bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, nhưng ngược lại chúng ta hoàn toàn vâng phục sống theo thánh ý Chúa quan phòng an bày cho cuộc đời của mình. Chúng ta cũng không nên sống đạo Công Giáo, theo đạo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh tầm thường hằng ngày, hay chỉ vì lợi lộc vật chất, theo kiểu theo đạo được vợ, theo đạo được đất, được ruộng... Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa và Giáo Hội lo phục vụ chúng ta, phục vụ theo ý muốn ích kỷ của chúng ta. Chúng ta cũng không coi Thiên Chúa như những tên phù thuỷ chuyên làm phép lạ làm những việc phi thường, hay những nhà ảo thuật đại tài biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không coi trọng danh dự, uy quyền, thế giá; không luồn cúi ma quỷ, sự dữ, tiền của để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ Tể vũ trụ, là Chúa của muôn loài, là Chúa của lòng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta hãy đi vào cõi lòng mình, nơi đó chúng ta sẽ nhận ra nhiều thứ xấu xa của kiếp người, đủ thứ cám dỗ của ma quỷ, đủ thứ mời mọc hấp dẫn của sự dữ. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi dẫn chúng ta. Lời Chúa sẽ giúp chúng ta phân định việc tốt xấu, việc từ bỏ và những việc nên làm. Lời Chúa là sức mạnh giúp chúng ta can đảm đứng về phía Thiên Chúa, khước từ sự cám dỗ của ma quỷ và sự dữ. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra chân lý, Sự Thật và Tình yêu để chúng ta bước di. Lời Chúa giúp cho chúng ta dám sống cho những đòi hỏi của Tin mừng, dám sống cho anh chị em tha nhân. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn Chúa là lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời mình. Chúng ta chọn Chúa là sức mạnh để can đảm chiến đấu chống trả lội lỗi, các thế lực sự dữ và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Ngoài ra, thử thách còn là để thanh luyện tâm hồn mình. Chúng ta hãy tiếp tục dùng Mùa chay mà Giáo Hội mời gọi để trở về với lòng mình, sám hối và quyết tâm can đảm đứng về phía Thiên Chúa. Ước mong Mùa Chay này sẽ giúp cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, trở về với Thiên Chúa, sống lại mối tình mà Thiên Chúa yêu thương dành cho chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng biết mạnh dạn đến với anh em để sống yêu thương và phục vụ họ.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là chủ của chúng con. Xin cho chúng con biết khiêm tốn chấp nhận giới hạn của mình để chúng con biết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa trong cuộc chiến đấu với ba thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt yếu đuối của chúng con. Xin Chúa trở thành sức mạnh duy nhất của niềm tin đang hướng về Chúa của chúng con để chúng con luôn chiến đấu và chiến thắng như Chúa Giêsu yêu mến của chúng con. Amen.
81.Chúa Nhật 1 Mùa Chay
Bước vào Mùa Chay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải an năn sám hối, sống lại kinh nghiệm 40 năm sa mạc của người Do Thái, sống 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa, 40 ngày ăn chay và chịu ma quỷ cám dỗ, để nêu cao lòng trung tín của Người với Thiên Chúa Cha.
Ma quỷ không nhằm xúi giục Chúa Giêsu vào tội tham ăn, ham mê của cải, danh lợi ở trần gian nhưng nó muốn cám dỗ Chúa Giêsu quên đi sứ mạng cứu thế của mình: từ chối con đường thập giá mà Cha đã trao phó. Đó là cơn cám dỗ Messia. Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cám dỗ? Vì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách chống trả cám dỗ. Và hôm nay ma quỷ cũng cám dỗ ta cách khéo léo, tinh vi với mọi hình thức khác nhau, không trừ một cơ hội nào. trong xã hội hưởng thụ ngày nay, con người luôn bị cám dỗ giữa việc xem tivi với việc đọc kinh hôm, kinh mai; giữa vui chơi giải trí và đi lễ; giữa ăn xài phung phí với giúp đỡ người nghèo; giữa gian dối và thành thật, giữa việc học hành và trốn học, quay cóp. Chúng ta bị cám dỗ làm ngơ trước những đau khổ của người khác, im lặng trước những bất công vì sợ liên lụy, làm ngơ trước sự thật, thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân, sống buông thả và đeo đuổi những ước vọng, lợi lộc bằng đủ mọi âm mưu mạo hiểm, khiến chúng ta không còn nhận ra Chúa nơi người ăn xin trước cửa nhà, trong khu xóm. Và còn biết bao cám dỗ mời mọc khác, chúng ta chỉ nghĩ đến mình và lo cho mình.
Ma quỷ không làm cho chúng ta bỏ Chúa, nhưng làm lệch hướng đi của chúng ta, khiến chúng ta có những suy nghĩ sai lạc về Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa phục vụ cho những lợi ích riêng của mình; nó làm cho chúng ta cảm thấy chán nản, lười biếng, thờ ơ các việc bổn phận, việc đạo đức, làm cho lòng mến Chúa trong chúng ta phai mờ đi.
Cám dỗ là một thực tế chúng ta không thể nào lẫn tránh được. Vì thế, chúng ta phải luôn sám hối và nhìn lại cách sống của mình để chiến đấu với cám dỗ. Nhưng bằng cách nào? Hãy nhìn Chúa Giêsu, một mẫu gương tuyệt vời, Ngài đã chiến thắng ma quỷ bằng việc ăn chay, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa để làm theo thánh ý Cha. Phần chúng ta, cũng phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa qua việc tham dự thánh lễ cách sốt sắng, đọc kinh trong gia đình, biết hy sinh hãm mình làm việc bác ái. Chính những lúc thuận tiện này chúng ta gặp gỡ Chúa để Ngài ban sức mạnh cho ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho ta vượt thắng các cám dỗ, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết trông cậy vào Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể đứng vững trước những cám dỗ của ma quỷ, của thế gian, của xác thịt.
CÂU HỎI GỢI Ý:
Khoa học càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những người có thể đưa đến cám dỗ. Theo bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?
82.Cám dỗ
1. Dân gian ta có câu: "Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Dùng lửa để thử vàng, là một phương cách có từ xưa để xem vàng thật hay giả, có gian nan mới biết ai có khả năng, bản lĩnh để vượt qua. Thiết nghĩ con đường theo Chúa mà hoàn toàn thuận lợi, dễ dàng thì đạt hạnh phúc Nước Trời không có giá trị gì, bởi ai cũng như ai! Nhưng thực tế trong đời sống đạo, những thử thách, những cám dỗ luôn tồn tại. Chúng ta đừng bi quan, mà hãy xem nhũng lúc như thế là lúc toi luyện lòng thành của chúng ta đối với Thiên Chúa.
2. Kẻ thù của Thiên Chúa cám dỗ không trừ một ai, trong bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trong thân phận Thiên Chúa làm người, vào hoang mạc để cầu nguyện 40 đêm ngày, cũng chính thời gian ấy, Ngài bị cám dỗ. Máccô trình bày sơ qua thôi, còn Luca và Mátthêu trình bày rõ 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải chịu: Đá biến thành bánh; nhảy xuống từ trên cao để Thiên Chúa ra tay nâng đỡ; và thờ lạy ma quỷ để nó "ban cho" tất cả! Nói chung, là ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu để Ngài bỏ đường lối của Thiên Chúa, con đường khiêm hạ và đau khổ để chọn con đường dễ dãi trong công việc cứu chuộc loài người. Làm sao Ngài đã thắng được cám dỗ? Thưa nhờ cầu nguyện gắn bó cùng Cha, dưới sự nâng đỡ của Thánh Thần. Đó cũng là bài học quý báu cho mỗi người chúng ta.
3. Cám dỗ là một điều gắn liền với con người, có thể nói từ khi con người xuất hiện là có cám dỗ, để lôi kéo con người ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, và nó sẽ còn tồn tại với con người ở trần gian này. Hẳn ai trong chúng ta cũng rõ Adong, Evà bị cám dỗ và thánh Gióp trong Cựu Ước đã bị ma quỷ xin phép Thiên Chúa cám dỗ để xem lòng trung thành của ông đối với Thiên Chúa. Nhưng Adong, Evà đã bị thất bại vì nghe lời ma quỷ, còn thánh Gióp thì kiên trì trong thử thách, quyết trung thành với Thiên Chúa vì thế ma quỷ đã chào thua!
Ngày nay chúng ta thấy nhiều người quỵ ngã trước cám dỗ, kể cả các Kitô hữu. Thực ra, không phải con người yếu đuối hơn thời xưa. Nhưng sống trong một xã hội càng văn minh, tiến bộ người ta dễ bị lôi cuốn vào nhu cầu hưởng thụ, dễ dãi:
- Chọn loại băng dĩa nào đây? Loại lành mạnh hay là những loại "tươi mát" nhằm thoả mãn dục vọng?
- Chọn loại giải trí nào đây? Cờ bạc, đá gà, hay tìm đến những loại giải trí, môn thể thao hữu ích?
- Chọn ưu tiên đi đâu đây vào ngày Chúa Nhật? Đi lễ nhà thờ hay đi chơi, đi du lịch? v.v..
Ngày nay người ta đề cao tự do, nhưng rồi lèo lái để làm cả những việc sai trái, xem thường cả luân thường đạo lý: Tự do luyến ái trước hôn nhân, tự do sống với người khác như vợ như chồng của mình, tự do châm biếm đả kích người khác v.v...
4. Đối với người Kitô hữu, về phương diện nào đó, cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống. Từ xưa, người ta biết dùng lửa để thử vàng thật giả, người ta biết đáng giá lòng người, sức người qua thử thách. Vì thế bước đường theo Chúa cám dỗ không hẳn luôn là có hại, mà là phương thế để toi luyện lòng người. Ta vẫn nghe câu nói:"bạn trong lúc khó khăn mới là bạn tốt". Trong đời sống thiêng liêng, giữa muôn vàn thử thách, nếu chúng ta vẫn trung thành với lời Thiên Chúa dạy, vẫn chọn Người là trên hết, thì chúng ta mới là người con thảo của Người, là người bạn thân của Đức Giêsu. Các thánh, nhất là các thánh tử đạo đã minh chứng cho chúng ta rất rõ điều này, chúng ta vẫn có thể thực hiện điều này trong cuộc sống chứng nhân giữa đời thường.
5. Đức Giêsu, Ngài không những nêu gương mà còn chỉ rất rõ con đường để chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Ngài đã dạy: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Như thế nhìn nhận lỗi lầm của chúng ta (ăn năn, vì chúng ta để mình rơi vào cám dỗ của ma qủy) chưa đủ, mà còn phải thay đổi nếp sống cũ bằng cách tin vào Đức Giêsu và tích cực thực hiện những điều Người dạy.
Cụ thể trong Mùa Chay này, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta ra sức thực hiện: ăn chay (đền tội); cầu nguyện (gia tăng sự gắng bó với Thiên Chúa); và thực thi bác ái (gia tăng tình liên đới với tha nhân). Đây là những phương thế hữu hiệu để khỏi rơi vào chước cám dỗ và dẫn đưa chúng ta đến con đường trọn lành. Amen.
83.Chúa Nhật I Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Nếu chúng ta có đi ngang qua bến phà Mỹ Thuận cách đây khoảng mười năm, chúng ta sẽ thấy công trình Cầu mỗi ngày một hoàn chỉnh thêm. Mọi người đều vui mừng chờ ngày được đặt chân vượt qua chiếc cầu để sang sông mà không phải chờ đợi từng chuyến phà để vượt giòng nước chảy như cắt nữa. Nhưng tôi suy nghĩ một điều: rồi đây sẽ có một số người không biết phải làm gì khi chiếc cầu đã được thông thương. Trong số đó có những người bán hàng rong hằng ngày, những người có những hàng quán cố định để phục vụ cho người đi lại qua bến phà. Chắc chắn giờ đây họ phải ngồi lại, suy tính để tìm một giải pháp thích hợp cho cuộc sống mới. Ngày giờ sẽ đến và họ không thể làm gì khác hơn là phải thay đỗi cuộc sống. Tôi thiết nghĩ: không ai ngoan cố đến nỗi, vẫn cứ bám lấy cuộc sống cũ, vẫn cứ thi hành nghề nghiệp cũ của mình, cho dù thời thế có thay đỗi thế nào đi nữa. Nếu như thế thì họ đã chọn con đường tự đào hố để chôn chính mình. Không ai muốn như thế bao giờ. Trái lại ngay từ bây giờ, và có lẽ đã từ lâu, họ đã chuẩn bị để từ bỏ nếp sống cũ, bước vào đời sống mới tốt đẹ hơn. Đó là sự khôn ngoan thông thường của cuộc sống.
"Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sấm hối và tin vào Tin Mừng." Lời Chúa đã kêu gọi đân Do Thái cách đây hơn 2000 năm. Kêu gọi họ ăn năn sấm hối, quây trở về với Chúa, bỏ nếp sống cũ mà thi hành đời sống mới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, nhưng Ngài đã làm gương, đã vào sa mạc yên tĩnh, để nhìn lại đời sống đã qua và tìm hướng đi tốt cho những ngày sắp tới. Ngài đã làm hết mọi cách, những gì có thể làm được, không bao giờ Ngài từ chối, cho dù phải hy sinh đến cả mạng sống. Nhưng Ngài cũng hoàn toàn tôn trọng sự tự do của con người. Mọi sự Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần con người biết nghe theo và hành động nữa thì tất cả mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng đã trải qua 2000 năm lịch sử, mặc dù có rất nhiều người đã thay đỗi cuộc sống. Đồng thời cũng có rất nhiều người vẫn cứ liều mình bám vào đời sống chẵng mấy tốt đẹp, mặc dù họ vẫn biết đó là con đường tự tiêu diệt chính mình. Họ vẫn cứ bám lấy và không chịu thay đỗi.
Hôm nay chúng ta đã bước vào mùa chay. Thiên Chúa kêu gọi mỗi người ăn năn sám hối, vì nước trời đã gần đến. Không phải nước trời đến cho chúng ta nhìn thấy. Nhưng nước trời đến bất chợt đối với từng người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng biết điều đó và biết rất rỏ. Vậy mà lời kêu mời nầy đã vang động bên tai chúng ta không biết bao lâu và cũng không biết bao nhiêu lần. Thế mà dường như chúng ta chẵng cần biết đến làm gì, vì nó làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu khi phải nghe những lời như thế. Đôi khi nó còn làm cho mình quen quá hóa ra nhàm chán và không cần để ý đến. Vậy chúng ta cũng giống như những người ở bến phà Mỹ thuận, biết làm ăn không được mà vẫn cứ cố lì không chịu tìm cách để thay đỗi cuộc sống cho thích hợp. Chúng ta cứ suy nghĩ xem: Đã bao nhiêu mùa chay đã qua trong đời sống của mình rồi, chúng ta đã nghe bao nhiêu lần lời kêu gọi ăn năn sám hối. Chúng ta cũng nghe không biết bao nhiêu lần lời thông báo nước trời đã gần đến. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng: đó chỉ là lời nói cho người khác, chứ không phải nói cho chính mình. Thử nhìn lại cuộc sống của mình xem, chúng ta đã thực hiện như thế nào đối với lời mời gọi đó. Nếu đới sống chúng ta vẫn cứ bình thường như từ trước đến nay, không có gì đỗi mới cũng không có gì tiến bộ, đó là mình chưa ăn năn sám hối, chưa biết thay đỗi cuộc sống cho tốt đẹp. Nhưng mà, tôi có gì đâu để sám hối, tôi có làm gì xấu đâu để mà thay đỗi, ông nọ bà kia mới cần thay đỗi, mới cần sám hối. Đó là những lời chúng ta thường tự nói với chính mình như thế. Nhưng đó cũng là một cách làm cho con người của mình trở nên chai lì khô cứng không thể thay đỗi được. Như vậy làm sao chúng ta có thể chuẩn bị sẵn sàng, để đón nước Thiên Chúa đã gần đến. Nếu giờ nầy bất ngờ Chúa kêu gọi, mỗi người sẽ trả lời ra sao về sự chuẩn bị của mình.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe lời Chúa và biết nhìn thấy chính mình thật sự, để biết đỗi mới đời sống cho xứng đáng bước vào Nước Trời.
84.Chúa Nhật I Mùa Chay
Theo chu kỳ của phụng vụ, Mùa Chay bao giờ cũng bắt đầu bằng thứ tư Lễ Tro. Và hôm nay, chúng ta chính thức bước vào Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay. Ai trong chúng ta chẳng biết rằng Mùa Chay là mùa của sám hối và hoán cải. Nói cách khác, mùa chay là một hành trình của hoán cải. Hành trình đó được khởi đi từ trong sa mạc. Sa mạc là mảnh đất mênh mông đầy những thế lực thù nghịch. Sa mạc là nơi hoang vu, không nhà cửa, không người thân, không bạn bè, không lương thực, và còn nhiều cái không khác nữa. Vì thế một người khi bước vào trong sa mạc là bước vào 1 cuộc chiến đấu và đối diện với những cái không đó. Khó khăn! Thử thách! Cô đơn! Nhưng bên cạnh đó, sa mạc cũng còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa nữa.
Hôm nay thánh Marcô nói rằng Chúa Giêsu vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Người ở trong hoang địa 40 đêm ngày sống giữa loài dã thú. Thời gian 40 đêm ngày không phài là dài lắm. Nhưng với một người đang chịu thử thách, phải đối diện với những khó khăn, phải sống trong cô cơn thì đó là khỏang thời gian không phải là ngắn. Theo ngôn ngữ của Kinh Thánh: số 40 là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa: là con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nó gọi về những giai đoạn và cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ: nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong suốt 40 ngày và 40 đêm là khoảng thời gian ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, đám con cháu và dòng dõi của tổ phụ Abraham và Giacóp được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập đã dong duỗi hành trình trong sa mạc trước khi tiến vào đất Hứa. Cũng trong khoảng thời gian 40 đêm ngày, ngôn sứ Elia đã đi bộ về núi Hôrép, núi của Thiên Chúa để lãnh nhận sứ mạng tái lập Giao ước.
Chúa Giêsu đã trải qua một gai đoạn đầy cam go và thử thách trong sa mạc. Và chính vì phải sống trong giai đoạn như thế, nên trong nội tâm của Chúa Giêsu lập tức xuất hiện một cám dỗ muốn tìm một thoải mái, dễ chịu. Một cám dỗ rất người và rất đời thường! Thế nhưng Chúa Giêsu của chúng ta đã vượt qua. Người đã thắng được cái nóng cái, cái lạnh, cái đói, cái khát và đã hoàn tòan làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác. Có lẽ anh chị em và các bạn nói rằng: Tại vì Đức Giêsu là Chúa mà nên Người dễ dàng vượt qua những cám dỗ đó, đồng thời chế ngự được những đòi hỏi của xác thân. Nhưng xin anh chị em đừng quên. Xin đừng quên rằng ngoài bản tính là Thiên Chúa, thì ở bên cạnh và bên trong một Thiên Chúa đó vẫn còn có đó một Giêsu rất người. Người vẫn có những nhu cầu và những đòi hỏi của thân xác giống như chúng ta. Bằng chứng là sau cơn cám dỗ đó, Người cảm thấy đói. Hơn nữa, ỏ trong vuờn Giêtsêmani, khi đứng trước khổ hình thập giá, Người đã khiếp sợ. Sợ đến chảy mồ hôi, nặng như những giọt máu rơi xuống đất. Và cũng chính trong giây phút hoảng sợ đó, chính người đã phải thốt lên một lời rất thê thảm nhưng rất đẹp: " Abba! Cha ơi! Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn" Ở đời ai dại gì lại tìm cho mình đau khổ, mất mát thiệt thòi mà không thích tìm sự tiện nghi thoải mái và dễ chịu. Vì đó là nhu cầu của thân xác.
Và để có được sự tiên nghi, thoải mái và dễ chịu thì phải có tiền, phải có quyền. Bởi lẽ, người ta thường nghĩ rằng khi tôi có tiền thì tôi sẽ có tất cả. Khi tôi có quyền thì tôi tha hồ mà tự tung tự tác, tha hồ tác quai tác quái. Thế cho nên những cám dỗ mà Chúa Giêsu trải qua hôm nay, mặc dù thánh Marco không nói chi tiết cho bằng thánh Matthêu và thánh Luca, nhưng tôi tưởng rằng đấy là những cơn cám dỗ của tiền bạc, của quyền lợi, của kỷ thuật(khuyng hướng của thời đại hôm nay, người ta muốn thay thế và chối bỏ quyền của Thiên Chúa bằng Kỷ Thuật trị (Technocracy), mà người ta quen gọi là những cám dỗ của danh, lợi, thú, thì lúc nào cũng vẫn là những cám dỗ rất lớn và rất mạnh của mọi thời và cho mọi người.
Và chính vì nhu cầu căn bản mà lại rất lớn đó mà người ta tìm đủ cách để đáp ứng cho bằng được bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường khác nhau. kể cả bằng những con đường phi nhân nhất, tàn bạo nhất, mất đạo đức nhất.
Kính thưa ông bà, anh chị em và các bạn, hôm nay, trong sa mạc, Chúa Giêsu đã vượt qua được những cám dỗ là những đòi hỏi của thân xác. Hình ảnh sa mạc ngày xưa của Chúa Giêsu gọi về những sa mạc hôm nay trong đó luôn luôn có những cám dỗ bủa vây chúng ta.
Những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới.
Cám dỗ của chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu.
Cám dỗ muốn tách mình ra khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Cám dỗ của sự khước từ Thiên Chúa và thay thế bằng thần Mamon và con người muốn làm trung tâm của thế giới.
Cám dỗ của khép kín, chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình.
Cám dỗ của im lặng vì sợ liên luỵ
Cám dỗ giả mù trước thật hiển nhiên.
Cám dỗ của thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.
Cám dỗ muốn sống một đời tầm thường và buông thả
Cám dỗ của hưởng thụ và tiện nghi.
Cám dỗ của tiền
Cám dỗ của quyền
Cám dỗ của thế gian......
Và cám dỗ nào cũng rất tinh vi.
Vậy làm sao để ta nhận diện đâu là những cám dỗ đó. Và bằng cách nào để ta vượt qua?
Kính thưa ông bà anh, chị em và các bạn!
Hôm nay khi thuật lại việc Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, có một chi tiết không thể bỏ qua. Chi tiết này đáng lý tôi phải nói đầu tiên trong bài chia sẻ này, nhưng tôi cố ý nói sau cùng. Chi tiết đó là: Thánh Marco bắt đầu câu chuyện Tin Mừng bằng cách nói rằng: Thánh Thần liền đẩy Người vào trong sa mạc. Hay lắm! Cho nên tất cả 40 ngày trong sa mạc, trong chay tịnh và những cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua và Người đã chiến thắng là nằm trong tác động của Thánh Thần. Tác động của Thánh Thần chính là điều mà người công giáo vẫn quen gọi bằng một cụm từ khác thay thế: đời sống thiêng liêng, đời sống thuộc linh- thuộc về Chúa Thánh Thần.
Thế cho nên, thưa ông bà, anh chị em và các bạn! Trong Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay này, tôi nghĩ lời chúa nói với chúng ta không gì khác hơn là một lời mời gọi chúng ta: Hãy lấy lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu. Đó là kinh nghiệm lắng nghe tác động của Thánh Thần. Đó là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta khi đối diện với những cám dỗ của đời thường, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua. Và Thánh thần nói với chúng ta khi nào và ở đâu, nếu không phải là trong sa mạc và trong thinh lặng.
Cuối cùng! Ước gì chúng ta hãy buông mình để cho Thánh Thần tác động. Và một khi chúng mình được Thánh Thần tác động, tâm hồn ta sẽ được đổi mới, được bình an, thanh thoát và nhẹ nhàng. Nếu được như thế, chúng ta sẽ cảm nhận bên cạnh mùa sám hối và hoán cải, mùa chay còn là "Mùa Xuân Thánh Thiện". Amen.
85.Hãy sửa đổi đời sống và tin vào tin mừng
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm và xem ra họ là một cặp xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có việc làm tốt. Họ cùng nhau đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước ngày họ về hưu. Song giữa họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi lần nói chuyện là một lần họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương nhiên vì đạo giáo họ không thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối kia khi hai người bắt đầu buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng, "Tôi và ông không thể tiếp tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi được, chúng mình phải chấm dứt tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài".
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều bà vợ nói là sai với tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay là hồi tâm để canh tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời sống tương lai tốt lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ thì quyến rũ ta về lối khác; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết định lệ thuộc vào ta hoàn toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ quyến rũ Ngài theo hướng khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn mươi ngày dài ăn chay thì sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi khi ấy Ngài rất đói. Ngay lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt theo đuổi Ngài. "Tại sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể làm điều đó và hơn nữa khỏi phải đói!" Sau những ngày một mình trong hoang địa làm Ngài cảm thấy cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi người chú ý? Chẳng hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị thương tổn? Chà chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi ấy Ta hết cô đơn!" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về công cuộc truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ như người ta mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta có thể làm điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!" Những quyền lực hung mãnh trên sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà thiếu các dự bị thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến khi trợ giúp tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa mạc đã viết: "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống sót qua sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang mạc và Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma quỉ. Ngài đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta biết "Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền thống của Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm sức mạnh ý chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện tâm hồn mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân lý rõ ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã viết: Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình Ngài" (Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao và thung lũng. Chẳng ai trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm hoang mạc, đó là những giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo cô đơn. Chắc chắn rằng, vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn lẻ loi và thất bại trong cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống, nhưng chúng ta đừng thất đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với chính mình để có thể nghe được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng ta. Trong hoang mạc của đời sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan, vô mục đích, vô ý nghĩa, nó tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi quyền lực bên ngoài mà chúng ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối tìm ra ý nghĩa xác thực và cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con đường để tìm ra ta là ai và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng cần thiết là ta phải tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng Chúa thì là lúc ta thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi trống rỗng sẽ bao bọc và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình ra đi, ta có thể đi qua ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng chúng ta có thể tự tìm ra câu trả lời "tại sao" cho cuộc sống; và nó là sự cám dỗ làm chúng ta tự hình thành những "thần tượng" nhỏ bé trong tâm hồn chúng ta. Ta phải tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên Chúa nói cho tôi biết tôi là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài và Ngài nói cho tôi biết sự toàn hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ tôn thờ một mình Ngài".
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm kiếm Nước Chúa trước tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta, nó không đơn giản chỉ là tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một tính chất mới mẻ nảy sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là chúng ta đón nhận nguyên cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương lai đó chính là Thiên Chúa Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là cái gì nối tiếp từ quá khứ song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không chỉ là hoạt động sinh lý tự nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ chính sự sống. Món quà của sự sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô, vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công chính được thoả mãn, tình yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
86.Cám dỗ
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu có phải chỉ trong một sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu nó cám dỗ anh ta lân la với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành dân ghiền lúc nào cũng không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá muộn: Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ chúng ta làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ chúng ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào vòng cờ bạc. Sau khi đã mê cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia đình bị tan nát. Và nếu gia đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi, thì sẽ sinh ra gian tham và trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải vật chất. Cám đỗ thứ hai nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy những ước muốn về quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy sự chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám dỗ chúng ta ăn cắp một món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp lặt vặt, như tục ngữ đã bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi nhỏ mọn. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ quay phản bội cùng Chúa.
87.Hoang địa
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi thử thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường trở về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong thời gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã chịu thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang địa, ngài đã bị Satan cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến thắng của Ngài là một bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước. Hãy khiêm nhường, hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn năn để chúng ta cũng sẽ vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha Huvelin như sau: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người từ sa mạc trở về và nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã. Charles de Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời của vị sĩ quan bê tha tội lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn là nơi để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa mạc, dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ diệu, chẳng hạn hướng dẫn họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban cho họ mười điều răn làm giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ khỏi hiểm họa rắn độc… Thế nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được tình thương tuyệt vời ấy, để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang địa để sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay tịnh. Còn chúng ta thì sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng và chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào sa mạc, để vào hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được nguồn sinh lực, nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của cuộc đời.
88.Cuộc chiến
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố là “Con yêu quý” thì “Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người”.
Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao đoạn này được đọc cho chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì nó nói đến thời gian bốn mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng còn có những ý nghĩa khác nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế, trình thuật sáng tạo bắt đầu trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài thú vật. Hoang địa là nơi dân Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách. Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ lùng hôm nay trở nên đầy ý nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa Giêsu đến không phải để sống một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến đấu với tất cả những gì là sự dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương trong cuộc thử thách thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong vườn địa đàng xưa, Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là kiểm soát được sự dữ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến thắng sự dữ và sáng tạo một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi đọc bài Tin Mừng này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa Giêsu, sau khi chịu bí tích Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian này, nơi chúng ta phải đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương đầu với hoang địa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử thách như Chúa Giêsu hay chịu thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và trung thành với bổn phận mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không? Chúng ta chế ngự và kiểm soát các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và thói quen xấu của chúng ta như thế nào?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có thể xác định được căn tính của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ chống lại kế hoạch của Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không? Hay tôi giống như một con thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con đường bạo lực của mình? Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp Chúa Giêsu, để trung thành phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho chúng ta nhiều điều khác nữa đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là những đam mê của chúng ta cũng làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
89.Dã thú
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom! Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!” “Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom, tại saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.
Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai cập trở về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.
Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu hạ Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống chung với dã thú”. Dã thú là những con thú nào?
Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.
Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy những “dã thú”. Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong đời sống tâm linh.
1. Sự ngã lòng.
Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh”.
2. Sợ hãi
Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.
“Đừng sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ ông về”. Vào ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói: “Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!”
3. Sự tiêu cực
Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà giảng thuyết nổi tiếng tên là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta khỏi niềm hy vọng và sự tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng tiện”.
Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian một mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” xung quanh cùng “những con dã thú”, lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.
90.Cám dỗ
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái. Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay ít được chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, tất cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác động trong tâm trí con người, lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi, mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào? Ma quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa ngã. Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác, tính tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất ít khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ hãi không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ chúng ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm tội kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta sa ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát thân được bằng một cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta, nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám dỗ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là chính ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh các dịp nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những vật… có thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta phải mau lẹ chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ, trì hoãn, và nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ khác nhau ở chỗ có sa chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ác thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu xin Chúa như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.
91.Đứa con của kẻ vô thần
Vào tháng 5 năm 1980, tuần báo Time có đăng tải câu truyện nổi tiếng mang tựa đề "Đứa Con Của Kẻ Vô Thần Tìm Thấy Thiên Chúa". Đứa con đó là William Murray. Khi Murray đi học, mẹ cậu là bà Madalyn Murray tại Baltimore, Maryland, đã ra toà kiện chống việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh trong các trường học công cộng. Vụ án này đã được đến tận Toà Án Tối Cao Pháp Viện, và kết quả là mọi hình thức cầu nguyện và đọc Thánh Kinh tại các trường học công cộng của toàn quốc Hoa Kỳ phải chấm dứt.
Sau này khi lớn lên, Murray còn tiếp tục thành lập các cuộc vận động chống đối Thiên Chúa bằng việc cho xuất bản những tạp chí vô thần.
Thế nhưng, Murray đã được ơn trở lại. Một đêm vào trước Lễ Giáng Sinh, William Murray nằm mơ một giấc mộng tỏ tường về Thánh Kinh. Giấc mơ này đã thức tỉnh ông. Cảm nghiệm của giấc mơ này thật xúc động, đến nỗi ông đã chỗi dậy ra khỏi giường và lái xe đến một tiệm sách tại San Francisco. Ông viết: "Tôi đã tìm thấy cuốn Thánh Kinh. Tôi lái xe về nhà và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca. Tại đây, tôi đã tìm thấy... Đức Giêsu Kitô." Từ đêm hôm đó, cuộc sống của Murray được biến đổi.
Sau khi trở lại, ông viết một bức thư cho tờ báo Baltimore Sun. Ông xin lỗi với toàn thể dân chúng về việc ông đến Toà Tối Cao Pháp Viện xin cấm việc cầu nguyện và đọc Kinh Thánh tại các trường học Hoa Kỳ. Ông nói trong bức thư: "Trong khi suy xét lại cuộc đời 33 năm sống ngoài đức tin, tôi chỉ còn biết cầu xin, với sự phù giúp của Chúa, cho tôi được hoàn chỉnh lại những lầm lỗi và điều xấu xa mà tôi đã gây ra do sự thiếu lòng tin của tôi."
Câu chuyện này là một bài quảng diễn sống động những gì Chúa Giêsu có ý nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Thời giờ đã gần đến. Nước Thiên Chúa đã gần kề. Hãy thống hối, và tin vào Tin Mừng."
Đấy chính là những gì William Murray đã làm. Ông đã sám hối về tội 33 năm làm một kẻ vô thần, không tin vào Phúc Âm và không biết đặt Chúa Giêsu Kitô làm trung tâm điểm đời sống.
Những gì Murray đã làm chính là những gì mà bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta phải thực hiện trong Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay này.
Nó kêu mời chúng ta thống hối đời sống mà đã không đặt Chúa Giêsu làm trung tâm điểm. Nó kêu mời chúng ta tái khám phá ra cuốn sách mà đã chưa luôn chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của ta.
Nói một cách đơn giản hơn, bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta hãy làm cho Mùa Chay là thời kỳ phúc lành đặc biệt của riêng từng cá nhân.
Có bao nhiêu Kitô hữu, thì có bấy nhiêu phương thức để đáp trả lại. Tuy nhiên, xin chỉ xét hai cách thức sau đây:
Phương thức đầu tiên là tìm cuốn Kinh Thánh và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca từ đầu cho đến hết trong Mùa Chay này. Anh chị em có thể làm việc này bằng cách đọc một đoạn mỗi tối.
Phương thức thứ hai để đáp trả lại cách cụ thể là lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải vào lúc nào đó trong Mùa Chay. Vì trong khi lãnh nhận bí tích này, chúng ta thực thi chính xác những gì Chúa Giêsu kêu mời chúng ta làm trong các bài đọc hôm nay. Chúng ta bày tỏ cách cụ thể lòng thống hối và lòng tin tưởng của ta vào Phúc Âm.
Đấy chính là bày tỏ lòng sám hối về tội lỗi và biểu lộ lòng tin tưởng của ta rằng, Chúa Giêsu Kitô ao ước tha thứ cho chúng ta và nâng đỡ chúng ta khởi đầu một đời sống mới.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng để nhìn thấy chính chúng con như Ngài thấy chúng con vậy. Trên hết mọi sự, xin ban cho chúng con ơn can đảm để biển đổi chính chúng con như chính Ngài muốn chúng con biến đổi.
92.Yếu tố con người
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ. Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp bọn trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:
- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo An độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó như cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:
- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia, thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần kết của đoạn Tin mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế nào?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay tới việc ăn năn những lầm lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi chưa đủ, tâm tình sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em. Hòa giải với Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác, vì tất cả chúng ta đều là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia đình, đó là cộng đồng nhân loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì con người được Thiên Chúa đặc biệt chú ý đến…Bởi vì con người luôn mang trong tâm hồn mình một khát vọng sâu thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên cho Thiên Chúa, nên con người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi Ngài. Đằng khác, vì được dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể khước từ đồng loại của mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa, lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối cũng chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn diện nói trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng người khác. Hãy trở về với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ điệp chúng ta cần phải làm ngay trong mùa chay này.
93.Ngoại trừ tội lỗi
Janet Frame là một tiểu thuyết gia người New Zealand. Trong suốt những năm đầu đời, bà đã phải chịu đựng những chứng bệnh về tâm lý, và vừa mới thoát khỏi cảnh bị ép buộc phải phẫu thuật thùy não. Cuối cùng, bà vào một bệnh viện ở Anh để điều trị. Tại đó, bà may mắn gặp được một bác sĩ rất hiểu biết, đã giúp đỡ bà phục hồi. Bằng cách nào vị bác sĩ đó khác hẳn với nhiều bác sĩ khác mà bà đã từng gặp? Bà nói:
“Tôi rất dễ chịu vì biết rằng bác sĩ của tôi là một người không e ngại thừa nhận và bày tỏ tư tưởng kỳ lạ rằng nói cho cùng, ông ấy cũng là con người, và ông không thể làm gì được hơn, và khi giả vờ như mình là thần thánh, thì cũng không thể thay thế được điều đó.
Trong bệnh viện đó, việc quản lý bao gồm những vị bác sĩ mà chính họ cũng bị cản trở do không đủ tư cách pháp lý. Những bác sĩ này có thể dễ dàng liên hệ với các bệnh nhân của họ”.
Chúng ta không thể học hỏi được lòng thương xót, khi không biết thế nào là đau khổ. Chúng ta không thực sự hiểu được lòng thương xót là gì, hoặc không thể an ủi một người nào đó đang chịu đau khổ, trừ phi chúng ta đã từng đau khổ. Chúng ta không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác, trừ phi chúng ta đã từng khóc lóc. Chúng ta không thể giúp đỡ những người lầm đường lạc lối tìm được con đường của họ, trừ phi chúng ta đã từng bước đi trong tăm tối. Khi đã từng chịu đau khổ, chúng ta mới có thể trở thành một con người mở đường cho người khác.
Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã bị cám dỗ. Bức thư gửi tín hữu Do thái nói rằng Đức Giêsu đã trở nên “hoàn toàn giống như anh em Người về mọi phương diện”. Nơi Người, chúng ta có một vị thượng tế có thể cùng với chúng ta cảm nhận được sự yếu đuối của chúng ta; bởi vì Người đã từng bị cám dỗ bằng mọi cách giống như chúng ta, mặc dù Người không phạm tội. Đức Giêsu có thể đồng hóa với chúng ta. Người giống như chúng ta trong tất cả mọi sự và mọi cách, ngoại trừ tội lỗi. Người đã bị cám dỗ giống như chúng ta. Người không được miễn khỏi bị khổ sở, đau đớn, thất vọng… Người đã nếm thử thành công, thất bại, và cả cái chết. Người không khước từ bất cứ niềm vui nào của chúng ta, Người chỉ khước từ tội lỗi mà thôi. Đây là mầu nhiệm sâu xa nhất về tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu hoàn toàn là con người, nhưng điều đó không có nghĩa là Người chỉ là người mà thôi. Sự kiện Người không phạm tội không có ý nói rằng Người thiếu bất cứ tính cách nào của nhân loại. Tội lỗi không phải là một yếu tố thuộc về bản chất con người. Trái lại. Tội lỗi là sự sa ngã nơi bản tính nhân loại. Ngoài ra, Người còn chia sẻ sự yếu đuối và chước cám dỗ của chúng ta nữa. Bởi vì chính Người đã từng bị cám dỗ, nên Người thấu hiểu chúng ta, và có thể giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta có thể tin tưởng đến gần Người, trong sự nhận biết rằng chúng ta sẽ được Người thương xót, và được đón nhận ân sủng trong những lúc chúng ta cần.
94.Bị cám dỗ bởi việc lành
Những côn trùng và ruồi bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ. Nhiều lần, chúng phát hiện rằng theo sau hương thơm của chất ngọt, có thể dẫn chúng đến một cuộc sống bị giam hãm hoặc tệ hại hơn. Do không thể kháng cự lại hương thơm, chúng bò vào bên trong một bông hoa, chỉ để đắm mình trong phấn hoa, để rồi chúng không thể trở ra được nữa.
Có thể bạn nghĩ rằng điều này không bao giờ xảy ra với con người chúng ta. Chúng ta quá tinh khôn để không bị sa ngã vào điều đó. Sự kiện đáng buồn là chúng ta lại vẫn cho phép điều đó xảy ra. Giống như những con ong, chúng ta cũng bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ.
Ý nghĩa phổ biến của chước cám dỗ là lôi kéo con người làm điều sai trái. Khi nghĩ đến chước cám dỗ, ngay tức khắc chúng ta nghĩ đến những điều xấu xa. Tuy nhiên, không chỉ có sự dữ mới có thể đưa chúng ta đi lạc đường. Những việc tốt đẹp vẫn có thể cám dỗ chúng ta một cách đầy hiệu quả. Trên thực tế, tất cả những chước cám dỗ đều đến dưới chiêu bài là việc tốt đẹp. Và sức mạnh của một chước cám dỗ tỉ lệ với sức quyến rũ của mục đích.
Không phải chỉ khi nào đường đi khó khăn và rải đầy chướng ngại vật, chúng ta mới không tiếp cận được mục đích, nhưng khi đường đi dễ dàng và trải đầy những nét quyến rũ, chúng ta cũng vẫn bị như vậy. Trong trường hợp thứ hai, chúng ta bị cám dỗ coi con đường đó như trò đùa. Chúng ta tự cho phép mình đi sai đường, sao cho trước khi nhận ra điều đó, chúng ta đã quên mất mục đích, và lãng phí sức mạnh của mình. Những vinh hoa trần thế làm mất đi sự quyến rũ của hạnh phúc thiên đàng. Trong Tin Mừng, không thiếu những ví dụ về điều này.
Một dịp kia, Đức Giêsu kêu gọi một người giàu có trở thành môn đệ của Người, nhưng người đó đã từ chối. Không phải sự dữ đã làm cho anh ta từ chối – anh ta không làm điều gì xấu xa cả. Nhưng anh ta từ chối chỉ vì một điều gì đó tốt đẹp – sự giàu có.
Khi Đức Giêsu đi vào nhà của Marta và Maria, Marta quá bận rộn, nên không thể lắng nghe Người nói được. Không phải do điều gì đó xấu xa đã làm cho bà không nghe được lời Người, mà là một việc làm tốt đẹp, thậm chí đáng khen nữa – những công việc bày tỏ lòng hiếu khách. Đức Giêsu kể một câu chuyện về những người khách từ chối lời mời đến dự tiệc. Khi từ chối, họ không hành động do những động cơ xấu xa, nhưng do những động cơ tốt đẹp. Người thì muốn đi thăm mảnh đất mà họ mới tậu được. Người khác lại muốn thử con bò mới mua. Người thứ ba thì vừa mới cưới vợ. Tuy nhiên, mặc dù những nguyên nhân của họ đều tốt hảo cả, thì hậu quả vẫn như thể họ là những người tồi tệ – họ đã để cho bữa tiệc trôi qua.
Trong dụ ngôn về người gieo hạt, Đức Giêsu nói rằng một số hạt bị chết ngạt do gai góc. Những “bụi gai” này bao gồm cái gì vậy? “Những lo lắng và quan tâm đến thế gian này, và sự quyến rũ của giàu sang”. Một lần nữa, những điều này không phải tự chúng xấu xa. Từ tất cả những điều này, chúng ta phải suy ra điều gì? Đó là chúng ta có thể có nhiều điều đáng e sợ từ việc tốt cũng như việc xấu. Sau hết, khi nhận thấy một điều nào đó rõ ràng là xấu, thì chúng ta phải cự tuyệt nhiều hơn là bị điều đó lôi cuốn. Do đó, điều này đặt ra nhiều nguy hiểm hơn. “Khi dát vàng vào đôi cánh chim, thì nó sẽ không bao giờ bay được”. Những điều cám dỗ chúng ta từ bỏ mục đích của mình không phải lúc nào cũng luôn luôn xấu xa. Thông thường, đó lại là điều tốt đẹp. Vì thế, thật khó mà kháng cự lại được. Những sự chọn lựa đau thương nhất thường ở giữa điều tốt và điều xấu. Quỉ dữ không xuất hiện giống như một nhân vật đáng ghê tởm. Nhưng nó xuất hiện như một nhân vật hấp dẫn, đáng mến, dễ thương, thậm chí là một người bạn nữa. Nó xuất hiện để đem lại ý thích tốt đẹp nhất trong tâm hồn bạn – như khi nó dâng bánh và tất cả các nước trên thế giới cho Đức Giêsu. Chúng ta cần có sự khôn ngoan và sức mạnh, để có thể kháng cự lại những chước cám dỗ, đặc biệt đối với những cám dỗ đến dưới chiêu bài tốt đẹp.
95.Tái tạo cuộc sống
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn xin đến, anh ta liền hỏi xin vị vua chút ít tiền. Vị vua không hề cho người đó một đồng nào cả. Thay vào đó, vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn xin nhận lời mời của nhà vua.
Đến ngày hẹn, người ăn xin tìm đường đi đến cung điện, và được đưa đến gặp nhà vua, anh ta bỗng nhận ra quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh.
Vốn là một loại người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng nàn, tỏ lòng thương xót anh, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn xin vẫn lê lết trên đường phố xin ăn trong bộ quần áo rách nát của anh ta.
Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh phải sống một cuộc sống mới. Điều đó có nghĩa là anh phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn xin. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh. Nó rất hấp dẫn. Chỉ vì anh biết rằng một sự thay đổi trong cuộc sống sẽ cần phải từ từ, gây đau xót và không chắc chắn. Nói cách khác, anh quá quen thuộc với thói quen cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình, tùy thuộc vào những thói quen đã có từ nửa đầu cuộc đời mình. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Đức Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa. Nếu muốn mặc một cái áo mới, thì chúng ta phải vứt bỏ cái áo cũ. Việc mặc cái áo mới sẽ lôi kéo theo một lối sống mới.
Nếu mong muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Trước hết, thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đó là “Mùa xuân thánh thiện” của Giáo hội. Trong suốt mùa chay, những người dự tòng được chuẩn bị nhận lãnh phép Rửa tội, để được tái sinh trong Đức Kitô. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân vậy. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới Mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì? Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta dẹp bỏ được những mảnh rách của tội lỗi, để Người có thể mặc cho chúng ta chiếc áo mới của sự sống.
96.Cầu nguyện để vượt qua cám dỗ--Huệ Minh
Ngày còn bé, chẳng được đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và vài vùng lân cận. Chính vì thế, chẳng biết được đường đèo trắc trở là gì? Chỉ nghe ai đi về kể hay chỉ xem trên màn hình của TV.
Lớn lên một chút, có dịp đi hành hương La Vang để thăm Mẹ. Chính nhờ chuyến đi La Vang đó mà tận mắt thấy được nhiều đoạn đường quanh co và nguy hiểm. Có lẽ trắc trở nhất chính là đoạn đường đèo Hải Vân.
Khi đi qua đường đèo Hải Vân, đâu đó hai bên đường người ta lập những miếu thờ để thờ những nạn nhân không may mắn. Tai nạn xảy ra có thể bất cẩn từ phía người lái nhưng cũng có khi bất cẩn từ người thợ máy, kỹ thuật xe để làm cho chiếc xe không đủ an toàn khi leo đèo và nhất là khi xuống đèo. Chính vì sự chểnh mảng, thờ ơ hay cẩu thả đã để lại những tai nạn khôn lường và đáng tiếc.
Trên con đường đèo, dọc theo đường đèo, ta thấy rất nhiều bảng cảnh báo, nhiều bảng chú ý để cảnh báo người lưu thông nhằm tránh gây tai nạn đáng tiếc. Với mức độ nguy hiểm như vậy, dĩ nhiên những ai đi trên đèo đều hết sức cẩn thận, tỉnh cáo và đề cao cảnh giác đến mức tối đa.
Khi đi hành hương chung với nhau, với những người tâm linh theo đạo Công Giáo chắc có lẽ có thói quen lần chuỗi, cầu nguyện để cho mọi chuyện tốt đẹp khi lên đèo và tạ ơn Chúa và Mẹ sau khi đổ đèo được an toàn.
Thường là như vậy, khi bước lên xe, khi đi qua những đoạn đường nguy hiểm người ta thường đọc kinh cầu nguyện, xin ơn bình an. Cũng thế, ta thấy rằng khi cuộc sống của ta đứng trước bờ vực của sự nguy hiểm ta cũng ra sức cầu nguyện và xin ơn.
Con người là như vậy để rồi ta thấy chính Chúa Giêsu cũng như thế khi gặp những khó thăn, thử thách của cuộc đời.
Chúa Giêsu bước vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú. Nhưng, ta để ý, chính Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và rồi sau khi vào rồi thì có các Thiên Thần hầu hạ người.
Vấn đề lớn, vấn đề chính yếu đó chính là Thần Khí Chúa thúc đẩy, Thần Khí Chúa tác động và dĩ nhiên có ơn của Chúa Thánh Thần ở với Chúa Giêsu. Cùng theo đó, các Thiên Thần hầu hạ Chúa và điều đặc biệt hơn cả phát xuất tự nơi Chúa Giêsu đó chính là việc Chúa Giêsu đã ăn chay và cầu nguyện.
Giữa những thử thách của cuộc đời, chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện thì khi đó ta kết hợp mật thiết với Chúa và khi đó ta mới vượt qua những cơn cám dỗ mà thôi. Chuyện dễ hiểu bởi lẽ trong ta luôn luôn có sự giằng co của con người xác thịt và con người Thần Linh.
Bản thân mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội ắt hẳn được Thiên Chúa ghi dấu ấn trong đời và có Chúa ở cùng. Cạnh đó, mỗi người đều có một vị thiên thần bản mệnh đi theo mình để giúp mình, định hướng sống cho mình và giúp cho mình vượt qua những cơn gian nan thử thách trong cuộc đời.
Trải qua dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta thấy cầu nguyện, ăn chay, hãm mình hết sức cần thiết cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta. Như hơi thở của cuộc sống, cầu nguyện cũng như thế. Thân xác ta, nếu ta không khổ chế, ta không hãm mình thì ta sẽ dễ hưởng thụ để chu cấp những đòi hỏi cho thân xác này.
Cũng dễ hiểu vì lẽ con người là con người phàm xác thịt để rồi cứ bị giằng co của thân xác, đặc biệt với quyềm, danh, tình... Những thứ đó dường như nó giằng co, nó không chế con người. Nếu như con người không biết mình là ai, không biết được giới hạn của mình sẽ dễ đi vào con đường của hưởng thụ. Từ hưởng thụ đó, con người sẽ dễ buông mình để đi theo những cám dỗ của nó.
Lời thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa cất lên thật hay:
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa;
xin dạy bảo con về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con,
vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
Và như vậy, ta cứ mãi mãi chạy đến Chúa, xin Chúa hướng dẫn cuộc đời ta để ta luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Có như thế, ta mới có thể vượt qua những cơn cám dỗ bên đời ta.
17/02 Tin mừng của lòng thương xót.
- Viết bởi Lc 5, 27-32
Tin mừng của lòng thương xót.
Thứ Bảy sau lễ Tro.
“Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Lời Chúa: Lc 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta”. Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.
Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kêu gọi người tội lỗi sám hối
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ
phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.
Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.
Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.
Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi
giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.
Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,
họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.
Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”
Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.
Chỉ một lời mời của ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.
Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.
Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.
và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.
Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,
vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.
Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,
khi ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.
Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.
Trong số khách mời có cả các môn đệ.
Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.
Hẳn là ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.
Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.
Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.
Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).
Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.
Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),
nên ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.
Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.
Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.
Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.
Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.
Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.
Trước khi làm cho người khác hoán cải,
chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Suy Niệm 2: Tin mừng của lòng thương xót
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm qua, I-sai-a đã chỉ cho ta cách ăn chay đẹp lòng Chúa là sống tình bác ái với tha nhân. Hôm nay I-sai-a còn đi xa hơn khi cho thấy tình yêu thương có sức biến đổi thế giới, sửa chữa và tái thiết thế giới bị hủy hoại, đem lại sự sống đã suy tàn. Ngài nói: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối.. Nhờ ngươi người ta sẽ tái thiết những tàn tích cổ xưa, ngươi sẽ dựng lại những nền móng của các thế hệ trước, người ta sẽ gọi ngươi là người sửa lại những lỗ hổng, là kẻ tu bổ phố phường cho người ta cư ngụ”.
Điều đó hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Đặc biệt với việc Chúa đến bàn thu thuế và kêu gọi Matthêu. Việc kêu gọi Mat-thêu nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Người đưa mắt nhìn Mat-thêu. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt. Nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót, Chúa kêu gọi Mat-thêu, một người tội lỗi, làm tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Matthêu. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
Thế giới hôm nay như sau một trận chiến để lại biết bao người mang thương tích, biết bao hoang tàn đổ vỡ. Cần có lòng thương xót để chữa lành vết thương, tái thiết thế giới. Chính trong bản thân ta đang có đổ vỡ, có nhiều vết thương. Xin lòng thương xót của Chúa đến băng bó và chữa lành ta.
Suy Niệm 3: Tin mừng của lòng thương xót
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.
Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.
Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.
Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
Suy Niệm 4: Trở về
Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)
Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.
Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.
Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.
Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.
Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.
Suy Niệm 5: Từ bỏ... và đi theo để làm lại cuộc đời
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thấy đây đó có những người đạo đức tốt lành xuất hiện như một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo! Tuy nhiên, trong số đó, không thiếu những thành phần ăn chơi trác táng một thời; đầu trộm đuôi cướp khét tiếng; hay cũng không thiếu những vị trước đó buôn gian bán lận, sống bằng nghề nhàn hạ khi cho vay nặng lãi trên xương máu của anh chị em mình...
Tại sao họ lại có một sự thay đổi đến lạ thường như vậy? Thưa! Bởi vì họ đã biết dừng lại, nhận thấy mình đi sai đường và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nên họ thay thái độ để đổi cuộc đời trong ân sủng của Người.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy một Mátthêu ăn trên ngồi trước, hà hiếp, bóc lột, phản dân, hại nước khi sống bằng nghề thu thuế cho đế quốc! Nhưng hôm nay, trên chiếc ghế đã gắn liền cuộc đời ông với cái nghề đáng nguyền rủa; trên chiếc bàn đã là bệ kê cho ông chắp bút để ghi những con số nhơ nhớp, bẩn thỉu nhằm thu lại những đồng tiền khốn cùng nơi anh chị em đồng loại của ông. Nhưng chính một thứ tội không thể tha, một con người đáng khinh bỉ, thì hôm nay, tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu ngang qua ánh mắt cảm thông, trìu mến và lời mời gọi đầy yêu thương: "Anh hãy theo tôi!", đã đảo lộn tất cả. Vì thế, như cá gặp nước, Mátthêu đã sẵn sàng đứng dạy, từ bỏ nơi chốn tội lỗi, và dứt khoát quay lưng lại với cái nghề ám muội để đi theo và làm môn đệ cho Đức Giêsu.
Từ khi bước theo Thầy Chí Thánh, ông đã trở thành người đầy kinh nghiệm về Thiên Chúa tình thương, và luôn mang trong mình tâm tư, nguyện ước của Thầy. Sau này, ông đã viết lại một con người vĩ đại đã cải hóa cuộc đời ông nơi những trang Tin Mừng đầy sống động.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối như Mátthêu và có lòng nhân từ như Đức Giêsu. Đồng thời tránh xa và không được lưu trữ thái độ coi thường, khinh bỉ, cố chấp như những người Pharisêu trong tâm trí của mình, bởi vì trên đời này có ai là vô tội đâu? Tự nhận mình là người xứng đáng và coi khinh kẻ khác là dấu hiệu của một tâm hồn trống rỗng, kiêu ngạo, thích đi theo và làm môn đệ cho ma quỷ chứ không phải là môn sinh của Thầy Giêsu.
Thật vậy, nếu là học trò của Đức Giêsu, chúng ta phải hiểu và thấm câu nói của Thầy mình: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” vì “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết khiêm tốn, lắng nghe lời mời gọi của Chúa, để sẵn sàng đi theo và làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương và nâng dạy những người tội lỗi như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu luôn mở rộng trái tim để đón nhận tất cả mọi người, đặc biệt Ngài yêu thương và đón nhận các tội nhân trở về với Chúa. Là tội nhân, tôi đã sẵn sàng trở về với Chúa chưa?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm phục Chúa đã tự mình đi đến với tội nhân trước, gặp gỡ và sống thân tình với họ. Điều quan trọng là chính Chúa đã đến và gọi đích danh từng người. Chúa quan tâm tới hết mọi người, nhất là thành phần vô danh trong xã hội, bị xã hội lên án, ruồng bỏ hoặc coi thường. Chúa đã gọi ông Lê-vi. Hôm nay Chúa cũng đi tìm và gọi con.
Lạy Chúa, ông Lê-vi đã đứng dậy, nghĩa là ông đã dứt khoát từ bỏ đường lối cũ. Hôm nay, Chúa cũng kêu mời con giã từ nếp sống ươn lười, tội lỗi. Xin ánh sáng Tin Mừng của Chúa soi chiếu tâm hồn con, để con nhận ra con người thật của mình, một con người mang nhiều yếu đuối và khuyết điểm.
Ông Lê-vi đã đi theo Chúa, nghĩa là hoàn toàn phó thác, cậy nhờ Chúa, sống với Chúa và vì Chúa. Xin sức mạnh của Chúa Quyền Năng tác động nơi con, để con đủ nghị lực đi theo Chúa, dám can đảm sống điều Chúa truyền dạy. Tự sức mình, con không thể thực hiện được những điều ấy. Nhưng với ơn Chúa, con sẽ làm được.
Lạy Chúa, ông Lê-vi đã mở tiệc mời Chúa. Nhưng ngày nay, chính Chúa đã mở tiệc mời con tham dự. Con được tham dự Bàn Tiệc Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Chúa tự nguyện đứng lên phục vụ con. Chúa tự hiến chính mình để trở thành lương thực nuôi sống con. Nay con nhận ra tình Chúa yêu thương con và con quyết tâm đứng dậy trở về với Chúa.
Lạy Chúa, xin đón nhận con. Amen.
Ghi nhớ: “Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế Lêvi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
- Đúng, anh ta nhập đạo thật.
- Sao anh biết?
- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với quy cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận Đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
Suy Niệm
Khi nghe tiếng gọi của Đức Kitô, người thu thuế Lêvi đã bỏ tất cả để cất bước theo Ngài, bỏ cả một nghề nghiệp đang hốt bạc của người thu thuế, bỏ cả một quá khứ tội lỗi để Chúa Kitô thánh hiến trở thành môn đệ Ngài…
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa lại là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình... Họ là hình ảnh của những gì xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình.
Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi…
Thế nhưng Đức Kitô đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, tiếp xúc với bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi (x. Mt 9,10-13; Mc 2,15-17; Lc 5,8; 7,36-50; 15,1-2; 19,7). Họ là người bệnh, người mang vết thương, Đức Giêsu đến chữa lành cho họ. Ngài sẵn sàng đồng bàn, nghĩa là cùng chia sẻ gánh nặng tội lỗi. Ngài mang nó lên thập giá và tiêu diệt nó nhờ cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài (x. 1Cr 15,25-26). Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc khi Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa lành những người bất hạnh, trong đó có cả những tội nhân. Trên thập giá, Ngài xin ơn tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài (x. Lc 23,34).
Chúng ta có bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài - vị thầy thuốc băng bó, chữa lành, và làm công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài - vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Ý lực sống:
“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).
Suy Niệm 8: Đức Giêsu kêu gọi ông Lêvi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phụng vụ hôm nay chọn bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Lêvi, để trình bầy cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, để khích lệ chúng ta là kẻ có tội biết trông cậy vào Thiên Chúa tình thương.
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu thực hiện điều đó. Cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố: ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.
2. Nghề thu thuế thời Đức Giêsu.
Một trong những tội bị người dân ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Lêvi làm việc cho Rôma đang cai trị dân Do thái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giầu trên mồ hôi nước mắt của dân.
Người Do thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng ngang hàng với gái điếm, phải bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội đường. Lêvi biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giầu sang.
3. “Tôi đến kêu gọi người tội lỗi”.
Ai cũng biết, một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì không còn là bệnh viện; người khỏe mạnh thì không cần đến bác sĩ. Cũng thế, Đức Giêsu không còn là Đấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những người tự phụ cho mình là người công chính không cần đến Thiên Chúa.
Luật Do thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng lõa với tội lỗi, nhưng Đức Giêsu đã vượt lên tất cả. Chúa cứ gọi ông. Ngài không nhìn quá khứ của Lêvi, nhưng nhìn ông bắt đầu từ lúc ông và Ngài gặp nhau, còn quá khứ của ông thì Ngài đã quên hết rồi.
Người Do thái coi người thu thuế là hạng tay sai cho đế quốc, hạng người mang tiếng là ăn bẩn, tội lỗi. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, luật sĩ, tư tế luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa lại nói với họ: ”Ta đến không để gọi những người công chính, mà là gọi những người tội lỗi” và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”.
4. Lòng thương xót của Thiên Chúa.
Việc kêu gọi Lêvi nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Ngài đưa mắt nhìn Lêvi. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt, nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót Chúa kêu gọi Lêvi, một người tội lỗi, làm Tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Lêvi. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
5. Một phút hồi tâm.
Câu chuyện ơn gọi của Lêvi lại một lần nữa khẳng định, Đức Giêsu gọi ai thì Ngài không quan trọng đến thời điểm nào, lý lịch ra sao mà trên hết tất cả là Ngài nhìn thấy nơi ta có dám sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Chúa không?
Ngày hôm nay, nếu bạn đang ngồi nơi bàn giấy quyền cao lương hậu, đang vui thích với công việc đầy lợi nhuận... nếu Chúa gọi bạn theo ơn gọi tu trì, bạn có dám bỏ lại để theo Ngài không. Khi phải lựa chọn giữa một bên là đức tin và lề luật Công giáo và một bên là danh lợi vật chất, bạn có dám chọn Chúa không?
Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm Tông đồ cho Chúa. Thế nhưng, bạn có đáp lại lời mời gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn trở nên nặng trĩu trước lời kêu gọi?
6. Truyện: Cải tà qui chính.
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này”. Tác phẩm thuật lại viêc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tai hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: ”Tôi bầy tỏ với Chuá những gì có trong trái tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể khóc được... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: ”Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: ”Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: ”Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi Lê-vi
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A.- Phân tích (Hạt giống...)
Bài đọc I trích sách Isaia tiếp tục nói về kiểu ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa, đó là chấm dứt những việc làm bất công, rộng tay cứu giúp những người đói khổ, tôn trọng ngày hưu lễ.
Bài trích Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu thực hiện điều đó: cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố “Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Tôi muốn sống cảnh tượng của Lêvi:
- Tôi là người tội lỗi
- Tôi đang “ngồi” yên tại “bàn” tội lỗi của tôi.
- Chúa đang “đi ngang” qua, Ngài “trông thấy” tôi rồi, Ngài “nói với” tôi: Hãy đi theo Ta.
- Tôi “bỏ mọi sự” - Tôi “đứng dậy” - Tôi “theo Người”.
2. Nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và các phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết trên thánh giá. Ngồi trước bục giảng là viên tù trưởng. Ông chăm chú nghe lời nhà truyền giáo. Khi ngài tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá, vị tù trưởng bổng đứng phắt dậy nói: ”Ngừng lại! Hãy đem Ngài xuống khỏi thánh giá! Tôi mới là người đáng phải đóng đinh trên đó, chứ không phải Ngài!” Vị tù trưởng nghĩ rằng mình mới là tội nhân, còn Chúa Giêsu vô tội. (Góp nhặt)
Suy Niệm 10: Thầy thuốc Giêsu chữa bệnh nhân Lê-vi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong tất cả những người sống ở Palestine, thì những người làm nghề thu thuế là những kẻ bị khinh miệt hơn hết. Người Do Thái liệt những người thu thuế vào chung với những tên trộm cướp, sát nhân.
Những người thu thuế bị người Do Thái coi khinh cũng phải bởi vì họ thường lạm dụng quyền hành của mình để sách nhiễu làm khổ dân chúng. Tại sao thế? Thưa, vì hệ thống thuế má đã tạo ra nhiều cơ hội cho những lạm dụng như thế.
Người Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế. Họ ấn định một mức thuế nào đó cho một vùng. Họ bán quyền thu thuế cho ai trả giá cao nhất, miễn là cuối năm người đó nộp đủ số tiền ấn định là được. Ngoài ra thì người thầu được quyền giữ lại bất kỳ món tiền nào họ thu thêm được từ dân chúng. Đây là điểm dễ sinh ra những lạm dụng nhất.
2. Vậy mà Chúa Giêsu đã chọn một người bị xã hội khinh rẻ như thế làm môn đệ Ngài.
Chúa Giêsu không phải không biết điều đó. Thế nhưng, cái nhìn của Chúa trên con người này thật khác xa với cái nhìn thông thường của dân chúng. Trước mặt Chúa, Lêvi là một con người bệnh hoạn đang cần đến Thầy thuốc và Chúa Giêsu chính là thầy thuốc mà con người này cần đến. Chính cách đối xử bao dung của Chúa đã làm cho Lêvi được khoẻ mạnh lại và hơn nữa còn làm cho ông trở thành một dụng cụ đắc lực trong tay của Chúa sau này.
Sự bao dung thường đem lại những thành quả tốt đẹp, nhiều khi con người chúng ta không lường được.
Ngày 17/7/1990, cả thế giới thương tiếc vì sự ra đi của bà Peggy Mann. Bà đã an bình ra đi để lại bao luyến nhớ cho gia đình cũng như cho nhiều người trên toàn thế giới. Lý do vì bà là một người đã có những cống hiến và những hoạt động không biết mệt mỏi cho việc chống ma túy. Bà đã mang lại rất nhiều lợi ích cho nhiều người. Trước khi nhắm mắt từ giã cõi đời, nhìn thấy bên giường có chồng và con gái thân yêu, bà đã thầm nói với người con gái: “Mẹ mãn nguyện, con gái của mẹ, về những bài mẹ viết để chống lại ma túy”. Kéo ông đến gần hơn, bà nói rất rõ bằng một giọng xúc động: “Em yêu anh biết bao!” Đó là câu nói cuối cùng của bà.
Sau khi bà Peggy nằm xuống, con gái bà là cô Jenifer Mann đã kể lại câu chuyện sau đây, một mặt như bổ sung vào công trình của mẹ một phương pháp nữa trong nỗ lực đẩy lùi tệ nạn nghiện ngập ma túy, và mặt khác cũng để cho mọi người biết, nguyên nhân nào đã thúc đẩy và tạo quyết tâm cho bà, để bà nỗ lực làm việc không biết mệt mỏi chống lại với ma túy để bảo vệ gia đình.
Cô nói “Khi mẹ tôi biết tôi dùng ma túy, bà rất khổ tâm nhưng chưa vội nói gì. Từ hôm ấy, bà bắt đầu đọc các sách báo nói về ma túy để tìm hiểu tính chất độc hại và các hậu quả mà ma túy gây ra. Bà đọc một cách cặn kẽ, chính xác và đầy đủ. Hai tuần sau, mẹ tôi gọi tôi lại và nói:
- Mẹ biết là con không muốn mẹ giảng giải dài dòng về tác hại của ma túy. Thôi thì từ nay mỗi tối, khi nghe đồng hồ đổ “binh binh” báo hiệu giờ đi ngủ, mẹ sẽ nói cho con biết một điều rất ngắn về ma túy thôi.
Tôi không phản đối gì. Đêm đầu, khi đồng hồ đổ “binh binh”, mẹ tôi nói: “Con có biết không, chỉ hút 3 điếu thuốc có ma túy là làm hại phổi bằng 20 điếu thuốc lá bình thường không?”. Đêm thứ hai: “binh binh” “Con có biết là hút ma túy liên tục thì hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể bị hủy hoại không?”. Đêm thứ ba “binh binh”, “Con có biết ma túy có hại đến đời sống tính dục, làm phụ nữ có thể sinh ra quái thai không?” Tất cả những điều mẹ tôi nói đều rất chính xác và có những số liệu chứng minh rõ ràng. Bà nói với tôi bằng một giọng thật bình tĩnh và tràn đầy yêu thương với mong ước cho tôi hiểu tác hại khôn lường của ma túy và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời.
Một đêm, tôi ngồi trên giường, hai tay ôm đầu suy nghĩ. Lòng tôi dâng tràn tình yêu dành cho mẹ, Tôi khóc và chạy sang phòng bà. Hình như đêm đêm bà đều chờ đợi tôi như vậy. Tôi ngã vào vòng tay mẹ tôi trong dòng nước mắt và lời nói nghẹn ngào, tôi thì thầm trên ngực bà: “Con nhất định từ bỏ ma túy”. Hai tay bà nâng mặt tôi lên và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi thấy nụ cười rạng rỡ, ánh mắt vui mừng của mẹ và cả hai hàng nước mắt đầm đìa trên má. Bà ôm chặt tôi vào lòng và khẽ nói vào tai tôi: “Ôi! Con yêu.... con yêu”. Và từ giây phút đó cuộc đời tôi hoàn toàn đổi khác.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ lòng bao dung của Chúa. Xin cho chúng con một quả tim rộng lớn bao dung, để chúng con cũng biết tha thứ và cảm thông với mọi người. Amen.
16/02 Ý nghĩa của việc ăn chay
- Viết bởi Mt 9, 14-15
Ý nghĩa của việc ăn chay.
Thứ Sáu sau lễ Tro.
“Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Lời Chúa: Mt 9, 14-15
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”
Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chàng rể bị đem đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Có một sự khác biệt về lối sống giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.
Gioan sống khổ hạnh nơi hoang địa, ông lôi kéo người ta đến với ông.
Ông dọa tội nhân về cơn thịnh nộ mà Thiên Chúa sắp giáng xuống.
Còn Đức Giêsu thì đến với những kẻ tội lỗi, bị xã hội loại trừ,
ăn uống vui vẻ với họ vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 11, 18-19).
Sau khi Gioan đã bị tống ngục (4, 12)
các môn đệ của ông vẫn tiếp tục hoạt động (11, 2-6).
Chắc họ khó chịu khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không ăn chay,
không có vẻ khắc khổ, nhiệm nhặt như họ hay như người Pharisêu,
nên họ hỏi thẳng Thầy về chuyện này (c. 14).
Thầy Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi khác (c.15):
“Khách dự tiệc cưới có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ sao?”
Dĩ nhiên là không rồi!
Câu nói của Thầy Giêsu cho thấy bầu khí Thầy-trò trong nhóm
là bầu khí vui tươi ấm áp, bầu khí của một tiệc cưới.
Thầy là chàng rể, còn trò là khách dự tiệc.
Thời gian Thầy ở với các môn đệ là thời gian hạnh phúc cho họ.
Trong Cựu Ước, hình ảnh chàng rể để chỉ Thiên Chúa (Is 62, 4-5),
Đấng kết duyên cầm sắt với dân Ítraen (Hs 2, 21-22).
Còn ở đây Đức Kitô kín đáo nhận mình là chàng rể.
Chàng rể là nhân vật chủ yếu của tiệc cưới.
Tiệc cưới ấy chính là Nước Trời được ngài khai mở (Mt 22, 1-14; 25, 1-13).
“Nhưng sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ…” (c.15).
Đây không phải là một lời tiên báo rõ ràng về cuộc khổ nạn,
nhưng là một ám chỉ đến cái chết bất ngờ sắp xảy ra.
Chàng rể Giêsu chẳng ở luôn với các môn đệ (Mt 26, 11).
Có ngày họ sẽ không còn thấy Thầy nữa, “bấy giờ họ mới ăn chay.”
Ăn chay đối với Kitô hữu là thái độ chuẩn bị ngày Thầy trở lại.
Ăn chay làm ta nhẹ nhàng để chờ ngày gặp Chúa diện đối diện.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường việc ăn chay.
Ngài đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ (Mt 4, 2).
Hội thánh sơ khai cũng gắn liền cầu nguyện với ăn chay (Cv 13, 2-3)
Thánh Phaolô vẫn ăn chay, dù vất vả với tông vụ (2 Cr 6,5; 11, 27).
Để rước lễ, chúng ta phải kiêng ăn uống khoảng một giờ.
Ngày thứ sáu vẫn là ngày kiêng thịt theo luật chung của Hội thánh.
Ước gì việc ăn chay làm ta gặp Chúa, gặp anh em và gặp lại chính mình.
Cầu nguyện;
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,
sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.
Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,
Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.
Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,
và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,
nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,
Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,
Chúa đã bảo nhà ông trưởng hội đường cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,
và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó.
Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng
con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,
con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất
mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.
Xin dạy chúng con chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,
và đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho.
Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước lạnh được trao đi,
một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,
và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày
mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng
dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.
Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa
và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời. Amen.
Suy Niệm 2: Chay tịnh
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chay tịnh là một thực hành tôn giáo có từ lâu đời. Nhưng nhiều khi biến thành hình thức. Đánh mất ý nghĩa thực sự. Thực ra chay tịnh là để hãm dẹp xác thịt. Kềm chế dục vọng. Loại trừ tính hư tật xấu. Từ bỏ cái tôi. Để Thiên Chúa ngự trị. Khi có Thiên Chúa ngự trị ta đạt đến đích điểm của đạo rồi. Khi đó đạo trở thành niềm vui. Chỉ khi ta phạm tội, lạc mất Thiên Chúa, ta mới phải ăn chay. Như Chúa Giê-su dạy: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Vì thế từ xa xưa các tiên tri đã quyết liệt đả phá thói ăn chay hình thức. “Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vài thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?”
Tệ hơn nữa ăn chay trở thành giả hình. Và nhất là trở thành phản chứng. Vì khi ăn chay vẫn còn lo kiếm lợi nhuận bằng áp bức tha nhân. Vẫn còn chia rẽ bất hoà, thậm chí hành hung người khác: “Này ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn”.
Chúa cho biết cách ăn chay đẹp lòng Chúa là quan tâm đến người nghèo khổ. Chia sẻ vật chất với người túng nghèo. Giải phóng kẻ bị tù tội. “Cách ăn chay mà ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”
Ăn chay là để kết hợp với Chúa. Vì thế ăn chay phải quan tâm phục vụ tha nhân. Vì Chúa ở trong tha nhân. Đặc biệt những người anh em nghèo khổ bất hạnh. Vì thế ăn chay là phải hãm dẹp bản thân. Bớt chi tiêu. Để giúp người nghèo. Khi đó ta gặp được Chúa. Khi đó ăn chay đạt tới ý nghĩa đích thực.
Suy Niệm 3: Ý nghĩa của việc ăn chay
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.
Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.
Suy Niệm 4: Thái độ dứt khoát.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Suy Niệm 5: Tại sao phải ăn chay?
Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “ Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay”. (Mt. 9, 14-15)
Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay suốt cả mùa chay. Nói đúng nghĩa ăn chay là nhịn ăn uống. Người ta có thể tưởng rằng Giáo hội có lý nhắc nhở một điều quan trọng cho chúng ta cần ăn chay vì ăn quá nhiều như ở Mỹ làm mình phì nộn và nhồi tọng đủ thứ trong khi bao nhiêu người trên thế giới thiếu ăn mỗi ngày. Nhưng không phải vì những lý do đó mà Giáo hội khuyến khích ăn chay. Giáo hội có nhiều lý do khác.
Giáo hội đánh giá rằng ăn chay là cách tốt nhất để chúng ta mở lòng hướng về Thiên Chúa và tiếp rước Ngài. Giáo hội tin tưởng rằng trong khi thiếu ăn uống, tự nhiên chúng ta thấy mình là tạo vật yếu đuối cần phải nương tựa vào Đấng gìn giữ, bảo đảm sự hiện hữu của muôn loài. Ăn chay nhất thiết làm cho chúng ta cảm nghiệm ngay trong xác thịt mình thấy rằng đời sống chúng ta và bản chất chúng ta đều bởi Thiên Chúa ban.
Giáo hội khuyến khích ăn chay vì lý do thứ hai: ăn chay là phương thế tốt nhất để chuẩn bị chúng ta mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Tất cả chúng ta đều biết tại sao nhiều người ăn mất ngon khi gặp cơn bối rối hay gặp cảnh chia ly. Sau một cơn cãi lộn, người ta không còn muốn ăn uống. Khi mất chồng, vợ bỏ ăn nhiều ngày. Ăn chay còn biểu lộ chúng ta hoàn toàn liên kết với Đức Ki-tô mà chúng ta yêu mến. Chúng ta ăn chay như thể là tưởng nhớ Đức Ki-tô và ra sức trông mong Người.
Đó là ý nghĩa của lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ở với chúng ta, nhưng chúng ta không hoàn toàn kết hợp với Người. Người đã đến giữa chúng ta, nhưng một ngày kia, Người lại đến trong vinh quang. Trong khi ăn chay, chúng ta tỏ hết lòng thiện chí được thấy Người lại đến để chúng ta hợp nhất với Người trọn vẹn cho đến muôn đời.
J.Y.G
Suy Niệm 6: Giữ chay đúng nghĩa
Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.
Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.
Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy thường xuyên nhắc tới việc ăn chay, chẳng hạn như: vua Đavít ăn chay để cầu nguyện cho con khỏi ốm; từ triều đình đến thường dân thành Ninivê đã đáp lại lời mời gọi của tiên tri Giona nên ăn chay và sám hối để thoát khỏi tai họa...
Sang thời Tân Ước, Gioan Tẩy Giả cũng ăn chay và sống khổ hạnh trong sa mạc để chuẩn bị loan báo Đức Giêsu; đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng việc chay tịnh và cầu nguyện 40 ngày trong hoang địa sau khi chịu phép Thánh Tẩy; không những thế, Ngài thường xuyên nhắc các môn đệ phải ăn chay, cầu nguyện và Ngài còn cảnh báo các ông, nếu muốn trừ được quỷ thì phải ăn chay và cầu nguyện.
Như vậy, vấn đề chay tịnh là vấn đề quan trọng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hôm nay, khi các môn đệ của Gioan đến hỏi Đức Giêsu về việc: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?", nhân cơ hội này, Đức Giêsu mặc khải cho biết ý nghĩa đích thực của việc ăn chay.
Ăn chay là để chờ đón Chúa đến, nhưng Ngài đang ở giữa họ thì không có lý do gì để ăn chay nữa. Nếu ăn chay lúc này là mâu thuẫn, chẳng khác gì vải mới vá áo cũ, hay rượu mới đổ vào bầu da cũ vậy!
Ý nghĩa chính yếu của việc giữ chay chính là đền tội, hãm dẹp những khuynh hướng xấu xa, đê tiện, tội lỗi, từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, sống liên đới, yêu thương, tha thứ, giúp đỡ người nghèo..., nhất là tin vào Tin Mừng.
Xin Chúa giúp sức, để mỗi người chúng ta sống tinh thần của Mùa Chay thật sốt sắng và ý nghĩa, ngõ hầu chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tân Lang của tiệc cưới Nước Trời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Việc chay tịnh phải là hành vi đức tin hướng về Đấng sẽ lại đến, và là việc con người đi tìm Đấng mình yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Tân Lang của tiệc cưới Nước Trời. Chúa đem lại cho con niềm vui được kết hiệp với Chúa. Ngày xưa Chúa đã muốn dân riêng Chúa giữ chay để nuôi dưỡng lòng khát vọng mong chờ Chúa. Họ ăn chay để sám hối, để trở về, để nhận biết Chúa khi Chúa đến cư ngụ giữa loài người. Các môn đệ đã được diễm phúc bước đi theo Chúa. Dù không ăn chay như bao người khác, nhưng các ngài đã không ngừng trở về, không ngừng khát mong được Chúa tỏ mình ra. Con thấy các ngài có một trái tim đang yêu đi tìm kiếm Đấng mình yêu thương. Và các ngài bước đi theo Chúa trong niềm tin.
Trong khi ấy, Chúa đang hiện diện giữa dân, nhưng bao người chẳng đón nhận Chúa. Họ vẫn giữ chay tịnh nghiêm ngặt, nhưng lại chẳng tin Chúa. Việc họ giữ chay trở nên vô nghĩa, bị lạc hướng. Còn con, con vẫn giữ chay kiêng thịt, nhưng con chưa gặp Chúa, chưa nhận ra và bước đi theo Chúa trong từng phút giây cuộc sống. Giờ đây, khi hồi tâm, con đã nhận ra biết bao ngăn trở - như những sợi xích ràng buộc - không cho con sống thân tình với Chúa. Chúa ơi, xin cho con biết sống mùa chay trong thái độ biết tích cực cộng tác với ơn Chúa, để bỏ đi những ngăn trở, những ràng buộc đang trói cột con. Xin cho con cởi bỏ con người cũ với những đam mê lệch lạc, như tính chấp nhất, như lòng ích kỷ, như ý riêng xấu. Xin cho con không ngừng khát mong kiếm tìm Chúa và bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Xin ban cho con niềm vui được kết hợp mật thiết với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương cứu giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Suy Niệm 8: Ðức Giêsu chính là Tân Lang
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Ira Gillett, nhà truyền giáo ở miền Tây Phi Châu, kể rằng: những người dân bản địa thường đi bộ những đoạn đường dài, qua bệnh viện nhà nước để đến bệnh viện của các nhà truyền giáo chữa trị. Khi được hỏi tại sao mà phải vất vả như thế, trong khi ở bệnh viện nhà nước cũng có những y sĩ giỏi, họ đáp: “Các y sĩ có thể tài năng như nhau, nhưng bàn tay khác nhau!”. Thật thế, khác ở tấm lòng…
Suy Niệm
Đám cưới ở Do Thái là một dịp yến tiệc linh đình, kéo dài cả tuần, nhà cửa đôi tân hôn mở rộng để tiếp khách. Mọi người không phân biệt giàu sang đều được mời tham dự yến tiệc vui mừng…
Trong khi đó việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế, mọi người chay tịnh, như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới - tiệc cứu độ tình yêu, đem niềm vui đời đời cho chúng ta…
Khi tự xưng mình là tân lang, nghĩa là môn đệ của Ngài, là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang là Chúa Kitô đang hiện diện, có nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng: Ngài chính là Ðấng Cứu Thế - tân lang, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế - tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…
Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các môn đệ - những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là Tân Lang mang Tin Mừng - niềm vui Ơn Cứu Ðộ nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ, sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc.
Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).
Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự tiệc cưới nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế - Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ…
Ý lực sống: “Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4,4).
Suy Niệm 9: Nói về việc ăn chay
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng kể lại một phần cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người biệt phái về vần đề ăn chay, chúng ta thấy nhân cuộc tranh luận này, Đức Giêsu đã bộc lộ cho mọi người biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.
Luật cũ chỉ buộc người Do thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội (Lc 16,19-31). Ngoài ra thời Đức Giêsu, người ta còn giữ chay tự nguyện vào những ngày chay chung, vì lý do như để cầu mùa. Hơn nữa, còn có những ngày chay do cá nhân giữ vì lòng đạo đức, như nhóm biệt phái ăn chay mỗi tuần hai lần vào ngày thứ hai và thứ năm (x.Mc 2,18; Lc 18,12).
Hôm nay, rất có thể bữa tiệc của Lêvi (Matthêu) khoản đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài đã được tổ chức trùng vào ngày những người đạo đức và nhóm biệt phái ăn chay, nên các môn đệ của Gioan đã đến chất vấn Ngài.
2. “Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay”?
Đức Giêsu và các môn đệ được mời dự tiệc, có lẽ trùng vào ngày thứ hai hay thứ năm, ngày mà những người đạo đức thường ăn chay. Điều này làm cho các môn đệ Gioan, biệt phái và những người đạo đức thắc mắc.
Câu trả lời của Chúa vừa là một dụ ngôn vừa là một ám ngôn, Chúa đem trường hợp tiệc cưới ra để so sánh; chúng ta biết tiệc cưới nơi người Do thái thường kéo dài cả tuần lễ, như vậy, dĩ nhiên trong những ngày ấy, những người được mời dự tiệc không ăn chay. Rồi tự coi mình là chàng rể. Chúng ta biết trong Cựu ước, Thiên Chúa tự ví mình là chàng rể và Israel là nàng dâu. Như thế, khi tự nhận cho mình một hình ảnh mà Cựu Ước vẫn dùng để nói về Thiên Chúa thì Đức Giêsu đã đi rất xa trong tiến trình tự mạc khải chính mình, Ngài cho biết Ngài là Thiên Chúa đã đến giữa loài người.
3. Để cho dễ hiểu, chúng tôi xin trích lời giải nghĩa của cha Phạm Văn Phượng OP: Vậy là Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu xúc tích, Ngài vượt trên vấn đề được đặt ra để mạc khải xâu xa về bản thân và sứ mạng của Ngài: Sao lại bắt các môn đệ của tôi ăn chay giống như các anh? Họ đang dự tiệc cưới mà. Chính tôi là chàng rể đây, chàng rể mà Israel vẫn trông chờ, bao lâu tôi còn ở với họ thì họ đâu cần ăn chay, các anh ăn chay là để chờ đón Đấng Messia, còn các môn đệ của tôi đã nhận ra tôi là Đấng Messia. Vậy thì nếu họ cũng ăn chay để đón chờ Đấng Messia như các anh thì thật là phi lý, cũng giống như người đang dự tiệc cưới mà ăn chay vậy, nếu các anh muốn thấy họ ăn chay, thì chờ tới ngày chàng rể bị giết, họ sẽ ăn chay để than khóc.
4. Qua việc chất vấn của các môn đệ Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy chúng ta những bài học:
- Đừng học đòi những người bắt bẻ môn đệ Đức Giêsu về việc ăn chay bởi vì họ xét đoán người khác, bắt người khác làm theo ý của mình, bắt người khác phải giống như họ, tạo ra một khuôn mẫu để bắt người khác phải chiều theo ý mình.
- Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu, ta phải thay đổi cách sống cũ, từ suy nghĩ đến hành động, để mặc lấy cách suy nghĩ, cách hành động, cách sống mới cho phù hợp với Tin Mừng.
- Vải vá áo, rượu trong bình là hình ảnh diễn tả đời sống của tôi. Chúa muốn tôi bước theo Chúa thì cần phải thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin Mừng. Thay đổi tư tưởng, lời nói và hành động. Thay đổi để trở nên giống như Đức Giêsu, hiền lành, khiêm nhường, yêu thương phục vụ, khoan dung tha thứ...
5. Chay tịnh là việc cần phải thực hiện cách tích cực trong Mùa Chay, vì thế qua bài Tin Mừng hôm nay, Phụng vụ nhắc nhủ chúng ta về việc ăn chay và ý nghĩa của việc ăn chay; là để đền tội và được kết hợp với Chúa ở đời này và sống với Chúa đời sau.
Cố gắng đừng ăn chay hình thức nhất là để khoe khoang; người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. MT 6,16; Lc 18,12).
6. Truyện: Cái giá treo chuông.
Bên Trung quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đề khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi đến và hỏi:
- Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?
Nhà điêu khắc trả lời:
- Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.
Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.
Suy Niệm 10: Ăn chay đẹp lòng Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Bài đọc I trích sách Isaia nói về những kiểu ăn chay không đẹp lòng Thiên Chúa, đó là: ăn chay hãm mình bề ngoài nhưng trong lòng vẫn ích kỷ, bất công, chèn ép tha nhân. Kiểu ăn chay Chúa muốn là “Mở trói ác ôn, bật tung thừng ách, thả tự do cho người bị hành hạ, đập tan mọi thứ gông cùm, bẻ bánh chia cho người đói, cho kẻ vô gia cư trọ nhà, che thân cho người mình trần”.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy ta quy chiếu toàn thể cuộc sống về Ngài là chàng rễ của thời Tân Ước: vui mừng vì được sống với Ngài; khi phải xa Ngài vì tội lỗi thì ăn chay sám hối để mong được trở lại với tình Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Những cách ăn chay mà ngôn sứ Isaia khuyến khích cũng đáng cho chúng ta lưu ý:
- xoá bỏ những hình thức bất công, chèn ép: tôi có đang cố ý hay vô tình bất công, chèn ép ai đó không?
- chia xẻ và giúp đỡ cụ thể những người đau khổ: tôi có cơ hội làm những việc này không?
2. Bài Tin Mừng mời tôi suy nghĩ xem tôi đang còn sống trong tình thân với Chúa không. Nếu như, một cách nào đó, “chàng rễ đã bị đem đi” khỏi tâm hồn tôi, thì tôi phải ăn chay sám hối để được trở lại với tình Ngài.
3. “Hoả ngục chính là tha nhân” (Jean Paul Sartre). Nếu tôi đang là hoả ngục cho anh chị em tôi, tôi phải sửa đổi chính bản thân tôi. Nếu trong cộng đoàn của tôi, có ai đó đang là hoả ngục cho tôi, tôi hãy cố gắng cùng với Chúa sửa đổi người đó.
Suy Niệm 11: Chay tịnh là để được sống thân tình với Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng, ngay từ thời tiên tri Isaia mà chúng ta cũng đã thấy những hình thức ăn chay thật đáng cho chúng ta suy nghĩ.
- Chay tịnh không phải chỉ là kiêng khem những của ăn vật chất, hay bớt đi một phần ăn trong một bữa, mà là xoá bỏ đi những bất công, những chèn ép, áp bức nhau trong cuộc sống: chúng ta có đang cố ý hay vô tình bất công, chèn ép ai đó không?
- Chay tịnh còn là biết chia sẻ và giúp đỡ cụ thể những người đang đau khổ. Nếu có cơ hội làm những việc này, chúng ta có làm không?
2. Rồi qua bài Tin Mừng, Chúa còn đưa ra một hình thức chay tịnh độc đáo hơn. Chay tịnh là để được sống trong thân tình với Chúa và qua việc được sống thân tình với Chúa, con người biết sống với nhau như anh em nhiều hơn.
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, người ta đọc được câu chuyện sau đây:
Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.
Ngày ngày, các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều cho mỗi người.
Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi. Một người thì lại ốm o, buồn phiền.
Cả hai người được đưa đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, để xem họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không.
Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã Suy Niệm về những gì.
Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp:
- Trong suốt năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội tôi đã phạm. Từng giây, từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau:
- Suốt một năm qua, từng giây, từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi, vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa.
- Ngoài việc làm cho con người được gần gũi với Thiên Chúa, chay tịnh còn giúp con người làm chủ được mình. Và đây cũng là điều hết sức quan trọng. Làm chủ được mình thì con người sẽ tránh được rất nhiều lầm lỗi và sa lầy trong cuộc sống. Hầu như mọi thứ tội ác đều ít nhiều bắt nguồn từ sự không làm chủ được cuộc đời của mình mà ra.
Bên Trung Quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi ông đến và hỏi:
- Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?
Nhà điêu khắc trả lời:
- Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.
Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.
* Chay tịnh là để kềm hãm một trong những nhu cầu mạnh mẽ nhất của con người, đó là nhu cầu ăn uống để sinh tồn, để nhờ đó mà chúng ta có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức.
* Chay tịnh còn giúp cho chúng ta nhận diện được sự đói khát như thế nào, để nhờ đó chúng ta có thể cảm thông và chia sẻ được với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp với lòng bác ái chân thành của chúng ta.
Nhờ ăn chay như thế mà chúng ta khám phá ra được hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta cũng như trong mọi người, để cuộc sống đức tin chúng ta ngày càng có chiều sâu, giúp chúng ta cảm nhận được một cách rõ ràng hơn tình yêu thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta cũng như những người khác, để từ đó con người có thể sống yêu thương nhau nhiều hơn như lòng Chúa mong ước.
Lạy Chúa Giêsu, tiên tri Êlia kiên cường đến thế mà cũng đã có lúc mệt lả đuối sức trên đường lên núi Horeb, huống chi chúng con là những kẻ yếu hèn. Xin Chúa giúp chúng con sống Mùa Chay năm nay một cách nghiêm túc, để nhờ đó chúng con được hân hoan tiến bước theo Chúa trên hành trình đến dự tiệc vui Nước Trời. Amen.
15/02 Theo Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 9, 22-25
Theo Chúa Giêsu.
Thứ Năm sau lễ Tro.
“Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống”.
Lời Chúa: Lc 9, 22-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vác thập giá mình hằng ngày
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi nhìn các bạn đi dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Úc năm 2008
giành nhau chung vai vác cây thánh giá bằng gỗ, thật dài và nặng,
với vẻ mặt hớn hở vui tươi,
chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng vác thánh giá đâu có gì khó.
Nhưng khi phải đối diện với những thánh giá không bằng gỗ,
những thánh giá vô hình mà ta phải vác một mình,
chúng ta thấy khó hơn nhiều.
Không thể nói đến Đức Giêsu mà không nói đến thánh giá.
Thánh giá là cái giá Ngài trả cho cả một đời dám sống cho Cha
và cho con người, đặc biệt những người yếu thế.
Thánh giá nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha,
nhưng thánh giá cũng là kết quả của lựa chọn căn bản của Đức Giêsu.
Ngài đã chết như thế vì Ngài đã dám sống như thế.
Đức Giêsu dần dần ý thức rằng
nếu Ngài cứ tiếp tục làm chướng mắt giới lãnh đạo Do thái giáo,
gồm các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư (c. 22),
thì cái chết như Gioan Tẩy giả là điều Ngài sẽ không tránh khỏi.
Đức Giêsu có thừa cách để tránh cái chết.
Nếu Ngài đừng giảng dạy, đừng hành xử như đã quen làm.
Nếu Ngài đừng nhất quyết lên Giêrusalem, nơi nguy hiểm (Lc 9, 51)…
Nếu Ngài chiều sự tò mò của Hêrôđê bằng cách làm vài phép lạ (Lc 23, 8)…
Nhưng Đức Giêsu đã không sợ hãi lùi bước.
Ngài bình thản đón lấy định mệnh bi đát của mình khi nói với môn đệ:
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết…”
Ngài đón lấy chữ phải từ tay Cha, và tin mọi sự đều không ngoài ý Cha.
Đức Giêsu xác tín Cha sẽ không bỏ rơi mình,
Ngài tin vào kết thúc có hậu của đời mình:
“và ngày thứ ba Con Người phải được nâng dậy” (c. 22).
Chính Cha sẽ nâng ngài dậy từ cõi chết.
Định mệnh của Thầy Giêsu cũng là định mệnh của chính chúng ta.
Kitô hữu là người đi theo Thầy, đi cùng con đường với Thầy.
Vác thánh giá là chuyện bình thường hằng ngày của Kitô hữu
nếu chúng ta muốn sống yêu thương, phục vụ, trong trắng, thành thật…
Chỉ khi từ bỏ chính mình (c. 23), ta mới không đánh mất chính mình (c.25).
Dựa vào sự phục sinh của Đức Giêsu, ta mới dám sống kinh nghiệm đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Sự sống hay sự chết
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi vượt qua Biển Đỏ, trước khi ký kết giao ước với Thiên Chúa, Mô-sê trình bày rõ ràng tình hình. Để dân chúng tự do chọn lựa. Hoặc ký giao ước với Thiên Chúa để được sống. Hoặc đi theo các bụt thần dân ngoại sẽ bị chết. “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ… Nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất… Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống, nghĩa là hãy yêu mến đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh em sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Đức Chúa đã thề với cha ông anh em”.
Chúa Giê-su đi vào sâu xa hơn. Đó là chọn lựa giữa Thiên Chúa và bản thân. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì”?
Bản thân đang trở thành ngẫu tượng. Với trào lưu tìm hưởng thụ. Cá nhân. Tự do. Con người vừa thờ phượng thân xác. Vừa phóng túng sử dụng nó vào hưởng thụ khoái lạc. Nhưng lại sẵn sàng hi sinh thân thể của tha nhân. Coi như một món hàng. Để trục lợi. Nhưng chọn lựa bản thân sẽ diệt vong. Đó chính là nền văn hoá sự chết. Huỷ hoại chính mình. Huỷ hoại tha nhân. Vì khinh thường sự sống. Thật hiển nhiên: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”.
Đi theo Chúa là từ bỏ bản thân. Chế ngự xác thịt. Vượt trên thú tính. Đạt đến phẩm giá con Thiên Chúa. Sẽ được chính Thiên Chúa. Là sự sống. Sự sống viên mãn. Là hạnh phúc. Là niềm vui đích thực. Từ bỏ hết. Để được lại tất cả.
Mùa Chay là mùa ta phải ngồi suy xét lại. Kiểm điểm lại. Chỉnh đốn lại. Chọn lựa lại. Chọn lựa đúng đã là khó. Kiên quyết theo chọn lựa đúng còn khó hơn. Biết dễ làm khó. Xin Lời Chúa soi sáng để ta có lựa chọn sáng suốt. Xin sức mạnh của Chúa giúp ta đủ sức thi hành điều đã chọn lựa.
Suy Niệm 3: Theo Chúa Giêsu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong lịch sử Giáo hội, từ hơn hai ngàn năm qua đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong tha nhân. Ơn gọi của mỗi người thường khác nhau, nhưng có điều chắc chắn là tất cả đều được kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, theo gương mẫu của Chúa Kitô.
Con đường ơn gọi sống đời tận hiến là hành trình tìm về khổ đau, về cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển. Sống đời tận hiến, sống niềm tin Kitô giáo là chấp nhận thiệt thòi, mất mát, là hy sinh từ bỏ để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác sống ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi làm môn đệ Chúa, ơn gọi trở thành công dân Nước Chúa cần một lựa chọn quyết liệt và dứt khoát. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai dấn bước theo Ngài sự lựa chọn ấy, cũng như chính Ngài đã lựa chọn dâng hiến cuộc đời và mạng sống vì yêu mến Chúa Cha và để cứu độ con người. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy thập gía mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu có ngặt nghèo và đòi hỏi quá đáng chăng? Không. Ngài chỉ muốn cho chúng ta đước hoàn toàn thanh thoát và hạnh phúc trên con đường sống đời Kitô hữu và đặc biệt là đời tận hiến. Bởi vì chúng ta không thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người một cách thiết thực, nếu còn bị ràng buộc bởi tiền tài, danh vọng, tình cảm.
Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng ta kiên quyết dấn thân theo Chúa với một tâm hồn thanh thản và tràn trề hạnh phúc.
Suy Niệm 4: Vác thập giá
Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. (Lc. 9, 22-23)
Để bước theo Đức Kitô, phải vác thập giá mình, người ta biết ít về sứ điệp này và coi đó không đơn giản. Nếu người ta chịu vác thập giá của người khác thì sẽ thấy không quá khó. Còn thập giá của mình có vẻ nặng hơn nhiều của người khác. Nhưng không phải thế, chúng ta ai cũng phải vác thập giá mình. Thập giá mình là thập giá chúng ta không được chọn, không hề muốn, không có chút hấp dẫn nào, thật kinh khủng cho chúng ta.
Thập giá chúng ta phải vác quả thực mang lại khổ cực cho chúng ta vì nó đả thương chúng ta dù không muốn bị thương. Chúng ta hãy dừng ít phút để nghĩ tới cái đả thương chúng ta nhất trên đời mà chúng ta không thể chống lại được, đó là thập giá của chúng ta. Chúng ta phải vác lấy mỗi ngày. Thập giá đó chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta chấp nhận vác thập giá, đời chúng ta sẽ không bị uổng công đâu vì tin rằng chúng ta có thể sống sung mãn khi biết vác thập giá. Thập giá bảo đảm không tiêu diệt chúng ta nhưng lại là nguồn sống của chúng ta.
Đức Giêsu đã quả quyết như vậy bằng gương mẫu của chính Người. Người đã vác thập giá mình. Thập giá đã đưa Người đến cái chết. Và qua cái chết Người đã tới sự sống vinh quang. Con đường thánh giá của Người đã là con đường sống. Nếu chúng ta tin điều đó chúng ta có thể đón nhận thập giá của chúng ta. Nếu không tin thì không thể còn cách nào khác để được sống đời đời.
Không ai trên trái đất này thoát khỏi thập giá, vì thập giá là thành phần xây dựng sự sống. Ai không biết rằng phải vác thập giá mới tới sự sống thì thật thảm hại.
J.Y.G
Suy Niệm 5: Xây dựng lại các mối tương quan
Mỗi khi Mùa Chay về, hay nghe nói tới Mùa Chay, chúng ta hiểu ngay: đây là “mùa trở về”.
Trở về với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình.
Trở về với Chúa để cảm nghiệm được tình thương của Người trên cuộc đời chúng ta.
Trở về với tha nhân để nhận thấy bổn phận yêu thương, liên đới và chia sẻ với anh chị em đồng loại.
Trở về với chính mình để nhận ra mình tội lỗi và cần được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ.
Như vậy, cả ba mối tương quan, chúng ta thấy có một mẫu số chung là: nhận thấy mình bất toàn, ích kỷ, kiêu ngạo, nên cần phải trở về với Thiên Chúa, tha nhân và ngay cả với chính mình để được trở nên hoàn thiện.
Muốn hàn gắn và xây dựng lại những mối tương quan ấy, chúng ta hãy để ý đến lời mời gọi của Đức Giêsu: phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá mình.
Khi nói đến từ bỏ chính mình, Đức Giêsu muốn chúng ta phải ý thức tận căn, bởi vì nếu từ bỏ nhiều thứ, dốc quyết nhiều chuyện, mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả, và nếu có bỏ đi chăng nữa, thì sẽ tìm dịp và tìm cách thuận lợi để lấy lại!
Bỏ mình còn có nghĩa là coi mình ra không để hướng về Chúa và anh chị em, là quên mình để yêu thương, tha thứ và sống cho người khác.
Bỏ mình luôn đi đôi với việc vác thập giá của chính mình hằng ngày. Thập giá của mỗi người chính là ốm đau, bệnh tật, những chiến đấu chống lại cám dỗ, những trái ý, hiểu lầm, vu vạ, cáo gian...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, đón nhận thánh giá trong đời và trung thành vác lấy cách yêu mến. Xin cũng ban cho chúng con ơn trở về trong Mùa Chay thánh này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Thập giá, con đường mà Chúa Giêsu mời gọi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi theo Ta”. Đó là con đường mà Chúa Giêsu mời gọi mọi người Kitô hữu dấn bước.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường theo Chúa là con đường hẹp, là con đường từ bỏ ý riêng, biết vui nhận những thánh giá trong cuộc sống. Con biết chính vì thương con mà Chúa mời gọi con bước vào con đường hẹp ấy, vì chỉ có con đường thánh giá ấy mới có thể dẫn con đến với Chúa. Con đường dễ dãi, thênh thang, thoải mái theo ý con hoàn toàn, không thể đưa con tới hạnh phúc đích thực đời đời.
Qua đau khổ mới tới vinh quang, đó là chân lý mầu nhiệm cứu độ. Chính Chúa đã chịu nhiều đau khổ để sống lại vinh quang. Chính Chúa đã đi trước mở đường cho con theo. Xin Chúa giúp con nhận ra giá trị đích thực của những trái ý, những hy sinh con gặp hằng ngày trong đời thường, để con vui lòng chấp nhận vì mến Chúa. Khi con gặp một thất bại, một chuyện buồn, mà không có ơn Chúa giúp, con sẽ chán nản buông xuôi, cáu kỉnh, gắt gỏng, mất tình bác ái. Nhưng với ơn Chúa, con sẽ biến những thánh giá đó thành món quà, thành bông hoa hy sinh kính dâng lên Chúa. Đáp lại, con tin Chúa sẽ ban tặng cho con niềm vui trong cuộc sống, nghị lực để vươn dậy, và tình bác ái trong tâm hồn.
Lạy Chúa, đôi vai con có yếu nhược, nghị lực con có giảm sút, lòng tin con có yếu hèn, không đủ sức để vác trọn thánh giá hằng ngày, thì xin Chúa rộng rãi ban ơn nâng đỡ con. “Ơn Ta đủ cho con”, tin vào Lời Chúa, con mạnh dạn vác thánh giá hằng ngày đi theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống”.
Suy Niệm 7: Từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một số nhà truyền giáo đến thăm M. Gandhi, vị lãnh đạo phong trào giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh bằng phương pháp bất bạo động. Ông đề nghị các ngài hát một bài thánh ca.
“Bài nào?”.
“Bài nào mà quý vị thấy là diễn tả đức tin sâu sắc nhất”.
Tất cả đồng thanh hát bài Suy tôn Thánh giá.
Suy Niệm
Vào đầu Mùa Chay, chúng ta suy ngẫm về ý nghĩa và lời kêu gọi của Mùa Chay: Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài ở Giêrusalem và lời mời gọi các môn đệ của Ngài cùng chịu với khổ đau thập giá: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn...
Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế, Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá, thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng cùng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang phục sinh như lời Chúa Giêsu loan báo, vì thế thánh Phaolô xác tín: “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ... Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11).
Suy Niệm 8: Điều kiện để theo Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mt 9,18-21), thì Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho các môn đệ về con đường cứu thế của Ngài, là con đường tử nạn và phuc sinh, đồng thời Ngài cũng loan báo về điều kiện phải có để theo Ngài.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết rõ hơn con đường của Chúa là con đường gì: đó là con đường dẫn tới vinh quang phục sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của thập giá; ai muốn đi theo Ngài thì cũng phải đi qua con đường thập giá, thậm chí phải vác thập giá hằng ngày.
2. Phải biết lựa chọn.
Trong việc theo Chúa. Ngài đòi chúng ta phải lựa chọn và lựa chọn trong tự do. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái này để được cái kia. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản, nhưng lựa chọn căn bản ấy phải thể hiện trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường thập giá, chọn từ bỏ.
3. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất...”
Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu chỉ thưc sự hạnh phúc khi dám đánh mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sằn sàng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Và Đức Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này: “Nếu được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì”?
Truyện: Người ta kể rằng: Trần Bình, vốn là một mưu thần của nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là người giầu có, định ra tay hãm hại để trấn lột tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống thuyền, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo, mình trần như nhộng, và đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giầu có, tên lái đò để yên cho Trần Bình. Thế là ông đã thoát nạn.
4. “Hãy từ bỏ chính mình”.
Bước theo chân Chúa mà phải từ bỏ những thứ bên ngoài, những cái làm ngăn trở con người theo Chúa, cái đó đã khó, nhưng bỏ mình, tức là bỏ đi cái “tôi” của mình còn khó biết bao. Ở đây, Đức Giêsu nói rõ “bỏ mình”. Bỏ mình chính là bỏ cái tôi của mình, đó là sự từ bỏ khó khăn nhất. Hoàng đề Alexandre từng nói: “Thắng được vạn quân dễ hơn là thắng được chính mình”. Cái tôi chính là cá tính của mỗi người, vốn dễ kiêu ngạo muốn trên người, muốn thể hiện chính mình, muốn người khác theo ý mình; chứ không dễ gì khiêm tốn và phục vụ tha nhân. Nhưng đó lại là điều kiện của “thập giá”, bởi thập giá làm bằng chất liệu khiêm tốn và phục vụ.
5. “Vác thập giá hằng ngày mà theo”.
Theo Chúa phải vác thập giá. Vác thập giá không phải chỉ là dấu hiệu của đau đớn và xỉ nhục, nó còn là dụng cụ của sự chết. Đức Giêsu biết thế nào là đóng đinh vào thập giá.
Khi Ngài còn là cậu bé 11 tuổi, thì Giuđa, người gốc Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Rôma. Ông đã đánh cướp kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth có 6,4 cây số. Rôma trả thù tức khắc. Sepphoris bị san phẳng bình địa, dân chúng bị bán làm nô lệ, 2000 loạn quân bị đem đóng đinh vào thập giá dựng theo dọc hai bên lề đường cái để cảnh cáo cho những ai dám chống lại bạo quyền.
Vác thập giá mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa. Vác thập giá có nghĩa là sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì lẽ chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.
6. Cách vác Thập giá cho đỡ nặng.
John Newton đã đề nghị chúng ta cách vác thập giá cho có hiệu quả: Chúng ta biết rằng những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của ngày hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.
7. Truyện: Biến bại thành thắng.
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
Suy Niệm 9: Con đường của Chúa Giêsu đi
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài đọc I trích sách Đệ nhị luật nói về 2 con đường: ai chọn đi theo con đường của Chúa và các giới luật của Ngài thì sẽ được sống; còn ai đi theo các quyến rũ khác thì sẽ diệt vong.
Trong bài trích Phúc Âm, Chúa Giêsu cho biết rõ hơn con đường của Chúa là con đường gì: đó là con đường dẫn tới vinh quang phục sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của thập giá; ai muốn đi theo Ngài thì cũng phải đi qua con đường thập giá, thậm chí phải vác thập giá hằng ngày.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái kia để được cái này. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản (option fondamentale), nhưng lựa chọn căn bản ấy phải thể hiện trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường thập giá, chọn từ bỏ.
2. Chúa Giêsu dạy ta một nghịch lý rất sâu sắc: chịu mất thì sẽ được; còn muốn được thì phải mất!
3. ”Con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?” (câu 25). Thánh Inhaxiô đã lặp đi lặp lại mãi bên tai Phanxicô Xaviê câu này. Cuối cùng câu này đã làm cho Phanxicô Xaviê hoán cải. Hôm nay tôi hãy lặp đi lặp lại câu này suốt ngày nhiều lần, hy vọng Chúa sẽ giúp tôi hoán cải như Phanxicô Xaviê.
4. Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tuỳ thích”. Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá... Và rồi đêm nào cũng thế… cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích “Phúc”)
5. Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!” (John Newton).
Suy Niệm 10: Chọn con đường nào?
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài đọc I trích sách Đệ nhị luật nói về 2 con đường: ai chọn đi theo con đường của Chúa và các giới luật của Ngài thì sẽ được sống; còn ai đi theo các quyến rũ khác thì sẽ bị diệt vong.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói rõ hơn con đường của Chúa là con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của Thập Giá. Ai muốn đi theo Chúa thì cũng phải đi qua con đường Thập Giá, thậm chí phải vác Thập Giá hằng ngày như vậy.
2. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái này để được cái kia. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản, nhưng lựa chọn ấy phải được thể hiện ra trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường Thập Giá, chọn từ bỏ.
Chúa Giêsu dạy ta một nghịch lý rất sâu sắc: chịu mất thì sẽ được; còn muốn được thì lại mất!
Một hôm, thánh nữ Têrêsa Avila được Thiên Chúa cho thấy Thiên Đàng lâu bằng đọc một kinh Kính Mừng. Thị kiến này làm cho thánh nữ vô cùng hoan hỷ. Kể từ đó, mọi lạc thú trên trần gian không còn ý nghĩa đối với mẹ nữa. Mẹ viết: “Trí khôn nhân loại không thể tưởng tượng ra được điều gì gần giống với vinh quang Thiên Đàng. Mặt Trời chỉ là u tối so với sự sáng nơi các thánh đang yên nghỉ. Một hôm, đang lúc tôi lên cơn đau quá mức, có một bà sang trọng muốn an ủi tôi. Bà đem đồ nữ trang của bà đến cho tôi xem, đặc biệt là viên kim cương quí báu mà bà hết sức trân trọng. Thái độ của bà làm tôi cảm động, nhưng rồi tôi lại thương cho bà, vì tôi thấy nó không là gì so với điều tôi đã chứng kiến. Nếu cho tôi chọn: Một đàng là phải chịu đau khổ cho đến tận thế để được thêm một chút vinh quang trên trời, và đàng khác là không phải đau đớn nhọc nhằn gì, nhưng phải chịu mất đi một phần nhỏ vinh sáng trên trời, thì chắc chắn tôi sẽ chọn ngay con đường khổ đau hôm nay, nghĩa là tôi sẽ sẵn sàng bỏ tất cả mọi sự, bỏ cả mạng sống tôi để theo Chúa”.
Chúa còn nói “Người nào được lời lãi cả thế gian mà mất chính mình hay là thiệt thân, thì có ích gì?” (câu 25). Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại mãi bên tai Phanxicô Xaviê câu này. Cuối cùng, Phanxicô Xaviê đã hoán cải. Hôm nay, chúng ta cũng hãy lặp đi lặp lại câu này nhiều lần. Hy vọng Chúa sẽ giúp chúng ta hoán cải như Phanxicô Xaviê.
Một lần kia, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm mẹ Têrêsa. Bà ta nói với mẹ:
- Thưa mẹ, con ước ao được chia sẻ với mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm! - Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.
Rồi bà ta thú thực với mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo xa-ri giá trị 65 đô-la, trong khi chiếc áo xa-ri của mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một đô-la. Như được ơn trên soi sáng, mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 đô-la, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đô-la thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo khó.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của mẹ. Dần dần bà ấy cũng đã biết dùng những bộ áo xa-ri rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà cũng đã thú nhận với mẹ Têrêsa rằng:
- Thưa mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng và vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng, chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ của mình.
Ước gì từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng tình yêu, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn. Xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
14/02 Hoán cải nội tâm
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Hoán cải nội tâm.
THỨ TƯ LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt.
“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Cha hiện diện nơi kín ẩn--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Hãy xé lòng--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
3. Hãy xé lòng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Lễ Tro--Hãy mở lòng ra--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Mùa chay và ơn cứu độ--GM Gioan Baotixita Bùi Tuần
6. Sám hối trở về cùng Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng
7. “Trở về với bản thân, với Chúa, với tha nhân”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
8. Mùa thuận tiện--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
9. Con là thân tro bụi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Hãy trung thực, đừng giả hình--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
11. Cát bụi tuyệt vời-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
12. Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2,12-18; Mt 6,1-6--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
13. Tro bụi--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
14. Mùa chay: thời gian thuận tiện để rèn luyện mạnh khỏe--Lm Giuse Đinh Tất Quý
15. Nhớ về thân tro bụi, mùa của tình yêu và hy vọng--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
16. Mùa Chay 2022, mùa trở về--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
17. Ăn chay, cầu nguyện và làm phúc--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
18. Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
19. Bước vào mùa luyện nhân đức để chiến thắng tội lỗi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
20. Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo--Lm Đan Vinh
21. Lễ Tro--Làm việc lành trong khiêm hạ--Lm Đan Vinh
22. Hãy thay đổi cách hành động--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Buông bỏ tham sân si--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa?-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP.
25. Hãy tự biết mình-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP.
26. Hoa và rác--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
27. Cát bụi tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
28. Công lý đời sau--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
29. Thân phận người--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
30. Sứ điệp của TRO--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
31. Mầu tím trong phụng vụ mùa chay--Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
32. Ý nghĩa của lửa và tro--Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
33. Tro nhắc ta ý thức thân phận mình--Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
34. Suy niệm thứ tư lễ tro--Lm. Anthony Trung Thành
35. Đừng chỉ chăm sóc thân xác mà lãng quên linh hồn--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
36. Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
37. Hoán cải nội tâm--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
38. Các việc đạo đức--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
39. Hoán cải-- Sợi Chỉ Đỏ
40. Ăn chay thế nào mới đẹp lòng Chúa?--JKN
41. Bố thí, cầu nguyện, ăn chay-- Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
42. Thứ Tư Lễ Tro--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
43. Thứ Tư Lễ Tro: Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ
44. Mệnh lệnh Mùa chay--Trầm Thiên Thu
45. Tin vào tình yêu sự tha thứ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
46. Mùa chay: thời gian để được xót thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
47. Hãy trở về--JM. Lam Thy
48. Biết phận mình--Lm. Giuse DĐH
49. Bố Thí, Cầu Nguyện, Ăn Chay--P. Trần Đình Phan Tiến
50. Một chương trình mùa chay
51. Đừng phô trương
52. Lịch sử và ý nghĩa THỨ TƯ LỄ TRO
53. Bụi tro
1.Cha hiện diện nơi kín ẩn--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.
Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:
cầu nguyện, bố thí, ăn chay.
Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.
Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.
Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,
từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.
Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,
tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.
Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,
thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.
Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.
Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.
Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,
và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.
Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.
Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,
để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.
Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.
Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa
và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.
Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.
Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.
Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,
nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình
và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.
Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.
Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.
Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.
Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.
Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.
Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,
chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
2.Hãy xé lòng--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.
Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
3.Hãy xé lòng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”(Ge 2, 12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
4.Lễ Tro--Hãy mở lòng ra--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
(Ge 2,12-18; 2Cr 5,20 – 6,2; Mt 6,1-6. 16-18)
Tân Tổng thống Hoa kỳ Donald Trump đã quyết định xây bức tường dọc theo biên giới, nhằm ngăn chặn người nhập cư từ Mexico vào Hoa kỳ. Đức Thánh Cha Phanxico và Hội đồng Giám mục Hoa kỳ đã nhiều lần lên tiếng: Nên xây cầu. Không nên xây tường. Xây tường là thái độ đóng kín. Là thu mình vào cá nhân ích kỷ. Là nghèo nàn tàn lụi. Xây cầu là thái độ mở lòng ra với Chúa, với tha nhân. Làm cho đời sống phong phú. Hãy mở lòng. Đó là sứ điệp Lời Chúa của ngày Thứ Tư Lễ Tro. Lời Chúa hôm nay dạy ta hãy cầu nguyện, bố thí và ăn chay. Đó là hãy mở lòng ra.
Cầu nguyện là mở lòng ra với Chúa. Mở lòng ra với Chúa là mở vào siêu việt. Con người đâu phải bị trói buộc vào mặt đất, hữu hạn,tầm thường. Con người có khả năng vươn lên siêu việt. Và còn hơn thế, Thiên Chúa là người Cha luôn yêu thương mong chờ con cái về với Người. Khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa là vô biên. Nhưng có cây cầu nối con người vào siêu việt để gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là cầu nguyện. Mùa Chay là mùa thuận tiện để Chúa thi ân, ban ơn cứu độ. Tháo gỡ con người khỏi trói buộc của mặt đất tầm thường, khỏi bùn lầy tội lỗi. Nâng con người lên tự do của con cái Thiên Chúa. Nên Chúa mời gọi ta hãy xây dựng cây cầu nối liền với trời cao để gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy nâng lòng lên tới Chúa. Hãy khao khát những sự trên trời. Đóng kín vào bản thân, vào mặt đất, vào vật chất là tự giam hãm, tự tàn lụi, tự hạ thấp con người. Cầu nguyện là mở lòng ra. Là gặp gỡ Thiên Chúa. Là vươn tâm hồn lên. Là vươn nhân loại lên. Là nâng thế giới lên cõi cao thượng.
Bố thí là mở lòng ra với tha nhân. Con người lo lắng về đời sống thực tế trần gian. Nên thường vun quén cho bản thân. Vì lo cho bản thân nên thường đóng kín với tha nhân. Trong đời sống thành thị hoá hiện nay, nhà đóng kín cửa, xây tường khoá cổng là phổ biến. Người ta ít quen biết nhau. Càng ít giao du. Sống ảo rất nhiều. Thăm viếng rất ít. Vì thế không thông cảm với tha nhân. Chia sẻ càng ít lắm. Mùa Chay Chúa mời gọi chúng ta hãy mở lòng ra với tha nhân. Chung quanh chúng ta đầy thảm cảnh. Thảm hoạ Formosa khiến hàng triệu người không có thu nhập cả hàng năm nay. Thảm hoạ lũ lụt khiến bao nhiêu nhà cửa, của cải, hoa mầu trôi theo dòng nước. Chung quanh ta biết bao Lazaro đang nằm thoi thóp. Cha Thục và giáo dân Song gọc bị đàn áp dã man chỉ vì muốn đòi công lý. Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm bị đe doạ cưỡng chế vô lý. Chúng ta đừng như nhà phú hộ cứ đóng kín cửa mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Hãy mở cửa ra. Nhất là hãy mở lòng ra. Đón tiếp người cơ nhỡ. Đòi công lý cho người bị áp bức bất công. Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Thăm viếng người tù tội. Khi lòng ta mở ra với tha nhân, tâm hồn ta phong phú vì tràn đầy tình yêu thương. Có yêu thương thế giới mới đổi mới. Con người mới hạnh phúc.
Ăn chay là mở lòng ra với bản thân. Con người đóng kín với Thiên Chúa và với tha nhân là vì con người tự đóng kín vào bản thân. Chỉ nhìn vào hạnh phúc riêng mình. Tìm hưởng thụ. Đó chính là hình ảnh người phú hộ. Chỉ biết ăn uống, trang điểm cho mình. Khi con người chỉ biết chăm chút cho bản thân con người bị trói buộc vào thú tính. K. Marx đã từng nói: Trước nỗi khổ của tha nhân, chỉ có loài súc vật mới tiếp tục liếm láp bộ lông để làm đẹp cho bản thân. Khi con người biết tự chế trong ăn mặc tiêu dùng, con người thoát khỏi ràng buộc của thói cá nhân ích kỷ, thoát khỏi bị ràng buộc vào vật chất hưởng thụ. Phá đi được bức tường cá nhân ích kỷ giam hãm đóng kín vào bản thân. Con người sẽ mở lòng ra với Chúa và với tha nhân. Sẽ biết vươn tâm hồn lên siêu việt. Sẽ biết mở lòng ra với anh em. Tâm hồn mở ra sẽ phát triển cả chiều cao với Thiên Chúa và chiều ngang với tha nhân. Sẽ trở nên rộng lớn. Sẽ xứng đáng với phẩm giá của con người và của con Chúa.
Đó cũng chính là chủ đề của Sứ điệp Mùa chay năm 2017 của Đức Thánh Cha Phanxico khi ngài nêu cao: Tha nhân là hồng ân của Chúa và Lời Chúa là hồng ân của Chúa. Ngài dựa vào dụ ngôn Nhà phú hộ và Lazaro để minh hoạ cho chủ đề mở lòng ra. Ông phú hộ vì đóng kín vào bản thân mà quên Chúa, không nhìn thấy tha nhân. Đến khi ông chết mới nhận thấy Lời Chúa là quan trọng và tha nhân là hồng ân. Nhưng không còn kịp nữa.
Vậy trong mùa Chay năm nay, chúng ta hãy nghe theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha. Hãy mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra với tha nhân. Khi mở lòng ra ta sẽ thấy Lời Chúa là hồng ân cao cả đem đến cho ta sự sống đời đời. Và tha nhân là hồng ân để ta được gặp Chúa, được phục vụ Chúa và được hạnh phúc.
Hãy lên một chương trình sống mùa Chay thực sự. Chương trình cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Chương trình giúp đỡ những nạn nhân đang cần trợ giúp. Chương trình thăm viếng các bệnh nhân và tù nhân. Như cô Đoàn thị Hương đang gặp khó khăn ở Malaysia…
Khi sống một mùa Chay thực sự thực tế, chắc chắn ta sẽ nhận được ơn phúc dồi dào của Chúa.
5.Mùa chay và ơn cứu độ--GM Gioan Baotixita Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 7, 14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối”(Ga 8, 44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh”(Lc 8, 30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y”(Ga 13, 27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo”(Lc 22, 31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em”(1 Pr 5, 8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy”(Ga 5, 26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người”(Ga 17, 2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống”(Ga 14, 6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào”(Ga 10, 10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô”(Ga 17, 3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
6.Sám hối trở về cùng Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Các việc đạo đức nhằm thể hiện tinh thần bác ái, cầu nguyện, làm chủ bản thân. Mùa chay giúp ta làm các việc ấy cách thật lòng trước mặt Cha, với ý hướng thi hành Thánh Ý Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cùng với toàn thể Hội Thánh, con bước vào mùa chay để sám hối trở về cùng Chúa. Con tạ ơn Chúa đã cho con thời gian thuận tiện này để duyệt xét lại cuộc đời và chấn chỉnh những thiếu sót, lệch lạc, thái quá. Con đặt mình trước Tôn Nhan Chúa, xin Chúa chiếu dọi ánh sáng của Chúa để con nhìn rõ con người của con. Và nhất là xin Chúa ban ơn nâng đỡ sự yếu hèn của con. Chỉ có ơn Chúa mới có thể làm cho con chỗi dậy trở về với Chúa để canh tân đời sống.
Xin Chúa giúp con biết sống tinh thần bác ái của Chúa. Con thường sống khép kín, ích kỷ, thường bỏ rơi, xúc phạm đến chính Chúa đang hiện diện nơi anh chị em con. Đôi lúc con làm được vài việc bác ái, nhưng lại muốn hãnh diện phô trương. Xin Chúa mở rộng trái tim con để con yêu mến tha nhân cách chân thành và quảng đại.
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống tinh thần cầu nguyện. Con không muốn dừng lại ở vài câu kinh hoặc những hình thức lễ nghi, nhưng con muốn đi sâu vào lòng Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa. Xin Chúa tỏ Tôn Nhan Chúa cho con, xin cho con cảm mến sự ngọt ngào được sống trong Chúa.
Và sau hết, trong mùa chay này, xin Chúa giúp con chế ngự bản thân. Bao nhiêu những đam mê lệch lạc, vị kỷ, thấp hèn, bao nhiêu những khuynh hướng xấu, xin Chúa giúp con loại bỏ tất cả. Xin Chúa dạy con sống tinh thần hy sinh, từ bỏ theo gương Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy thánh hoá con. Amen.
Ghi nhớ: ”Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
7.“Trở về với bản thân, với Chúa, với tha nhân”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Mùa Chay đã về. Sắc tím của phẩm phục phụng vụ, cung điệu của các bài thánh ca cũng như các lời kinh cầu nguyện tạo cho ta một cảm giác trầm buồn, sâu lắng. Trong nghi lễ khai mạc Mùa Chay, khi khiêm tốn đón nhận một chút tro bụi trên đầu, lời thánh ca gọi ta về với thực tại của thân phận con người:
“Hỡi người hãy nhớ, mình là bụi tro,
Một mai người sẽ trở về bụi tro”
Những bài thánh ca cùng chung một tâm trạng, vừa thống thiết than van vừa quyết tâm mãnh liệt: Con nay trở về, trở về cùng Chúa Chúa ơi!
Sự trở về dựa trên lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa, rất nhân hậu và hay tha thứ.
Khi nhìn lên thánh giá, chúng ta tưởng niệm một sự kiện lịch sử đã xảy ra cách đây hai ngàn năm, qua lời kinh cầu nguyện thống thiết:
– Chúa Giêsu chịu các quan lấy hết áo chia nhau
– Chúa Giêsu còn trên thánh giá chịu thiên hạ nhạo cười (Kinh cầu Chịu nạn).
Cảm nhận thân phận tội lỗi, con người thấy cần được ơn thứ tha. Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa trở về để được sống trong tình thân nghĩa với Chúa và với anh chị em mình.
Khi phạm tội, con người hối hận và dằn vặt khôn nguôi, vì tội không chỉ là xúc phạm đến đồng loại mà còn xúc phạm đến Chúa. Người phạm tội chạy trốn chính bản thân mình, đi đâu cũng không thể tìm được nơi ẩn nấp. Tội ác luôn bám sát và ám ảnh tội nhân. Chỉ có tâm tình sám hối và khiêm nhường xưng thú tội lỗi qua bí tích Hòa giải mới có thể đem lại cho họ sự thanh thản, bình an. Cùng với vua Đavít trong Thánh vịnh 50, chúng ta thú tội với Chúa qua lời kinh sám hối đẫm lệ, được thốt lên với tâm trạng hối hận day dứt:
“Vâng, con biết tội mình đã phạm,
Lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
Dám làm điều dữ trái mắt Ngài”(Tv 50, 5-6).
Những tâm tình được trải nghiệm trên đây giúp chúng ta trở về với Chúa. Tuy vậy, trước khi trở về với Chúa, chúng ta cần phải hồi tâm cảnh tỉnh, phải trở về với chính mình, nhìn nhận thân phận con người còn vương nhiều lầm lỗi cần được thương xót thứ tha. Trong cuộc sống bon chen quay cuồng, con người có nguy cơ quên mất chính bản thân, thậm chí đánh mất chính mình. Vì không ý thức mình là ai nên người ta dễ kiêu ngạo. Vì cho mình là chuẩn mực nên người ta dễ phủ nhận và loại trừ người khác. Trở về với chính mình để xem xét lại hành vi cử chỉ đã làm, để canh tân sửa đổi, nên con người tốt hơn. Trở về với chính mình còn là việc nhận ra những điểm tốt nơi anh chị em, cảm thông những khiếm khuyết của họ, xây tình liên đới để nâng đỡ và bổ túc cho nhau. Chỉ sau khi đã hồi tâm cảnh tỉnh, chúng ta mới có thể trở về với Chúa, tôn nhận Ngài là chủ đích của đời sống chúng ta và chuyên tâm tuân giữ lời Ngài dạy. Thiên Chúa như người Cha luôn chờ đợi chúng ta trở về.
Một điều kiện căn bản để chứng minh chúng ta có lòng sám hối thật, đó là chúng ta trở về với anh chị em mình. Trở về để nhận ra những người xung quanh là anh chị em con cùng một Cha trên trời, là khiêm tốn nhìn nhận nhiều lần mình đã làm tổn thương họ. Sám hối ăn năn mà không làm hòa với đồng loại, thì chỉ là sám hối giả tạo bề ngoài. Kêu van: Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà không thực thi lời Ngài dạy, thì chỉ là những tiếng kêu suông mà thôi. Mùa chay như điểm dừng của người lữ khách để nhìn lại quãng đường đã đi. Mùa chay còn là cơ hội để rũ bỏ mọi lỗi lầm bất xứng. Lòng sám hối giúp ta lấy lại nghị lực và niềm tin để tiếp bước lên đường trong sự thanh thản và bình an.
Nghi thức khai mạc Mùa Chay là lời kêu gọi sám hối trở về. Qua nghi thức lãnh nhận tro trên đầu, chúng ta cảm nhận nguồn cội của mình. Qua việc tưởng niệm Chúa chịu chết, chúng ta tuyên xưng tình Chúa yêu thương. Những thực hành truyền thống trong Mùa Chay như ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ, phải hướng chúng ta đến canh tân hối cải, nếu không, sẽ giống như diễn kịch hay trò chơi giải trí hay những hình thức giả tạo bề ngoài (x.Tin Mừng Lễ Tro).
Như người con thứ hoang đàng nhận ra mình lầm lỗi, chúng ta hãy xin Chúa thương tha thứ và ban cho chúng ta niềm vui được sống trong tình Chúa và tình người.
Con người là sa ngã, nhưng thiên thần thì chỗi dậy (Thánh Mary Euphrasia Pelletier).
8.Mùa thuận tiện--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Mùa Chay được gọi là “thánh”vì mang một ý nghĩa thiêng liêng đối với mỗi người tín hữu, đồng thời là điểm nhấn quan trọng trong đời sống đức tin. Tại các giáo xứ truyền thống, Mùa Chay luôn mang một bầu khí đặc biệt, thấm đượm tinh thần cầu nguyện, được thể hiện qua cách trang trí nhà thờ, những nghi thức ngắm nguyện, những buổi tĩnh tâm dành cho các hội đoàn và các giới. Bầu khí đạo đức của Mùa Chay phù hợp với lời khẳng định của thánh Phaolô: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”(Bài đọc II).
Dĩ nhiên, Thiên Chúa không chỉ tha thứ và ban ơn cứu độ trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng ơn cứu độ của Ngài tràn trề, mênh mông như biển cả. Tuy vậy, như lời kinh nguyện ngắm của Mùa Chay còn được đọc nơi một số giáo phận đã diễn tả: “Như con chim biết mùa làm tổ…”. Mùa Chay đối với tín hữu là thời điểm nhận ra lòng thương của Chúa thật mênh mông cao vời, mà chúng ta vô tình tệ bạc trước tình thương ấy. Tội lỗi chính là sự tệ bạc, bội nghĩa vong ân đối với Thiên Chúa. Câu chuyện người cha nhân hậu trong Tin Mừng thánh Luca đã phản ánh rõ giáo huấn về tội lỗi và ân sủng, về tình thương của Thiên Chúa và sự lầm lạc của con người, về sự cần thiết phải trở về để nối lại tình xưa giữa Thiên Chúa với tâm hồn mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu, trong Tin Mừng hôm nay đã đề cập đến ba thực hành quan trọng: Làm phúc, cầu nguyện và ăn chay. Dựa trên giáo huấn của Lời Chúa, ba thực hành này đã trở nên cốt lõi của đời sống đức tin nói chung và của Mùa Chay nói riêng. Tuy vậy, điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh, đó là tâm tình và ý thức của người tín hữu thể hiện qua những thực hành này. Ai trong chúng ta đã không có lần làm phúc và cầu nguyện? Ai chúng ta mà không ăn chay mỗi khi Mùa Chay về? Mùa Chay là thời điểm để chúng ta xét lại những thực hành này, để rồi, chúng không chỉ được thực hành một cách chiếu lệ, nhưng được thúc đẩy bởi đức tin, đức cậy, đức mến. Ý thức mình đang sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa, Đấng ngự nơi bí ẩn, đó là điều Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta. Vì chỉ như thế, những gì chúng ta làm mới mang tinh thần siêu nhiên. Xung quanh chúng ta, có rất nhiều người làm từ thiện. Trong xã hội hôm nay, có nhiều người ăn chay vì lý do sức khỏe hoặc để tạo một đời sống thanh tịnh. Điều khác biệt nơi người Kitô hữu, đó là làm phúc, ăn chay, cầu nguyện với ý thức về một Đấng Vô Hình, đang hiện diện trong tâm hồn họ, để rồi những gì họ làm cho những người bất hạnh khó nghèo là làm cho Chúa, Đấng đã hóa thân nơi người cùng khổ đang hiện diện hàng ngày xung quanh chúng ta.
Vì vậy, khi thực hành những đạo đức kể trên, người tín hữu không chờ mong lời khen của người đời. Chúa Giêsu đã diễn tả qua việc xức dầu thơm khi ăn chay và mang bộ mặt vui vẻ hòa nhã. Chúa cũng dặn, đừng khoe khoang việc từ thiện mình đã làm, hoặc đừng phô diễn khi cầu nguyện. Giáo huấn này hoàn toàn khác với thói quen nơi một số người biệt phái trong xã hội đương thời. Qua những chỉ dẫn trên, Chúa muốn chúng ta đi vào tinh thần nội tâm của đời sống Kitô hữu, ở những lãnh vực khác nhau, nhằm diễn tả một đức tin trưởng thành và một đời sống chân chính.
Giữa dòng đời trôi nổi ồn ào, chúng ta có nguy cơ bị lạc hướng, để mình trôi theo những tham vọng trần tục. “Mùa thuận tiện”đưa chúng ta trở về với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Về với Chúa để nhận ra thân phận hèn yếu lỗi lầm, tái lập mối tương giao cha-con với Ngài; về với tha nhân để nhận ra họ là hồng ân Chúa ban tặng (Sứ điệp Mùa Chay 2017); về với chính mình để nhận ra mình đang ở đâu trong cơn lốc cuộc đời, để không bị đánh mất mình trong biển đời hỗn độn mênh mông.
Lời kêu gọi trở về, được ngôn sứ Giôen diễn tả, vừa đanh thép quyết liệt, vừa tha thiết dịu dàng. Đây là một lời “hiệu triệu”thôi thúc con tim mỗi người hãy gác lại những bận rộn âu lo của cuộc sống để thành tâm trở về với Chúa, như một ưu tiên quan trọng của cuộc đời. Lời kêu gọi sám hối được gửi đến mọi người, già trẻ, gái trai, tân lang tân nương, tư tế phục dịch trong Đền thờ. Mùa Chay là mùa thuận tiện đối với hết mọi người chúng ta.
“Hãy xé lòng, đừng xé áo”. Lời ngôn sứ mời gọi chúng ta hãy sống Mùa Chay cách chân thành và hiệu quả, chứ không dừng lại ở những nghi lễ bên ngoài. Hãy can đảm và trung thực đặt mình trước mặt Chúa, nhận ra những thiếu sót của mình để sám hối canh tâm. Đây là mùa thuận tiện giúp chúng ta đến gần Chúa và đến gần anh chị em mình hơn. Mùa Chay cũng giống như mùa cây thay lá, cởi bỏ những tán lá đã già cỗi để nhường chỗ cho những mầm non sẽ mọc lên. Sau mùa lá rụng là mùa đâm chồi nảy lộc. Màu tím của Mùa Chay không chỉ diễn tả lòng sám hối đau buồn, mà còn mang sứ điệp hy vọng vào tình thương của Chúa, Đấng không vui gì khi con người phải trầm luân, nhưng muốn cho mọi người được ơn cứu độ và được sống muôn đời.
Lễ tro năm nay trùng với ngày 1-3, là tháng kính Thánh Cả Giuse, vị Thánh luôn khiêm tốn âm thầm, lo chu toàn thánh ý Chúa. Xin Thánh Nhân cầu bầu cho chúng ta, được noi gương Người, sống đời nội tâm sâu xa, để được kết hiệp với Chúa, tận hưởng hạnh phúc Nước Trời ngay tại cuộc sống trần gian hôm nay. Amen.
9.Con là thân tro bụi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6, 2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro”được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1, 15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19, 9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18, 27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13, 19; Mac 3, 47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4, 1; Mt 11, 21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
Như bóng đèn, như mây nổi,
Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi”nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường”như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3, 19. x. Gb 34, 4; Gr 6, 26; Is 58, 5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3, 19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên”(agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22, 40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22, 42; Ga 11, 41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6, 9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
- Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
- Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
- Chúa nói, tôi nghe.
- Không ai nói, cả hai cùng nghe.
- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
Hương hoa nói lời của hoa,
Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22, 40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói”(Mt 4, 1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34, 28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19, 8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3, 7-8; Samuel 14, 24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58, 4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị”để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối”(Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4, 7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25, 35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
10.Hãy trung thực, đừng giả hình--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
(Mt 6,1-6.16-18)
Trong số các việc đạo đức, người Do thái coi trọng 3 việc là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Chúa dạy chúng ta cách thức làm ba việc lành ấy cho tốt, để đáng được Chúa thưởng công.
Điều cốt yếu là khi làm ba việc lành đó, chúng ta tránh phô trương ra bên ngoài, mỗi khi làm được việc gì lành, điều gì tốt, chúng ta luôn luôn muốn cho mọi người biết. Còn khi làm việc gì không tốt thì chúng ta muốn giấu kín. Chúng ta phải làm việc lành với lòng khiêm tốn, âm thầm, kín đáo, vì lòng mến Chúa yêu người thực sự, để làm đẹp lòng Chúa, làm sáng danh Chúa, để Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ thưởng công chúng ta.
Tin mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Maisen, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa, hơn là để được người ta khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Nhưng lời Chúa dạy hôm nay sao mà gắt gao quá, phải không bạn? Khi làm việc lành phúc đức tôi đã hy sinh cái lợi, cái thú rồi thì ít ra tôi cũng được phép kiếm chút danh chứ? Câu trả lời của Chúa là KHÔNG! Chúa nói rõ: làm việc đạo đức mà cầu danh thì đấy là đạo đức giả. Điều Chúa muốn, đó là chúng ta thực thi ý Ngài với ý thức rằng: “Chúng tôi chỉ là những tôi tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”(x. Lc 17,10). Các sách Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu đã gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều loại người, nhưng gặp rắc rối là với những kẻ đạo đức giả, chứ không phải với những người tội lỗi thật (5 phút Lời Chúa).
Trước đây Chúa Giêsu trình bầy sự công chính mới trong lãnh vực các điều răn, nay Ngài đề cập tới nền đạo đức mới: phải thực thi những việc đạo đức thế nào phải phù hợp với tinh thần của Chúa Kitô. Những lời khuyên bảo của Chúa Giêsu về những việc đạo đức được bao gồm ba chiều kích:
- Đối với tha nhân: bố thí.
- Đối với Thiên Chúa: cầu nguyện.
- Đối với bản thân: chay tịnh./Ba chiều kích này tiêu biểu cho cả cuộc sống. Điều cốt yếu trong cả ba trường hợp vẫn là sống thật, sống trước mặt Thiên Chúa với ý hướng ngay thẳng và thi hành ý Chúa.
Bố thí, cầu nguyện, ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái. Việc làm thì tốt, nhưng vì hình thức bên ngoài mà việc làm mang ý nghĩa khác, bởi vì có người bố thí, cầu nguyện, ăn chay chỉ là để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất đi giá trị đích thực của công việc.
- Bố thí là lời yêu thương gửi đến người khác, nhưng nếu chỉ để mình được thấy thì làm sao thấy được kẻ khác;
- Cầu nguyện là hướng về Thiên Chúa, nhưng nếu chỉ qui về mình thì làm sao còn có chỗ cho Thiên Chúa;
- Ăn chay là một đền bù cho những lỗi lầm, và diễn tả khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, nhưng nếu con người đã no thoả trong chính mình thì làm sao họ còn cần đến Thiên Chúa.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng: nếu đã tìm giá trị trần gian, con người khó lòng vươn tới được giá trị đích thực. “Họ đã được thưởng công rồi”: đó là lời tuyên bố dứt khoát đối với những ai chỉ mải miết chạy theo những giá trị trần thế.
Lời Chúa hôm nay là một hướng dẫn cho người Kitô hữu không những trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả những công việc trong đời sống hằng ngày nữa. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô và biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Đó có thể là công việc mà người đời cho là tầm thường hoặc không được ai biết đến, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho.
Truyện: Đừng phô trương
Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và quy tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thấy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi”. Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta”và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì người đó mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình (Chờ đợi Chúa).
11.Cát bụi tuyệt vời-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã sáng tác được nhiều bài hát có giá trị. Những bài hát đó còn sống với thời gian, nghe mãi không chán. Những bài hát đó không những có giá trị về phương diện âm nhạc, mà nhiều bài còn có giá trị về triết lý nhân sinh, một số bài lại bàng bạc tư tưởng Thánh Kinh. Một trong các bài hát của ông là bài “Kiếp con người”đã mang mầu sắc của sách Sáng thế khi ông mở đầu bằng câu: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy”.
Nhân dịp lễ Tro sắp tới, ngâm nga và cảm hứng theo bài hát trên, chúng tôi có một vài suy tư về ngày lễ đó để chuẩn bị tâm hồn chúng ta đi vào Mùa Chay thánh mà Hội thánh sắp mở ra cho chúng ta..
I. THIÊN CHÚA DỰNG NÊN CON NGƯỜI
1. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy”.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không phải là người Công giáo, nhưng ông có những tư tưởng về kiếp sống con người như chúng ta.
Sách Sáng thế nói đến việc Thiên Chúa dựng nên trời đất vạn vật từ hư không. Sau khi hoàn tất công việc tạo dựng, Thiên Chúa mới dựng nên con người.
Thiên Chúa phán: “Chúng ta làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”(St 1,26).
Thiên Chúa đã dựng nên con người như thế nào? Thì đây, sách Sáng thế đã mô tả: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người”(St 2,7).
Theo định nghĩa thì “Bụi”là tên chung cho các vật chất rắn có đường kính nhỏ cỡ vài micromét đến nửa milimét. Nghĩa là nhỏ lắm! Với mắt phàm xác thịt thì không thể nào ta nhìn thấy hạt bụi được. Cho dù bạn có đi cắt mắt bằng tia Laser, hoặc đi thẩm mỹ viện sửa mắt cho to thành hai ba mí cũng không thể nào thấy hạt bụi nhỏ li ti này được. Nhưng bạn sẽ “cảm thấy”rất rõ ràng nếu hạt bụi này vướng trong mắt…
Đối với con người, bụi là cái gì dơ bẩn, là biểu hiệu của cái gì hoang tàn và chết chóc. Thế mà Thiên Chúa đã dựng nên con người bằng những hạt bụi li ti như vậy đó. Vì thế, ngày nay người ta thường nói về thân xác con người là “xác đất vật hèn”.
2. “Ối! cát bụi tuyệt vời”.
Là người Công giáo, chúng ta tin là nếu hạt bụi có được hóa kiếp là nhờ tình thương của Thiên Chúa. Vì nếu không, muôn đời hạt bụi vẫn mãi mãi là hạt bụi.
Sách Sáng thế đoạn 2 câu 7 nói rõ: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”(St 2,7).
Con người sinh ra từ bụi đất nhưng con người không bằng bụi đất vì con người có hơi thở và hơi thở này là hơi thở Sự Sống của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Các muông thú động vật cũng có hơi thở nhưng sẽ chết đi và biến thành tro bụi. Con người khác xa các loài thụ tạo vì sự sống của con người đến từ Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Ngài là Sự Sống: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”(St 1,27).
Con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài nên con người cũng sẽ được như Ngài là sống bất diệt, chứ không phải để chết như vạn vật.
Chính vì tình yêu mà Thiên Chúa đã biến đổi thân phận của hạt bụi. Và hạt bụi đó được Thiên Chúa biến hóa thành con người giống hình ảnh Chúa để được sống và sống dồi dào trong tình Chúa yêu thương, trong sự thuận hòa với đồng loại.
Ôi! Cát bụi tuyệt vời!
Cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa đối với con người hèn mọn, từ đời đời đã yêu thương và đưa con người lên làm bạn thân thiết với Ngài, nhất là cho con người được tham gia vào chức vụ Linh mục của Chúa Kitô, linh mục nhạc sĩ Kim Long đã sáng tác bài “Tình yêu Thiên Chúa”, trong đó có câu:
Bụi tro, ôi thân con là bụi tro đâu đáng
Mà Chúa cao siêu ngập tầng trời
Đã khắc tên con vào lòng Người
Nên bạn tâm phúc từ đây
Giữa hàng khanh tướng quyền uy.
II. NHƯNG CON NGƯỜI ĐÃ ĐI HOANG
“Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi”.
Thiên Chúa là Đấng Thiện hảo. Sau khi dựng nên vạn vật và con người, Thiên Chúa rất hài lòng: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra là rất tốt đẹp”(St 1,31)
Sau khi đã dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt con người vào trong Vườn Địa đàng để hưởng mọi thành quả Thiên Chúa đã dựng nên, và Ngài lại còn ban cho con người có quyền trên tất cả.
Tuy thế, con người cũng phải bị thử thách xem có trung thành với Chúa không. Người phán với con người: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết”(St 2,16-17).
Nhưng con người đã không tuân lệnh Chúa, theo lời khuyên nhủ của con rắn là ma quỉ, đã cả gan ăn trái cấm đó. Con người đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và mất hết mọi hồng ân hồn xác mà Thiên Chúa đã ban cho lúc ban đầu.
Thiên Chúa đã ban mọi hồng ân cho con người, trong các hồng ân ấy sự tự do, một hồng ân mà Thiên Chúa chỉ dành cho con người. Nhưng sau khi con người dùng sự tự do đó mà đi nghịch lại với ý muốn của Thiên Chúa, thì con người đã từ chối sự thánh thiện và sự tốt lành mà Thiên Chúa ban. Con người đã đi vào hư vô, vào quãng “không”. Có nghĩa là con người chìm đắm trong những sự không tốt lành, không thánh thiện, không yêu thương, không bền vững. Con người bị rơi vào vùng bóng tối, vào kiếp đọa đầy: “Người sẽ phải đổ mô hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, người đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19).
Làm kiếp con người là vậy đó!
Cái sự đau khổ của con người chịu, càng đau khổ hơn vì con người đã được nếm mùi hạnh phúc, đã biết thế nào là được yêu. Cũng như khi bị tù đầy mới khát khao những ngày được tự do; khi bị thất tình mới biết giá trị của những ngày sống hạnh phúc trong tình yêu.
Tuy con người đã lìa bỏ Chúa, nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Thiên Chúa vẫn yêu thương, vẫn mời gọi, vẫn chờ đợi con người. Ngài đã sai Con của Ngài đến giải thoát chúng ta, để toàn thể con người không còn phải trở về kiếp bụi nữa. Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta được phục sinh vinh hiển với Ngài. Đó là giao ước của Ngài với con người, với điều kiện là con người biết trở về với Ngài và biết bác ái yêu thương nhau. Nhưng, cũng phải kiên nhẫn đợi chờ. Thiên Chúa như người cha già hằng ngày đợi chờ mong ngóng tin vui chúng ta trở lại với Chúa.
III. CON NGƯỜI CẦN PHẢI TRỞ VỀ.
“Xin úp mặt bùi ngùi
Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui”.
Hôm nay là ngày Thứ Tư Lễ tro, bắt đầu Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện giúp con người có dịp nhớ lại mình mà làm hòa với Chúa. Con người vì đi hoang nên hay quên bản thân mình, không nhớ mình là bụi tro và có thể trở về với bụi tro bất cứ lúc nào:
Nhiều khi quên thân mình bụi tro
Con người say tìm bóng phù du
Kìa xem, núi cao lên rồi mòn
Hoa tươi lên rồi tàn qua mau ngàn giấc mơ vàng. (Bụi tro – Phanxicô)
Thái độ của chúng ta lúc này phải chăng là “úp mặt bùi ngùi”để xin ơn tha thứ? Đúng vậy, Thiên Chúa sẽ thứ tha cho tất cả những ai biết ăn năn sám hối vì người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi không đang người chạy lại”. Đang khi sám hối quay về với Chúa là chúng ta đang “Từng ngày qua mong ngóng tin vui”. Chắc chắn tin vui phải đến với con người sám hối vì Thiên Chúa như người cha đang mong ngóng đứa con đi hoang trở về.
Chúng ta tin tưởng vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài sẽ giao hòa chúng ta với Chúa Cha. Ngài đóng một vai trò rất đắc lực trong việc hòa giải này.
Chúng ta còn nhớ đoạn Kinh Thánh nói về việc ông Abraham can thiệp cho thành Sôđôma. Ông có tài cù cưa mặc cả với Chúa. Ông nại lý do thân con chỉ là… tro bụi, xin Chúa tha cho anh em đồng loại “cả thành”. Để Thiên Chúa nghe mà mủi lòng. Ông nói: “Mặc dầu con chỉ là tro bụi, con cũng xin mạn pháp thưa với Chúa: giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá hủy thành sao”? Chúa đáp: “Không, Ta sẽ không phá hủy, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người”(St 18,27-28).
Đọc Kinh Thánh ta thấy, đây không phải là một lần đầu, mà cả ngàn lần sau này con người cứ xin lỗi rồi phạm tội, cứ hứa rồi lại thất hứa với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đầy tình thương, Ngài biết thừa con người thề hứa như thế đấy, mà không phải thế. Ngài đã biết tỏng con người là hay sa ngã, hay phạm tội, hay thất hứa,vẫn chứng nào tật ấy, nhưng Chúa vẫn cứ thương.
Trong Thánh lễ hôm nay, mỗi người sẽ nhận được một chút tro xức trên đầu. Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đồng Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi, sẽ phải chết (St 3,18-27; Gb 6,26; Est 4,13; Giona 3,6).
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn thống hối quyết tâm làm điều lành, tránh sự xấu. Tro là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối. Mỗi khi trông thấy tro bụi chúng ta liên tưởng ngay đến những gì đã qua, như một cánh đồng, một căn nhà, một khu phố sau cơn hỏa hoạn chỉ còn lại đống tro tàn.
Xức tro là để tỏ lòng ăn năn sám hối. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhở ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên Chúa, làm lem luốc khuôn mặt Hội thánh, làm ô danh cho đạo thánh Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham nhũng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Do đó, Mùa Chay phải là mùa chúng ta biết “úp mặt bùi ngùi”, biết nhắc nhở mình là thân tro bụi, biết Chúa đã tha tội và đang mong mỏi chúng ta trở về để ăn năn thống hối những lỗi lầm đã xúc phạm đến Chúa.
Khi được xức tro trên đầu, chúng ta sẽ được nghe một câu nhắc nhở: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin mừng”(Mc 1,15). Thái độ cúi đầu nhận tro là bước đầu để chúng ta tỏ lòng khiêm nhường, hạ mình nhìn nhận thân phận hèn yếu, rất cần tình thương và ơn cứu độ của Chúa. Đó cũng là dấu hiệu tỏ ra chúng ta muốn trở về với Ngài.
Ôi! Cát bụi tuyệt vời! Nhờ Chúa Giêsu mà hạt bụi tôi đây, không còn phải trở về kiếp bụi nữa, mà tôi sẽ được phục sinh. Nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta sẽ được sống vinh hiển như Ngài. Chúng ta đã hơn vạn vật là Chúa đã cho chúng ta cùng trở về, lại được sống hòa thuận với mọi người trong nhà Chúa.
Như vậy, tro bụi hôm nay sẽ luôn nhắc nhở ta là hãy ăn năn sám hối, hãy luôn bỏ đường tội lỗi, hãy luôn sống thánh thiện, luôn yêu thương anh em để lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng về cùng Thiên Chúa, để được phục sinh vinh hiển, để được hưởng hạnh phúc trường sinh với Ngài trên thiên quốc.
12.Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2,12-18; Mt 6,1-6--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống...
1. Mở đầu Mùa Chay, Hội Thánh dùng lời ngôn sứ Gio-en để chỉ cho chúng ta thấy phải sống Mùa Chay như thế nào:
- “Hãy thật lòng trở về với Ta”
- “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”
2. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy về 3 việc đạo đức tiêu biểu mà người do thái thường làm, đó là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Qua 3 việc tiêu biểu này, chúng ta có thể hiểu về tất cả những việc đạo đức khác.
- Khi làm, đừng quá chú trọng đến vẻ bề ngoài của những việc đó (“khua chiêng đánh trống”, “trong hội đường hay ở ngã ba đường”, “làm cho ra vẻ thiểu não”)
- Đừng làm để được người ta khen (“cốt để người ta khen”, “cho người ta thấy”, “để thiên hạ thấy là chúng ăn chay”)
- Mà hãy làm cách kín đáo (kín đáo: không có nghĩa là dấu diếm người ta, mà là không có ý khoe khoang) nhưng và chỉ cốt làm vui lòng Cha trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Trong Mùa Chay, chẳng những ta gia tăng những việc đạo đức (phương diện lượng) mà còn phải lưu ý làm những việc đó với tâm tình sốt sắng hơn (phương diện phẩm).
2. Một việc đạo đức đang đi vào quên lãng, đó là Bố Thí. Giá trị của việc bố thí: a/ “Đồng tiền liền khúc ruột”, do đó bố thí có giá trị hy sinh lớn; b/ Bố thí giúp ta bớt dính bén tiền bạc; c/ Bố thí còn là một cách đền tội: Sách Tôbia nói “Việc bố thí thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi”(Tb 12,8-9).
3. Rượu chè: Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:
- Ông đang trồng cây gì thế?
- Cây nho.
- Nó có lợi gì không?
- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
- Vậy thì để tôi giúp ông.
Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.
Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; Nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu lại uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).
4. Chỗ ở của chuột: Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một toà giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.”Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. “Ô thế bạn ở đâu vậy?”- “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo.” (Trích "Món quà giáng sinh")
13.Tro bụi--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phí hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “về”và kí tên cũng chỉ một chữ “cha”.
Tin Mừng của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới đầy tội lỗi này, với một chữ “về”và một chữ kí “cha”. Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha...
Suy Niệm
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro… tro bụi. Bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi”để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi (x. Kn 15, 10; Ed 28, 18), sự mỏng giòn của con người, sự khiêm tốn (St 18, 2), nỗi đau khổ (x. G 42, 6; Gn 3, 6; Gdt 4, 11-15; Ed 27, 30; Mt 11, 21) và cả sự thống hối ăn năn (x. Gn 3, 6; G 42, 6).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “bụi tro”bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590 - 604). Ngày “bụi tro”có nguồn gốc từ “Dies Cinerum”trong sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển sách Lễ Grêgôriô. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng giòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm. Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây phương vào thế kỷ X, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội tại Công đồng Bênêventô năm 1091.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3, 19), hay thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đời sống theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1, 15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với dấu thánh giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người tín hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Rm 6, 3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết trên thập giá và phục sinh, con người sẽ tham dự vào vinh quang với Ngài. Cho nên, việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Giêsu Kitô khải hoàn.
Vì thế, xức tro trên trán là nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá… với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với dấu thập giá - trở nên dấu vinh quang…
Mang tâm tình sám hối trong Mùa Chay, người tín hữu làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh. Nhưng Chúa dạy hãy làm với sự khiêm nhường và làm cách kín đáo chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.
Ý lực sống: Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: “Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hãy nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale – Phục sinh: Một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh”(Enzo Bianchi, Donner sens au temps, Bayard, 2004).
14.Mùa chay: thời gian thuận tiện để rèn luyện mạnh khỏe--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Ăn chay là một hình thức thực hành tôn giáo đã có từ lâu đời. Xưa kia ăn chay còn kèm theo đánh tội, mặc áo nhặm nữa. Có nhiều người thắc mắc tự hỏi: tại sao phải ăn chay. Tại sao phải hành hạ thân xác như thế? Có phải Chúa độc ác đến độ vui sướng khi thấy con người bị hành hạ hay sao? Chắc chắn không phải như thế. Vậy tại sao ăn chay?
Theo thánh Tôma tiến sĩ, ta có 3 loại kẻ thù là: ma quỉ, thế gian và xác thịt. Nếu có ai hỏi trong ba loại kẻ thù đó, loại nào nguy hiểm nhất, có lẽ không ai ngần ngại trả lời đó là ma quỉ. Quả thực ma quỉ rất hiểm độc, xảo trá. Tuy nhiên, dù hiểm độc đến đâu ma quỉ vẫn luôn ở ngoài ta.
Cả thế gian cũng thế, dù ở gần gũi ta, dù có ảnh hưởng lớn trên ta, nhưng thế gian vẫn luôn ở ngoài ta. Chỉ khi nào ta đồng ý, ma quỉ và thế gian mới đột nhập được vào cung cấm linh hồn.
Ở đây xác thịt đóng một vai trò quan trọng. Vì xác thịt ở trong ta, thiết thân với ta. Khi mạnh mẽ, xác thịt là người lính canh tốt, là phương tiện phục vụ linh hồn. Nhưng khi yếu đuối, xác thịt thống trị linh hồn. Và tệ hơn nữa, khi ưng thuận với ma quỉ và thế gian, xác thịt trở thành kẻ nội thù, đánh phá ta ngay từ bên trong. Vì thế xác thịt là nguy hiểm nhất.
Thường không ai muốn sự xấu. Không ai muốn phạm tội. Người ta phạm tội hầu hết vì yếu đuối. Vì yếu đuối nên nghe theo ma quỉ, thế gian. Vì yếu đuối nên đồng ý cho ma quỉ, thế gian xâm nhập tâm hồn. Vì yếu đuối nên để ma quỉ, thế gian lèo lái tâm hồn. Muốn chống trả được sự dữ linh hồn phải mạnh khỏe. Muốn mạnh khỏe phải rèn luyện. Mùa chay chính là một thời gian thuận tiện để rèn luyện. Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho ta chương trình 3 điểm để rèn luyện trong mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.
Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Ăn uống là nhu cầu sơ đẳng của con người. Làm chủ được nhu cầu sơ đẳng là bước đầu tiến đến làm chủ bản thân. Chế ngự được cơn đói dẫn ta đến chế ngự dục vọng. Quen nói không với bản năng thấp hèn, ta sẽ biết mạnh dạn từ chối những cám dỗ xấu. Quen tự chế ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Biết từ bỏ ý riêng ta sẽ vươn lên cao trên bậc thang thánh thiện.
Cùng một ngày Darwin sinh ra (12/02/1809), một túp lều không ai biết đến, ở khu rừng rậm thuộc tiểu bang Kentucky, một đứa nhỏ khác cũng cất tiếng chào đời. Cha đứa nhỏ này là lão tiều phu nghèo khó Lincoln, và đứa nhỏ được đặt tên là Abraham. Chính đứa nhỏ này cũng vì khổ cực mà đã cố gắng tự rèn luyện để trở nên người. Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia đình quý phái, được vào học tại Đại học đường Harvard, được hưởng một lạc thú gia đình hoàn toàn, có lẽ ông đã chẳng thốt ra những lời nhiệt thành, tự đáy lòng, khi ông tái cử Tổng Thống Hoa Kỳ: “Tôi sẽ cố không xử ác với bất cứ ai và sẽ đại lượng, bác ái với mọi người”.
Cầu nguyện là phương thế không thể thiếu cho người muốn nên thánh. Nếu nên thánh là sống thân mật với Chúa thì cầu nguyện giúp ta đạt được điều này. Cầu nguyện càng sâu xa ta càng thân thiết với Chúa. Chúa là nguồn sức mạnh. Ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Chúa là nguồn thánh thiện. Ai thân thiết với Chúa sẽ có tâm hồn nhẹ nhàng siêu thoát mọi dính bén trần tục.
Dale Carnegie thuật lại: “nam tử võ sĩ”Jack Dempsey: không bao giờ quên tụng niệm trước khi ngủ; không bao giờ ăn mà không cám ơn Thượng Đế; trong khi thao luyện chờ lên võ đài, không ngày nào chàng không cầu nguyện và lúc sắp ra đấu, luôn luôn đọc kinh chờ tiếng chuông rung để mở hiệp đấu. Chàng nói: “Cầu nguyện giúp cho tôi có can đảm và tự tin”.
“Nam tử”Commie Mark cũng tụng kinh trước khi ngủ.
“Nam tử”Edward R. Steltinus, trước là nhân viên cao cấp của hãng General Motors và hãng United States Steel, lại có lần làm bộ trưởng nữa, nói rằng ông tụng kinh sáng và tối để được sáng suốt trong hành động.
“Nam tử”J. Pierpont Margan, một trong những nhà tài chánh đại tài, buổi chiều thứ bảy thường một mình lại nhà thờ Trinity ở đầu đường Wall Street quỳ gối cầu nguyện.
Khi “Nam tử”Eisenhower bay qua Anh để thống lĩnh liên quân Cường quốc chống Đức, chỉ mang theo một cuốn sách, cuốn Thánh Kinh.
Tưởng Giới Thạch và Đại tướng Montgomery cũng vậy. Nelson trong trận Trafagar cũng vậy. Đại tướng Washington, Robert E. Lee, Stonewall Jackson và cả chục quân nhân có danh tiếng khác cũng vậy, cũng vậy hết.
Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên để tăng khí lực của ta… Nhờ vậy, tinh thần lẫn cơ thể của ta được trong sạch, mạnh mẽ hơn. Chẳng có người nào, đàn ông hay đàn bà, dù chỉ tụng niệm có một lát, mà không được kết quả tốt”.
Mẹ Têrêsa nói: "Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.
Làm việc bác ái. Tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại. Tập làm việc bác ái giúp ta thêm lòng yêu mến Chúa. Quen nghĩ đến người khác giúp ta biết từ bỏ mình. Biết cảm thương trước những cảnh nghèo cảnh khổ sẽ giúp ta biết chia sẻ, xây dựng một xã hội huynh đệ, hòa bình.
Đã bao mùa Chay trôi qua, nhưng ta chưa tiến bộ bao nhiêu trên đường thánh thiện. Năm nay, ta hãy quyết tâm sống mùa Chay với chương trình cụ thể 3 việc mà Chúa đã dạy.
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao rực sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Đang khi ông chuẩn bị lên đường thì một em bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thầy trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao càng dốc và khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thầy trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thầy uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, thầy ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám uống. Uống nước xong, em bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thầy. Thầy ẩn tu len lén ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thầy đã không biết hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thầy thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thầy biết thương người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Vâng! Hãy có chương trình ăn chay bằng hãm dẹp những tính mê nết xấu. Hãy gia tăng thời gian cầu nguyện sống bên Chúa. Hãy bớt chi tiêu để chia sẻ với những anh chị em đói nghèo. Nếu có một chương trình cụ thể và siêng năng thực tập những việc đạo đức nói trên, chắc chắn ta sẽ tiến bộ rất nhiều sau mùa Chay này. Ta sẽ được nhiều ơn Chúa và sẽ mừng lễ Phục sinh tràn đầy niềm vui thánh thiện.
Với nghi thức xức tro bây giờ, tôi long trọng khai mạc mùa Chay thánh năm 2020. Ước gì mùa Chay năm nay đem đến cho anh chị em phúc lộc dồi dào của Chúa qua những thực hành đạo đức ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
Đến đây, ta hãy ngừng lại và rút bài luân lý thực hành của những trường hợp kể trên. Nếu chưa bao giờ bạn làm được ly nước ngon lành bằng trái chanh số phận đã mang lại, thì bạn cũng thử xem nào? Bạn hãy cố gắng, vì rủi có thua, bạn cũng chẳng mất gì, nhưng nếu được thì bạn sẽ vô cùng hạnh phúc. Bạn phải cố gắng vì hai lẽ: một là ít ra bạn còn có cơ thành công, hai là dù thất bại đi chăng nữa, sự cố gắng của bạn để chuyển bại thành thắng đã bắt bạn nhìn thẳng vào tương lai mà quên đi dĩ vãng. Bạn sẽ có những lý tưởng thiết thực và nghị lực sáng tác sẽ trỗi dậy kích thích bạn làm việc, đến nỗi bạn không còn thì giờ mà nghĩ vơ vẩn, bới đống tro tàn của thời qua.
15.Nhớ về thân tro bụi, mùa của tình yêu và hy vọng--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Tro, dù nhỏ nhặt, nhưng nhắc nhở chúng ta một thực tế rằng chúng ta theo đuổi và lo lắng mỗi ngày, chăm chỉ làm việc, muốn chiếm hữu tất cả, nhưng chúng ta sẽ không mang theo được sự giàu có khi từ giã cuộc sống này, chúng ta sẽ không còn gì. Thực tại trần gian biến mất như tro trong gió. Những thứ chúng ta đang có chỉ là tạm thời, quyền lực qua đi, thành công sẽ phai nhòa. Nó giống như một ngọn lửa: một khi lụi tàn, chỉ còn lại tro.
Mùa Chay là thời gian để giải thoát bản thân khỏi ảo ảnh đuổi theo cát bụi. Mùa Chay giúp chúng ta nhận ra rằng, chúng ta được tạo thành vì Chúa, chứ không phải vì thế gian; vì sự vĩnh cửu của thiên đàng, chứ không phải vì sự tạm thời trần thế; vì tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ cho vạn vật.
Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: ”Này chúng ta lên Giêrusalem”(Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.
Đức Thánh Cha viết: ”Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta”(Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).
Hành trình của Mùa Chay hướng về Phục Sinh. Toàn bộ cuộc lữ hành của đời Kitô hữu được chiếu soi nhờ ánh sáng phục sinh. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc cần làm là Ăn chay, cầu nguyện và bố thí, như lời rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mt 6, 1-18), là điều kiện giúp chúng ta hoán cải và thể hiện sự hoán cải. Nẻo đường khó nghèo và bỏ mình (ăn chay), quan tâm và yêu thương chăm sóc người nghèo (bố thí), và như trẻ thơ trò chuyện với Chúa Cha (cầu nguyện) làm cho chúng ta có thể sống đức tin chân thành, đức cậy sống động và đức ái tích cực (x. Sứ điệp Mùa Chay 2021).
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thí là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Vậy làm thế nào để thực hiện ba điều Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: Ăn chay – cầu nguyện – bố thí.
Những việc đạo đức chúng ta làm hằng ngày qui vào ba điều đó. Không phải Mùa Chay chúng ta vẫn làm. Bằng chứng là chúng ta vẫn cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lãnh nhận các bí tích là chúng ta cầu nguyện. Các ngày thứ Sáu, Thứ Tư Lễ Tro, Thứ Sáu Tuần Thánh, và các dịp lễ khác chứng ta vẫn ăn chay. Giúp đỡ người nghèo, góp tiền cho người nghèo ăn Tết là bố thí. Nhưng trong Mùa Chay Thánh, chúng ta phải làm những việc bình thường đó với một tinh thần mới mẻ, tinh thần của Đức Kitô, tinh thần của Tin Mừng. Ăn chay để yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, vì yêu mến là chú vào người khác và xem họ như một với chính mình (x. Fratelli Tutti, 93). Ăn chay giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì xâm chiếm đời ta, như khỏi chủ nghĩa tiêu thụ và thừa mứa thông tin (cả thông tin thật lẫn thông tin giả), để mở lòng ra với Đấng đến với chúng ta, Người nghèo khó trong mọi sự nhưng “đầy tràn ân sủng và sự thật”(Ga 1, 14).
Đức Thánh Cha viết: ”Trong hoàn cảnh lo âu hiện nay, khi mọi việc có vẻ mong manh và bấp bênh, thì việc nói về niềm hy vọng dường như là một thách đố. Nhưng Mùa Chay chắc chắn là mùa hy vọng, khi chúng ta quay trở lại với Thiên Chúa là Đấng vẫn tiếp tục nhẫn nại để chăm sóc thụ tạo của Người, đang khi chúng ta lại thường ngược đãi”(x. TĐ. Laudato si’, 32-33; 43-44).
Đức Thánh Cha khuyên, trong Mùa Chay, ”hãy nói những lời tích cực để vỗ về, trợ lực, an ủi và khích lệ chứ không nói những lời miệt thị, bi quan, khích bác hoặc chê bai”(Fratelli Tutti, 223). Đôi khi để trao tặng niềm hy vọng, chỉ cần là một người tử tế, “sẵn sàng bỏ qua những bận tâm và việc cần làm ngay của mình để lưu tâm đến người khác, để trao tặng một nụ cười, để nói một lời động viên, để lắng nghe giữa một nơi chốn đầy vẻ dửng dưng (nt., 224).
Tình yêu là biểu hiện cao nhất của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta, cần bước theo bước Chúa Kitô, trong việc quan tâm và động lòng thương mọi người. Tình yêu là bước nhảy vọt của con tim, đưa chúng ta ra khỏi chính mình và tạo nên mối liên kết chia sẻ và hiệp thông. Tình yêu là món quà mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta.
Sống Mùa Chay với tình yêu, là quan tâm tới những người đau khổ hay cảm thấy bị bỏ rơi và sợ hãi vì đại dịch Covid-19. Trong bối cảnh tương lai vô cùng bất ổn, hãy ghi nhớ lời Chúa nói với tôi tớ Người: ”Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về”(Is 43,1) để với tình bác ái, chúng ta biết trao tặng những lời nói làm vững dạ an lòng và giúp người khác nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương họ như những người con.
Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse xin đồng hành với chúng con trong Mùa Chay Thánh này. Amen.
16.Mùa Chay 2022, mùa trở về--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Mt 6, 1-6; 16-18)
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được nghe lại Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Giôen vang lên nghe thật tha thiết. Lời đầy yêu thương ấy phát xuất từ trái tim đầy của một Vì Thiên Chúa tình yêu kèm theo cánh tay mở rộng vẫy mời: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van”(Ge 2,12). Phải chăng chúng ta lầm đường lạc lối làm phiền lòng Chúa và đã đi quá xa khiến Thiên Chúa xót thương cho thân phận con người vì tình yêu vấn vương tạo dựng mà cất lời kêu gọi con người trở về?
Biết bao lần, vì khô khan biếng trễ xưng tội, rước lễ, bỏ đọc kinh, lười đi nhà thờ, bỏ lễ Chúa Nhật, hay viện cớ bận rộn, thờ ơ mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, sau này con sẽ đến với Chúa, xin Chúa đợi con… Hôm nay con không thể, nhưng ngày mai con sẽ bắt đầu cầu nguyện và làm điều gì đó cho người khác”. Và cứ thế, hết lần này, đến lần khác. Tuy nhiên, ngay bây giờ Chúa vẫn đang cất tiếng kêu gọi chúng ta “Hãy hết lòng trở về với Ta”(Ge 2,12). Trong đời sống thường này nơi dương thế, mỗi người chúng ta luôn có những việc phải làm và chúng ta có những lý do để thoái thác, nhưng hôm nay là lúc để trở về với Chúa.
Mùa Chay chúng ta bước vào đây không đơn thuần chỉ là ăn chay, cầu nguyện và làm phúc. Nhưng hơn thế nữa cần phải làm một cuộc kiểm duyệt lại đường đi cách sống của chúng ta trong tương quan với Chúa và tha nhân, ngay cả với chính bản thân mình nữa là trọng tâm của Mùa Chay. Chúng ta tự hỏi: lòng tôi đang hướng về đâu? Về Chúa hay quy về tôi? Tôi có sống để làm đẹp lòng Chúa, hay để được chú ý, khen ngợi, ưa thích, được chỗ nhất, v.v.? Tôi có tiến một bước, rồi lại lùi một bước không? Lúc tôi yêu Chúa và lúc khác tôi yêu thế gian. Tôi có hài lòng với thói đạo đức giả của mình không, hay tôi đang đấu tranh để giải thoát trái tim mình khỏi sự giả tạo và giả dối đang trói buộc tâm hồn tôi?
Mùa Chay là thời gian để giải thoát bản thân khỏi ảo ảnh đuổi theo cát bụi. Mùa Chay giúp chúng ta nhận ra rằng, chúng ta được tạo thành vì Chúa, chứ không phải vì thế gian; vì sự vĩnh cửu của thiên đàng, chứ không phải vì sự tạm thời trần thế; vì tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ cho vạn vật.
Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2022 được lấy từ Thư Galát, đoạn 6, câu 9 và 10 công bố sáng hôm 24 tháng Hai, với chủ đề là: “Chúng ta đừng nản chí khi làm điều thiện; thực vậy, nếu chúng ta không nản lòng, khi đến giờ chúng ta sẽ gặt được gặt hái. Vậy bao lâu còn cơ hội, chúng ta hãy làm điều thiện cho tất cả mọi người”(x. PHANXICÔ, Sứ điệp Mùa Chay, 2022).
Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi các tín hữu đáp lại ơn gọi trở thành những “cộng tác viên của Thiên Chúa”(1 Cr 3,9) bằng cách tận dụng thời hiện tại để gieo vãi qua việc làm điều thiện cho bản thân và tha nhân.
Dựa vào lời của thánh Phaolô tông đồ. Ngài nhận định rằng: “Trong cuộc sống chúng ta, quá nhiều khi sự tham lam và kiêu hãnh, ham muốn sở hữu, tích trữ và tiêu thụ, như người ngu dại trong dụ ngôn Tin mừng, nghĩ rằng cuộc đời mình được an toàn và hạnh phúc nhờ tích trữ đầy kho lẫm”(x. Lc 12,16-21). Mùa Chay mời gọi chúng ta hoán cải, thay đổi não trạng, nhờ đó cuộc sống có sự thật và được đẹp đẽ không phải để sở hữu nhưng là cho đi, không phải để tích trữ cho bằng gieo vãi điều thiện và chia sẻ.
Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng: “Chính khi gieo vãi để mưu ích cho tha nhân, chúng ta tham gia vào lòng đại đảm của Thiên Chúa… Sự gieo vãi mưu ích cho tha nhân giải thoát chúng ta khỏi những tiêu chuẩn hẹp hòi của lợi lộc bản thân và mang lại cho hành động của chúng ta sắc thái nhưng không, quảng đại, tháp nhập chúng ta vào chân trời tuyệt diệu của những kế hoạch từ nhân của Thiên Chúa”(x. PHANXICÔ, Sứ điệp Mùa Chay, 2022).
Đức Thanh Cha kêu gọi các tín hữu kiên trì cầu nguyện, loại trừ sự ác khỏi đời sống, siêng năng lãnh nhận Bí tích giao hòa đề cầu xin Chúa thứ tha, gia sức chống lại sự đam mê và ham muốn thúc đẩy chúng ta đi tới ích kỷ và mọi sự ác khác. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác con cái mình về sự nghiện ngập các phương tiện kỹ thuật số làm cho các tương quan giữa con người trở nên nghèo nàn. Ngài viết: “Mùa Chay là mùa thuận tiện để chống lại những cám dỗ vừa nói và vun trồng một sự đả thông toàn diện hơn với con người, bằng những cuộc gặp gỡ thực sự, diện đối diện”(x. PHANXICÔ, Sứ điệp Mùa Chay, 2022).
Sau cùng, Đức Thánh cha khẳng định rằng: “Nếu trọn cuộc sống của chúng ta là thời kỳ gieo vãi điều thiện, chúng ta hãy đặc biệt tận dụng Mùa Chay để chăm sóc những người ở gần, trở nên gần gũi với những anh chị em bị thương tổn trên đường đời”(x. Lc 10,25-37). Mùa Chay là thời điểm thuận tiện để tìm kiếm, và không tránh né những người đang túng thiếu, cần được giúp đỡ, để gọi thăm chứ không làm ngơ đối với người cần được lắng nghe và mong được một lời nói tốt lành, để viếng thăm chứ không bỏ rơi người đang đau khổ vì cô đơn… Hãy dành thời giờ để yêu mến những người bé nhỏ nhất và không được bảo vệ, những người bị bỏ rơi và khinh rẻ, bị kỳ thị và gạt ra ngoài lề (x. Fratelli tuti, số 193).
Sống Mùa Chay với tình yêu, là quan tâm tới những người đau khổ hay cảm thấy bị bỏ rơi và sợ hãi vì chiến tranh và đại dịch. Trong bối cảnh tương lai vô cùng bất ổn, hãy ghi nhớ lời Chúa nói với tôi tớ Người: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về”(Is 43,1) để với tình bác ái, chúng ta biết trao tặng những lời nói làm vững dạ an lòng và giúp người khác nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương họ như những người con.
Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse xin đồng hành với chúng con trong Mùa Chay Thánh này. Amen.
17.Ăn chay, cầu nguyện và làm phúc--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Để giúp con cái mình lĩnh được nhiều ơn ích. Ngoài những phương thế Giáo hội vẫn đề ra như: ăn chay, cầu nguyện và làm phúc, vị cha chung của Giáo hội là Đức Thánh Cha còn ban hành sứ điệp như là kim chỉ nam để các tín hữu sống trong Mùa Chay Thánh.
Mùa Chay năm nay với chủ đề trích từ Tin Mừng theo thánh Mathêu: “Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người trở nên nguội lạnh”(Mt 24, 12).
Chúa Giêsu nói câu này khi trả lời câu hỏi của các môn đệ. Ngài loan báo sẽ có sự sầu muộn lớn và mô tả tình trạng cộng đồng tín hữu có thể lâm vào: đó là đứng trước những biến cố đau thương, một số tiên tri giả sẽ lường gạt nhiều người đến độ đe dọa làm cho tâm hồn họ bị tắt lịm lòng mến là trung tâm của toàn thể Tin Mừng.
Đức Thánh Cha giải thích rằng những tiên tri giả lợi dụng cảm xúc của con người để biến họ thành nô lệ.. Bao nhiêu người sống như bị mê hoặc vì tiền bạc, khiến họ trở thành nô lệ lợi lộc nhỏ nhen. Họ sống mà chỉ nghĩ đến mình và rơi vào tình trạng cô độc.
Có những tiên tri giả khác như những “lang băm”, cống hiến những giải pháp đơn giản và tức thời cho những đau khổ, nhưng thực ra những liều thuốc này hoàn toàn vô hiệu: bao nhiêu người trẻ tìm phương dược giả dối trong ma túy, trong những quan hệ “dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính..
Bước vào Mùa tập luyện chiến đấu thiếng liêng, ba việc nên làm trong Mùa Chay là: Ăn chay, Cầu nguyện và bố thí. Ba việc ấy diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay.
Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha cổ võ các tín hữu trong mùa chay này hãy cầu nguyện, làm phúc bố thí và chay tịnh cho nên, vì đó là những phương dược ngọt ngào trong Mùa Chay Thánh.
Cầu nguyện giúp tâm hồn chúng ta khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình, để chúng ta đi tìm kiến sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.
Làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp chúng ta khám phá ra tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Đức Thánh Cha cho biết ngài “ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người”.
Sau cùng là việc ăn chay. Việc giữ chay sẽ giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh đánh thức và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.
Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa.
Bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM). Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự xuống, nâng đỡ những quyết tâm của chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.
18.Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro (Mt 6, 1-6; 16-18)-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh, một khởi đầu mới thúc giục chúng ta hoán cải dẫn đến mục tiêu chắc chắn là Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Kitô đối với sự chết. Mùa Chay là mùa thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng nhờ những phương tiện thánh hóa Giáo hội đã đem đến cho chúng ta: ăn chay, cầu nguyện và bố thí là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay. Những việc chúng ta làm phải xuất phát từ cái tâm sâu thẳm hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Trước hết phải khiêm nhường
Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình”trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: ”Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện”( Tv 34, 13).
Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: ”Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa”(x. Tl 20, 26); “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!”(2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: “Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ”(x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.
Đừng phô trương
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: ”Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người”(Mt 6, 1-6).
Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vì khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng”(1 Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn, có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.
Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì. Vì thế cần phải:
Nghe và thực hành lời Chúa dạy
“Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”là chủ đề của Sứ điệp Mùa Chay năm nay 2017. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16, 19-31) để quảng diễn, Đức Thánh Cha viết: Dụ ngôn bắt đầu bằng việc giới thiệu hai nhân vật chính. Người nghèo được mô tả chi tiết hơn: người ấy thật tồi tàn và không đủ sức để đứng lên. Nằm trước cửa nhà người giàu có, anh ăn những vụn bánh từ bàn của người ấy rơi xuống. Thân thể anh đầy lở loét và mấy con chó đến liếm những vết thương của anh (x. c 20-21). Một bức tranh về nỗi khốn cùng; vẽ nên một con người hèn hạ và đáng thương. Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình”(Lc 16, 19) tương phản với ”anh Lagiarô nghèo”(Lc 16, 20). Cuối cùng cả người giàu và người nghèo đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn này diễn ra ở đời sau. Hai nhân vật bỗng nhiên khám phá ra rằng “chúng ta đã chẳng mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được”(1 Tm 6, 7).
Đức Thánh Cha kết luận: Gốc rễ của mọi bất hạnh của ông là không chịu nghe lời Chúa. Kết quả là ông không còn yêu mến Thiên Chúa và càng ngày càng khinh miệt người thân cận của mình. Lời Chúa thì sống động và mạnh mẽ, có khả năng biến đổi những cõi lòng và đưa chúng trở về với Chúa. Khi chúng ta đóng cửa lòng mình trước hồng ân lời Chúa, thì rốt cuộc chúng ta cũng sẽ đóng cửa lòng mình trước hồng ân là những anh chị em của chúng ta.
Vậy, để khám phá hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy khỏi tội lỗi đã làm cho chúng ta ra mù loà, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong những anh chị em của chúng ta đang túng thiếu. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình hoán cải thật sự, quyết tâm thực hiện sự đổi mới thiêng liêng này bằng cách tham gia các Chiến dịch Mùa Chay được nhiều tổ chức Giáo hội phát động, để thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ trong gia đình nhân loại duy nhất của chúng ta
Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.
19.Bước vào mùa luyện nhân đức để chiến thắng tội lỗi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van”(Joel 2,12).
Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.
Ăn chay
Cầu nguyện
Và bố thí
Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Trước hết phải khiêm nhường
Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình” trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: “Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện”( Tv 34, 13).
Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: “Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa”(x. Tl 20, 26); “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! “(2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: “Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?”(x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.
Đừng phô trương
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người”(Mt 6, 1-6).
Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vì khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng”(1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.
Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.
Thực hành bác ái
Sống mùa Chay Thánh, ngoài việc ăn chay, cầu nguyện, chúng ta còn phải thực hành bác ái. Ăn chay để giảm bớt những chi tiêu, giảm bớt những ham muốn của xác thịt… Cầu nguyện để gặp được Chúa, để hướng về hạnh phúc đời sau. Làm việc bác ái để cảm nhận, để xót xa và để làm xoa dịu những nỗi thống khổ vất vả nơi những mảnh đời thật sự đau thương cần ta trợ giúp.
Tóm lại, mùa Chay hàng năm là dịp để ta hướng lòng lên Thiên Chúa và mở lòng ra với tha nhân trong tình yêu thương. Như vậy ăn chay mà lòng không hướng về Chúa, không cầu nguyện thì chưa phải là ăn chay đúng ý hướng của Giáo hội. Vừa ăn chay vừa cầu nguyện mà không làm việc bác ái thì thiếu đi tình người, thiếu đi lòng thương xót đối với những mảnh đời đang thật sự cần ta trợ giúp. Vì thế, chủ đề của sứ điệp Mùa Chay năm nay lấy từ thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.”(Rm 8,19). Đức Giáo hoàng Phanxicô dạy: “Chay tịnh, nghĩa là học cách thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và tất cả những loài thọ tạo, học cách từ bỏ cám dỗ “nuốt chửng”mọi thứ để thỏa mãn lòng khao khát tham lam của chúng ta và sẵn sàng chịu đựng cho tình yêu, là điều có thể lấp đầy sự trống rỗng trong con tim chúng ta. Lời cầu nguyện dạy chúng ta từ bỏ thói thờ ngẫu tượng và sự tự mãn của bản ngã, giúp ta nhìn ra rằng chúng ta cần đến Chúa và lòng thương xót của Ngài. Việc bố thí, nhờ đó chúng ta thoát khỏi sự điên rồ của việc tích trữ mọi thứ cho bản thân với niềm tin viễn vông rằng chúng ta có thể bảo đảm cho mình một tương lai không hề thuộc về chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui trong chương trình của Chúa dành cho sáng tạo và cho mỗi người chúng ta, đó là yêu mến Người, anh chị em của chúng ta, và toàn bộ thế giới, và tìm thấy nơi tình yêu này hạnh phúc đích thực của chúng ta”(Trích Sứ Điệp Mùa Chay 2019).
Vào cuối sứ điệp, Đức Giáo hoàng khuyên chúng ta rèn nhân đức để chiến thắng tội lỗi: “Chúng ta hãy bỏ lại sau lưng tính ích kỷ và sự tự hấp thụ vào chính mình, nhưng hướng đến sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy đứng bên cạnh những anh chị em đang túng thiếu của chúng ta, chia sẻ những của cải tinh thần và vật chất của chúng ta với họ. Nhờ thế, khi chào đón vào cuộc sống của chúng ta một cách cụ thể chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và cái chết, chúng ta cũng sẽ phản chiếu ánh quang rạng rỡ quyền năng biến đổi của chiến thắng ấy cho tất cả các tạo vật”(Trích Sứ Điệp Mùa Chay 2019).
Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.
20.Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo--Lm Đan Vinh
Ge 2,12-18 ; 2 Cr 5,20-6,2 ; Mt 6,1-6.16-18
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18
(1) Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (5) Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (16) Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su đòi môn đệ phải làm các việc đạo đức như bố thí, cầu nguyện và ăn chay theo tinh thần mới của Người:
Điều quan trọng là phải làm các việc này trong sự khiêm tốn: Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để được khen có lòng bác ái; Tránh cầu nguyện ở chỗ đông người để được đánh giá là có lòng đạo đức; Tránh ăn chay với vẻ mặt thiểu não để được ca tụng có tinh thần hy sinh hãm mình.
3. CHÚ THÍCH:
- C 2-4: + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x. Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới thái độ phô trương bề ngoài, nhằm để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để khuyến cáo môn đệ phải khiêm tốn khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm khoe khoang. Do đó, họ sẽ không được công phúc thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa sau này. + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là cần phải giữ kín, không cho người khác biết việc tốt mình đang làm.
- C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo Người thì lời cầu nguyện phải có những đặc tính sau: Phải khiêm tốn trước Thiên Chúa và người đời (x. Lc 18,10-14; Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x. Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa (x. Mt 6,8 ; 7,7-11) và phải kiên trì nài xin (x. Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được nhận lời khi cầu xin với lòng tin mạnh (x. Mt 21,22), cầu xin nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20), và cầu xin những ơn thực sự ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và cộng đồng (x. Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ trích ý đồ của người cầu nguyện là muốn phô trương công đức để được người đời ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a cầu nguyện khi làm phép lạ (x. 2V 4,33).
- C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo bằng vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do thái chỉ buộc phải ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), và trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Riêng các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12). + Còn anh, khi ăn chay...: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự khiêm tốn: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn...như người Biệt phái thường làm, thì họ cứ rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như mọi ngày khác, để cho người ta không biết mình đang ăn chay.
4. CÂU HỎI:
1) Hãy cho biết ba việc đạo đức người Do thái đạo đức quen làm là những việc gì? 2) Theo Đức Giê-su: cầu nguyện đúng đắn phải có những đặc tính nào? Muốn đạt được hiệu quả thì lời cầu nguyện phải có những điều kiện nào? 3) Luật Mô-sê dạy dân Do thái ăn chay như thế nào? 4) Thời Đức Giê-su, dân Do thái buộc ăn chay những ngày nào? Và người Pha-ri-sêu thì ăn chay những ngày nào? 5) Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay cách nào để làm đẹp lòng Thiên Chúa?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”(Mt 6,4).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĂN CHAY LÀ QUẢNG ĐẠI BỎ TIỀN GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO:
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang trong nhà thờ để kiếm cái gì ăn cho đỡ đói. Bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn như nó. Thế là hai con chuột liền làm quen với nhau và hỏi thăm chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong ngôi nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn và nói: “Vậy thì bồ hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị người ta quấy rầy!”Chuột thứ nhất ngạc nhiên hỏi: “Có một chỗ ở như thế thật ư? Vậy bạn hãy cho tớ biết là chỗ nào vậy? “. Chuột thứ hai liền đáp: “Đó là trong thùng quyên góp giúp người nghèo. Nó nằm ngay tại cuối nhà thờ này đấy!”
2) ĂN CHAY LÀ HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI BIẾT NGHĨ ĐẾN THA NHÂN:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.
3) ĂN CHAY LÀ THÀNH TÂM SÁM HỐI VÀ GIÚP TỘI NHÂN HOÁN CẢI:
Thời ngôn sứ Gio-na, Đức Chúa truyền cho ông hãy đi loan báo cho dân thành Ni-ni-vê đang sống bê tha tội lỗi về các tai ương mà Ngài sắp giáng xuống trên cả thành nếu họ không cấp thời sám hối. Lúc đầu Gio-na chạy trốn Đức Chúa nên con thuyền ông đi trốn Chúa đã gặp bão lớn. Khi ông bị các người trên thuyền quăng xuống biển thì cơn bão mới yên. Sau đó một con cá lớn đã đớp lấy ông nuốt vào bụng và ba ngày sau nó nhả ông ra nằm trên bãi biển. Tỉnh dậy ông biết mình đang nằm trên bãi cát thuộc địa giới thành Ni-ni-vê. Ông đã tuân phục ý Chúa và bắt đầu sứ mạng rao giảng kêu gọi dân thành Ni-ni-vê ăn năn sám hối. Nghe ông rao giảng và chứng kiến phép lạ ông ở trong bụng cá ba đêm ngày, thì từ vua đến dân đều ăn năn sám hối: “Vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô và ngồi trên tro”(Gn 3, 6). Nhờ đó thành Ni-ni-vê đã được Đức Chúa xá tội và không giáng phạt.
4) ĂN CHAY LÀ TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG HOÀ BÌNH:
Ngày 22/01/2008, O-mar O-sa-ma Bin La-den, người con trai thứ tư của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den đã nhắn tin yêu cầu cha hãy chấm dứt bạo động mà ông là người xướng xuất. Loại bạo động của Al-Qaeda là thực hiện hàng loạt vụ khủng bố trên khắp thế giới. Các vụ khủng bố này đã giết chết rất nhiều thường dân vô tội, bao gồm cả trận tấn công nổi tiếng ngày 11-9-2001 bằng việc cướp phi cơ và buộc phi công lái đâm vào toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Hoa Kỳ.
O-mar nói rõ: “Bom là không tốt để sử dụng với bất cứ ai. Cha hãy thay đổi cách hành động”. Ðó chính là thông điệp mà con trai của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den muốn gửi đến cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này tiếp tục nhuốm máu người dân vô tội. Anh muốn cha anh hãy cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá làm người.
3. THẢO LUẬN: Trong kinh “cải tội bảy mối có bảy đức”, bạn thấy mình thường hay sai phạm mối tội đầu nào nhất? Bạn sẽ làm gì để chừa bỏ thói xấu ấy trong Mùa Chay năm nay?
4. SUY NIỆM:
Hội thánh cử hành nghi thức làm phép và xức tro để khai mạc Mùa Chay Thánh. Trong nghi lễ xức tro, Hội Thánh nhắc nhở mọi tín hữu: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro”. Khi lãnh tro lên đầu là chúng ta nhận mình chỉ là tro bụi như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã cầu nguyện với Đức Chúa: ”Con chỉ là thân tro bụi”(St 18, 27), đồng thời chúng ta cũng bày tỏ lòng sám hối và tin vào Tin Mừng của Đức Giê-su như lời Người dạy: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1, 14).
1) BA VIỆC NÊN LÀM MÙA CHAY LÀ BỐ THÍ, CẦU NGUYỆN VÀ ĂN CHAY:
a) Bố thí kín đáo:
- Các việc đạo đức cần phải đi đôi với lòng mến Chúa yêu người mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa như lời thánh Phao-lô: ”Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1 Cr 13,3).
- Bố thí là chia sẻ cơm bánh vật chất cho những người nghèo đói. Nhưng cần tránh phô trương, mà làm cách kín đáo: ”Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”.
b) Cầu nguyện âm thầm:
- Cầu nguyện là dấu hiệu của đức tin. Bao lâu người ta còn cầu nguyện thì còn chứng tỏ họ đang có đức tin. Khi thôi không cầu nguyện nữa cho thấy đức tin của họ đã chết như lời thánh Gia-cô-bê dạy: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”(Gc 2,17).
- Lời cầu nguyện cần mang đặc tính khiêm tốn, chân thành, tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và với sự kiên trì. Lời cầu nguyện chỉ được Chúa chấp nhận nếu cầu xin kèm theo đức tin mạnh, cầu xin nhân danh Đức Giê-su và cầu xin các ơn lành hồn xác thực sự mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11).
c) Ăn chay hãm mình:
- Ngay từ thời các vua, dân Ít-ra-en đã có thói quen ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Đến thời Chúa Giê-su, các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12).
- Về cách thức ăn chay: Luật Mô-sê quy định ăn chay là tự nguyện nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo đặc biệt bằng vải thô. Luật buộc ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9). Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay trong sự khiêm hạ: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn...như người Biệt phái thường làm, thì hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như các ngày khác, để người ngoài không biết mình đang hãm mình đền tội. Chỉ cần Thiên Chúa thấu suốt và sẽ ban ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.
2) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
a) Tránh ăn chay hình thức vụ luật và phô trương:
- Có những người ăn chay vụ luật hoặc vì sợ bị Chúa phạt: Những người này ăn chay để khỏi mắc tội. Do đó nếu trong ngày chay lỡ quên ăn vặt, ăn không đúng giờ... thì đâm ra lo lắng áy náy. Họ tính toán: Ngày mai ăn chay thì hôm nay sẽ ăn uống no say như thói tục “Thứ Ba Béo”của một số dân các nước Âu châu.
- Cũng có người trong ngày giữ chay tuy không ăn thịt, nhưng lại ăn đồ hải sản, tôm hùm, cá hồi… còn mắc tiền hơn thịt. Họ tuy giữ luật ăn chay nhưng thiếu tinh thần chay là hãm mình đền tội, nên việc ăn chay của họ không đẹp lòng Thiên Chúa.
b) Hãy thực thi công bình bác ái:
- Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em?
- Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm, như mạch suối không cạn nước bao giờ”(Is 58,6-11).
3) MỘT SỐ VIỆC LÀM THIẾT THỰC:
a) Trong ngày Thứ Tư Tro, hãy đến nhà thờ để NHẬN TRO TRÊN ĐẦU. Trong nghi thức xức tro, Hội Thánh nhắn nhủ: “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi một mai người sẽ trở về bụi tro”; Hoặc: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”.
Nhận tro trên đầu như vậy là để bày tỏ lòng sám hối và quyết tâm cải tà quy chánh: Hãm dẹp các đam mê bất chính, các thói hư tật xấu, loại bỏ những hành vi ám muội làm mất lòng Chúa và phiền lòng anh em.
b) Luật Hội Thánh quy định việc ăn chay mỗi năm còn hai ngày là Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Không phải Hội Thánh coi thường việc ăn chay, nhưng muốn các tín hữu chú trọng nhiều hơn đến TINH THẦN CHAY TỊNH như sau:
Nhịn ăn một chén cơm không bằng nhịn nói một lời xúc phạm người khác.
Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn một cử chỉ khinh thường anh em.
Nhịn ăn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, sẵn sàng làm hòa với nhau.
Kiềm chế cơn đói không bằng kiềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện chơi games trên máy tính...
Kiềm chế cơn khát không bằng kiềm chế các dục vọng, loại bỏ thói tham lam và tính tự ái kiêu ngạo, tính thích gây hấn với người khác.
c) Ngôn Sứ Giô-en kêu gọi dân Do thái: “HÃY XÉ LÒNG CHỨ ĐỪNG XÉ ÁO”. Người Do-thái có tục lệ xé áo để biểu lộ lòng thống hối khi ăn chay. Người tín hữu hôm nay cần ý thức:
- Xé áo bề ngoài không bằng xé lòng khỏi thói tham lam, ăn ở bất công.
Xé lòng ra khỏi sự lười biếng, khô khan, nguội lạnh.
Xé lòng khỏi những dính bén danh lợi thú trần gian.
Xé lòng khỏi thói gian dối, đạo đức giả như người Biệt Phái.
Chỉ khi thực sự xé lòng như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa; Mới đến gần Chúa, sống thân mật với Chúa và hưởng được tình thương bao dung của Chúa.
d) Ngoài ra, chúng ta hãy biến việc ăn chay thành HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI CỤ THỂ. Mỗi ngày trong Mùa Chay, hãy bớt chi tiêu để gửi tiền giúp những nơi nghèo khổ, vùng bị thiên tai lũ lụt, vùng bị cách ly do dịch cúm Covid-19, đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa… Nhờ thế, việc ăn chay của ta sẽ không chỉ dừng lại ở hình thức bề ngoài, nhưng là những hy sinh hãm mình và những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân.
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cùng với toàn thể Hội thánh, chúng con đã bước vào Mùa Chay. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thời kỳ thuận tiện để duyệt xét cuộc đời chúng con, hầu bù đắp những thiếu sót, sửa chữa những lệch lạc nơi con người chúng con. Xin Chúa hãy chiếu ánh sáng của Chúa trên chúng con, để chúng con quyết tâm đổi mới nên môn đệ đích thực của Chúa.- AMEN.
21.Lễ Tro--Làm việc lành trong khiêm hạ--Lm Đan Vinh
(Ge 2,12-18; 2Cr 5,20-6,2; Mt 6,1-6,16-18)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi trình bày về sự công chính mới trong việc tuân giữ các giới răn, Đức Giê-su đề cập tới một nền đạo đức mới là phải làm các việc lành thế nào cho phù hợp với tinh thần mới của Người. Điều cốt yếu khi làm các việc đạo đức là phải khiêm tốn và theo thánh ý Chúa Cha: Tránh làm các việc đạo đức như cầu nguyện để được người ta ca tụng; Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để tìm tiếng khen nơi người đời; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ thiểu não khi ăn chay để cho thiên hạ nể phục.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng. Chớ có phô trương cho thiên hạ thấy: Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Người phải tránh thói đạo đức giả hình của các người Pha-ri-sêu (Biệt Phái), là những kẻ “nói mà không làm”, “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy”(x Mt 23,3.5). + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới sự phô trương bề ngoài để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó, ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để làm nổi bật đòi hỏi tinh thần khiêm tốn, mà Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải có, khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm mục đích tự nhiên. Do đó, họ sẽ không được hưởng công phúc thiêng liêng trước mặt Chúa Cha trên trời.
- C 3-4: + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là phải giữ kín, đừng nói cho người khác biết việc mình đang làm. Người môn đệ Đức Giê-su không những phải tránh cho mọi người hay biết việc bố thí của mình, nên cần thực hiện trong âm thầm khiêm tốn.
- C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo các huấn thị của Người rải rác trong các Tin Mừng thì lời cầu nguyện phải như sau: Phải cầu nguyện cách khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa (x Lc 18,10-14) và người đời (x Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa Cha (x Mt 6,8; 7,7-11) và kiên trì nài xin (x Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được Chúa chấp nhận khi cầu nguyện với lòng tin (x Mt 21,22); Khi cầu nguyện nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20); và khi xin Chúa ban những điều tốt lành (x Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và có tính cộng đồng (x Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ muốn tránh ý đồ phô trương công đức để được ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a khi ông cầu nguyện để làm cho đứa bé mới chết được sống lại (x 2 V 4,33). Cách thức cầu nguyện kín đáo này trái với cách phô trương của những kẻ giả hình. Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa. “Vào phòng”là hồi tâm, đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ đức tin. Thiếu điều này sẽ không còn là sự cầu nguyện đích thực nữa.
- C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục lệ ăn chay mỗi khi có tang chế (x 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào lúc ban ngày. Sự nhịn ăn uống này sẽ kéo dài trong một thời gian lâu hay mau tùy trường hợp. Trong thời gian ăn chay, người ta sẽ không tắm rửa, để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do Thái chỉ buộc phải ăn chay trong lễ Xá Tội vào mùng mười tháng Bảy, tức khoảng cuối tháng Chín dương lịch (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá và những lúc gặp thiên tai. Việc ăn chay này sẽ do các đầu mục quyết định. Riêng người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12), nhưng việc chay tịnh chỉ mang tính bề ngoài nhằm phô trương (x Mc 2,18), nên Đức Giê-su đã không chấp nhận sự khổ chế này của họ (x Mc 2,19-20). + Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự kín đáo khiêm tốn: thay vì rắc tro lên mặt, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn… thì họ phải rửa mặt, chải dầu thơm giống như họ vẫn thường làm mỗi khi đi ra đường để người khác không biết họ đang ăn chay.
HỎI ĐÁP:
- HỎI:
1) Khi Đức Giê-su nói: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”(c. 4b.6b.18b), phải chăng Người muốn cổ võ một thứ luân lý vụ lợi: Cho đi để được nhận lại? 2) Muốn có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng được Ngài ban nhiều ơn lành, thì việc chay tịnh cần tránh những gì và cần làm những gì?
- ĐÁP:
1) Thực ra không phải vậy. Vì nếu có ý khích lệ người ta làm việc thiện để được lợi cho mình, thì Người đã hứa những lợi ích có tính thế tục như tiền của, sức khỏe, thành công… Nhưng ở đây Người không nói rõ phần thưởng Chúa Cha sẽ ban cho là gì. Nơi nhiều đoạn khác, phần thưởng được hứa hầu như luôn là Nước Trời tương lai hoặc một trong những hoa trái thiêng liêng của nó là sự sống muôn đời (x. Mt 25,46; Mc 10,30). Các môn đệ sẽ được tham dự vào quyền bá chủ của Người (x. Lc 22,28-29), được xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en trong ngày tận thế (x. Mt 19,28). Ở đây, phần thưởng Đức Giê-su hứa cho những kẻ làm việc lành phải được hiểu theo nghĩa Cánh Chung, và có tính cách vô thường, nghĩa là: được Chúa ban cho, không vì việc làm đáng thưởng, nhưng chỉ vì tình thương và lòng nhân hậu vô biên của Người (Dụ ngôn đầy tớ vô dụng: Lc 17,7-10). Hơn nữa, phần thưởng ở đây còn được hiểu là chính Thiên Chúa. Những ai làm việc thiện trước mặt Thiên Chúa, với ý hướng muốn làm đẹp lòng Ngài và để tôn vinh Ngài, thì sẽ được gặp Ngài, được xem thấy Ngài và sẽ tìm thấy hạnh phúc cho bản thân.
2) Muốn cho việc ăn chay có giá trị trước mặt Thiên Chúa, thì cần tránh cách ăn chay hình thức về ngoài đã bị Đức Chúa quở trách, và còn phải kèm theo những việc tốt lành để xứng đáng được Đức Chúa chấp nhận, như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn…”. Nào, cách ăn chay mà Đức Chúa ưa thích chẳng phải thế này đó sao: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ. Thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục”. Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ ngươi kêu lên Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu Người liền đáp lại: “Có Ta đây!”(Is 58,6b-9a).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”(Mt 6,3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Chỗ nào trong nhà thờ loài chuột ít bị quấy rầy nhất
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê nước Pháp. Một hôm khi đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn liền nói: “Vậy thì bạn hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy!”Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở như thế trong nhà thờ thật ư? Hãy cho tớ biết chỗ đó là chỗ nào vậy?”. Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo ở cuối nhà thờ này đấy!”.
2) Bác ái chia sẻ là phương cách ăn chay đẹp lòng chúa hơn cả:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.
3. SUY NIỆM:
+ Yêu thương là cho đi: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phao-lô đã khuyên các kỳ mục ở Ê-phê-xô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận”(Cv 20,35). Thánh Gia-cô-bê dạy các tín hữu phải có đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?”(Gc 2,15-16).
+ Bố thí chia sẻ: Một việc đạo đức ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay là sự bố thí chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng sẽ mang lại nhiều hữu ích cho tâm hồn ta:
** Khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”: Chỉ những người có lòng hy sinh và quảng đại mới có thể thực hiện được tốt công việc chia sẻ này.
** Việc bố thí giúp ta ý thức giá trị tương đối của đồng tiền: Giúp ta biết dùng đồng tiền trong việc làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân, giúp ta bớt đi lòng dính bén với của cải vật chất như Đức Giê-su đã khuyên chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà chia cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi”(Mc 10,21).
** Bố thí còn là cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Raphaen đã khuyên bảo hai cha con nhà Tô-bi-a như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu”(Tb 12,8-9).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Trong Mùa Chay, ta nên làm thêm một số việc đạo đức nào? 2) Ta cần phát hiện ra mình có mối tội đầu tức là thói hư tật xấu nào và phải làm gì để tu sửa lại?
ĐÁP:
1) Việc đạo đức: Dự lễ và rước lễ hằng ngày, mỗi ngày cố gắng làm vài ba việc hãm mình hay việc bác ái để đền tội, quyết tâm tu sửa một thói hư như: Chửi thề tục tĩu, lười biếng đọc kinh tối gia đình…
2) Tập làm các việc tốt đối lập với thói hư tật xấu, kèm theo một lời nguyệt tắt như: “Lạy Chúa, xin cho con chừa bỏ được tội nói xấu kẻ mà con không ưa, bằng cách thành thật khen ngợi ưu điểm của họ với người khác, để con được mỗi ngày một nên giống Chúa hơn”.
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Cùng với toàn thể Hội Thánh, con được bước vào Mùa Chay. Con tạ ơn Chúa đã cho con có được một thời gian thuận lợi để duyệt xét lại cuộc đời con, hầu phát huy điều tốt và chấn chỉnh những sai lỗi thiếu sót nơi bản thân con. Xin chiếu dọi ánh sáng Lời Chúa để con nhận ra con người yếu hèn của con. Nhất là xin đổ Thần Khí Chúa nâng đỡ con. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp con mới có thể mau mắn chỗi dậy trở về làm hòa với Chúa sau mỗi lần vấp ngã và ngày một nên người mới như ý Chúa muốn.
- Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, con thường tỏ ra ích kỷ, khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con cũng làm được một vài việc tốt, nhưng con lại muốn nhiều người biết và khen ngợi con. Hôm nay xin giúp con biết ăn ở khiêm tốn theo lời Chúa dạy: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để những việc con làm luôn đẹp lòng Chúa và xứng đáng được Chúa ban Nước Trời đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
22.Hãy thay đổi cách hành động--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.
Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".
Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động”cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.
Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.
Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.
23.Buông bỏ tham sân si--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người ta thường mệt mỏi là do tâm phiền muộn mà sinh ra nhiều hơn. Cái tâm chứa đầy tham sân si nên dễ mệt mỏi, thất vọng khi không thỏa mãn điều mình muốn. Càng tham ái, sân si nhiều càng mỏi mệt… Chỉ khi con người biết buông bỏ những tham sân si lúc ấy mới thấy tâm bình an và hạnh phúc.
Có một tỷ phú sống trong căn biệt thự xa hoa. Rồi một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.
Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo. Ba đơn thuốc đó là: Nghỉ ngơi, cho đi và buông xuống.
Nghỉ ngơi cho tâm hồn thanh thản. Cho đi để tâm hồn hạnh phúc và buông xuống để tâm hồn không còn lệ thuộc bởi danh lợi thú trần gian.
Nhưng xem ra muốn nghỉ ngơi, hay muốn cho đi thì con người phải biết buông xả mới có tâm bình an và lòng quảng đại. Con người cần phải buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù tranh chấp, những toan tính nhỏ nhoi thì lòng mới thanh thoát bình an. Lòng buông xả thì tâm bình an. Con người còn cần buông đi những đam mê mù quáng, buông đi những thói hư tật xấu mới tìm được hạnh phúc của tự do tâm hồn.
Nguồn gốc của tội lỗi là con người luôn chất chứa những tham sân si. Con người luôn giữ cho mình những toan tính tham lam, những nóng giận cuồng điên và những mê muội cuồng si.
Khởi đầu mùa chay Giáo hội nhắc nhở chúng ta thân phận con người chỉ là bụi tro, một mai rồi cũng trở về tro bụi. Lợi danh, quyền quý cũng chỉ là phù vân. Không có chi tồn tại. Không có chi vững bền. Tất cả đều mong manh tan vỡ theo thời gian. Vậy tại sao chúng ta phải bận lòng với những hư vô ấy? Tại sao lòng ta lại chất chứa những tham sân si để mang phiền não cho cuộc đời? Tại sao chúng ta cứ theo đuổi phù vân mà gây nên những bễ dâu cho cuộc đời?
Hãy nhìn nhận tất cả chỉ là tro bụi để can đảm buông lòng mình cho Chúa gột rửa khỏi những toan tính trần thế, những hư danh phù phiềm, những đam mê thế tục. Hãy buông bỏ những danh lợi thú để trở về với Chúa trong chay tịnh khiêm tốn ăn năn. Khi con người buông bỏ những tham ái, sân si thì cuộc đời ta mới thanh thản, hạnh phúc, tươi vui. Khi con người buông bỏ những toan tính của danh lợi thú thì cuộc đời ta sẽ không còn những tháng ngày tranh chấp, ganh đua, bon chen giành giật lẫn nhau...
Hôm nay ngày Lễ Tro, từng đoàn người lũ lượt lên xức tro, nhưng liệu có mấy ai đã dám buông bỏ mọi sự để trở về với Chúa? Có mấy ai thực sự không bận lòng trước những bon chen danh vọng, quyền chức, tiền tài? Có mấy ai thực sự buông bỏ những đam mê tội lỗi, những cuồng si thấp hèn?
Xức tro là biểu hiện lòng sám hối. Xức tro chỉ đem lại sự tươi trẻ tâm hồn khi chúng ta quyết tâm từ bỏ tội lỗi, tránh xa cám dỗ và làm lại cuộc đời. Xức tro lên đầu nói lên thân phận yếu đuối của con người và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chúng ta nại đến lòng thương xót của Chúa để được ơn thứ tha, đồng thời nhờ nguồn ân thánh của Chúa sẽ làm mới lại cuộc đời chúng ta.
Ước gì tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui khi biết sám hối ăn năn. Xin đừng ở lì trong tội khiến tâm hồn chúng ta già nua, thiếu sức sống. Xin đừng vì lối mòn tội lỗi mà đánh mất sự tươi trẻ trong tâm hồn. Xin Chúa giúp chúng ta can đảm trở về tắm gội trong đại dương bao la tình Chúa. Amen.
24.Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa?-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.
Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.
Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi”(St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi”(Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”(Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro”(Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi”(Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29, 7; Cv 13, 2), (x. Tl 20, 26; Gđt 8, 6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12, 16-22; Er 8, 21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23, 27; Hc 34, 26; Đn 10, 2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17, 21).
Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58, 6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13, 3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.
Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...
Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.
Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7, 1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài”hay “con hề”trên sân khấu.
Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”(Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”(Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện”(x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.
25.Hãy tự biết mình-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
(Ge 2, 12-18; 2 Cr 5, 20. 6, 2; Mt 6, 1-6. 16-18)
Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ tinh thần của người Ấn Độ đã tự thuật một câu chuyện liên quan đến cuộc đời của ngài lúc còn nhỏ như sau:
“Hồi ấy, mới 15 tuổi, tôi đã lấy trộm một chiếc vòng vàng của cha tôi và đem bán để lấy tiền trả nợ. Lấy được vàng, có tiền trả nợ, lòng tôi lúc bấy giờ nhẹ nhõm và sung sướng vì đã giải quyết được một việc qua trọng! Tuy nhiên, niềm vui chỉ đến trong chốc lát, vì ngay sau đó, nó đã nhường lại cho sự áy náy, mất bình an ngự trị.
Sau đó, tôi quyết định làm một cuộc cách mạng, đó là viết tội lên một tờ giấy và trình lên cha tôi. Kết quả, sau khi đọc những lời thú tội của tôi, trong thinh lặng, ông đã xé tờ giấy đó thành nhiều mảnh nhỏ và nói với tôi: ‘Biết mình là điều rất tốt’”.
1. Hãy tự biết mình
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh bằng việc cử hành nghi thức xức tro trên đầu. Nơi nghi thức này, Giáo Hội mời gọi mỗi người: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”; hoặc: ”Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi”.
Qua lời mời gọi ấy, Giáo Hội hướng chúng ta về một thực tại, đó là: ý thức thân phận mỏng manh của đời người với những yếu đuối, tội lỗi của kiếp nhân sinh. Vì vậy, cần phải trở về với Chúa.
Trở về với Chúa để được đón nhận ơn tha thứ. Trở về với Chúa để làm lại cuộc đời.
Tuy nhiên, để trở về với Chúa cách thực sự và ý nghĩa, điều quan trọng, đó là hãy ”tự biết mình”.
Bao lâu ta không biết mình, bấy lâu lòng ta tự mãn, tự kiêu, và, sẽ không cần phải sám hối.
Thật vậy, dù trong trần gian này, chúng ta có là tổng thống, chủ tịch nước, vua chúa, quan quyền hay thường dân; giàu có hay nghèo hèn; khỏe mạnh hay đau yếu; đẹp trai, xinh gái hay xấu xí, già hay trẻ; được trọng vọng tôn vinh hay bị coi thường, khinh bỉ; hoặc đang nổi danh như cồn hay âm thầm chốn lao tù…Tất cả phải thuộc nằm lòng bài học quan trọng này, đó là: thân xác ta từ bụi tro mà ra, thì một mai sẽ trở về cát bụi. Cuộc sống của ta như hoa kia sớm nở tối tàn, vắn vỏi tựa bóng câu. Vì thế, cái chết nó có thể đến với hết mọi người và bất thình lình như một tên trộm hay như ông chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya.
Chính vì vậy, mỗi khi lãnh nhận tro xức trên đầu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biết mình và nghiêm túc để nghĩ đến thân phận, giới hạn của con người, đồng thời cần phải biết sám hối, ăn năn trở về với Chúa để xin Người xót thương.
Tuy nhiên, sám hối không thôi thì chưa đủ, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi sự kiêu ngạo, ích kỷ, an thân để đi đến hành động cụ thể, đó là: cầu nguyện, ăn chay và thi hành bác ái.
2. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo
Lời ngôn sứ Giôen nhắc cho chúng ta về cách thức sám hối, ngài kêu gọi: ”Hãy xé lòng, đừng xé áo”(Ge 2,13 ),
Khi kêu gọi như thế, tiên tri Giôen muốn dân chúng hãy có tinh thần sám hối thực sự, tinh thần ấy phải phát xuất tự đáy lòng của mình chứ không chỉ hình thức bên ngoài như ủ rũ héo hon, sầu lo, đau đớn…, mà là thay đổi từ ánh mắt, cách nhìn, tư tưởng trong niềm tin và hân hoan.
Sự sám hối ấy phải luôn luôn diễn tiến ngang qua chính bản thân của mỗi người. Tuy nhiên, vì chúng ta là dân Thiên Chúa, là một cộng đoàn, nên mọi thành phần đều có sự liên kết mật thiết với nhau và đều có can hệ với nhau trong các việc tốt cũng như xấu, phúc cũng như tội. Vì vậy, ngoài việc chúng ta làm một cuộc hoán cải nội tâm cá nhân với Chúa, mỗi người còn phải thể hiện sự quyết tâm thay đổi đời sống ấy bằng những hành vi cụ thể như cầu nguyện, ăn chay, hy sinh, hãm mình, từ bỏ và thi hành việc bác ái với tha nhân.
Trước tiên là cầu nguyện âm thầm và kín đáo:
Khi nói đến cầu nguyện ân thầm và kín đáo: Đức Giêsu muốn nói đến sự khiêm nhường thẳm sâu phải có lúc cầu nguyện. Khi con người đến với Thiên Chúa, nếu không khiêm nhường, ắt sẽ không thể đi vào mối tương quan với Người được. Hình ảnh và thái độ của người Pharisêu và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện cho ta thấy hệ quả sự kiêu ngạo và khiêm nhường khi hai người trở về!
Mặt khác, âm thầm và kín đáo còn có ý nói đến một tâm hồn với đời sống nội tâm sâu xa. Khi có một chiều sâu tâm linh, người ta không cần phải lải nhải lắm lời mới hy vọng Thiên Chúa nhận lời, mà ngược lại, điều quan trọng, đó là chiêm ngắm, lắng nghe và nhạy bén với Thánh Ý Thiên Chúa để mau mắn thi hành.
Thứ đến là ăn chay: ngay sau khi dạy cho các môn đệ về thái độ cầu nguyện, tiếp theo, Đức Giêsu đã chỉ ra cho các ông việc cần làm, đó là ăn chay. Ở đây, Đức Giêsu không hướng dẫn xem ăn chay như thế nào cho đúng theo nghĩa đen, mà Ngài nhấn mạnh đến tinh thần của sự việc:
“Khi các ngươi ăn chay thì chớ sầm mặt lại như bọn giả hình (….) Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa…”(x. Mt 6, 16-18).
Đức Giêsu không thể chấp nhận việc ăn chay của người môn đệ giống như những người Pharisêu và những người Dothái đương thời, đó là mỗi khi họ ăn chay, họ tỏ ra rầu rĩ, thiểu não, tang thương.
Ngược lại, Ngài muốn người môn đệ phải hân hoan khi ăn chay, vì ăn chay là để đón chờ chàng rể đến. Thế nên tránh nhũng thứ chè chén say sưa hay khuôn mặt rầu rĩ…
Cuối cùng, đó là thi hành bắc ái: nếu cầu nguyện là để gặp gỡ Thiên Chúa; ăn chay là để hy sinh hãm mình đền tội, thì việc chia sẻ bác ái chính là điều kiện để hoàn thiện hai điều trên, vì: mến Chúa mà không yêu người thì nói dối; yêu người trên đầu môi chóp lưỡi thì thật là đáng khinh bỉ. Nhưng mến Chúa thì luôn gắn liền với yêu người.
Khi Đức Giêsu kêu gọi chia sẻ cho người nghèo, Ngài muốn chúng ta hãy mở rộng tấm lòng của mình cách đặc biệt, cụ thể, để Chúa đến với cõi lòng chúng ta ngang qua những hành vi chia sẻ cho người nghèo.
Tuy nhiên, ngay cả việc bác ái, Đức Giêsu dạy chúng ta phải ý tứ khi chia sẻ, Ngài nói: đừng gõ trống khua chiêng, đừng để tay trái biết việc tay phải làm. Nếu không thi hành trong lòng mến và vô vị lợi như thế, thì việc bác ái của chúng ta sẽ chỉ là công dã tràng mà thôi.
Mong sao, khi Mùa Chay đến, mỗi người chúng ta hãy làm mới lại mối tương quan với Đấng thấu suốt sự kín nhiệm qua việc năng kết hiệp mật thiết và sâu lắng trong đời sống cầu nguyện để được Người nhận lời. Đồng thời, hãy “tự biết mình”là con người mỏng dòn, yếu đuối và đầy rẫy tội lỗi, nên rất cần một hành động sám hối để xin ơn tha thứ và quyết tâm quay trở về với Thiên Chúa. Cuối cùng, đó là thi hành việc bác ái qua hành vi tha thứ cho người xúc phạm đến mình; hay một nghĩa cử bao dung, liên đới với những người mà họ không ưa mình, đồng thời, hãy rộng tay giúp đỡ vật chất cho những anh chị em túng nghèo chung quanh chúng ta.
Được như thế, chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh đúng với tâm tình mà Chúa và Giáo Hội mong muốn. Ngược lại, nếu chỉ giữ đạo cách hình thức, hời hợt, lễ nghi bề ngoài, mà tâm hồn không một chút rung động, tâm trí không một chút suy tư và liên đới, thì hết Mùa Chay này đến Màu Chay khác đến rồi lại đi, nhưng tâm hồn và đời sống của chúng ta vẫn chỉ trơ trơ như gỗ đá, hay như một cỗ máy biết nói.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực, để trong suốt Mùa Chay này, chúng con biết sống theo tinh thần Chúa đã dạy để được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa mang lại. Amen.
26.Hoa và rác--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa”(Gv 1, 2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6, 1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”bằng cách “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn”và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “phù vân, bèo bọt”vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa”và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5, 22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
27.Cát bụi tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Thánh Kinh Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Ađam, sau khi Ađam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi. (x. St 1, 26-3, 24).
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh, sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian.Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời chính là:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?
Một vòng quay, một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Không phải là trắng như bông, trắng như mây hay trắng như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Xét cho cùng, đã là con người sinh ra trên đời, mặc dù có sống lâu trăm tuổi, có vẫy vùng ngang dọc cách mấy, từ bụi tro hóa kiếp nhân sinh, cuối cùng rồi cũng trở về bụi tro. Đó là một thực tế, nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”. Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng.Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo. Đối với Kitô hữu thì vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại. Không để thời gian trôi qua cách phung phí. Đời người chỉ có một lần. Được mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên, không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối.Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Rôma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm …Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm…Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?”( Rm 7, 15.19.21-24).
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu.Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi, mênh mông. Ở đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí, lo ra”, chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội. Chỉ còn ta với ta và buộc ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình.Trong sự quay về đó ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan của trí khôn và của cõi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ. Con người Mùa Chay dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai. Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến thắng. Người Kitô hữu là người biết nói không với tội lỗi, là người dám bơi ngược dòng “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”( Pl 2, 15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị khác người, song đứng trước điều xấu, dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi….Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi, nhưng là “cát bụi tuyệt vời”. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều “lá úa trên cao rụng đầy”, chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy”mà thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi”là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừngbóng tối lấn lướt ánh sáng, nhưng cuối cùng sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.
28.Công lý đời sau--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sứ điệp Mùa Chay năm nay là một bài suy niệm sâu sắc về dụ ngôn “người phú hộ và Ladarô”(Lc 16,19-31). Lời đầu của Sứ điệp viết: “Mùa Chay là mùa thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng nhờ những phương tiện thánh hoá Giáo hội đã đem đến cho chúng ta: ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Nền tảng của mọi sự là Lời Chúa, mà trong mùa này, chúng ta được mời gọi chuyên chăm lắng nghe và suy ngẫm”.
Suy tư về Lễ Tro và đời sau, trong số 3 của thông điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta đến với một kinh nghiệm gần giống với kinh nghiệm của người giàu có. Khi linh mục xức tro trên đầu chúng ta, ngài lặp lại những lời này: “Hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro”. Quả vậy, cả người giàu và người nghèo đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn này diễn ra ở đời sau. Hai nhân vật bỗng nhiên khám phá ra rằng “chúng ta đã chẳng mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được”(1Tm 6,7).
Dụ ngôn phú hộ và Ladarô cho thấy có một khoảng trống không thể kết nối ở đời này và đời sau; có sự công bằng và công lý ở đời sau. Chính niềm tin vào đời sau được biểu hiện trong hành trình thiêng liêng của Mùa Chay.
Sống ở đời này, phú hộ dư ăn dư mặc, Ladarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Ladarô rách nát tả tơi. Phú hộ nhà cao cửa rộng, Ladarô lê lết bên cổng ăn xin. Phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Ladarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Cái chết đến và tất cả đều đảo ngược. Đời sau, Ladarô được đưa lên mây trời, phú hộ bị đày xuống vực thẳm. Ladarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Có một khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Ladarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt”. Khi chết, Ladarô đã tìm được những người bạn hữu: các thiên thần, Abraham tổ phụ, những người có đức tin. Ngược lại, phú hộ chẳng có bạn bè, chẳng có trạng sư biện hộ cho hoàn cảnh của ông ta: hỏa ngục, chính là nỗi cô đơn. Nhất là ông vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa, vì đã sống xa cách anh em. Ðây là một cực hình khủng khiếp nhất. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này. Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận. Địa ngục là do con người tự tạo ra từ đời này.
Xét cho cùng, ông phú hộ bị trầm luân địa ngục vì tội vô tâm, hững hờ, sống dửng dưng trước nỗi cùng khốn của tha nhân. Ông không có tình thương.
Vì Tình thương là căn tính của con người, nên thiếu Tình thương là sự nghèo khó thảm hại và nguy hiểm nhất. Nó tác động đến bản chất, nó làm cho con người ra thoái hóa, bần tiện và vong thân. Nó hủy diệt con người từ tâm hồn đến dung mạo, nó hạ thấp con người. Thánh Phaolô viết: “Giả như tôi được nói tiên tri, được thông hiểu mọi điều bí nhiệm và mọi lẽ cao siêu nhưng không có lòng mến, thì tôi chẳng là gì”(1Cr 13, 2). Ðó là tình cảnh của những người độc ác, những kẻ giết người, những tên tội phạm chiến tranh, những người nặng óc kỳ thị, thù oán, vu khống, ích kỷ, vụ lợi, tham ô, làm giàu trên xương máu của người khác. Sự nghèo thiếu căn tính này càng gia tăng khi nó xuất phát từ những bè phái, những băng đảng, những nhóm lợi ích, những tập đoàn chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của phe nhóm mình mà chà đạp trên nhân phẩm, nhân quyền, sự sống và hạnh phúc của người khác hay của những dân tộc khác.
Ðối diện với những người hay những tập đoàn giàu có đầy quyền lực và quyền bính nhưng thiếu tình thương này là hàng triệu và có khi cả tỷ người cùng khốn, cô đơn, tàn tật, bệnh hoạn, bị bỏ rơi, bị xã hội khai trừ. Họ đang khao khát tình yêu, lòng thương xót, sự chia sẻ, sự cảm thông như người hành khất Ladarô không được chiếu cố, yêu thương và nâng đỡ.
“Ở đời sau, một loại công bằng được phục hồi và những bất hạnh trong đời được đền bù bằng những điều tốt lành”(Sứ điệp số 3). Tội của những người giàu là sống trong dư dật mà không biết nghĩ đến những người túng quẫn. Sự giàu sang thừa thãi làm cho người ta không còn nhạy cảm với những đau khổ của những con người sống bên cạnh họ, làm cho người ta thành đui mù điếc lác trước nhu cầu của người khác. Mùa Chay cảnh giác chúng ta: đừng bao giờ để mình trở nên giống như ông phú hộ keo kiệt, vô cảm trước nhu cầu của người lân cận.
Hành trình thiêng liêng của Mùa Chay phải bắt đầu từ tình thương: cầu nguyện, chay tịnh để sống đức ái chia sẻ.
Có một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy. Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ, những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra: phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.
Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó”. Ngài còn kể: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này phải chết vì đói”. Ngài nói tiếp: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu đi một giọt”.
Người giàu thật là người biết cho, người nghèo thật là người chỉ biết nhận. Người giàu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ, người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu. Sự giàu có thật là giàu trong tâm hồn, sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng. Bởi vậy cái giàu vật chất thường hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn.
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi”. Ý nghĩa của Lời Chúa quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng… nhưng khi cái chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Xin đừng sống dửng dưng, thờ ơ, khép kín trước người nghèo, mà luôn chạnh lòng xót thương như Chúa Giêsu đã thương những người cùng khốn.
Hãy sống quảng đại cho đi, vui vẻ chia sớt, không chỉ của cải vật chất mà có khi chỉ là một nụ cười thân thiện, một cái bắt tay khích lệ, một lời nói an ủi đở nâng, một lần viếng thăm, một cuộc gặp gỡ kiến tạo sự hiệp nhất bình an. Khi chia nụ cười, ta sẽ nhận về vô số niềm vui. Khi chia vòng tay, ta sẽ nhận về mênh mông ấm áp. Khi chia quan tâm, ta sẽ nhận về bao la yêu thương. Khi chia yêu thương, ta sẽ nhận về rất nhiều hạnh phúc.
Mùa Chay năm nay, hãy siêng năng đến với Chúa Giêsu, nhận lãnh tình thương để chúng ta chân thành trao ban tình thương cho anh em. Làm việc bác ái giúp chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa. Luôn nghĩ đến người khác giúp chúng ta biết từ bỏ mình. Biết chạnh lòng thương trước những cảnh đời nghèo khổ sẽ giúp chúng ta thăng tiến trên đường nên thánh.
29.Thân phận người--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Bước vào Mùa Chay, nghe ca khúc “Thân phận người” của nhạc sĩ Tuấn Kim như một tâm sự để suy niệm. Giai điệu và lời ca thiết tha ngân nga những thao thức, nhắc nhở mỗi người về thân phận của mình, về cõi nhân sinh: “Phù du là phận người, trăm năm như chớp mắt thôi. Công danh như nước trôi qua cầu, đời con trôi về đâu?”
Phù du là phận người. Mọi sự chỉ là phù vân. Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân.” Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.
Phù du, phù vân diễn tả thân phận bụi tro: “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi.” Con người, dù trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù quyền thế hay dân thường, dù tài giỏi hay bình thường… thì một mai cũng lìa khỏi thế gian này trở về cát bụi. Đó là định luật muôn thuở!
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người.
Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro.” Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.
Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì?
Để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc.
Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!
Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.
Đó là lời mời gọi mà Chúa gởi đến từng người qua nghi thức xức tro rất đơn sơ nhưng giàu ý nghĩa và thật xúc động.
Thứ Tư Lễ Tro mở cửa vào Mùa Chay Thánh 40 ngày. Đây là thời gian giúp chúng ta ý thức về sự mong manh giới hạn của đời người, sống lời mời gọi sám hối và trở về với Tin mừng. 40 ngày Chay Thánh nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết, và mừng ngày Phục sinh của Người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Tiên tri Gioel đã kêu gọi :“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (Ge 2,13). “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo… Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta!” Đó là ý nghĩa cơ bản và sâu xa nhất của sự hoán cải. Cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ thói quen xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái tập thế quân bình giữa hồn và xác.
Thứ Tư Lễ Tro khởi đầu Mùa Chay Thánh, mỗi người cố gắng thực hành những việc đạo đức như Giáo Hội mời gọi.
– Hòa giải với Chúa và với nhau.
Do tội lỗi, con người bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống, và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Thiên Chúa mời gọi con người trở về với Ngài, giao hòa trong tình con thảo và sống trong niềm vui ân sủng.
Sự giao hoà phải là một lời cầu nguyên khiêm tốn : “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa.” Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Theo gương Thánh Giuse sống thinh lặng nội tâm và đón nhận Bí Tích Hòa Giải. Cần rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình. Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay. Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội. Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập viết đầy từ đầu chí cuối. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.
Hòa giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết : “Nếu người dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của người.” Bởi vậy, xin ơn giải hòa với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xóa đi những xích mích, bất hòa hờn giận với người khác.
– Hy sinh hãm mình.
Truyền thống Giáo Hội từ xa xưa giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy, tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ suất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh“. (Tu luật Biển Đức).
Mùa Chay là một thời gian thuận tiện để rèn luyện tâm hồn. Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta chương trình ba điểm để rèn luyện trong Mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.
Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Cầu nguyện càng sâu xa chúng ta càng thân thiết với Chúa, ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Làm việc bác ái, tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại.
Mùa Chay là những ngày thánh: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con trong Mùa Chay Thánh này, biết ý thức thân phận của mình, thực thi việc phải làm là được hòa giải với Thiên Chúa, với chính mình và với anh em.
Xin Thánh Giuse hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình này, để chúng con có thể hoán cải bản thân và nghiệm thấy ân sủng của Thiên Chúa luôn tuôn đổ trên mỗi người chúng con, giúp chúng con được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Amen!
30.Sứ điệp của TRO--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác”.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
31.Mầu tím trong phụng vụ mùa chay--Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
32.Ý nghĩa của lửa và tro--Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3, 1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
33.Tro nhắc ta ý thức thân phận mình--Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Năm nào cũng thế, Giáo Hội dành cả một Mùa Chay dài để mời gọi chúng ta ý thức thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay. Nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhỡ ta về thân phận và kiếp người nhỏ nhoi mỏng dòn ấy. Để khi cúi đầu nhận lãnh một chút tro từ tay Thừa Tác Viên, bạn và tôi hiểu rằng: Thân phận này chỉ là bụi tro, Bởi thế, nghi thức xức tro là một nghi thức sám hối ý nghĩa nhất.
Nếu ta xức tro bằng một ý hướng ngay lành, bằng một tâm hồn thành thật, nghi thức này sẽ cho ta sự khiêm tốn cần thiết để đón nhận bài học của một sự thật rất quý giá: xuất phát từ tro bụi, thân phận được hoàn trả cho bụi tro. Chỉ cầm một lần xuôi tay nhắm mắt là đủ để tất cả tan biến.
Đồng thời Mùa Chay còn giúp ta có đủ thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh, đón mừng vị thủ lãnh của ta vượt qua sự chết, sự đau khổ đưa ta vào nguồn sống thật. Dẫu chỉ là tro bụi, nhưng nhờ Chúa Ki-tô, thân phận bụi tro không mất đi, không tan biến đời đời, nhưng lại được mặc lấy sự sống vĩnh cửu, sự sống phục sinh huy hoàng của chính Chúa Ki-tô.
Với hai tâm tình chính của Mùa Chay: ý thức thân phận của bản thân và chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh như thế, Giáo Hội mời gọi ta ăn năn sám hối, mời gọi ta trở về với Chúa bằng nỗ lực nên thánh của mình. Bài học của sự trở về và nên thánh của các thánh sẽ là bài học cụ thể cho ta noi gương bắt chước. Tôi muốn nói với bạn về cuộc trở lại của thánh Phao-lô Tông Đồ.
Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết, thánh Phao-lô là một thanh niên Do-thái nhiệt thành và rất sùng đạo. Phao-lô không thể chấp nhận giáo thuyết quá mới mẻ của ông Giê-su, một thứ giáo thuyết dường như đi ngược lại mọi lề luật, mọi truyền thống của cha ông. Chính bản thân ông Giê-su đã bị các bậc lãnh đạo trong đạo Do-thái và chính quyền đế quốc giết chết nhục nhã và thảm hại trên thật giá. Cuộc đời Giê-su đã chấm hết từ đó, vậy mà những người tự xưng là môn đệ của Giê-su lại rao giảng ở khắp nơi rằng Giê-su đã sống lại, không những vẫn sống cho đến nay, mà sẽ sống đời đời. Đám môn đệ khờ dại ngu ngốc còn cho rằng: Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế mà trần gian này chỉ có một. Mỉa mai thay! Làm sao một người đạo đức như Phao-lô, rất mực tôn thờ Chúa như Phao-lô lại có thể chấp nhận những điều ấy. Phạm thượng đến thế là cùng!
Chưa hết, đám môn đệ đáng thương đó còn hăng say gieo rắc cái lý thuyết đầy tội lỗi ấy khắp nơi. Bây giờ lũ người mê muội ấy càng lúc càng đông. Phải chặn đứng. Phải tiêu diệt. Phải bảo vệ tôn giáo và truyền thống của cha ông.
Và cuộc tử đạo đầu tiên bắt đầu. Một người thanh niên cũng ngoan đạo không kém gì Phao-lô: Stê-pha-nô. Khác một điều, Stê-pha-nô lại trung thành với Giê-su quá mức, sẵn sàng chết để tuyên xưng niềm tin vào Giê-su. Tội của Stê-pha-nô đáng chết lắm. Ngày tử hình Stê-pha-nô, Phao-lô đã làm chứng nhân cho cuộc hành huyết này. Từ đó chàng trai Phao-lô càng hăng say bảo vệ Do-thái giáo. Anh đã lên Giê-ru-sa-lem, xin các bậc lãnh đạo chứng minh thư để đi Đa-mát bắt hết bọn người ngu ngốc tin tưởng vào Giê-su, đem về Giê-ru-sa-lem mà xử tội.
Phao-lô lầm to. Các môn đệ của Chúa Giê-su không hề ngu ngốc, chỉ có Phao-lô là không hiểu biết gì. Phao-lô không hề là đối tượng thù ghét của Giê-su. Chỉ có Phao-lô là thù ghét Giê-su và bắt bớ môn đệ Ngài mà thôi. Phao-lô đâu có ngờ rằng, chính khi ra sức bảo vệ đạo giáo, bảo vệ truyền thống của cha ông, Phao-lô đã kịch liệt chống đối Thiên Chúa, phạm thượng đến mức quá sức tưởng tượng và tàn nhẫn vô song khi đổ máu các môn đệ.
Chính Giê-su chẳng những không thù ghét mà còn muốn Phao-lô trở lại làm môn đệ cho Ngài. Buổi trưa hôm ấy, tiếng của Chúa Giê-su uy hùng trong ánh sáng huyền diệu siêu phàm: “Sao-lô, Sao-lô sao người bắt bớ Ta?”đã xô Phao-lô ngã ngựa trong cơn khiếp sợ kinh hoàng. Từ đó Phao-lô đã đổi đời. Chàng trai Sao-lô ngày nào hăng say chống phá Đạo Mới của thủ lãnh Giê-su bao nhiêu, giờ đây trở nên thánh Phao-lô hăng say gìn giữ và bảo vệ giáo huấn của Giê-su bấy nhiêu. Chúa Giê-su đã không lầm khi chọn một kẻ thù nghịch với mình làm môn đệ. Bởi kẻ thù nghịch ấy bây giờ đã trở thành một trong những môn đệ hàng đầu trong số các môn đệ. Phao-lô nguyện suốt đời tôn thờ Chúa Giê-su, suốt đời trung thành với giáo huấn của Ngài. Thánh Phao-lô đã nên giống Thầy Giê-su cho đến mức, cuối đời, sau những năm tháng dài vất vả bôn ba khắp nơi để rao giảng giáo huấn của Thầy, đã hiến dâng dòng máu, hiến dâng mạng sống của mình làm chứng tá cho giáo huấn đó.
Thánh Phao-lô là tấm gương cho sự quyết tâm trở về và trung thành với Chúa của Chúng ta. Cuộc trở về của ngài là bài học của sự dứt khoát từ bỏ quá khứ mà ta cần học lấy cho chính mình, để dù có tội lỗi đến đâu, có bất xứng cách mấy, ta vẫn có thể nhìn vào đó mà đứng lên, làm một cuộc đổi đời như thánh Phao-lô.
Không chỉ là tấm gương tuyệt hảo cho ta, trong Bài Đọc Hai của Lễ Tro hôm nay, bài trích thư gửi giáo dân thành Cô-rin-tô, thánh Phao-lô còn mời gọi: “Nhân danh Chúa Ki-tô, tôi năn nỉ anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”. “Tôi năn nỉ anh em!”Lời mời gọi sao mà tha thiết quá, đáng yêu quá. Từ một con người quá xa lạ với Đạo Chúa, xa lạ đến mức như là tội ác, vậy mà giờ đây lại có những lời chân thành thấm thía đến thế. Con người đó rất đáng để bạn và tôi khâm phục. Cả con người và lời “năn nỉ”đó rất đáng cho ta học lấy và nghe theo để cả đời ta cũng sẽ tốt lành thánh thiện như ngài.
Có ai ngờ một kẻ chống đạo lại trở thành thánh nhân. Thánh Phao-lô, một bầu trời hy vọng cho ta. Ngay cả một lần chối Chúa cũng chưa từng, và sẽ không bao giờ dám có một ý nghĩ nào manh nha như thế, đừng nói chi đến chống đối Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng điều mà thánh Phao-lô đã đạt được hôm nay, nhờ tình yêu của Chúa, ta cũng sẽ đạt được trọn vẹn như thế.
Mùa Chay, rắc một chút tro tàn lên đầu để mỗi ngày ý thức thân phận bé nhỏ của mình mà cảm nhận lòng thương xót của Chúa, mà nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Nhờ đó ta dám hy vọng chính bản thân ta có thể bước ra từ thân phận tội nhân để trở thành thánh nhân.
34.Suy niệm thứ tư lễ tro--Lm. Anthony Trung Thành
Lời Chúa ngày Thứ Tư Lễ Tro hôm nay nhắc nhở chúng ta về ba nhiệm vụ chính của Mùa Chay, đó là: ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí.
Ăn chay: Giáo hội chỉ buộc các kitô hữu từ 18 tuổi trọn đến bắt đầu tuổi 60 giữ chay 2 ngày trong năm, đó là Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Cách thức ăn chay: Ăn một bữa no, còn hai bữa khác chỉ ăn một chút. Thông thường chúng ta lấy bữa trưa làm bữa ăn chính (ăn no), bữa sáng nhịn hoặc ăn một chút gọi là lót lòng, còn bữa tối ăn 1/3 phần ăn chính. Ngoài các bữa ăn trên, trong ngày giữ chay chỉ được dùng thức uống lỏng như nước, trà…chứ không được dùng thức ăn đặc. Giáo hội còn khuyến khích các kitô hữu ăn chay mỗi khi có thể hoặc để cầu nguyện cho một ý nguyên nào đó. Chẳng hạn, ngày 23/03 sắp tới, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu ăn chay để cầu nguyện cho Hòa bình. Ngoài ra, người kitô hữu cũng được mời gọi giữ chay theo các cách thức khác như: Giữ chay thánh thể trước khi rước lễ; giữ chay tự nhiên như kiêng ăn kiêng uống; giữ chay luân lý như hãm bớt những vui thú.
Khi giữ chay, người kitô hữu không chỉ giữ luật mà còn đem lại nhiều lợi ích khác. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Việc chay tịnh giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Một đàng chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh thức tỉnh và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.”(Sứ điệp Mùa Chay 2018)
Ăn chay thường đi liền với kiêng thịt. Luật kiêng thịt buộc các kitô hữu từ 14 tuổi cho đến chết.
Cầu nguyện: Đức Giêsu đã từng nói với các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(Mc 14,38). Ngài cũng dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Vì thế, cầu nguyện là bổn phận của người kitô hữu. Cầu nguyện để liên kết với Thiên Chúa là Cha. Cầu nguyện để xua trừ ma quỷ. Cầu nguyện để xin ơn. Cầu nguyện để cám tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa. Cầu nguyện cần thiết cho linh hồn như hơi thở cần cho sự sống phần xác. Người kitô hữu có thể cầu nguyện ở khắp mọi nơi và bất cứ thời gian nào trong ngày: cầu nguyện chung, cầu nguyện riêng, cầu nguyện tại tư gia, cầu nguyện tại nhà thờ, cầu nguyện tại nơi làm việc, cầu nguyện sáng mai, chiều hôm hay ban tối.
Ước gì chúng ta luôn biết dành nhiều thời gian trong ngày để cầu nguyện. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Khi dành nhiều thời giờ hơn cho kinh nguyện, chúng ta sẽ để cho tâm hồn mình khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình, để tìm kiếm sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.”(Sứ điệp Mùa Chay 2018)
Bố thí: Tin mừng Mathêu cho chúng ta biết, đến ngày tận thế, vị thẩm phán sẽ dựa vào việc chúng ta làm phúc bố thí hay không để thưởng hay phạt chúng ta (x. Mt 25, 31-46). Như vậy, đối với các kitô hữu, việc làm phúc bố thí là một bổn phận. Nếu ai không làm thì sẽ mắc tội thiếu sót. Chúng ta nhớ dụ ngôn nhà phú hộ và ông Lazarô: Nhà phú hộ vì thiếu lòng bác ái đối với ông Lazarô nên khi chết phải sa hỏa ngục (x. Lc 16, 19-31).
Trong sứ điệp Mùa chay năm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đề cập đến việc làm phúc bố thí, Ngài nói: “Việc thực hành làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Tôi ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người!”(Sứ điệp Mùa Chay 2018).
Nhưng bố thí không chỉ bằng tiền bạc, của cải mà còn bằng nhiều cách thế khác nữa. Câu chuyện sau đây cho chúng ta thấy điều đó.
Một ngày nọ, có người đàn ông chạy đến trước mặt lão hòa thượng, vừa khóc vừa kể lể: “Thưa ngài, vì sao con làm việc gì cũng đều không thành? Số con thật khổ!”
Lão hòa thượng điềm tĩnh trả lời anh rằng: “Đó là vì con không học được cách bố thí mà thôi.”
Người đàn ông nước mắt giàn giụa, nói: “Nhưng thưa ngài, con chỉ là một kẻ nghèo đói, ngày ăn không đủ bữa, lấy gì để bố thí đây ạ!”
Lão hòa thượng nghe xong, mỉm cười hiền từ nói với anh ta rằng: “Không phải thế! Này con, một người dù chẳng giàu sang, không tiền bạc, dù nghèo khổ mấy cũng vẫn có thể cho người khác được 7 thứ này. Để ta giảng cho con nghe. Đó là:
Thứ nhất, bố thí bằng vẻ mặt. Con có thể tặng người khác vẻ mặt tươi cười, niềm nở.
Thứ hai, bố thí bằng lời nói. Con có thể cho người khác những lời cổ vũ, an ủi, động viên, lời khiêm tốn và lời ấm áp.
Thứ ba, bố thí bằng tấm lòng. Con hãy mở rộng lòng mình và đối xử chân thành với người khác.
Thứ tư, bố thí bằng ánh mắt. Con hãy dùng ánh mắt trìu mến, cái nhìn thiện lương dành tặng mỗi người mà con gặp trên đường đời.
Thứ năm, bố thí bằng hành động. Con hãy thật lòng giúp đỡ người khác, làm điều tốt cho người.
Thứ sáu, bố thí bằng chỗ ngồi. Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.
Thứ bảy, bố thí bằng nơi ở. Con có thể đem phòng trống, không sử dụng để cho người khác nghỉ nhờ một đêm.
Dù giàu hay nghèo, bất luận là ai, chỉ cần học được 7 loại bố thí ấy thì cuộc đời của con sẽ mãi ngập tràn hạnh phúc, có đâu còn đau khổ, buồn bực nữa đây con của ta!”.
Người đàn ông nghe xong chợt như bừng tỉnh cơn mê, cúi rạp người xuống, run rẩy nói: “Thưa đại sư, giờ thì con đã hiểu. Trên đời, người cho đi nhiều nhất chính là người hạnh phúc nhất!.”(Sưu tầm)
Xin cho tất cả chúng ta biết siêng năng cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí. Và khi làm những việc đó hãy làm trong tinh thần âm thầm, khiêm tốn chứ không làm để phô trương cho người ta thấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chu toàn bổn phận ăn chay, cầu nguyện nhất là luôn biết làm phúc bố thí cho những người xung quanh. Amen.
35.Đừng chỉ chăm sóc thân xác mà lãng quên linh hồn--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Bụi tro mà chúng ta rắc lên đầu hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ rằng mai đây thân xác chúng ta sẽ là tro bụi. “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi, mai đây người sẽ trở về bụi tro.”
Trong những ngày tết, nhiều người bỏ ra khá tiền để tậu cho gia đình mình một cành mai, một chậu hoa thật rực rỡ trong nhà. Nhưng qua mấy ngày sau, những cành mai đó, những chậu hoa tươi đẹp rực rỡ đó phải úa tàn và phải bị ném vào thùng rác. Hôm nay là hoa, mai là rác.
Tương tự như thế, hôm nay đời chúng ta đang lên, đang giàu sang phú quý, đang huy hoàng như chậu hoa rực rỡ trong nhà, nhưng mai đây, kẻ trước người sau, mỗi người chúng ta chỉ còn là nắm xương, là lọ tro, nếu người nhà mang xác đi thiêu.
Không lẽ đời người lại kết thúc bi thảm thế sao!
Vậy thì chúng ta phải liệu cách nào để cuộc đời chúng ta không kết thúc cách bi đát?
Nhà kia có hai đứa con, một đứa thì được cha mẹ chăm sóc tối đa: cho ăn cho mặc, cho tiêu xài, cung cấp cho đủ thứ, không từ chối nó bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí nó đòi hỏi những điều trái luân thường đạo lý thì cũng cho luôn.
Còn đứa con thứ hai thì không được cha mẹ đoái hoài: không cho ăn, không cho mặc, không cho thuốc men, không cho bất cứ gì nó cần.
Làm cha mẹ như thế có công bằng không?
Làm cha mẹ như thế có đáng bị lên án không?
Bản thân tôi cũng có hai đứa con: linh hồn và thân xác. Bao nhiêu năm qua tôi quá chú trọng thân xác mà quên mất linh hồn. Châm ngôn sống của tôi là: Tất cả cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy.
24 giờ của một ngày, tôi đều dành trọn cho thân xác.
168 giờ của một tuần, tôi cũng đều dành trọn cho thân xác.
720 giờ của một tháng cũng được dành trọn cho thân xác.
Và cứ thế, từ ngày nầy trải qua ngày khác, hết tháng nầy đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.
Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt 24 giờ của mỗi ngày, 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.
Tôi dồn hết thời giờ, tiền bạc, công sức, tài năng, trí tuệ, nghị lực của tôi cho thân xác, y như nhà đầu tư dốc hết 100% vốn liếng của mình vào một công cuộc kinh doanh lớn.
Thế rồi mai đây thân xác tôi sẽ ra sao?
Lời Chúa vang lên trong nghi thức xức tro nhắc nhở tôi nhớ đến số phận mình:
“Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, mai sau người sẽ trở về với bụi tro.”
Những hạt bụi tro li ti rắc trên đầu trong ngày lễ tro hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ rằng mai đây, sớm muộn gì thân xác ta cũng sẽ hóa thành bụi tro như thế. Bụi tro là chung cuộc của thân xác con người. Sống thêm một năm là nhích lại gần nấm mồ hơn một chút. Tăng thêm một tuổi là rút ngắn thêm một chặng nữa tiến trình hóa thành tro bụi của thân xác mình.
Vậy thì chúng ta phải làm thế nào để không phải kết thúc cuộc đời cách bi thảm?
Không lẽ hôm nay tôi đầu tư hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực, tiền bạc của mình cho thân xác nầy để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm tro!
Không một nhà đầu tư nào lại dại khờ như thế.
Không lẽ tôi đầu tư 100% vốn liếng của mình cho thân xác và cho cuộc sống tạm bợ đời nầy để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm xương khô!
Biết như thế để từ nay, chúng ta không mê muội đầu tư tất cả cho thân xác, nhưng biết dành thời giờ để thờ phượng Chúa, để chăm lo cho linh hồn, để yêu thương và phục vụ những người chung quanh… nhờ đó, mai đây, thân xác này có tan thành tro bụi, thì linh hồn chúng ta vẫn được vui hưởng hạnh phúc muôn đời vinh hiển với Thiên Chúa và các thánh trên thiên quốc.
Biết thế thì ta phải công bằng với linh hồn ta. Thân xác nầy nay còn mai mất thì ta chăm sóc vừa đủ, còn linh hồn ta sống mãi muôn đời thì phải được chăm lo chu đáo hơn.
36.Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.
Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả người chồng là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)
Ngay cả Sa-lô-môn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng vì chiều chuộng các người vợ ngoại giáo nên đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).
Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì lòng tham, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…
Thân phận dòn mỏng của con người
Triết gia Platon diễn tả thân phận con người “như cỗ xe có hai ngựa kéo.” Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.
Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài. Ngài than thở: “Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!” (Roma 7,16)
Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.
Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.
Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su
Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.
Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15)
Lạy Chúa Giê-su,
Ý chí chúng con bạc nhược; xác thịt thì ươn hèn; trong khi đó, các đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng con không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.
Vì thế, trong mùa chay nầy, xin cho chúng con tìm đến với Chúa nhiều hơn, gặp gỡ Chúa thường xuyên hơn qua việc cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận bí tích Sám hối và Thánh thể, để nhờ Chúa ban ơn trợ lực, chúng con khỏi bị ngã gục thảm thương nhưng được vững mạnh chống trả ác thần.
37.Hoán cải nội tâm--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
38.Các việc đạo đức--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.
Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.
Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
39.Hoán cải-- Sợi Chỉ Đỏ
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
40.Ăn chay thế nào mới đẹp lòng Chúa?--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3, 1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17, 21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14, 12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2, 13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”(Is 58, 3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23, 23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
41.Bố thí, cầu nguyện, ăn chay-- Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
Bố Thí
Bác ái, danh từ làm ta khó chịu khi vừa nghe thấy. Giới thợ thuyền trong một vài trường hợp chấp nhận bác ái, nhưng luôn luôn đề cao quyền lợi, công bình trước. Thái độ đó được hoàn toàn thông cảm. Lần nào cũng thế, Tin Mừng không đề cập đến một vấn đề khác. Chúa Kitô chỉ muốn nói rằng khi thực hành bố thí, hãy thực hành theo tinh thần thích hợp. Đó là một bổn phận bất biến, vì luôn luôn có những kẻ giàu sang, đồng thời cũng có những người nghèo đói. Những ai có nhiều hơn, may mắn hơn, phải tự giúp kẻ ít may mắn. Những lời nói của Chúa Kitô được giải thích theo hai ý nghĩa. Trước hết, theo nghĩa tiêu cực: Chúa Kitô kết án việc thực thi bác ái sai lạc:
“Đừng thổi kèn trước mặt người đời”. Có những việc thiện chỉ là tự kiêu tôn giáo trá hình dưới lớp vỏ đức ái. Chỉ biết dùng hành vi thực hiện thiện hảo như một nhãn hiệu. Có những cử chỉ nhân đức do lòng ích kỷ, chỉ vì mục tiêu tuyên truyền hơn là lòng săn sóc trung thực. Người thực thi bác ái không được rao trên mái nhà, đòi hỏi phải được ghi công, tuyên dương trên báo chí hay tri ân công cộng, nghĩa là nêu lên cho mọi người thấy Sự giúp đỡ càng bí mật lại càng hữu hiệu, Chúa Kitô đã dùng một hình ảnh thỏa đáng: tay trái đừng biết việc tay phải làm. Cũng thế, ngay giữa chi tộc mình, cử chỉ cũng vẫn được giữ kín. Đôi khi, giúp đỡ để cứu trợ một thiệt hại vật chất vẫn chưa đủ, còn cần đến lời an ủi và thái độ thông cảm khi hành động. Trong các công việc, không được chỉ xử trí theo thủ tục, mà còn phải trực tiếp gặp gỡ cá nhân. Thật là trái ngược với Kitô giáo, nếu chỉ muốn khai thác sự khốn nạn của kẻ đồng loại để khoe khoang sự đại lượng cá nhân. Phải thực thi bác ái với sự hạ mình thông cảm, không được thi hành với sự tự mãn kiêu kỳ, hay lên mặt dạy luân lý, hoặc làm ra vẻ thánh nhân giữa các tội nhân. Mọi cách biệt sẽ bị xóa đi, nếu ta quan niệm rằng chỉ có một Cha chung trên trời.
Mặt khác, Thầy chí thánh đã tỏ lộ ý nghĩa thứ hai trong giáo huấn của Người khi tuyên bố. “Chúa Cha nhìn thấy trong bí mật”. Không phải nỗi khốn khổ của đồng loại là căn do nảy sinh lòng bác ái, nhưng chính Thiên Chúa mới là căn do làm phát sinh lòng bác ái của ta. Con người sẽ bị tình cảm chi phối nhiều, và người ta sẽ ưa tiên giúp đỡ những ai khéo léo trình bày sự khốn khổ của mình cách đáng thương và cảm động, mặc dầu họ đã phóng đại. Như thế, có lẽ người ta sẽ giúp đỡ những kẻ nghèo giả tạo, mà quên đi sự khốn khổ thầm kín lớn hơn. Trái lại, nếu người ta hành động cho Thiên Chúa, người ta sẽ tự vấn trước mặt Chúa về những người phải giúp đỡ, và về thời gian thuận tiện. Đức bác ái phải được thực thi cách ý thức, theo thời giờ và cách thức thuận tiện, đối với những kẻ xứng đáng.
Trong tất cả mọi lãnh vực, con người tinh thần được phú ban một loại sáng suốt, với cái nhìn luôn lượng về Chúa, họ học biết cách phục vụ Chúa với sự thận trọng. Những kẻ nào có tâm hồn giống nhóm Biệt phái, sẽ lạm dụng tôn giáo để làm bộ thánh thiện, làm cho Kitô giáo ra một hình ảnh sai lạc và thô kệch. Hãy cẩn thận, đừng thực thi bác ái trước mặt kẻ khác. Vào thời đại chúng ta, lời cảnh cáo của Chúa Kitô không dư thừa chút nào.
Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên rằng Chúa Kitô đã nêu lên một động lực vụ lợi rõ rệt: “Chúa Cha thấy trong bí mật, Ngài sẽ thưởng cho”. Phải chăng luân lý Công giáo là luân lý vì phần thưởng? Hiển nhiên, Chúa Kitô đã tiên báo và chấp nhận không hàm hồ rằng phải thực thi thiện hảo trước mặt Thiên Chúa trước hết. Tuy nhiên, trong một viễn tượng thiêng hứng, họ có thể trở về với bản ngã riêng bằng cách ước mong không đánh mất Thiên Chúa, nhưng luôn luôn tiến gần về Ngài. Phần thưởng của người Công giáo chính là Thiên Chúa, nên trong khi tìm kiếm phần thưởng, tức là họ tìm kiếm Thiên Chúa, như thế, họ đã hành động theo lệnh của Ngài. Đó không phải là lợi ích nhất thời, Chúa Cha sẽ trả lời bằng cách ban chính tình yêu của Ngài. Tìm kiếm Thiên Chúa để thấy hạnh phúc trong ngài đó là một thái độ Công giáo đích thực, được Chúa Kitô chấp nhận và khuyến khích.
Cầu Nguyện
Làm dơ bẩn bác ái bằng cách thực thi theo những mục đích ích kỷ, là làm ngược lại thần linh. Bóp méo kinh nguyện để khoe lòng đạo đức là một phạm thượng. Làm như vậy không còn là một thờ kính thánh thiện nữa, nhưng là bắt Thiên Chúa phục vụ những mục đích trục lợi của ta. Mầu nhiệm bí mật nhất của tâm hồn và tính chất cá biệt thâm sâu nhất bị tục hóa, và hạ xuống như một lối giả hình lấy thái độ bên ngoài cầu nguyện để làm việc ngược lại, đó là trình bày một sự thánh thiện sai lạc, không còn gì thảm hại hơn. Những người sốt sắng nửa mùa thường thích đóng kịch. Còn người cầu nguyện thực sự xa tránh mọi người, không đa ngôn, không gây động đạc ồn ào, để đi vào im lặng và thanh vắng, ở đó, họ sẽ tìm gặp được Thiên Chúa. Kinh nguyện là gì, nếu không phải là nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Kẻ giả hình cũng làm vẻ bề ngoài như thế, nhưng thực ra, tâm hồn họ thì hướng về trần giới. Tín hữu cầu nguyện mở tâm hồn ra trước Thiên Chúa, còn kẻ giả hình thì luôn khép kín trước Thiên Chúa. “Khi con muốn cầu nguyện, hãy vào phòng riêng”. Bị cuộc sống bên ngoài luôn thu hút, đôi khi con người cần phải nghỉ ngơi và hồi tâm, giống như một tế bào, họ lui về phòng mình, giữ cho lòng mình khỏi bị lôi kéo vào làn sóng ồn ào huyên náo. Nếu không, họ sẽ chết trong ồn ào Người Công giáo phải tìm nơi kinh nguyện một nguồn mạch không cạn, và một sự tươi trẻ vĩnh viễn cho tâm hồn. Nhưng rất cần phải lui vào thinh lặng, để nghe được tiếng Đấng Tối cao, và trong sự thanh vắng, họ đi sâu vào cuộc đối thoại với Chúa. Những màu sắc sặc sỡ của những tờ bích chương chói sáng chỉ gây những ảo giác. Tiếng động của hàng ngàn loa phóng thanh chỉ làm chúng ta điếc tai: Trong ồn ào, chúng ta không còn nhận biết được giọng nói của Thiên Chúa. Chỉ khi nào ta trở về với im lặng, ta mới sử dụng cách chính đáng những khả năng của ta. Hãy vào phòng riêng cầu nguyện, không phải là một công việc hao phí thời giờ, trái lại, đó là sự tập trung năng lực để hoạt động kết quả. Cầu nguyện để biến thành bình thiên liệu cho cuộc sống. Trong khi cầu nguyện, những bình chứa tinh thần được đổ đầy tràn. Nếu chúng trống rỗng, các động cơ hoạt động sẽ dừng lại, không hoạt động được nữa.
Hình như chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy Chúa Kitô đã cầu nguyện trong nơi mình ở, mà không cầu nguyện trong đền thờ hay trong giảng đường. Giữa thời đại tự do hiện nay, trong lúc con người chống lại chủ nghĩa cá nhân quá khích, thì ngược lại, trong lãnh vực tôn giáo, phải cố gắng tự tạo cho mình một đời sống độc lập. Con người ngã về khuynh hướng khinh thường bầu khí thinh lặng, đề cao ồn ào huyên náo, và hạ thấp kinh nguyện cá nhân cũng như những giờ chiêm niệm. Lời Chúa dạy không phải chỉ là lời bênh vực cho kinh nguyện tư riêng cá nhân, nhưng còn là một đòi hỏi phải sử dụng lối cầu nguyện này nữa. Ngoài kinh nguyện cá nhân, con người còn phải sử dụng lối kinh nguyện cộng đồng nữa, vì con người là một con vật có trí khôn và có xã hội tính. Do đó, sự tham gia vào kinh nguyện và hy tế cũng phải có tính cách cộng đồng. Chỉ có lòng đạo đức nào có hai phương diện này mới bảo đảm cho tín hữu sự viên mãn và sung túc tinh thần. Sự thờ kính cộng đồng nếu không sống động nhờ lòng đạo đức cá nhân, sẽ bị lu mờ dần, và biến các nghi thức thành những dấu hiệu bên ngoài trống rỗng. Kinh nguyện chiêm niệm mà không hướng về cộng đồng, sẽ thiếu căn bản và đưa đến cô lập tinh thần. Vậy phải thi hành cả hai tác động, vừa lui mình về phòng nựng, vừa phải đến đền thờ để cầu nguyện. Hai hình thức cầu nguyện này có tính cách bất khả phân ly và bó buộc.
Ăn Chay
Ăn chay đối với người Công giáo hình như là việc tự nhiên. Nhưng khó khăn là khi nói đến tinh thần phải có khi ăn chay.
Khổ hạnh thuyết mà người ta thường khoe khoang đều lố bịch và mâu thuẫn, vì nó biến lòng thống hối thành tội lỗi: con người giả bộ khổ hạnh ngoài mặt, còn thực sự lại khác hẳn. Họ làm bộ để người ta tin rằng họ ăn chay. Thực ra họ giả bộ ăn chay, họ đã tục hóa phương thế thánh hóa siêu nhiên.
Vẻ thống hối bên ngoài đầy nguy hiểm, vì nó trở nên quá lộ liễu che đậy dục vọng mình cách ích kỷ, dưới chiêu bài luân lý và tôn giáo. Đặc tính của mặt nạ là giả, không gì xấu xa hơn mặt nạ về lòng sốt sắng, vì nó làm cho người khác chê cười và hơn nữa, nó còn làm cho họ chế nhạo cả tôn giáo nữa.
Tuy nhiên, cũng không được rơi vào một thái cực khác, đó là chối bỏ tất cả mọi hành động thống hối bên ngoài. Không thể vì thấy một vài lạm dụng mà kết án hành động thống hối. Người ta vẫn ăn chay, nhưng với một ý hướng trong sạch. Người ta sẽ ăn chay để làm vinh danh Chúa, không phải để tôn vinh con người. Kẻ khắc khổ giả tạo không phải là một người từ bỏ, nhưng là một người tham vọng. Tuy họ từ bỏ, nhưng chỉ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất, thỏa mãn tính kiêu căng của mình. Họ muốn phô trương sự thánh thiện của mình, họ muốn tô điểm mình bằng tấm áo khiêm tốn giả hiệu, họ để cho lớp vỏ hy sinh giả tạo bao bọc tính nhu nhược yếu đuối. Nguyên động lực của thái độ ấy không phải là Thiên Chúa, nhưng là nhân loại. Người ta chối bỏ Thiên Chúa vì quá yêu mình, trong khi đúng ra, phải chối bỏ mình và chấp nhận tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta không thể chinh phục tha nhân được bằng sự nghiêm khắc quá đáng. Phải có nhiều tinh thần trong hành động thống hối, mới lôi cuốn được kẻ khác. Những săn sóc và nếp sống vệ sinh hằng ngày, y phục gọn ghẽ, tác phong đáng yêu thì thường nói lên tinh thần thống hối nghiêm nghị, hơn là sự bừa bãi dưới chiêu bài khinh thường của thế gian. “Hãy xức dầu thơm trên đầu “.
Lòng tự kiêu khoe khoang không thể là lòng thống hối được. Lòng thống hối trung thực là một điều cần thiết và nghiêm trọng, và không được phép giả bộ. Những bộ mặt khô khẳng không thể chứng tỏ một tinh thần tôn giáo, cũng như một thân xác gầy còm cũng không chứng tỏ một tinh thần tiến bộ.
Hướng nhìn về Chúa và thánh ý Ngài sẽ nói lên thái độ phải có. Chúa đã an bài những ngày lễ và mùa thống hối. Mọi người đều hướng về ngài nếu họ chỉ tin vào Ngài. “Cha ngươi sẽ nhìn thấy nơi bí mật”. Người ta có thể đánh lừa con người. Còn Thiên Chúa biết cả những nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn; ngài không thể bị đánh lừa. Những người khổ hạnh giả bộ, thích nghe những lời ca ngợi khen lao, đó là những phần thưởng nhân loại. nhưng cuối cùng, họ dấn thân phục vụ kẻ gian dối. Vì vậy Tin Mừng dạy: “Hãy ăn chay, nhưng trong tinh thần chân thành”và “khi con ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu”.
(Richard Gutzwiller, Suy niệm Tin Mừng Matthêu. Niềm Tin. Tr. 119- 126 và 157- 160).
42.Thứ Tư Lễ Tro--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Đoạn trích Tin Mừng này thuộc phần thứ hai của bài diễn từ trên núi. Đức Giê-su vừa thiết lập một sự đối xứng giữa những giới luật Mô-sê và những đòi hỏi mới mà Ngài đề xuất: ”Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Ngài đặt dấu nhấn trên việc nội tâm hóa luật luân lý. Ở đây, Đức Giê-su đan cử những ví dụ rất thích đáng và đối lập hai thái độ; vì thế, Ngài chọn ba việc thiện của Do thái giáo: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
1. Bố thí
Huấn thị bố thí được ghi trong Lề Luật: ”Anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng… Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy vì việc đó, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ chức phúc cho anh emtrong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em”(Đnl 15: 7-11). Huấn thị này chiếm một chỗ quan trọng trong văn chương kinh sư. Các sách minh triết cũng thường ca ngợi đức hạnh này. Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng Đức Giê-su, dù nghèo, cũng đã thực thi bố thí một cách kín đáo (Ga 13: 29). Bố thí không phải là một cử chỉ phô trương cho thiên hạ thấy, bởi vì Thiên Chúa là ”Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”.
2. Cầu nguyện
Đối với việc cầu nguyện, Đức Giê-su căn dặn cũng theo một cách thức như vậy: ”Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em”. Đức Giê-su đã nêu gương. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta rằng Đức Giê-su thường tách riêng một mình để cầu nguyện ”trong nơi vắng vẻ”, “trên núi cao cô tịch”, vào lúc đêm xuống.
Đức Giê-su không khinh thường việc cầu nguyện cộng đoàn, huống chi lời cầu nguyện phụng vụ. Rõ ràng Ngài không bao giờ công bố bất cứ lời nào chống lại hội đường; Ngài đã tham dự phụng tự hội đường, ở đó Ngài đã ngỏ lời; chính Ngài, Ngài đã công khai cầu nguyện trước các môn đệ và trước đám đông. Nhưng việc cầu nguyện mà Ngài lên án là đạo đức giả, chính là cầu nguyện cốt nhằm cho thiên hạ thấy mà ngợi khen mình. Cầu nguyện là đi vào trong mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa, Đấng ngự trong cõi thâm sâu của lòng bạn.
3. Ăn chay
Luật Mô-sê chỉ đòi buộc một ngày ăn chay đó là ngày lễ Xá tội. Nhưng cũng có những ăn chay tùy ý, ăn chay tùy hoàn cảnh và ăn chay vì lòng đạo đức. Người Pha-ri-sêu ăn chay vì lòng đạo đức vào ngày thứ hai và thứ năm trong tuần.
Đức Giê-su đòi hỏi một sự biện phân tinh tế trong việc thực hành ăn chay. Khi ăn chay, đừng làm ra vẻ gì là mình ăn chay để không ai thấy là anh ăn chay ngoài trừ ”Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”. Đây là bài học về lòng khiêm hạ và tôn trọng sự thật. Hành vi tôn giáo có thể không đạt được mục đích nếu ý hướng sai lầm.
Nhưng điều Đức Giê-su đặc biệt muốn mặc khải, được lập lại đến ba lần như điệp khúc, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của con người. Đây là tôn giáo ”thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật”mà Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri.
43.Thứ Tư Lễ Tro: Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu “bụi tro”được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: “Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay truớc Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay”(số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là “Ðầu Mùa Chay”(Caput ieiunii), hay ”Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày”(Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo Hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Ðức Giáo Hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo Hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên”(Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo Hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: “Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu “tro”đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: “Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời”(còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ
(Theo Tinh Thần)
44.Mệnh lệnh Mùa chay--Trầm Thiên Thu
Thời gian trôi chầm chầm mà lại cảm thấy nhanh. Và rồi Mùa Chay lại về… với ba việc cụ thể: trai tịnh, cầu nguyện, và bác ái.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện và là mùa cứu độ. Có điều đặc biệt mà ai cũng PHẢI NHỚ luôn luôn: “Memento mori – Hãy nhớ mình phải chết”. Đó là một dạng mệnh lệnh. Có nhiều mệnh lệnh, nhưng khởi đầu Mùa Sám Hối, Giáo Hội nhắc chúng ta hai mệnh lệnh của Thiên Chúa, tuy ngắn gọn nhưng quan trọng, một là mệnh-lệnh-cách-xác-định: “Hãy Xé Lòng!”, và một là mệnh-lệnh-cách-phủ-định: “Chớ Giả Hình!”.
Mệnh lệnh là điều PHẢI làm, nhưng “phải”không có nghĩa là miễn cưỡng mà là tự nguyện. Tại sao vậy chứ? Bởi vì tự cảm thấy mình quá yếu đuối, khốn nạn, cứ cố gắng mãi mà vẫn không thoát khỏi vũng-lầy-tội-lỗi.
Con người được sung sướng mà không thèm tận hưởng, được hạnh phúc mà không biết tạ ơn, được tự do mà không sử dụng đúng, đi nghe lời dụ dỗ của ma quỷ rồi “chảnh”, lên mặt kiêu căng, thế nên đau khổ xuất hiện và con người phải chịu hậu quả nhãn tiền: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3:19). Và đó cũng là định luật muôn thuở: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất. Người đã ban cho nó một số ngày và một khoảng thời gian”(Hc 17:1-2a). Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Lòng người thật nham hiểm, thâm độc, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Dò sông, dò biển, dễ dò; Nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) phân tích theo kiểu quan ngại: “Trên thế giới, thứ rộng lớn nhất là ĐẠI DƯƠNG, nhưng thứ rộng lớn hơn lại là BẦU TRỜI, mà thứ còn rộng hơn cả bầu trời lại chính là LÒNG NGƯỜI”.
1/ MỆNH LỆNH XÁC ĐỊNH
Mệnh lệnh thứ nhất là mệnh lệnh xác định: “Hãy xé lòng!”. Xé lòng mình chứ KHÔNG xé áo hoặc xé bất cứ thứ gì khác. Xé lòng không phải để hủy hoại mà để tu sửa, đổi mới. Có những chất cay khiến chúng ta cảm thấy như xé miệng, xé lưỡi, xé họng. Có những nỗi đau khiến chúng ta như xé nát tâm can.
Từ ngữ “xé”là một tha động từ, cần có một túc từ, nghĩa là “làm rách”cái gì đó cụ thể. Có thể “xé”là hành vi chủ động hoặc thụ động, miễn cưỡng. Thiên Chúa bảo chúng ta không nên “xé áo”, vì đó là hành động của kẻ điên, vả lại như vậy là làm hư hại phương tiện vật chất cần thiết cho cuộc sống. Nhưng về tâm linh, Ngài lại muốn chúng ta “điên”thật, vì Ngài bảo chúng ta phải thực sự chủ động mà tự xé lòng mình, xé nát tâm hồn vì cảm thấy mình khốn nạn và bất xứng với Ngài. Phải “tự xé lòng”bất cứ lúc nào trong cuộc sống, nhưng đặc biệt là trong khoảng thời gian Mùa Chay, vì “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”(2 Cr 6:2).
Từ xa xưa tới tận thế, Thiên Chúa là Cha nhân từ vẫn dang tay chờ đợi tội nhân trở về càng sớm càng có lợi. Tội nhân đó là chính mỗi chúng ta. Sấm ngôn của Đức Chúa vẫn không ngừng mời gọi, nhất là trong Mùa Chay này: “Lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”(Ge 2:12). Một loạt các động từ quan trọng mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm với cả tấm lòng chứ không giả bộ hoặc giả hình, cũng không được làm sơ sài, làm chiếu lệ hoặc làm cho xong lần.
Một cách mạnh mẽ và dứt khoát, chính Thiên Chúa đã cảnh báo: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ”(Ge 2:13). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, tội lỗi chúng ta có thế nào thì cũng chẳng là gì, vì “dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông”(Is 1:18), tội của cả thế gian này cũng không thể so sánh với lòng thương xót của Chúa, chỉ cần chúng ta chân thành sám hối thì Ngài sẵn sàng thứ tha ngay, và Ngài chỉ muốn thứ tha mà thôi: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được?”(Tv 130:3). Nhưng chớ lấy cớ đó mà “được đằng chân lân đằng đầu”!
Vâng lệnh Thiên Chúa, ngôn sứ Giô-en nói rằng nếu chúng ta thành tâm sám hối, vì “biết đâu Người chẳng nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu anh em có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em”(Ge 2:114), nói là “biết đâu”chứ Thiên Chúa thực sự muốn tha thứ, nhưng Ngài không thể tha thứ cho người cố chấp. Ngôn sứ Giô-en kêu gọi: “Hãy rúc tù và tại Sion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê!”(Ge 2:15-16).
Lời mời gọi này nhắc nhớ tới việc ăn chay nghiêm ngặt của cả thành Ni-ni-vê, từ vua tới dân, từ người tới súc vật, khi được ngôn sứ Giô-na kêu gọi, và Thiên Chúa đã tha tội chết cho cả thành (x. Gn 3:4-10). Điều đó cho thấy rằng cầu nguyện và ăn chay có thể thay đổi số phận của mỗi chúng ta và người khác.
Không thể im lặng, ngôn sứ Giô-en tiếp tục kêu gọi: “Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và nói rằng: “Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại! Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà nói: Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?”(Ge 2:17). Quả thật, “Đức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung đối với dân Người, tai ương chấm dứt và dân được giải thoát”(Ge 2:18). Chứng cớ rành rành, không thể chối cãi!
Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều là phàm nhân, đồng nghĩa với tội nhân. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã xác nhận: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai”(Tv 51:7). Và vì thế, chúng ta rất cần cầu xin ơn thứ tha từ lòng thương xót của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta phải van xin không ngừng: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy”(Tv 51:3-4).
Được thứ tha là nhờ biết thú nhận. Vấn đề quan trọng là không được vòng vo, tránh né, hoặc đổ lỗi cho người khác – dù chỉ một phần nhỏ, mà phải thành tâm và khiêm nhường một thực-tế-thật: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử”(Tv 51:5-6).
Hằng ngày, chúng ta vẫn cùng nhau thú tội: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”. Đủ kiểu phạm tội, ngũ quan là các “tòng phạm”. Thú nhận với Thiên Chúa là điều hiển nhiên, nhưng có lẽ chúng ta “ngại”thú tội với tha nhân, có thể chỉ mới làm theo “nghi thức”. Thật vậy, ngay khi chúc bình an cho nhau mà nhiều người vẫn có vẻ miễn cưỡng, làm một cách máy móc hoặc làm cho xong lần, thậm chí là “đứng bất động”.
Sự thật thì thường mất lòng. Nhưng thà mất lòng trước, được lòng sau. Một thực tế rất thật: “Chiên hiền”ở trong nhà thờ bỗng hóa “cọp dữ”khi ra khỏi nhà thờ! Ảo thuật, xảo thuật, hay là “sự lạ”? Mọi kiểu phạm tội không phải là lỗi của ai khác mà của chính mình, chúng ta cùng xác nhận ba lần: “Lỗi tại tôi mọi đàng”. Và cầu xin Thiên Chúa thương xót mà tha thứ. Nhưng Ngài chỉ tha cho chúng ta nếu chúng ta tha cho tha nhân. Đó là điều kiện ắt có và đủ để “nên hoàn thiện”, để làm thánh, nhất là trong Mùa Chay Thánh này.
Chắc chắn rằng không có ơn Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15:5). Đã biết bao lần chúng ta ăn năn sám hối, tỏ vẻ rất chân thành, nhưng rồi chúng ta lại như “ngựa quen đường cũ”, bằng chứng minh nhiên là chúng ta vẫn dễ dàng tái phạm, để rồi phải liên tục lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Càng nhiều tuổi càng xưng tội nhiều lần. Thế thì có gì mà vỗ ngực khoe mẽ?
Hãy không ngừng cố gắng tu thân, tha thiết van xin ơn phù trợ và khao khát được tái tạo: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con”(Tv 51:12-14).
Bổn phận của chúng ta là cầu xin, nhưng xin để được điều này hay điều nọ chỉ là dạng “hạ cấp”, dạng “cao cấp”là không xin gì cả, mà chỉ muốn tán dương và tôn vinh Thiên Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”(Tv 51:17). Biết cầu nguyện như vậy là “nên thánh”rồi. Càng sống lâu càng được nhiều ơn, dù có những ơn chúng ta không hề xin mà vẫn được Chúa thương ban – đơn giản nhất mà cần thiết nhất là không khí để sống, thế mà chúng ta vẫn không biết tạ ơn, coi đó là mặc định.
Ăn năn là động thái cần thiết, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Phaolô kêu gọi: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”(2 Cr 5:20-21). Kỳ diệu quá, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Ngày nay vẫn có những người không tin hoặc không muốn tin điều đó, nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật!
Rút kinh nghiệm thực tế của bản thân, Thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ: “Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa thì đừng để trở nên vô hiệu”(2 Cr 6:1). Vâng, không thể lãng phí ơn Chúa. Quả thật, chính Thiên Chúa đã xác định: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”(2 Cr 6:2).
2/ MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH
Mệnh lệnh thứ nhì là mệnh lệnh phủ định: “Chớ giả hình!”. Mệnh lệnh cách phủ định là dạng nhấn mạnh của thể xác định. Giả hình là làm cho cái ảo giống như có thật, bề ngoài thấy rõ ràng y như thật mà lại không phải là thật – tương tự ảo thuật hoặc xảo thuật.
Về phương diện tâm linh, giả hình là thói đạo đức giả. Giả hình còn là thái độ lững lờ nước đôi, sống “hai lòng”hoặc “hai mặt”. Người đời còn không thể chấp nhận lối sống đó, huống chi Thiên Chúa là Đấng chí thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69), là Đấng công minh và chính trực (Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 9:9; Tv 7:18; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 35:28; Tv 67:5; Tv 146:7; Ga 17:25).
Muốn tránh giả hình thì phải can đảm dứt khoát. Dứt khoát là kết thúc sự giằng co, là “tự xé”chính lòng mình chứ không nhờ ai xé dùm!
Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Es 4:17; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4), chỉ có Ngài là tuyệt đối, Ngài rất ghét thái độ đạo đức giả, do đó Ngài đã gay gắt lên án và cảnh cáo: “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta”(Kh 3:16). Rất khó nghe. Ai thấy “sốc”là tốt!
Chắc chắn như vậy, vì Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Các con hãy coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả”(Lc 12:1). Một lần khác, Ngài gay gắt lên án thói đạo đức giả ấy bằng cách ví von với những hình ảnh rất thực tế: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!”(Mt 23:27-28; Lc 11:42-44). Thói “đạo đức giả”hoặc “ra vẻ đạo đức” không chỉ phổ biến ở thời xưa, mà ngày nay cũng còn phổ biến lắm. Ngày xưa dễ nhận biết vì người thời đó có “tua áo dài”, nhưng ngày nay rất khó nhận biết vì quá đỗi tinh vi!
Trước mặt người đời, người ta có thể “lấy vải che mắt”, nhưng không thể “qua mặt”Thiên Chúa, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Chẳng chóng thì chày, rồi người ta cũng sẽ phải chân nhận điều này: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết”(Lc 12:2). Người Việt chúng ta cũng nói: “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Cái gì thật thì vẫn thật, cái gì giả thì không thể là thật, chắc chắn mọi bí mật sẽ được/bị “bật mí”.
Đối với việc sống Mùa Chay, người ta thường thích “biểu diễn đạo đức”, thế nên Chúa Giêsu khuyến cáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, CHỚ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, ĐỪNG cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”(Mt 6:1-4).
Đó là sự thật minh nhiên. Chúa Giêsu muốn người ta bố thí nhưng phải bí mật. Chúa có “chơi ép”chúng ta? KHÔNG phải vậy. Vì làm bí mật mới đáng công trạng. Thế nhưng ngày nay, chúng ta vẫn thường “đánh trống, khua chiêng”bằng nhiều kiểu mỗi khi đi xa với danh nghĩa “làm từ thiện”trong khi lại “làm ngơ”trước nỗi khổ của những người ngay bên cạnh mình. Liệu có phải là “máu Pha-ri-sêu”, là giả hình hoặc thói đạo đức giả? Và Chúa có vui chút nào không?
Về việc cầu nguyện, Chúa Giêsu bảo: “Khi cầu nguyện, anh em ĐỪNG làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”(Mt 6:5-6). Với “tình huống”này, chúng ta lại nhớ tới hai người lên Đền Thờ để cầu nguyện (Lc 18:9-14). Người Pha-ri-sêu (biệt phái) rất “chảnh”, vênh váo vỗ ngực tự tôn, còn người thu thuế thì vô cùng xấu hổ và đấm ngực ăn năn, xin Chúa tha thứ.
Chúa Giêsu cho chúng ta biết “bí quyết”ăn chay hiệu quả: “CHỚ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”(Mt 6:17-18). Có lẽ chúng ta không khoái cái kiểu ăn chay “ngầm”như vậy, bởi vì bản chất con người thích khoe khoang, muốn được “nổi trội”, chứ không ai biết thì… chán lắm. Cái tôi thật tồi tệ!
Nhưng Chúa lại muốn chúng ta phải có “phong cách”ăn chay như vậy, nếu không thì chúng ta “đã được phần thưởng rồi”. Rất lô-gích, rất hợp lý, rất công bằng, và cũng rất… thú vị. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, câu “đã được phần thưởng rồi”được Chúa Giêsu nhắc tới BA LẦN đấy, nghĩa là chúng ta phải rất thận trọng và tỉnh táo! Chúa Giêsu còn nói thẳng luôn: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin”(Mt 6:7-8). Chua choa! Xem chừng “nhức óc”dữ dằn, vì Ngài dùng chữ “lải nhải”. Phải thế thôi, không nói mạnh thì không được, vì chúng ta “lì lợm”lắm!
Mùa đi, mùa tới. Thời gian luân chuyển. Một Mùa Chay nữa lại về, có lẽ không ai lại không nhớ rõ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”(Lc 15:11-32), dụ ngôn điển hình về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người đều đủ can đảm để trở về ngay lập tức. Hãy quyết tâm sống đúng điều mình thầm nhủ:
Xé tâm hồn, xé tâm can
Ăn chay, sám hối, để san bằng đời
Đừng chần chừ nữa, tôi ơi!
Dứt khoát cuộc đời Chúa sẽ xót thương
Cái giá của Nước Trời rất mắc (đắt, đắt đỏ, tốn phí) vì phải thực hành đức tin và sám hối cả đời, lơ đãng một chút là “rớt giá”ngay. Nhưng giá vé vào Thiên Đàng cũng rất rẻ, đó là chỉ cần chân thành sám hối, chứng cớ “điển hình”là Thánh Tướng Cướp “tốt lành”Dimas (Dismas – x. Lc 23:43) đã là người đầu tiên nhận vé vào Nước Trời, và được “hộ tống”Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay sau khi Ngài trút hơi thở cuối cùng. Thế thì chúng ta có “cơ may”hơn Thánh Dimas rất nhiều. Hãy cố gắng không ngừng tín thác vào lòng thương xót của Chúa, đừng bao giờ tuyệt vọng dù có thể có lúc chúng ta cảm thấy thất vọng (x. 2 Cr 4:8).
Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Các ngươi PHẢI NÊN THÁNH và PHẢI THÁNH THIỆN”(Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:7). Ngài cũng đã gọi chúng ta là “những bậc thần thánh”(x. Ga 10:34). Thế thì chúng ta phải nên thánh, và chúng ta chắc chắn là thánh nếu chân thành thân thưa: “Miserere Mei, Deus, Domine et Pater – Xin thương xót con, lạy Thiên Chúa, Đức Chúa và Thánh Phụ của con”.
Lạy Thiên Chúa chí thánh và nhân hậu, xin dạy con biết đường lối của Ngài để con cố gắng bước theo Chân lý (Tv 86:11). Xin ban Thần Khí biến đổi con ngay từ đầu Mùa Chay này để con dứt khoát với quá khứ và bắt đầu trang đời mới. Xin Đức Thánh Maria và Đức Thánh Giuse, các thiên thần, các thánh và các linh hồn cùng nguyện giúp cầu thay để con sống trọn Mùa Chay đúng Ý Chúa. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
45.Tin vào tình yêu sự tha thứ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cách đây hơn một năm, cộng đồng mạng hết sức cảm thông và chia sẻ với một người cha đi tìm con, đó là trường hợp của anh Lương Thế Huynh. Hai vợ chồng anh có một đứa con ba tuổi, bỗng nhiên bị mất tích. Anh chị nghi đưa bé đã bị bắt cóc. Người cha tội nghiệp này đã rong ruổi khắp các tỉnh thành trên toàn quốc để tìm đứa con. Trên chiếc xe honda cũ kỹ, anh để hình con trai và những lời kêu cứu: Xin mọi người thương giúp tôi tìm lại con tôi. Anh chỉ cầu mong có ai đó có thể chỉ cho anh đứa con trai bé nhỏ. Sau gần một năm trời, gặp lại anh, người ta chỉ còn thấy một thân hình tiều tụy, phờ phạc vì mệt mỏi, thiếu ăn thiếu ngủ. Tuy nhiên, trong ánh mắt và trong lời nói, anh vẫn hy vọng một ngày nào đó, anh có thể tìm lại đứa con bé bỏng của mình.
Thiên Chúa cũng đang miệt mài đi tìm chúng ta như thế. Ngài không đành lòng ngồi đó để nhìn chúng ta là những đứa con đi lạc, bị ma quỷ, tội lỗi bắt cóc, nhưng tìm kiến và đưa chúng ta trở về với tình yêu của Ngài. Mùa Chay chính là cơ hội chúng ta có thể đụng chạm đến lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa, là cơ hội Thiên Chúa ban để mời gọi chúng ta trở về và cũng là thời gian Thiên Chúa tìm kiếm mỗi chúng ta.
Việc trở về cùng Thiên Chúa là cha yêu thương, không chỉ dành cho người tội lỗi, mà cho hết mọi người kể cả những người công chính tốt lành. Trở về không chỉ để nói lời xin lỗi với Thiên Chúa, nhưng trước hết là để cảm nhận được tình yêu thương của một người cha, để được sà vào vòng tay ấm áp của Cha. Vì thế, mùa Chay này là cơ hội dành cho mỗi người, để làm mới lại tương quan của mình đối với Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa chờ đợi nơi mỗi người là thái độ thành tâm thật lòng: Hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo.
Động lực và sức mạnh giúp chúng ta quay lại với Chúa, không phải vì sợ hãi, sợ bị phạt, nhưng là tin vào tình yêu, sự nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị thần khắc nghiệt, cũng không là một quan tòa vô cảm, nhưng trước hết Ngài là một người cha chạnh lòng thương. Lời tiên tri Gioen diễn tả: Ngài từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Ngài hối tiếc khi giáng họa, và tìm cách để ban ơn lành. Chính tình thương này đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người để tha thứ, yêu thương và chữa lành.
Một khi thật lòng trở về với Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được tình thương từ nơi Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ nhớ lại quá khứ của ta, nhưng Ngài như cha hân hoan vui mừng ôm ta vào lòng, như người mục tử tìm được con chiên lạc. Thiên Chúa không chê chúng ta bẩn thỉu hôi hám vì tội lỗi, nhưng Ngài đưa chúng ta vào nhà của Ngài, cho ta chung hưởng niềm vui và hạnh phúc của Ngài. Thiên Chúa sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta, trả lại cho chúng ta niềm vui, hân hoan và hạnh phúc trong tư cách những người con của Chúa.
Việc trở về với Thiên Chúa được thể hiện qua việc điều chỉnh lại các mối tương quan: với người khác, với Thiên Chúa và với chính mình. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta ba mối tương quan cụ thể phải điều chỉnh và thực hành với một thái độ thành tâm thiện chí, đó là: làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh.
Chúa Giêsu cảnh báo về thái độ làm việc bác ái. Từ xưa đến nay, nhiều tôn giáo dạy làm việc bác ái, tuy nhiên người ta làm việc bác ái với nhiều mục đích khác nhau. Có người làm việc bác ái chỉ để cho lòng thanh thản sau một quãng đời có nhiều sai lỗi, gian dối; có người muốn bù lại quá khứ mình đã gây ra đau khổ, thiệt hại cho người khác; có người làm việc bác ái chỉ đơn thuần là công tác xã hội, làm bác ái để đánh bóng tên tuổi mình. Người Công giáo được mời gọi làm việc từ thiện bác ái với một mục đích và ý nghĩa riêng. Việc bác ái chia sẻ của người Công giáo phải phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa ngang qua trái tim và đôi tay. Vì thế, việc bác ái Công giáo không thể nhắm đến sự phô trương, danh tiếng hay thành tích dưới bất cứ hình thức nào. Việc bác ái phải xuất phát từ chỗ nhận ra anh em là hình ảnh, là hiện thân của Thiên Chúa để mình chia sẻ, giúp đỡ anh em với lòng kính trọng. Do đó, khi làm việc bác ái, đừng khua chiêng đánh trống, huênh hoang khoe mẽ, cũng đừng ghi tên, xướng danh, hay đòi hỏi bất cứ sự đáp đền nào, nhưng khi bố thì, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm. Thiên Chúa là Cha, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ trả lại cho ta.
Trong tương quan với Thiên Chúa: Chúa chờ đợi mỗi người sự thành tâm thiện chí, tin tưởng và yêu mến. Khi cầu nguyện, anh em đừng giả hình như các biệt phái, đừng đứng ở ngã ba ngã tư, nhưng vào phòng đóng cửa lại và gặp gỡ cầu nguyện riêng tư thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không chấp nhận việc đến với Ngài chỉ có cái xác mà không có hồn, Ngài cũng không muốn nghe những lời cầu nguyện giả dối hình thức, nhưng Ngài muốn một sự gặp gỡ thân tình cá nhân giữa mỗi tâm hồn với Chúa. Thiên Chúa muốn chúng ta sống tương quan thân mật như cha với con, như bạn hữu với Chúa. Vào phòng đóng cửa lại, không có nghĩa là trốn tránh cuộc sống hiện tại, xa rời thực tế, nhưng là, cho dù giữa những bộn bề lo toan của cuộc sống, vẫn có những thời giờ tĩnh lặng, có một chỗ cho Thiên Chúa hiên diện trong tâm hồn, là nơi ta có thể gặp Chúa bất cứ lúc nào.
Trong tương quan với chính mình: Thiên Chúa muốn mỗi người biết làm chủ bản thân cùng với những ham muốn. Con người chúng ta bị chi phối, lôi kéo bởi ma quỷ, dục vọng xác thịt và thế gian, nó kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa và tôn mình làm chúa. Chúa Giêsu dạy việc giữ chay trước hết không phải là việc hành xác, không phải là việc phô trương đạo đức bên ngoài, nhưng biết làm chủ con người và những ham muốn của thể xác. Ăn chơi, hưởng thụ, sống dễ dãi buông thả là khuynh hướng tự nhiên của con người. Mùa chay là mùa Chúa muốn chúng ta, trước hết hãy giữ chay lòng, kiềm chế, làm chủ mình khỏi những ham muốn, đòi hỏi dễ dãi của bản thân. Đừng làm cho vẻ mặt rầu rĩ ủ dột bên ngoài, nhưng chỉ tỏ ra cho Thiên Chúa biết mà thôi. Thiên Chúa sẽ thấu hiểu lòng của anh em, Ngài sẽ đón nhận sự thiện chí để nâng đỡ làm cho con người chúng ta được trưởng thành, vững mạnh trong lý trí và quyết tâm.
Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta càng nhận ra gương mặt và trái tim yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa luôn cho chúng ta có cơ hội để điều chính lại bản thân và Ngài không bao giờ thất vọng về tình trạng của mỗi chúng ta. Vì thế, tin vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta không được phép thất vọng về chính mình và cũng đừng bao giờ thất vọng về anh chị em. Đừng bao giờ nghĩ rằng tội tôi quá nhiều, chắc Thiên Chúa không thể tha thứ cho tôi. Nói như thế là chưa đủ lòng tin vào sự nhân từ của Chúa.
Việc lãnh nhận nhúm tro rắc trên đầu hôm nay, nhắc cho mỗi người nhớ đến thân phận cát bụi mỏng manh của mình. Chúng ta sẽ không mãi ở thế gian này, tất cả sẽ phải trở về với cát bụi; cuộc sống này sẽ qua đi, mọi sự sẽ chấm dứt, chỉ có Thiên Chúa là tồn tại mà thôi. Vì thế, đừng bám víu và đừng đặt cược cuộc đời mình ở thế gian này, nhưng hãy đặt nơi Thiên Chúa. Việc nhận nhúm tro trên đầu cũng nhắc cho ta nhớ, con người chúng ta mỏng manh yếu đuối bất toàn bất túc. Vì thế, đừng chấp nhất nhau, đừng giận hờn nhau, nhưng hãy biết thông cảm và tha thứ cho nhau, cùng giúp nhau sống tốt, sống hạnh phúc ở đời này và mai sau đạt được hạnh phúc Nước Trời.
Xin Chúa cho chúng ta biết tận dụng cơ hội mùa Chay này để làm mới lại tương quan của mình đối với Thiên Chúa, với chính mình và với anh chị em. Amen.
46.Mùa chay: thời gian để được xót thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài!”(Ge 2:17)
Vào thời tiên tri Giô-en, trong lúc dân đang gặp thảm họa với nạn châu chấu tàn phá, thì lời kêu gọi của vị ngôn sứ “Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương”là khơi dậy cả một niềm hy vọng! Thế nhưng ngay cả vị ngôn sứ cũng chỉ mới dám hy vọng, chứ chưa nắm chắc được điều gì khi ông lên tiếng: “Biết đâu Người chẳng nghĩ lại”(Ge 2:13-14). Rõ ràng ông đã ngập ngừng! Hình phạt thì chắc rồi vì đang xảy ra, và vì vậy lời kêu gọi sám hối và chay tịnh phải khẩn thiết: “hãy rúc tù và, hãy ra lệnh giữ chay thánh…”Tóm lại, cần phải xức tro và chay tịnh để mong đượcThiên Chúa quyền năng công thẳng thương xót thứ tha khỏi hình phạt sắp giáng xuống. Trong cùng một truyền thống ngôn sứ, lời kêu gọi và phép rửa của Gio-an tiền hô sau này cũng mang nội dung tương tự: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây!”(Mt 3:10).
Thế còn Hội Thánh Chúa Ki-tô, Hội Thánh của Tin Mừng cứu độ, muốn nói với tôi điều gì khi thiết lập Mùa Chay thánh? Phải chăng cũng cùng một nội dung tương tự như các ngôn sứ đã kêu gọi dân Do Thái xưa? Nếu là như thế thì tôi thiết nghĩ: thời gian và sứ điệp này chỉ nặng ký đối với những ai hiện còn đang sống trong tội lỗi, còn thì thật nhẹ nhõm, thậm chí không cần thiết, đối với một số khác, những người đã hoặc đang sống đạo đức tốt lành. Có lẽ vì vậy mà nhiều tín hữu ‘lành thánh’, trong đó tất nhiên có nhiều linh mục và tu sĩ, có thái độ coi nhẹ thời gian này. Họ nghĩ là cứ cặn kẽ tuân giữ các qui định về ăn chay kiêng thịt, hoặc làm một số việc hy sinh (cá nhân hoặc tập thể), và thế là mùa chay tốt đẹp rồi.
Đức Giê-su thẳng thừng tuyên bố rằng: ăn chay kiểu đó không còn cần thiết nữa (xem Mt 9:14-17); ngay cả cái cách biểu lộ việc giữ chay tịnh như thời Cựu Ước của ngôn sứ Giô-en cũng không nên tồn tại. Lý do sâu xa là vì, tình thế đã thay đổi tận gốc rễ: Chàng Rể của tình yêu đã tới và vì thế than khóc, chay tịnh không còn ý nghĩa; trừ phi tình thế bị đảo ngược. Nếu thế thì các Ki-tô hữu phải tìm ra nơi Mùa Chay một nét nào đó hết sức độc đáo của Tân Ước: Chàng Rể của lòng từ nhân đã tới, và vì thế đây phải là thời gian của vui mừng và hy vọng, thời gian tập trung mọi cặp mắt hướng về Chàng; vì thế Mùa Chay trở thành quan trọng; chính vì Ki-tô hữu chúng ta không còn mong đợi trong hy vọng nữa, mà đã thật sự đón nhận và tận hưởng; ai càng đón nhận bao nhiêu thì lại càng có khả năng tận hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót bấy nhiêu. Nếu xưa kia Giô-en kêu gọi dân chúng giữ chay là để hy vọng được Thiên Chúa xót thương, thì ngày nay Hội Thánh của Đức Ki-tô kêu gọi giữ chay là để các tín hữu có dịp vào sâu hơn trong lòng xót thương cứu độ, nói cách khác: để khám phá rõ hơn khuông mặt nhân ái của Thiên Chúa. Đối với Ki-tô hữu “Thiên Chúa thương xót”không còn là chuyện “biết đâu”; Thập Giá Đức Giê-su đã là bảo chứng vững chắc: “Con Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi và phó mộp mình vì tôi”(Gl 2:20). Vì thế họ nắm rất vững: sám hối, chay tịnh, kể cả làm việc lành phước đức… không phải là điều kiện để được Chúa xót thương. Thiên Chúa xót thương và yêu mến họ trước cả khi họ làm các điều ấy, vì Người yêu họ vô điều kiện, yêu hoàn toàn nhưng không, yêu tới mức độ chết cho họ ngay cả khi họ còn là những tội nhân phản nghịch. Mỗi khi mở miệng thốt lên: “Xin Chúa thương xót chúng con”,Ki-tô hữu tuyên xưng cách vững chắc niềm tin của mình vào một Thiên Chúa từ nhận và hay thương xót, hơn là cầu khẩn để mong nhận được lòng thương xót như dân Do thái trong thời Cựu Ước xưa.
Mùa chay mà Hội Thánh công bố cho tất cả mọi tín hữu qua việc xức tro hôm nay phải mang nội dung nói trên. Đối với các dự tòng và người tội lỗi, có thể còn mang dáng dấp của tinh thần Cựu Ước và các ngôn sứ, nhưng với các Ki-tô hữu trưởng thành thì Mùa Chay phải mang ý nghĩa tích cực hơn nhiều. Và đừng có lo lắng nghĩ rằng: đi sâu hơn vào lòng thương xót Chúa sẽ làm chùng đi mất sự căng thẳng của dây đàn thống hối đang réo rắt. Ngược lại là đàng khác, chính vì tâm hồn biết ca tụng lòng thương xót vô biên của Chúa mà ta sẽ càng thấy cấp bách cần phải thanh luyện mình hơn nữa, càng thấy có nhu cầu phải chay tịnh và chân thành thống hối nhiều hơn nữa, để được xứng đáng với tình yêu xót thương; đúng như câu nói của Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta: “Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi lành thánh, nhưng tôi nỗ lực trở nên lành thánh vì biết rằng Chúa đã yêu thương tôi”.
Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận sứ điệp Mùa Chay mà Hội Thánh loan truyền: “Này là mùa hồng ân, này là ngày cứu độ!”Xin cho con biết dùng thời gian 40 ngày này để đào sâu hơn nữa vào lòng Chúa xót thương và tha thứ. Và nếu trong Mùa Chay này con có thi hành được việc lành hay chay tịnh nào, thì cũng xin cho con nhờ đó mà cảm nghiệm được, và sống sâu xa hơn tình Chúa bao la. A-men.
47.Hãy trở về--JM. Lam Thy
Đặc tính của Mùa Chay là mùa trở về, sám hối, tha thứ, cầu nguyện và làm phúc bố thí. Là con người mang thân phận mỏng giòn, yếu đuối và tội lỗi, vì thế sự trở về với Thiên Chúa – là nguồn Yêu Thương, nguồn Sức Mạnh và nguồn Ánh Sáng – thật là cần thiết. Trở về để được Chúa yêu thương; trở về để được Người tha thứ; trở về để được Người đổi mới và chữa lành. Trở về để thấy rằng mình luôn yếu đuối và nhận ra mình luôn cần đến Chúa. Thiên Chúa luôn nhìn những gì bên trong con người; ngược lại con người thì thường nhìn những gì ở bên ngoài. Hãy trao chiếc áo tâm hồn rách nát, sầu khổ, tội lỗi cho Chúa để Người thanh tẩy, chữa lành, và ban tràn đầy ơn cứu độ. Chính Đức Chúa đã kêu gọi người tín hữu hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van (“Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.”– Bài đọc 1 Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2, 12-13)
Nói về đặc tính Mùa Chay, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh “Sacrosanctum Concilium”(số 109) đã viết: “Hai đặc tính của Mùa Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn. Hai đặc tính trên phải được trình bày rõ ràng hơn cả trong Phụng vụ lẫn giáo lý Phụng vụ.”Trên cơ sở đó, Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch “Normae de Anno liturgico et Calendario”(số 27) đã đưa ra những lời chỉ dẫn cho biết ý nghĩa quan trọng của ngày Thứ Tư Lễ Tro trong năm Phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh: “Phụng Vụ Mùa Chay nhằm giúp các dự tòng và các tín hữu chuẩn bị cử hành Lễ Vượt Qua. Các dự tòng được chuẩn bị qua những giai đoạn khác nhau của việc nhập đạo, còn các tín hữu thì qua vịêc tưởng niệm bí tích Thánh Tẩy và việc sám hối… Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay.”
Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro. Việc xức tro nhắc nhở người Ki-tô hữu: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”(St 3, 19). Đó chính là sự chết mà Nguyên tổ loài người đã tự gánh chịu khi nghe lời cám dỗ của ma quỷ chối bỏ hồng ân, xa lìa Thiên Chúa. Vì lỗi phạm nghiêm trọng đó của Nguyên tổ, loài người bị tội lỗi thống trị, phải sống trong đêm đen của sự chết. Chỉ đến khi Ngôi Lời nhập thể cứu độ, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người, thì “ánh sáng mới bừng lên”(Is 9, 1). Vì thế, có thể nói Mùa Chay chính là dịp giúp các Ki-tô hữu – thông qua việc tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô – mà nhìn rõ được thế lực ghê gớm của ma quỷ, đồng thời “nhìn lại mình”mà nhận ra được những yếu đuối mỏng giòn của bản thân trước những cám dỗ hấp dẫn cùa ba thù (1- Dục vọng của bản thân; 2- Hấp lực của thế gian; 3- Cạm bẫy của Satan); để từ đó, biết ăn năn sám hối về những sai sót, lỗi lầm đã mắc phạm. Cuối cùng, đổi mới con người của mình như một cuộc vượt qua sự chết (chết đi cùng với Chúa Ki-tô) để được sống lại thật (cùng sống lại với Người).
Như vậy thì có thể hiểu Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Sống chay tịnh không chỉ giới hạn trong việc “ăn chay”(theo từ nguyên thì “ăn chay”chỉ có nghĩa: “ăn không dùng thịt, cá và các chế phẩm từ thịt, cá”), mà còn bao gồm sống ngay thẳng, thật thà (nên tục ngữ VN mói có câu: “Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối”) và nhất là sống tinh thần bác ái Ki-tô giáo. Tuy nhiên, theo thói quen, người ta thường dùng tiếng ăn chay để chỉ việc hãm mình ép xác, tu thân tích đức. Vì thế, cứ tới Mùa Chay là ai cũng nghĩ tới việc ăn chay. Vấn đề đặt ra là phải suy nghĩ xem nên ăn chay như thế nào cho đúng tinh thần Ki-tô giáo, đúng tinh thần Phúc Âm.
Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay là để thờ phượng Thiên Chúa, làm đẹp lòng Thiên Chúa như một nghi thức tôn giáo, một việc đạo đức; để được Thiên Chúa nhậm lời khi cầu nguyện, đi kèm với cầu nguyện để khu trừ ma quỉ; để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Trong Cựu Ước thì: “Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van.”(Ge 2, 12); và khi ăn chay thì: “mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.”(Đn 9, 3). Sang đến Tân Ước, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã sống trong sa mạc khoảng 30 năm, mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong hoang địa”kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội, đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.
Thật không thể ngờ cách đây hơn 2.500 năm, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục.”– Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể.
Với mục đích ấy, ngôn sứ I-sai-a lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để “mồm loa mép giải”cãi vã, hoặc “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?”– Is 58, 3-5).
Không cần nói thời đại cổ xưa ấy, mà ngay trong thế giới hiện đại cũng vẫn còn không ít cảnh ăn chay trên môi miệng, ăn chay bằng hình thức phô trương màu mè (“rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ… giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế… bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!”– Mt 23, 25-28). Hoặc giả nếu có ăn chay thực sự thì cũng chỉ giữ vì Luật buộc, mà Giáo Luật chỉ buộc ăn chay mỗi năm có 2 ngày (Thứ Tư Lễ Tro + Thứ Sáu Tuần Thánh) – 2 ngày trong khoảng thời gian 365 ngày – thì có đáng là bao, chuyện nhỏ! Quả nhiên là thế, vấn đề ăn chay nếu được thực hiện chỉ vì luật buộc, chỉ vì bổn phận, chỉ câu nệ ở hình thức, trong khi từ trong sâu thẳm của tâm hồn thì vẫn muốn tránh né, vẫn muốn làm ngược lại hoặc làm chiếu lệ, thì cũng chẳng ích gì.
Thánh Phao-lô đã vạch trần thói đời: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.”(Rm 7, 18-20). Nhân tình thế thái là như vậy đó. Nên chi vấn đề ăn chay người ta chỉ thích “xé áo”(để thay vào bộ cánh hợp mốt, bảnh bao) hơn là “xé lòng”. Nếu có ngoẹo đầu, méo miệng, sùi sụt than khóc thì cũng chỉ là “nước mắt cá sấu”mà thôi! Ôi chao! Cái cảnh “thích ngồi trên tòa ông Mô-sê, đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”, rồi “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính mình thì lại không buồn động ngón tay vào…”(Mt 23, 1-7), vẫn xảy ra nhan nhản trên thế giới ở thế kỷ XXI này!
Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, từ thiện, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.”– 1Cr 13, 3).
Dù công việc ăn chay hoàn toàn do chủ thể con người tự quyết định, nhưng muốn đạt hiệu quả tốt thì đừng quên cầu nguyện, bởi đó là dịp người tín hữu chính thức “trở về với Thiên Chúa”(“cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa”). Ăn chay phải đi liền với cầu nguyện như Đức Giê-su đã ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày ròng rã trong hoang địa trước khi bước vào cuộc khổ nạn vì tội lỗi loài người; bởi chính Người đã truyền dạy: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay…Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.”(Mt 6, 16-18).
“Đấng thấu suốt những gì kín đáo” đã có lời khuyên: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”(Ge 2, 12-13). Vâng, Mùa Chay chính là mùa trở về với chính mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Trở về với chính mình, nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát tro bụi mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Một cách cụ thể là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm ăn năn sám hối)”.
Nói tóm lại, “Mùa Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô, cho việc sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em cùng quẫn của chúng ta… Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để khi chia sẻ trong chiến thắng của Chúa Ki-tô, chúng ta có thể mở cửa lòng chúng ta đối với người yếu thế và người nghèo. Khi đó chúng ta sẽ có thể trải nghiệm và chia sẻ đầy đủ niềm vui Phục Sinh.”(Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3).
Trong tâm tình đó, xin cùng dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.”(Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro). Ôi! “Bao năm trôi qua hồn con lạc bước đi xa. Quên bao ơn Cha, trầm kha bể đắm bao la. Nay con ăn năn. Hồi tâm thống hối bao lỗi lầm Đền bù bất xứng bao năm. Quyết tâm trở về Cha lành. ĐK: Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành. Hãy trở về, trở về để sớm hồi sinh. Hãy trở về, trở về sống trong an bình. Trở về, trở về để mãi sống trong ân tình.”(TCCĐ “Hãy Trở Vè”– Lm Nguyễn Sang)
48.Biết phận mình--Lm. Giuse DĐH
Tro bụi, cát bụi, có làm chúng ta xao xuyến gì không? Mầu tím, mầu đen, hay vành khăn trắng trên đầu có đúng là dấu hiệu của đau thương mất mát không? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chỉ “vu vơ”hay cố tình, khi ông sử dụng ca từ “cát bụi”diễn tả phận người như một quy luật: hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…! Cuộc sống có sinh có tử, trở về bụi tro hay đối diện với mầu tím, tuy không phải là những trở ngại, làm thay đổi phong cách an vui thụ hưởng của kiếp người, nhưng ít nhiều cũng đang thức tỉnh ta biết đến phận người đầy giới hạn.
Chẳng ai dám công bố “đóa hồng”từ nay sẽ ngát hương, hoặc có thể ra lệnh cho hoa “ngọc lan”hãy mau giảm bớt mùi thơm lại. Cũng không viện thẩm mỹ nào có thể làm cho cụ già 90 tuổi trở về nét xuân rực rỡ mười tám đôi mươi. Căn bản mà người đời áp dụng tốt khoe, xấu che, mấy ai làm điều ngược lại như vạch áo cho người xem lưng, vì thế mà xu hướng chung, người ta thường hay động viên nhau: hãy vui với phận mình. Bước vào mùa chay, mùa tập luyện, mỗi người trước hết phải biết mình bất toàn, rồi nhờ quyền năng cùng ơn Chúa, Ngài sẽ làm cho “ngọc lan”trong ta bớt thơm, “đóa hồng”tỏa ngát và tâm hồn sẽ tươi trẻ lại thuở ban đầu.
Tự nguyện xức tro lên đầu, nhắc nhớ nhau ăn chay hãm mình, hoặc suy xét về lời Chúa phán: “hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van ; xé lòng đừng xé áo”, ít ra cũng là lưu ý cho những ai muốn trở nên con cái sự sáng. Dù biết phận người rồi sẽ trở về cát bụi, biết mầu tím là mầu tang chế hay mầu tím là mầu thống hối ăn năn, tất cả chỉ có ý nghĩa khi chúng ta đặt đặt niềm tín thác vào tình yêu Chúa. Tâm hồn xinh đẹp hoặc nhơ bẩn, chúng ta không nhìn thấy, nhưng Kitô giáo chúng ta tin rằng con người tài giỏi khéo léo nhất cũng không thể giấu giếm che đậy được tội tỗi của mình.
Con người tự nhiên là thích phô trương, thích được trọng vọng, thích được hơn người, thích nổ, thích khoác lác…, dù cha mẹ và các vị làm công tác giáo dục thường nhắc bảo chớ sống hình thức, đừng giả dối, đóng kịch. Giới trẻ thích áo quần, đầu tóc giống thần tượng của mình, bậc cao niên thích kể lể về thành tích thuở xa xưa cho con cháu, trong khi ai cũng biết rõ mọi người đều lên án bệnh phô trương thành tích. Chúa Giêsu hôm nay tiếp nối tinh thần của ngôn sứ Gio-el là hãy xa tránh những gì hời hợt bên ngoài: “khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, khi ăn chay, đừng làm bộ thiểu não…, khi cầu nguyện, đừng giả hình,.. Cha ngươi….sẽ trả công cho ngươi”.
Tại sao Chúa Giêsu lại muốn chúng ta đi sâu vào tâm tình bên trong chứ không phải phô diễn bên ngoài? Ngài chỉ rõ là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ ghi nhận việc làm của ta, thứ đến Ngài nhắc nhớ việc cầu nguyện phải khởi đi từ lòng mến, không phải chỉ là hành động vu vơ. Sống tinh thần mùa chay mà chỉ xức tro lên đầu thì không khó, già trẻ lớn bé, người thánh thiện tội lỗi đều dễ dàng thực hiện. Nếu đợi đến khi yếu đau, không ăn không uống, không chơi bời trác táng được, rồi mới kiêng khem, cầu nguyện, mới chịu cho đi tiền bạc, thì nào ý nghĩa gì nữa!
Theo ơn khôn ngoan nhận biết Chúa yêu thương, biết mình giới hạn, chúng ta hãy phơi bày tâm tư tội lỗi của mình, hãy để Chúa làm mới lại cuộc sống, thật lòng làm hòa với Chúa làm hòa với anh chị em của ta. Sám hối chính là nhận ra con người thật của mình, nhận ra Thiên Chúa bao dung tha thứ, để hôm nay, để ngày mai chúng ta không phải hối tiếc vì chúng ta đã đặt niềm tín thác vào Đấng ta tin thờ. 40 ngày chay tịnh ở phía trước, sẽ còn là phương thế hữu hiệu để chúng ta thực thi việc mến Chúa yêu người, để được thay đổi nếp sống cũ, được nên giống Chúa Kitô hơn. Xin Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện, đỡ nâng và tháo gỡ những vướng bận, giúp mỗi người biết sống những ngày mùa chay cho xứng hợp với tinh thần của Chúa. Amen.
49.Bố Thí, Cầu Nguyện, Ăn Chay--P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, bước vào Mùa Chay là bước vào Lễ Tro, hay nói cách khác Lễ Tro là nghi thức dẫn vào Mùa Chay. Giáo Hội dạy cho chúng ta biết ý nghĩa Mùa Chay là: Mùa chuẩn bị tâm hồn cử hành Lễ Vượt Qua. Gọi là Mùa vì kéo dài 40 ngày.
Mùa Chay cho chúng ta thời giờ “sám hối”, sám hối cho chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa, gọi tắt là “xin lỗi” Chúa.
Vậy, “xin lỗi” Chúa bằng cách nào? Thưa, Tin Mừng hôm nay (Mt 6, 1-6. 16 -18) cho chúng ta ba cách để sám hối: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY, gọi tắt là ba trong một.
Bố Thí: ĐỀN TỘI.
Cầu Nguyện: XIN LỖI CHÚA, xin ơn tha thứ
Ăn chay: Nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình.
Như vậy, ba hình thức trong môt vấn đề là SÁM HỐI.
Vâng, tai sao phải sám hối? Trước hết khởi đi từ bài đọc I hôm nay. ( Ge, 2, 12 -18), Thiên Chúa phán cùng Tiên Tri Giô-el: “Các ngươi hãy ăn chay, khóc lóc và than van, và thành tâm trở về với Ta. Phải xé lòng mình ra, chớ đừng xé áo, phải quy thuận Thiên Chúa là Chúa ngươi “( Ge 2, 12 -13)
Như vậy, Sám Hối chính là trở về với tâm tình khiêm nhường, mọi thứ tội lỗi đều xuất phát từ sự “kiêu ngạo”. Một người không thể sám hối, nếu họ không biết khiêm nhường, ngược lại, nếu không có tâm tình khiêm nhường, thì không biết “SÁM HỐI “chân thành.
Hình thức sám hối chính là: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY, ba hình thức trên phải thực hiện trong nơi”KÍN ĐÁO”. Vì, bất cứ việc gì làm một cách kín đáo, tránh phô trương, khoe khoang thì lợi ích sẽ tăng them, huống chi là việc đạo đức. Vì, sám hối là việc giữa tội nhân với Thiên Chúa, có nghĩa là mình Chúa, mình ta. Sám hối là nhìn nhận thân phận “TỘI NHÂN “chứ không phải là việc “đạo đức “để khoe. Đây là cốt lõi của vấn đề. Vì, “Đây là ngày Ta thi ân, là thời giờ Ta giáng phúc “.
Rõ ràng, cách “SÁM HỐI “của Cựu Ứơc không giống Tân Ứơc, người ta thích phô trương, thích cho mọi người biết, từ đó là”biến dạng”tính chất quan trọng của việc “SÁM HỐI”. Sám hối là biểu lộ sự chân thành, sự ăn năn, gọi là “THỐNG HỐI”, là ăn năn đau đớn. Nhận ra mình là kẻ có tội, chứ không phải người khác có tội. Vì, nếu mọi người đều biết ăn năn, thì xã hội sẽ lành mạnh, đất nước sẽ bình an, thế giới sẽ hòa bình.
Hôm nay đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta cách “sám hối”chân thành, có nghĩa là “sám hối”cách kín đáo. Như vậy, Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật là như vậy, Người dạy chúng ta cách bố thí, cầu nguyện, ăn chay một cách “KÍN ĐÁO “hầu để được chính Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.
Sám hối cho chúng ta một tâm tình “biết ơn “và phó thác vào Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ba cách thế đưa chúng ta đến một sự sám hối chân thành, hầu kết hiệp được với Thiên Chúa.
Ngày nay, hình thức bố thí “khó “làm nơi kín đáo. Không những, người ta”phô trương” một nơi, mà còn đưa lên các trang mạng, hầu khắp mọi nơi đều biết việc làm “từ thiện” của họ. Điều nầy, họ cũng lý giải rằng: “đèn thắp lên, phải được đặt trên giá …”. Tuy nhiên, họ cho rằng, nếu không làm vậy, lấy tiền đâu mà làm từ thiện. Điều nầy đúng khi và chỉ khi, tách rời việc “bố thí “của cá nhân, từng người, với “làm từ thiện “tập thể. (mong dành cho sự suy tư của từng người)
Bài đọc II hôm nay (2 Cr 5, 20 – 6, 2) thánh Phaolô nói: “… anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu”. (2Cr 6, 1b). Theo đó, chúng ta hãy làm theo Đức Kitô., Đấng không hề biết tội là gì?
Bố thí, không phải chỉ nghĩ về phương diện vật chất, mà còn là phương diện tâm linh. Bố thí về tình thần là làm tốt, nghĩ tốt, nói tốt cho người khác.
Cầu nguyện, không phải đọc kinh suốt ngày, mà phải biết nhớ đến Chúa từng giây, từng phút. Vì cầu nguyện là biểu lộ một đức tin, một sự cậy trông, một lòng yêu mến tha thiết.
Ăn chay, không phải nhịn ăn để dành, mà là thể hiện sự hãm mình, sự hy sinh, sự liên kết với cuộc khổ nạn của Đức Kitô- Giêsu. Vì, ăn chay là một trong ba cách sám hối, sám hối là tỏ lòng khiêm tốn.
Sứ Điệp Mùa Chay 2017 của Đức thánh cha Phanxico nhắc nhở cho chúng ta:
NGHĨ ĐẾN THA NHÂN: Chia sẻ tình thương là LÒNG THUONG XÓT của Thiên Chúa, không phải bằng cơm bánh, mà bằng tinh thần trong Đức Kitô- Giêsu.
NHÌN LẠI TỘI LỖI CỦA MÌNH: có nghĩa là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, là “đấm ngực “mình, chứ đừng “đấm mặt “tha nhân.
CHÚ Ý ĐẾN LỜI CHÚA: Vì Lời Chúa là một đặc ân vô giá, một ân huệ vô song, một tình thương cao cả.
Vậy, hình thức xức tro là hình thức bằng lòng, tự nguyện sám hối chân thành để được ơn tha thứ của Thiên Chúa qua giáo hôi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con biết sám hối chân thành để được giao hòa với Thiên Chúa, được trở về với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là Cha. Xin Chúa thương ban cho chúng con được yêu mến và lắng nghe, hầu thực thi Lời Chúa, hầu đem lại mưu ích cho chúng con. Amen.
50.Một chương trình mùa chay
Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6, 1)
Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!
Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?
Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.
Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.
Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.
Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.
Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.
51.Đừng phô trương
Thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào Mùa Chay Thánh, là mùa ăn năn sám hối và đền tội. Muốn ăn năn sám hối thì ta phải quay về với chính mình, để thấy mình cần phải sám hối những gì, quay về với cuộc sống nội tâm kín đáo thầm lặng, mặc dầu phải sống với bao nhiêu ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hôm nay.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ: bố thí kín đáo, cầu nguyện kín đáo và ăn chay kín đáo. Đời sống đạo đức phải kín đáo. Rõ ràng là Chúa chống lại thói phô trương của người Biệt phái và Pharisiêu, cũng như của chúng ta hôm nay.
Gặp Thiên Chúa nơi kín đáo.
Trong Cựu ước, thường Thiên Chúa hiện ra với con người cách kín đáo: Chúa hiện ra với Abraham và Samuel ban đêm, hiện với một mình Môsê trên núi Sinai hay trong Nhà Tạm.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu thường cũng tỏ ra kín đáo: sinh ra trong hang đá Bêlem giữa cánh đồng vắng, sống âm thầm ở Galilê, rút lui ban đêm vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa tỏ ra kín đáo đến nỗi người ta chỉ tưởng Ngài là con bác thợ mộc, một người tầm thường như trăm ngàn người khác.
Vì thế hôm nay chúng ta mới hiểu được tại sao ChúaGiêsu dạy các môn đệ sống kín đáo nếu muốn gặp Cha, “Đấng hiện diện nơi kín đáo”. Các thánh tu rừng ngày xưa và sau này, từ thế kỷ thứ IV, các đan sĩ rút lui vào nơi thanh vắng, sống im lặng trong cầu nguyện để gặp Chúa. Đời sống tu trì, cầu nguyện trong thanh vắng, đem lại cho Giáo Hội sự cân bằng trong đời sống tông đồ. Đối với người tu sĩ linh mục, cũng như người kitô hữu hôm nay, sống kín đáo để gặp Chúa trong các giờ cầu nguyện, suy gẫm và chiêm niệm, là một nhu cầu sinh tử cho đời sống thiêng liêng và tông đồ.
Môi trường hướng ngoại.
Sống kín đáo với Chúa cần thiết như thế đó, thế nhưng chúng ta đang sống trong một môi trường không thuận lợi chút nào. Con người hôm nay thích phô trương, chạy theo một cuộc sống hướng ngoại, nhiều khi đánh mất cả chính mình. Đến khi phải trở về với chính mình trong yên lặng thì cảm thấy trống rỗng, khó chịu. Sống trong hoàn cảnh đó, người kitô hữu, nếu không cảnh giác thì sẽ bị lây nhiễm dễ dàng, giờ cầu nguyện sẽ trở nên trống rỗng, dễ chia trí, quì trước mặt Chúa, nhưng tâm bất tại …Vì thế nhiều tu sĩ cũng như kitô hữu, thường phàn nàn: đọc kinh cầu nguyện hay chia trí, ngủ gật ngủ gà, có thể đó là dấu chỉ đã bị bầu khí hướng ngoại của thời đại đầu độc khá đậm và đang làm băng hoại đời sống thiêng liêng và tu trì. Đó cũng là lý do khiến nhiều người đã bỏ cuộc.
Tập sống kín đáo với Chúa là một nhu cầu bức thiết của đời sống với Chúa hôm nay. Trong việc huấn luyện, đặc biệt cho giới trẻ được sinh ra và lớn lên trong môi trường hướng ngoại, người có trách nhiệm huấn luyện phải để ý đến điểm này, nếu không thì đời sống với Chúa sẽ trở thành trống rỗng. Thiếu đời sống nội tâm, sống kín đáo và thân mật với Chúa, không chóng thì chày, đờisống ki tô hữu sẽ gặp khủng hoảng.
Ngày nay, dịp nghỉ cuối tuần, người dân thành phố đổ xô về miền núi hay bờ biển, tránh xa bầu khí ồn ào của thành phố, hưởng bầu khí trong lành và sự thinh lặng giữa thiên nhiên. Có nhiều kitô hữu, mỗi năm xin đến sống trong một tu viện một vài tuần lễ để cầu nguyện và sống kín đáo với Chúa trong yên lặng. Điều đó trở thành một nhu cầu cho những ai ý thức về chính mình, để lấy lại thế quân bình. Những ngày tĩnh tâm cũng nằm trong mục đích đó, chứ không phải là một khóa bồi dưỡng kiến thức, cho dù là kiến thức đạo đức. Những bài chia sẻ là để giúp ta đi vào cuộc sống nội tâm, nên phải dành thì giờ sống thinh lặng suy gẫm và cầu nguyện nhiều hơn.
Đừng phô trương, tập rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình. Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay, cũng như là đòi hỏi của bài Tin Mừng hôm nay.
Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội. Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập một trăm trang, viết đầy từ đầu chí cuối. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.
52.Lịch sử và ý nghĩa THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro”được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay”(số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay”(Caput ieiunii), hay “Đầu Mùa ăn chay 40 ngày”(Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên”(Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10, 8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1, 15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro”đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”(còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3, 18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4, 13; Is 58, 5; Dn 9, 3; Giona 3, 6; Giudith 4, 16; 9, 1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
53.Bụi tro
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
13/02 Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa.
Thứ Ba tuần 6 thường niên.
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".
Lời Chúa: Mc 8, 14-21
Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh".
Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng".
Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không nhớ sao?
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Tin Mừng Máccô kể ba câu chuyện về việc Thầy trò vượt Biển hồ.
Lần đầu, Thầy Giêsu đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng
khiến các môn đệ tự hỏi: Người này là ai…? (Mc 4, 35-41).
Lần thứ hai, sau khi hóa bánh ra nhiều, Thầy đã đi trên mặt nước mà đến với họ.
Nhưng lòng các môn đệ còn chai đá,
họ không hiểu được chuyện bánh hóa nhiều (Mc 6, 45-52).
Bài Tin Mừng hôm nay là lần cuối Thầy trò vượt biển qua bờ bên kia,
sau khi Thầy Giêsu đã hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8, 1-10).
Có một sự cố xảy ra khiến các môn đệ lo âu.
Các ông quên mang bánh khi vượt biển.
Trên thuyền chỉ có một cái bánh duy nhất (c. 14).
Không rõ tại sao trong bối cảnh này Thầy Giêsu lại cảnh báo các ông
về thứ men xấu làm hư hỏng con người (x. 1 Cr 5, 6-8),
đó là thứ “men của người Pharisêu và men của người theo Hêrôđê (c. 15).
Có lẽ vì cuộc đụng độ vừa qua với người Pharisêu (Mc 8, 11-13).
Nhưng lời cảnh báo của Thầy Giêsu có thể đã bị các môn đệ hiểu sai.
Các ông tưởng Thầy trách về chuyện họ không mang đủ bánh.
Từ đó xảy ra một cuộc tranh cãi giữa họ với nhau về chuyện này.
Thầy Giêsu chắc là giận lắm.
Chưa khi nào chúng ta thấy Ngài đặt nhiều câu hỏi liên tiếp như vậy.
Tùy lối chấm câu, có thể có từ sáu đến chín câu hỏi.
Qua các câu hỏi, Ngài bày tỏ sự thất vọng về các môn đệ.
Họ chậm hiểu, chậm nắm bắt; tim của họ bị chai (c. 17).
Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe (c. 18).
Trí nhớ và lòng tin của họ khá kém,
vì dù đã chứng kiến hai lần phép lạ bánh hóa nhiều,
một lần, năm chiếc bánh cho năm ngàn người,
lần khác, bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người,
họ vẫn lo âu khi thấy trong thuyền chỉ có một chiếc bánh dự trữ.
“Vậy mà anh em vẫn còn chưa hiểu sao?” (c. 21).
Chúng ta cũng nghe Chúa hỏi câu hỏi này khi chúng ta xao xuyến âu lo
trước những khó khăn của cuộc sống.
Các môn đệ vượt biển mà không mang đủ lương thực cần dùng.
Họ lo âu vì sợ lỡ ra có bão hay sự cố gì thì làm sao đây.
Thực ra điều họ quên không phải là bánh,
mà là quên Thầy Giêsu đang ở cùng thuyền với họ.
Chúng ta cần ôn lại những điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ,
để sống mỗi ngày trong bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con. (Charles de Foucauld)
Suy Niệm 2: Anh em không nhớ sao?
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Ít khi Đức Giêsu giận các môn đệ đến thế.
Ngài đặt cho họ dồn dập bảy câu hỏi liên tiếp (cc. 17-21),
và Ngài chỉ cho họ hai cơ hội trả lời (cc. 19, 20).
Câu chuyện xảy ra khi Thầy trò đang ở trên thuyền đi qua bờ bên kia.
Các môn đệ quên đem bánh theo,
hay đúng ra trên thuyền chỉ có một chiếc bánh (c. 14).
Hẳn các ông đã cảm thấy lo âu, bất an,
vì lỡ ra cuộc hành trình kéo dài,
một chiếc bánh làm sao đủ ăn cho cả nhóm?
Chính vì thế họ mới bàn tán với nhau về chuyện thiếu sót này (c. 16).
Chẳng rõ cuộc bàn cãi giữa họ có lớn tiếng không,
nhưng chắc chắn Thầy Giêsu đã biết được (c. 17).
“Tại sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh?” (c. 17).
Tại sao anh em lại có vẻ lo sợ, không yên?
Thầy Giêsu rõ ràng không chấp nhận thái độ bất an đó.
“Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao?
Anh em có trái tim cứng cỏi như thế sao?” (c. 17; Mc 6, 52).
Đối với người Do Thái, trái tim là nơi phát sinh mọi suy nghĩ và hiểu biết.
Một trái tim cứng cỏi ắt không còn khả năng thấu hiểu.
Khi đường vào trái tim bị nghẽn, mọi lối vào qua giác quan cũng bế tắc:
“Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe sao?” (c. 18).
Người có trái tim cứng cỏi thì trở nên mù lòa và điếc lác.
Để các môn đệ thấy rằng nỗi lo âu của họ là vô lý,
Thầy Giêsu đã gợi cho các ông nhớ lại hai lần Ngài làm bánh hóa nhiều.
“Anh em không nhớ sao?” (c. 18).
Với năm chiếc bánh Thầy bẻ cho năm ngàn người ăn,
anh em còn thu về được mười hai thúng bánh vụn (c. 19; Mc 6, 31-44).
Với bảy chiếc bánh Thầy bẻ cho bốn ngàn người ăn,
anh em còn thu được bảy giỏ đầy (c. 20; Mc 8, 1-9).
Thầy có thể nuôi được số đông người như thế một cách dư dật,
vậy mà anh em còn lo vì thấy cả nhóm chỉ có một chiếc bánh khi qua hồ.
Câu hỏi cuối cùng của Thầy: “Anh em vẫn chưa hiểu sao?”
Con người là con vật hay lo, quay quắt vì lo.
Có khi lo vì dễ quên những gì Chúa đã làm cho đời mình.
Nếu ta dành giờ để suy nghĩ về những kỳ công Chúa làm trong quá khứ,
ta sẽ được giải thoát khỏi những nỗi lo hiện tại chẳng đáng gì.
Hãy để cho trái tim mình mềm lại, trí hiểu được thông suốt,
mắt sáng lên và tai nhạy bén, trí nhớ minh bạch rõ ràng.
Như thế là hãy để cho toàn bộ con người mình mở ra trước Thiên Chúa,
tín thác vào sự quan phòng của Ngài khi ta băng qua biển đời.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn hỏi chúng ta: Anh em không nhớ sao?
Nhớ là hành vi quan trọng trong đời sống thiêng liêng.
Nhớ sẽ làm chúng ta bình an ra khơi với Thầy, dù chỉ có một chiếc bánh.
Nhớ sẽ làm chúng ta dám chia sẻ số bánh nhỏ nhoi của mình cho đám đông.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Suy Niệm 3: Men Biệt phái
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Men kích thước rất nhỏ. Nhưng tác dụng rất lớn. Chỉ một nắm men nhỏ cũng làm dậy lên cả thúng bột. Có men tốt. Nhưng cũng có men xấu. Vì thế Chúa dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê”. Đừng nhiễm một chút nào những thói xấu của họ.
Men Pha-ri-sêu là thói giả hình. Bề ngoài đạo đức. Nhưng bên trong xấu xa. Như mồ mả tô vôi. Là thói kiêu ngạo. Tự cho mình là công chính. Khinh miệt người khác. Là thói duy luật. Thờ kính Chúa bằng môi miệng. Nhưng lòng dạ thì xa Chúa. Câu nệ lề luật. Nên tàn nhẫn với tha nhân.
Men Hê-rô-đê là thói ham quyền. Dùng nhiều thủ đoạn để chiếm ngai vàng. Là thói ham hưởng thụ. Vì sắc dục mà làm điều phi luân. Say sưa yến tiệc và sắc đẹp. Nên bốc đồng hứa quàng. Là thói bất công. Sẵn sàng đàn áp, giết chóc. Cướp vợ của anh trai. Giết hàng loạt hài nhi vô tội. Giết cả vị tiên tri đáng kính.
Men thói đời rất nguy hiểm. Nó làn tràn khắp nơi. Như thời No-e. Khiến Chúa buồn phiền hối hận. “Đức Chúa thấy rằng trên mặt đất sự gian ác của con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng”. Và quyết định rửa sạch trái đất. Chỉ mình No-e, nhờ không nhiễm thói đời, nên được Chúa cứu thoát. “Người hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này” (năm lẻ).
Cám dỗ là một hạt men nhỏ. Phát triển trong dục vọng. Tàn phá trong cái chết. “Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình … Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy kiên trì chiến đấu chống lại men cám dỗ. “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (năm chẵn).
Phải có phân định chính xác. Vì men rất tinh vi. Phải có thanh luyện liên tục. Vì men rất dễ nhiễm. Phải quyết liệt. Vì nếu nhân nhượng sẽ dẫn đến cái chết.
Suy Niệm 4: Tín thác vào tình yêu của Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ "men" để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: "Tất cả đều là hồng ân của Chúa" bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta một niềm tin như thế, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa.
Suy Niệm 5: Quên mang theo bánh
Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh? Các ông đáp: “Thưa được mười hai.” “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: “Thưa được bảy.” (Mc. 8, 19-20)
Khi thuyền đã ra tới gần giữa Biển Hồ, các môn đệ mới nhận thấy là chỉ có một cái bánh cho bữa ăn. Một cái bánh cho mười hai người mà phần lớn đều là những tay chài thì thật quá ít, chẳng bõ nhét kẽ răng cho mỗi người. Vì thế cuộc cãi vã nổi lên có lẽ để dò tìm cho biết ai là người đã gây nên cớ sự này, ai là người phụ trách lo lương thực cho nhóm? Chẳng lẽ người ấy không có thể mang theo cả thúng bánh thừa sau phép lạ sao? Thấy vậy, Chúa liền can thiệp mạnh mẽ và nghiêm nghị đến độ ta phải ngạc nhiên. Tại sao rầy rà nhau vì đã quên mang bánh theo? Tại sao cãi cọ nhau vì một sự cố tầm thường như thế? Thường khi người ta quên sót một điều chi, thì hay bực bội. Nhưng Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội này để huấn luyện các môn đệ của mình, và qua đó Người cho ta thấy rằng tư chất cuộc sống thưòng ngày bộc lộ cái tâm cúa ta rõ hơn ta tưởng.
Thực ra không phải vì chuyện quên mang theo bánh khiến Chúa Giêsu bực mình mà vì chuyện quên sót này làm cớ cho các tông đồ cãi cọ nhau và gây lo lắng cho các ông; vả lại cuộc cãi cọ này còn cho thấy các tông đồ hiểu biết về bản thân Chúa còn quá ít. Quên bánh đưa các ông tới điều quên Người là Đức Giêsu Kitô.
Căn nguyên của sự quên xót
Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Chúa cảnh báo các môn đệ về căn nguyên sự quên lãng chính bản thân Người, tức là thái độ không tin. Men Pharisiêu và men Hêrôđê chính là những ý xấu, những thái độ từ chối và thù địch đối với Chúa Giêsu và là sự cố chấp không chịu tin các dấu lạNgười làm. Những tâm hồn cứng cỏi này có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Đã hẳn các tông đồ không phải là những con người như vậy: các ông đã không đòi hỏi những dấu lạ từ trời, không tích cực tỏ ra không tin. Tuy nhiên các ông đã không nắm bắt được ý nghĩa việc Chúa làm trước mắt các ông, và do đó có nguy cơ dẫn đến thái độ không tin. Bởi lẽ các ông sống và suy nghĩ như thể đã không được nhìn thấy phép lạ hóa bánh vậy. Chúa bảo các ông phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisiêu là có ý như vậy. Quên Đức Giêsu Kitô nơi tư chất sống của Người có thể dẫn đến việc công kích Đức Giêsu Kitô vậy.
Chúng ta sợ hãi gì? Sợ thiếu những sự cần, sợ phải rủi ro xui xẻo, sợ ốm đau, sợ chết. Sợ những điều đó là chuyện thường tình của con người … người tín hữu đâu phải là siêu nhân. Nhưng khi ta sợ hãi như vậy, chẳng phải là đã có sự quên lãng Chúa ư, và thậm chí đã không tin Chúa một cách nào đó sao?
Suy Niệm 6: Anh em chưa hiểu ư?
Qua những ngày làm việc mệt nhọc với đám đông dân chúng và sau khi Đức Giêsu bị những người Pharisêu đòi hỏi về dấu lạ..., Đức Giêsu đã không những không làm mà Ngài đã bỏ họ mà đi nơi khác.
Thánh Máccô kể: Đức Giêsu và các môn đệ đã trèo thuyền để ra đi hướng về Betsaiđa. Khi Ngài và các ông đang ở trên thuyền, thì đây là lúc riêng tư để thầy trò tâm sự. Đức Giêsu đã lên tiếng căn dặn các môn sinh của mình: “Anh em phải coi chừng, hãy đề phòng men Pharisêu và Hêrôđê!”. Tại sao Đức Giêsu lại cẩn trọng nhắc các môn đệ như vậy? Thưa là vì Ngài thấy rõ sự mù quáng do thành kiến và xuất phát từ thói kiêu ngạo, ghen tỵ, hình thức gây ra cho hai nhóm này, nên lòng họ khô cứng, trai lỳ, không còn nhạy bén với lương tâm nữa. Chính vì thế mà Đức Giêsu cảnh báo các môn đên dừng đi vào vũng lầy đó của họ.
Mặt khác, qua những lời thầm thì thể hiện sự lo lắng của các môn đệ về chuyện các ông không mang bánh theo, Đức Giêsu đã khiển trách các môn đệ và Ngài tiếp tục dạy cho các ông bài học về sự phó thác. Đức Giêsu đã dùng phương pháp hồi tưởng để gợi lại cho các môn sinh về sự quan phòng của Thiên Chúa khi con người tin tưởng vào Ngài qua hai phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhắc lại như thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn để củng cố lòng tin của các ông vào chính Ngài, đó là: có Chúa là có tất cả. Chúa là kho báu mà không gì có thể sánh bằng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, thử thách.
Khi phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay phù trợ, che trở và đỡ nâng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con phó thác cuộc đời của mình vào bàn tay từ ái của Chúa để được Ngài yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Hiểu đúng và đón nhận sứ mạng của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Các dấu lạ Chúa làm cho thấy Chúa hằng quan tâm và đủ quyền năng thực hiện cho ta những ơn lành hồn xác. Điều Chúa mong đợi nơi ta là hiểu đúng và đón nhận sứ mạng của Chúa, đừng để mình bị ảnh hưởng xấu của những kẻ cứng lòng và gian ác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tuyển chọn và tách con khỏi thế gian để con trở thành dân riêng của Chúa. Chúa muốn con dù vẫn sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Thế mà lạy Chúa, con lại rập theo lối sống trần gian. Con đang chịu ảnh hưởng của thứ men xấu. Nếp sống thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, nếp sống hưởng thụ và ích kỷ, những chất men ấy đang thấm dần nơi người Kitô hữu. Con còn đang chịu ảnh hưởng tác hại của men dâm ô qua sách báo phim ảnh xấu. Con cũng thấy có cả men Pha-ri-siêu và men Hêrôđê của thời đại mới. Đó là sự cứng lòng, thù nghịch, dửng dưng, lãnh đạm với chuyện tôn giáo.
Lạy Chúa, Chúa muốn con là men tốt trong rá bột trần gian. Đáng lẽ con phải biến đổi thế giới nên tốt đẹp và thánh thiện hơn, nhưng con lại để cho men xấu của thế gian ảnh hưởng trên con. Cái xấu như nắm men đang từng ngày thấm dần vào đời sống con, nó kín đáo âm thầm lặng lẽ nhưng lại rất mãnh liệt và làm biến chất đời sống người Kitô hữu.
Con xin Chúa cho tất cả mọi người Kitô hữu ý thức lại sứ mạng của mình. Xin Lời Chúa và Thánh Thể Chúa gìn giữ con khỏi men xấu và giúp con sống thánh thiện giữa đời. Xin Chúa ở lại với con và sống trong con. Con sẽ luôn nhớ lời cảnh giác và báo động của Chúa. Xin cho con luôn biết tỉnh thức. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê”.
Suy Niệm 8: Men Pharisiêu và Hêrôđê
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Con mèo bề ngoài trông có vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào một xó tối, nằm im không cử động để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.
Người giả hình cũng tương tự như vậy.
Suy niệm
Trước phép lạ hóa bánh ra nhiều và các phép lạ của Chúa Giêsu, người biệt phái giả hình cố chấp vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (x. Mc 8,11-13). Những người phái Hêrôđê thì lo chuyện quyền bính chính trị và quyền lợi vật chất nên cũng không lưu tâm đến giáo lý Chúa Kitô. Họ cứng lòng cố chấp. Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ phải tránh men giả hình của biệt phái và men quyền bính và ham vật chất của phái Hêrôđê. Hình ảnh “men” chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại do kiêu ngạo và thành kiến, làm cho người Pharisiêu và Hêrôđê cố chấp mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.
Chính các môn đệ lòng trí hẹp hòi, con mắt thiển cận, chỉ nghĩ đến những cái trước mắt, những cái vật chất của thế giới trần tục nên dễ bị nhiễm thứ men này. Cho nên, Ðức Giêsu cảnh giác các đồ đệ, Ngài hướng các ông đến sự khát khao thần thiêng: Cuộc sống vĩnh cửu mới, đòi hỏi sự cố gắng mỗi ngày. Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của các phép lạ Chúa làm. Ðiều đó cũng có nghĩa khẳng định tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài.
Ước chi mỗi người chúng ta cũng có thái độ vô vị lợi, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra tình yêu của Ngài, tình yêu vĩ đại vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Ý lực sống: “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Anh em phải coi chừng,
phải đề phòng men Pharisiêu và men Hêrôđê”(Mc 8,15).
Suy Niệm 9: Hãy tránh men biệt phái
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu xuống thuyền đi với các môn đệ. Nhưng các ông quên mang bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Dọc đường, Chúa căn dặn các ông cẩn thận lo tránh “men những người biệt phái và Hêrôđê”, tức là lo tránh thói tự mãn, cứng đầu cứng cổ của họ. Nhưng các ông không hiểu ý Chúa muốn nói, mà cứ tưởng là Chúa quở vì không mang bánh theo ăn, nên Chúa trách các ông chậm hiểu kém tin. Chính mắt các ông đã thấy hai phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê mà còn dư thừa, chính tai các ông đã nghe bao nhiêu lời Chúa dạy mà cũng chưa hiểu chưa tin.
2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ đi về hướng Betsaiđa; Người lợi dụng những phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Người đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
3. Từ thời Ai cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất hữu cơ và làm biến chất chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí gây nhiễm độc chết người.
Chúa Giêsu cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men”. Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt phái và men Hêrôđê (5 phút Lời Chúa).
4. “Anh em phải coi chừng, phải đề phong men biệt phái và men Hêrôđê” (Mc 8,150.
Khi xuống thuyền vội vàng, các ông quên mang bánh theo, trên thuyền chỉ có một chiếc thì không đủ cho mọi người. Các ông bàn tán việc đi mua bánh. Nhân dịp này, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ hãy dè giữ cho khỏi men người biệt phái và men Hêrôđê.
Như chúng ta đã biết “Men” là hình ảnh những gì gây nên tình trạng biến chất, làm hư hại các chất hữu cơ). Các rabbi coi đó là những những hướng chiều xấu nơi con người. Ngày nay men biệt phái và men Hêrôđê vẫn còn sinh sôi nảy nở trong thời đại của chúng ta. Đó là thói kiêu căng giả hình, đánh mất lòng nhân nghĩa. Đó là “men” thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, sống hưởng thụ và ích kỷ, men dâm ô, qua sách báo phim ảnh xấu khiến chúng ta vì đam mê chúng mà trở nên lãnh đạm thù nghịch với tình yêu Chúa và ơn cứu độ của Người. Vậy chúng ta đang “say” thứ men nào, “men trần tục” hay “men Kitô”?
5. “Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư”?
Câu hỏi này là lời Chúa trách móc các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, họ đã phân phát bánh hóa nhiều mà họ còn lo lắng để tiếp tế lương thực, trong lúc Chúa Giêsu còn ở bên cạnh họ! Thế nhưng họ đã không ý thức rằng có Chúa Giêsu ở với họ, là họ có tất cả.
Điều này thật đúng tâm lý chúng ta. Chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng: dĩ vãng, Thiên Chúa đã can thiệp cứu giúp chúng ta, ở với chúng ta. Nhưng hiện tại, khi chúng ta gặp khó khăn, gặp thử thách, phản ứng đầu tiên của chúng ta là lo lắng hốt hoảng, nghi ngờ, bối rối, chứ chúng ta có giữ bình tĩnh và tin chắc rằng Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta không?
6. Truyện: Hãy nhìn ra dấu chỉ của thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành”.
Tại sao lại có chuyện thế này? Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng”.
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu cảnh giác men pharisêu và men Hêrôđê
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Câu chuyện này có liên quan tới phép lạ bánh hóa nhiều mà Mc vừa tường thuật phía trước (Mc 8,1-10)
- Phép lạ ấy đã chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu Ngài là một ông Môsê mới, ban lương thực dư dật không những cho người do thái mà còn cho cả lương dân.
- Nhưng những người pharisêu vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (Mc 8,11-13). Còn những người phái Hêrôđê thì chỉ lo chuyện chính trị và bảo vệ quyền lợi vật chất của họ. Phép lạ hóa bánh ra nhiều (và cách chung là tất cả những phép lạ của Chúa Giêsu) chẳng giúp cho họ hiểu gì cả.
- Bởi đó Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ mình: "Anh em phải coi chừng men pharisêu và men Hêrôđê". Hình ảnh "men" chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại. Do đó ý Chúa Giêsu muốn bảo các môn đệ đừng vì thành kiến như pharisêu hay vì sự thù nghịch như phái Hêrôđê mà mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.
- Cũng chính vì thế nên một lần nữa Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của chúng.
B.... nẩy mầm.
1. Thành kiến làm cho người ta ra mù quáng. Người có sẵn thành kiến giống như một người đã mang kính râm nên nhìn cái gì cũng thấy tối đen theo màu kính.
2. Khi còn nhỏ, J. Dillinger phải ra tòa vì một tội vụn vặt. Được tha về, cha mẹ dẫn anh đến trường. Một số phụ huynh khác thấy thế, đến làm áp lực với thấy giáo nếu thầy để Dillinger ở đây, chúng tôi sẽ đem con đến trường khác. Ông thầy bối rối không biết làm thế nào cho các phụ huynh an tâm. Ông đành nói thật cho Dillinger nghe. Anh bỏ học, không bao giờ bước chân tới trường nữa. Ít năm sau, anh trở thành một tội phạm nguy hiểm nhất Hoa kì trong thập niên 30. (Góp nhặt)
3. Sau phép lạ bánh hóa nhiều, điều còn vương vấn lại trong trí các môn đệ chỉ là… bánh, không có gì hơn! Các ông không biết đi từ dấu chỉ ấy để vươn lên tới chỗ nhận ra uy quyền của Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng thế, đầu óc chúng ta cũng nông cạn như thế. Nhiều khi Chúa ban cho ta một ơn lành, chẳng hạn một thành công, một sự an ủi v.v. Sau đó điều duy nhất chúng ta còn nhớ chỉ là sự thành công và an ủi đó. Chúng ta không thể vươn xa hơn một chút để thấy đó là những dấu chỉ về tình thương của Ngài. Chúng ta phải tập nhìn những sự việc xảy ra như những dấu chỉ tới những điều cao hơn.
4. Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ "Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối". Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên "Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?". Nhưng người bạn lắc đầu giải thích "Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đây ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại." (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
5. "Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men pharisêu và men Hêrôđê" (Mc 8,15)
Lên Sài gòn học tiếp đại học, tôi và một anh bạn "chúa ghét" thuốc lá. Nhưng rồi cũng phải hút, là để ngoại giao, xin việc, vì kẻ nào đến xin việc cũng làm như vậy và họ đã được đưa đón ân cần hơn. Bằng không, cứ thấy chiếc xe đạp dựng trước cơ quan là y như rằng lại vào ra không, tí khói lửa liền được chào mời tử tế… Lâu ngày, cứ hễ nhạt miệng là chúng tôi lại mồi thuốc, bất kẻ những người xung quanh là ai già trẻ, trai, gái, người đau, kẻ ốm… và bất kể nơi nào, thậm chí ngay trên xe khách chật ních người.
Tệ hơn nữa, bây giờ chúng tôi lại mắc chứng "nổ" hết xảy, nói dóc không "gớm miệng". Oái oăm thay, người đời lại thích vậy, nên chúng tôi có thêm tài "ngoại giao" và kiếm việc làm.
Vâng, chắc chắn cả hai chúng tôi đã nhiễm, không những "mùi thuốc lá" mà còn mắc phải cả "men lãnh đạm" trước những nhu cầu của tha nhân, một thứ men làm cho lương tâm ra chai lì, không còn nhạy bén với chân lý nữa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và cho con can đảm lội ngược dòng, để con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, hòa mình chứ không biến mình, nhập thể chứ không biến thể. Xin mau đến, lạy Chúa, kẻo con "lên men" mất. (Epphata)
Suy Niệm 11: Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Câu chuyện này có liên quan tới phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Marcô vừa tường thuật trước (Mc 8,1-10).
Phép lạ ấy đã chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu: Ngài là Môisen mới, ban lương thực dư dật không những cho người Do Thái mà còn cho cả lương dân nữa.
Thế nhưng, những người Pharisêu vẫn không chịu tin Chúa. Họ còn đòi hỏi dấu lạ từ trời (Mc 8,11-13). Bên cạnh họ chúng ta còn thấy có cả những người thuộc phái Hêrôđê. Những người này chỉ lo những chuyện chính trị và bảo vệ quyền lợi vật chất của họ, cho nên phép lạ hóa bánh ra nhiều (và cách chung là tất cả những phép lạ của Chúa Giêsu) cũng chẳng giúp cho họ hiểu được điều gì.
Chính vì vậy mà Chúa phải khuyến cáo các môn đệ mình: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu và men Hêrôđê” (Mc 8,15).
Vâng, hãy coi chừng men của nhóm Pharisêu và Hêrôđê. Bởi vì, con người thường dễ nhiễm lây những tật xấu hơn là tập được những đức tính tốt. Những cái xấu của những người Pharisêu và Hêrôđê là gì thì chúng ta đã đều biết: giả hình, tội lỗi, bất công, tham lam, khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo, ích kỷ v.v.
Đây là câu chuyện người Thổ Nhĩ Kỳ thường kể cho nhau nghe:
Một chàng trai trẻ kia, con của một gia đình giàu có, danh giá, sống buông thả với đủ loại tật xấu, đặc biệt là cờ bạc. Cha mẹ đã làm đủ mọi cách để giáo dục anh, nhưng không thành. Ngày kia, có một người đến khuyên ông bố rằng:
- Hãy tụ tập 80 người trẻ tốt lại và để cho học sống chung với chàng trai trẻ xấu nết kia. Gương sáng của họ rồi sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến anh ta, và chẳng bao lâu đâu anh ta sẽ từ bỏ tật xấu để trở thành người mẫu mực.
Người Cha rất hài lòng với lời khuyên này. Ông cho đi tìm ở khắp nơi đủ 80 người anh em trẻ tốt lành và hứa sẽ trọng thưởng cho họ, nếu họ cộng tác giúp con ông.
Ông để cho 80 người này sống chung với con ông trong một ngôi nhà tách biệt, ngoài họ ra thì không ai khác được vào. Các bữa ăn được bên ngoài phụ giúp đưa vô.
Sau 80 ngày, người cha của cậu ta mở cửa ra xem cái gì đã xảy ra, thì ông thấy cậu con trai của ông đang ngồi chơi bài, chung quanh cậu, 80 cậu con trai nhà lành kia cũng đang mê đánh bài không kém gì cậu! Sự nghiêm chỉnh của 80 cậu con trai nhà lành kia không những đã không ảnh hưởng gì trên chàng trai nọ; mà ngược lại, chính họ đã tiêm nhiễm tật xấu của anh ta!
2. “Anh em phải coi chừng” (Mc 8,15). Hãy coi chừng kẻo bị nhiễm.
Cũng như người bị nhiễm vi trùng Hensen làm tê liệt cả hệ thống thần kinh khiến họ mất hết cả cảm giác. Hay như những người nhiễm HIV sẽ không còn khả năng đề kháng, thành thử con vi trùng nào cũng có thể tấn công và tác oai tác quái trên con người của họ. Một con người không còn mẫn cảm với những vẻ đẹp Chúa ban cho trong cuộc sống cũng như thế! Quả thật là rất đáng thương.
Một trong những thảm trạng của con người thời đại hôm nay là: Tuy con người có nhiều kiến thức hơn, nhiều phương tiện để học biết hơn, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình mà che mất ánh sáng và màu nhiệm. Con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại và những dấu chỉ yêu thương mà Thiên Chúa ban cho họ mỗi ngày. Chính vì thế mà họ đã đánh mất rất nhiều niềm vui cho cuộc sống của mình. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
Thế giới của chúng ta đang sống là thế giới đầy ánh sáng và màu nhiệm. Nhưng, nhiều khi con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình mà che đậy chúng lại.
Đây là những lời khuyên được loan đi từ Internet:
“Bạn chớ thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim của bạn. Bạn hãy nắm chắc lấy như thể chúng là những phần trong cuộc sống của bạn. Bởi vì nếu như không có chúng, cuộc sống của bạn sẽ mất đi ý nghĩa.
Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ, hoặc ảo tương về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.
Bạn chớ khóa kín lòng mình lại với tình yêu bằng cách nói bạn không có thời gian yêu ai.
Cách nhanh nhất để nhận được tình yêu là hãy cho đi. Cách chóng nhất để đánh mất tình yêu là níu giữ thật chặt.
Còn phương thế tốt nhất để giữ được tình yêu là bạn hãy chắp cho nó đôi cánh”.
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy đến và giúp cho chúng con can đảm dám lội ngược dòng,
để chúng con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian,
hòa mình chứ không biến mình, nhập thể chứ không biến thể.
Và nhất là giúp chúng con biết nhận ra những dấu chỉ
tình thương Chúa gửi đến cho chúng con mỗi ngày
để chúng con cảm nghiệm được niềm vui
cũng như hạnh phúc của một người có Chúa ở cùng. Amen. (Epphata).
12/02 Hưởng niềm vui của chủ
- Viết bởi Mt 25, 14-30
Hưởng niềm vui của chủ.
Thứ Hai tuần 6 thường niên.
MỒNG BA TẾT GIÁP THÌN. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM.
“Tôi tớ tốt lành và trung tín”
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi tôi tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.
Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”
Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”
Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này!” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu xa và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Tôi tớ tốt lành và trung tín--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
2. Làm ăn sinh lời--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
3. Sinh lời nén bạc Chúa trao --TGM Giuse Nguyễn Năng.
4. Con kiến cần cù--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
5. Thánh hóa công việc làm ăn--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
6. Mùng Ba ra mắt--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
7. Thánh hóa công việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
8. Bông hoa ngày Tết-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
9. Cầu nguyện cho việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
10. Thánh hóa công việc: Ga 5,16-20--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
11. Cầu nguyện cho công ăn việc làm--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
12. “Đi làm ăn buôn bán”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
13. Chúa thánh hoá công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
14. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
15. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
16. “Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì”--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
17. Lời Chúa Ngày MỒNG BA TẾT--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Thánh hóa công ăn việc làm --Giuse Trần Công Thượng
19. Cha Tôi không ngừng làm việc--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
20. Thánh hóa công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
21. Xin Chúa Chúc Lành--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
22. Thánh hóa công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
23. Công ăn việc làm--Lm. Thái Nguyên
24. Làm bởi bay, ban bởi Ta
25. Suy niệm Lời Chúa--Lm. Nguyễn Thể Hiện
26. Suy niệm Lời Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
27. Thánh hóa công ăn việc làm
28. Thánh hóa công việc làm
29. Giọt mồ hôi có Chúa--Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng
30. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”-- Jos. Vinc. Ngọc Biển
31. Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
32.Làm việc với lòng yêu mến Chúa, và với tinh thần trách nhiệm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
33. Thánh hóa công ăn việc làm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
34. Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
35. Việc làm và làm việc trong năm mới sẽ như thế nào?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
36. Ai không làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh
37. Ai không muốn làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh
38. Xin Chúa sáng soi cho biết việc phải làm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
39. Thánh Hoá Công Việc Làm Ăn--Lm. Anthony Trung Thành
1. Tôi tớ tốt lành và trung tín--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Lao động đúng là vinh quang của con người,
Thiên Chúa vẫn cần con người cộng tác cho công cuộc sáng tạo còn dang dở…
Ngài vẫn muốn nhờ con người mà làm cho thế giới này đẹp hơn, dễ sống hơn,
làm cho trái đất này trở thành một ngôi làng ấm áp, xinh xắn, gần gũi
cho hơn sáu tỷ người sống như anh chị em.
Từng ngày bao người vẫn cộng tác với Thánh Thần để biến đổi bộ mặt trái đất.
Có một lời nguyện rất hay của Phụng vụ Giờ Kinh tóm kết về giá trị của lao động:
“Ước gì những công việc chúng con phải làm, vừa nuôi dưỡng chúng con,
vừa mưu ích cho những người chúng con chịu trách nhiệm,
lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.”
Như thế lao động là một bổn phận của người Kitô hữu.
Lao động không phải là một hình phạt của tội nguyên tổ.
Thống trị mặt đất và làm bá chủ mọi loài (St 1, 28).
là sứ mạng Thiên Chúa trao cho con người ngay sau khi nó được tạo dựng.
Trước khi phạm tội, con người đã được Đức Chúa “đặt vào vườn Êđen,
để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2, 15).
Làm việc với đất, với vườn, với đủ thứ cây trái là một vinh hạnh lớn.
Thánh Phaolô cũng thấy cái thú trong việc “làm lụng vất vả”
để nuôi thân và để “giúp đỡ những người đau yếu” (Cv 20, 35).
Có pha một chút tự hào, vị tông đồ lừng danh này khoe:
“Những gì cần thiết cho tôi, và cho những người sống với tôi,
đôi tay này đã tự cung cấp” (Cv 20, 34).
Chẳng biết từ đâu Phaolô nghe được câu này mà ông bảo là của chính Chúa Giêsu:
“Cho thì có phúc hơn là nhận”
Làm việc chính là “cho”, và “cho” thật là một hồng phúc.
Đầu tư là vấn đề nóng bỏng của mọi nền kinh tế.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dám ví đời sống Kitô hữu với chuyện làm ăn.
Ông chủ Giêsu đi vắng thời gian lâu (c.19), giao của cải cho tôi tớ đầu tư sinh lợi.
Chẳng phải ai cũng được số nén bạc như nhau,
nhưng mỗi người phải cố gắng tối đa với những gì mình đã lãnh nhận.
Hai người đầu tiên đã đi làm ăn và sinh lợi tương xứng,
được ông chủ coi là “tôi tớ tốt lành và trung tín.” (cc. 21.23).
Người thứ ba lại đào lỗ đưới đất và chôn dấu nén bạc duy nhất của mình.
Nén bạc của anh thứ ba còn nguyên, không sinh lợi,
vì thế anh bị coi là “tôi tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng” (cc. 26.30).
Trong khi chờ Chúa trở lại, chúng ta nỗ lực sử dụng tài năng Chúa ban.
Làm sao sinh lợi được nhiều nhất và hiệu quả nhất từ số vốn mình nhận?
Làm sao để Thiên Chúa được vinh danh hơn trên mặt đất này?
Đầu tư đòi sáng tạo của khối óc và đam mê của trái tim.
Đầu tư đòi chấp nhận liều lĩnh, nỗ lực và căng thẳng.
Nhưng chúng ta dám chấp nhận sự dấn thân này chỉ vì yêu Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2. Làm ăn sinh lời--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Mồng Ba Tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Chúng ta muốn dâng cho Chúa
những điều chúng ta đang làm ở công ty, ở trường, ở chợ,
ở phòng thí nghiệm, ở sân khấu, ở nhà thương,
hay ở góc tối âm thầm của một căn phòng nhỏ.
Chúng ta muốn dâng cho Chúa
những việc giúp chúng ta đủ ăn, đủ mặc, đủ sống,
những việc làm đem lại lợi ích cho tha nhân,
những việc làm cho trái đất này đẹp hơn, đáng sống hơn.
Tất cả những việc ấy, dù nhỏ bé hay trần tục, tầm thường,
chúng ta xin trao vào tay Chúa,
để chúng trở nên vĩ đại, thánh thiêng, và cao cả.
Ngay từ lúc sáng thế, làm việc không phải là một hình phạt,
nhưng là một đặc quyền Thiên Chúa dành cho con người.
Ngài cho họ được cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo.
Công trình này, tuy tốt đẹp, nhưng vẫn còn dở dang.
Thiên Chúa cố ý để dở dang, và nhờ con người hoàn thiện nó.
“Cho đến nay Cha Tôi vẫn làm việc, và Tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
Làm việc là hoạt động của Thiên Chúa hướng về con người.
Làm việc cũng là hoạt động của con người hướng về Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn khá đặc biệt,
vì rất gần với chuyện ngoài đời như làm ăn, đầu tư, sinh lời.
Dụ ngôn kể chuyện một ông chủ phải đi xa,
nên cấp vốn cho các đầy tớ của mình.
Ông tin tưởng họ và dám giao cho họ những số vốn rất lớn,
nhưng không phải ai cũng như nhau.
Người được năm yến, người hai yến, người một yến.
Có sự khác biệt như vậy vì ông biết khả năng của từng người.
Điều ông muốn là các đầy tớ dùng số vốn đó mà kinh doanh.
Hai anh đầy tớ đầu tiên quả xứng đáng với kỳ vọng của ông.
Anh lãnh năm yến đã sinh lợi được năm yến khác.
Anh lãnh hai yến đã sinh lợi được hai yến nữa.
Còn anh thứ ba thì đào lỗ chôn dấu nén bạc của chủ.
Sau một thời gian dài, ông chủ trở về, kêu họ tính sổ.
Hai anh đầy tớ đầu tiên được khen một câu giống hệt nhau:
“Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành,
Được giao ít mà anh trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21.23).
Như thế, người đầy tớ sinh lợi hai yến
cũng được khen thưởng như người sinh lợi năm yến,
vì anh ấy đã cố gắng hết sức với số vốn nhỏ hơn được giao.
Đến lượt anh đầy tớ thứ ba, người được giao một yến.
Anh này coi ông chủ là người hà khắc, bất công,
quen gặt thu ở nơi mình không gieo vãi (Mt 25,24).
Chính vì thế anh sợ, mới đem chôn giấu yến bạc đi.
Anh bị chủ mắng là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác,
vì yến bạc còn nguyên, không sinh lợi được chút nào.
Ông chủ có là người hà khắc như anh này nghĩ không?
Ông có bắt các đầy tớ đầu tư để sinh lợi cho mình không?
Rõ ràng là không, vì ông đã lấy lại yến bạc của anh cuối,
để đưa cho anh đầu tiên,
anh này hiện đang có mười yến (Mt 25,28).
Ông chủ đi xa là hình ảnh của Đức Giêsu,
chúng ta như đầy tớ chờ Ngài đến vào ngày Quang Lâm.
Trong khi chờ đợi, Ngài đòi chúng ta phải kinh doanh,
với số vốn Ngài ban là các khả năng tự nhiên, siêu nhiên.
Dù vốn nhiều hay ít, Ngài không cho phép chúng ta ngồi yên,
giữ khư khư nén bạc vì sợ mất vốn hay thua lỗ.
Ngài muốn chúng ta mạnh dạn, và đôi khi liều lĩnh
dấn thân vào những công việc mới mẻ, khó khăn.
Ngài không đòi chúng ta phải nộp cho Ngài cả vốn lẫn lời.
Hạnh phúc của Thiên Chúa là thấy chúng ta trưởng thành
nhờ cùng làm việc với Thiên Chúa cho trái đất này,
cho những anh chị em thiếu may mắn.
Cuộc đời của Kitô hữu được ví như chuyện kinh doanh.
Vào ngày tận thế, Chúa sẽ gọi tôi ra sao:
Đầy tớ trung tín tốt lành, hay đầy tớ xấu xa biếng nhác?
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, con cám ơn Chúa
về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.
Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.
Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui
và những ngày tủi thân buồn bã.
Chúc tụng Chúa về cả những gì
Chúa đã không cho con được hưởng.
Lạy Chúa, xin đừng sa thải
người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.
Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,
xin đừng đuổi con xa Chúa.
Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.
Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,
để không bao giờ mỏi mệt về con,
và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.
Xin Chúa đến giúp con,
ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,
cho con biết cậy trông
cả những khi cùng đường tuyệt vọng,
cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,
một chiến thắng huy hoàng nơi con.
Karl Rahner
3. Sinh lời nén bạc Chúa trao --TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Sức khỏe, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, đó là những nén vàng nén bạc Chúa trao cho đời ta. Ta hãy sinh lời bằng việc sử dụng những món quà đó cho đẹp lòng Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã tín nhiệm con, ban cho con sức khỏe, thời giờ, tài năng, và muôn ngàn ân huệ, như những nén vàng nén bạc. Vốn liếng đó Chúa mong con phát huy thành mối lợi thiêng liêng. Chúa sẽ vui lòng biết bao khi thấy con biết tận dụng thời gian để làm những điều đẹp lòng Chúa. Con biết dùng sức khỏe, khả năng và các ơn Chúa ban, để phục vụ Chúa và giúp đỡ anh em, đó là con biết sống xứng đáng với lòng thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là Chân Thiện Mỹ, Chúa đã chẳng tiếc gì khi chia sẻ điều tốt lành cho con, nhưng với mục đích để con sử dụng các ân huệ ấy mà cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa.
Tuy thế, con biết Chúa ban cho mỗi người những ân huệ và với mức độ khác nhau. Chúa chỉ cần con sử dụng các ân huệ ấy hết khả năng của con. Ai được ban nhiều, Chúa đòi sinh lời nhiều, kẻ được ít, Chúa đòi ít hơn. Xin cho con đừng ghen tương phân bì với số phận anh em con.
Khi con được năm nén, xin đừng để con kiêu căng tự đắc, nhưng xin cho con biết tạ ơn Chúa: tạ ơn bằng cách quảng đại phục vụ chứ không phung phí ơn Chúa. Khi con được hai nén, xin cho con cũng biết quảng đại phục vụ với khả năng nhỏ bé của mình. Và nếu con được Chúa ban một nén, xin đừng để con vì vậy mà lười biếng, tự ti mặc cảm, than trách phận mình và oán than cả Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
4. Con kiến cần cù--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay Mồng Ba tết Giáp Ngọ, Giáo hội Việt nam muốn dành riêng để xin ơn thánh hóa công việc làm ăn trong năm mới, đồng thời xin Chúa chúc lành cho mọi công việc làm ăn chủa chúng ta trong suốt năm mới, biết lao động cho thích hợp để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, cũng như góp phần vào việc làm sáng danh Chúa trong mỗi công việc của chúng ta.
Chúng ta có một gương đặc biệt về sự cần cù làm việc, đó là con kiến. Khi nói đến con kiến, tự nhiên trong đầu óc chúng ta nảy ra ý tưởng là sự cần cù làm việc, nhất là qua bài thơ ngụ ngôn “Con ve và con kiến” của thi sĩ La Fontaine.
Chúng ta cùng tìm hiểu về loài kiến với các nét đặc trưng của chúng và rút ra một bài học thực hành cho cuộc sống chúng ta.
I. TÌM HIỂU LOÀI KIẾN
1. Một loại côn trùng đặc biệt
Các nhà sinh học vừa khẳng định: kiến, loại côn trùng “cổ” nhất, thay đổi ít nhất trong quá trình tiến hóa và nhiều triệu năm sau vẫn tồn tại trên hành tinh này lại là một loài thường hay gặp nhất.
Kiến là loài con trùng sống hầu như ở khắp mọi nơi trên trái đất, trừ vùng băng giá và đại dương.
Kiến cũng có nhiều loại với nhiều mầu sắc khác nhau như kiến đen, kiến lửa, kiến càng, kiến gió… và mỗi loại có một lãnh thổ riêng, một phạm vi sinh sống riêng của mình.
Chúng sống thành bầy đàn, phân chia nhiệm vụ rõ ràng, có tôn tri trật tự, biết bảo vệ lẫn nhau và cũng đi xâm lăng, cướp bóc, bắt nô lệ, chăn nuôi sâu bọ lấy “sữa”…
Số lượng loài kiến trong một tổ có thể từ vài chục cho đến hàng ngàn con… nhưng đứng đầu luôn là kiến chúa, còn lại hầu như là các nữ kiến thợ với những nhiệm vụ như tìm kiếm thức ăn, nuôi nấng kiến con và đánh nhau khi có chiến tranh. Có rất ít kiến đực và chúng chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn với phận sự duy nhất là giao phối với kiến Chúa để duy trì nòi giống, sau đó chết. Như vậy, có thể nói tổ kiến gồm toàn là các nữ kiến.
2. Cấu trúc xã hội loài kiến
Hầu hết mọi xã hội loài kiến được chia ra làm ba thành phần, đó là kiến chúa, kiến thợ và kiến đực. Sau khi giao phối với một trong những chàng kiến đực, kiến chúa bắt đầu làm tổ và chỉ đẻ trứng trong suốt cuộc đời còn lại của mình… Kiến chúa không cai trị tổ kiến nhưng các kiến thợ luôn mang thức ăn lại nuôi như chúng nuôi lẫn nhau. Có tổ chỉ có một kiến chúa nhưng có tổ lại có nhiều kiến chúa cùng lúc.
Ngoài nhiệm vụ chăm sóc và nuôi nấng kiến chúa, đàn kiến thợ còn có nhiệm vụ xây tổ, mở mang tổ rộng hơn, sửa chữa tổ khi bị hư hại, chăm sóc ấu trùng hay trứng kiến, tìm kiếm thức ăn và chiến đấu với kẻ thù. Một nữ kiến thợ có thể chỉ làm một công việc suốt đời, nhưng cũng có thể thay đổi từ việc này qua việc khác.
Trong tổ kiến, lười nhất là những chàng kiến đực, chẳng làm việc gì khác ngoài nhiệm vụ giao phối với nàng kiến chúa và có cuộc đời ngắn ngủi nhất. Nói cách khác, trong một bầy kiến, có tới 80% kiến tham gia vào những việc như ta thường gọi là lao động công ích cho xã hội, chỉ có 20% còn lại là có thể tạm gọi là “lao động gián tiếp”, nói đúng ra chỉ rong chơi, ăn sẵn, chờ làm cái việc duy trì nòi giống.
Hình dáng kiến thợ to nhỏ khác nhau. Thường thì kiến lính to nhất, với đầu và hàm to nhất. Ở một số loài kiến, kiến lính chỉ có nhiệm vụ chiến đấu và bảo vệ. Nhưng ở số loài kiến khác, kiến lính chẳng có nhiệm vụ gì đặc biệt cả (theo Internet).
3. Đặc tính của loài kiến
Kiến là loài vật nhỏ bé, xinh xắn nhưng cần cù và chăm chỉ này có một cái gì đó rất giống với xã hội loài người của chúng ta, một xã hội chứa đựng trong đó biết bao nhiêu câu chuyện, biết bao nhiêu vấn đề phát sinh cần phải giải quyết. Có thể nói: xã hội loài kiến chính là xã hội thu nhỏ của xã hội loài người. Chúng cũng có những ranh giới và những qui định riêng cần phải được tôn trong.
Nếu có dịp đọc tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài, một tác phẩm nổi tiếng và đầy chất nhân văn về xã hội loài vật: khi chú dế mèn với cương vị là sứ giả hòa bình đến thăm vương quốc loài kiến, điều mà chú dễ dàng nhận thấy đó là loài kiến cũng có những cấp bậc thứ tự khác nhau. Cao nhất là kiến chúa, rồi đến các loài kiến khác như kiến chỉ huy, kiến thợ…
Loài kiến muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có sự đoàn kết và hợp tác bởi vì: “Hợp quần gây sức mạnh”. Chúng ta hãy xem: một con sâu to thì một con kiến nhỏ bé như thế làm sao có thể khiêng về tổ được? Vậy mà 100 con kiến có thể khiêng nổi con sâu mà đem về tổ đấy.
II. GƯƠNG LAO ĐỘNG CỦA LOÀI KIẾN.
Những ngày ở bậc tiểu học, thập niên 50, mỗi học sinh đều phải thuộc lòng câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Con ve và con kiến”. Chuyện kể là con ve chỉ thích ca hát suốt các ngày hè tươi đẹp, còn đàn kiến thì cần cù lo chuyên chở dự trữ lương thực và xây tổ đề phòng cho những ngày đông giá lạnh. Con ve thực sự tỉnh ngộ và cay đắng khi phải đến tổ kiến để xin ăn và chỗ ở…
Chuyện này là một mô hình luân lý của tính khôn ngoan, ham làm việc và biết lo xa của đàn kiến so với những thói hư tật xấu của loài ve ham chơi.
Hoặc nếu có dịp đọc thơ ngụ ngôn của Esope, một thi sĩ cổ Hy Lạp, chúng ta cũng thấy có một bài thơ ngụ ngôn tương tự:
Vào một ngày mùa đông đẹp trời, vài con kiến đang bận việc sấy khô ngô đã bị uót sau một trận mưa dài. Lúc đó, một con ve từ đâu bay tới xin kiến cho ít hạt ngô vì nó nói:
- Tôi sắp chết đói mất.
Lũ kiên ngưng làm việc một lúc mặc dù trái với qui định của chúng. Chúng nói:
- Chúng tôi có thể hỏi : anh đã làm gì suốt cả mùa hè qua? Tại sao anh không đi tìm thức ăn để dự trữ cho mùa đông?
Ve trả lời:
- Tôi quá bận rộn với việc ca hát nên không có thời giờ nữa.
Lũ kiến trả lời:
- Nếu anh dùng mùa hè để hát thì không gì tốt hơn là hãy dùng mùa đông để nhảy múa.
Nói xong, chúng mỉm cười và lại tiếp tục công việc của mình.
Đọc xong hai câu truyện trên, bạn nghĩ gì về những chú kiến? Chắc hẳn những từ ngữ xuất hiện trong đầu bạn là loài kiến luôn làm việc, siêng năng, cần mẫn. Đúng thế, kiến là biểu tượng cho sự làm việc không biết mỏi mệt, luôn làm hết sức mình. Như chúng ta biết, thân hình nhỏ bé là thế nhưng chú luôn cố gắng tha tất cả những gì kiếm được về tổ của mình, vì đó là công việc của chú, nhiều khi trọng lượng của con mồi gấp đến 50 lần cơ thể của chúng.
Còn một hình ảnh đẹp nữa của các chú kiến ấy: đó là đàn kiến. Chẳng bao giờ kiến đi làm việc riêng rẽ cả. Chúng biết phân công rất tốt, cứ mỗi khi phát hiện ra con mồi, thức ăn, chúng sẽ cử ngay vài thành viên về báo tin, và sau đó, đàn đàn lũ lũ kiến sẽ kéo đến cùng làm việc. Chính vì sự hợp tác làm việc rất tốt này mà chúng ta sẽ thấy công việc của chúng hoàn thành thật mau lẹ.
Từ ngàn xưa các cụ đã có một lời khuyên rất khôn ngoan: “Tích cốc phòng cơ”, có nghĩa là phải dự trữ lương thực phòng lúc đói kém, mất mùa.
Có người cho rằng: người sống ở thành thị không có “cốc” thì lấy gì mà “tích”?
Thực ra, câu này phải hiểu theo ý mở rộng một chút, không nên hiểu theo nghĩa hẹp là để dành lương thực khi có dư để gặp lúc giáp hạt như này xưa. “Tích cốc” ở đây nên hiểu là sự dành dụm tiền bạc để đầu tư cho tương lai, sự chuẩn bị về học vấn, nghề nghiệp để phòng lúc khó khăn, công ăn việc làm lúc thiếu thốn.
Câu tục ngữ này muốn cho hoàn chỉnh thì phải nói là: “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”, có nghĩa là tích trữ lương thực phòng khi đói kém, trữ quần áo phòng khi trời giá rét.
Con kiến là bài học cho chúng ta suy nghĩ để biết cách sống cho có hiệu quả tốt. Quá khứ đã qua đi, hiện tại còn đó, nhưng còn phải nghĩ đến tương lai vì tương lai lệ thuộc vào hiện tại theo nguyên lý nhân quả: “nguyên nhân tốt thì hậu quả tốt”.
Nếu con người không biết lo xa thì phải rước lấy hậu quả xấu như bài thơ ngụ ngôn “Con ve và con kiến”, đúng như lời các cụ xưa đã nói: “Nhân vô viễn lự, tắc hữu cận ưu”: người không biết lo xa, ắt phải buồn gần.
III. VÀI SUY NGHĨ TỪ LOÀI KIẾN
1. Mọi người phải làm việc
Chúa Giêsu phán: “Cha Ta làm việc luôn, và Ta cũng làm như vậy” (Ga 5,17). Chính Chúa Giêsu đã khẳn định Ngài cũng phải làm việc như Cha Ngài. Như vậy, lao động được coi như một việc thánh thiêng.
Do đó, chúng ta cũng phải khẳng định rằng lao động không phải là hình phạt của tội lỗi. Trước khi nguyên tổ loài người du nhập tội lỗi lịch sử vào thế giới, nhân loại đã có lao động rồi vì con người được Thiên Chúa dựng nên và đặt vào Vườn Đại đàng, không phải để ngồi chơi xơi nước, nhưng là để họ “trồng tỉa và coi sóc vườn” (St 2,15).
Trước sau, lao động đều có mục đích chính yếu là thăng hoa đời sống con người. Tuy nhiên, từ giây phút con người đa mang tội lỗi, lao động vướng mắc và bao chứa thêm hậu quả nặng nề của tội lỗi, đó là gian truân và đau khổ (x. St 3,16-19). Chính cái vướng mắc và bao chứa này khiến cho lao động chiếm đoạt thêm nhiều giá trị nhân bản và siêu nhiên.
Ta nhìn vào vũ trụ thì nhận thấy đây là bộ máy khổng lồ mà các bộ phận hoạt động không bao giờ ngừng, từ con người, thú vật, cây cối đến đất đá. Vì bao lâu các vật ngưng hoạt động thì lúc đó vũ trụ hết sức sống và không thể tồn tại được.
Loài kiến lao động thật cần cù, nhưng chỉ hành động theo bản năng, không làm theo ý thức và tự do.3 Ngược lại, con người được hành động trong ý thức và tự do, khiến cho lao động mang một ý nghĩa cao quí là theo gương Chúa và cộng tác với Chúa mà làm việc.
2. Lao động và nghỉ ngơi
Lao động phải có sự nghỉ ngơi. Theo sách Sáng thế, chúng ta thấy Thiên Chúa dụng nên trời đất trong sáu ngày và ngày thứ bảy Ngài nghỉ. Sau này người Do thái đã giữ luật nghỉ ngày sabat rất ngặt (x. Xh 34,21). Sức con người có hạn, không thể làm việc kéo dài đến vô tận. Một chiếc máy được dùng trong một thời gian cũng phải cho nghỉ chứ không phải dùng mãi được. Chúng ta tưởng quả tim làm việc liên tục ngày này qua ngày khác mà không nghỉ sao?
Dale Carnegie cho biết: nhiều người tưởng quả tim làm việc không ngừng. Kỳ thực mỗi lúc bóp vào là nó nghỉ. Nếu đập đến 70 cái trong một phút thì trong 24 giờ, nó nghỉ đến 9 giờ, cộng chung các khoản nghỉ lại thì mỗi ngày nó nghỉ 15 giờ. Đó! nhờ cách nghỉ lai rai như vậy thì tim ít khi ngã lăn ra đòi nghỉ dài hạn vì mệt ngất!
Sách Giảng viên cũng nói: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế, một thời để trồng, một thời để nhổ cây” Gv 3,1-2),
Như vậy, con người chúng ta cũng có thời giờ để làm việc, cũng có thời giờ để nghỉ ngơi theo như chương trình Thiên Chúa đã an bài. Làm việc nhiều quá không tốt, nghỉ ngơi nhiều quá cũng không tốt, luôn phải ở mức trung bình, giờ nào việc ấy theo nguyên tắc thần học: “Virtus in medio stat”: nhân đức nằm ở chỗ trung dung, nghĩa là không thái quá, cũng không bất cập.
Mối tương quan giữa cầu nguyện và làm việc cũng vậy, phải ở mức trung dung, không phải cả ngày cứ cầu nguyện, cũng không phải cả ngày chỉ làm việc. Mỗi ngày phải có thời giờ làm việc, cũng phải có thời giờ nghỉ ngơi, thời giờ cầu nguyện. Nhưng trong thực tế, thời giờ làm việc nhiều khi lấn át thời giờ cầu nguyện, thậm chí có người cả một ngày không có lấy một phút để cầu nguyện.
3. Thần học về lao động
Nhiều người coi lao động là một hình phạt khổ sai, còn “thư nhàn” mới là đáng quí. Ngược lại, chúng ta chủ trương rằng: “Lao động là vinh quang”, sở dĩ chúng ta dám quả quyết như vậy là vì chúng ta được tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, chúng thấy Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ vạn vật: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu”: (St 1,26). Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại là “cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa”.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố: “Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo. Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời (Le Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất.
Chính công đồng Vatican 2 cũng xác quyết : làm việc là góp phần vào việc sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:
“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý do để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et spes).
Chúng ta hãy phó thác mọi công việc cho Chúa trong năm mới này. Hãy nỗ lực làm việc không ngừng. Nhưng muốn cho mọi công việc lao động của ta có ý nghĩa hơn, ta hãy làm với tinh thần vui tươi, với ý thức rằng ta làm việc để cho Chúa hài lòng, để danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến nơi ta đang làm việc.
Truyện: Ba người thợ xây thánh đường
Một nhà văn Pháp có kể chuyện ba anh đẽo đá, đại khái như sau:
Hôm nọ, có người khách đến viếng ngôi thánh đường vừa khởi công. Ba người thợ đang làm đá. Người khách hỏi một người:
- Anh làm gì đó?
Người thứ nhất trả lời với giọng uể oải:
- Tôi đang dũa đá, thật khốn cho cái đôi tay chai đít phỗng của tôi.
Người thứ hai lễ độ hơn, trả lời:
- Tôi đang kiếm tiền nuôi vợ con tôi.
Còn người thứ ba hiên ngang trả lời:
- Còn tôi, tôi đang xây ngôi thánh đường…
Và người ấy rang rang cất tiếng hát.
5. Thánh hóa công việc làm ăn--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Trong những ngày đầu xuân, chúng ta vẫn thường chúc nhau: “Năm mới làm ăn thịnh vượng. Con cháu siêng năng ngoan ngoãn…” Điều đó cho thấy người Việt nam chúng ta rất quí trọng lao động. Trong kho tàng ca dao tục ngữ không thiếu gì những câu đề cao giá trị của lao động như: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”.
Đồng cảm với dân tộc, Giáo hội Việt nam đã dành riêng ngày Mồng Ba Tết để xin Chúa thánh hóa và chúc lành cho công việc làm ăn trong năm mới, giúp cho người Kitô hữu hiểu rõ giá trị của lao động, lao động trí óc cũng như chân tay.
Đồng thời, nhân dịp đầu năm, Giáo hội còn nhắc nhở cho con cái mình hiểu rằng lao động không còn là một hình phạt khổ sai, nhưng là một vinh dự vì nhờ lao động, con người được cộng tác với Thiên Chúa, Đấng vẫn luôn làm việc trong công trình sáng tạo của mình; và cũng góp phần làm cho con người được hạnh phúc.
I. MỌI NGƯỜI PHẢI LÀM VIỆC
1. Thiên Chúa đã và đang làm việc
Thật vậy, ngay từ đầu, Kinh thánh đã cho thấy Thiên Chúa làm việc luôn. Nếu đọc chương I sách Sáng thế, chúng ta biết Thiên Chúa đã hành động để tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài, muôn vật và cả con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn thành con người… Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất đai mọc lên mọi thứ cây trồng đẹp mắt, ăn ngon miệng” (x. St 2,7-9). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để được thông phần vào sự sống của Ngài.
Thiên Chúa không chỉ làm việc trong công trình sáng tạo vào buổi khai thiên lập địa, Ngài vẫn còn tiếp tục quan phòng, gìn giữ những gì Ngài đã sáng tạo. Chính vì thế, sau này Chúa Giêsu đã nói cho người Do thái: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
2. Tổ tông đã làm việc ở vườn Địa đàng
Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng hai ông bà nguyên tổ trong vườn Đại đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn Đại đàng để “canh tác và giữ vườn”. Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.
3. Sự làm việc trở nên vất vả
Khi còn ở trong ơn nghĩa với Chúa, tổ tông làm việc trong vườn Địa đàng một cách nhẹ nhàng thảnh thơi, không cảm thấy khó nhọc vất vả. Nhưng ông bà đã nghe lời khuyến dụ của ma quỉ dưới dạng con rắn, không vâng lời Thiên Chúa dám cả gan hái trái cấm mà ăn. Ông bà đã bị Thiên Chúa ra án ohạt. Từ đó công việc làm ăn trở nên khó nhọc vất vả, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có của ăn.
Sách Sáng thế còn ghi lời Chúa:
“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Người đừng ăn”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn cho đến khi trở về bụi đất” (St 3,17-19).
Truyện: Con trâu
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau: Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo một bao hạt giống và một bao cỏ để gieo xuống rần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân cư có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mải mê xem mà quên lời dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa thì phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.
Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho ngươi trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đẩy vị thần này xuống trần gian hóa thành con trâu để giúp người trần gian cầy bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường…
Câu chuyện này phải chăng muốn nói với chúng ta: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa lại ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người phải làm việc vất vả mới có mà ăn, còn con vật thì không cần làm mà Trời vẫn cho ăn: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” (Tục ngữ).
II. Ý NGHĨA CỦA SỰ LÀM VIỆC
1. Về phương diện tôn giáo
Chúng ta biết rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế, Chúa Giêsu mới nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ”. Ngài còn nói tiếp: “Cho nên Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
Như vậy, lao động chân tay hay trí óc đều có một ý nghĩa sâu xa. Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người.
Ngoài ra, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ như lời thánh Phaolô nói: “Bằng mọi cách, tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế”.
“Lạy Chúa là Cha rất nhân hậu,
Chúa đã giao trái đất cho loài người chúng con
Trông coi và khai thác,
Để ai nấy giúp nhau tiến bộ không ngừng;
Xin dạy cho chúng con biết hoàn thành mọi công việc
Trong tinh thần hiếu thảo đối với Chúa
Và huynh đệ đối với mọi người”. (Giờ Ba, ngày thứ hai trong tuần)
2. Về phưung diện xã hội
Lao động không những giúp chúng ta có của nuôi thân, mà còn giúp làm tăng giá trị nhân phẩm của từng người chúng ta. Nhờ lao động chúng ta phát triển tình yêu thương, tinh thần tương thân tương ái, tính kỷ luật và nhanh nhẹn, như lời một danh nhân đã nói: “Lao động làm ta khuây khỏa được nỗi buồn, tiết kiệm được thời gian, chữa được bệnh lười biếng” (Giám mục Bossuet).
III. NỖ LỰC RỒI CẬY TRÔNG
Ngày xưa, cha ông chúng ta là những người nhà nông bám chặt vào mảnh đất, chuyên cần làm việc với một tinh thần cao. Quanh năm làm việc với mọi thời tiết khắc nghiệt của bốn mùa, không quản mưa nắng, quanh năm ngày tháng chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không sợ giãi nắng dầm sương. Qua kinh nghiệm làm ăn, các ngài đã khẳng định với con cháu rằng:
“Có cấy có trông, có trồng có ăn”
Các ngài rất khổ tâm với những người làm biếng không chịu làm việc, quanh năm chỉ biết ăn bám. Họ là những người đáng trách, không đáng ăn, suốt đời phải nghèo khổ, không bao giờ ngóc đầu lên được, vì:
“Tay làm hàm nhai, tay quai hàm trễ”.
Các ngài khuyên con cháu phải biết tự lực cánh sinh, phải biết đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới có miếng cơm manh áo, đừng bao giờ ỷ lại vào người khác, những gì của mình làm ra mới có giá trị, mới đáng quý, mới giữ gìn cẩn thận:
Khó nghèo cấy mướn làm thuê,
Lấy công đổi của chớ hề lụy ai..
Tuy các ngài đã biết làm việc với tất cả sức lực của mình rồi, nhưng các ngài biết rõ con người yếu đuối, sức con người có hạn nên cần có ơn trên phù giúp:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”
Đó là thái độ khiêm tốn con người cần phải có trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng cho Ông Trời mọi công việc của mình. Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giầu, có chí thì nên.
Tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót vô biên của Ông Trời, con người cứ vững tâm làm việc không ngơi nghỉ, nhưng đêm ngày vẫn ngước mắt nhìn lên Ông Trời, khấn vái xin ơn trên độ trì để cho được mưa thuận gió hòa, giúp con người có một đời sống ấm no:
Lạy Trời mưa xuống
Láy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp.
Còn đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta phải hoàn toàn phó thác cho Chúa, bởi vì mọi sự phải tùng phục quyền năng của Chúa, con người hoàn toàn bó tay nếu không có ơn trợ giúp của Chúa. Thánh vịnh 127 đã nói lên tư tưởng đó, chúng ta nên nghiền ngẫm để xác tín về điều đó:
Ví như Chúa chẳng xây nhà
Thợ nề vất vả cũng bằng uổng công.
Thành kia mà Chúa không canh giữ
Uổng công người trấn thủ canh đêm.
Bạn có thức khuya dạy sớm
Khó nhọc vất vả cũng hoài công.
Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ
Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng. (Tv 127,1-2)
Vì thế, Giáo hội dành riêng ngày Mồng Ba Tết cầu xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và công ăn việc làm, và xin “Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi”. Đây cũng là dịp để mọi người đừng nghĩ rằng của cải là do bay tay lao động của mình làm ra, còn thành quả khoa học kỹ thuật do khả năng tích lũy bởi bộ óc của con người mà có, nhưng đừng quên rằng không có gì ngoài sự giúp đỡ và quan phòng của Chúa. Tin như vậy, nên người dân quê mộc mạc với một tâm tình biết ơn đã nói một cách vô tư: “Làm bởi bay và ban bởi Ta”.
Bước sang năm mới, mỗi người sẽ dùng quĩ thời gian của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh em, vì thời gian là của Chúa ban cho con người.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc với tâm tình ca ngợi tình thương của Chúa vì tất cả đời con là ân huệ Chúa ban. Hãy sống theo lời thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Lạy Chúa,
Chúa không ngừng sáng tạo vũ trụ càn khôn,
Và muốn cho con người cộng tác vào công trình của Chúa.
Xin đưa mắt nhìn những công việc chúng con phải làm:
Ước gì những công việc đó vừa nuôi dưỡng chúng con,
Vừa mưu ích cho những người chúng con có trách nhiệm,
Lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến. (Kinh sáng, thứ ba, tuần III)
6. Mùng Ba ra mắt--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT.
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc. Công việc ba ngày Tết là:
Mùng một tết cha,
Mùng hai tết mẹ,
Mùng ba tết thầy.
Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn cho ba ngày tết có đầy đủ ý nghĩa:
Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng họ hàng.
Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.
Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.
Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để “ra ngoài ngày” (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”, nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước. (Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)
II. MÙNG BA RA MẮT.
Do “Mùng Ba tết Thầy” nên ngày này cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.
Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để “gọi là”. Nói chung, mọi công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.
Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương sớm (Sđd, tr 137-138).
III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN.
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu “Mùng Ba ra mắt”, các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật: “Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu” (St 1,26).
Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại: “cộng tác vào việc sáng tạo” của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật thiết.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:
”Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời”(Die wertprobleme, tr 43; theo J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:
“Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa... sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống “làm việc” tức là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối... Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt đối... người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân tuyệt đối”. (J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)
Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:
“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X, Đà lạt).
Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì “nhân linh ư vạn vật”. Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: “LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.
KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong thánh lễ này.
Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại...
Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.
Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.
7. Thánh hóa công việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Trong những ngày đầu xuân, chúng ta vẫn thường chúc nhau: “Năm mới làm ăn thịnh vượng. Con cháu siêng năng ngoan ngoãn…” Điều đó cho thấy người Việt Nam chúng ta rất quý trọng lao động. Trong kho tàng ca dao tục ngữ không thiếu gì những câu đề cao giá trị của lao động như: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”.
Đồng cảm với dân tộc, Giáo hội Việt Nam đã dành riêng ngày Mồng Ba Tết để xin Chúa thánh hoá và chúc lành cho công việc làm ăn trong năm mới, giúp cho người Kitô hữu hiểu rõ giá trị của lao động, lao động trí óc cũng như chân tay.
Đồng thời, nhân dịp đầu năm, Giáo hội còn nhắc nhở cho con cái mình hiểu rằng: lao động không còn là một hình phạt khổ sai, nhưng là một vinh dự vì nhờ lao động, con người được cộng tác với Thiên Chúa, Đấng vẫn luôn làm việc trong công trình sáng tạo của mình; và cũng góp phần làm cho con người được hạnh phúc.
I. MỌI NGƯỜI PHẢI LÀM VIỆC
1. Thiên Chúa đã và đang làm việc
Thật vậy, ngay từ đầu, Kinh thánh đã cho thấy Thiên Chúa làm việc luôn. Nếu đọc chương I sách Sáng thế, chúng ta biết Thiên Chúa đã hành động để tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài, muôn vật và cả con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn thành con người… Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất đai mọc lên mọi thứ cây trồng đẹp mắt, ăn ngon miệng” (x. St 2,7-9). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để được thông phần vào sự sống của Ngài.
Thiên Chúa không chỉ làm việc trong công trình sáng tạo vào buổi khai thiên lập địa, Ngài vẫn còn tiếp tục quan phòng, gìn giữ những gì Ngài đã sáng tạo. Chính vì thế, sau này Chúa Giêsu đã nói cho người Do thái: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
2. Tổ tông đã làm việc ở vườn Địa đàng
Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng hai ông bà nguyên tổ trong vườn Địa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn Địa đàng để “canh tác và giữ vườn”. Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.
3. Sự làm việc trở nên vất vả
Khi còn ở trong ơn nghĩa với Chúa, tổ tông làm việc trong vườn Địa đàng một cách nhẹ nhàng thảnh thơi, không cảm thấy khó nhọc vất vả. Nhưng ông bà đã nghe lời khuyến dụ của ma quỷ dưới dạng con rắn, không vâng lời Thiên Chúa dám cả gan hái trái cấm mà ăn. Ông bà đã bị Thiên Chúa ra án phạt. Từ đó công việc làm ăn trở nên khó nhọc vất vả, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có của ăn.
Sách Sáng thế còn ghi lời Chúa:
“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: ‘Người đừng ăn’, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn cho đến khi trở về bụi đất” (St 3,17-19).
Truyện: Con trâu
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau: Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo một bao hạt giống và một bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo bao hạt giống lúa trước để dân cư có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mải mê xem mà quên lời dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết, vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa thì phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn át làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.
Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đẩy vị thần này xuống trần gian hoá thành con trâu, để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường…
Câu chuyện này phải chăng muốn nói với chúng ta: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa lại ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người phải làm việc vất vả mới có mà ăn, còn con vật thì không cần làm mà Trời vẫn cho ăn: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” (Tục ngữ).
II. Ý NGHĨA CỦA SỰ LÀM VIỆC
1. Về phương diện tôn giáo
Chúng ta biết rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế, Chúa Giêsu mới nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ”. Ngài còn nói tiếp: “Cho nên Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
Như vậy, lao động chân tay hay trí óc đều có một ý nghĩa sâu xa. Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người.
Ngoài ra, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ như lời thánh Phaolô nói: “Bằng mọi cách, tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế”.
“Lạy Chúa là Cha rất nhân hậu,
Chúa đã giao trái đất cho loài người chúng con
Trông coi và khai thác,
Để ai nấy giúp nhau tiến bộ không ngừng;
Xin dạy cho chúng con biết hoàn thành mọi công việc
Trong tinh thần hiếu thảo đối với Chúa
Và huynh đệ đối với mọi người”.
(Giờ Ba, ngày thứ hai trong tuần)
2. Về phương diện xã hội
Lao động không những giúp chúng ta có của nuôi thân, mà còn giúp làm tăng giá trị nhân phẩm của từng người chúng ta. Nhờ lao động chúng ta phát triển tình yêu thương, tinh thần tương thân tương ái, tính kỷ luật và nhanh nhẹn, như lời một danh nhân đã nói: “Lao động làm ta khuây khỏa được nỗi buồn, tiết kiệm được thời gian, chữa được bệnh lười biếng” (Giám mục Bossuet).
III. NỖ LỰC RỒI CẬY TRÔNG
Ngày xưa, cha ông chúng ta là những người nhà nông bám chặt vào mảnh đất, chuyên cần làm việc với một tinh thần cao. Quanh năm làm việc với mọi thời tiết khắc nghiệt của bốn mùa, không quản mưa nắng, quanh năm ngày tháng chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không sợ dãi nắng dầm sương. Qua kinh nghiệm làm ăn, các ngài đã khẳng định với con cháu rằng:
“Có cấy có trông, có trồng có ăn”
Các ngài rất khổ tâm với những người làm biếng không chịu làm việc, quanh năm chỉ biết ăn bám. Họ là những người đáng trách, không đáng ăn, suốt đời phải nghèo khổ, không bao giờ ngóc đầu lên được, vì:
“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”.
Các ngài khuyên con cháu phải biết tự lực cánh sinh, phải biết đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới có miếng cơm manh áo, đừng bao giờ ỷ lại vào người khác, những gì của mình làm ra mới có giá trị, mới đáng quý, mới giữ gìn cẩn thận:
Khó nghèo cấy mướn làm thuê,
Lấy công đổi của chớ hề luỵ ai.
Tuy các ngài đã biết làm việc với tất cả sức lực của mình rồi, nhưng các ngài biết rõ con người yếu đuối, sức con người có hạn nên cần có ơn trên phù giúp:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”
Đó là thái độ khiêm tốn con người cần phải có trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng cho Ông Trời mọi công việc của mình. Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
Tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót vô biên của Ông Trời, con người cứ vững tâm làm việc không ngơi nghỉ, nhưng đêm ngày vẫn ngước mắt nhìn lên Ông Trời, khấn vái xin ơn trên độ trì để cho được mưa thuận gió hoà, giúp con người có một đời sống ấm no:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp.
Còn đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta phải hoàn toàn phó thác cho Chúa, bởi vì mọi sự phải tùng phục quyền năng của Chúa, con người hoàn toàn bó tay nếu không có ơn trợ giúp của Chúa. Thánh vịnh 127 đã nói lên tư tưởng đó, chúng ta nên nghiền ngẫm để xác tín về điều đó:
Ví như Chúa chẳng xây nhà
Thợ nề vất vả cũng bằng uổng công.
Thành kia mà Chúa không canh giữ
Uổng công người trấn thủ canh đêm.
Bạn có thức khuya dậy sớm
Khó nhọc vất vả cũng hoài công.
Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ
Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng. (Tv 127,1-2)
Vì thế, Giáo hội dành riêng ngày Mồng Ba Tết cầu xin Chúa thánh hoá ruộng vườn, mùa màng, cây cối và công ăn việc làm, và xin “Chúa gieo màu mỡ ngập tràn lối đi”. Đây cũng là dịp để mọi người đừng nghĩ rằng: của cải là do bàn tay lao động của mình làm ra, còn thành quả khoa học kỹ thuật do khả năng tích lũy bởi bộ óc của con người mà có, nhưng đừng quên rằng: không có gì ngoài sự giúp đỡ và quan phòng của Chúa. Tin như vậy, nên người dân quê mộc mạc với một tâm tình biết ơn đã nói một cách vô tư: “Làm bởi bay và ban bởi Ta”.
Bước sang năm mới, mỗi người sẽ dùng quỹ thời gian của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh em, vì thời gian là của Chúa ban cho con người.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc với tâm tình ca ngợi tình thương của Chúa vì tất cả đời con là ân huệ Chúa ban. Hãy sống theo lời thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Lạy Chúa,
Chúa không ngừng sáng tạo vũ trụ càn khôn,
Và muốn cho con người cộng tác vào công trình của Chúa.
Xin đưa mắt nhìn những công việc chúng con phải làm:
Ước gì những công việc đó vừa nuôi dưỡng chúng con,
Vừa mưu ích cho những người chúng con có trách nhiệm,
Lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.
(Kinh sáng, thứ ba, tuần III)
8. Bông hoa ngày Tết-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay ngay Mồng Ba Tết Ất dậu. Chúng ta đã dùng ngày Mồng Một để cảm tạ Chúa và cầu bình an cho năm mới, ngày Mồng Hai để báo hiếu ông bà cha mẹ, và ngày Mồng Ba Tết hôm nay, Hội thánh nhắc nhở cho chúng ta hãy biết thánh hoá công việc làm ăn trong năm mới. Cần hiểu rằng Lao động không phải là một tạp dịch khổ sai, mà đứng về phương diện thần học, thì nó là một vinh dự, vì nhờ Lao động mà con người được tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Ba ngày Tết sắp hết, các bông hoa bắt đầu tàn. Nhìn những bông hoa đó tôi nảy ra một ý nghĩ: mọi sự sẽ qua đi. Điều đó làm cho tôi nhớ lại một câu trong sách Giảng viên: “Omnia tempus habent: mọi sự đều có thời giờ của nó (Gv 3,1), và tự đặt dấu hỏi chúng ta sẽ dùng thời giờ Chúa ban cho trong năm mới này để làm được những gì?
I. SỐ PHẬN BÔNG HOA.
Hôm 30 Tết người ta đẩy xe hoa đi bán trong khắp thành phố. Hoa nhiều lắm: đủ mọi loài hoa, đủ mầu, hương sắc, ai mua thứ nào cũng có. Nhà nào cũng có hoa chưng ngày Tết.
Hôm nay cũng trên đường phố của ngày 30 Tết hôm đó, những người phu hót rác đang đẩy những chiếc xe rác để thu gom cơ man là hoa đã tàn, đã thành rác đem đi dổ.
Ôi! Hương sắc của hoa hôm qua, bây giờ héo úa tàn tạ, phải mau mau tống khứ. Chờ xe hoa truớc Tết và đợi xe rác khi Tết đã tận. Hôm trước nâng niu, hôm sau phế bỏ. Có gì bền vững đâu. Cuộc sống nghiệt ngã thật. Nhưng hoa và rác đều im lặng. Im lặng tỏa hương và phô sắc làm đẹp cho chiếc bàn nhỏ và im lặng bước lên xe rác chờ ngày tái sinh trong kiếp hoa sau. Đúng là:
Phù hoa nối tiếp phù hoa,
Chi chi chăng nữa cũng là phù hoa. (Gv 1,2)
II. SỐ PHẬN CON NGƯỜI.
Nhìn thấy cảnh người phu đi hót rác, đang hốt những bông hoa tàn bỏ lên xe, tôi liên tưởng đến số phận con người. Và tôi muốn suy gẫm câu đáp lễ cầu hồn:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích. (Tv 102, 111115-16)
Đời sống con người giống như bông hoa sớm nở chiều tàn: thật mỏng manh, thật ngắn ngủi. Vì thế người xưa đã nói:
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Vì cuộc đời nhắn ngủi nên người ta mới mừng thọ vào tuổi 60, mừng thượng thọ vào tuổi 70. Ngày nay người ta tuy sống thọ hơn, hơn 70 tuổi, nhưng có sống đến 930 tuổi như ông Adam hay 969 tuổi như ông Mathusalem thì cũng chẳng là gì so với đời đời.
Tại nghĩa trang chúng ta đang sống đây (Thánh lễ tại nghĩa trang), mỗi năm chúng ta lại chứng kiến đô tùy đẩy chiếc xe tang tới đây và gửi một người vào trong lòng đất và hiện họ đang nằm ở đây.
Ôi! số phận con người thật mỏng manh. Nay mai sẽ có xe tang đem một người nào đó đến gửi xác ở đây.
III. CON NGƯỜI VÀ THỜI GIỜ.
1. Chủ của thời giờ.
Thiên Chúa là chủ thơi gian, Ngài ban phát thời giờ cho từng người, mỗi người bao nhiêu tùy ý. Khi ban thời giờ cho chúng ta sống, Thiên Chúa hết sức tiết kiệm, chỉ ban cho chúng ta một cách nhỏ giọt: ban từng giây, từng phút, ban từng giờ từng ngày. Chúa lấy lại giây phút trước rồi mới ban cho chúng ta giây phút sau. Giầu sang vô biên như Chúa, mà không bao giờ Chúa ban cho ta cùng một lúc hai giây, hai phút.
Dù là Giáo hoàng, hồng y, giám mục, dù là hoàng đế hay tổng thống, trong một năm Chúa chỉ ban cho có 31.563.000 giây, dùng từng giây một, hết giây này Chúa mới ban cho giây khác. Không ai có thể làm chủ thời gian, không ai có thể níu kéo thời gian lại và thời gian trôi đi sẽ không bao giờ trở lại.
2. Thời giờ chóng qua.
Ai cũng có kinh nhgiệm về sự chóng qua của thời gian vì nó qua đi một cách rất vô tư:
Thời giờ thấm thoát thoi đưa,
Nó đi đi mãi, có chừa ai đâu.
Ở đời này không có gì chóng qua bằng thơi giờ, và vì nó chóng qua như vậy nên nhiều hình ảnh đã được đem ra so sánh với thời giơ. Theo Thánh Kinh:
. Thời giờ trôi qua nhanh hơn kẻ chạy đua (G 9,25-26).
. Sống được 70, 80 tuổi là cùng (Kn 2,4-5).
. Thời gian không trở lại (Gv 11,7-10)
Trong văn chương có nhiều hình ảnh diễn tả, thời giờ được ví như:
- Mũi tên bay
- Tia chớp loé lên.
- Áng mây trôi.
- Con thoi thợ dệt.
- Một giấc mơ:
Đời người như giấc chiêm bao
Nghìn xưa đã thấy ai nào trăm năm.
- Hoa sớm nở chiều tàn:
Đời người khác thể là hoa,
Sớm còn tối mất hoá ra lỡ làng.
3. Hãy quí trọng thời giờ.
Thời giờ không nằm trong tầm tay chúng ta để chúng ta muốn làm gì thì làm, mà phải ở trong tay Chúa, Chúa ban cho bao nhiêu thì được bấy nhiêu và Chúa sẽ tính sổ với chúng ta về số thời giờ Ngài đã ban cho như cái vốn để chúng ta phải làm sinh sôi nảy nở ra các việc lành phúc đức.
a) Thời giờ rất qúi báu.
Không gì qúi bằng máu Chúa đã đổ ra để cứu chuộc chúng ta, mà thời giờ là giá máu Chúa Giêsu đã đổ ra để cứu chuộc chúng ta. Những kẻ chịu phạt đời trong hỏa ngục, chỉ cần trở lại trần gian này được một giây thôi, thì cũng đủ để cho họ được lên thiên đàng.
b) Hãy biết dùng thời giờ.
Theo một cuộc điều ta được tiến hành nơi một số người sống đạo một cách lơ là, trong một năm họ có 8760 giờ:
. họ đi lui đi tới, mất 260 giờ.
. họ nói chuyện với người khác, mất 310 giờ.
. họ tắm rửa và sửa sắc dđẹp, mất 620 giờ.
. họ ăn uống, mất 930 giờ.
. họ ngủ nghỉ, mất 2.900 giờ.
. họ dành cho các việc đạo đức: 25 giờ.
c) Hãy biết dùng thời giờ.
Chúng ta hãy qúi trọng thời giờ Chúa ban cho chúng ta sống. Chúng ta phải tin rằng: trong mỗi giây, mỗi phút Chúa ban cho chúng ta sống, Chúa đều kèm theo một ơn đặc biệt trong mỗi giây phút đó. Chúng ta phải biết rằng Chúa chỉ ban cho chúng ta sống giây phúc hiện tại mà thôi,
Những giây phút trong cuộc đời chúng ta trôi qua, không phải để biến mất, nhưng để nhập vào kho đời đời của chúng ta sau này: kho thiên đàng đời đời hạnh phúc, kho hoả ngục trầm luân muôn kiếp.
Chúng ta hãy xác tín rằng: giá trị của một đời người không chủ tại sống lâu năm trên trần gian này, nhưng chủ tại sống sâu đậm cuộc đời của họ. Trước mặt Chúa, giá trị của đời sống chúng ta không nằm trong chiều dài của thời gian, nhưng nằm trong chiều sâu của thời gian. Một người chết trẻ, chết sớm nhưng đã biết dùng thời giờ Chúa ban trong đời sống mình để yêu mến Chúa, để làm tôi Chúa, để sống đẹp lòng Chúa, thì có giá trị trước mặt Chúa hơn là một người sống lâu năm nhưng đã không dùng thời giờ Chúa ban để yêu mến Chúa hết lòng, để sống đẹp lòng Chúa mọi bề.
Bởi đó, điều quan trọng đối với chúng ta, không phải là được sống lâu năm trên đời này, nhưng điều quan trọng là Chúa ban cho đực sống năm tháng ngày giờ nào, thì dùng thời giờ Chúa ban cho để hết tình yêu mến Chúa, để hết lòng phụng sự Chúa, để hoàn toàn hy sinh và hiến thân cho Chúa.
Trong năm mới này, chúng ta hãy ra sức làm việc không phải chỉ kiếm cho có cơm ăn áo mặc mà còn phải làm sáng danh Chúa như lời thánh Phaolô đã nói: “Dù anh em ăn, dù anh em ngủ nghỉ, dù làm bất cứ việc gì, hãy làm cho sáng danh Chúa”.
KẾT LUẬN.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khôn ngoan để biết tính sổ ngày đời của chúng ta, biết dùng thời giờ cho nên thời giờ Chúa đã ban cho: “Xin dạy chúng con biết tính sổ ngày đời chúng con, ngõ hầu chúng con đem được khôn ngoan vào lòng “ (Tv 9012).
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết thánh hoá thời giờ mà Chúa ban cho chúng ta sống ngày hôm nay: “Hôm nay, phải chi các ngươi nghe tiếng Người: “Chớ cứng lòng như tại Meriba, như ngày Massa trong sa mạc, nơi mà tổå tiên các ngươi khiêu khích Ta, chúng thử thách Ta, dù đã chứng kiến công việc Ta làm” (Tv 95,7-9)..
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn luôn tỉnh thức để đón chờ giờ Chúa đến, giờ chúng ta chết để gặp gỡ Chúa: “Các con hãy tỉnh thức vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến”(Mt 24,42).
Ngày Tết mà có những suy tư như trên, xem ra có vẻ bi quan, nhưng nó thực tế, nhất là sau trận động đất và sóng thần đã xẩy ra ngày 26.12.2004. Trình bầy những suy nghĩ riêng tư như thế chỉ có ý nhắc nhở cho chúng ta: trong năm mới này hãy tích cực lao động để góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi nhiều người, đừng để cho một giây phút nào trôi đi vô ích.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này ne6u cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa.
9. Cầu nguyện cho việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ngày mồng ba Tết, chúng ta cầu nguyện cho việc làm ăn trong năm mới được thịnh đạt, đồng thời cũng xin Chúa thánh hóa chúng ta qua cuộc sống lao động hằng ngày.
I. Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện cho việc làm ăn?
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều người tưởng rằng mình đã chiếm được chỗ đứng của Thiên Chúa. Có một thời chúng ta thường nghe thấy người ta nói: Thằng trời xếp lại một bên, để cho nông hội tiến lên làm Trời! Hoặc những câu như biến sỏi đá thành cơm gạo, thay trời làm mưa.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy nếu Chúa không cho thì chúng ta chẳng làm được gì. Nhiều cơn động đất và sóng thần cũng như dịch cúm gà, cơn dịch Covid 19 đang làm cho cả thế giới hôm nay phải đảo điên là bài học rất quí giá cho chúng ta. Chính vì thế mà người xưa đã có câu: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Người nông dân ý thức được thân phận của mình nên đã cầu xin: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp.
Về vấn đề bày thánh Phaolô viết rất hay: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên. Vì thế ngày mồng ba tết chúng ta cầu nguyện cho việc cày cấy làm ăn là phải lẽ, vì không có Thiên Chúa thì: người lính canh đêm cũng hoài công.
Một vị linh mục nọ qua đời, và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để làm một thẩm tra. Thánh Phêrô hỏi:
- Ở dưới thế cha làm được điều gì?
Vị linh mục nhanh nhẹn và tự hào trả lời:
- Thưa thánh Phêrô, con xây được một ngôi thánh đường lớn.
Thanh nhân lấy bút ghi trên giấy: Một điểm.
- Cha còn làm được gì nữa?
- Dạ, con còn xây một trường học cho một ngàn học sinh.
Thánh Phêrô ghi tiếp: một điểm.
- Và gì nữa?
Vị linh mục bắt đầu suy nghĩ, rồi trả lời:
-Dạ, con công tác nhiều vào các công việc xã hội, từ thiện.
Thánh Phêrô ghi thêm: một điểm.
- Còn gì nữa? Thánh Phêrô hỏi tiếp.
Lần này vị linh mục lo lắng hỏi thánh Phêrô:
- Dạ thưa thánh cả Phêrô, được bao nhiêu điểm thì vào thiên đàng?
Thánh Phêrô vui vẻ trả lời: một ngàn điểm.
Nghe nói thế, vị linh mục bỗng chột dạ, nghĩ thầm: “Chết mình rồi, làm sao có được chừng ấy điểm đây?” Nếu có moi óc kể tất cả các sự việc mình làm ở dưới thế e cũng không đủ…”
Và vị linh mục bắt đầu lo sợ, rồi thất vọng, không còn tự tin.
Trong lúc đó, thánh Phêrô nhắc lại:
- Cha còn làm được điều gì nữa, cứ kể hết đi!
Với giọng nói nhuốm màu sắc khiêm tốn và lo sợ, vị linh mục nói:
-Thưa thánh cả, Nhờ Ơn Chúa con cũng làm được đôi ba việc nhỏ.
Nghe vậy, thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: một ngàn điểm.
Ngài nói:
-Thế là cha được một ngàn lẻ ba điểm rồi đấy. Cha đã dư được ba điểm. Mời cha vào!
Phải! Tất cả là nhờ ơn Chúa.
II. Những giá trị của lao động.
Chúa Giêsu đã nói: Cha Ta hằng làm việc, và Ta cũng vậy. Khi quả quyết như thế Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: lao động làm việc là qui luật của tình yêu và cũng là qui luật của sinh tồn.
*Làm việc là qui luật của Tình yêu
Thiên Chúa đã không dựng nên một vũ trụ hoàn hảo mà Người đã chỉ dựng nên một vũ trụ còn dang dở. Người muốn con người cộng tác với Người để làm cho công trình của Người càng ngày càng hoàn hảo hơn. Trong bài đọc (sách sáng thế), tác giả nói: “Sau khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt nó trong vườn địa đàng, không phải chỉ để hưởng thụ, mà còn để canh tác giữ vườn”. Như thế làm việc là sứ mạng cao cả Thiên Chúa đã giao cho con người ngay từ khi mới tạo dựng nên nó và khi làm việc là con người thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Nếu con người không làm việc thì quả họ đã không chu toàn được sứ mạng của mình. Điều này chính mỗi người phải quyết định cho mình. Nếu không muốn làm việc thì con người có muôn vàn cái cớ để thoái thác. Nhưng nếu đã muốn làm việc thì họ chẳng sợ bất cứ một trở ngại nào.
Một ông chủ kia giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa một khúc cây.
Người thứ nhất nói: khúc cây của tôi còn tươi quá, nguyện lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho đến khi khúc cây đó khô rồi tôi mới cưa, thế là anh ta nghỉ.
Người thứ hai: lưỡi cưa của tôi cùn quá, tôi chờ ông chủ đổi cho tôi lưỡi cưa khác bén hơn rồi tôi mới cưa. Và anh ta cũng nghỉ.
Người thứ ba: khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc cây khác thẳng hơn. anh cũng đi nghĩ.
Người thứ bốn: khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần khúc cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh ta cũng nghỉ.
Người thứ năm: hôm nay trời nóng quá, đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Anh ta cũng nghỉ.
Người thứ sáu: hôm nay tôi nhức đầu, đợi tới khi nào khỏi tôi mới cưa. Và anh ta cũng nghỉ.
Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt nó cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và anh đó cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh ta đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công các được giao.
Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa. (A.R Wells)
Vâng! Dù ở vườn địa đàng, Ađam cũng vẫn phải “canh tác”. Cuộc sống ở địa đàng rất hạnh phúc, nhưng cái hạnh phúc ấy con người phải “canh tác”, nghĩa là phải ra tay kiến tạo. Chính trong lúc làm việc con người mới cảm thấy hạnh phúc. Ngôi vườn hạnh phúc con người phải “giữ gìn” bằng việc làm của mình.
* Đàng khác làm việc còn là qui luật của sinh tồn.
Lao động ngoài mục đích giúp ta thánh hóa cuộc sống, nó còn có mục đích giúp bảo tồn cuộc sống của chúng ta.
Trong Kho tàng những câu chuyện ngụ ngôn người ta đọc được câu chuyện này:
Một người nông dân nọ có một con lừa già. Một hôm con lừa bị rơi xuống giếng và đau đớn kêu la thống thiết. Sau khi cẩn thận đánh giá tình hình, dù rất thương cảm cho con lừa, nhưng người nông dân cũng phải quyết định nên nhanh chóng giúp nó kết thúc sự đau đớn. Anh gọi thêm mấy người hàng xóm để cùng lấp đất chôn con lừa với ông.
Lúc đầu con lừa bị kích động vì những gì người ta đang làm đối với nó. Nhưng khi từng xuổng từng xuổng đất tiếp theo nhau rơi trên vai nó, một ý nghĩ chợt lóe lên:
Cứ mỗi lần xuổng đất rơi xuống đè lên vai, mình sẽ lắc cho đất rơi xuống và bước lên trên.
Và nó đã làm như vậy, từng chút từng chút một.
Hất nó xuống và bước lên trên, hất nó xuống và bước lên trên, hất nó xuống và bước lên trên – con lừa lặp đi lặp lại để tự cổ vũ mình.
Mặc cho sự đau đớn phải chịu sau mỗi xuổng đất. Mặc cho sự bi đát cùng cực của tình huống đang gánh chịu, con lừa liên tục chiến đấu chống lại sự hoang mang, hoảng sợ, và tiếp tục theo đúng phương châm “hất nó xuống và bước lên trên”.
Không mất nhiều thời gian, cuối cùng con lừa già, dù bị bầm dập và kiệt sức, đã hoan hỉ và đắc thắng bước ra khỏi cái giếng. Những gì tưởng như sẽ đè bẹp và chôn sống nó, trên thực tế đã cứu sống nó… đều là nhờ cái cách mà con lừa đối diện với nghịch cảnh của mình.
Cuộc sống là như vậy đó. Nếu chúng ta đối mặt với những vấn đề của mình một cách tích cực, khước từ sự hoảng loạn, sự cay đắng và sự thương hại…, những nghịch cảnh tưởng như chôn vùi chúng ta sẽ tiềm ẩn trong chính nó những phần thưởng không ngờ tới. Hãy “Hất nó xuống và bước lên trên”, để bước ra khỏi cái giếng mà bạn đang gặp phải.(Nước Biếc.)
Cuộc đời đâu phải là thiên đàng. Đâu có phải lúc nào cuộc đời cũng trải thảm đỏ để chào đón chúng ta. Cuộc đời là một bãi chiến trường. Nó đang chờ đợi chúng ta bước vào với tinh thần chiến đấu. Hãy can đảm đối đầu với mọi khó khăn trong cuộc sống đừng lẩn tránh. Thái độ lẩn tránh chẳng khác gì thái độ đầu hành. Khi nói về việc Giêsu vác Thánh Giá lên đỉnh đồi Golgotha, một nhà văn hào của Pháp đã nói: Đồi Canvê ở đầu đường và vinh quang cũng xuất hiện ở đó” Hãy hất xuống và bước lên trên cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn. Amen.
10. Thánh hóa công việc: Ga 5,16-20--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và “những người do thái” (phải hiểu là những người biệt phái) tranh luận với nhau. Lý do là “vì Ngài hay chữa bệnh ngày sabát” (câu 16).
Những người biệt phái hiểu luật về ngày sabát một cách rất hẹp hòi: ngày đó người ta phải nghỉ làm việc, không cần phân biệt việc gì cả. Thực ra mục đích của khoản luật về ngày sabát là để giải phóng con người, cho nên chỉ cần nghỉ những việc lao động nào có tính cách nô lệ hóa con người (travail servile).
Những người biệt phái cho rằng chính Thiên Chúa cũng nghỉ làm việc ngày sabát. Thực ra Thiên Chúa chỉ ngưng công việc sáng tạo, còn việc quan phòng thì Ngài vẫn tiếp tục mãi. Bởi đó Chúa Giêsu nói “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc”. Chúa Giêsu còn nói thêm rằng bởi thế “Tôi cũng làm việc” (câu 17).
B.... nẩy mầm.
1. Bắt đầu một năm mới, chúng ta nên suy nghĩ lại về ý nghĩa và mục đích và của việc làm. Nhiều người chỉ biết làm để ăn, và ăn để làm, cứ xoay mãi trong cái vòng lẩn quẩn ấy cho đến lúc nhắm mắt buông tay.
- Trong bài đọc I (Sách Sáng thế), tác giả nói: sau khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt nó trong Vườn địa đàng, không phải chỉ để hưởng thụ, mà là đề “canh tác và giữ vườn”. Như thế làm việc là sứ mạng cao cả Thiên Chúa đã giao cho con người ngay từ khi mới tạo dựng nên nó. Dù ở vườn Địa đàng, Adam vẫn phải “canh tác”. Cuộc sống ở Địa đáng rất hạnh phúc, nhưng cái hạnh phúc ấy con người phải “canh tác”, nghĩa là phải ra tay kiến tạo. Chính trong lúc làm việc, con người mới cảm thấy hạnh phúc. Ngôi vườn hạnh phúc ấy, con người phải “gìn giữ” bằng việc làm của mình.
- Gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng: a/ Ngài làm việc để cộng tác vào công trình sáng tạo và quan phòng của Thiên Chúa ; b/ Ngài không chỉ làm việc cho bản thân Ngài hưởng, mà còn làm việc để cứu giúp người khác (“Ngài hay chữa bệnh ngày sabát”).
- Có một số người lười biếng không chịu làm việc. Một số khác làm việc chỉ để cho bản thân và một ít người thân của mình. Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thêm rằng làm việc còn có giá trị cộng tác vào công trình sáng tạo và quan phòng của Thiên Chúa (chiều kích đạo đức), và làm việc để cứu giúp những người khác nữa (chiều kích xã hội).
2. Những cái cớ để lười biếng: Ông chủ giao cho bảy người thợ cưa mỗi người phải cưa một khúc cây.
- Người thứ nhất nói: Khúc cây của tôi còn tươi quá, e lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho tới khi nó khô thì mới cưa. Thế là anh đi nghỉ.
- Người thứ hai: Lưỡi cưa của tôi cùn quá rồi. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi một lưỡi cưa sắc bén hơn rồi mới cưa. Và anh cũng đi nghỉ.
- Người thứ ba: Khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.
- Người thứ tư: Khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần loại cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh cũng đi nghỉ.
- Người thứ năm: Hôm nay trời nóng quá. Đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Và anh cũng nghỉ.
- Người thứ sáu: Hôm nay tôi nhức đầu. Đợi tới khi nào khỏi, tôi mới cưa. Và anh cũng nghỉ.
- Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và hôm đó anh cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài sắc, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh làm việc đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công tác được giao.
Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa nữa. (A.R. Wells)
3. Cửa sổ hoặc tấm gương: Một người do thái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh đến bên cửa sổ và nói: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ ông thấy gì trong tấm gương ?” - “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi”.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học: “Này nhé, tấm gương được làm bằng kính, phía sau phủ một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đàng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ, ông đã thấy được những người khác. (Trích "Món quà giáng sinh").
11. Cầu nguyện cho công ăn việc làm--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Sau mấy ngày nghỉ ngơi vui Tết, chúng ta sẽ trở lại với công ăn việc làm thường ngày. Chúng ta hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ này và tha thiết cầu xin Chúa cho những việc làm của chúng ta vừa thánh hóa bản thân chúng ta, vừa đem lại những của cải vật chất nuôi sống gia đình chúng ta, vừa giúp chúng ta có điều kiện phục vụ tha nhân và xã hội.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Nhiều khi chúng ta lười biếng không làm việc.
Nhiều khi chúng ta làm những việc bất chính, không theo lương tâm, không hợp lẽ công bình.
Ít khi chúng ta quan tâm làm việc để phục vụ tha nhân và xã hội.
III. GỢI Ý GIẢNG
1. Thánh hóa công ăn việc làm St 1,11-12 ; Ga 5,1-18
Ngày mùng ba tết đã được giáo quyền dành ra để thánh hóa công ăn việc làm.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói:"Cho đến nay, cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".
Mở đầu, Thiên Chúa đã làm việc trong sáu ngày để tạo dựng nên vũ trụ. "Cho đến nay, cha tôi vẫn làm việc". Thiên Chúa hằng làm việc để duy trì gìn giữ công trình tạo dựng bao la kỳ vĩ của Ngài. Hằng ngày, chim trời vẫn ca hót líu lo, cá biển vẫn tung tăng bơi lợi, bông huệ ngoài đồng vẫn nở đẹp và không ngừng tỏa hương thơm. Mặt trời vẫn lên để làm cho đồng lúa chín vàng rực. Sóng biển vẫn ầm ào vỗ vào bờ cát và con người vẫn sống vui tươi...
Thiên Chúa vẫn làm việc và tôi (Đức Giêsu) vẫn làm việc. Ngài đi khắp nơi rao giảng về vương quốc công bình tình thương của Thiên Chúa, làm các dấu lạ, chữa các tật bệnh phần hồn phần xác cho người đời.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người cũng cần chăm chỉ làm tốt công việc hằng ngày của mình.
Có những người làm việc quên chết để trở nên giàu có và nổi tiếng, như các chính khách, các cầu thủ, các ca sĩ, các ngôi sao thể thao... Họ là những con người thành đạt, được người đời hăm mộ. Nhưng như ông Albert Einstein nhận định:"Con người thành đạt là một con người đã nhận rất nhiều ân huệ từ đồng loại mình, thường là nhiều vô kể so với cái anh chị ta đáp lại đồng loại mình. Giá trị của một con người ở nơi khả năng dâng tặng, chứ không phải ở khả năng lãnh nhận".
Vậy ý nghĩa của sự làm việc, ngoài mục đích mưu sinh, còn là để góp phần với đồng bào đồng loại, làm cho xã hội ta sống phát triển ngày một cao hơn về hai mặt tâm linh lẫn vật chất.
Ngày mùng ba là ngày nghỉ chót, chúng ta chuẩn bị bắt đầu lại một năm làm việc cần mẫn. Thánh hóa công ăn việc làm, chính là mặc cho nó một ý nghĩa, đó là: làm việc để phục vụ. Phục vụ mình, phục vụ gia đình, và nhất là phục vụ đồng bào đồng loại. (CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh 99)
2. Cảm nghĩ đầu xuân
Bầu khí của những ngày đầu năm rất đặc biệt khiến cho lòng chúng ta nao nao và gợi lên trong ta nhiều cảm nghĩ.
--Cảm thấy lòng mình nao nao vì cảnh kẻ đến người đi
Cõi đời này giống như một sân khấu và người đời giống như những diễn viên. Mỗi diễn viên được đạo diễn dành cho một khoảng thời gian diễn xuất trên sân khấu cuộc đời. Diễn xong thì rút lui nhường chỗ cho diễn viên khác bước lên. Nhưng có một điều không hoàn toàn giống sân khấu, đó là cuộc đời không phải chỉ là đóng kịch. Bởi vậy điều quan trọng không phải là mình đóng vai chính hay vai phụ và thời gian đóng của mình dài hay ngắn, nhưng là mình có đóng trọn vai trò của mình đúng ý đạo diễn hay không, mình có hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa đã giao cho mình thực hiện trong khoảng thời gian mà Thiên Chúa ban cho mình ở cõi đời này hay không.
--Nghĩ tới vai trò và sứ mạng của mình
Tôi không được biết vị Đạo diễn đời tôi là Thiên Chúa sẽ dành cho tôi bao nhiêu thời gian. Nhưng tôi biết chắc Chúa cho tôi thời gian sống không phải chỉ để ăn để ngủ để vui chơi và để hưởng thụ, mà để đóng trọn vai tuồng của mình, để hoàn thành nhiệm vụ Ngài giao. Sự có mặt của tôi trên sân khấu đời này không phải chỉ làm cho đời này tốn thêm một phần cơm áo, không phải để bắt một số người phải cực nhọc phục vụï tôi, phải khổ sở vì tính tình ích kỷ khó chịu của tôi. Trái lại Chúa muốn sự có mặt của tôi trên đời sẽ làm cho đời được tốt đẹp hơn, những người sống chung với tôi được hạnh phúc hơn. Chúa cho tôi sống trên đời là để tôi làm đúng theo ý Chúa, và sứ mạng của tôi là góp phần làm cho Nước Chúa trị đến.
Lời Chúa khuyên trong Tin Mừng thật chí lý: Chúng con đừng mãi lo sẽ ăn gì uống gì mặc gì, cũng đừng lo làm sao kéo dài mạng sống của mình. Tiên vàn chúng con hãy lo tìm sự công chính (tức là tìm làm theo thánh ý Chúa) và xây dựng Nước Chúa. Rồi mọi sự khác Cha sẽ lo cho chúng con. Khi nào màn kịch của đời tôi chấm dứt, vị Đạo diễn Thiên Chúa sẽ đánh giá đời tôi: Ngài không đánh giá xem tôi sống ở đời dài hay ngắn, tôi làm ăn có khá không, nhưng chỉ đánh giá xem tôi có dùng thời gian Ngài ban để làm đúng ý Ngài và để góp phần xây dựng Nước Chúa không. Rồi Ngài sẽ thưởng phạt tôi. Một khoảng thời gian ngắn ngủi trên đời sẽ là thước đo định đoạt số phận của tôi muôn đời.
--Nghĩ rằng thời gian dành cho mình đang hết dần
Khi tôi đi nhổ một cái răng hư, tôi chợt nghĩ "Thế là một phần cơ thể của mình đã từ giã mình ra đi". Khi tôi mua mắt kiến để đọc chữ cho được rõ hơn, tôi tự nhủ "Thêm một phần cơ thể của mình suy yếu nữa". Và khi bác sĩ cho tôi biết bao tử của tôi đang có vấn đề, tôi lại nghĩ "Đây là tiếng còi báo hiệu chuyến tàu đời mình đã đi xong một chặng đường nữa để dần dần tiến đến chặng cuối". Thực vậy, mỗi một phần cơ thể bị bệnh đều là những tiếng Chúa nhắc chúng ta nhớ rằng mình không sống mãi, mình đang tiến dần đến cái chết. Những người hơi cao tuổi chắc cảm nghiệm điều này rõ hơn.
Nhưng chúng ta không nên sợ, trái lại càng phải cám ơn Chúa, vì nếu Ngài không nhắc để rồi đột ngột một ngày nào đó Ngài gọi chúng ta vĩnh viễn ra đi thì chúng ta sẽ chới với rụng rời. Ra đi vào cõi đời đới mà không kịp chuẩn bị hành trang gì cả, đó mới là đáng sợ. Bởi đó chúng ta phải cám ơn Chúa vì những tiếng chuông nhắc nhở của Ngài cho chúng ta lo chuẩn bị. Chuẩn bị thế nào " Tiên vàn chúng con hãy tìm làm theo ý Chúa và góp phần xây dựng Nước Ngài, rồi mọi sự khác Chúa sẽ lo cho chúng con".
2. Cần lao St 1,11-12 ; Ga 5,1-18
Ca dao có câu "Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu trồng khoai trồng cà". Có lẽ thời trước người ta nhàn hạ hơn nên dám bỏ ra cả một tháng để "ăn chơi". Còn thời nay chúng ta chỉ ăn Tết một vài ngày. Nhưng dù xưa hay nay, dù ăn Tết cả một tháng hay chỉ một vài ngày thì sau đó cũng phải làm việc trở lại.
Nghĩ đến công việc phải làm trong năm mới, có người thì ngao ngán, nhưng dù ngán cũng vẫn phải làm ; có người thì dửng dưng chẳng suy nghĩ gì cả, làm thì làm vậy thôi. Phần chúng ta, Giáo Hội dành ra ngày mồng 3 Tết để cầu nguyện cho công ăn việc làm trong năm. Hôm nay chúng ta hãy dựa vào Lời Chúa để suy nghĩ về việc làm của chúng ta trong năm sắp tới.
Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng 2 ông bà nguyên tổ trong vườn Địa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn địa đàng để "canh tác và giữ vườn". Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải "canh tác" nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải "giữ vườn" nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.
Như vậy, bài trích sách Sáng thế cho ta thấy mục đích thứ nhất của việc làm là để tạo ra hạnh phúc và gìn giữ hạnh phúc cho mình. Nói cách khác, mục tiêu thứ nhát của làm việc là "vì mình" và những người thân trong gia đình mình.
Còn bài Tin Mừng thì ghi lại một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái. Vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát nên những người biệt phái trách rằng Ngài vi phạm luật nghỉ làm việc trong ngày đó. Để trả lời họ, Chúa Giêsu nói "Cha tôi vẫn làm việc luôn, cho nên tôi cũng làm việc". Trong cuộc tranh luận này, cách suy nghĩ của những người biệt phái và Chúa Giêsu khác nhau.. Những người biệt phái chỉ biết có mỗi một việc làm của Thiên Chúa là tạo dựng, sau khi tạo dựng xong trời đất muôn vật thì Thiên Chúa nghỉ ngơi. Suy nghĩ như thế thật thiếu sót. Chúa Giêsu cho biết thêm rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế Chúa Giêsu nói "Cha tôi làm việc liên lỉ". Ngài còn nói tiếp "Cho nên tôi cũng làm việc". Chúa Giêsu làm việc gì ? Thưa Ngài giảng dạy và cứu chữa những người bệnh tật đau khổ.
Như vậy, Chúa Giêsu cho ta hiểu việc làm còn có mục đích thứ hai nữa, là "vì người khác", đặc biệt là những người khốn khổ. Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ hơn một số điều:
**Thứ nhất, làm việc là điều tốt đẹp cao cả. Ngay từ khi mới tạo dựng con người, dù Thiên Chúa cho nguyên tổ được sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng, nhưng nguyên tổ vẫn phải canh tác và gìn giữ hạnh phúc được tượng trưng bằng khu vườn Địa đàng ấy. Chúa Giêsu và ngay cả Thiên Chúa cũng phải làm việc liên lỉ. Huống chi là chúng ta.
**Thứ hai, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc, không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ. Phải thành thật nhìn nhận rằng từ trước tới nay, chúng ta làm việc hầu như chỉ nhắm đến mỗi một mục tiêu là "vì mình" chứ không nhắm đến "vì người khác".
Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc.
- Xin Chúa giúp chúng ta cảm thấy hạnh phúc trong công việc
- Xin Chúa giúp để việc làm của chúng ta đem lại đủ nuôi sống bản thân và gia đình chúng ta.
- Xin Chúa mở rộng lòng, rộng tay của chúng ta để chúng ta biết chia sẻ thành quả công việc cho những người túng thiếu.
3. Xin gì dịp đầu năm ? Mt 6,31-34
Trong những ngày đầu năm, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều có chung một ước muốn, đó là xin Chúa ban ơn cho mình trong năm mới. Phần Chúa thì chắc hẳn cũng sẵn sàng ban ơn cho chúng ta. Vậy hôm nay chúng ta nên xin gì ?
Một người kia cứ xin Chúa ban ơn hoài. Chúa nghe mãi đến nỗi phải mệt. Vậy để giải quyết anh này, Chúa nói: "Bây giờ Ta quyết định ban cho con bất kỳ 3 điều nào mà con xin. Sau đó thì thôi Ta không ban ơn gì nữa cả". Anh rất vui sướng và xin ngay: "Xin cho vợ con chết đề con cưới một người vợ khác tốt hơn". Chúa nhậm lời, vợ anh chết. Nhưng khi bà con và bạn bè đến lo chôn cất vợ anh, họ nhắc lại những phẩm chất tốt của chị, khi đó anh mới tiếc và biết rằng mình đã quá hấp tấp khi xài lời xin thứ nhất. Anh đành phải xài thêm lời xin thứ hai: Xin cho vợ con sống lại. Chúa cũng nhậm lời. Thế là anh chỉ còn có một lời xin thôi. Đây là cơ hội cuối cùng nên anh suy nghĩ rất kỹ phải xin gì ?
Một người bạn góp ý hãy xin cho được bất tử. Nhưng người khác nói bất tử có ích lợi gì nếu không có sức khoẻ tốt. Vậy hãy xin sức khoẻ.
Nhưng một người khác nói sức khoẻ thì làm gì được nếu không có tiền. Vậy hãy xin tiền.
Người thứ ba phản đối: tiền bạc có nhiều cũng vô ích nếu không có bạn. Hãy xin có thật nhiều bạn. Ý kiến này cũng có người khác phản đối nữa.
Tóm lại, muốn xin cái gì thì thoạt đầu thấy cái đó là tốt nhưng suy nghĩ lại thì thấy nó cũng chưa phải là tốt nhất. Anh chàng bối rối quá, chạy tới nói với Chúa "Xin Chúa dạy con biết phải làm gì bây giờ ?". Chỉ vì bối rối quá nên anh mới nói với Chúa vậy thôi chứ anh nào ngờ đây là lời xin thứ ba và cũng là lời xin cuối cùng. Từ nay anh không còn được quyền xin gì nữa cả. Anh tiếc quá sức, gãi đầu gãi cổ và tự trách mình. Nhưng khi đó xảy ra một điều bất ngờ, bất ngờ hơn cả sự bất ngờ của anh khi thốt lên lời xin thứ ba. Sự bất ngờ này là Chúa mỉm cười hài lòng. Chúa nói: Con thật là khôn ngoan khi xin như vậy. Từ nay Ta sẽ chỉ cho con biết phải làm gì. Con chỉ việc nghe theo lời Ta chỉ dạy, và đời con sẽ được hạnh phúc, hạnh phúc muôn đời, hạnh phúc mãi mãi.
Câu chuyện trên đủ trả lời cho câu hỏi chúng ta đặt ra hồi nảy: Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta nên xin gì với Chúa.
Xin cho được nhiều tiền chăng ? Nhưng phải chăng có nhiều tiền là hạnh phúc ? Chúng ta đã thấy nhiều gia đình rất giàu nhưng vợ chồng con cái đối xử với nhau rất tệ.
Xin cho được sống lâu chăng ? Nhưng phải chăng sống lâu là hạnh phúc ? Có nhiều người sống lâu quá đến nỗi con cháu phát chán.
Chúng ta đang rơi vào tình trạng bối rối của anh chàng kia rồi. Vậy hãy hỏi Chúa xem ta nên xin gì.
Trong Tin Mừng, Chúa bảo: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính. Rồi mọi thứ khác Cha trên trời sẽ lo cho chúng con". Trong ngữ vựng của Tin Mừng, "tìm sự công chính" có nghĩa là tìm thánh ý Chúa. Như thế, câu trả lời này giống y câu Chúa đã trả lời cho anh chàng kia: xin cho mình được biết ý Chúa và làm theo ý Chúa, đó là lời xin khôn ngoan nhất, tốt đẹp nhất, quý giá nhất, vì xin điều này là sẽ được tất cả mọi điều khác.
Chắc là có người không tin. Vậy chúng ta hãy lý luận một chút. Những ai đã làm cha làm mẹ chắc hiểu rất rõ cha mẹ lo gì cho con cái và mong muốn gì nơi chúng. Có phải chăng ông bà anh chị em sẵn lòng lo cho con cái mình tất cả những gì cần thiết cho nó như cơm nước, quần áo, tiền bạc, vui chơi, sức khoẻ, học hành, tương lai v.v. Tóm lại là lo hết mọi thứ, dù cho mình thiều thốn nhưng mình cũng sẵn sàng lo cho con, miễn là nó hạnh phúc thôi. Và khi lo cho nó tất cả như vậy, ông bà anh chị em mong muốn gì nơi con cái mình ? Phải chăng chỉ mong muốn một điều duy nhất là nó biết nghe theo lời dạy bảo của mình. Nếu chúng ta có một đứa con thông minh, làm được rất nhiều việc nhưng luôn cãi cha cãi mẹ, thì chắc chúng ta không vui vẻ gì. Trái lại một đứa con ít thông mình, ít tài nhưng ngoan ngoãn, chịu khó làm theo lời mình dạy bảo thì một mặt nó làm vui lòng mình và mặt khác đời nó cũng thành đạt, bởi vì thực ra tất cả những gì mình chỉ dạy nó đều là để cho nó được tốt mà thôi, nếu nó nghe thì nó tốt.
Thì Thiên Chúa cũng thế. Có khác một điều là vì chúng ta là người phàm nên có nhiều điều chúng ta muốn lo cho con cái nhưng lo không nổi, một số điều ta dạy bảo chúng cũng chưa hẳn là hay nhất, tốt nhất. Phần Chúa thì toàn năng quyền phép vô cùng Chúa muốn lo cho chúng ta điều gì là Ngài thừa sức lo được. Ngài thông minh vô cùng nên Ngài dạy ta điều gì thì chắc chắn đó là đều hay nhất và tốt nhất.
Bởi vậy Chúa có đầy đủ lý do để nói rằng: chúng ta chẳng cần lo gì cả ngoài lo tìm biết và làm theo ý Chúa. Chúng ta cũng có đầy đủ lý do để tin một cách chắc chắn rằng xin cho được biết ý Chúa và làm theo ý Chúa, đó là điều xin khôn ngoan nhất, được điều này là được tất cả những điều khác.
Tóm lại, điều chúng ta cần xin nhất là xin Chúa cho ta biết Ngài muốn ta làm gì ; điều chúng quyết tâm là trong năm nay ta sẽ lo tìm biết để thi hành ý Chúa, còn mọi sự khác chúng ta giao hết cho Chúa xin Ngài lo liệu cho chúng ta.
IV. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Sau những ngày nghỉ Tết, chúng ta sắp trở lại với công ăn việc làm thường ngày. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Chúa.
1- Người kitô hữu không chỉ có trách nhiệm xây dựng gia đình mình mà còn phải xây dựng Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu ý thức trách nhiệm của mình / và mỗi người tích cực góp phần xây dựng Hội Thánh.
2- Trong xã hội / vẫn còn rất nhiều người thất nghiệp / hoặc làm những nghề nghiệp bất chính / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người có trách nhiệm lãnh đạo Đất Nước / có thể đề ra những đường lối tạo công ăn việc làm tốt cho hết mọi người.
3- Chúng ta hãy đặc biệt hiệp lời cầu xin cho những người nghèo khổ / không có công ăn việc làm xứng đáng / xin Chúa thương ban cho họ luôn có lương thực hằng ngày.
4- Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thánh hóa việc làm hằng ngày của mình / và biết chia xẻ thành quả lao động cho những người túng thiếu hơn mình.
CT: Lạy Chúa, sau mấy ngày nghỉ ngơi, chúng con sắp trở lại với công ăn việc làm. Chúa đã ban cho chúng con đôi tay và khối óc. Xin Chúa giúp chúng con sử dụng chúng để siêng năng lao động, vừa lo cho cuộc sống bản thân, vừa phục vụ mọi người. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
12. “Đi làm ăn buôn bán”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
1. Thánh hóa công ăn việc làm
Trong ba ngày đầu năm mới, Mồng Một, Mồng Hai và hôm nay Mồng Ba, chúng ta được mời gọi vừa tạ ơn Chúa và vừa xin ơn Chúa, như thánh Phao-lô mời gọi chúng ta trong bài đọc hai của Thánh Lễ Tân Niên: «Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa… (Ph 4, 6)
Vậy, trong ba ngày đầu năm mới, chúng ta tạ ơn Chúa và xin ơn Chúa về điều gì, nếu không phải là ba điều thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy:
Trong Thánh Lễ Tân Niên, Mồng Một Tết, chúng ta vừa tạ ơn Chúa đã ban thêm cho chúng ta sự sống của một năm mới, vừa xin Chúa ban ơn bình an cho năm mới, bởi vì cuộc sống của chúng ta không thể tồn tại, nếu không có bình an, bình an giữa người với người, bình an giữa dân tộc với dân tộc, bình an khỏi mọi tai họa và tai nạn, và sâu sa hơn, bình an trong tâm hồn chúng ta.
Trong Thánh Lễ Mồng Hai Tết hôm qua, chúng ta vừa tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ và vừa cầu nguyện cho các ngài, bởi vì ai trong chúng ta cũng có nguồn có gốc, và chúng ta được mời gọi: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho trọn chữ hiếu, mới là đạo con.”
Và hôm nay, trong Thánh Lễ Mồng Ba Tết chúng ta đang cử hành, chúng ta được mời gọi tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta “công ăn việc làm” và vừa xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Trong cuộc sống, chúng ta không thể sống hạnh phúc mà không có công ăn việc làm, và nếu được có công ăn việc làm thích hợp. Vậy trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đem đến đặt trước mặt Chúa:
Công ăn việc làm của chúng ta, để xin Chúa thánh hóa: công ăn việc làm chúng ta ưa thích hay không ưa thích, công ăn việc làm sinh lợi nhiều hay sinh lợi ít, công ăn việc làm chúng ta đang vất vả đảm nhận, công ăn việc làm chúng ta đang cất công tìm kiếm hay công ăn việc làm chúng ta hằng mơ ước…
Và chúng ta cũng được mời gọi trong Thánh Lễ hôm nay, đặt trước mặt Chúa mọi công việc của chúng ta và xin Chúa thánh hóa: những công việc phục vụ lớn nhỏ trong Giáo Xứ, trong cộng đoàn hay trong hội dòng, những việc không tên và nhỏ bé hằng ngày trong gia đình, những công việc nhiều khi nặng nhọc mất nhiều thời gian, nhưng không lương bổng…
Và, với những người trẻ, là các em thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên còn đang đi học, chúng con cũng được mời gọi dâng cho Chúa việc học tập ở trường và những bổn phận nhỏ bé hằng ngày của chúng con trong gia đình, để xin Chúa thánh hóa.
Trong Thánh Lễ của ngày đầu năm mới hôm nay, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm và chúng ta được mời gọi tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”. “Của thánh” là điều được thánh hóa, nghĩa là đến từ Chúa, thuộc về Chúa và hướng về Chúa.
Và Lời Chúa mà Giáo Hội cho chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”.
2. Sứ mạng Chúa trao
Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” như là sứ mạng Chúa trao. Thật vậy, theo mặc khải của bài đọc một trích sách Sáng Thế, “công ăn việc làm” của loài người chúng ta được chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, trao phó và trao phó như một sứ mạng: ‘‘ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai’’. (St 2, 15)
Và sứ mạng “cày cấy và canh giữ đất đai” được Thiên Chúa trao cho Adam, đại diện cho loài người chúng ta, trước khi Người ban lệnh truyền và trước khi con người vi phạm lệnh truyền. Như thế, trước khi phạm tội, đã có “công ăn việc làm” rồi; trong khi đó, chúng ta nhiều khi lại hiểu rằng, trước khi loài người phạm tội, con người rảnh rỗi, vui chơi, không phải làm việc, và chúng ta hiểu “công ăn việc làm” như là hình phạt!
Sứ mạng “canh tác đất đai, tương tự như sứ mạng làm vườn nho trong dụ ngôn “Vườn nho và các tá điền” (x. Mt 21) là ơn huệ Thiên Chúa ban, để cộng tác với Người trong công trình sáng tạo, nghĩa là làm cho sinh hoa trái phục vụ cho sự sống của con người.
Ngoài ra, còn có sứ mạng “canh giữ”, mà chúng ta ít để ý, nhưng trong thực tế, lại rất cần thiết. “Canh giữ” ở đây không phải là canh giữ của cải mình làm ra, nhưng là canh giữ Con Rắn, Ma Quỉ, Sự Dữ và tất cả liên quan đến Sự Dữ trong cách thức chúng ta đảm nhận “công ăn việc làm”, trong cách thức chúng ta làm ra của cải: đó là canh giữ khỏi lòng ham muốn, nô lệ cho tiền bạc của cải, bất chính, gian lận, lừa đảo, làm hại người khác, tôn vinh bản thân…
Sứ mạng “canh giữ” được trao cho Adam, nhưng ông đã canh giữ làm sao mà để cho con rắn nó vào cám dỗ bà Evà!
3. Làm sinh lợi “yến vàng” Chúa trao
Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” nhằm mục đích làm cho sinh hoa kết quả “nén bạc” Chúa trao. Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su kể một dụ ngôn: “Người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông chủ cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người”. Theo các nhà chuyên môn, mỗi yến bạc trị giá sáu ngàn ngày công, tương đương với hai mươi năm làm việc. Số vốn quá lớn! Điều này có nghĩa là, dù có sự khác biệt khách quan năm, hai hay một nén, tất cả những gì Chúa ban cho mỗi người chúng ta tự bản chất đều quá lớn, có thể nói được là vô giá, vô giá như chính sự sống.
Chúng ta có thể hiểu những yến bạc là những năm tháng cuộc đời Chúa ban cho mỗi người, dài ngắn khác nhau. Chúng ta cũng có thể hiểu những yến bạc là tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống: chủng tộc, xã hội, gia đình, giới tính, ngoại hình, khả năng, số phận… Như vậy, tất yếu có sự khác biệt. Chúng ta vẫn mơ là ai cũng y trang như nhau, thế là hết rắc rối. Không phải như vậy, sẽ rắc rối to hơn nữa, bởi vì sẽ chẳng còn niềm vui mở ra và chung hiệp, chẳng còn hạnh phúc đón nhận và trao ban, chẳng còn kinh ngạc và thán phục trước những điều kì diệu Chúa thực hiện đặc biệt cho mình hoặc cho người khác, chẳng còn tâm tình ca tụng và tạ ơn, chẳng còn lời kêu cầu tín thác, chẳng còn tương quan tình bạn, tình yêu… Hơn nữa, cung lòng của Thiên Chúa và cung lòng của mẹ chúng ta không thể như cái lò làm bánh mì, làm ra sản phẩm y như khuôn mẫu.
Dụ ngôn của Đức Giêsu, và nhất là cuộc đời của Ngài mời gọi chúng ta sống tâm tình tạ ơn, mỗi Thánh Lễ là một lời tạ ơn, là Lễ Tạ Ơn, là lời kinh Tạ Ơn: tạ ơn về chính mình, mình y như thế đó, tạ ơn vì sự tin tưởng quá lớn Chúa trao tặng cho chúng ta, tạ ơn vì quà tặng Đức Giêsu Kitô Chúa cho chúng ta mỗi ngày thật quảng đại và nhưng không. Chính với tâm tình tạ ơn mà chúng ta mới có thể bao dung và quảng đại làm sinh hoa kết quả cho vinh quang Thiên Chúa.
Khi cho đi, như dụ ngôn mời gọi chúng ta nhận ra, thì kết quả tất yếu sẽ viên mãn, năm nén sinh năm nén, hai nén sinh hai nén, và đáng lẽ ra, một yến cũng phải sinh ra một yến. Tuy nhiên, kết quả dù ít dù nhiều không quan trọng, miễn là chúng ta đã cho đi tất cả, và lời hứa Chúa dành cho chúng ta đều như nhau, nghĩa là “gấp trăm” do lòng quảng đại của Thiên Chúa:
Hưởng niềm vui khôn tả của Chúa.
Niềm vui mà Chúa cho chúng ta cảm nếm ngay hôm nay, trong những ngày họp mặt đầu Năm Mới.
4. Để chia sẻ
Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” để có thể giúp đỡ người khác. Đó chính là chiều kích thánh thiêng thứ ba, mà Lời Chúa, trong bài đọc hai, trích sách Công Vụ Tông Đồ kể lại lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô, mời gọi chúng ta đảm nhận “công ăn việc làm” của chúng ta: ‘‘Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 35)
Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta “làm lụng vất vả” để giúp đỡ những người đau yếu; và chúng ta có thể hiểu rộng hơn, để giúp đỡ những người nghèo, những người thiếu may mắn hay thiếu khả năng, hay đơn giản là để nuối sống nhau, nuôi sống những người già yếu, nuôi sống những em bé, những người trẻ trong xã hội, trong gia đình và trong cộng đoàn, hội dòng.
Chúng ta làm như thế, chính là để sống theo lời của Đức Giê-su, vì Người nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận”; và hơn thế nữa, để nên giống chính Đức Giê-su, vì Người đã và vẫn cho đi chính mình Người, chính sự sống của Người trong mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Thánh Thể, được hoàn tất bởi Mầu Nhiệm chết và phục sinh.
Xin Chúa thánh hóa “công ăn việc làm” của chúng ta; và xin Chúa ban ân sủng và tình yêu của Người, để mỗi ngày và suốt năm mới, chúng ta có thể sống chiều kích thánh thiêng của “công ăn việc làm”, nghĩa là:
“công ăn việc làm” là sứ mạng Chúa trao,
“công ăn việc làm” là để sinh hoa kết quả nén bạc, là cuộc đời và ơn gọi của chúng ta,
và “công ăn việc làm” là để có thể phục vụ, chia sẻ và giúp đỡ.
Như Lời Chúa mời gọi chúng ta. Amen.
13. Chúa thánh hoá công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Những ngày tết là những ngày vui chơi, nghỉ ngơi, giãn xả về mặt thể xác, nhưng Giáo Hội là người Mẹ luôn khôn ngoan hướng con người nhìn xa thấy rộng hơn, thể xác thảnh thơi đôi chút sau những ngày tháng làm việc vất vả, Giáo Hội hôm nay muốn nhắc nhớ mọi người phải hướng về Đấng tối cao, hướng về Thiên Chúa vì Ngài là Đấng có quyền ban phát mọi sự. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, câu tục ngữ của Pháp quả mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời. Hội Thánh Việt Nam dành ngày mồng ba tết để cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm.
LAO ĐỘNG LÀ LẼ SỐNG CỦA CON NGƯỜI:
Được Thiên Chúa tạo dựng, con người sống trong cảnh địa đàng hạnh phúc, huy hoàng và êm đềm không vất vả. Tuy nhiên, khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con người mất hạnh phúc địa đàng trần gian, Thiên Chúa đuổi ông bà tổ tiên ra khỏi vườn Éđen và bắt đầu một cuộc sống trần thế với bao truân chuyên, thử thách, vất vả vì tội lỗi ông bà tổ tiên gây ra. Tuy nhiên Chúa không bỏ rơi nhân loại, con người mà đã sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến để mang lại cho cuộc đời trần thế một ý nghĩa mới, biến công ăn việc làm trở nên có ý nghĩa cứu rỗi vì nó không còn là lời nguyền rủa mà là hạnh phúc khi con người biết làm ra của cải để mang lại giầu sang, phú quí và hạnh phúc cho cuộc sống, miễn là con người biết làm theo ý Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày mồng ba tết, thánh Matthêu đã thuật lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về các nén bạc Chúa trao cho mỗi người tùy theo khả năng, mức độ và trí tuệ mà họ được nhận lãnh, miễn là họ biết sinh lợi theo ý của ông chủ, và không lười biếng, ngồi chờ sung rụng…Chúa muốn mỗi con người dù trí thức, lao động bình thường: chân tay, trí óc đều phải sinh lợi theo mức độ khả năng Chúa trao cho.
XIN CHÚA THÁNH HÓA VIỆC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĂN VIỆC LÀM CỦA MỖI NGƯỜI:
Để được Chúa thánh hóa công ăn việc làm, con người phải biết tùy theo khả năng siêng năng, lanh lẹ làm cho của cải sinh hoa kết quả tốt. Con người phải hiểu rằng Chúa đến trong thế giới, nhận một gia đình để được sinh ra và để sống là vì Chúa đem lại cho lao động, cho cuộc sống một giá trị, một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chúa nâng đời sống lao động và thánh hoá đời sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi sự mệt mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.Con người luôn phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo: “ Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng; bốn mùa xuân hạ thu đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” hoặc: ” bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 64, 2).
Mồng ba tết xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta mỗi người tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta người năm nén, người hai nén, người một nén. Tất cả đều do hồng ân Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết làm lợi cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Làm biếng, chơi bời lêu lổng không chịu lao động để sinh lợi theo khả năng Chúa ban là lỗi với Chúa và đáng Chúa khiển trách: “ Hỡi tôi tớ lười biếng…”.
Lạy Chúa, chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hoá công ăn việc làm).
14. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời. Tin ông Trời. Cầu khẩn ông Trời. ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành với con người qua mọi thăng trầm. Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai lại không kính Trời. Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời. Vì ông trời làm chủ vận mệnh muôn loài. Ông Trời quyền phép vô cùng. Thế nên,
Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên.
Trời cho ai nấy hưởng
Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.
Khi làm ăn mùa màng không được như ý thì người ta cầu trời:
“Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp”
Làn mưa từ Trời sẽ mang lại niềm vui cho công việc, cho cuộc sống con người:
“Nhờ Trời mưa thuận gió hoà
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau
Người Việt cũng luôn tin vào Trời rất công bình, hoạ phúc công minh; Ông Trời như một ông chủ luôn thưởng phạt công minh:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài điều khiển mọi loài. Ngài là Đấng cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Ngài là Đấng ban lại cho chúng ta sự thành công trong công việc mà thánh vương Đa-vít đã từng nói: “Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh có biết bao công trình mà không có bàn tay Thiên Chúa, hay cố tình loại trừ Thiên Chúa sẽ khó hoàn thành, đôi khi còn bị huỷ diệt.
Đó chính là sự kiện xây tháp Babel. Con người đã từng không chấp nhận thua Thiên Chúa. Họ muốn chống lại Thiên Chúa nên hợp lực với nhau để xây tháp tới Trời. Thế nhưng, lực bất tòng tâm. Công trình của họ đã bị dang dở. Họ chia rẽ nhau ngay khi công việc còn dở dang.
Gần đây nhất là sự kiện con tàu Titalic. Con tàu của sự kiêu hãnh của con người có thể chống lại phong ba bão tố. Người ta tưởng rằng với sự văn minh của nhân loại, người ta không cần ơn Trời vẫn có thể đi biển bình yên. Thế nhưng, con tàu đó đã bị chìm xuống đại dương cùng với sự ngạo nghễ của con người khi đâm vào một tảng đá ngầm mà không ai học được “chữ ngờ”.
Thế nên, việc cầu Trời, khấn trời dù ở khung trời văn minh hay chốn hồng hoang vẫn là cần thiết. Con người luôn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Con người như cảm thấy mình quả nhở bé so với vạn vật được tạo thành. Sự khiêm tốn đòi hỏi con người phải cần đến Đấng Tạo Thành, cầu xin Đấng Tạo, Khấn vái Đấng Tạo Thành. Sự khiêm tốn để nhìn nhận những gì mình có không phải do tài năng của mình, không phải do mưu trí của mình mà có mà là do ân ban của Thiên Chúa.
Tất cả là hồng ân. Thiên Chúa luôn tưới gội hồng ân của Ngài xuống trên con người. Thiên Chúa luôn làm biết bao việc kỳ diệu cho con người. Con người chỉ là loài thụ tạo được thừa hưởng muôn ơn lộc Chúa ban mà thôi.
Hôm nay, ngày xin ơn thánh hoá công ăn việc làm. Chúng ta dâng lên Chúa những ưu tư hoài bão của chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho một năm “mưa thuận gió hòa”, mùa màng trĩu hạt. Xin Chúa là Đấng quyền năng chúc lành cho công việc của chúng ta từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
15. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta dành để dâng lên Chúa những dự định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều nhờ ơn Chúa, vì “nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên tai giáng xuống địa cầu, cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng gió của thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho chúng ta một năm bình an.
Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua, nhưng đã để lại nỗi hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa nhất.
Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng cũng như vật chất:
1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra ngày 24-01, đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một triệu người màn trời chiếu đất. Đến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế giới đã đổ hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.
2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới 8.8 độ Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu bang lớn và một phần của Á Căn Đình. Động đất kéo theo sóng thần, quét qua các thị trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa, gây thiệt hại 30 tỷ đô.
3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland) bỗng nhiên thức giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn người phải di tản. Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không, làm cho 100.000 chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách bị mắc kẹt ở các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.
4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã gây ra lụt lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất trong 100 năm tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm trong biển nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao vì dịch bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.
5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã kéo theo nạn cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói đen, nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.
Đó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong năm 2010, khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai năm qua kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà tiên tri cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà nhân loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.
Người Việt thì nói rằng: mỗi năm, làm ăn càng ngày càng khó khăn hơn. Người đông của ít, khiến con người phải bon chen vật lộn với cuộc sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt khiến ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia gia cầm, dịch tai xanh… tràn lan suốt năm qua.
Hôm nay, Ngày Đầu Năm, chúng ta hướng về Cha trên trời, là Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc lành cho chúng ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai của chúng ta được thành toàn.
Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan vất vả của đời người.
Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho những ước nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen
16. “Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì”--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau:
Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị thần này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường.
Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta: “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa thì ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà ăn, còn vật thì không cần làm mà trời vẫn cho ăn.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho một năm “thuận buồm xuôi gió”. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta được mọi sự như ý, ân phước dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé, giới hạn của con người trước biết bao công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta cần ơn ban của trời cao. Chúng ta xác tín như người xưa đã xác tín vào trời: “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên”. Đó là thái độ khiêm tốn cần có của con người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng trong tay Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng làm như thế. Không phải vì lạc hậu. Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin vào Trời, nhưng vì cảm nghiệm sự nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:
“Đèn Trời đèn sáng bốn phương
Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi”.
Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên xưa còn biết lợi dụng mưa nắng phải thì của Trời mà trồng cấy:
Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:
“Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau”
Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn. Nếu không có ơn trời thì công việc chúng ta cũng tựa như “dã tràng xe cát biển đông”. Nhìn lại một năm qua, chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm ăn mỗi ngày một khó. Không chì là do suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu còn do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra rét đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không thể đơm bông kết trái. Rồi thiên tai lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng: năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận của Trời ban.
Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa công việc và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao gởi công việc chúng ta cho Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công việc chúng ta được mọi sự như ý. Chúng ta xác tín rằng: “Nếu Chúa không xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”. Xin Chúa thương đón nhận những ước nguyện đầu năm chân thành của chúng ta. Amen
17. Lời Chúa Ngày MỒNG BA TẾT--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa ban cho mỗi người một nén bạc. Nén bạc tượng trưng cho khả năng, cho điều kiện của mỗi người khác nhau. Thế nên, phải biết “liệu cơm gắm mắm” cho phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Đừng mơ tưởng những sự viễn vông, vì điều đó vượt ngoài khả năng. Đừng làm những việc không trong tầm tay kẻo uống phí thời gian, vì uổng công vô ích.
Có một con Dê tự tách ra khỏi đàn, bị con Sói đuổi theo. Dê quay lại, nói với Sói:
- Thưa ngài, tôi biết thân phận mình phải hiến dâng cho ngài. Nhưng để ngài thưởng thức món ăn đựơc ngon, ngài hãy thổi sáo và tôi múa nhảy cho mà xem.
Sói bắt đầu thổi sáo cho Dê nhảy quay cuồng. Lũ chó nhà nghe tiếng huyên náo bèn nhảy ra đuổi Sói.
Sói vừa chạy vừa quay đầu lại nói với Dê:
- Ta chịu thua ngươi vì ta vốn anh hàng thịt lại giở trò làm nhạc công, nên bỏ lỡ mất thời cơ.
Hóa ra khi chúng ta làm những việc ngoài khả năng thì chúng ta chỉ là một anh hề mà thôi. Có khi vất vả mà chằng nên công trạng gì. Thế nên, hãy nắm bắt những gì mình có thể làm được và trong tầm tay của mình. Đừng làm những chuyện “vá trời” mà chẳng được công ích gì! Hãy làm những chuyện trước mắt, những chuyện cần làm ngay mới đem lại hiệu quả cao. Con sói đã sổng mất con mồi khi làm việc không đúng khả năng của mình. Con người cũng sẽ thất bại nếu không biết làm đúng chuyên môn, hay đúng khả năng của mình.
Hôm nay, ngày Mồng Ba Tết, chúng ta hướng lòng lên Đấng Tạo thành để cúi xin Ngài chúc phúc cho công việc một năm được thuận buồm xuôi gió. Chúng ta tin rằng “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại Thiên”. Con người chúng ta dù mưu lược đến đâu! Dù cần cù đến đâu mà không có sự chúc phúc của Thiên Chúa thì cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển Đông” mà thôi! Hơn nữa, sự vất vả lao nhọc của chúng ta nếu được hỗ trợ bởi ơn trên phù hộ, chắc chắn công việc của chúng ta sẽ được thành toàn, được viên mãn theo dự định.
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khả năng, tựa như mỗi đóa hoa làm cho vườn hoa đa sắc. Cuộc đời con người nếu biết dùng khả năng của mình cũng vẽ lên bức tranh đẹp cho cuộc đời. Sự cần cù lao động cũng là dịp để chúng ta thể hiện vai trò cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người tiếp tục hoàn thiện công trình mà Ngài đã tạo dựng. Sự hoàn thiện đòi con người phải cần mẫn, phải sáng tạo. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn đòi chúng ta quy hướng về Ngài, Ngài vẫn đòi chúng ta trao phó mọi sự trong tay Ngài, tựa như người con chỉ làm theo sự xếp đặt của cha mẹ, dầu vẫn phải sáng tạo và làm tốt hơn cho công việc.
Ngày đầu năm chúng ta hãy dâng cho Chúa những công việc và dự định của chúng ta. Xin Chúa hãy làm vơi đi những gánh nặng cuộc đời bằng ân sủng của Chúa. Xin Chúa hãy chúc lành cho những dự định của chúng ta sớm được hoàn thành. Chúng ta tin vào Thiên Chúa quyền năng. Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ chăm sóc từng cuộc đời chúng ta theo lòng nhân ái của Ngài. Trong niềm tin đó, chúng ta hãy để cho Ngài an bài mọi sự theo thánh ý Ngài, còn chúng ta hãy làm mọi sự theo khả năng của mình. Amen.
18. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)--Giuse Trần Công Thượng
Kính thưa cộng đoàn,
Từ thuở khai thiên lập địa Thiên Chúa sáng tạo con người và ủy thác cho con người nhiệm vụ cai trị trái đất. “Ngài đặt con người vào vườn Eđen để cày cấy và canh giữ đất đai”. (St 15,2) Như vậy, Thiên Chúa gắn liền lao động với con người, coi lao động như một sứ vụ, một tương lai. Con người tiếp tục công cuộc tạo dựng lưu truyền đời sống và biến đổi thiên nhiên.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, giúp con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, góp phần phát triển khoa học, văn hóa và đạo đức. Vì vậy, lao động mang một ý nghĩa lớn đối với đời sống con người.
Chính Đức Giêsu là một người lao động. Ngài làm nghề thợ mộc tại làng Nazaret, một nghề tầm thường trong xã hội bấy giờ, để dễ dàng gần gũi với người lao động nghèo. Tin Mừng của Ngài là “Tin Mừng của lao động”, vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một người lao động. ngài thuộc về thế giới lao động, ưa chuộng lao động, tôn trọng sự lao động của con người. Trong lời giảng của Ngài ta thấy toát lên chân lý căn bản về vấn đề lao động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả truyền thống, ngay từ sách sáng thế. (X. Tông huấn Lao động của con người, của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II, ngày 14.9.1981). Các bài giảng của Ngài cũng thật gần gũi với người lao động.
Gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu đã ảnh hưởng tới các môn đệ theo Ngài, đặc biệt là thánh Phaolô. Thánh nhân không ngừng nêu gương và khuyên nhủ các tín hữu về giá trị của lao động. Khi ngỏ lới các kỳ mục ở Êphêsô, thánh Phaolô nói: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 34-35). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, thánh nhân khẳng định: “Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em”(2Tx 3,8) hay ngài chỉ thị “ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx 3,10).
Tất cả chúng ta là những người lao động. Hằng ngày chúng ta vẫn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, vất vả trong các nhà máy, miệt mài với những trang sách, tất bật ngược xuôi ngoài chợ. Đó là vinh dự cũng là một trách nhiệm Thiên Chúa trao cho chúng ta để cộng tác với Ngài trong việc xây dựng thế giới này.
Hôm nay, mồng 3 Tết – những giây phút đầu tiên của năm mới, Mẹ Giáo Hội dành cho con cái một ngày đặc biệt cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về sứ vụ lao động của mỗi người, dâng lên Thiên Chúa thành quả lao động trong một năm qua đồng thời có những quyết tâm cho năm mới.
Năm mới, chúng ta đưa ra bao nhiêu dự tính cho công việc phải làm. Nhưng những dự tính đó có thành công hay không, chúng ta không hoàn toàn quyết định. Quả thế, cổ nhân nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Tuy nhiên, với niềm tin vào ơn Chúa giúp, chúng ta phải cố gắng hết mình để chu toàn công việc.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn các nén bạc. Ông chủ đi xa, trao cho các đầy tớ những nén bạc: người năm nén, người 2 nén, người một nén. Người thứ nhất và người thứ hai đã cố gắng và hăng say làm việc để sinh lời cho ông chủ. Đó là những người có tinh thần trách nhiệm: trách nhiệm với ông chủ và trách nhiệm với bản thân. Người thứ ba thì ngược lại: vì lười biếng, nghi ngờ ông chủ nên anh đã chôn giấu số bạc đã được giao, phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Và kết quả, khi ông chủ về, người thứ nhất và người thứ hai được vào hưởng niềm vui của chủ vì đã trung tín, còn người thứ ba vì biếng nhác nên bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều gì trong ngày cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm hôm nay.
Thiên Chúa là chủ tể mọi loài mọi vật, con chúng ta là những tôi tớ của Ngài. Ngài trao cho mỗi người chúng ta những nén bạc là: đức tin, sức khỏe, tài năng, cơ hội, nghị lực, tiền của, ân nhân, nền giáo dục…Mỗi người được trao những nén bạc khác nhau, kẻ nhiều người ít, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy theo cuộc sống và hoàn cảnh của mỗi người. Chúng ta sử dụng tài năng, sức khỏe, tiền của, cơ hội Chúa ban để làm việc và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và xã hội hầu làm vinh danh Chúa và mang lại lợi ích cho tha nhân.
Ngày đầu năm mới này, chúng ta ngẫm xem Chúa trao cho mình bao nhiêu nén bạc. Dưới cái nhìn đức tin, có lẽ cuộc đời chúng ta chìm ngập trong hồng ân của Chúa quan phòng và khôn ngoan. Ngài ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm tốt công việc phù hợp với khả năng của mình. Năm mới này, chúng ta phải quyết tâm bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn, cố gắng làm việc tốt để sinh lời từ “nén bạc” Chúa trao. Muốn vậy, chúng ta phải sử dụng những ơn riêng như lời khuyên của thánh Phêrô: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11). Đồng thời chúng ta cũng quyết tâm xóa bỏ tư tưởng biếng nhác, nghi ngờ của người đầy tớ thứ ba để luôn làm việc theo tinh thần Tin Mừng. “Bất cứ làm việc gì, chúng ta làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì biết rằng chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người “. (x.Cl 3,23-24)
Lạy Chúa Giêsu, khi ở trần gian, Chúa là một người lao động để nêu gương nên thánh cho chúng con trong công việc lao động thường ngày. Trong năm mới này, xin cho chúng con biết học nơi Chúa, luôn cố gắng và siêng năng làm việc để những nén bạc Chúa trao không trở nên vô hiệu.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao người khổ công trên đồng ruộng, tất bật trong các nhà máy, xuôi ngược trên thương trường mà không đủ ăn, bao người lo lắng vì thiếu việc làm – trong giây phút đầu năm mới này, xin chúc lành cho hoa màu ruộng đất, cho các phương tiện làm ăn, cho các công việc chúng con đang làm và sẽ làm, hầu mong cuộc sống chúng con luôn hòa nhịp với lời thánh vịnh:
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi”. (Tv 65,12).
19. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt 25,14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Ngày mồng ba tết mỗi năm, Hội Thánh luôn dành riêng một ngày đầu năm để cầu nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của mọi người giữa lúc con người đang mải mê ăn tết, có khi quên cả mặt thiêng liêng, đạo đức. Sở dĩ Hội Thánh dùng ngày mồng ba tết để cầu xin Thiên Chúa đổ muôn ơn phúc xuống trên mùa màng bởi vì Hội thánh ý thức: “ Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Hội Thánh cũng nhắc nhở tấm gương lao động của Thiên Chúa khi Ngài miệt mài sáng tạo vũ trụ, thế giới và con người. Giáo Hội cũng cho ta thấy gương lao động của Chúa Giêsu ở Nagiarét để chúng ta noi gương, bắt chước. Do đó, ngày mồng ba tết Giáo Hội dành riêng để xin ơn thánh hóa công ăn việc làm là để dạy con người: “ Không làm thì đừng có ăn” như thánh Phaolô tông đồ đã viết.
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ĐỂ CON NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀM RA CỦA CẢI: Tất cả ba bài đọc trong thánh lễ ngày mồng ba tết đều xoay chung quanh việc lao động. Bài sách sáng thế cho thấy Thiên Chúa đặt con người trong vườn Eden và dạy con người trồng trọt nghĩa là lao động để làm ra của cải. Thiên Chúa muốn con người xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới và làm cho thế giới càng ngày càng trở nên phong phú, tươi xinh theo ý của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng nói về việc ông chủ trao cho đầy tớ các nén bạc để các đầy tớ làm lợi ra những nén bạc khác, làm ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên lao động chắc chắn đòi hỏi sự cố gắng của con người và nhiều khi làm cho con người mệt nhọc, nhưng lao động quả thực mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống:
LAO ĐỘNG LÀ BÀI CẢM TẠ TRI ÂN: Nói đến lao động là nói đế sự làm việc mà làm việc dù trí óc hay tay chân đều làm cho con người mệt mỏi, đòi hỏi con người phải phấn đấu hy sinh, có khi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có miếng cơm mà ăn, có cần cù lao động với óc sáng kiến, với khả năng, với kỹ thuật mới mong có của ăn của để. Mặc dù như thế, nhưng lao động vẫn là sự vinh quang bởi vì phải lao động mới tốt đẹp được, mới đem lại cho con người sức sống. Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngay, ca dao tục ngữ Việt Nam quả thực đã nói đến lý tưởng của lao động và đề cao giá trị của lao động. Đối với người công giáo lao động là bài ca tình yêu bất tận bởi vì con người làm nhưng chính Thiên Chúa định đoạt thành quả của việc làm. Do đó, lao động nói theo ngôn ngữ nhà đạo là bài ca tình yêu, là lời cảm tạ tri ân không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng lao động và Chúa Giêsu cũng đã lao động không ngừng.
LAO ĐỘNG NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: Con người sẽ chẳng ra chi nếu không chịu làm việc. ” Đừng ngồi chờ sung rụng “, vâng, Thiên Chúa đã lao động không ngừng, Chúa Giêsu cũng đã noi gương Chúa cha làm việc không mệt mỏi. Do đó, con người cũng phải làm việc vì việc làm do trí óc, do bàn tay con người sẽ nâng cao giá trị của con người và làm cho việc làm có giá trị. ” Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Lao động Chúa sẽ chúc lành nếu con người luôn hướng lao động theo ý Chúa: “ Bốn mùa Chúa đổ hồng ân. Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ” (Tv 64, 12) hoặc ” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên “.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA GIẢI THOÁT, CỨU RỖI: Kinh tiền tụng ngày mồng ba tết viết: “ Chính Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Cha và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Con người làm ra vật chất không chỉ để nuôi sống mình nhưng còn để chia sẻ cho những kẻ khó nghèo và như thế của bố thí với ý ngay lành sẽ có ý nghĩa cứu rỗi.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Con người được Chúa tạo dựng để góp tay với Chúa làm cho vũ trụ, thế giới đẹp hơn, ấm hơn. Bởi vì, khi làm ra của cải, con người tạo được no ấm và hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình. Nhưng còn hơn thế, con người biết nghĩ đến kẻ khác nhờ đó họ sẽ làm cho của cải có giá trị đẹp và có tính cứu rỗi. Chính vì thế, giầu quý thực nhưng nếu không biết chia sẻ cho những người nghèo thì lời của Chúa: “ Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào được nước Thiên Chúa ” quả thực sẽ là lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những con người ích kỷ, bo bo giữ của mà không biết sẻ chia cho những người bé nhỏ, khó nghèo.
Lạy Chúa, nhân dịp đầu xuân, cộng đoàn chúng con dâng lên Chúa lễ phẩm này, cùng với mọi công việc chúng con sẽ làm trong năm mới.Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và cho chúng con được cộng tác với Con Một Chúa, để thực hiện công trình cứu độ của Người.Amen.
20. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Bao lâu trái đất này còn,
Còn gieo còn gặt còn vun còn trồng;
Bốn mùa xuân hạ thu đông,
Ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên (St 8, 22).
Hằng năm Giáo Hội không ngừng dùng ngày mồng ba tết để cầu xin cho công ăn việc làm, xin Chúa thánh hóa công việc của mỗi người,đặc biệt xin ” Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “. Có người nghĩ rằng công việc là do bàn tay lao động của mình. Trí óc là do khả năng tích lũy của mình. Đất đai tự nó tốt, tự nó có mầu có mỡ. Không, Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn nhìn thấy những gì do mình, điều gì do Chúa. Chính vì vậy, giữa bôn ba của cuộc đời, giữa những ngày vui chơi ăn tết, con người vì vẻ bề ngoài, vì lao mình vào các thú vui, vì say xưa chè chén, họ sao nhãng việc thiêng liêng, quên đi ” Làm bởi bay, ban bởi Ta “. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Thánh Phaolô đã viết một câu mạnh mẽ nhưng hoàn toàn hợp lý: “ Không làm việc thì đừng ăn “, na ná như câu: “ Đừng nằm chờ sung rụng “…
THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN ĐỂ NÊU GƯƠNG LAO ĐỘNG CHO CON NGƯỜI: Khi tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng và cho con người hưởng dùng mọi vật Ngài tạo dựng nên. Tuy nhiên, khi Ông bà Ađam và Evà phạm tội, Ông bà phải lao động cực nhọc, vất vả mới có của ăn để nuôi thân và nuôi con cái. Lao động bắt đầu từ khi con người sa ngã, ngang nhiên chống lại Chúa. Lao động vất vả nhưng luôn có giá trị bởi vì không có Chúa, con người dù có làm mấy đi nữa cũng không mang lại hiệu quả bao nhiêu…
Khi Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô được sai đến trần gian qua cung lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu lớn lên ở Nagiarét, Ngài đem lại cho lao động một ý nghĩa cao vời. Chúa lao động để nêu gương cho nhân loại bởi vì lao động mang lại ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống con người. Một ngày Chúa trao ban cho mỗi người 24 tiếng đồng hồ để con người như nhau nhưng tùy khả năng, tài trí làm lợi cho Chúa, cho Giáo Hội, cho bản thân, cho tha nhân. Chúa Giêsu đã cùng thánh cả Giuse và mẹ Maria lao động để mang lại cho lao động ý nghĩa cứu rỗi.
CON NGƯỜI LUÔN PHẢI LAO ĐỘNG: Dù làm việc bằng chân tay, hay làm việc bằng trí óc, mọi người đều phải làm việc. Chúa Giêsu đã nói: “ Cha Ta làm việc, Ta cũng làm việc không ngừng “. Chắc chắn, ở Nagiarét, Chúa Giêsu có lúc cũng đã phải đổ mồ hôi, mệt nhọc, vất vả vì lao động. Tuy nhiên, gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã lao động với tất cả tình yêu, với tất cả niềm tin và đem lại cho lao động một ý nghĩa tôn giáo tuyệt vời. Khi Chúa làm việc lao động, Ngài muốn chúng ta hãy luôn kết hợp với Ngài, như Ngài luôn kết hợp với chúng ta. Ai luôn kết hợp với Ngài, Chúa luôn kết hợp với người ấy, thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào (Ga 15, 45b). Con người noi gương Chúa luôn phải lao động không ngừng vì theo thánh Phaolô dạy: “ Không làm việc thì đừng có ăn “.Câu nói xem ra mạnh mẽ đấy, nhưng quả thực không lao đ8ộng làm sao có lương thực để nuôi thân, có của cải để độ trì. Do đó, bất cứ ai đã sinh ra ở trần gian muốn tồn tại phải làm việc hoặc bằng trí óc hoặc bằng chân tay.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA CỨU RỖI: Khi nhìn vào gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, ai cũng hiểu rất rõ dù Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã làm người, nên Ngài làm việc không ngừng. Thánh Giuse lao động để nuôi gia đình. Mẹ Maria làm việc nội trợ để tạo nên hạnh phúc gia đình. Cả gia dình thánh đã làm việc để nâng lao động lên tầm cao mới, nghĩa là làm cho lao động có một ý nghĩa cứu độ.Chính Thiên Chúa đã nêu gương lao động cho con người. Do đó, con người làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân mình mà còn góp tay vào công trình cứu độ nhân loại…Thực tế, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và giao cho con người trông coi vũ trụ, tô đẹp vũ trụ.Lao động và tín thác nơi Chúa vì chính Chúa là mục tử chăn dắt chúng ta, nên chúng ta không còn thiếu thốn gì (Tv 22, 1).
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI NGƯỜI: Chúa đã thánh hóa công ăn việc làm do tự lòng tin của chúng ta. Đọc Kinh Tiền Tụng chúng ta nhận ra rằng: “ Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện công trình cứu độ muôn dân “. Chúa đã lao động để làm gương cho nhân loại, cho con người. Chúa giúp con người làm việc làm ra cơm áo và hơn nữa để xây dựng Nước Trời ngay tại trần thế.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm Nhâm Thìn này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự việc chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ ngày Mồng Ba Tết).
21. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Người Pháp có câu nói thật chí lý: “ Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Giáo Hội Việt Nam luôn hướng dẫn, dạy con cái mình: “ Phải cầu nguyện, phải kêu xin không ngừng “. Do đó, làm việc là do bàn tay, do trí óc sáng tạo, lao động của con người nhưng nếu người môn đệ Chúa không được Chúa ban ơn, sức khỏe không có, trí khôn không sáng, chắc chắn công ăn việc làm của mình không tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng ba tết âm lịch để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Có nhiều người lầm tưởng, công ăn việc làm cần gì phải được thánh hóa. Làm ăn được là do sự năng nổ, giỏi giang của mình mà. Nói thế cũng đúng một phần mà hoàn toàn không phải thế. Vì, con người luôn có phần hồn phần xác. Xác có khỏe mới lao động được, còn thân xác yếu đuối, đau lên đau xuống hoài, chắc chắn công việc cũng không đi tới đâu. Con người có giỏi, có kỹ thuật cao, nhưng mưa không thuận, gió không hòa thì mùa màng cũng không đem lại nhiều kết quả.Thánh lễ hôm nay xoay quanh việc lao động, sản xuất.Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và đặt con người trong vườn Eden, rồi dạy con người trồng trọt nghĩa là dạy con người lao động. Thiên Chúa muốn con người góp tay và trí tuệ để làm cho vũ trụ mà Chúa dựng xây càng ngày càng đẹp, càng ngày càng phong phú, mọi người đều có của ăn, của để. Bài Tin Mừng đề cập đến việc ông chủ trao cho mỗi người một số vốn và bắt con người phải lao động để làm lời số vốn ông chủ đã trao. Lao động phải mệt nhọc, lao động đòi hỏi phải cố gắng, phấn đấu hy sinh, nhưng lao động luôn mang ý nghĩa đẹp, ý nghĩa cao sâu, tuyệt vời do Chúa chúc lành: “ Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa ” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Hoặc “Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” và Thánh vịnh 64, 12 cũng viết: “ Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “.
Như thế, đối với người môn đệ Chúa lao động trí óc hay chân tay đều do quyền Chúa. Ngài có chúc lành, có ban ơn thì công việc mới tốt lành được. Chúa Giêsu cũng đã làm việc và làm việc không ngừng. Ngài đã làm việc để nêu gương cho nhân loại và để mang lại cho lao động ý nghĩa cao cả. Lao động đối với Ngài là lời tạ ơn, là cầu nguyện, là cứu độ, là nâng cao phẩm giá con người. Thánh Phaolô đã viết một câu thật chí lý: “ Không làm thì đừng có ăn “.
Chúng ta hãy dùng lời tiền tụng thánh lễ ngày mồng ba tết để cùng nhau cầu nguyện: “ Lạy Chúa, chính Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Amen.
22. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực, con người làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý (L’homme propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng, bầy mưu hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức khỏe, con người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng, mọi việc là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của mình dành trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác giả đã viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để con người canh tác và coi sóc đất đai “. Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để con người ở nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một cách khác bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây ra tội lỗi. Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết: “ Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận “. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho chúng ta về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra. Cha của Ngài làm nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình Nadarét không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ trong yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong gia đình Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự Ngài đều tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.
Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài học để đời: “…phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”.Dụ ngôn ông chủ đi phương xa, trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng: “ Cần cù lao động, chịu khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp”. Lời kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều điều: “ …Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Chúa Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “. Chúa Giêsu đã làm việc để cho Nước Chúa được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an bình, thịnh vượng. Nên, chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không ngừng, nhưng phải mặc cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm việc là để cho gia đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động cũng có nghĩa là góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công việc, lao động có ý nghĩa cứu rỗi…
Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn viêc làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc vv…Xin Chúa chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để chúng ta hiểu rõ: “ làm do chúng ta và ban do Chúa “.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen.(Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Lao động để làm gì?
2. Làm việc tay chân và làm việc trí óc có mệt ngang nhau không?
3. Chúa Giêsu có lao động?
4. Đối với Chúa Giêsu lao động có ý nghĩa gì?
23. Công ăn việc làm--Lm. Thái Nguyên
Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng Ba Tết để “thánh hoá công ăn việc làm”, nghĩa là để công việc làm ăn của người tín hữu được Chúa chúc phúc, đem lại ý nghĩa thiêng liêng và giá trị cứu rỗi. Vì chúng ta biết rằng, mọi hoạt động của con người đều tùy thuộc vào Thiên Chúa:“Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126). Nhân gian ai cũng biết:“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Điều này nói lên mối tương quan linh thánh giữa Tạo Hóa và thụ tạo, do Thiên Chúa đã thiết đặt ngay từ đầu khi “dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất" (St 1,26). Sau đó, chính Ngài đã“đem con người đặt vào vườn Êđen, để cầy cấy và canh giữ đất đai“ (St 2, 15). Trao mọi sự vào tay con người, nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương quan phòng và tiếp tục chăm sóc không ngừng, như Đức Giêsu đã cho biết: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người. Chúng ta làm việc không chỉ vì mình hay vì gia đình, mà còn vì ích lợi chung cho xã hội, cho mọi người. Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (GS 34).
Lao động như thế không chỉ giúp con người có của ăn nuôi thân, mà còn làm tăng giá trị nhân phẩm, góp phần xây dựng một thế giới yêu thương, huynh đệ và hòa bình. Chính vì vậy mà Đức Giêsu coi việc góp phần của mỗi người là một điều hệ trọng, là một trách nhiệm lớn lao mang tính quyết định về số phận của một cuộc đời. Ngài nói rõ điều đó qua dụ ngôn những nén bạc, mà ông chủ giao cho các tôi tớ để sinh lợi khi ông đi xa. Số nén bạc trao tuy không đồng đều như nhau, nhưng ai cũng phải cố gắng để sinh lợi tối đa. Ngày ông chủ trở về và tính sổ, hai người đầu tiên đã đi làm ăn và sinh lợi xứng đáng với kỳ vọng của ông chủ, được coi là “tôi tớ tốt lành và trung tín”.
Còn người thứ ba lại đào lỗ chôn dấu nén bạc mình đã nhận. Khi ông chủ trở về, anh trả lại nén bạc còn nguyên, không hề đầu tư sinh lợi, vì anh sợ ông chủ “là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi”. Vì nghi ngờ ông chủ là người xấu, nên anh không dại gì bỏ công sức ra để phục vụ. Thật ra, đó cũng chỉ là lý do ngụy biện để che lấp tính cách của một “tôi tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng”. Sự thật là ông chủ không hà khắc như anh nghĩ, mà lại rất hào phóng, vì nén bạc của anh được lấy lại để trao cho người đã có mười nén. Tiếc xót cho anh, vì lười biếng, muốn sống an nhàn, nên trong phút chốc đã đánh mất cơ hội ngàn đời. Quả thật: “Một phút sa chân là ngàn đời ân hận”.
Ông chủ đi xa là hình ảnh của Đức Giêsu, còn những tôi tớ là các Kitô hữu đang chờ Chúa đến vào ngày Quang Lâm. Trong khi chờ đợi, Ngài đòi chúng ta phải đầu tư số vốn là chính cuộc đời mình với mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên. Dù vốn nhiều hay ít không quan trọng. Vấn đề là làm sao nỗ lực hết mình để sinh lợi từ những gì Chúa đã trao ban. Điều này đòi chúng ta phải mạnh dạn, sáng kiến, dám mạo hiểm, và đôi khi liều lĩnh để dấn thân vào những công việc mới mẻ, khó khăn. Đã làm thì không sợ lỗ lã hay thất bại, vì đối với Chúa, sự thành công của chúng ta đã nằm ngay trong chính sự hy sinh tận tụy của mình.
Chúa đòi chúng ta phải làm việc để sinh lợi không phải vì Ngài nhưng vì chúng ta. Chẳng ai có thể thêm gì cho Chúa. Ngài không đòi ta phải nộp cho Ngài cả vốn lẫn lời. Dâng hiến cho Chúa chỉ là nói lên tình yêu mến đã ngập tràn trong trái tim ta. Hạnh phúc của Chúa là thấy ta trưởng thành qua việc góp phần với Ngài cho ngôi nhà trái đất này tươi tốt hơn, cho cuộc sống con người trở nên phong phú và dồi dào hơn. Và rằng: mọi thành quả do công khó của con người làm nên sẽ không mất đi, nhưng được biến đổi trong ngày sau hết, trong “trời mới đất mới”, nơi Thiên Chúa hiển trị ngàn đời, và Ngài là tất cả cho tất cả.
Lạy Chúa!
Dấu hiệu của người trẻ trưởng thành,
là khi mỗi người có nghề nghiệp,
việc làm khiến cho chúng con,
nâng cao ý thức sống tròn tương quan.
“Ai không làm thì cũng đừng ăn”,
lười biếng không chỉ nhục bản thân,
mà còn hủy hoại ân ban,
như người tôi tớ tiêu tan một đời.
Làm việc để thực hiện những ước mơ,
tự lực cánh sinh không chờ ai giúp đỡ,
cho con có những cơ hội triển nở,
sống trách nhiệm và xoay sở cuộc trần,
chống lại xu hướng chủ nghĩa cá nhân,
và trào lưu hưởng thụ đang bành trướng.
Làm việc là giúp con nên giống Chúa,
không bon chen hay tranh chấp hơn thua,
nhưng góp phần trong công trình sáng tạo,
để con người và vũ trụ nên hoàn hảo.
Nhưng xin cho chúng con đừng quên rằng,
mình đang sống trong đời đầy biến động,
tham lam và dục vọng vẫn không ngừng,
con người bị lung lạc dễ vong thân.
Vì kinh tế được coi như cứu cánh
nên tất cả bị lôi vào sản xuất,
khiến con người đánh mất cả lòng nhân,
mất tình thân và lẽ sống tinh thần.
Xin cho con biết làm việc tận tình,
như một đầy tớ tốt lành và trung tín,
biết hy sinh và sẵn sàng cống hiến,
đền đáp lại những gì Chúa đã ban.
Bằng một tình yêu mến dâng ngập tràn,
vì hạnh phúc đời con là chính Chúa,
xin cho con cứ vui sống bình an,
vượt gian nan về tới bến thiên đàng. Amen.
24. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt 25,14-30)
Ngày mồng ba tết, Giáo Hội nhắc nhở con người về sự hiện diện của Chúa trong mọi việc, trong mọi trạng huống của cuộc đời: “ Không có Ta các con không thể làm gì được”. Chúa ban cho ta sức mạnh, tài năng, trí tuệ, khả năng để lao động sản xuất. Khoa học kỹ thuật cao, văn minh tiến bộ, nhưng sức riêng con người nào đâu có thể thành công được gì! Chúa ban cho ta vốn liếng để ta sinh lợi, nhưng: “ Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (L’ homme propose, Dieu dispose). Ngày tết, người ta có tục lệ lì xì cho trẻ con để lấy hên, mỗi em tùy cách với số tiền mừng tuổi có thể làm nên việc cho bản thân mình.Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể áp dụng vào câu chuyện lì xì ngày tết.
VÍ DỤ NÉN BẠC: Mỗi người chúng ta sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ơn huệ đặc biệt. Có người Chúa ban cho ơn thông minh, có người được ơn ngôn sứ, được ơn phân giải những điều hay lẽ phải.Có người được Chúa ban cho tài năng làm nên danh phận. Mỗi người dù Chúa trao nhiều hay Chúa trao ít, Chúa vẫn đòi hỏi con người phải sinh lợi ra trên số vốn Chúa trao ban. Tin Mừng hôm nay ra định mức là phải làm lợi ra gấp đôi. Chúa lấy dụ ngôn này để ám chỉ tới Ngài. Ngài đã trao cho người 5 nén, 2nén và 01 nén. Tất cả phải làm ra, sinh lời ra vì làm biếng và xét nét trước lòng nhân hậu của chủ, của Thiên Chúa như người được trao một nén sẽ bị lấy lại nén bạc Chúa đã tặng ban mà còn bị luận phạt vì tính ích kỷ và làm biếng nữa. Đúng là đoạn Tin Mừng cho ta thấy tính cách nghiêm minh của Thiên Chúa, sự công bằng và lòng ngay thẳng của Ngài trước thái độ của mỗi người. Đoạn Tin Mừng này cho thấy tính hài hước, cười ra nước mắt và hạnh phúc đến tột độ của mỗi người được Thiên Chúa trao ban tài năng và kho tàng tài sản của mình. Chúa cũng giúp con người ý thức hơn về việc quản lý những gì Chúa trao ban cho mỗi người: trí khôn, khả năng, vật chất, của cải và cả vũ trụ, tài nguyên Chúa ban nhưng không cho nhân loại, cho mỗi người. Tất cả, những thứ đó đều do Chúa ban, con người phải biết phát huy những thứ đó cho tốt đẹp, để phục vụ chứ không phải để sở hữu riêng cho mình.Ý thức mọi sự là của Chúa ban và con người, loài người chỉ là quản lý những thứ đó, nên con người phải làm sao cho những của Thiên Chúa ban được phát triển tốt đẹp theo ý của Chúa.
MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN: Vật chất, lương thực theo cái nhìn Kitô là của Chúa. Con người có dự tính, có kế hoạch nhưng mưa thuận gió hòa là do Trời, do Thiên Chúa.Chính vì thế, trung thành với ông chủ, với Thiên Chúa sẽ sinh lợi theo ý của Ngài. Đời là vốn và sự sống chính là biết phát triển những gì Chúa đã trao ban nhưng không cho mỗi người. Thánh hoá công ăn việc làm là điều cần thiết để mỗi người nhận ra sự hiện hữu của Chúa trong vũ trụ, trong đời sống, trong mỗi người. Lao động trí óc hay chân tay đều là những khả năng Thiên Chúa ban cho. Con người dù có giỏi đến đâu mà không cậy trông sức thiêng hộ phù chắc chắn khó thành đạt trên bước đường kinh doanh hay trồng cấy.
Mồng ba tết, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm là điều cần thiết nhất để nói lên sự phù trợ của Thiên Chúa và ” Không Thầy, các con không làm được gì “.
Xin Chúa chúc lành cho những công việc con người đang theo đuổi. Xin Chúa ban bình an cho những tâm hồn thành tâm thiện chí. Cuộc sống do Chúa ban. Sự sống của con người thuộc về Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho những gì Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người. Nếu con người luôn ước mong làm lợi cho cuộc đời, họ phải hiểu rằng người Kitô hữu luôn hướng về bàn tiệc nước trời, bàn tiệc của mùa xuân vĩnh cửu, bất diệt.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con để cuộc đời của mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của Chhúa.Amen.
25. Suy niệm Lời Chúa--Lm. Nguyễn Thể Hiện
Lãnh vực công ăn việc làm là một trong những lãnh vực quan trọng trong đó chúng ta thể hiện mối tương quan đích thực của chúng ta với Thiên Chúa. Chính khi thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày, chúng ta tự diễn tả mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa; và ngang qua việc thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa đưa vào hưởng niềm hoan lạc của chính Ngài.
1. Một dụ ngôn được nói cho chúng ta và nói về chúng ta
Với dụ ngôn những yến bạc, Đức Giêsu công bố rằng chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa như những đầy tớ phải chịu trách nhiệm trước mặt Người; rằng mọi sự chúng ta có đều là của cải Thiên Chúa ký thác cho chúng ta; rằng chúng ta không được tuỳ tiện sử dụng những thứ chúng ta có theo ý riêng mình, song là phải theo đường hướng mà Thiên Chúa muốn; rằng Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải tính toán sổ sách với Người về những điều thiện hảo đã được trao phó cho chúng ta; và rằng sự thành công hay thất bại của cuộc đời chúng ta tuỳ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trong những gì Thiên Chúa trao phó cho chúng ta.
Qua cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành và trung tín, Đức Giêsu cho thấy đâu là cách hành xử đúng đắn của chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Còn qua cách hành xử và số phận của tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác, Ngài cho thấy một kẻ xấu xa sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt như thế nào.
2. Điều quan trọng là mối tương quan giữa ông chủ và các đầy tớ của ông
Những người đầy tớ không được tự tại nơi mình, nhưng là ở trong một mối tương quan tuỳ thuộc và phục vụ đối với ông chủ. Chính bản thân họ thuộc về ông chủ, những điều thiện hảo được ký thác cho họ là của ông chủ và những gì họ có thể làm ra cũng xuất phát từ tài sản của ông chủ chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ bản thân họ. Như thế là trong những phương diện khác nhau, họ đều được nối kết chặt chẽ với ông chủ. Mà nếu vậy, cách hành xử của họ sẽ vừa tuỳ thuộc vừa biểu lộ cái quan niệm mà họ có về ông chủ của mình.
Hình ảnh những người đầy tớ trong dụ ngôn này cũng là hình ảnh của chúng ta trong tương quan với Thiên Chúa. Hình ảnh này cho thấy rằng chúng ta, và cùng với chúng ta là tất cả những gì chúng ta có, đều là thụ tạo của Thiên Chúa; rằng chúng ta không thể tự tại nơi chính mình; rằng mọi khả năng của ta đều đến từ bàn tay Thiên Chúa.
Nhưng không phải là mọi người đều được đón nhận cùng những ân huệ y như nhau; ông chủ giao phó của cải của mình cho các đầy tớ nhiều hay ít là tùy khả năng của họ. Ông biết rõ từng đầy tớ của mình. Tình yêu tôn trọng tự do và điểm độc đáo riêng của mỗi người. Thật phi lý nếu chúng ta đòi Thiên Chúa phải ký thác tài sản của Ngài cho mọi người theo lối bình quân chủ nghĩa cứng nhắc và phi nhân.
3. Cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành
Hai người đầy tớ tốt lành lập tức bắt tay vào việc. Họ sử dụng những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình phù hợp với ý muốn của ông chủ. Họ đặt mình dưới những mục tiêu của ông chủ và lưu tâm đến những bận tâm của ông chủ. Hoạt động của họ hữu hiệu. Họ đến trình diện với ông chủ trong tư thế đàng hoàng của người đã thực hiện tốt những gì được trao phó cho mình.
Và họ đã nhận được niềm vui trào tràn. Ông chủ đã tuyên bố họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Người đầy tớ tốt lành là người hoàn toàn đón nhận vị trí của mình trong tương quan với ông chủ và đặt mình trong tư thế phục vụ ông chủ. Anh ta không chạy theo những ý tưởng riêng của chính mình hoặc những tâm trạng riêng của mình, anh ta không giữ khoảng cách xa với ông chủ, nhưng hành động theo những mục tiêu và những mối quan tâm của ông chủ. Người đầy tớ trung tín là người phục vụ ân cần và luôn ý thức rằng những điều anh ta có trong tay là những điều được ký thác cho anh.
Sau khi hai người đầy tớ đã chứng tỏ những phẩm chất tốt lành và trung tín, ông chủ có thể tin tưởng mà trao phó cho họ những nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông cho họ vào hưởng hạnh phúc dư tràn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng Mt nói về sự “vào Nước Trời” (thí dụ 5,20; 7,21; 18,3), về sự “vào cõi sống” (18,8.9; 19,16), còn ở đây thì là “vào niềm vui”. Nước Trời có nghĩa là cõi sống và niềm hoan lạc vô biên dành cho những ai thuộc về Nước ấy. Ông chủ không giữ khoảng cách với những người đầy tớ tốt lành, nhưng ông đón nhận họ vào cõi sống của ông, vào sự hoan lạc đầy tràn của ông. Chúng ta không thể đạt tới cùng đích đó và không thể đi vào trong sự hoàn thành phúc lạc cuộc đời chúng ta chỉ dựa trên sức lực của riêng chúng ta, cũng không phải là ngang qua một cuộc hành trình do chúng ta chọn lựa và quyết định, nhưng chỉ là trong sự phục vụ Đức Chúa. Hai người đầy tớ tốt lành, cho dù khác nhau về kết quả công việc, đã đều được hưởng cũng một niềm hạnh phúc như nhau. Điều đó cho thấy niềm hạnh phúc mà họ được hưởng không được ban phát tuỳ theo điều họ đã làm được, mà là tuỳ theo lòng tốt của ông chủ và lòng trung thành của họ.
4. Cách hành xử và số phận của anh đầy tớ xấu xa
Ngay từ đầu, anh đầy tớ này đã có một mối tương quan sai lạc đối với ông chủ của anh ta. Anh ta coi ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông chủ (25,24.25). Anh ta biết mình tuỳ thuộc ông chủ, nhưng anh ta không đặt mình dưới quyền bính của ông trong tin tưởng và chuyên cần. Anh ta sống sự tuỳ thuộc của mình vào ông chủ như một sự gì nặng nề, và anh ta bực tức với ông chủ như là với một người chuyên đi áp bức người khác, bắt người khác làm việc cho mình và bóc lột người khác. Trong mắt anh ta, ông chủ là người hà khắc xấu xa. Và anh ta từ chối dịch vụ mà ông chủ muốn anh ta thực hiện. Anh ta không thi hành ý muốn của ông chủ. Tuy anh ta không phung phí của cải đã được trao cho anh ta, anh ta cũng không dùng của cải ấy để tư lợi hay tiêu xài, nhưng anh ta lại đã để cho những của cải mà ông chủ đã ký thác cho anh ta thành ra vô dụng, rồi đem trả lại cho ông chủ đúng như anh ta đã nhận từ ông.
Kết cục, ông chủ gọi anh ta là tên đầy tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng, một người đã hoàn toàn đánh mất chính mình và đánh mất quyền lợi của mình khi không thực hiện bổn phận mình. Như anh ta đã từng cố ý giữ khoảng cách thật xa với ông chủ, thì bây giờ, ông chủ sẽ giữ khoảng cách thật xa với anh ta. Anh ta đã không đặt mình trong sự hiệp thông sâu xa và hữu hiệu với ông chủ, nên ông chủ phải để anh ta bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có sự sống, mà chỉ có khóc lóc nghiến răng vì phải chịu sự huỷ diệt kinh hoàng. Chỗ tối tăm bên ngoài, nơi khóc lóc nghiến răng… chính là sự huỷ diệt dành cho những kẻ bị truất quyền hưởng Nước Trời (x. Mt 8,12). Bị loại khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, bị loại khỏi ánh sáng, bị loại khỏi sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa, thì không chỉ có nghĩa là không được tràn đầy hạnh phúc, không được sống viên mãn, mà còn là phải ở trong tình trạng khốn khổ, đau đớn, tuyệt vọng và tăm tối.
Chúng ta chỉ có thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu chúng ta đặt mình phục vụ Thiên Chúa, bằng cách sử dụng đúng đắn, theo ý Thiên Chúa, tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng và trao phó cho chúng ta: sự sống, thời gian, khả năng, cơ hội, của cải… Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta những thực tại tốt lành đó, và chúng ta sẽ phải trả lời về việc sử dụng chúng.
Chúng ta thực hiện cuộc sống mình không phải là trong sự sợ hãi đối với Thiên Chúa, nhưng là trong tin tưởng, phó thác và yêu mến Người. Chính vì vậy mà chúng ta cầu xin Người thánh hoá công ăn việc làm của chúng ta. Lời cầu nguyện như thế sẽ được nhận lời, nếu trong lời cầu nguyện đó, chúng ta tuyên xưng mình chỉ là đầy tớ của Người, luôn chỉ muốn sử dụng, phù hợp với ý muốn của Người, tất cả những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình, luôn đặt mình dưới những mục tiêu của Người và luôn lưu tâm đến những bận tâm của Người.
Lời cầu nguyện đó sẽ được mang vẻ đẹp của chính lời nguyện xin của Đức Thánh Trinh Nữ, Mẹ chúng ta: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!” (Lc 1,38).
26. Suy niệm Lời Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Hôm nay là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong tam nhật hành hương minh niên của chúng ta kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Trong lịch phụng vụ của Hội Thánh Việt Nam, ngày Mồng 3 Tết là ngày cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Do đó, hôm nay, khi quây quần bên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để cầu nguyện, có lẽ tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang nặng những ưu tư, những bận tâm về công ăn viêc làm và về đời sống của chúng ta trong năm mới này. Chính trong mối ưu tư về công ăn việc làm và về đời sống đó, chúng ta hiệp lời với Đức Mẹ nài xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả công việc mà chúng ta sẽ làm trong năm mới này.
Bài Tin Mừng vừa được công bố trích trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, kể về dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện tại tiệc cưới Cana. Đối với người Do Thái ngày xưa, rượu trong tiệc cưới là biểu tượng của tình yêu giữa cô dâu với chú rể, giữa chú rể với cô dâu, tức là biểu tượng cho thực tại quan trọng nhất làm cho mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi thực tại trong lễ cưới trở nên có ý nghĩa. Tình yêu giữa người vợ và người chồng là yếu tố căn bản làm nên gia đình, làm nên sự thành công của gia đình. Thế mà trong đám cưới này lại xảy ra tình trạng thiếu rượu, tức là thiếu yếu tố quan trọng đem đến sự thành công. Ông quản tiệc là người chịu trách nhiệm về việc tổ chức đám cưới và xử lý những vấn đề nảy sinh ở đám cưới thì lại chẳng biết gì về tình trạng bi đát ấy. Nhưng có một người, là thân mẫu Đức Giêsu, đã nhận ra tình trạng bi đát đó. Thân mẫu Đức Giêsu đã trình bày vấn đề với Đức Giêsu, Con của Người. Mẹ đã không đến với ông quản tiệc để nói cho ông quản tiệc biết mà xử lý vấn đề của tiệc cưới. Mẹ đến với Đức Giêsu, trình bày với Đức Giêsu và chờ đợi sự can thiệp của Đức Giêsu. Và quả thật, Đức Giêsu đã can thiệp để giải quyết tình trạng hết sức cấp bách và bi đát ấy. Người đem lại cho đám cưới Cana sự thành công như lòng Thiên Chúa mong ước.
Kính thưa anh chị em,
Ngày hôm nay, khi chúng ta đến với Đức Mẹ và trình bày với Đức Mẹ về tình trạng của cuộc sống và những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, là chúng ta đến trong lòng tin rằng Mẹ sẽ can thiệp bên cạnh Chúa Giêsu để Chúa Giêsu chúc lành, thánh hóa và làm cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm nay được thành công. Chính trong cái xác tín đức tin ấy mà chúng ta quây quần bên Mẹ. Vậy đâu là những tâm sự mà chúng ta muốn thưa với Đức Mẹ bây giờ, thưa anh chị em?
(1) Trước hết, chúng ta đến đây, trong buổi chiều Mồng 3 Tết này, là để cùng với Đức Mẹ tuyên xưng rằng sự thành công của đời sống chúng ta và của công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này, hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng quyết định. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho công ăn việc làm và đời sống của chúng ta trong năm mới này thành công. Nói như lời tác giả Thánh Vịnh: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Vậy chính trong lòng tin đó mà chúng ta đặt dưới chân Đức Mẹ những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm trong năm mới này, xin Đức Mẹ can thiệp với Thiên Chúa để Thiên Chúa chúc lành cho công ăn việc làm và cho đời sống chúng ta. Vì thế, vượt xa hơn một lời cầu xin, sự quy tụ của chúng ta chiều hôm nay ở đây là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng và quyền quyết định của Thiên Chúa trên vận mạng và sự thành công của chúng ta.
(2) Nhưng không chỉ như thế, thưa anh chị em. Ngày lễ hôm nay được gọi là ngày xin ơn thánh hóa công ăn việc làm. Chúng ta không chỉ xin sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng còn đi xa hơn nữa, chúng ta xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, nghĩa là làm cho những hoạt động của chúng ta trong năm mới này trở nên phương thế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại của thế giới mai hậu. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại siêu nhiên mà thôi. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là ơn cứu độ con người toàn diện. Trong cái toàn diện và cụ thể trong đời sống chúng ta, Thiên Chúa cứu chúng ta. Và mọi thực tại thuộc về đời sống con người đều có thể trở nên phương thế để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Thiên Chúa cứu chúng ta là cứu trong cái thực tại thế tạm, thực tế và cụ thể của đời sống chúng ta.
Khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa những hoạt động của chúng ta trong năm mới này, chúng ta tuyên xưng một xác tín, rằng ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta là một thực tại toàn diện. Khi qui tụ đông đảo ở đây để xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên bố với thế giới và với mọi người rằng tôn giáo không chỉ gói gọn trong những thực tại siêu nhiên thuộc thế giới bên kia, vì mọi thực tại thế tạm đều “dính dấp” đến tôn giáo và đời sống tôn giáo của chúng ta cũng “dính dấp” đến mọi thực tại của cuộc sống này. Vậy ai nói rằng Hội Thánh Công Giáo không được quyền lên tiếng về những vấn đề xã hội, hoặc rằng Hội Thánh Công Giáo chỉ nên gói gọn hoạt động của mình trong các lễ hội bên trong nhà thờ, thì người ấy đang phản bội Tin Mừng đấy, thưa anh chị em. Bởi vì Thiên Chúa đến cứu chúng ta và Người muốn thánh hóa mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống cụ thể của chúng ta. Mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống thế tạm và cụ thể đều trở thành phương thế cứu độ.
Thành ra, với việc anh chị em qui tụ ở đây bên cạnh Đức Mẹ và xin Đức Mẹ chuyển cầu để Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên xưng một sự dấn thân làm cho những thực tại thế tạm, những thực tại của công ăn việc làm chẳng hạn, trở thành phương thế cứu độ con người. Đó là ý nghĩa và tâm tình thứ hai mà chúng ta thưa lên với Đức Mẹ và cùng với Đức Mẹ tuyên xưng đức tin trước nhan Thiên Chúa trong buổi chiều ngày Mồng 3 Tết này.
(3) Nhưng, kính thưa anh chị em, tất cả chúng ta ở đây đều không ai sống một mình. Ngay cả trong lãnh vực công ăn viêc làm, chúng ta cũng ý thức rất rõ ràng tác động của cộng đồng và của xã hội trên đời sống riêng của mỗi người chúng ta.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được rằng những quyết định của nhà cầm quyền sẽ ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp lên công ăn việc làm của chúng ta. Tôi lấy thí dụ: mô hình tăng trưởng nào được lựa chọn để làm mô hình tăng trưởng cho đất nước chúng ta? Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta. Chính sách thuế khóa sẽ trực tiếp ảnh hưởng trên công ăn việc làm của mỗi người chúng ta. Một quy hoạch nào đó của một vùng nào đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ trên cuộc sống và trên công ăn việc làm của cộng đồng cư dân trong vùng đó. Không thể phủ nhận được tác động của các chính sách của những nhà cầm quyền trên công ăn việc làm của chúng ta.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận được tác động của những hiện tượng xấu như tệ nạn xã hội, tình trạng an ninh, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, sự suy thoái trong đời sống đạo đức, cách riêng là sự suy thoái đạo đức của những người có quyền trong các lĩnh vực khác nhau, công cũng như tư. Chúng ta không thể phủ nhận được tác động trực tiếp và tiêu cực của những chuyện đó trên công ăn việc làm của chúng ta. Sự thành công trong công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này sẽ chịu ảnh hưởng và tác động của những điều đó.
Ý thức như thế, chúng ta đến với Đức Mẹ chiều hôm nay để trình bày với Đức Mẹ cuộc sống cụ thể của chúng ta. Xã hội của chúng ta vẫn còn đầy dẫy những bất công. Chính ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong báo cáo tổng kết 5 năm cầm quyền vừa qua của Đảng Cộng sản tại đại hội lần thứ 11 cũng đã phải thừa nhận rằng: “Nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội, tình trạng tội phạm, sự suy thoái về đạo đức và lối sống … vẫn chưa được ngăn chặn”, có nghĩa là vẫn còn tồn tại đầy dẫy trong xã hội. Đi xa hơn ông Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Văn An – nguyên Chủ tịch Quốc Hội từ năm 2001 đến 2006, cách đây vài tháng, khi trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, đã không chỉ đề cập đến những sự suy thoái hay những hiện tượng này khác. Ông đề cập đến một lỗi hệ thống và ông bàn đến chuyện sửa sai lỗi hệ thống ấy. Có một số đảng viên cộng sản không đồng ý với cách lý giải của ông Nguyễn Văn An, tức là không đồng ý rằng có một lỗi hệ thống trong đường lối xây dựng xã hội chúng ta. Nhưng tôi chắc rằng không ai trong các đảng viên cộng sản hiện nay và cũng chẳng ai trong chúng ta ở đây mà không đồng ý với ông Nông Đức Mạnh rằng trong xã hội chúng ta còn đầy dẫy tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, tình trạng tội phạm, tình trạng tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức của nhiều người, cách riêng là rất nhiều người cầm quyền trong các lĩnh vực khách nhau. Vì đó là thực tế đập vào mắt chúng ta hàng ngày.
Và tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta.
Thế mà, như lời Kinh Thánh nói: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.
Vậy, hôm nay, khi chúng ta quây quần bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Đức Mẹ đặt những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm và về đời sống chúng ta lên trước nhan Thiên Chúa, là chúng ta xin Đức Mẹ nhìn đến tình trạng đó của chúng ta. Chúng ta xin Đức Mẹ can thiệp trước nhan Thiên Chúa để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, ngăn chặn tệ nạn hối lộ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức của những người có quyền. Chúng ta xin Đức Mẹ ngăn chặn và hơn nữa, triệt tiêu những tệ nạn trong việc phân chia lợi tức xã hội, những tệ nạn trong lĩnh vực giáo dục, trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực giao thông…, tức là những tệ nạn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ảnh hưởng đến công ăn việc làm và ảnh hưởng đến hoạt động của chúng ta trong năm nay. Chúng ta xin Đức Mẹ và chúng ta biết rằng Đức Mẹ đủ quyền năng để giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiêu những tác hại của các tệ nạn đó.
Đàng khác, chúng ta biết rằng sự thành công đích thực của toàn xã hội và vì vậy là của tất cả chúng ta, chính yếu thuộc về điều này: đó là tự do và phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Khi nào tự do và phẩm gián của con người được tôn trọng, khi ấy xã hội mới phồn vinh đích thực, mới ổn định đích thực. Còn khi nào tự do, phẩm giá và nhân quyền không được tôn trọng, thì lao động và công ăn việc làm, thay vì là phương thế làm cho chúng ta triển nở và làm cho chúng ta trở nên người hơn, thì lại trở thành gánh nặng, lại trở thành ách nô lệ, lại trở thành yếu tố làm cho con người tha hóa, vong thân. Thành ra, chúng ta đến đây với Đức Mẹ để xin Đức Mẹ phù trợ, để xin Đức Mẹ chúc lành, xin Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta trong năm này, là chúng ta xin cho sự tự do, xin cho phẩm giá của con người, xin cho các quyền căn bản của con người… ngày càng được tôn trọng, và xin cho xã hội của chúng ta trở nên một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(4) Tất nhiên, bên cạnh những tệ nạn, chúng ta cũng biết rằng trong xã hội chúng ta vẫn còn đấy những yếu tố hết sức tích cực, đặc biệt là những yếu tố tích cực từ những phận đời nhỏ bé. Anh chị em hãy nhớ lại: năm vừa rồi, khi bão lụt tràn về miền Trung, rất nhiều người đã cùng nhau góp phần của mình giúp anh chị em miền Trung qua cơn đại nạn lũ lụt. Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình đề đem lại sự ổn định cho đời sống của anh chị em ở miền Trung. Một ví dụ khác: nhiều người trong chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình để anh chị em dân tộc thiểu số ở bên cạnh dòng sông Pôkô trên Tây Nguyên không còn phải đi học hay vận chuyển những gùi sắn, gùi lúa của mình qua sông bằng cách đu dây cáp. Một chiếc cầu dây đã được bắc qua sông Pôkô từ những tấm lòng của bạn đọc khắp nơi của báo Tuổi Trẻ. Đấy là một bằng chứng về lòng nhân ái và về sự trợ giúp của những người nghèo với nhau. Một ví dụ khác: anh Trương Xuân Thức, người lái tàu trên một chuyến tàu hỏa gặp nạn, đã làm hết cách, thậm chí là hy sinh cánh tay trái của mình, để bảo đảm an toàn cho chuyến tàu ấy. Và khi thấy anh gặp nỗi đau vì hy sinh như thế, nhiều người ở khắp nơi đã an ủi, đã nâng đỡ, đã góp phần cùng với anh xoa dịu nổi đau của sự tật nguyền mà anh phải mang do sự hy sinh cứu những người khác. Đấy là bằng chứng rằng những người nghèo trong xã hội chúng ta, những phận đời bé nhỏ trong xã hội chúng ta, vẫn đóng góp phần mình để làm cho xã hội được nhân bản hơn, văn minh hơn. Rồi chúng ta biết có nhiều luật sư đã dám dấn thân để bảo vệ người nghèo trong các vụ án, cho dù họ phải trả giá bằng sinh mạng kinh tế, sinh mạng chính trị và ngay cả sinh mạng thể lý. Có những nhà báo bất chấp nguy hiểm để phanh phui những tệ nạn, tố giác tiêu cực… để xã hội nên trong sáng hơn… Và còn nhiều lắm. thưa anh chị em, những tấm lòng nhân ái làm cho cuộc sống của chúng ta an bình hơn, làm cho cuộc sống của chúng ta nhân bản hơn và nhờ vậy sự thành công của mỗi người được đảm bảo hơn.
Vậy hôm nay, khi qui tụ về đây để xin Đức Mẹ cầu bầu với Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta xin Đức Mẹ chúc lành và nâng đỡ những tâm hồn ấy, những con người ấy, tức là chính chúng ta và là biết bao người nghèo khác. Đức Mẹ, tại tiệc cưới Cana, đã khích lệ, đã dạy dỗ, đã chỉ dẫn cho các gia nhân để họ cộng tác với Chúa Giêsu mà đem rượu mới cho đám cưới. Xin Mẹ, ngay hôm nay, trong năm này, cũng an ủi, khuyến khích, nâng đỡ chúng ta và tất cả những người thành tâm thiện chí khác, để chúng ta góp phần mình làm cho làm cho tự do, nhân quyền và phẩm giá con người được tôn trọng trong xã hội chúng ta. Và trên cái nền ấy, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng cuộc sống của mình.
Tóm lại, kính thưa anh chị em, chiều hôm nay,
– thứ nhất, khi đến bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Mẹ dâng lên Thiên Chúa những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, về hoạt động, về đời sống của chúng ta trong năm mới, chúng ta thưa lên với Đức Mẹ xác tín rằng đời sống và sự thành công của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”.
– thứ hai, khi cùng với Đức Mẹ ra trước nhan thánh Thiên Chúa để dâng lên lời cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, chúng ta xác tín rằng những hoạt động nhỏ bé và trần thế của chúng ta có thể trở thành phương thế cứu độ chúng ta.
– thứ ba, cùng với Đức Mẹ, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời nguyện xin tha thiết, để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiệu những tệ nạn đang tác oai tác quái trên đời sống chúng ta: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.
– thứ tư, chúng ta nguyện góp phần mình làm cho xã hội ý thức hơn về tự do, về nhân phẩm và nhân quyền. Chúng ta nguyện góp phần vào việc làm cho xã hội ổn định hơn, làm cho xã hội phát triển một cách đích thực hơn như chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta xin Đức Mẹ khích lệ, nâng đỡ để giúp chúng ta dám dấn thân xây dựng xã hội tốt lành, trong đó mọi người có cơ hội phát triển đích thực như thánh ý Chúa muốn.
Kính thưa anh chị em,
Ngày xưa, Đức Mẹ đã nhìn thấy tình trạng tiệc cưới Cana thiếu yếu tố căn bản làm cho bữa tiệc ấy có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ cũng đang nhìn thấy những thiếu thốn căn bản để cuộc sống của chúng ta có thể phát triển.
Ngày xưa Đức Mẹ đã thưa với Chúa Giêsu để Người can thiệp tại tiệc cưới Cana và ban rượu ngon làm cho bữa tiệc cưới ấy được thành công và có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn cầu nguyện với Chúa để Người ban những yếu tố căn bản, giúp cho xã hội chúng ta được vận hành và phát triển một cách đích thực như lòng Chúa muốn.
Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng con và ban ơn cho chúng con. Xin Đức Mẹ chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này. Amen.
27. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
VIỆC LÀM VÀ LÀM VIỆC TRONG NĂM MỚI SẼ NHƯ THẾ NÀO?
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên Chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh Phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thân, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen
28. Thánh hóa công việc làm
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời gọi mọi người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng Thánh Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “những người đầy tớ và những yến bạc” để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến công việc làm ăn:
Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các đồ đệ, không phải là “số các yến bạc được trao bao nhiêu”, mà là “những người đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào”. Người lãnh năm nén đã đi làm lợi năm nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng người lãnh một nén lại đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi giận vì cách thế biếng nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và thứ hai khác nhau về số các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các nén bạc được trao ra sử dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người cuối cùng không bắt tay vào việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi đã đem chôn đi cái mình được trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy tớ ta thấy: người ta không bằng nhau ở “số lượng” nhưng bằng nhau ở “nỗ lực”. Nếu so “số lượng nén bạc” được trao của người thứ nhất và người thứ hai chắc chắn ta thấy khác nhau, nhưng “nỗ lực công việc” và phần thưởng danh dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.
Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là điều nhắc nhở mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi người rất khác nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi người hải nỗ lực cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.
Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ đệ là: phần thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là người đó được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ, chứ không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã có.
Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành cho những người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho họ nhiều khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.
Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ là: những khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất kỹ sẽ mai một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn nhạc,… nếu bạn đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn vùi bạn sẽ đánh mất nó.
Quý vị và các bạn thân mến,
Ngày hôm nay mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Chúa đã luôn nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi người các nén bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với Chúa để làm phát triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. “Ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn”.
Lạy Chúa,
Đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình với người khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc chúng con không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt thành của chúng con.
Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng chúng con.
Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn định, đời sống an bình tươi vui. Amen.
29. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)--Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng
Phụng Vụ Lời Chúa và các lời nguyện trong thánh lễ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về bản chất và ý nghĩa công ăn việc làm của con người. Thiên Chúa đặt mỗi người vào một khu vườn phù hợp với họ như ruộng đồng, nhà máy, phòng thí nghiệm, giảng đường, sân khấu, … để thực hiện nhiệm vụ cao cả là hoàn thành công trình sáng tạo của Người (BĐ1). Tuy vậy, con người không lao tác một mình và cho bản thân mình, nhưng cần dùng thành quả lao động để chia sẻ và đỡ nâng những ai túng cực (BĐ2). Muốn vậy, chắc chắn con người phải siêng năng làm việc, phải dùng hết sức lực và trí khôn Chúa ban để sinh lợi theo ý Người muốn (BĐ3).
Nói cách khác, lao động của con người được Thiên Chúa chúc phúc và mặc cho một cùng đích siêu việt: làm việc không chỉ để có phương tiện độ nhật, không chỉ để sống hạnh phúc trên trần gian này, mà còn để đạt được kho tàng vĩnh viễn và hạnh phúc viên mãn, nơi mối mọt không đục khoét và kẻ trộm không lấy đi được. Thành ra, những giọt mồ hôi con người đổ ra khi vất vả làm lụng, khi khổ sở kiếm sống, … là những giọt mồ hôi có Chúa, những giọt mồ hôi đã được Cha Nhân Lành thấu biết và đếm cả rồi. Và khi đó, chúng ta lao động, làm ăn, bán buôn, nghiên cứu, … khác với những người không nhìn biết Thiên Chúa!
Thực vậy, thiên hạ cầu trời khấn phật, coi tướng số, cúng kiếng, xin xăm, … cho công việc được thành đạt. Có người lọc lừa, dối trá, thủ đoạn để cầu lợi; nhưng cũng có người quảng đại chia tài sản mình cho người nghèo; có người dành cả đời cống hiến cho xã hội, cho cộng đồng, …
Người Công giáo chúng ta thì xin lễ, xin khấn,… để Chúa thánh hóa và chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng ta…Chúng ta chia sẻ, đỡ nâng biết bao người anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, … bằng chính lòng bác ái và đồng tiền thu được trong lao công vất vả. Nhưng thật lòng mà nói, cũng đã có những cạnh tranh không lành mạnh, những mánh khóe, những giành giựt, những đấu khẩu, khấu thủ với nhau trên thương trường, nơi đồng ruộng hay trên nương rẫy, …. Và như thế, vô tình hay cố ý, chúng ta đã tự mâu thuẫn với chính mình, tự trở nên hợm hĩnh trước Chúa: chúng ta mời Chúa ra chỗ khác, cho con tự xoay sở, tự làm việc theo cách của con, dù trước đó chúng ta đã hết lòng cầu nguyện, xin khấn, xin lễ … để phó thác vụ việc cho Chúa.
Nói một chút về những tiêu cực trong tiết xuân tươi mới, để chúng ta kịp lắng lòng lại, kịp giật mình tự hỏi: những giọt mồ hôi tôi đổ ra đêm ngày để kiếm miếng cơm manh áo; để đem lại tương lai tươi sáng cho con cái; để tìm phồn vinh cho gia đình, cho đất nước; … có sự đồng hành của Chúa không? Có giống với giọt mồ hôi của anh thợ mộc làng Nadarét xưa không?
Ước gì trong những rộn rã của hoa quả, của lễ vật người người dâng Chúa Xuân hôm nay, chúng ta nhận ra và khao khát một điều: Xin cho những giọt mồ hôi con đổ ra là giọt mồ hôi có Chúa, hòa vào những giọt mồ hôi của Chúa, mang đậm ước muốn và phúc lành của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi lao tác cật lực với sức khỏe, với trí khôn, nhưng luôn tín thác vào Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tính toán công mua sức bán, nhưng luôn tôn trọng sự thật và luật công bằng của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tìm kiếm tiền bạc như những đầy tớ tốt, chứ không phải là những ông chủ khắc nghiệt.
Và, giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi được tích cóp từng ngày, qua năm qua tháng, … để cuối cùng, góp thành một bể yêu thương cho ta vui đùa ngụp lặn, gột rửa ta nên sạch trong, và mở ra dòng chảy vào Biển Yêu Thương của Đấng đã chấp nhận bước xuống Biển Đời lem lấm phận người để thánh hóa, để thay dòng đổi lượng cho nó đượm hương Thiên Đàng và in bóng Người Cha yêu thương đang mở rộng vòng tay đón đợi ta.
30. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”-- Jos. Vinc. Ngọc Biển
(St 2, 4b-9.15; Cv 20, 32-35; Mt 25, 14-30)
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Ấy là câu nói cửa miệng của những ai tin vào Thiên Chúa, Đấng là chủ tể mọi loài. Với thánh Phaolô, ngài xác tín mạnh mẽ và quy hướng mọi sự về Thiên Chúa. Ngài khẳng định: “Phaolô trồng, A-pô-lô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên” (1Cr 3,6).
Hôm nay, ngày mồng ba tết, cộng đoàn quy tụ nơi đây, để cùng nhau xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm cho chúng ta trong suốt năm mới. Tuy nhiên, đây còn là dịp để chúng ta bày tỏ thái độ tích cực về lao động cũng như tìm hiểu về ý nghĩa, giá trị của lao động trong nhiệm cục cứu chuộc của Thiên Chúa.
1. Trở về nguồn để hiểu giá trị của lao động
Ngay từ thủa ban đầu của xã hội loài người, chúng ta thấy Tổ tông Ađam và Eva đã được Thiên Chúa trao ban vườn Địa Đàng để: “Canh tác và giữ vườn” (St 2,15). Mặc dù nơi đây là một nơi đầy đủ và hạnh phúc dồi dào! Tuy nhiên, con người không được ở yên, mà vẫn phải giữ vườn và canh tác...
Sang thời Đức Giêsu, chính Ngài đã nói với dân chúng rằng: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
Ngài không chỉ nói, mà chính Ngài đã kinh qua trong suốt thời gian sống ẩn dật 30 năm trường trong gia đình Nazareth. Ngài đã cùng thánh Giuse lao động để kiếm tiền lo cho gia đình... Điều này đã được chính những người đồng hương với Ngài chứng minh: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” (Mc 6,3).
Với thánh Phaolô, ngài coi lao động là một việc làm có giá trị, nên một đàng thánh nhân loan báo Tin Mừng, đàng khác, ngài không ngừng lao động chân tay để tránh sự phiền hà cho tín hữu. Khi lời nói đi đôi với hành động, thánh nhân đã cất lên lời khuyên bảo: “Ai không làm việc thì đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói trong anh em có những người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10b-13).
Như vậy, lao động là một việc làm chân chính, đáng tôn trọng. Hơn nữa, lao động còn là điều kiện cần để làm người đúng nghĩa. Nếu không lao động, con người không thể thăng tiến! Bởi vì, lao động là vinh quang và khi lao động sẽ làm cho chúng ta trở nên giống Thiên Chúa hơn. Lao động còn cộng tác với chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, bởi vì, nhờ lao động, con người không ngừng làm cho thế giới này ngày càng đổi mới, thăng hoa và tốt đẹp. Khi lao động, chúng ta làm cho bức tranh nhân loại đã được Thiên Chúa tác tạo trở nên sống động và khởi sắc từng ngày.
Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa không thể làm cho hoàn thiện? Không! Ngài là Thiên Chúa quyền năng, nên Ngài làm được mọi sự. Tuy nhiên, Ngài muốn cho con người cộng tác để sinh ích lợi cho chính chúng ta.
Hơn nữa, khi lao động, con người có cơ hội làm cho tinh thần minh mẫn, trí óc hoạt động, và nhờ đó mà có thể có những phát minh hữu ích để phục vụ Giáo Hội và xã hội...
Thi hào Voltaire nói: Lao động xua đuổi xa ta 3 mối họa lớn lao ‘Buồn nản, thói hư và cùng túng’”. Sách Nho cũng nói: “Nhàn cư vi bất thiện”, và sách Tây thêm: “Sự ở nhưng là mẹ sinh ra các nết xấu”.
Với thánh Gioan Kim Khẩu thì: mỗi khi con người lao động, họ được tôn trọng hơn. Ngài ví von: “Con ong được quí trọng, vì nó làm việc không những riêng cho nó và cho cả mọi người nữa”.
Vì thế, chúng ta cần phải loại trừ quan niệm lệch lạc về lao động, coi lao động là bần tiện, khổ sai, nô lệ. Đây là cái nhìn nguy hại không chỉ cho đời sống thể xác, mà nó còn nguy hiểm cho đời sống tinh thần.
2. Ý nghĩa của ngày lễ thánh hóa việc làm
Ngày mồng ba tết được chọn để cầu nguyện xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hãy biết dâng cho Chúa và phó thác nơi Ngài tất cả. Tâm tình này đã được cha ông ta đúc kết thành câu đồng dao vừa để sống, vừa để răn dạy con cháu:
“Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp”.
Chính niềm tin ấy, đã khiến cho tổ tiên ta luôn cậy dựa bám víu và biết ơn Ông Trời:
“Ơn Trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu”.
Khi được mưa thuận gió hòa, và con người biết sống kết hợp với Ông Trời thì:
“Trời nào có phụ ai đâu!
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
Tuy nhiên, vẫn có những người tưởng chừng như mọi sự là do mình, nên đã có thái độ kênh kiệu và ngạo mạn với Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, những người đó không sớm thì muộn, họ sẽ gặp những thất bại thê lương và sẽ chết trong sự ngu dốt của mình.
Vì thế, ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm là điều hợp lẽ, vì: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv 127, 1).
3. Thế nào là lao động trong công trình cứu chuộc?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “các nén bạc” để cho thấy rõ giá trị của lao động. Vì thế, với Lời Chúa vừa nghe, ta hiểu rằng: Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và phải có trách nhiệm trước mặt Người. Vì yêu thương, nên Thiên Chúa ký thác cho ta những nén bạc, và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời thêm. Vì thế, không được phung phí cũng như ích kỷ chôn vùi đi. Nhưng phải làm cho nó sinh lợi theo thánh ý Thiên Chúa.
Như vậy, điều quan trọng giờ đây, đó là chúng ta cần đặt ra câu hỏi: Lao động cách nào cho đẹp lòng Chúa và hữu ích cho linh hồn? Câu trả lời, đó là: lao động bằng trí óc và bàn tay chân chính, lao động bằng mồ hôi, khó nhọc của chính mình...
Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận những chuyện làm ăn bất chính như: gian tham, hối lộ, bóc lột; buôn gian bán lận, lừa đảo; cờ bạc, số đề, cá độ; thiết lập những khu ăn chơi trác táng để làm giàu trên thân xác phụ nữ chốn lầu xanh...
Những thứ đó không phải là công khó của chính mình, mà là của người khác. Thế nên, không có ý nghĩa và giá trị cứu chuộc, vì không được Thiên Chúa chúc lành. Ngược lại, nén bạc Chúa trao cho chúng ta và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời ra, đó là: từ bi, nhân hậu, công bằng, bác ái; liên đới, cảm thông, sống công chính...
Mong sao, mỗi khi xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta biết ý thức sự giới hạn của mình và biết cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; đồng thời, chúng ta cũng biết lựa chọn cách lao động chân chính, để qua đó, tâm hồn chúng ta được hướng thiện và đáng được hưởng ơn cứu chuộc. Amen.
31. Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chính phủ đang cố gắng đưa nước Việt Nam mình từ tình trạng nông nghiệp lạc hậu để bước qua giai đoạn hiện đại, và dần dần sẽ biết đất nước thành một quốc gia công nghiệp. Ước mơ là như thế, còn khi nào thực hiện được thì chưa biết, nhưng có một thực tế là số lượng dân cư bỏ ruộng để lên thành phố làm việc ngày càng gia tăng. Vì không được chuẩn bị cho nếp sống và sự phức tạp của đô thị, nên những người này khi nhập cư đã gặp không ít khó khăn và rủi ro, ngược lại tình trạng nông dân bỏ nông thôn lên thành phố đang kéo theo việc nông thôn hóa thành phố từ đời sống văn hóa đến những vấn đề xã hội.
Trong khi đó tình hình kinh tế xã hội của chúng ta chưa có gì là khả quan lắm, năm vừa qua hàng loạt công ty đã phải đóng cửa, kéo theo hàng triệu người thất nghiệp. Tìm được việc làm vào thời điểm này thật khó khăn, và tìm được việc như ý muốn càng khó khăn hơn nữa, chưa kể vấn đề lương bổng có hợp lý hay không. Cuối năm vừa qua có những công ty thưởng tết cho công nhân bằng nửa tháng lương, bằng mấy chai nước mắm, bằng vài gói giấy vệ sinh…
Ngày nay, công ăn việc làm vẫn là một trong những lo toan hàng đầu của những người trong độ tuổi lao động, vì không ai muốn mình trở thành người vô dụng ăn bám xã hội. Ngược lại làm việc cũng đang là vấn đề gây mệt mỏi cho nhiều người, vì có nhiều người đang bị trói buộc với công việc, khiến họ cảm thấy cuộc sống gò bó, nhàm chán, cuộc sống như một cái máy đã được lập trình ngày nào cũng như ngày đó, khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng vì công việc.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta đến với Chúa, phó dâng công việc và những dự tính của năm mới cho Chúa để xin Chúa chúc lành và xin Chúa giúp chúng ta biết làm việc như thế nào cho đẹp ý Chúa. Chúng ta có thể kinh nghiệm thấy: cùng một công việc và điều kiện làm việc, nhưng công việc ấy trở nên vui tươi phấn khởi hay trở nên nhàm chán là tùy thuộc ở thái độ của người đó với công việc, hay nói khác hơn đó là tùy thuộc người đó làm việc vì mục đích gì và với ý nghĩa nào.
Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy những giá trị của công việc theo quan điểm Kitô giáo. Bài đọc một sách Sáng Thế cho thấy, làm việc không phải là một hình phạt, cũng không phải bởi hậu quả tội lỗi, mà khi làm việc chúng ta được trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một vị thần bất động mà là một vị Thiên Chúa làm việc liên tục. Kinh Thánh đã dùng những hình ảnh hết sức con người để diễn tả về một Thiên Chúa như một người thợ, một nghệ nhân, một người nông dân, miệt mài với công việc sáng tạo nên vũ trụ này. Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng cây cối, muôn loài động vật và thực vật, Ngài cho nước phát sinh từ lòng đất để tưới giội cho cây cối xanh tươi, Ngài làm cho vủ trũ xoay vần khiến thời tiết mùa màng thuận lợi cho con người, cho cây kết trái nảy mầm. Sau mỗi công việc tạo dựng, Thánh Kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã dựng nên đều tốt đẹp. Với sự khẳng định này cho thấy rằng mọi vật, mọi loài và vũ trụ thiên nhiên đều tốt đẹp ngay từ lúc ban đầu. Trong khung cảnh tốt đẹp đó, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, đặt con người vào vườn địa đàng để con người được hưởng những kỳ công của Thiên Chúa, làm chủ mọi loài và tiếp tục canh tác, cũng như làm cho vũ trụ mỗi ngày được nên hoàn hảo hơn. Như vậy khi chúng ta làm việc, đừng làm như một kẻ nô lệ phải làm, mà hãy làm việc và bắt đầu mỗi ngày mới bằng tư thế của một một cộng tác viên của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tín nhiệm cậy nhờ, và hãy làm vì sự hãnh diện đó và vì lòng yêu mến và biết ơn Chúa.
Làm việc vì lòng yêu mến biết ơn và cộng tác với Chúa, là thái độ Chúa Giêsu muốn nhắc cho chúng ta trong câu chuyện của bài Tin Mừng. Thiên Chúa như một ông chủ sắp đi xa đã tin tưởng trao phó tất cả gia sản cho những đầy tớ: Ông cho người này năm nén, người ka ba nén, người khác nữa một nén tùy theo khả năng mỗi người. Điều đó cho thấy Thiên Chúa trao cho ai điều gì, việc gì là theo khả năng của họ, Thiên Chúa không không bất công, và không muốn làm khổ ai khi trao cho họ những trách nhiệm vượt khả năng. Như thế có nghĩa là những hoàn cảnh điều kiện chúng ta đang có, đang được lúc này, là phù hợp với khả năng của mỗi người, khi chúng ta có khả năng hơn, Thiên Chúa lại trao cho ta nhiều hơn.
Tuy nhiên được trao vốn nhiều hay ít điều đó không quan trọng cho bằng mỗi người có thái độ nào khi đón nhận những điều kiện và những nén vàng Chúa trao. Câu chuyện cho thấy người lãnh năm nén ngay lập tức làm ăn sinh lời được năm nén khác, người lãnh ba nén cũng vậy, còn người lãnh một nén thì lại sợ hãi và lười biếng, than thân trách phận, đem chôn vùi số vốn của mình mà không làm gì cả. Đến ngày Thiên Chúa đòi mỗi người tính toán lại sổ sách cuộc đời, khi ấy, người lãnh năm nén đã sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng sinh lời ba nén khác, hai người này đã khiến ông chủ rất vui, đã khen thưởng cho hai người này: Anh là đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
Trái lại, người lãnh một nén đã thể hiện thái độ tiêu cực của anh. Anh không hề biết ơn hoặc yêu mến chú, anh mang trả lại cho chủ với lời lẽ cay cú: Tôi biết ông là người hà khắc gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát, vì thế tôi sợ nên đem chôn giấu nén vàng của ông, đây của ông tôi trả lại ông. Ông chủ đã không chấp nhận như thế, nên đã gọi anh là tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác. Ông chủ còn ra lệnh lấy lại những gì ông đã trao cho hắn để cho người đã có mười nén, còn tên đầy tới lười biếng đó thì bị quăng ra ngoài. Chứng tỏ rằng, vì người đầy tớ này đã không làm việc, và đã không có lòng yêu mến biết ơn chủ đã trao vốn cho mình, mà anh còn quay lại trách móc ông chủ, và vì thế anh tự biến mình thành một kẻ nô lệ thay vì là một người được yêu thương tin nhiệm.
Thưa quý OBACE, trước sự nhắc nhở của Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ dự đinh làm việc gì và làm việc như thế nào trong năm mới này?
Những ngày đầu năm cũng là ngày người ta tìm kiếm và quyết định cho công việc làm ăn trong năm mới, và khi gặp nhau, mọi người đều cầu chúc cho nhau năm mới bình an, mạnh khỏe và công ăn việc làm được thuận lợi. Chúc cho nhau như thế là cũng ngầm hiểu rằng bình an, sức khỏe và công ăn việc làm thuận lợi không phải do con người đem lại, mà là do Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người.
Như thế, chúng ta hãy làm việc trong tinh thần cậy trông tin tường nơi Chúa, biết phó thác công việc cho Chúa. Vì là cộng tác viên của Thiên Chúa, nên hãy làm việc với niềm tự hào là con Chúa, đừng kiêu căng cậy dựa vào sư tài khéo của mình mà vô ơn đối với Thiên Chúa, cũng đừng làm việc với sự chản nản oán trách Thiên Chúa, vì Thiên Chúa trao ban cho mỗi người những nén bạc tùy theo khả năng của họ. Nén bạc Chúa đang trao cho mỗi chúng ta là thời giờ, là trí tuệ, đừng phí phạm thời giờ vào những chuyện chơi bời lêu lổng buông thả, vì Chúa sẽ không thêm cho ai một phút nào trong 24 giờ một ngày, hãy sử dụng khả năng trí tuệ Chúa ban, để học hỏi, để suy nghĩ và để biết chọn lựa phân biệt điều tốt điều xấu, điều đúng điều sai. Nén bạc Chúa trao còn là sức khỏe, là tuổi trẻ, là nghị lực và tất cả những điều kiện hiện tại, hãy cố gắng để làm cho cuộc sống của mình nên tốt đẹp hơn, làm cho mình mỗi ngày nên tốt đẹp xứng đáng với phẩm giá con người và con Chúa hơn.
Đồng thời hãy làm việc với tinh thần tôn trọng thiên nhiên và môi trường sống, vì trái đất và vũ trụ này là tác phẩm của Thiên Chúa, đừng hủy hoại nó, nhưng hãy làm cho môi trường sống thêm sạch sẽ hơn, xinh đẹp hơn. Khi chúng ta sống và làm việc như thế, là chúng ta đang cộng tác với Thiên Chúa, để làm cho cuộc sống và vũ trụ thêm tươi đep hơn theo ý Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho những toan tính và công việc của mọi người và cho công việc được thành công theo ý Chúa Amen.
32. Làm việc với lòng yêu mến Chúa, và với tinh thần trách nhiệm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn chưa hạ nhiệt. Việt Nam là quốc gia lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng không nhỏ trong vấn đề làm ăn với Hoa Kỳ. Cuối năm qua, tổng kết lại tình hình kinh tế cả nước, chính phủ vui mừng báo cáo tổng thu nhập quốc gia đạt được hơn 7%, vượt với chỉ tiêu đề ra. Theo con số này, có nghĩa là kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên trong thực tế, nông dân Việt Nam vẫn cứ bị tình trạng được mùa mất giá, bị ép giá. Các nhà kinh doanh đang đối diện với rất nhiều khó khăn, những người lao động lại càng khó khăn hơn vì hàng hóa tiêu dùng tăng giá. Ngày đầu năm dương lịch, ngân hàng chính thức tăng tỷ giá đola, có nghĩa là đồng tiền Việt lại bị trượt giá; nhiều ngân hàng lớn rơi vào tình trạng thiếu vốn phải trông chờ nhà nước bơm tiền để cầm cự. Chính phủ có kế hoạch tăng nhiều loại thuế phí và bán bớt tài sản công để có tiền chi tiêu… những điều đó cho thấy bức tranh kinh tế hình như không mấy lạc quan. Những ngày cuối năm, có dịp hỏi thăm các doanh nghiệp trong xứ về tình hình làm ăn, thì đều có chung một tình trạng đó là sản xuất chậm, hành hóa khó bán…
Thưa quý OBACE, sau những ngày nghỉ tết mọi người đã nghĩ ngay đến công việc làm ăn trong năm mới: Không biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào để có lợi nhuận tốt, chu cấp cho các nhu cầu của gia đình. Ngày mồng ba tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa, chúc lành, cho những toán tính, dự định và công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình trong năm mới. Lời Chúa hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết phải làm việc trong tinh thần nào, để qua công việc hằng ngày, chúng ta có thể sống thánh và thánh hóa gia đình mình.
Đoạn sách Sáng Thế mặc khải cho thấy: Việc làm và làm việc là một vinh dự Chúa ban, để chúng ta được cộng tác với Chúa làm cho cuộc sống và vũ trụ ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Thiên Chúa dựng nên vũ trụ thật xinh đẹp, tốt lành. Thiên Chúa vì yêu thương con người, đã trao tặng tuyệt tác của Ngài cho con người, để con người tiếp tục duy trì, bảo vệ và góp phần làm cho vũ trụ xinh đẹp thêm. Sách Sáng Thế diễn tả: Thiên Chúa trồng một vườn cây ơ Eđen về phía đông và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Qua câu Kinh Thánh này cho chúng ta thấy Thiên Chúa của chúng ta, được so sánh như một nông dân, tự tay Ngài trồng một khu vườn. Thiên Chúa phán một lời là có tất cả, nhưng đoạn Kinh Thánh này lại diễn tả Thiên Chúa như một người luôn làm việc, Ngài lấy bùn đất mà nặn nên con người. Như thế, có nghĩa là khi chúng ta làm việc, không chỉ là cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và làm cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn, mà khi làm việc, chúng ta sẽ làm cho mình trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Kinh Thánh còn kể tiếp: Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để cầy cấy và canh giữ đất đai. Như thế có nghĩa rằng, Thiên Chúa đã tín nhiệm con người, trao cho con người quyền quản lý và canh giữ vũ trụ này. Thiên Chúa không muốn con người sống như một vị khách đi thăm quan khu vườn vũ trụ, nhưng là người làm việc và có trách nhiệm bảo vệ vũ trụ này. Với cách diễn tả bình dân như trên, Sách Sáng Thế chuyển tải những nột dung giáo lý thật sâu xa và nhấn mạnh đến phẩm giá cũng như trách nhiệm của con người đối với vũ trụ. Khi con người làm việc với hết khả năng, trách nhiệm của mình là đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa từ khi tạo dựng vũ trụ.
Khi hiểu được những lời Kinh Thánh nói trên, chúng ta thấy rằng: lao động làm việc ngay từ ban đầu, không phải là hình phạt của Thiên Chúa, cũng không phải là cách Thiên Chúa dùng để đày ải con người. Lao động nó chỉ trở thành nỗi nhọc nhằn cho con người, từ sau khi con người phản bội Thiên Chúa. Con người muốn tự mình định đoạt tất cả, làm chủ tất cả, kể cả tương lai của mình, mà không cần Thiên Chúa, khiến cho trật tự của vũ trụ bị đảo lộn. Con người trở nên tham lam ích kỷ, vũ trụ và muôn vật trở nên thù nghịch với con người, đất đai trở nên gai góc và sỏi đá, con người phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn.
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thái độ làm việc theo gương của Ngài, đó là làm mọi công việc trong tình yêu mến và tín thác nơi Chúa. Khi làm việc vì lòng yêu mến Chúa thay vì sự tham lam ích kỷ, chúng ta sẽ tìm lại được niềm vui trong công việc và qua công việc Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta nên thánh.
Chúa Giêsu đã kể câu chuyện các đầy tớ và những nén bạc được trao để nói lên thái độ chúng ta phải có khi làm việc. Trước hết, Thiên Chúa như ông chủ trong câu chuyện, Ngài yêu thương và tín nhiệm mỗi người, Ngài trao gửi cho mỗi người “tài sản” của Chúa. Những nén bạc này chính là những khả năng, điều kiện, thời giớ, sức khỏe, trí tuệ và các cơ hội vv, tất cả là của Chúa. Chúa lại trao cho kẻ nhiều người ít không phải vì Chúa không tín nhiệm hoặc không công bằng, nhưng tùy theo khả năng riêng của họ: Người thì năm nén, người hai nén, người một nén. Điều này có nghĩa rằng, Thiên Chúa không đòi chúng ta làm việc quá khả năng, nhưng Ngài chỉ mong chúng ta làm việc hết mình, với hết trách nhiệm, hết khả năng vì lòng yêu mến Chúa.
Câu chuyện cho thấy thái độ của những đầy tớ khác nhau: Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn và sinh lời được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng làm như vậy. Điều này cho thấy, các đầy tớ này nhận thấy chủ thương mình, tin mình, nên họ cũng không muốn phụ lòng chủ, họ không để mất thời gian so đo tính toán, không đứng đó ghen tị phân bì. Nhưng ngay lập tức, họ đem số vốn Chúa cho để đi làm ăn và sinh lợi. Trái lại, người lãnh một nén thì chần chừ, đắn đo cân nhắc. Cuối cùng, vì lười biếng, để an phận, anh đã đi đào lỗ chôn giấu nén vàng Chúa trao.
Thiên Chúa là ông chủ quảng đại không quan tâm đến chuyện lời hay lỗ, nhưng ông quan tâm đến việc anh sử dụng khả năng và thái độ của anh đối với Chúa và đối với số vốn trong tay. Khi chủ trờ về, người lãnh năm nén và hai nén đến trình lại cho chủ số lời tương đương. Thiên Chúa không thu lại số vốn và số lời Chúa đã cho họ, nhưng Chúa khen họ: Anh là người tài giỏi và trung thành. Chính sự lanh lợi, biết sử dụng khả năng trí tuệ và sức lực để làm việc và trung thành với Chúa là điều được Chúa khen. Vì sự trung thành này, Thiên Chúa lại còn quảng đại, tín nhiệm trao gấp nhiều lần hơn nữa cho họ: Được trao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ trao nhiều cho anh. Thiên Chúa còn cho những kẻ trung thành được vào hưởng niềm vui với Chúa: Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
Còn người lãnh một nén trở lại trình diện Chúa với những suy nghĩ hết sức tiêu cực. Chủ chưa hỏi anh câu nào, thì anh đã càm ràm trách móc chủ: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tội sợ, đem chôn dấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây. Người đầy tớ này thiếu hẳn lòng yêu mến và biết ơn ông chủ vì sự tín nhiệm của ông. Trái lại, anh mang trong mình sự sợ hãi, nhìn ông chủ như người hà khắc keo kẹt. Để biện minh cho sự lười biếng của mình, anh chôn giấu nén bạc dưới đất để trả lại cho ông nguyên vẹn. Mặc dù trả lại nguyên vẹn nén bạc, nhưng ông chủ không hài lòng về cách cư xử này. Chủ đòi anh, ít ra cũng phải động não một chút, chứ không thể thụ động lười biếng, phải sinh lời, cho dù lãi suất thấp, chứ không phải là không làm gì với nén vàng Chúa trao. Cuối cùng, không những tên đầy tớ lười biếng này bị phạt, mà còn bị lấy lại những gì chủ đã trao phó, vì hắn đã phụ lòng tin của chủ.
Qua sự chỉ dạy của Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người biết tích cực siêng năng làm việc, tận dụng hết mọi khả năng và cơ hội Chúa ban để sinh lời vốn liếng Chúa trao. Xin cho chúng ta làm việc trong tâm tình biết ơn, yêu mến đối với Thiên Chúa, làm việc với tất cả trách nhiệm, Chúa sẽ chúc phúc cho công việc và biến nó trờ thành niềm vui và đem lại hạnh phúc ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.
33. Thánh hóa công ăn việc làm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong Tiếng Việt có nhiều từ ghép, nhưng có lẽ các từ được ghép với chữ “ăn” là nhiều nhất: ăn tết, ăn gian, ăn cắp, ăn trộm, ăn nói,.. công ăn – việc làm. Sở dĩ chữ ăn được dùng nhiều, có lẽ vì “ăn” là nhu cầu căn bản của con người, nó chi phối, gắn liền với đời sống của con người và cũng là mục tiêu cho nhiều hoạt động của con người. Trong năm vừa qua, tòa án Việt Nam đã xét xử nhiều vụ làm ăn bất chính, ăn gian của công, lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Những kẻ có tội phải lãnh những mức án hết sức nặng nề. Trong số các phạm nhân, có những người từng là quan chức cao cấp đã làm ăn không minh bạch, có những kẻ vì hám lợi trước mắt mà đầu tư ồ ạt để rồi thua lỗ nên bị xử phạt. Tình trạng ăn gian, làm gian, làm dối, ăn thật làm giả, đang tràn lan trong xã hội, đến độ có người còn nói: “Ở Việt Nam, nếu cứ khui ra sòng phẳng, chẳng có ai làm giàu mà không ăn gian”.
Việc làm ăn ngày nay đã trở thành việc ăn gian làm dối, lừa đảo. Việc làm và làm việc đã trở thành mưu mô xảo trá để kiếm lợi. Người ta đã đánh mất cái đẹp ban đầu của công việc và việc công. Công việc và việc công, việc làm và làm việc đã bị nhuốm màu gian dối, bất chính. Vì thế, ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta vượt lên trên cái phàm tục thông thường, bằng cách thánh hóa các công việc của mỗi người, biến công việc thường ngày trở thành việc thánh và thành phương thế để nên thánh, đó là mục đích, ý nghĩa của ngày thánh hóa công ăn việc làm hôm nay. Như vậy, Giáo Hội không tổ chức ngày này, như ngày cầu may, hay cầu hên trong công việc, mà mời gọi mọi người biết tin tưởng vào Chúa khi làm việc và phó dâng việc làm hằng ngày cho Chúa để xin Chúa ban ơn lành.
Sách Sáng thế cho thấy, ngay từ đầu, khi tạo dựng nên con người và vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng trong sự trật tự, hài hòa, xinh đẹp. Mặc dù được sống trong tình trạng hạnh phúc, vui hưởng thành quả công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng khi đặt con người vào vườn địa đàng, Chúa vẫn trao cho con người trách nhiệm phải lao động, canh tác. Việc lao động này, hoàn toàn là một lời mời gọi và là ân phúc Thiên Chúa ban cho con người, được cộng tác với Chúa trong việc bảo tồn và làm phát triển trái đất, vũ trụ, con người lúc đó làm việc với niềm vui và hạnh phúc. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, đất đai trở nên cằn cỗi, gai góc, chống lại con người, khiến cho việc lao động của con người trở thành vất vả, phải đổ mồ hôi và nước mắt để kiếm sống. Đồng thời, ma quỷ và tội lỗi đã đẩy con người đến chỗ kiêu căng, muốn chiếm trọn cả vũ trụ về tay mình và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi vũ trụ trái đất. Chính sự kiêu ngạo đó, đã khiến việc làm của con người ngày càng trở nên nặng nề, vất vả hơn. Cũng vậy, dục vọng của con người trỗi dậy, ma quỷ xúi giục lòng tham nổi lên, khiến cho con người chỉ còn biết nghĩ đến phần lợi cho mình, chiếm hữu cho mình. Từ đó, việc lao động trở thành gáng nặng cho chính con người, vì họ làm việc mà không vui, sống mà không hạnh phúc, luôn phải đề phòng và tranh giành với người khác. Như thế, việc lao động là hợp tác với Thiên Chúa, là ân phúc cơ hội Chúa ban, đã bị con người làm hoen ố và biến nó trở thành gánh nặng cho chính mình và tổn hại đến người khác.
Ngày mồng ba tết, bắt đầu cho một năm làm việc mới, Giáo Hội mời gọi con cái mình, đừng để việc lao động trở nên phàm tục, mà cần phải thánh hóa chúng. Thánh hóa công ăn việc làm, là thánh hóa công việc lao động, làm ăn thường ngày, để trả lại cho nó ý nghĩa và mục đích thuở ban đầu Thiên Chúa đặt định, đó là những việc thánh thiện. Chúng ta thánh hóa công việc làm ăn bằng cách nào? Lời Chúa hôm nay soi rọi cho chúng ta: Làm việc trong tâm tình tạ ơn vì được cộng tác với Thiên Chúa và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, phó thác thành quả lao động cho Chúa, cho dù kết quả đó như ý hay không như mong muốn. “Các con chớ áy náy lo lắng, mình sẽ ăn gì, uống gì hay lấy gì mà mặc”, nhắc nhở điều này, Chúa muốn chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đừng tưởng rằng chúng ta có nhiều khả năng, nhiều tài lực, chúng ta không cần Thiên Chúa, nghĩ như thế là tự kiêu, sai lầm. Chúa cũng không muốn chúng ta suy nghĩ theo kiểu dân ngoại, hoặc như kẻ kiêu ngạo, muốn giành tương lai của mình về cho mình quyết định, mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Ngày xưa bà Eva đã bị cám dỗ muốn mình trở nên như thần linh, muốn mình biết trước tương lai của mình và người khác, không cần Thiên Chúa. Bà đã gặp thất bại, đã rơi xuống vực sâu của ham muốn và bị chính sự ham muốn dục vọng dày vò hành hạ.
Chúa muốn ta thánh hóa công việc bằng cách vừa làm việc vừa tìm kiếm nước trời, hay đúng hơn trong khi làm việc thường ngày, vẫn dành ưu tiên cho việc tìm kiếm hạnh phúc nước trời. Vì, của cải và những nhu cầu vật chất, Thiên Chúa vẫn lo liệu cho chúng ta dùng đủ hàng ngày, như Chúa vẫn nuôi sống chim trời và cá biển, Ngài vẫn tô điểm cho cây cối, hoa cỏ muôn màu xinh tươi; chúng ta là con của Chúa không lẽ nào Chúa bỏ quên chúng ta. Nước trời và sự sống đời đời Chúa đã dành cho con người, Chúa còn ban ơn trợ giúp để mỗi người cần nỗ lực cộng tác với sự Chúa để vun đắp mỗi ngày, ngay trên trần gian này. Dạy như thế, Chúa muốn lưu ý chúng ta rằng, cho dù trong cuộc sống vất vả mưu sinh hoặc sung túc, thì cũng phải biết đặt cho mình thứ tự ưu tiên trong cuộc sống. Đặt Chúa và hạnh phúc nước trời là mục tiêu ưu tiên tìm kiếm trước hết và trên hết, còn công việc và chuyện ăn uống, dù cần nhưng cũng chỉ là thứ yếu mà thôi.
“Tiên vàn, các con hãy tim sự công chính và nước Thiên Chúa” Tìm sự công chính là “tìm” chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, “tìm” sống sao cho đẹp lòng Chúa. Như thế, thánh hóa công ăn việc làm, tức là mỗi người cần làm và ăn trong sự công chính, phù hợp với lề luật và giáo huấn của Chúa. Công việc của chúng ta sẽ trở thành việc thánh khi chúng ta loại bỏ khỏi công việc sự gian dối, bất công, gian ác và nhẫn tâm.
Hơn lúc nào hết sự gian dối đang lan tràn trong xã hội, không chỉ trong đời sống, lời nói, mà người ta gian dối trong hành động và công việc. Ngày nay, hàng giả, hàng gian, hành kém chất lượng đang tràn lan, đánh lừa người tiêu dùng, thu nhiều lợi nhuận. Những cách nói trúng mánh, trúng quả, trúng kèo thơm,… là mỹ từ che đậy cho những phi vụ làm ăn gian dối lừa lọc người khác, con người tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Thiên nhiên là quà tặng chung của Chúa cho mọi người, vậy mà, có những nhóm vì lợi ích riêng, đã phá hủy, khai thác thiên nhiên đến kiệt quệ để thu lợi cho cá nhân. Chung quanh chúng ta, môi trường đang bị hủy hoại tàn bạo, nước sông ô nhiễm, khói bụi độc hại do con người thải ra, chính chúng ta đang phải chịu những tác động xấu từ việc làm đó.
Trong lãnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, chế biến thực phẩm, nhiều người vì hám lợi, đang đầu độc và giết chết anh em bằng những hóa chất độc hại, gây bệnh tật, ung thư và nhiều thứ bệnh lạ khác. Hậu quả là chính chúng ta phải gánh chịu. Có người nói: "không có khi nào con đường từ bao tử đến nghĩa trang lại gần như lúc này” ăn gì cũng có chất độc, gây bệnh và chết người. Những việc làm gian ác như thế và hậu quả của nó, đều phát xuất từ lòng tham, sự ham muốn chiếm hữu thật nhiều và thống lĩnh thiên hạ, khiến cho chúng ta phải chịu hậu quả.
Trong ngày xin ơn Thánh Hóa Việc Làm hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người, mỗi gia đình có được công việc để có thể lo cho cuộc sống. Nhưng hơn hết, xin cho mỗi người biết làm việc trong tâm tình tạ ơn, cộng tác với Chúa, làm cho trái đất và cuộc sống thêm tốt đẹp hơn. Xin cho mỗi người dù làm việc gì cũng tôn trọng giới răn lề luật của Chúa, làm theo tiếng lương tâm nhắc bảo, để qua đời sống và công việc thường ngày, chúng ta góp phần làm cho Nước Trời hiện diện ngay tại trần gian này, qua một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, bác ái và yêu thuơng. Amen.
34. Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bước qua ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình, trong năm mới. Xin Chúa chúc lành và làm cho những cố gắng, toan tính công việc, của mỗi người mỗi gia đình được thành công, đem lại cơm no áo ấm cho các gia đình. Qua ngày lễ này, Giáo hội nhắc chúng ta biết làm việc trong tinh thần tự do trách nhiệm, cộng tác với Thiên Chúa trong việc làm cho vũ trụ thêm tốt đẹp, đời sống con người được thăng tiến, chia sẻ và góp phần đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Người Kitô hữu tin rằng: Mưu sự tại nhân, thành sư tại thiên, toan tính bởi con người nhưng Thiên Chúa mới cho thành công.
Tuy nhiên trong thực hành, nhiều người lại không xác tín như thế, họ vừa tin Thiên Chúa, nhưng vẫn tin vào những thần thánh khác, hoặc tin sự thành bại là do hên xui, do chọn ngày, chọn hướng. Vì thế, có những người chọn ngày để khởi công làm nhà, chọn ngày chọn giờ để khai trương đầu năm, chọn ngày để đám cưới. Những tin kiêng chọn lựa như thế đều đi ngược lại đức tin công giáo và là một tội rất năng đến điều răn thứ nhất.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta những điểm giáo lý quan trọng: Thiên Chúa của chúng ta là một vị Thiên Chúa hoạt động và làm việc; làm việc là cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và làm cho vũ trụ trái đất thêm tốt đẹp. Sách Sáng thế muốn khẳng định điều đó, khi tác giả đã dùng hình ảnh và ngôn ngữ rất bình dân để diễn tả quyền năng của Thiên Chúa: Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có mưa cũng như chưa có bụi cây nào ngoài đồng; có một dòng nước từ đất trào lên tưới khắp mặt đất.Thiên Chúa lấy bùn đất mà nặn ra con người. Đọan Kinh thánh này muốn cho thấy: Thiên Chúa không phải là vị thần bất động chỉ ngồi đó để đón nhận hương khói, nhưng Ngài là Thiên Chúa làm việc. Thiên Chúa làm việc bằng quyền năng, bằng lời của Ngài và con bằng chính đôi tay của Ngài như một người thợ. Nếu so sánh với các loài khác, Thiên Chúa chỉ cần phán hoặc khiến cho có, thì liền có, nhưng đối với con người, Thiên Chúa dường như phải xắn tay áo, phải đổ mồ hôi vất và để làm nên con người từ bụi đất. Thiên Chúa còn thổi sinh khi vào con người, để cho con người có sự sống. Như thế, sự sống của con người là do Thiên chúa trực tiếp trao ban và con người hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã đặt con người vào vướn Eden để con người cầy cấy canh giữ đất đai. Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài không muốn con người làm nô lệ cho công việc, cũng không làm nô lệ cho vũ trụ này, nhưng trao cho con người làm chủ và có bổn phận chăm sóc, cũng như cầy cấy và làm cho trái đất mỗi ngày một xinh tươi tốt đẹp hơn. Làm chủ và chăm sóc vũ trụ, là trách nhiệm Chúa trao. Tuy nhiên, con người không được phép lạm quyền, để biến vũ trụ, trái đất và tài nguyên thành sở hữu của cá nhân, nhưng là của mọi người và phục vụ cho nhu cầu của mọi người. Đồng thời việc chăm sóc vũ trụ, không cho phép con người tàn phá, khai thác cạn kiệt, nhưng phải chung tay bảo bệ, chăm sóc trái đất này như ngôi nhà chung cho mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta thái độ phải có, khi làm việc và hết mình làm việc trong tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa. Dụ ngôn cho thấy: Một ông chủ sắp đi xa, ông gọi các đầy tớ đến và trao cho người này năm nén, người kia hai nén người khác một nén tùy theo khả năng của họ. Thiên Chúa rất công bằng và khôn ngoan, Ngài không ép ai phải làm việc quá với khả năng của mình, ngài trao cho mỗi người những điều kiện, hoàn cảnh, phù hợp với khả năng của họ. Thiên Chúa là ông chủ chờ đợi nơi mỗi người thái độ làm việc hết mình, hết khả năng và với tình yêu dành cho Chúa. Những người đầy tớ này, khi nhận được số vốn của chủ đã lập tức sinh lợi. Còn người nhận một nén, đã không làm gì, anh đem chôn giấu khả năng và số vốn của chủ gửi.
Ngày ông chủ trở về, những người lãnh năm nén đã làm lợi được năm nén, người lãnh hai nén lợi được hai nén. Có nghĩa là những người này đã làm việc hết khả năng sức lực của mình; họ làm việc vì biết rằng ông chủ tin tưởng và yêu thương họ; họ làm việc để đáp đền công ơn của chủ. Trái lại người lãnh một nén đã mang tâm trạng thụ động lười biếng. Anh không có lòng yêu mến ông chủ, anh oán trách ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát. Anh sống với chủ không với tâm tình là cộng tác viên, nhưng là một người đầy tớ sợ hãi, biếng nhác và có ác cảm với chủ.
Ngày ông chủ trở lại, mọi người sẽ phải trình lại cho ông tất cả những vốn liếng, công việc và thái độ của mình. Người lãnh năm nén, hai nén đã phấn khởi báo cáo với chủ cả vốn lẫn lời. Ông chủ không thu lại những gì ông đã cho các người này, ông khen ngợi họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Họ tốt lành vì đã làm việc trong thật thà ngay thẳng, không gian dối và hết mực trung thành với chủ và với công việc chủ trao. Vì thế, ông chủ đã ban thưởng lại cho các người này gấp bội và còn cho họ được vào nhà với chủ, đồng hưởng sự vui mừng với chủ.
Còn người lãnh một nén, mang tâm trạng thụ động lười biếng, anh đến trình lại cho chủ số vối của mình và sự ác cảm, hằn học của mình: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, tôi sợ nên tôi đã chôn nén bạc của ông. Đây của ông, tôi trả lại ông. Ông chủ không bằng lòng với thái độ thụ động, lười làm việc, lười suy nghĩ tính toán của anh này. Ông đã ra liệnh thu hồi số bạc và đã loại trừ anh vì sự biếng nhác đó.
Thưa quý obace, Lời Chúa ngày mồng ba tết hôm nay nhắc mỗi người phải làm việc trong thái độ yêu mến và biết ơn Thiên Chúa là Đấng đã cho chúng ta điều kiện để làm việc, đó là sức khỏe, trí tuệ, thời gian và nhiều cơ hội khác nữa. Ngài muốn chúng ta làm việc không phải như một kẻ nô lệ sợ hãi, cũng không lười biếng thụ động, nhưng với thái độ là một cộng tác viên và là người nhà của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể biến mình thành kẻ làm việc như một nô lệ cho công việc, không để cho công việc cuốn hút và trói buộc, khiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa. Chúng ta phải làm việc trong tinh thần yêu mến, biết ơn và tin tưởng vào sự quảng đại trợ giúp của Thiên Chúa. Đừng kiêu căng tự mãn cho rằng, mình có thể làm được tất cả mà không cần Thiên Chúa. Đồng thời luôn nhớ rằng, sẽ đến ngày chúng ta phải trình nộp lại cho Chúa tất cả công việc, cuộc sống và cả vốn lẫn lời mà Chúa đã ký thác cho ta.
Nhiều người đang tin tường phó thác vào Chúa, làm việc hết mình để sinh lợi cho mình cho gia đình và giúp cho cuộc sống được sung túc hơn. Đó là điều đẹp ý Chúa. Bên cạnh đó có nhiều người đang làm ăn trong sự kiêu căng tự mãn về khả năng, vốn liếng và sự thành công của mình. Họ không nghĩ rằng: đó là do Chúa ban. Vì thế, họ lo hưởng thụ, kể công và không muốn dâng lại cho Chúa những thành quả đã đạt được. Một số người có đạo nhưng trong công việc, họ loại trừ Thiên Chúa, âm thầm bắt tay, thỏa hiệp với ma quỉ với bùa phép, cùng những sự tin kiêng và cho rằng do sự tin kiêng, do chọn được ngày đẹp ngày tốt, do hên xui hoặc thầy phong thủy đã chỉ cho thành công ăn nên làm ra. Sống đạo và tin kiêng theo kiểu dân ngoại như thế là lỗi trầm trong đến điều răn thứ nhất và biến mình trở thành thù nghịch với Thiên Chúa, giống như người lãnh một nén trong dụ ngôn hôm nay.
Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng, phó thác cho Chúa tất cả những toan tính dự định và công ăn việc của làm của mình và gia đình trong năm mới này và xin Chúa chúc lành cho chúng ta được bằng an và thành công theo ý Chúa. Amen.
35. Việc làm và làm việc trong năm mới sẽ như thế nào?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng Thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thần, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen.
36. Mt 25,14-30--Ai không làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (1Pr 4,10-11).
2.CÂU CHUYỆN: SỰ TÍCH CON TRÂU ĐI CÀY
Ngày xưa, khi thế gian mới được tạo thành, Thượng Đế đã sai một vị thần từ trời xuống trần mang theo 1 bao hạt lúa và 1 bao cỏ để gieo trên mặt đất. Thượng Đế đã dặn đi dặn lại vị thần gieo trồng là phải gieo hạt lúa làm thức ăn cho loài người trước rồi mới được gieo cỏ làm thức ăn cho loài vật. Nhưng khi xuống tới trần gian, do mãi mê ngắm phong cảnh tuyệt đẹp khác lạ ở trần gian nên thần gieo trồng đã quên lời dặn nên đã gieo cỏ trước gieo lúa. Từ đó, cỏ không cần trồng mà vẫn mọc lên khắp nơi và thú vật không cần lao động vẫn có dư cỏ ăn, đang khi loài người muốn có gạo phải chịu vất vả cày bừa gieo trồng mà vẫn bị bữa no bữa đói. Thượng Đế thấy vậy liền phạt tội vị thần gieo trồng tắc trách này phải bị hóa kiếp thành con Trâu để giúp loài người cày bừa trước khi gieo lúa và khi nào ăn hết cỏ mới được lên thiên đường. Nhưng rồi do cỏ mọc nhanh nên Trâu không sao ăn hết được, nên Trâu cứ phải tiếp tục chịu cảnh vất vả cày bừa để chịu đền tội và không sao thoát được kiếp làm trâu để có thể trở lại thiên đường.
Câu chuyện dạy chúng ta bài học: phải luôn làm việc cách nghiêm túc và chăm chỉ để có cái ăn như câu người ta thường nói: "Tay làm hàm nhai, tai quai miệng trễ". Hoặc như câu tục ngữ phương Tây: “Hãy làm hết sức mình rồi trời sẽ giúp”. Tránh thái độ ở không lười biếng không chịu làm việc mà chỉ biết ngồi “há miệng chờ sung rụng”.
3. THẢO LUÂN: 1) Thánh Kinh dạy gì về việc lao động bằng trí óc và tay chân? 2) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì trong Năm Mới này?
4. SUY NIỆM:
Có người nghĩ rằng con người làm bá chủ thiên nhiên và có toàn quyền làm chủ trái đất mà quên rằng Thiên Chúa mới là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ vạn vật. Tin mừng Gio-an đã cho biết về công trình Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc như sau: “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3). Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Thiên Chúa để góp phần hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi sáng tạo nên loài người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).
1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên:
Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây, trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì: “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).
2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét:
Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét: Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, còn mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Riêng trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51), chia sẻ nỗi vất vả của cha mẹ, luôn qui hướng mọi việc theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41), và làm vui lòng Ngài (x. Lc 2,46; Ga 4,34).
Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kèm theo việc chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng công việc phục vụ hơn là giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị Luật cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau: "Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân:
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi thêm các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc của chủ đi chôn vì sợ bị phạt thay vì yêu mến làm lợi thêm cho chủ. Cuối cùng anh ta đã bị mất tất cả những gì đang có.
4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!”:
Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau: "Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10-13). Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau: "Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận." (Cv 20,33-35).
5) Chúng ta phải làm gì?
Trong Kinh Tiền Tụng Thánh lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: "Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế ".
Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự để qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa khi sử dụng những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái... và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn có thái độ lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường hay kêu trách Chúa khi cầu xin những điều chúng con nghĩ là tốt mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì ở trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa đến muôn đời.- Amen.
37. Ai không muốn làm việc thì cũng đừng ăn--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA : “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11).
2. CÂU CHUYỆN : AI CŨNG ĐỀU LÀ NGƯỜI GIÀU MÀ KHÔNG NHẬN RA :
Có một chàng thanh niên lúc nào cũng ngồi than thân trách phận không may của mình, nên không thể nào giàu có được. Ngày nọ, một ông lão đi qua thấy vẻ mặt ủ ê của anh ta bèn hỏi:
– Chàng trai kia, sao trông cậu buồn bã thế, cậu có điều gì không vui sao?
– Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
– Cháu mà nghèo ư, cháu đang giàu có đấy chứ?
– Chưa thấy ai nói với cháu như vậy cả, vì thực sự cháu rất nghèo.
– Này nhé: Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, và trả 3 lượng vàng thì cháu có chịu không?
– Không ạ.
– Giả như ta chặt một bàn tay của cháu và trả 30 lượng vàng, cháu có chịu không?
– Không bao giờ.
– Vậy nếu ta lấy đi đôi mắt của cháu và trả cháu 300 lượng vàng, thì cháu thấy thế nào?
– Cũng không được.
– Vậy nếu ta trả cháu 3000 lượng vàng để hai ông cháu chúng ta hoán đổi số phận, để cháu trở thành một lão già như ta có được không?
– Đương nhiên là không.
– Cháu muốn giàu. Vậy nếu ta trao cho cháu 30,000 lượng vàng để lấy đi mạng sống của cháu, thì cháu thấy thế nào?
– Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu đang là một người giàu có mà cháu không biết.
Người ta thường nói : “Đứng núi này trông núi kia cao”. Nhiều người lúc nào cũng mở miệng than thân trách số phận mình đen bạc, đang khi thực ra họ còn đang hạnh phúc hơn nhiều người. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta phải cố gắng chu toàn bổn phận của mình bằng hết khả năng Chúa ban. Hãy làm cho nén bạc được trao phó có thể phát sinh thêm nhiều nén bạc khác, thì mới đáng được Chúa ban hạnh phúc Nước Trời đời sau.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Gio-an hôm nay cho biết về công trình tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa như sau : “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3). Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Chúa để hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi tạo nên loài người : “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).
1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên :
Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì : “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết : “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).
2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét :
Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét : Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Còn trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51) và sẵn sàng chia sẻ với nỗi vất vả của cha mẹ, qui hướng mọi việc theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41), và luôn làm vui lòng Cha (x. Lc 2,46; Ga 4,34).
Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng việc phục vụ tha nhân hơn việc giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau : “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau : “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân :
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi ra các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do sự bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc đi chôn vì sợ hãi thay vì yêu mến ông chủ. Anh ta đã bị mất những gì đang có.
4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn !” :
Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau : “Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em : ai không chịu làm thì cũng đừng ăn ! Thế mà chúng tôi nghe nói : trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí !” (2 Tx 3,10-13). Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau : “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,33-35).
5) Chúng ta phải làm gì?
Trong Kinh Tiền Tụng lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: “Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “.
Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa khi biết sử dụng và làm lợi thêm ra những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái… và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.
4. LỜI CẦU :
Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn các nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường kêu trách Chúa khi cầu xin mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa muôn đời.- Amen.
1. Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn--tgphanoi
LỜI CHÚA: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11).
CÂU CHUYỆN: SỰ TÍCH CON TRÂU ĐI CÀY
Ngày xưa, khi thế gian mới được tạo thành, Thượng Đế đã sai một vị thần từ trời xuống trần mang theo 1 bao hạt lúa và 1 bao cỏ để gieo trên mặt đất. Thượng Đế đã dặn đi dặn lại vị thần gieo trồng là phải gieo hạt lúa làm thức ăn cho loài người trước rồi mới được gieo cỏ làm thức ăn cho loài vật. Nhưng khi xuống tới trần gian, do mãi mê ngắm phong cảnh tuyệt đẹp khác lạ ở trần gian nên thần gieo trồng đã quên lời dặn để gieo cỏ trước lúa. Từ đó, cỏ không cần trồng mà vẫn mọc lên khắp nơi và thú vật không cần lao động vẫn có dư cỏ ăn, đang khi loài người muốn có gạo phải chịu vất vả cày bừa gieo trồng mà vẫn bị bữa no bữa đói.
Thượng Đế thấy vậy liền phạt tội vị thần gieo trồng tắc trách này phải bị hóa kiếp thành con Trâu để giúp loài người cày bừa trước khi gieo lúa và khi nào ăn hết cỏ mới được lên thiên đường. Nhưng rồi do cỏ mọc nhanh Trâu không sao ăn hết được, nên Trâu cứ phải tiếp tục chịu cảnh vất vả cày bừa để đền tội và không sao thoát được kiếp làm trâu để trở lại thiên đường.
Câu chuyện dạy chúng ta bài học: phải luôn làm việc cách nghiêm túc và chăm chỉ để có cái ăn như câu người ta thường nói: “Tay làm hàm nhai, tai quai miệng trễ”.
Hoặc như câu tục ngữ phương Tây: “Hãy làm hết sức mình rồi trời sẽ giúp”. Không có chuyện lười biếng không chịu làm việc và chỉ biết ngồi “há miệng chờ sung rụng”.
THẢO LUẬN: 1) Thánh Kinh dạy gì về lao động trí óc và tay chân? 2) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì trong Năm Mới này?
SUY NIỆM
Có người nghĩ rằng con người làm bá chủ thiên nhiên và có toàn quyền làm chủ trái đất mà quên rằng Thiên Chúa mới là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ vạn vật.
Tin mừng Gio-an đã cho biết về công trình Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc như sau: “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3).
Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Thiên Chúa để góp phần hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi sáng tạo loài người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).
1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên:
Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì: “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).
2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét:
Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét: Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, còn mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Còn trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51) và luôn sẵn sàng chia sẻ nỗi vất vả của cha mẹ, và qui hướng mọi việc theo thánh ý của Chúa Cha (x. Lc 22,41), và luôn làm vui lòng Ngài (x. Lc 2,46; Ga 4,34).
Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kèm theo sự vất vả chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng công việc phục vụ hơn là giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau: “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân:
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi ra các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc của chủ đi chôn vì sợ hãi thay vì yêu mến chủ. Anh ta đã bị mất những gì đang có.
4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!”:
Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau: “Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10-13).
Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,33-35).
5) Chúng ta phải làm gì?
Trong Kinh Tiền Tụng lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: “Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm rạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “.
Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”.
Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự để qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa muốn cứu độ loài người khi sử dụng những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái… và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.
LỜI CẦU:
Lạy Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn các nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường kêu trách Chúa khi cầu xin mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa muôn đời.- Amen.
38. Xin Chúa sáng soi cho biết việc phải làm Ga 20, 19-31--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh Việt Nam đã chỉ định Ngày mồng ba Tết, Ngày Cầu Mùa, để xin Chúa chúc lành cho công việc làm ăn được phát đạt.
Sau khi đã vui chơi ăn Tết, đến lúc phải bắt tay vào làm việc. Lời nguyện nhập lễ giao thừa chúng ta cúi xin Chúa rộng ban cho chúng ta một năm mới dồi dào phúc lộc và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh.
Thánh Phaolô đã có một kinh nghiệm tuyệt vời khi chia sẻ: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Điều này có nghĩa là, chúng ta không thể điều khiển được chính mình, chúng ta không đủ nghị lực để dám chắc mọi điều ta làm đều tốt.
Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc “Kinh Sáng Soi” để xin Chúa hướng dẫn, nhất là thánh hóa trước khi bắt đầu việc làm trong năm mới. “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
Lời kinh này chất chứa niềm tin tưởng và lòng cậy trông vững vàng của những người con Chúa.
Quả thật, khi chúng ta: “Xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm” là chúng ta khơi lên niềm khát mong được nguồn ánh sáng của Chúa soi dẫn tâm trí, lời nói, việc làm… cho chính bản thân ta và đồng thời xin Chúa thánh hóa. Bởi đã có không ít lần chúng ta bắt đầu làm việc mà không biết phải làm gì hoặc phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, khi giục lòng cậy trông xin ơn Chúa soi sáng là ta nhận biết về uy quyền của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta suốt năm tháng ngày giờ.
Thiên Chúa đặt con người làm chủ
Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bù đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vường tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (St 2, …).
Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng giòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.
Việc làm trong chương trình của Thiên Chúa
Công ăn việc làm là một phần trong chương trình của Thiên Chúa Sáng Tạo. Trong sách Sáng Thế, đề tài trái đất như là nhà – vườn được trao phó cho con người săn sóc và canh tác (x. St 2,8.15) đã đuợc diễn tả như sau: “Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai, và Người làm trào lên từ đất nước của các con kinh để tưới” (St 2,4b-6). Vẻ đẹp của trái đất và phẩm giá của công ăn việc làm được làm ra để nối kết với nhau. Cả hai song hành cùng nhau: trái đất trở nên xinh đẹp, khi nó được con người canh tác.
Hình ảnh địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15), cho thấy con người nguyên thủy sống trong mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và với cả vạn vật chung quanh. Trong tình trạng hạnh phúc và công chính nguyên thủy đó, con người làm chủ chính mình, không phải đau khổ và không phải chết.
Lao động không là gánh nặng nhưng là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, nhằm kiện toàn chính bản thân và cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì “khi chúng ta làm việc là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc…bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì” (Thánh Augustino – GL HTCG Số 2001). Ý thức được giá trị ấy, con người phải có nghĩa vụ sinh lời từ những ân phúc do Chúa tặng ban.
Làm gì với nén bạc Chúa trao
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không: “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.
Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoan nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.
Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26). Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.
Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người làm việc với những nén bạc đó. Chúa chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x. Mt 25, 21.23). Bạc Chúa trao cho chúng ta phải ra sức làm việc để sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa sáng soi, để chúng ta biết việc phải làm. Đồng thới luôn ý thức về sứ mạng Chúa trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động.
Xin Chúa chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng con trong suốt cả năm mới này. Amen.
39. Thánh Hoá Công Việc Làm Ăn--Lm. Anthony Trung Thành
Ai cũng phải lao động: Người lao động bằng chân tay, kẻ lao động bằng trí óc. Thời gian lao động chiếm đa số thời gian chúng ta sống. Để việc lao động có ý nghĩa và đem lại hiệu quả hồn xác trong năm mới này, hôm nay mùng ba tết, ngày xin ơn thánh hoá công việc làm ăn, chúng ta cùng nhau suy niệm mấy điểm sau đây:
Trước hết, Thánh Kinh đề cập nhiều về vấn đề lao động: Theo sách Sáng thế, lao động có mặt ngay lúc ban đầu sáng tạo, trước khi con người phạm tội. Cựu ước coi lao động không phải là một công việc hèn hạ mà là vinh dự, là niềm tự hào.
Sang Tân ước, chính Đức Kitô đã lao động. Phần lớn thời giờ của Ngài dành cho lao động: Rao giảng, thăm viếng, chữa bệnh…Ngài dùng lao động để tham gia vào chính công cuộc của Tạo Hoá “Cha tôi làm việc liên lỉ. Tôi cũng vậy”(Ga 5,13). Cha nuôi Ngài (Thánh Giuse) là bác thợ mộc xứng danh với tước hiệu quan thầy của giới công nhân. Các môn đệ của Chúa hầu hết cũng là những người lao động.
Lao động theo Đức Kitô là thành phần không thể thiếu của cuộc sống con người. Trong các dụ ngôn, Ngài thường lấy từ đời sống lao động: Dụ ngôn người gieo giống, người chăn chiên, người đánh cá, người làm thuê vườn nho, người đàn bà xay bột…Các dụ ngôn đều đòi hỏi chăm chỉ, cần mẫn, trung thành, tỉnh thức. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Tên đầy tớ biếng nhác đã chôn dấu nén bạc dưới đất nên bị quở mắng và nghiêm phạt. Những đầy tớ tài giỏi và trung thành thì được tuyên dương công trạng (x. Mt 25,14-30).
Tuy nhiên có những lời cảnh cáo chống lại sự quá bê tha với công ăn việc làm: “Anh em phải coi chừng, phải tránh mọi thứ tham lam, vì không phải dư của cải mà mạng sống con người được bảo đảm đâu”(Lc 12, 15). Vì thế, Mối lo về của cải đời này không được lấn át công việc nước Chúa: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33).
Lao động là luật chung cho mọi người. Ai cũng phải làm việc, không được lười biếng, sống vô kỷ luật (1Tx 5,14). Ta chăm chỉ làm việc, sẽ bảo đảm đời sống tự lập và tự do. Thánh Phaolô mời gọi mọi tín hữu phải có nghề nghiệp làm ăn lương thiện, vì chính Ngài cũng đã làm như vậy. Ngài nói: “Đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em”(x. 1Tx 2,9). Sống giữa môi trương ngoại giáo thường khinh rẻ lao động, các tín hữu được khuyến khích nên có một nghề trong tay: “Tôi khuyên những anh em sống thanh nhàn hãy lao động bằng chính chân tay mình. Như vậy lối sống của anh em được mọi người cảm phục”(x. 1Tx 4,10-12). Ngài còn nói: “Nếu có ai không chịu làm thì đừng có ăn. Tôi nghe nói: Trong anh em có người vô kỷ luật, chẳng làm gì cả. Mà việc gì của người ta, thì lại xỉa vô. Nhân danh Đức Kitô, tôi truyền dạy và khuyên họ hãy ở yên và làm việc, để có của nuôi thân”(x. 2 Tx 3, 10-12).
Lao động là một mệnh lệnh của Thiên Chúa để cộng tác vào công trình sáng tạo của Người. Thiên Chúa dựng nên con người có trí tuệ, có sức khoẻ, rồi giao cho con người làm chủ và hoàn thiện vũ trụ. Con chim biết làm tổ, con ong biết xây tầng làm mật nhưng bao nhiêu đời rồi chúng vẫn thế, cứ làm tổ xây tầng y hệt không có gì cải tiến. Còn loài người thì cải tiến không ngừng: Ban đầu con người ở hang, rồi nhà tranh vách đất, dần dần mới có nhà ngói, nhà tầng…Từ tiện nghi này đến tiện nghi khác: Ngày xưa đi lại chủ yếu là đi bộ, sau đó mới có xe đạp, rồi đến xe máy, ô tô, tàu thuỷ, tàu hoả, máy bay…Đó là vì con người có sứ mạng phát huy công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Lao động là để phát triển nhân cách và có của nuôi sống bản thân: “Lao động biểu hiện nhân cách của con người, nên sẽ là một tội nếu coi nó chỉ là một món hàng…(Mẹ và Thầy, 12). Thánh Phaolô đã tự lao động để nuôi sống mình, Ngài nói: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp”(Cv 20,34). Về vấn đề này, chúng ta học nơi những người già thuộc đất nước Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản quy định tuổi nghỉ hưu là 65 tuổi, nhưng phần lớn người lao động Nhật Bản vẫn tiếp tục làm việc khi đã vượt quá độ tuổi này. Năm 2010 gần 1/4 dân số Nhật Bản có độ tuổi trên 65 và tỷ lệ này sẽ còn tiếp tục tăng lên trong các thập niên tới. Thay vì nghỉ ngơi và sống cùng con cháu, nhiều người cao tuổi Nhật Bản vẫn tiếp tục làm việc để có thể tự lo cho bản thân. Bên cạnh thói quen độc lập, lao động giúp người già tránh xa bệnh tật và nguy cơ lão hóa.
Lao động là để phục vụ lẫn nhau vì mọi người đều cần đến nhau: Người công dân cần đến người nông dân để có lương thực. Người nông dân cần đến người công nhân để có dụng cụ làm việc. Người tri thức, nhà bác học cần đến người lao động chân tay. Nói chung, toàn thể trái đất như một công trình vĩ đại, và toàn thể loài người như một đại gia đình trong đó mọi người góp một tay làm một việc để tương trợ lẫn nhau.
Lao động là để góp phần từ thiện, bác ái, giúp người cùng khổ: Thánh Phaolô nói: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận”(Cv 20, 35). Chúa cho ta khoẻ mạnh, làm ăn may mắn, phát đạt ta phải nghĩ đến những người nghèo khổ, ốm đau, luôn gặp hoạn nạn…Đó là đức công bằng. Mahatama Gandhi đã nói rất chí lý rằng: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì, ta có quá nhiều cái dưa thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.
Tóm lại, dù muốn dù không ta cũng phải lao động. Để việc lao động đem lại lợi ích phần xác và phần hồn chúng ta phải ghi nhớ những điều trên đây. Đồng thời, Giáo Hội dạy ta mỗi buổi sáng thức dậy phải dâng những công việc mình làm trong ngày cho sáng danh Chúa: “Lạy Chúa, con xin dâng mọi việc con sẽ làm trong ngày hôm nay cho sáng danh Chúa, xin Chúa phù hộ, gìn giữ con để con khỏi sa phạm tội lỗi gì mất lòng Chúa con”. Và ngày hôm đó, ta ý thức về công việc ta làm, nếu khi cảm thấy mệt nhọc thì nên dừng lại, thầm thì với Chúa một hai lời nguyện vắn tắt: “Lạy Chúa, con dâng cho Chúa công việc này vì lòng mến Chúa” hoặc khích lệ bản thân “chịu khó mà đền tội”. Thánh Vinh Sơn Phaolô trước khi làm bất cứ việc gì, Ngài đều tự hỏi: “Nếu Chúa Giêsu trong trường hợp tôi, Ngài sẽ làm gì ?” Và rồi, Thánh nhân làm hay không làm theo ý hướng đó. Được như thế, tất cả mọi công việc chúng ta làm sẽ bớt nặng nhọc hơn và đem lại lợi ích cho hồn xác chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con tích cực làm việc để cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, để có của nuôi thân và giúp ích cho những kẻ túng thiếu. Xin cho tâm hồn, ngôn ngữ và hành vi của chúng ta đều được thấm nhuần tinh thần của Chúa. Xin chia vui, chia buồn, chia công việc với chúng con. Để tất cả các công việc của chúng con làm trong năm Bính Thân này đều mưu ích cho hồn xác chúng con và làm sáng danh Chúa. Amen.
************************************
Xin điềm lạ.
12/02 – Thứ Hai tuần 6 thường niên.
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?".
Lời Chúa: Mc 8, 11-13
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.
Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Suy Niệm 1: Tìm một dấu lạ từ trời
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn, trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín, mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.
Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Trong Tin Mừng Máccô, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều lần thứ hai,
các ông Pharisêu đã đến và tranh luận với Đức Giêsu.
Đơn giản họ muốn đòi Ngài làm một dấu lạ từ trời.
Có vẻ phép lạ nuôi đám đông vừa qua và những phép lạ trước đó
không đủ để thuyết phục họ tin vào con người Ngài.
Họ vẫn muốn thử thách Đức Giêsu (c. 1).
Chẳng trách Đức Giêsu đã thở dài não nuột
và quyết liệt từ chối một cách trịnh trọng: “Tôi bảo thật cho các ông biết:
thế hệ này sẽ không được cho một dấu lạ nào cả.” (c. 12).
Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu đã là một dấu lạ từ trời rồi.
Trong nỗi muộn phiền, Ngài đặt câu hỏi với các ông Pharisêu:
“Tại sao thế hệ này lại đòi một dấu lạ?” (c. 12).
Hóa ra họ lại vấp vào tội của cha ông họ thời xưa trong hoang địa:
“Tổ phụ các ngươi đã từng thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.
Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95, 8-11).
Bất chấp bao việc lạ Chúa làm (Ds 14, 10-12. 22),
dân Chúa hôm qua cũng như hôm nay vẫn không ngớt đòi thêm.
Các vị lãnh đạo Do Thái giáo đòi thêm vì họ không muốn tin Đức Giêsu.
Chính vì lòng họ chai đá, không muốn tin,
nên các phép lạ lớn lao trước mắt chẳng ảnh hưởng gì trên họ.
Họ mong một phép lạ lớn hơn nữa, rõ hơn nữa, ấn tượng hơn nữa.
Nhưng dù dấu lạ manna rơi xuống từ trời có xảy ra lại
thì chưa chắc họ đã tin Đức Giêsu.
Thay vì đòi Ngài làm thêm phép lạ để minh chứng,
con người cần ra khỏi sự chai đá của lòng mình
Cần có mắt sáng để thấy được ý nghĩa sâu xa của phép lạ.
Cũng như cần có tai tốt để hiểu được các dụ ngôn của Đức Giêsu.
và đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mc 4, 11).
Phép lạ của Đức Giêsu không chỉ hấp dẫn vì yếu tố kỳ diệu, lạ lùng,
nhưng vì chúng khai mở Nước Thiên Chúa
và vén mở cho ta thấy Đức Giêsu là ai.
Chẳng phải chỉ người Do Thái mới đòi hỏi những dấu lạ (1 Cr 1, 22).
chúng ta cũng dễ đặt đức tin mình trên nền tảng dấu lạ, phép lạ.
Chúng ta không thích cái bình thường, cái đều đặn xảy ra mỗi ngày,
vì chúng ta không tin Chúa hiện diện và hoạt động trong thầm kín.
Thay vì quá tìm kiếm và đòi hỏi những dấu lạ,
chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời đại mình sống.
Qua những thao thức và khát vọng của con người hôm nay,
chúng ta nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Qua dấu chỉ của một thế giới đang biến chuyển từng ngày,
chúng ta thấy Giáo hội cần thích nghi và đáp ứng những nhu cầu mới.
Người Pharisêu không đọc được ý nghĩa những dấu lạ Đức Giêsu làm.
Chúng ta xin ơn đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa cho thời hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
Suy Niệm 3: Đức Tin
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.
Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.
Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).
Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi,... Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).
Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.
Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.
Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.
Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài
Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc. 8, 11-12)
Than vắn thở dài là chuyện thường tình. Có ai đã không nghe tiếng thở than của một người bệnh, một người hấp hối? Ai trong chúng ta đã không bao giờ buông ra tiếng thở dài não nuột? Khi lòng ta gặp chuyện trái ý, đau buồn, thất vọng, hoặc thân xác ta phải đau đớn, thở dài một tiếng, ta cũng cảm thấy được vợi bớt phần nào. Chính nỗi đau thái quá ta phải chịu, khiến ta bộc lộ những phản ứng thái quá. Làm như thế ta coi như tâm hồn được giải thoát phần nào.
Trong Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu cũng phải buông tiếng thở dài. Người cảm thấy chán quá rồi. Ngay khi Người vừa mới ở dưới thuyền lên, những người Pharisiêu đã xấn lại và bắt đầu chất vấn Người. Họ đòi Người làm cho họ một dấu lạ từ tròi, bởi lẽ theo họ quan niệm, một vị ngôn sứ phải chứng tỏ mình có sứ mệnh Chúa trao bằng một dấu lạ từ trời. Họ đòi một điều như thế đó, khi mà Chúa Giêsu vừa mới làm phép lạ hóa bánh rá nhiều cho bốn ngàn người ăn no. Họ còn muốn được thấy từ trời đổ xuống một trận mưa những miếng bánh mì, như dấu chỉ có giá trị và chứng minh cho sứ mạng chân chính về ngôn sứ của Chúa Giêsu.Trước một yêu sách như thế, chứng tỏ họ cứng lòng và ngoan cố không tin, nên Chúa Giêsu phải thở dài não nuột.
Một thái độ cự tuyệt
Trong những điều kiện như vậy, để phản đối những người Pharisiêu, Chúa Giêsu tỏ một thái độ cự tuyệt, một sự từ chối thẳng thừng: “Thế hệ này sẽ khong được một dấu lạ nào cả”. Biết được lòng dạ xấu xa của họ, Chúa Giêsu không tranh luận, không tự biện bạch, Người từ chối điều họ yêu cầu. Và như để tỏ rõ lập trường hơn nữa, Người nói là làm ngay: Người để họ đứng trơ ra đó, xuống thuyền, đi ngược chiều về phía bờ bên kia. Nguyên sự có mặt của họ cũng đủ làm cho Người bực mình rồi, nên Người muốn thoát đi cho mau lẹ. Chúa Giêsu tỏ ra rất cương nghị, Người tàn nhẫn xua đuổi những kẻ đến trò chuyện với mình. Vì đây là trường hợp hi hữu, trái với thái độ thường xuyên của Người là vốn niềm nở tiếp đón và hiền từ với mọi người: xưa nay Người vẫn hay để cho dân chúng chen lấn xô đẩy, trẻ em “quấn quýt”, bệnh nhân tràn ngập.
Là những tín hữu, chúng ta có thể bắt chước thái độ ngoan cường, cứng rắn đó của Chúa không? Tất nhiên là có, khi danh dự của Chúa – chứ không phải của ta – bị coi thường. Người ta vẫn tố cáo là Kitô giáo đã làm cho con người trở nên nhu nhược, mất tính nam nhi, ta cần phải chứng minh điều ngược lại, khi biết tỏ thái độ cương quyết, lúc cần phải tỏ. Người Kitô hữu là người có khả năng chọn lựa, thì cũng phải có khả năng từ chối. Nhưng người Kitô hữu cũng phải biết cho người ta những dấu lạ ở trần gian khi người ta đòi mình những dấu lạ từ trời.
Suy Niệm 6: Cần có đức tin để đón nhận tình thương
Chúng ta thấy trong Tin Mừng, gần như đã trở thành quy luật để Đức Giêsu thi hành phép lạ, đó là đức tin và lòng mến. Nếu không có đức tin thì ắt không thể có lòng mến, mà không có lòng mến thì làm sao có thể hoán cải? Như thế sẽ không bao giờ có phép lạ!
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy những người Pharisêu cũng đến để nghe Đức Giêsu giảng và họ đã chứng kiến rất nhiều phép lạ cả thể Đức Giêsu đã làm. Một trong những phép lạ mới nhất, đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bốn ngàn người từ bẩy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ. Tuy nhiên, thay vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, thì họ lại trai cứng và tiếp tục đi vào vết xe đổ như Tổ tiên họ đã thách thức Thiên Chúa trong Samạc; hay đi theo con đường của Satan khi chúng thử thách Đức Giêsu sau khi Ngài ăn chay 40 đêm ngày! Trước sự chai lỳ và u mê do thói kiêu ngạo, ghen tỵ và sự giả dối nơi họ, nó đã làm cho lương tâm những người Pharisêu bị phủ lấp và không còn nhạy bén để nhận ra tình thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?” Và Ngài đã không làm phép lạ theo như yêu cầu của những người Pharisêu, bởi vì họ không tin và phép lạ không thể diễn ra trong sự thách thức và cưỡng bách được.
Trong đời sống đức tin của chúng ta thường ngày cũng vậy. Nhiều khi cũng thách thức Thiên Chúa khi chúng ta đem Ngài ra để so sánh với ông nọ, thần kia; hoặc có lúc chúng ta cũng ra những điều kiện cho Ngài khi nhủ rằng: nếu Chúa có mặt thực sự, thì Chúa làm cho con được thế này hay thế kia thì con sẽ tin? Những lúc như thế, chúng ta đã bị sự kiêu ngạo thúc bách và khi đó trong ta chỉ còn những yêu cầu phát xuất từ sự tham vọng và thực dụng thuần túy mà không hề nghĩ đến ơn cứu chuộc là hạnh phúc vĩnh cửu!
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn khiêm tốn và lòng yêu mến Chúa để chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và luôn sống trong sự an bài của Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Cần phải có lòng tin
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để được Chúa Giêsu làm phép lạ, cần phải có lòng tin.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những người Pha-ri-siêu đòi hỏi Chúa một dấu lạ từ trời nhưng Chúa đã thở dài não ruột và Chúa bỏ họ mà đi.
Con nhìn thấy họ có thái độ thử thách Chúa. Họ không khác ma quỷ thử thách Chúa nơi hoang địa. Họ còn giống những người ở Na-da-rét thách thức Chúa làm phép lạ như đã xảy ra ở Ca-phác-na-um. Họ thử thách Chúa như những thượng tế và luật sĩ thách thức Chúa xuống khỏi thập giá để cứu lấy mình.
Những thái độ trịnh thượng dù ở thời đại nào và dù ở đâu đi nữa cũng đều là những thái độ bất tín và tự cao. Con biết Chúa không thích những thái độ đó. Vậy mà, lạy Chúa, con dễ tự cao tự đại. Con cũng dễ thử thách Chúa lắm. Những khi cầu nguyện, con hay đặt điều kiện cho Chúa. Con thường đòi hỏi Chúa phải ban theo ý con. Rất hiếm khi con cầu nguyện như người con thảo khiêm cung phó thác…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đầy lòng từ bi và thương xót, xin Chúa cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện. Để sống trên đời này, cần phải tin nhau, huống nữa là sống đời làm con Chúa. Xin cho con hoàn toàn tin Chúa. Con muốn tin vào Chúa để có thể nói chuyện với Chúa và thực sự gắn bó với Chúa. Khi ấy Chúa chẳng còn tiếc gì với con. Có gì buồn cho bằng con thử thách Chúa để Chúa phải bỏ con mà đi ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con. Xin cho con mỗi ngày càng yêu mến Chúa hơn. Xin cho con biết trọn vẹn tin yêu phó thác nơi Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ ?”
Suy Niệm 8: Một dấu lạ từ trời
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Suy niệm
Theo văn mạch của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vừa làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (x. Mc 4,35-5,43): Dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (x. Mc 8,1-10). Thế mà những người pharisiêu vẫn chưa tin Ngài, họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời”, nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.
Họ không chú ý tìm chân lý nhưng chỉ để thử Ðức Giêsu, họ thiếu thiện chí, họ không tin là vì họ ngoan cố. Nơi lòng dạ những người cứng tin này, Ðức Giêsu buồn lòng, Ngài không làm gì được cho họ.
Trong phần tiếp theo của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm thêm những phép lạ khác. Những phép lạ đó không phải làm cho những người pharisiêu cứng lòng, nhưng cho những người tin. Phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn chúng ta tới đức tin. Bởi thế, nếu sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ chưa phải là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.
Xin cho chúng ta biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, đức tin soi chiếu từng bước chân đi vào đời.
Ý lực sống: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Suy Niệm 9: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò , tranh luận và thử thách Ngài.
Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35 – 5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỉ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.
2. “Người thở dài não nuột mà nói...”
Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa .
Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.
3. Vấn đề phép lạ - dấu lạ.
Đành rằng trong công cuộc truyền giáo, Chúa ban cho một số chứng nhân của Người có khả năng làm một số phép lạ hay dấu lạ để minh chứng lời rao giảng và nâng đỡ niềm tin cho người nghe, nhưng phép lạ hay dấu lạ không là điểm chính yếu và đóng vai trò quyết định cho việc đón nhận Lời Thiên Chúa. Vì thế, sẽ tầm thường hóa niềm tin và hậu quả là sự hời hợt không có chiều sâu cũng như không có sự yêu mến đích thực.
Thánh Phaolô từng dạy rằng, đã trông thấy rồi mới tin thì không còn là đức tin nữa. Nói cách khác, chỉ là sự bất đắc dĩ phải chấp nhận khi chuyện đã tỏ tường mà thôi. Thiên Chúa ban phép lạ hay dấu lạ là do lòng nhân hậu của Người và có giá trị trong chương trình cứu độ, chứ không chiều theo sở thích của con người đòi hỏi Người phải ban dấu lạ điềm thiêng.
Thật vậy, một đức tin trưởng thành không hệ tại ở dấu lạ, mà kiên trì trong thử thách và sự trung tín bền vững vào Chúa. Đó mới là điều hữu ích cho linh hồn tín hữu.
4. Những phép lạ kể trên đã đủ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng, họ không tin là vì họ ngoan cố, bởi đó Ngài nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.
Chúng ta phải nói lại, phép lạ Chúa như vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, Sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang...) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.
5. Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn Đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một Đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là Đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.
6. Truyện: Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.
Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.
Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn”.
Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?
Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?
Suy Niệm 10: Ý nghĩa và giá trị của phép lạ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chuyện này xảy ra sau phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35—5,43 dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay họ lại thách Ngài làm một "dấu lạ từ trời" nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.
Thực ra những phép lạ Ngài làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ chứng minh Ngài là Đấng có quyền phép "từ trời". Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa cả. Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm những phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người pharisêu ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người pharisêu cứng lòng.
B.... nẩy mầm.
1. Bài Tin Mừng này cho ta thấy rõ phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (Lộ Đức, Fatima, Cha Diệp v.v) chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.
2. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả những việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tấm thường nhất.
3. Bà nội và cháu trai 5 tuổi buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.
Bà ngạc nhiên, nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh: "Hãy nghĩ xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả cảnh đó".
Cháu đồng ý: "Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài".
- Cháu muốn nói gì?
- Ồ, vào ngày Chủ nhật, chúng con được dậy rằng Chúa Giêsu đang ngồi bên tay hữu Thiên Chúa. (Góp nhặt)
4. "Chúa Giêsu nói: ”Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả" (Mc 8,12)
Sáng nay, lời của ông thấy dạy chính trị làm mình rất khó chịu: "Tôi thấy cũng lạ, đã tin là có Chúa, có Mẹ, làm sao các nóc nhà thờ trồng cột thu lôi làm gì. Chẳng lẽ cha mẹ phá huỷ con cái mình sao?" Và mọi người bàn tán xôn xao.
Khi người ta tôn thờ vật chất và tôn vinh con người cách quá đáng thì dễ đi tới kết luận tôn giáo là mê tín, hoang tưởng. Họ khó mà có được lòng khiêm tốn để nhận biết Thiên Chúa, và dễ trở thành những con người độc tôn. Vô ích nếu chỉ đôi co và biện lý.
Dứt khoát tôi không thể chỉ cho họ thấy một Thiên Chúa nhân hậu khi tôi chưa sống như một người nhân hậu.
Lạy Chúa, xin cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, để với niềm tin này con sẽ giúp người khác nhận ra Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 11: Phép lạ từ trời
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Chuyện này xảy ra sau khi phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó, Ngài cũng làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn như dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một người đàn bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại (Mc 4,35.5,43) vậy mà những người Pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay, họ lại thách thức Ngài làm một “phép lạ từ trời”.
Thực ra những phép lạ Chúa làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể đã đủ chứng minh Ngài là đấng có quyền phép “từ trời” rồi. Thế nhưng, họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.
Phép lạ Chúa làm chỉ có ý nghĩa và có giá trị cho những người thành tâm thiện chí chứ không cho những người Pharisêu cứng lòng.
1. Như vậy, theo bài Tin Mừng hôm nay thì chúng ta thấy, phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, cha Diệp) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.
Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tầm thường nhất.
Bà nội và cháu trai 5 tuổi, buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.
Bà ngạc nhiên nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh:
- Hãy nhìn xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả các cảnh đó.
Cháu đồng ý:
- Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài.
- Cháu muốn nói gì?
- Ồ! Vào ngày Chúa nhật, chúng con được dạy rằng: Chúa Giêsu đang ngồi bên hữu Thiên Chúa.(Góp nhặt)
Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng cũng chẳng kém phần ngạo ngược. Ngày kia, ông bỗng nảy ra một ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị ông chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thỏa mãn được đòi hỏi càn dở của nhà vua đây? Không thiếu những phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu của vị lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các ngài cho phép để anh ta được chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo không tin tưởng ở anh ta, nhưng trong hoàn cảnh đang bế tắc, cũng chẳng biết làm sao hơn được.
Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói:
- Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn.
Nhà vua tức giận quát lớn:
- Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai mà có thể nhìn thẳng vào mặt trời chói chang như vậy?
Lúc ấy, người chăn chiên liền quỳ xuống trước mặt vua mà nói:
- Muôn tâu bệ hạ, với một vật Thiên Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?
Ngay lúc ấy nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa, không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng đức tin.
2. Vũ trụ muôn màu muôn vẻ, vạn vật muôn sắc muôn hương. Tất cả là hình ảnh rạng ngời của Thiên Chúa. Mỗi vật diễn tả một nét đẹp của Đấng tạo thành. Mỗi hữu thể là một chứng từ về Đấng Hiện Hữu tối cao.
Thế nhưng, còn biết bao người chưa nhìn ra được Thiên Chúa.
Thiên Chúa hiện diện giữa muôn loài và trong từng tạo vật Ngài đã dựng nên. Thế mà đa số nhân loại không nhận ra Ngài. Có người lại cố ý làm ngơ, coi như không hề có Thiên Chúa. Người khác lại muốn tìm Thiên Chúa ở mãi đâu xa xôi.
Chúng ta không thể nào quên được Lời Chúa Giêsu quả quyết: “Ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu thương và chúng ta sẽ đến cư ngụ trong người ấy”
Thánh Augustinô không ngừng than thở: “Lạy Chúa, Chúa ở trong con, và con lại cứ đi tìm Chúa bên ngoài”.
Khi xác tín vào sự hiện diện của Chúa nơi mình và gặp được Chúa trong nội tâm, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra Chúa khắp nơi, trong mọi tạo vật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống. Amen.
11/02 Thờ cha kính mẹ
- Viết bởi Mt 15, 1-6
Thờ cha kính mẹ.
CHÚA NHẬT TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN năm B.
MỒNG HAI TẾT GIÁP THÌN. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
" Ngươi hãy thờ cha kính mẹ".
Lời Chúa: Mt 15, 1-6
Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su và nói rằng: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? “
Người trả lời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa”.
Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.
Lời Chúa: Lc 1,67-75
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
2. Cầu cho cha mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
3. Thờ cha kính mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
4. Hiếu kính cha mẹ thật lòng--TGM Giuse Nguyễn Năng
5. Mừng Xuân với những liên hệ--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Cầu cho ông bà tổ tiên--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
7. Ấm áp nghĩa tình--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
8. Kính nhớ Tổ tiên--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
9. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ Mt 15,1-6--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
11. Thảo kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
12. Báo hiếu tổ tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
13. Hiếu kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
14. Bụi chuối sau hè--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
15. Đền đáp công ơn của tổ tiên--Lm Giuse Đinh Tất Quý
16. Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
17. Đáp nghĩa Đền ơn--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
18. Làm Con Phải Lấy Chữ Hiếu Làm Đầu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
19. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
20. Lòng hiếu thảo với tiên nhân--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
21. Thảo kính cha mẹ Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
22. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
23. Kính nhớ tổ tiên Lc 1, 67-75--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
24. Thảo kính mẹ cha Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
25. Hiếu thảo với cha mẹ Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
26. Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu Mt 15, 1-6--J. B. Nguyễn Quốc Tuấn
27. Uống Nước Nhớ Nguồn- Trích Logos B
28. Về Với Gia Đình- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
29. Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
30. Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
31. Cần có một tấm lòng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
32. Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
33. Biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
34. Kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
35. Sống Chữ Hiếu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
36. Tri Ân Ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
37. Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
38. Sống thảo hiếu--Lm. Tạ Duy Tuyền
39. Đốt Hương Trầm Nhớ Quê- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
40. Hiếu Hôm Nay Phúc Ngày Mai--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
41. Ông bà tổ tiên--Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến
42. Nguyện Xin Thiên Chúa Xót Thương Cả Tổ Tiên- Trầm Thiên Thu
43. Uống nước nhớ nguồn--Trầm Thiên Thu
44. Không có hiếu là vứt đi--Jos. Vinc. Ngọc Biển
45. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
46. Mt 15,1-6--Hãy hiếu kính ông bà cha mẹ--Lm Đan Vinh
47. Suy niệm Lời Chúa
48. Suy Niệm Lời Chúa Mt 15, 1-6
49. Suy niệm Lời Chúa
50. Hiếu kính Cha Mẹ
2.Cầu cho cha mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm
Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà,
nhất là khi Hội thánh chưa cho phép bày tỏ lòng hiếu thảo
bằng cử chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất.
Ở đất nước ta, thờ cúng tổ tiên là chuyện quan trọng,
đến độ người ta có thể nói đến đạo thờ ông bà, đạo hiếu.
Ai không giữ đạo hiếu thật đáng khinh.
Nhiều người tin khi chết thì con người đi về thế giới bên kia,
và thế giới bên kia cũng không khác lắm với thế giới bên này,
người chết cũng có những nhu cầu vật chất cần thỏa mãn.
Tết là thời gian mời ông bà đã khuất về ăn Tết với con cháu.
Như thế ông bà và con cháu được gần nhau, thông hiệp với nhau.
Đạo Công giáo tin có thế giới bên kia,
nhưng không quan niệm thế giới ấy một cách vật chất.
Người chết không cần ăn uống, không cần xài tiền vàng mã,
nhưng lại rất cần lời cầu nguyện để sớm hưởng nhan Chúa.
Thảo kính cha mẹ là điều răn đặc biệt trong 10 điều răn,
vì không cấm làm một điều xấu, nhưng buộc làm một điều tốt.
Các sách Cựu Ước đều coi trọng mệnh lệnh này (Xh 20,12; Đnl 5,16).
Thậm chí một người con có thể bị xử tử bằng cách ném đá
nếu không vâng lời hay nguyền rủa cha mẹ (Xh 21,17; Lv 20,9; Đnl 21,21).
Còn ai hiếu thảo sẽ được Chúa cho sống thọ trên đất hứa (Xh 20,12).
Thảo kính cha mẹ là kính trọng và yêu mến kẻ đã sinh dưỡng mình,
Thăm viếng khi khỏe mạnh, chăm sóc khi yếu đau, hầu hạ khi cao tuổi.
Thảo kính cha mẹ cũng là làm cho cha mẹ được vinh danh.
Nhờ con cháu mà “danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44,14).
Có thể nói Đức Giêsu đã giữ điều răn này một cách nghiêm chỉnh.
Khi nghe Ngài giảng, có người đã kêu lên để ca ngợi Mẹ Ngài:
“Phúc cho người đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27).
Bà Êlisabét đã ca ngợi Mẹ Maria là có phúc hơn mọi phụ nữ,
vì Người Con mà Mẹ đang cưu mang là Đấng có phúc tuyệt vời (Lc 1,42).
Đức Giêsu hằng vâng phục cha mẹ khi lớn lên ở Nadarét (Lc 2,51),
Và lo liệu cho Mẹ Ngài trước khi nhắm mắt (Ga 19,25-27).
Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời ta nhớ lại nguồn cội tổ tiên đã xa ta,
và cũng nhớ đến nguồn cội đang ở gần ta với lòng biết ơn.
Đạo thờ ông bà, dù khác, nhưng cũng rất gần với đức tin Công giáo.
Thảo kính cha mẹ là “lời”, là “điều răn”của Thiên Chúa (Mt 15,3.6).
Không ai được phép bỏ qua hay coi nhẹ.
Qua tổ tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta.
Qua ông bà cha mẹ, Thiên Chúa cho chúng ta nên người thành toàn.
Tri ân tổ tiên là tri ân chính T. Chúa, Nguồn Cội của mọi nguồn cội.
Sách Nhị Thập Tứ Hiếu kể lại 24 gương hiếu thảo đối với mẹ cha.
Lão Lai tuy đã già vẫn nhảy múa như con nít để giúp vui cho cha mẹ.
Lục Tích là đứa bé ăn cắp quýt ở bữa tiệc để đem về, vì biết mẹ thích.
Ngô Mãnh, tám tuổi, cởi trần cho muỗi đốt mình để khỏi đốt cha mẹ.
Diễm Tử có cha mẹ già, thèm sữa hươu, nên ông khoác bộ da hươu,
giả làm hươu con vào rừng, để đến gần hươu mẹ vắt sữa.
nên suýt nữa bị các thợ săn nhắm bắn.
Nếu không hiếu thảo đến mức cao như các gương trên đây
thì ít là hôm nay ta biết ngước lên trời cầu nguyện cho cha mẹ:
“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm
sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
Sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo Hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
3.Thờ cha kính mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm:
Giáo Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như thế họ có thể bị coi là bất hiếu.
Thật ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,
sau khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,
“ai nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”
Vào năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ có hai điều không được phép,
đó là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố
không qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,
cho bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm
thì anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người
mà “vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng ta cần tự hỏi:
Làm sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?
Làm sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
4.Hiếu kính cha mẹ thật lòng--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta phải hiếu kính cha mẹ thật lòng. Đó là giới răn quan trọng, không được vịn cớ nào đó để coi thường hay bỏ rơi cha mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày đầu năm, con nhớ về cội nguồn của đời sống con. Chính Chúa đã nhờ cha mẹ để tác tạo nên con, nuôi dưỡng và giáo dục con để con được như ngày hôm nay. Công lao của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đổ dồn lên tấm thân con. Con mang nặng trên vai món nợ công ơn và tình thương bao la ấy. Và qua đó con nhận ra tình thương Chúa dành cho con thật vô bờ bến. Con cảm tạ Chúa. Khi con biết ơn ông bà cha mẹ, chính là lúc con bày tỏ lòng biết ơn Chúa. Con bất hiếu với các ngài chính là con vô ơn đối với Chúa.
Chính vì vậy, Chúa dạy con phải sống hiếu thảo, thờ cha kính mẹ cho phải đạo làm con. Nhưng lạy Chúa, trong thực tế, con thiếu sót rất nhiều. Cũng như các biệt phái và luật sĩ ngày xưa, con vẫn lớn tiếng tuyên bố lòng hiếu thảo, nhưng lại vịn đủ mọi lý lẽ để bỏ rơi hoặc khinh thường cha mẹ. Con vịn cớ bận rộn, vất vả, con cái, con nại đến những bổn phận đạo đức, xã hội, học hành, để rồi bỏ mặc cha mẹ con sống thiếu thốn, cô đơn tủi nhục. Lạy Chúa, thậm chí có những lúc con đã có những lời nói việc làm khinh thường hoặc xúc phạm đến ông bà cha mẹ con.
Con xin Chúa tha thứ cho con, xin Chúa dạy con biết noi gương vâng phục và hiếu thảo của Chúa Giêsu. Xin giúp con biết đem lại niềm vui và an ủi cho các bậc sinh thành. Xin ban cho con sống xứng đáng với công ơn các ngài dành cho con. Xin Chúa tuôn đổ muôn phúc lành hồn xác trên các ngài. Và xin cho những vị đã an nghỉ được Chúa ban phúc trường sinh bên Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử.”
5.Mừng Xuân với những liên hệ--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối liên hệ. Nếu không có những liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em, Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để có mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia vui sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể nói tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo thành bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tự nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những trang đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà quý nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.
Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đìnhh vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà chính là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.
6.Cầu cho ông bà tổ tiên--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
“Mừng tết đến, gia đình vui sum họp. Đón Xuân về, con cháu sống bình an”
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh Việt Nam, chúng ta cùng quy tụ về đây để hiệp dâng thánh lễ để kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ.
Trong lịch sử truyền giáo của Giáo Hội, việc thờ kính Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã có lúc trở thành một cản trở trong công cuộc truyền giáo, khiến cho những anh chị em không cùng tôn giáo khó có thể đón nhận chúng ta. Sở dĩ như vậy, vì đã có những hiểu lầm trong cách thức bày tỏ lòng hiếu kính với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Người ta cho rằng, theo Đạo đồng nghĩa với việc từ bỏ bàn thờ Tổ Tiên Ông Bà. Cho đến ngày hôm nay, vẫn còn không ít người hiểu như vậy. Tuy nhiên, sự thật lại hoàn toàn khác. Người Công Giáo không những không bỏ bàn thờ Tổ Tiên mà còn thực thi nghĩa vụ này một cách chu đáo nữa là đàng khác.
Trước tiên, việc thờ kính Tổ Tiên Ông Bà là một trong mười điều răn của Chúa: Thứ Bốn: Thảo kính cha mẹ. Tiếp đến, người Công Giáo dành một tháng trong năm là tháng 11 (còn được gọi là tháng các linh hồn) để cầu nguyện cho những người đã qua đời, trong đó có Tổ Tiên, Ông Bà của chúng ta. Không những thế, trong thánh lễ hàng ngày, Giáo Hội hằng cầu khẩn cho Tổ Tiên Ông Bà qua lời Kinh Nguyện Thánh Thể. Đặc biệt hơn nữa, Giáo Hội còn dành một trong ba ngày Tết, là những thời khắc thiêng liêng nhất trong năm để kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà như ngày hôm nay đây.
Vậy thì làm sao có thể nói: Đi Đạo là từ bỏ Tổ Tiên Ông Bà được! Vậy đâu là lý do khiến chúng ta phải hiếu kính với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ?
Ca dao xưa có câu: “Cây có gốc mới trổ cành xanh ngọn/ Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Con người nguồn gốc từ đâu/ Có cha, có mẹ rồi sau có mình.” Nói như vậy, thì bổn phận thảo kính ông bà, cha mẹ không phải chỉ là nghĩa vụ của người Công Giáo, mà là của tất cả những ai mang thân phận con người, đều phải có nghĩa vụ thảo kính đối với những đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục nên mình.
Quả thật, khi nói đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chúng ta chẳng thể nào diễn tả hết. Câu ca dao mà có lẽ chúng ta đã thuộc làm lòng từ những ngày chập chững cắp sách tới trường rằng: “Công Cha như núi Thái Sơn/ nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra” đã phần nào nói lên công đức cao dày của tình Cha-nghĩa Mẹ.
Các ngài đáng được trân trọng, không chỉ vì các ngài là những người đã sinh thành, dưỡng dục mà chúng ta còn nhớ ơn các ngài bởi các công trình các ngài đã xây dựng và để lại cho ta (gầy dựng giang sơn, khai phá ruộng vườn, xây dựng nhà cửa, kiến thiết đường xá, nhà thờ…)
Hơn thế nữa, đối với người Công Giáo, ta còn biết ơn các ngài, bởi các ngài đã có công đón nhận Đức Tin, sống Đức Tin và truyền lại gia sản Đức Tin đó cho ta. Nhờ đó, ta được trở nên con cái Chúa, được làm người cách đầy đủ trọn vẹn và được hưởng sự sống đời đời.
Lời Chúa trong Bài đọc thứ nhất trích trong sách Đức Huấn Ca hôm nay cũng dùng những lời thật đẹp để ca ngợi công đức của các bậc sinh thành: “Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con… Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen”.
Nhưng chúng ta phải tôn kính như thế nào? Sách Giáo Lý Công Giáo dạy rằng: Chúng ta phải tôn kính các ngài cả khi các ngài còn sống, cũng như lúc các ngài đã qua đời.
Lúc các ngài còn sống, phải thảo hiếu bằng việc tôn kính và vâng lời các ngài. Vì như lời trong thư của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Êphêsô: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Khi các ngài đã về già, phải chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng và giúp đỡ các ngài về moị mặt. Ca dao tục ngữ xưa đã có rất nhiều câu để ca ngợi những người con hiếu thảo: “Mẹ già ở trốn lều tranh/ Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con”; “Đói lòng ăn hột chà là/ Phần cơm cho mẹ, mẹ già yếu răng”. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, cũng có không ít người con không những chưa làm tròn chữ Hiếu mà người xưa đã từng lên án: “Mẹ già hết gạo treo niêu/ Còn anh, khăn đỏ, khăn điều vắt vai”.
Hỡi những người làm con, Thảo kính Cha Mẹ được hãy làm ngay khi các ngài còn sống, kẻo khi các ngài đã khuất bóng, sẽ không còn cơ hội để phụng dưỡng các ngài nữa. Như thế, để khỏi phải ngậm ngùi mà nói rằng: “Sống thì con chẳng cho ăn/ Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi”
Sau cùng, việc tôn kính Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ không chỉ là một nghĩa vụ Hiếu thảo, mà còn là hình bóng việc tôn kính – hiếu thảo với Cha trên trời là chính Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không biết thảo Hiếu với Ông Bà, Cha Mẹ là những người chúng ta gặp gỡ hàng ngày, thì làm sao có thể Thảo Hiếu với T. Chúa là Đấng chúng ta chưa hề thấy bao giờ?
***
Để nói về công ơn cha mẹ, người xưa có câu: “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ/ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha… Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc/ Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con!”
Với những người cha mẹ còn sống, xin được nói lên lời chúc mừng tuổi mới, chúc thọ dài lâu để ông bà cha mẹ sống lâu với con cháu, thấy cảnh con cháu đông đúc và yêu thương, thành nhân và thành công.
Với những người cha mẹ đã khuất bóng, xin được đốt lên nén hương trầm, đặt lên phần mộ một bó hoa để ghi nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục.
Lạy Chúa, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng lên Chúa, Chúa của mùa Xuân hương hồn của cha mẹ chúng con. Xin Ngài đón nhận và cho cha mẹ chúng con an nghỉ trong tình thương của Chúa. Amen.
7.Ấm áp nghĩa tình--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Ngày đầu Năm Mới, chúng ta được mời gọi sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bởi lẽ tất cả những gì ta nhận được hôm nay đều do ông bà cha mẹ để lại, cho nên đạo hiếu nhắc nhở chúng ta bổn phận: “Uống nước nhớ nguồn”. Mùa Xuân là dịp khơi gợi lại trong chúng ta nguồn sống ấy. Mùa xuân cũng là cơ hội để con cháu bày tỏ lòng hiếu kính, biết ơn với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục ta nên người. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta sống lại truyền thống ấy với một chiều kích sâu xa hơn trong tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại, hay giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn tình thảo hiếu với ông bà, cha mẹ thì cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
Cùng quy tụ bên gia đình trong bữa cơm ấm áp nghĩa tình ngày đầu năm, chúng ta không khỏi không nhắc đến những kỷ niệm thân thương của ông bà, cha mẹ khi các ngài còn hiện diện với chúng ta. Nhiều gia đình còn xum họp bên nhau quanh nấm mồ của những người đã khuất, cùng thắp lên nén hương gói trọn bao lời cầu nguyện trong yêu thương luyến nhớ. Ngày mùng Hai tết không chỉ nhắc chúng ta tưởng nhớ đến những người đã khuất, mà còn nhắc ta bổn phận làm con đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành dưỡng dục đang còn sống. Đây là cơ hội quý báu để chúng ta bày tỏ lòng hiếu thảo với những người còn sống, đồng thời cũng để nói lên lời tạ lỗi với mẹ cha.
Lần giở lại những trang Tin Mừng, chúng ta gặp lời của Thiên Chúa trong sách Huấn ca: “Của dâng cho Cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi” (Hc 3, 14-15). Theo đó, lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ sẽ làm cho ta trở nên công chính và bản thân ta, cuộc đời của ta có ý nghĩa và giá trị hơn trước mặt người đời. Sau bổn phận đối với Thiên Chúa thì thái độ thảo hiếu đối với cha mẹ được coi là yếu tố căn bản của nhân vị trong tương quan với tha nhân. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi người ta đề cao chủ nghĩa duy vật thì các giá trị đạo đức xuống cấp. Chúng ta không thể không đau lòng khi thấy trong nhiều gia đình con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ. Khi cha mẹ già yếu, họ không thương tiếc đẩy cha mẹ vào các viện dưỡng lão mà không một lời thăm hỏi, trong khi họ có đủ điều kiện để phụng dưỡng cha mẹ. Chúng ta không thể không đau lòng khi có người bỏ bê cha mẹ già đau ốm, hầu mong cha mẹ chết sớm đi để rảnh nợ. Trong nhiều gia đình, con cái còn đùn đẩy trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ cho nhau… Như những người Pharisêu và Kinh sư trong Tin mừng hôm nay, một số những người trẻ sẵn sàng quay lưng lại với truyền thống, với các chuẩn mực đạo đức xã hội mà coi thường giá trị nền tảng của gia đình, không tuân giữ luật Chúa “thảo kính Cha mẹ”. Mỗi chúng ta, hơn một lần trong cuộc đời, cũng đã có lúc làm cha mẹ buồn lòng, gây cho cha mẹ những khổ đau phiền lụy và cả những hao tổn về tinh thần.
Chúng ta không khỏi ngậm ngùi ân hận khi nghĩ lại bao lầm lỗi, xúc phạm gây bao khổ đau cho ông bà cha mẹ hôm nào. Những gì của quá khứ đang sống lại trong chúng ta như đang mời gọi ta tìm cách đền đáp công ơn cha mẹ, thảo hiếu với ông bà. Chúng ta không khỏi xúc động khi nghĩ lại bao yêu thương, hy sinh mà các ngài đã dành cho mình: “Cha thời sinh ta, mẹ thời nuôi ta. Cái ơn sâu nghĩa nặng cao vời ấy tựa Thái Sơn, làm sao ta báo đáp”. Chúng ta, kẻ làm con ít khi thực sự cảm nhận được hạnh phúc có cha có mẹ, hạnh phúc được sống trong tình yêu nồng ấm của mẹ cha, thường khi các ngài đã về với Chúa, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tình yêu của các ngài, mới thèm được cha thương, mẹ chiều, mới ngậm ngùi hiểu ra cái lẽ: ngọn roi cha dạy làm xót lòng cha, làm đau lòng mẹ hơn là làm con đau đớn; mới hiểu ra rằng tất cả những gì cha mẹ làm cho ta cũng chỉ vì mong con nên thân nên người, mong con hạnh phúc. Những gì chúng ta có được hôm nay đều ghi đậm dấu ấn của mẹ cha; sự thành đạt, niềm hạnh phúc của chúng ta hôm nay có sự đánh đổi những hy sinh vất vả của cha mẹ. Cha mẹ đã phải hao gầy, cằn khô theo năm tháng bởi bao lo lắng, hy sinh, bao vất vả đắng cay, bao giọt lệ chảy ngược vào lòng để chúng ta khôn lớn, nên người. Lòng cha mẹ quá quảng đại, bao dung, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, chấp nhận mọi khổ đau để đời chúng ta được thành đạt, hạnh phúc.
Nhớ về công ơn cha mẹ, luôn là lời mời chúng ta hướng về nguồn cội của sự sống, của tình yêu, của mọi ân phúc trong đời là chính Chúa để chúng ta tỏ lòng yêu mến, biết ơn trước hết với Chúa là nguồn cội mọi ân phúc và với mẹ cha là những người sinh thành dưỡng dục ta nên người. Tạ ơn Chúa đã thương cho chúng ta được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình có ông bà, có cha mẹ, có những người thân bên cạnh để yêu thương, nâng đỡ dạy dỗ, bảo ban để chúng ta không ngừng lớn lên trong thân xác và nhân bản, về trí tuệ và tình yêu, nhất là được giáo dục trong lòng tin yêu Chúa.
8.Kính nhớ Tổ tiên--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
(Hc 44,1.10-15 Ep 6,1-4 Lc 1,67-75)
A. Hạt giống...
1. Bài đọc I trích sách Huấn ca, nội dung là ca ngợi công đức của tổ tiên: các ngài là những người nhân đức, đã tạo dựng cơ nghiệp và truyền lại cho con cháu; các thế hệ con cháu sẽ ghi nhớ ký ức về các ngài, giữ gìn thanh danh các ngài và truyền tụng sự khôn ngoan của các ngài.
2. Bài đọc II trích thư Êphêxô ghi những lời khuyên cụ thể cho những kẻ làm con cháu:
- Phải vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa.
- Hãy tôn kính cha mẹ.
3. Bài Tin Mừng trích bài ca Benedictus của ông Dacaria nói về di sản của tổ tiên là thừa hưởng Lời Thiên Chúa hứa sẽ “giải phóng ta khỏi địch thù”. Lời hứa này nhằm mục đích “cho ta chẳng còn sợ hãi”, “để ta sống thánh thiện công chính trên nhan Ngài và phụng thờ Ngài suốt cả đời ta”.
B.... nẩy mầm.
1. Việc tôn kính ông bà tổ tiên nhắc chúng ta:
- nhớ đến công ơn của các ngài - ta phải cố gắng sống xứng đáng để đền đáp những công ơn ấy.
- nhớ đến tâm nguyện của các ngài muốn chúng ta là những con người tốt, những kitô hữu tốt, những tu sĩ Linh mục tốt - ta phải cố gắng hoàn thành những tâm nguyện ấy.
- nhớ rằng cuộc đời cũng như một sân khấu, người này bước lên diễn xong vai tuồng của mình thì bước xuống cho người sau bước lên. - Ta phải diễn thật đạt vai tuồng của mình, để khỏi phụ lòng những người đi trước và khỏi xấu hổ cho người đi sau.
2. Một góa phụ vất vả làm lụng trong nhà máy để nuôi bốn đứa con, giờ nằm hấp hối trên giường.
Đứng xung quanh bà bây giờ là con cái lớn khôn. Anh trai cả khóc và nói với bà: “Mẹ ạ, mẹ thật tốt và hết lòng yêu thương chúng con. Chúng con muốn cám ơn mẹ. Chúng con thật hãnh diện về mẹ”.
Bà nhướng đôi mắt và hỏi: “Tại sao các con đợi cho đến bây giờ mới nói điều đó? Trước đây các con chẳng bao giờ nói như vậy”.
Rồi bà nhắm mắt từ biệt. (Góp nhặt)
9.Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15,1-6)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Luật của Chúa
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
Chữ hiếu của người Á đông
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu Lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biệt để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao quý đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
Sự tử như sự sinh
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô Phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát.
Cha Hậu ngạc nhiên hỏi: “Bát đũa này dành cho ai?”
Bác trả lời: “Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất, nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
Giáo hội Việt Nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao quý. Vì thế, Giáo hội Việt Nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn (Ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai được quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (Ca dao)
Một Phong trào vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: “Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
- Phúc cho anh chị khi hiểu rằng: tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
- Phúc cho anh chị khi nhớ rằng: tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: “Trẻ khôn ra, già lú lại”.
- Phúc cho anh chị, nếu biết rằng: mắt tôi không còn sáng được như xưa.
- Phúc cho anh chị, nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
- Phúc cho anh chị, nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
- Phúc cho anh chị, nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
- Phúc cho anh chị, nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
- Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên:
- Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài, vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
- Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng (Ca dao)
10.Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.
Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:
* Mùng một: cầu bình an cho năm mới.
* Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.
* Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.
Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.
II. ĐẠO HIẾU CỦA TA
1. Luật của Chúa.
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
2. Chữ hiếu của người Á đông.
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
3. Sự tử như sự sinh.
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm.
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Piô Ngô Phúc Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai”? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT
Giáo Hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)
Truyện: Con kiện mẹ.
Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.
Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu: “Thương con cho roi cho vọt”.
Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết: “Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.
Bà mẹ viết tiếp: “Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”. (R. D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)
Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: “Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: “Trẻ khôn ra, già lú lại”.
Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.
Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
KẾT LUẬN
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên
1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng. (Ca dao)
11.Thảo kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta họp nhau đây để ca tụng Chúa là Chúa mùa xuân và để tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với công đức sinh thành của các ngài.
Đạo Hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân là thời điểm thuận tiện để con cháu bầy tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể xác lẫn tâm linh.
Người Kitô hữu chúng ta ý thức được đạo Hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn vẹn chữ Hiếu cũng đồng thời chúng ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong tinh thần yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
I. ĐẠO HIẾU TRONG DÂN GIAN
Truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ Hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ thời xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu
Hơn nữa, việc thảo kính cha mẹ, xét về mặt tự nhiên, cũng là hợp với lẽ công bằng, bởi vì cha mẹ là người đã có công sinh thành, dưỡng dục giúp ta khôn lớn thành người.
Vậy Đạo Hiếu là gì? Phân tích từ chữ Hán chúng ta thấy chữ “Hiếu” là chữ viết tắt của chữ “Lão” ở trên (lược bớt phần dưới) và chữ “Tử” ở dưới. “Hiếu” tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
“Hiếu” là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong “Luân lý giáo khoa thư” các em đã hiểu:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho trọn chữ Hiếu mới là đạo con.
Thế đó, thật nhẹ nhàng, nhưng từng lời ru của người mẹ Việt nam đung đưa bên chiếc nôi của đứa con nhỏ, ngày qua ngày đã dần đi sâu vào trái tim, làm nên dòng máu thắm đỏ của những người con, tạo nên trong tâm thức của từng người dân Việt một tâm tình thảo hiếu, biết ơn sâu sắc đối với các bậc sinh thành.
Các cụ ngày xưa cho là HIẾU đứng đầu trăm nết:
”Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thời suy ra trăm nết đều nên”.
Do đó, đối với cái nhìn tự nhiên của mọi người, bất hiếu là một trong những tội lớn nhất và cũng bị nhiều người kết án nhiều nhất. Bộ luật Hồng Đức ban hành thời Lê Thánh Tông cũng ghép tội bất hiếu vào trọng tội. Không chỉ con trai, con dâu không thờ cha mẹ chồng cũng bị coi là phạm tội “thất xuất” (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, tr 326).
Chính vì thế, vào những ngày Tết, giỗ chạp…trong các gia đình Việt nam, con cái dù có đi làm ăn đâu xa, thì ba ngày Tết cũng cố gắng về nhà để tết cha, tết mẹ. Nếu cha mẹ không còn, thì cũng về để thắp nén hương cầu nguyện cho ông bà cha mẹ. Cùng chung cảm thức đó của dân tộc, Giáo hội Việt nam đã dành ngày mồng Hai Tết này để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Rồi từ đạo hiếu đối với cha mẹ, Giáo hội muốn từng người chúng ta tỏ lòng hiếu kính với người Cha trên trời, Đấng sáng tạo và làm chủ tể mọi loài.
Tình yêu của cha mẹ đối với con cái là một tình yêu rất tự nhiên và cao quí. Trong các tình yêu, có lẽ chỉ có tình cha, tình mẹ là bền bỉ, là kiên vững nhất. Tình cha mẹ dành cho con cái mãi mãi như sông ngòi biển khơi. Nhưng:
Biển Đông còn lúc đầy vơi,
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.
Cha mẹ đã đánh đổi cả cuộc đời mình, chỉ mong cho con cái thành người. Niềm vui, niềm hạnh phúc và tự hào của cha mẹ là nhìn thấy sự thành công của con cái. Cho dù có phải vì con mà vất vả lao đao, cha mẹ vẫn không sờn lòng. Cho dù có vì con cái mà cha mẹ phải hao gầy, cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con cái lớn khôn mỗi ngày. Chính nhờ ơn cha nghĩa mẹ cao dầy như thế, thì người con khi đã lớn khôn, thành tài, cần phải dặn lòng:
Trải bao gian khổ không sờn,
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền
II. ĐẠO HIẾU THEO THÁNH KINH VÀ GIÁO HỘI
1. Đạo hiếu theo Thánh Kinh
Đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại Bản Thập Giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi Kitô hữu.
Đạo hiếu đối với ông bà cha mẹ được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành: “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7,27-28).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự tuân phục, khiêm kính: “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn dụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6,20-22) và “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách (Cn 13,1).
Tân ước đề cao đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2,51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa: “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3).
Thư gửi cho Timôthêô cũng xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5,8).
2. Đạo Hiếu theo giáo huấn của Giáo hội
Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV só 48).
Giáo lý Hội thánh Công giáp nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
III. ĐẠO HIẾU VỚI NGƯỜI KITÔ HỮU
Qua tinh thần hiếu thảo mà con cái phải có đối với cha mẹ theo tình cảm tự nhiên, chúng ta còn có luật Chúa đòi buộc con cái phải thảo kính cha mẹ, đồng thời với những lời giáo huấn của Giáo hội, hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta hãy củng cố và đổi mới lòng hiếu thảo của chúng ta đối với ông bà cha mẹ. Chữ Hiếu được thể hiện qua những món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ được nồng ấp vào đó cả một tình con hiếu thảo.
Đây cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ bên gia đình. Ai cũng mong đón nhận những giờ phút linh thiêng nhất của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà.
Thế nhưng, chữ hiếu không thể dừng lại nơi những ngày Tết mới bộc lộ ra mà còn phải dàn trải trong suốt tháng năm sống bên cha mẹ. Hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Nếu những ai có cha mẹ còn trẻ hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta có một thành trì vững chắc để tựa nương. Nếu những ai cha mẹ đã già nua thì đừng xem thường và coi họ như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời khiêm tốn, lịch sự, đừng cáu gắt với tuổi già. Hãy ôn tồn với các ngài vì chính họ đã từng kiên nhẫn với tuổi thơ chúng ta. Chính các ngài đã chẳng quản mưa nắng, thức khuya dậy sớm vì tuổi thơ chúng ta. Xin đừng ai phụ nghĩa mẹ cha. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì:
Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.
Truyện: Quà tặng của cha
Có một chằng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó anh đã nói với cha về ước nguyện có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi...
Qua những ý tưởng trình bầy trên đây chúng ta thấy, về mặt tự nhiên, việc hiếu thảo là bổn phận tự nhiên và là dấu chỉ của một người trưởng thành. Đồng thời, khi sống hiếu thảo cũng là lúc chúng ta chu toàn giới luật Thiên Chúa và nhờ đó được Ngài chúc phúc.
Tuy nhiên, trong niềm tin, chúng ta biết rằng tất cả chúng ta: cha mẹ và con cái, đều nhận được sự sống nơi Thiên Chúa. Do đó trong ngày đầu năm kính nhớ ông bà tổ tiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống và hết lòng yêu thương chúng ta, như Ngài phán qua miệng tiên tri Isaia: “Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với con dạ nó đã mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi! Này, Ta đã khắc ghi ngươi trên bàn tay Ta” (Is 49,15-16a).
Sau cùng, chúng ta đã được nghe Lời Chúa trong ngày đầu năm này, chớ gì từng người chúng ta một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình trong một năm qua, để hết lòng cảm tạ tri ân Ngài.
Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành chúng ta. Việc thảo kính này, không chỉ là một ít lễ vật, một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng được kéo dài trong suốt cuộc sống mỗi ngày của chúng ta.
12.Báo hiếu tổ tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Truyện mở đầu: nắng chiều.
Đây là vở kịch được trình diễn tại nhà hát thành phố Hồ chí Minh trong liên hoan sân khấu quần chúng năm 1994.
Nội dung: đứa con trai đạt được danh vọng cao trong xã hội, về đưa mẹ từ nhà quê lên ở chung cho có mẹ và con. Nhưng tính tình người già không phù hợp với vợ chồng trẻ, anh đã đưa mẹ vào viện dưỡng lão và luôn chu cấp đầy đủ.
Người mẹ luôn chỉ nhận được những gói quà và món tiền chu cấp, chứ không gặp được mặt con...
Vậy mà anh vẫn vô tình, vẫn thản nhiên mỉm cười nhìn cuộc đời trôi đi một cách an bình. Anh không hề biết, đi bên sự thờ ơ của anh, là nỗi cồn cào, xót đau, chờ đợi của mẹ.
Nỗi đau khổ làm trĩu nặng thêm trái tim héo úa của mẹ. Sức lực không còn nên mẹ không đợi được anh... chút NẮNG CHIỀU ít ỏi còn lại đã tắt. (Tuổi trẻ Chủ nhật, số 4 / 94 (535), tr 18)
Ai xem vở kịch này chắc cũng cảm động đến rỏ nước mắt và thấy rõ sự thờ ơ và vô tình của con cái trước sự cô đơn của cha mẹ. Thực sự cha mẹ không chỉ cần thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà còn cần tình nghĩa, cần sự săn sóc của con cái. Chỉ có tình mẫu tử mới làm cho cha mẹ được ấm lòng. Khi về già, cha mẹ sợ nhất là cảnh cô đơn.
Khi cha mẹ còn sống mà con cái không phụng dưỡng thì khi cha mẹ chết rồi thì chỉ còn biết phàn nàn hối hận:
Mẹ già như chuối chín cây,
Gió rung mẹ rụng con rầy mồ côi. (ca dao)
I. GIỚI RĂN CỦA CHÚA.
Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình hay là một qui định của xã hội mà là một điều răn của Chúa dạy: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Thiên Chúa đã nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào.
Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Mẹ cha vất vả nuôi mình
Từ khi trứng nước công trình biết bao.
Làm con phải nhớ công lao,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. (ca dao)
II. CÔNG ƠN CHA MẸ.
Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh thành và dưỡng dục con cái, người ta đã ví:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
1. Công ơn sinh thành.
Thiến Chúa đã dựng nên con người, nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Đầu tiên Thiên Chúa dựng nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp:
Người ta có cha có mẹ
Không ai ở chỗ nẻ chui lên. (tục ngữ)
Không ai còn lạ với câu ca dao:
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội như sông có nguồn
2. Công ơn nuôi dưỡng.
Bình thường không ai sinh con rồi đem vất đi vì đó là hòn máu mủ của cha mẹ nên phải nâng niu nuôi dưỡng cho chóng lớn khôn mặc dầu phải vất vả khó nhọc:
Cha tôi hai buổi đi làm,
Dãi dầu mưa nắng khổ kham đủ bề.
Sớm chiều cực nhọc chẳng nề,
Mong sao con trẻ đặng bề ấm no. (ca dao)
Truyện: công việc của người mẹ.
Người ta nghiên cứu một gia đình có hai con, trung bình một năm phải rửa:
18.000 dao, nĩa và thìa ăn.
13.000 đĩa
6.000 tách
3.000 nồi.
Nếu một phụ nữ đặt thức ăn lên bàn, ăn xong lại dọn đi rửa, rồi lại đặt vào chạn, thì trong một năm người đó phải mang tổng cộng 5 tấn, và mỗi năm phải đi lại trên quãng đường 2000 km để mua hàng.
3. Công ơn dạy dỗ.
Sinh ra không phải chỉ nuôi ăn cho béo như con vật mà còn phải dạy dỗ để con nên thân nên người. Nếu không dạy dỗ thì người ta nói:
Dưỡng tử bất giáo như dưỡng lư (Nuôi con mà không dạy thì như nuôi lừa)
Vì thế ca dao mới nói:
Nuôi con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Cha mẹ có nhiệm vụ dạy dỗ con cái vì dù sao cha mẹ cũng có kinh nghiệm hơn con cái.
Truyện: con không hơn cha.
Một mục sư nói với đứa con 15 tuổi của ông:
- Từ 15-20 tuổi: cha cho con có quyền tin tưởng là con hơn cha.
- Từ 20-25 tuổi: con thông minh bằng cha.
- Nhưng từ 25-30 tuổi: thì cha bắt buộc con phải nhìn nhận là cha thông minh hơn con một một cách tuyệt đối.
Người ta cũng nói: người 70 phải học với người 71.
Giáo dục cần thiết và qúi giá biết bao!
Algarotti nói: “Một nền giáo dục tốt là gia tài giầu sang người cha có thể trối lại cho con mình”.
III. THỰC HÀNH CHỮ HIẾU.
Trong ngày mồng hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì?
Thảo kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (theo sách giáo lý Tân định).
Chúng ta hãy đặc biệt nói đến việc giúp đỡ cha mẹ.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Con cái hay bỏ mặc cha mẹ như trong câu truyện “Nắng chiều” ở trên.
Truyện: con tính tiền với mẹ.
Mỗi lần giúp việc, bà mẹ thường thưởng tiền cho em bé. Một hôm mẹ em bị bệnh, em phải giúp mẹ và thay mẹ trong nhiều công việc. Sau một thời gian giúp việc, không thấy mẹ tính tiền thù lao, nên em viết một hóa đơn ghi những công việc chưa được nhận tiền thưởng, gồm:
- xách nước: 2 đồng USD
- nấu cơm: 3 đồng.
- giặt quần áo: 5 đồng.
Tất cả các cái tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng, rồi đưa cho mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em 80 đồng kèm theo một tờ hoá đơn khác, trong đó ghi: công sinh thành, nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau... x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán.
Đứa bé vội vàng xin lỗi mẹ. (Góp nhặt 4, tr 79)
Chúng ta có hiểu công ơn trời bể của cha mẹ không?
Mẹ nuôi con như trời như bể,
Con nuôi mẹ con kể từng ngày?
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu cha mẹ còn sống mà chúng ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến hằng ngày? Chỉ có ngày giỗ chạp mới giúp chúng ta nhớ đến công ơn cha mẹ.
Hôm nay, ngày mồng hai Tết dành riêng để kính nhớ cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài, đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (ca dao)
13.Hiếu kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay Mồng Hai Tết Kỷ Sửu. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.
I. LỜI CHÚA DẠY.
1. Điều răn thứ bốn.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.
2. Sách Huấn ca dạy.
Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:
– Được đền bù tội lỗi.
– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
– Sẽ được Chúa nhận lời.
3. Gương Chúa Giêsu.
Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt: “Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2, 51)
4. Lời khuyên của thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6, 1-3).
II. CHỮ HIẾU NGÀY XƯA.
Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:
Tử viết: “Phụ mẫu tại bất viễn du,
Du tất hữu phương”.
Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.
Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.
Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.
III. CHỮ HIẾU NGÀY NAY.
Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.
Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:
“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)
Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:
“Người 70 còn phải học người 71″(Tục ngữ)
Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn. Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.
Công ơn cha mẹ như trời như bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Truyện: Tờ hóa đơn.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.
Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả.!
Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.
Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!
“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.
Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở phái nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói: “Ông già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.
Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.
IV. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu. (Ca dao)
Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói: “Thiên Chúa dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.
Truyện: Ý kiến của tù trưởng.
Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:
Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.
Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất: “Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa: “Tôi đã giết được một con hổ dữ”.
Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai: “Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp: “Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.
Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba: “Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp: “Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp: “Thế anh làm được gì”? Anh đáp: “Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi: “Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp: “Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.
Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói: “Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.
Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người
Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.
14.Bụi chuối sau hè--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Nếu như trong văn học Việt nam cây tre được ví von như người cha thì hình tượng cây chuối cũng được khắc họa như người mẹ. Người ta thường ca ngợi cây tre nhưng ít ai nói về cây chuối và ít ai biết được trong hình ảnh đó là những những ý tưởng phong phú. Hình ảnh ấy đã đi vào văn thơ mộc mạc, dân dã bao nhiêu thì cũng gần gũi thân thương trong những bài hát, bài thơ bấy nhiêu.
Người ta vịnh cây chuối như sau:
Không rực rỡ như hồng, lan, cúc, huệ
Không dịu dàng như Tulip, Lily
Hương chẳng thơm, sắc cũng chẳng tươi gì
Mà nghiêng ngã khi cây vừa trổ nụ
Chứa đựng trong lòng một dòng nhựa chát
Để một đời xanh ngát những đứa con
Hiến dâng xong xác cũng chẳng còn
Nhường lại chỗ cho đàn con khôn lớn.
I. TẢN MẠN VỀ CÂY CHUỐI
1. Nơi trồng cây chuối
Đi đâu về những vùng quê Việt nam, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh cây chuối thân mềm với những tàn lá xanh mướt tỏa ra che rợp từ vườn tược đến núi đồi. Cây chuối là loại cây dễ tính, nó phù hợp với nhiều loại đất, khí hậu của nhiều châu lục, đồng thời cây chuối lại rất ưa nước, dễ trồng, phát triển nhanh cho nên người ta mới nói: “Trẻ trồng na, già trồng chuối”, lại cho sản lượng cao, hầu hết cây chuối thường được trồng cạnh ao hồ của mọi nhà ở nông thôn.
Trồng cây cho hài hòa theo phong thủy thì người ta có câu:Trước cau sau chuối”, có nghĩa là đàng trước nhà nên trồng cây cau thân thẳng đứng cho khỏi cản gió nam mát mẻ (vì nhà thường quay về hướng nam) và không che khuất nhà cửa; còn cây chuối thì lá to, mọc um tùm nên trồng ở đàng sau nhà cho khỏi che khuất nhà và có thể cản gió may lạnh giá vào mùa đông.
Cũng vì những lý do đó mà cây chuối cũng đi vào thi ca, nhạc họa, đời sống văn hóa của người Việt nam với vẻ đẹp dân dã, giản dị của làng quê.
2. Các loại chuối
Chuối trồng được tạo thành do kết quả của sự lai tự nhiên giữa hai loài chuối hoang dại ở Đông Nam Á là chuối hột và chuối rừng. Ngày nay, người ta ước lượng có đến 200-300 giống chuối được trồng trên thế giới.
Hầu hết chuối ăn quả đều thuộc loài Musa paradisiaca L. với 11 thứ khác nhau bởi hình dạng quả, mầu sắc và vị của thịt quả, phân thành hai nhóm:
- Nhóm chuối tiêu (chuối già) có đến 5 giống mà phổ biến là chuối lùn cao và lùn thấp là giống chuối điển hình có bột chuyển hết thành đường, dễ tiêu hóa, có quả cong, vỏ dầy thường trồng ở đồng bằng sông Hồng và sông Chu.
- Nhóm chuối tây (chuối sứ) có quả to và ngắn hơn chuối tiêu, vỏ cũng mỏng hơn. Có thể luộc, có thể chiên, dùng làm rau (nõn thân già, hoa chuối) ít chát hơn là chuối tiêu.
3. Công dụng của chuối
Hầu như tất cả cây chuối đều cống hiến cho con người. Các bà nội trợ thường băm nhỏ thân chuối làm cám cho heo ăn, hay khi ăn các loại bún ta sẽ cảm thấy kém phần ngon miệng nếu như không có rau ăn kèm, lõi non của thân và bắp chuối bào mỏng. Lá chuối tươi dùng để gói bánh, gói giò và là một loại bao bì thân thuộc với môi trường; ngoài ra lá chuối khô cũng được dùng để gói những chiếc bánh gai.
Ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những sợ dây cột của các cô bán hoa, đó chính là bẹ chuối, chúng được xé phơi khô để làm những sợi dây cột như thế đấy.
Đặc biệt hơn nữa, chuối là một thức ăn bổ dưỡng nhất trong các thứ quả cũng như có tác dụng chữa bệnh, đến nỗi người ta nói đùa rằng: “Nếu mỗi bữa có một quả chuối tráng miệng thì bác sĩ không có tiền bỏ túi”. Ít loại hoa quả nào có nhiều tác dụng như thế.
Còn một phần nữa mà ta không thể bỏ qua chính là phần củ chuối, củ chuối vốn chỉ dùng để nhân giống, để nảy mầm thành cây con, thế nhưng người ta có thể dùng củ chuối mà làm món “rựa mận” thịt chó thì ngon tuyệt vời. Đôi khi gặp cảnh đói kém thì nó lại là lương thực cứu sống cho con người qua lúc ngặt nghèo.
Thế mới biết cây chuối đã góp phần quan trọng như thế nào đối với đời sống của người Việt nam chúng ta.
4. Ý nghĩa tượng trưng của cây chuối
- Nét đẹp có ý nghĩa thứ nhất là những trái chuối trong nải mọc sát bên nhau nói lên biểu tượng tính đoàn kết các thành viên trong gia đình cũng như trong xã hội.
Cây chuối còn biểu trưng cho sự hình thành của thế hệ trẻ. Và những quả chuối lớn dần trên buồng cũng biểu lộ cho sức vươn mạnh của con người.
Những bẹ chuối lá xanh to quấn tròn nhau mang ý nghĩa cho sự đùm bọc trong ngoài của dân tộc.
- Nét đẹp thứ hai của cây chuối là sự hy sinh dâng hiến: Khi ăn một quả chuối, chúng ta ít khi suy nghĩ về nó, chúng ta chỉ thấy nó ngon miệng thôi. Thực ra, cây chuối là cả một cuộc vận hành, nhưng phía cuối con đường là sự tàn lụi, sự hy sinh cao cả.
II. SUY TƯ VỀ CÂY CHUỐI
Nhìn vào bụi chuối xanh tươi, ngắm nhìn những buồng chuối chín mọng nặng trĩu, thưởng thức những quả chuối chín mọng thơm mát, ít ai nghĩ đến ý nghĩa của cây chuối. Chúng ta hãy ngắm nhìn những bụi chuối trĩu nặng buồng quả chín thơm, và chúng ta cùng suy tư về một vài điều.
Cuộc đời cây chuối thật ngắn ngủi. Vừa xuất hiện với tư cách mầm non đã vội vã trưởng thành rồi sinh con, rồi lại vội vàng biến mất. Vì thế người ta mới nói: “Trẻ trồng na, già trồng chuối”.
Từ khi là mầm chồi đến khi trưởng thành, cây chuối phát triển, cố gắng để sống… rồi trổ buồng, kết trái đợi đến khi trái chuối “những đứa con mình” thì cây chuối cũng chết tàn lụi. Như thế, cuộc đời của mỗi cây chuối chỉ sống có một lần, sinh con một lần. Sau khi cho cuộc đời trái thơm, trái ngọt thì cây chuối đã biến mất.
Không cây chuối nào có thể sinh được hai ba buồng một cách tự nhiên. Mỗi cây chuối chỉ có một buồng chuối, mặc dầu có buồng chuối dài tới 3 mét và có tới 120 nải ở Quảng Nam.
Khi cho cuộc đời được hoa trái của mình thì cây chuối đành tàn lụi đi để nhường chỗ cho những cây khác, là con cháu, đàn em của mình lớn lên. Có hay chăng cây chuối khi có được buồng chuối chín, rồi thì nhường lại tất cả những gì mình có cho thế hệ sau, còn bản thân mình lụi tàn và biến mất lúc nào không ai hay, mà cũng chẳng có cuộc cạnh tranh nào cho bằng là nhường chỗ cho những thế hệ sau. Chính cây chuối có một cái đạo gọi là đạo nhường bước để cây sau tiếp tục lớn lên.
Truyện: Cuộc đời cây chuối
Có một em bé hỏi bố rằng:
- Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiêu buồng?
Bố tôi trả lời:
- Chỉ một buồng duy nhất.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng cho vài buồng quả.
Bố nói thêm:
- Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gẫy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng cuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhật của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hằng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh cao cả đến thế.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mầm sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là một bài học quí báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt (Theo Internet).
III. BÀI HỌC TỪ CÂY CHUỐI
Cuộc đời của cây chuối là dâng hiến cho đời những trái ngon ngọt qua bao hy sinh vất vả rồi âm thầm tàn lụi đi trong quên lãng để nhường chỗ cho đàn con cháu, cho những thế hệ mai sau.
Cuộc đời của cha mẹ cũng giống như cuộc đời của cây chuối : cuộc đời dâng hiến. Chúng ta hãy nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời để cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chín thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao qua ca từ như bài Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân:
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào
Lời ru man man như đồng lúa chiều rì rào
Tiếng ru êm đềm trăng tà soi bóng mẹ yêu.
Còn rất nhiều bài ca và thơ văn của nhiều tác giả ca tụng tình yêu hy sinh của người mẹ, bài nào cũng chan chứa tình mẹ con, được ví như non cao biển cả mà không lời nói hay ngòi bút nào có thể diễn tả hết. Chúng ta hãy đọc một đoạn thơ của một tác giả khác:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời Biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông
Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi.
Thật đúng khi so sánh tình yêu và công ơn của cha mẹ với núi cao, biển rộng. Còn gì có thể cao hơn “núi ngất trời”, còn gì có thể rộng hơn “biển mênh mông”? Cha mẹ tần tảo nuôi nấng con, không mong các con đền đáp, mà chỉ trông sao các con khôn lớn nên người. Được thấy con hạnh phúc là cha mẹ hạnh phúc lắm rồi. Tôi còn nhớ một câu chuyện Trung Hoa kể về gương một cậu bé chăm sóc cha: trời nắng, cậu đứng bên cạnh quạt cho cha; trời lạnh, cậu nằm vào chăn trước để khi cha nằm được ấm ngay.
Một chữ “Hiếu” thôi tưởng chừng thật đơn giản nhưng có biết bao người đã lãng quên nó. Mồ hôi cha đã thấm xuống từng mảnh đất, bóng dáng mẹ đã cùng mưa gió bôn ba mọi nẻo. Mỗi mùa xuân sang, con cái rộn ràng đem biếu tặng cha mẹ những món quà đắt tiền, nhưng đó có phải là thứ mà cha mẹ cần đến không? Là những người con, chúng ta có thể làm được điều gì đem lại hạnh phúc cho cha mẹ thì hãy cố gắng làm ngay khi cha mẹ còn ở trên đời với ta. Xin gửi trọn tâm tình qua đoạn danh ngôn đạo đức tới các người con trong gia đình:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ,
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha.
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn,
Mang cả tấm thân gầy cha mẹ chở đời con,
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc,
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con!
15.Đền đáp công ơn của tổ tiên--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến
Hôm nay là ngày mồng hai tết. Giáo Hội Mẹ của chúng ta muốn chúng ta dùng ngày đầu năm đặc biệt này để nhớ đến công ơn của tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta.
I. Công ơn của Tổ tiên Ông Bà cha mẹ thật không sao mà kể cho hết, như trời như biển. Công cha chẳng khác gì núi Thái - Nghĩa mẹ chẳng khác gì như nước trong nguồn.
Ngày xưa Đức Phật đã dạy các đệ tử: “Trên đời này có hai người mà ta không thể trả hết ơn được là cha và mẹ ta. Dù có cõng cha mẹ trên vai suốt cả trăm năm cuộc đời, hay có tán xương lóc thịt để làm thức ăn cho cha mẹ cả trăm ngàn kiếp, cũng chưa đáp đền được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, vì công ơn cha mẹ to lớn lắm” (Kinh Vu Lan).
+ Có rất nhiều câu chuyện cảm động về những lo lắng của cha mẹ dành cho con cái. Nhưng câu chuyện về Mạnh Tử là một trong những câu truyện hay nhất. Thầy Mạnh Tử lúc còn nhỏ đã may mắn có được một người mẹ hết lòng lo lắng dạy dỗ cho mình. Truyện kể rằng hồi đó nhà Thầy Mạnh Tử ở gần nghĩa địa. Mẹ thầy Mạnh Tử thấy con bắt chước người ta đào bới rồi lăn ra khóc. Bà liền dời nhà đến gần chợ. Tại đây bà lại thấy con bắt chước người ta sống nghịch ngợm và gian dối. Bà cho đây không phải là chỗ thích hợp cho con của bà. Bà lại dời nhà đi nơi khác. Lần này thì chuyển nhà của bà đến ở gần trường học. Ở đây Mạnh Tử thấy các bạn trẻ cùng lứa tuổi đua nhau tập lễ phép và học chữ nghĩa thì cậu cũng bắt chước. Bà mẹ thấy như vậy mừng quá và bà quyết định ở lại đây luôn.
+ Tin Mừng không nói cho chúng ta nhiều về việc Thánh Giuse và Đức Mẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu như thế nào, nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã được Thánh Giuse và Đức Mẹ giáo dục thật kỹ. Điều này quả không ai còn có thể hoài nghi.
II. Nếu công ơn của tổ tiên Ông Bà Cha mẹ lớn lao như thế thì con cái phải làm gì để đền đáp?
Trong bức tâm thư gửi các gia đình nhân dịp năm quốc tế gia đình năm 1994 số 18 Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô đã viết như sau: “Hãy thảo kính cha mẹ bởi vì theo một nghĩa nào đó, các vị ấy đối ngươi là những người đại diện của Chúa, những người đã ban tặng sự sống cho ngươi, đã đưa ngươi vào cõi sống nhân linh, vào trong một dòng dõi, một quốc gia, một nền văn hóa. Sau Thiên Chúa các vị ấy là những ân nhân đầu tiên của ngươi. Nếu chỉ một mình Thiên Chúa là đấng tốt lành, nếu chỉ mình Ngài là Đấng thiện hảo, thì cha mẹ ngươi cũng được thông phần một cách độc nhất vô nhị vào chính sự tốt lành tối thượng ấy. Bởi đó ngươi hãy thảo kính Cha mẹ ngươi”.
Nhưng bằng cách nào kính thưa anh chị em?
Có nhiều cách nhưng tôi chỉ xin được đề cập một vài cách cụ thể này:
a- Trước hết là phải biết ơn ông bà cha mẹ tổ tiên mình
Biết ơn là một trong những giá trị nền tảng cao quí nhất của cuộc sống làm người và đồng thời nó cũng là biểu hiện rõ rệt nhất của một con người biết sống với tư cách làm người của mình.
Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã dùng cả một giới răn để nói về vấn đề này. Đó là giới răn thứ tư. “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”
Ngược lại vô ơn là thái độ đáng lên án. Đức Cha Bùi Tuần trong cuốn “Nói với chính mình” có viết những lời rất nặng như sau: “Người ta cho con chó một cái gì nó còn ngoáy ngoáy cái đuôi để tỏ lòng biết ơn. Con người mà không có lòng biết ơn thì không bằng con chó” Hơi nặng một chút nhưng thật là thấm thía.
Dân gian có một câu truyện đã được truyền lại từ đời này qua đời kia như thế này. Có một đôi vợ chồng kia làm ăn khá giả nhưng lại cư xử rất keo kiệt với những người trong gia đình. Trong nhà có một ông bố già. Vì già - đã trên 80 tuổi - cho nên mắt đã mờ, sức đã yếu tay chân không còn được khoẻ mạnh như hồi còn trẻ. Chính vì vậy mà mỗi khi ăn uống ông thường đánh rơi ly chén xuống đất làm bể rất nhiều ly chén. Người con dâu thấy như vậy nên cứ cằn nhằn hoài với chồng. Người cha tuy mắt đã mờ nhưng tai còn rất thính. Ông rất buồn nhưng không thế làm cách nào khác hơn. Ngồi ăn mà không cầm được nước mắt. Rồi một hôm khi chị ta xúi chồng đẽo cho cha một cái chén bằng gỗ để tiện cho việc ăn uống.
Câu truyện tưởng như thế là suôn sẻ nhưng thật không ngờ là một ngày kia khi hai vợ chồng có việc phải đi xa trở về. Khi vào trong nhà thì nghe thấy có tiếng gì như những tiếng đục đẽo vọng ra từ ở một góc nhà. Hai vợ chồng lại gần thì thấy đứa con trai cưng của mình đang cầm một cái chén bằng gỗ đã được đẽo gần xong. Bà mẹ tò mò hỏi thì đứa con ngây thơ trả lời:
- Con làm cái chén này để mai sau ba má có chén mà dùng giống như chén ba má đẽo cho ông nội đang dùng vậy đó.
Kính thưa anh chị em. Không biết anh chị em có còn nhớ không chứ riêng tôi, tôi rất nhớ câu ngạn ngữ đã có từ bao thế hệ như thế này: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó - Vâng sóng trước đổ đâu thì sóng sau sẽ đổ ở đó” anh chị em.
Đó là điều thứ nhất.
b - Điều thứ hai là phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
+ Cách hiếu thảo tốt nhất là vâng lời cha mẹ trong những điều hợp lẽ nhất là khi còn trẻ.
Tin Mừng tóm gọn cả cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu ở Nazareth bằng những lời như thế này: ”Ngài vâng lời và chịu lụy hai ông bà”
Tại tiệc cưới Cana vì Đức Mẹ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ.
+ Tiếp đến là hãy biết làm vui lòng cha mẹ.
Đời nhà Hán bên Trung hoa có một người nổi tiếng là có lòng hiếu thảo với cha với mẹ. Đó là Bá Du. Hồi còn nhỏ mỗi khi làm điều gì sai quấy mà bị mẹ đánh thì Bá Du luôn tươi cười vui vẻ nhận lỗi, không bao giờ dám cãi. Nhưng một ngày nọ sau khi bị mẹ sửa phạt bằng roi thì Bá Du oà lên khóc. Thấy thế bà mẹ thắc mắc hỏi:
- Bao nhiêu lần mẹ đánh con để dạy con mà con không khóc thế thì tại sao lần này con lại khóc?
Bá Du lễ phép trả lời:
- Thưa mẹ, những lần trước mẹ đánh con đau lắm thế nhưng con không khóc vì con thấy sức của mẹ còn mạnh. Lần này mẹ đánh con, tuy không đau bằng những lần trước nhưng con lại khóc vì con thấy sức mẹ không còn khoẻ như xưa…mẹ đã già yếu. Con khóc vì thương mẹ chứ không phải vì giận hờn.
+ Cuối cùng nếu có thể được thì phải lo phụng dưỡng cho cha mẹ để cha mẹ được sống an vui khi tuổi đã xế chiều.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Đi được nửa đường, ông gặp một Vị lão tăng. Vị lão tăng khuyên Dương Phủ: “Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật”.
Dương Phủ hỏi vặn lại: “Phật ở đâu?”. Vị lão tăng giải thích: “Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy”.
Dương Phủ nghe lời quay về. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị lão tăng đã mô tả. Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Một trong những hình ảnh đẹp nhất về cuộc đời của Chúa Giêsu là cảnh Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ cho thánh Gioan ở dưới chân cây Thập giá. Trước khi nhắm mắt Chúa còn cẩn thận gửi gắm người mẹ của mình cho người môn đệ yêu quí nhất để Gioan thay cho Chúa mà lo cho Đức Mẹ. Thật hiếm có một việc làm nào đẹp như thế.
Xin Chúa thánh hoá tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
16.Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già tay bị run, thường hay làm bể cái chén kiểu đắt tiền khi ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt mang về một chiếc gáo dừa rồi gọt dũa làm thành một cái chén gáo dừa cho bố anh ta dùng. Đứa con trai thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh ta trả lời con rằng: Để ông nội con dùng khỏi bị bể nếu ăn cơm có bị run tay làm rơi xuống đất.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này bố già dùng nếu bố có bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.
THẢO LUẬN: 1) Về lối sống hiếu thảo với ông bà tổ tiên, bạn có đồng ý với câu người xưa nói: “Sóng trước vố đâu, sóng sau vỗ đó” hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
1) Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình
Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để các tín hữu chúng ta thực hành bổn phận hiếu thảo với ông bà tổ tiên, cụ thể là các bậc sinh thành là cha mẹ. Sự hiếu thảo được thể hiện qua những lời nói, thái độ cử chỉ và hành động với cha mẹ, cụ thể là món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ đượm tình thảo hiếu với các ngài.
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được chờ đón những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà và anh chị em con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải được thể hiện trong suốt những ngày tháng dài sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.
Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta lá chắn che chở suốt đời mình. Nếu cha mẹ già yếu, con cháu phải tránh coi thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài.
Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, bú mớm dọn dẹp vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì: “Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bạn sẽ biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa Cha là Chúa tể của Mùa Xuân đất trời. Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay. Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.- Amen.
17.Đáp nghĩa Đền ơn--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 2021
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ định Ngày Mồng Một Tết, là Ngày cầu cho thế giới được hòa bình, cho quốc thái dân an, cho gia đình ấm êm hạnh phúc. Hôm nay Ngày Mồng Hai Tết, ngày kính nhớ tổ tiên ông bà, cha mẹ, theo tinh thần của Đạo Hiếu, hướng chúng ta về với cội nguồn là những đấng cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta thành người.
Ý tưởng của Lời ca nhập lễ: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân. Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”. Lời nguyện tiến lễ mới đẹp làm sao: “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc ấm của các ngài”.
Chúa truyền phải thảo cha kính mẹ
Thụ ơn ắt phải báo đền, mẹ cha là hình ảnh của Thiên Chúa: ngoài việc sinh thành, dưỡng dục, các ngài còn là người đại diện Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa tình thương hằng bao bọc, che chở và nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chính trong bậc sống gia đình, cha mẹ được Thiên Chúa mời gọi để cộng tác vào chương trình tạo dựng của Ngài, để cho ra đời những người con, mang hình ảnh Chúa, và tô điểm thêm cho trái đất nhiều người ca ngợi và kính sợ Chúa. Vì thế, bổn phận của cháu con, ngoài việc phụng dưỡng, giúp đỡ cha mẹ khi già yếu, còn phải hằng ngày cầu nguyện cho cha mẹ: luôn sống xứng bậc mình, sẵn sàng hy sinh để nuôi dưỡng và giáo dục cho tròn bổn phận mình. Thiên Chúa dạy chúng ta: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Mc.7, 8-13). Phụng dưỡng mẹ cha theo đúng lời Chúa truyền dạy, chớ dựa vào: “truyền thống của cha ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 13, 6).
Ơn phúc đến từ việc tôn kính mẹ cha
Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng. Việc “đền ơn đáp nghĩa” là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là bổn phận của kẻ làm con. Ai thực hành Lời Chúa dạy sẽ được Chúa ban dư tràn phúc lành.
Ước muốn sống lâu, sống hạnh phúc trên địa cầu này là lời cầu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới, bởi ai cũng mơ sống hạnh phúc, khang an và trường thọ. Chúa dạy: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3,6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Ngoài việc sống vui sống hạnh phúc, kẻ tôn kính mẹ cha còn được tha thứ tội lỗi: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm” (Hc 3,2). Được nhận lời khi cầu xin: “Ai hiếu thảo với cha mẹ, khi cầu xin họ sẽ được lắng nghe” (Hc 3,5b). Được con cái báo đền: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái” (Hc 3,5a). Vì “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đấy”. Người bất hiếu với cha mẹ sẽ bị con cái đối xử tàn tệ hơn. Người có hiếu với cha mẹ cũng sẽ được con cái đối xử tốt đẹp. Được ơn lành tích trữ trong kho tàng: “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,4).
Phận làm con cho tròn chữ Hiều
Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm để ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha. Bởi Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, con người hiền lành, hiếu thảo đã dâng lên vua cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời, nhân bánh tựa công ơn sinh thành của cha mẹ; với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con cái sống an vui giữa đời.
Vì cha nên mới có mình,
Mẹ cha đối đáp công trình biết bao
Ơn này sánh với trời cao
Trong lòng con dám lúc nào lãng quên
Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như: thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được.
“Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông: có cha có mẹ, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu đối với mẹ cha.
Tôn kính
Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết kính thờ song thân.”
Phụng dưỡng
Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Vâng lời
Dạy sao cho được con hiền
Để cho cha mẹ khỏi phiền về con
Một niềm phép tắc nết na
Biết sống biết kính mới là khôn ngoan
Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.
Trong tác phẩm “Gia Huấn Ca” Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,
Đừng tranh dành bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Khi cha mẹ qua đời
Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.
Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.
Thực hành chữ hiếu
Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (Ca dao)
Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài. Amen.
18.Làm Con Phải Lấy Chữ Hiếu Làm Đầu 2023--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ định Ngày Mồng Một Tết, là Ngày cầu cho thế giới được hòa bình, quốc thái dân an, gia đình ấm êm hạnh phúc.
Hôm nay Ngày Mồng Hai Tết, ngày kính nhớ tổ tiên ông bà, cha mẹ, những người đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta thành người.
Thứ bốn thảo kính cha mẹ
Thiên Chúa dạy chúng ta: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Mc.7, 8-13). Ý tưởng của Lời ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân…”. Lời nguyện tiến lễ mới đẹp làm sao: “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc ấm của các ngài”.
Việc “đền ơn đáp nghĩa” là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là bổn phận của kẻ làm con. Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng.
Ước muốn sống lâu, sống hạnh phúc trên địa cầu này là lời cầu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới, bởi ai cũng mơ sống hạnh phúc, khang an và trường thọ. Chúa dạy: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3,6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Ngoài việc sống vui sống hạnh phúc, kẻ tôn kính mẹ cha còn được tha thứ tội lỗi: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm” (Hc 3,2). Được nhận lời khi cầu xin: “Ai hiếu thảo với cha mẹ, khi cầu xin họ sẽ được lắng nghe” (Hc 3,5b). Được con cái báo đền: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái” (Hc 3,5a). Vì “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đấy”. Người bất hiếu với cha mẹ sẽ bị con cái đối xử tàn tệ hơn. Người có hiếu với cha mẹ cũng sẽ được con cái đối xử tốt đẹp. Được ơn lành tích trữ trong kho tàng: “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,4).
Triết lý chữ hiếu qua chiếc bánh chưng xanh
Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm để ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha.
Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ. Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân. Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ VI là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.
Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.
Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như: thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được. Chỉ gói gọn trong chiếc bánh chưng xanh thôi là cả một Đạo Hiếu đáng ghi nhớ. Nó đã thoát khỏi đơn thuần là vật chất, móm ăn bình thường nhưng chứa đựng một triết lý sâu sắc đạo làm người.
Làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu
Từ lâu nhân loại đã luôn ca tụng về những tấm gương hiếu hạnh. Có thể thấy, dù ở thời đại nào, con người vẫn đề cao sự hiếu kính và báo đáp công ơn nuôi dưỡng của các đấng sinh thành.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh núi Thái Sơn cao vời vợi và nước trong nguồn vô tận kia được đem ra so sánh với “công cha, nghĩa mẹ”.
Mỗi lần nhắc tới ơn cha nghĩa mẹ, thì y như rằng ta có lớn, có già lụm cụm cũng vẫn là trẻ con trước mắt mẹ cha, rồi nước mắt ngắn dài, cha thương mẹ xót. Thương vì cái ơn quá lớn chưa có đền đáp được bao nhiêu, xót vì có lúc nghịch ngợm, và có khi đã từng là… nghịch tử, cãi cha mắng mẹ! Người ta nói xã hội xuống cấp về đạo đức, lòng người trở nên vô cảm, lạnh lùng, nhưng nếu quả tình họ vô cảm, lạnh lùng với cả cha mẹ mình thì… chẳng còn gì để nói.
Làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu, nếu không mọi việc làm tốt đều vô nghĩa. Thờ không phải chỉ lúc chết mới cúng giỗ linh đình mà phải thương, kính ngay từ thuở người còn sống. Kính vì ơn nghĩa sinh thành, dưỡng dục ví tựa “Thái sơn”, tựa “nước trong nguồn chảy ra”. Đỗ Trung Quân thì khẳng khái ví quê hương như là mẹ. Và mỗi người chỉ một, nên phải nhớ, nhớ để “lớn thành người”.
Tôn kính
Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết kính thờ song thân.”
Phụng dưỡng
Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Vâng lời
Dạy sao cho được con hiền
Để cho cha mẹ khỏi phiền về con
Một niềm phép tắc nết na
Biết sống biết kính mới là khôn ngoan
Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.
Trong tác phẩm “Gia Huấn Ca” Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,
Đừng tranh dành bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Khi cha mẹ qua đời
Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.
Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.
Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen.
19. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”(c. 2)
Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề!
Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy”» (x. Tv 51, 4).
Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta?
Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những « người nhơ uế », những « người tội lỗi ».
Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này: « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân » (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).
Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa ; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.
Truyền thống và Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)
Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”(c. 6b)
Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.
Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.
Giới răn “Thờ cha kính mẹ”
Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?
Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.
20.Lòng hiếu thảo với tiên nhân--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Sách khải huyền có viết: “ Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”(Kh 14, 13). Lời Kinh thánh giúp ta hiểu rõ của những người đi trước đã nhắm mắt lìa đời trong ân nghĩa Chúa. Niềm tin Kitô giáo dậy nhân loại, dậy mỗi người Kitô hữu rằng bổn phận của người còn sống có bổn phận và nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đặc biệt đối với các bậc tiền nhân, tiên tổ, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Đạo công giáo. Riêng đối với người Việt Nam vấn đề đạo hiếu có một tầm quan trọng đối với cá nhân, gia đình và họ hàng thân tộc.
NGƯỜI VIỆT NAM MANG NẶNG CHỮ HIẾU:
Đối với người Việt Nam chữ hiếu luôn đứng đầu trong mọi đức tính sẵn có của con người. Người Việt Nam vốn lấy đạo đức làm căn ban cho cuộc sống, cho bản thân, cho gia đình và cho dòng tộc của mình. Con cái thảo hiếu với cha mẹ lúc còn sống, khi cha mẹ đã khuất, người con hiếu thảo là người con luôn tưởng nhớ tới cha mẹ bằng việc cầu nguyện, xin lễ cho những người thân đã mất. Người Việt thường có bàn thờ gia tiên để tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Sự hiếu thảo của con cái được thể hiện bằng nhiều cách như khi cha mẹ còn sống, con cái kính trọng, nuôi dưỡng, vâng phục cha mẹ và khi các vị đã mất, con cái cháu chắt lại tưởng nhớ tới các bậc tiền nhân trong những ngày giỗ, ngày kỵ, này tết nơi gia đình, nơi dòng tộc của mình. Người Việt Nam cũng không chỉ đóng khung trong gia tộc, gia đình mà họ còn đi xa hơn biết ơn cả đối với những người đã hy sinh để xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước.
Tấm lòng tốt, sự biết ơn là một nét độc đáo trong nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Chính vì thế, người Kitô hữu Việt Nam đã cảm nghiệm sâu xa giới luật thứ bốn của đạo công giáo và hài hòa với truyền thống tôn kính, tưởng nhớ, ghi ơn những người đã có công với đất nước, quê hương, dân tộc.
NIỀM TIN KITÔ GIÁO:
Người Kitô hữu thể hiện chữ hiếu Kitô giáo bằng nhiều cách:khi cha mẹ còn sống, con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đã khuất lòng hiếu thảo được thể hiện bằng việc cầu nguyện, dâng lễ, làm việc lành dành riêng cho cha mẹ đã qua đời. Việc chăm sóc mồ mả, nhớ ngày giỗ, ngày kỵ, hương nhang, nến đèn cho người chết cũng là một cách biểu tỏ lòng biết ơn đối với những kẻ đã khuất, đã chết. Xưa có quan niệm theo Chúa, theo đạo công giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà cha mẹ, quan niệm ấy đã lỗi thời vì xưa kia đã có ngộ nhận như thế. Nay, người công giáo là người nhận mọi người là anh em. Theo Chúa, theo đạo, người Kitô hữu như được dọn trước để mở rộng vòng tay đón nhận mọi người. Người Kitô hữu không chỉ đóng khung trong gia đình, gia tộc, họ hàng của mình mà họ còn có nhiều tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì đạo Chúa bao gồm tất cả mọi người không loại trừ bất cứ ai. Trong tình yêu của Chúa mọi người đều là anh em với nhau. Đức ái Kitô giáo không phân biệt, không loại trừ bất cứ người nào.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội Việt Nam dành ngày này để kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, đây là một việc làm thật đáng trân trọng và hữu ích vì trong những ngày tết, mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc sum vầy, êm ấm để ăn tết, tưởng nhớ, dâng lễ và cầu nguyện cho những bậc tiền nhân là một nghĩa cử cao đẹp và là một nhắc nhớ cho mọi người hãy sống hiếu thảo, hãy thực hành giới luật thứ bốn của thập giới Kitô giáo. Sống đạo hiếu là nét son văn hóa và nét nổi bật đức tin của người Kitô hữu Việt Nam.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dậy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
21.Thảo kính cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Mỗi năm vào ngày mồng hai tết, Giáo Hội luôn dành một ngày để con cái cháu chắt có dịp báo hiếu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, Giáo Hội giúp mỗi người còn được diễm phúc sống dưới trần gian này hiểu được thế nào là công lao của ông bà tổ tiên. Có tổ tiên, có ông bà mới có cha mẹ rồi mới có chúng ta: đây là một điều hiển nhiên ai cũng phải hiểu và cảm nghiệm một cách sâu sắc công ơn trời biển của tổ tiên ông bà, của cha mẹ vv…” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra “, ca dao Việt Nam quả có lý khi đề cập tới nghĩa vụ của con cái đối với mẹ cha. Do đó, hôm nay, mọi người dâng thánh lễ này cầu nguyện cho các bậc sinh thành rất hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta, đồng thời cũng rất thực tế với dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu.
CUỘC TRANH LUẬN GIỮA CÁC NGƯỜI PHARISÊU, CÁC KINH SƯ VÀ CHÚA GIÊSU: Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu xoay quanh cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các người Pharisêu, các Kinh sư về bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Đối với các người Pharisêu, các kinh sư họ cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là vừa đủ rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Người Pharisêu và Kinh sư giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi thế hệ, mọi người chúng ta rằng: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Ngay trong điều răn thứ bổn của thập giới cũng viết: “ Thảo kính cha mẹ “. Như thế rõ ràng Thiên Chúa dạy con người phải thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Chính vì thế, lập trường của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với người Pharisêu và các Kinh sư. Chúa Giêsu mở ra một giá trị mới, một đạo hoàn toàn dựa trên tình thương.
VẤN ĐỀ HIẾU THẢO BỊ LUNG LAY: Nếu lược qua các nơi, các nước chúng ta như nhận ra được cái yếu của nhiều gia đình. Bởi vì đời sống của nhiều gia đình hiện nay đang vấp phải khủng hoảng về đức tin, về đạo lý, Nhiều con cái chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Ngày nay có nhiều gia đình con cái đối với cha mẹ không ra làm sao cả. Nên, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con cái coi vật chất là trên hết, có nhiều đứa con đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con. Ở nhiều nước văn minh có nhiều gia đình con cái sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão đầy đủ tiện nghi nhưng lại thiếu thái độ”thờ cha kính mẹ ” theo ý của Thiên Chúa là ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Các Giám mục Việt Nam trong năm 2007 và 2008 đã ra hai thư mục vụ nói về gia đình. Điều này nói lên sự quan trọng của nền tảng gia đình. Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2008 viết về gia đình Nagiarét: “ Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nagiarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”. Gia đình thánh gia là gia đình gương mẫu cho mọi gia đình bởi vì Chúa luôn hiếu thảo đối với thánh Giuse và mẹ Maria.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Cha mẹ là người sinh ra chúng ta, chúng ta phải hết lòng tôn kính, yêu thương cha mẹ. Ai cũng có cha có mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta, chúng ta phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chúa nói: ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, lúc qua đời phải xin lễ, cầu nguyện cho cha mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa cũng có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa đã hiếu thảo với cha mẹ, xin cho chúng con luôn biết báo đáp mẹ cha. Amen.
22.Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giáo Hội Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết mỗi năm để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà cha mẹ đúng như đoạn Sách Cách ngôn 6, 29-23abc viết trong ca nhập lễ:
” Con ơi giữ lấy lời cha,
Chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.
Đèn soi trong chốn tối tăm,
Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.
Nhớ cầu cho bậc tổ tiên,
Khắc ghi công đức một niềm tri ân“.
Vâng, Giáo Hội là người Mẹ luôn âu yếm, nâng niu đoàn con và dạy dỗ con cái hãy sống điều răn Chúa phán truyền: “ Hãy thảo kính cha mẹ ” (Điều răn thứ 4 của Thập Giới Đạo Công Giáo).
Từ ngàn xưa nhân loại luôn ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ. Bởi vì, nước có nguồn, sông có cội, con người phải có tổ tông. Tổ tiên sinh ra ông bà nội ngoại và rồi nội ngoại sinh ra con cái, sinh ra chúng ta. Công ơn tổ tiên, công ơn ông bà, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ luôn luôn phải được đền đáp cho cân xứng. Chỉ cần đọc lại kinh tiền tụng lễ mồng hai tết, chúng ta sẽ thấy Giáo Hội chủ tâm tới những Đấng Bậc sinh thành, dưỡng dục như thế nào: “ Quả thực, khi ngẫm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên: chim có tổ…. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ơn huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Chúa “. Do đó, con người phải có hiếu đễ, lúc cha mẹ còn sống phải thăm nom, chăm sóc, khi cha mẹ khuất bóng, phải cầu nguyện, lo ngày giỗ ngày chạp vv…Đó là ơn nghĩa con cái phải đáp trả báo đền. Thánh vịnh 111, 1-2 viết rất rõ: “ Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. TRên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc “. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Êphêxô: “ Kẻ làm con, hãy vânbg lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này “. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh hơn: “ Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử “.
Vâng, đạo hiếu vẫn là đạo mà mọi nước, mọi dân tộc trên thế giới này đều khuyên nhủ con người thực hiện. Còn sống phụng dưỡng cha mẹ, không được làm phật lòng cha mẹ để cho cha mẹ buồn. Khi qua đời phải hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Bởi vì như Sách Khải Huyền viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả. Giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi“.
Những ngày đầu năm mới trong khi mọi người ăn uống, sum vầy, Giáo Hội luôn khuyên dạy chúng ta hãy nhớ tới công ơn của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Chính là các bậc tiên tổ, bậc cha ông mà chúng ta mới có ngày hôm nay…
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới … Nhâm Thìn
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (lời nguyện nhập lễ, lễ mồng hai tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao ngày mồng hai tết, Giáo Hội lại dành để cầu cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
2. Tổ tiên là ai?
3. Ông bà là ai?
4. Tại sao chúng ta lại phải trả ơn cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
23.Kính nhớ tổ tiên (Lc 1, 67-75)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.
Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc. Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.
Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết: “ Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6, 20, 23abc: “ Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết: “ Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.
Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết: “ Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ: “ Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục “. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ: “ Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ…”.
Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống. Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…
Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu
Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,
Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên?
2. Chúa dạy sao về hiếu thảo?
3. Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì?
4. Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì?
24.Thảo kính mẹ cha (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hôm nay Hội Thánh dành riêng ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Giáo Hội quả thực là người Mẹ rất khôn ngoan dậy con cái đủ điều. Thảo kính cha mẹ và các bậc tổ tiên là việc làm vừa phù hợp với tập tục, truyền thống hiếu thảo của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với điều răn thứ tư trong thập giới của Chúa, đồng thời thực hiện lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 hôm nay.
CUỘC TRANH LUẬN CỦA PHARISIÊU VỚI CHÚA GIÊSU: Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta nửa khóc nửa cười với các ông Pharisiêu và kinh sư bề ngoài xem ra đạo mạo, đạo đức nhưng bên trong lại toàn dao găm. Họ sống cái vỏ bên ngoài chứ thực ra họ chẳng sống cái lõi của Tin Mừng là bác ái yêu thương. Cuộc tranh luận của nhóm Pharisiêu và các kinh sư xoay quanh vấn đề rửa tay trước bữa ăn để rồi họ muốn tránh điều căn bản nhất là thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Kinh sư và Pharisiêu giới hạn việc làm con trong bổn phận thuần túy thế tục, vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa đạo đức. Đức Giêsu nhắc lại, nói lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người muôn thời: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15, 4). Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, nghĩa vụ đối với cha mẹ không chỉ dừng lại ở vật chất, nhưng còn đi tới cả nghĩa vụ tinh thần, thái độ đối với cha mẹ, đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử.
CUỘC SỐNG HÔM NAY VÀ MUÔN THỜI ĐỐI VỚI LỜI DẬY CỦA CHÚA GIÊSU: Ông bà cha mẹ, tổ tiên là những người có công sinh ra, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các Ngài tận tụy dậy dỗ chúng ta sống đời sống làm người, đặc biệt nhờ các Ngài mà chúng ta được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tiền nhân, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển. Ca dao Việt Nam đã viết: “ Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ hiếu đối với chúng ta rất có giá trị hợp với đạo lý làm người. Hiếu là yêu thương. Chúa là tình yêu. Do đó, đạo công giáo chúng ta là đạo yêu thương. Chính vì thế, mà tục ngữ ca dao đã viết rất dí dỏm, nửa khóc, nửa mếu vì nếu khi cha mẹ ông bà còn sống mà chẳng cho ăn, chẳng chăm sóc: vật chất cũng như tinh thần sẽ mang cái tội tầy trời: “ Khi sống mà chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm ma tế ruồi “. Cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi đang vấn nạn chúng ta hay đang hạch xét chúng ta về chữ hiếu, về nền tảng của gia dình. Các giá trị của đời sống gia đình hình như bị lung lay khá nhiều, nếu nói được là đang bị giao động đến tận gốc rễ, đến tận cuộc sống của nhiều người, của nhiều gia đình. Ngày nay, có nhiều người định mức cuộc sống bằng việc làm ra vật chất, làm ra của cải. Người ta định mức số tiền, của cải làm ra được bao nhiêu. Người trẻ không thích cha mẹ sống lâu, người già sống thọ. Muốn tiến thân người trẻ phải loại trừ người già vv…Nhiều nước trên thế giới, con cái đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão cho xong, vì viện dưỡng lão nhiều tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thái độ cần thiết nhất là ‘ thờ cha, kính mẹ “. Chính vì thế, con người ngày nay cũng na ná như Pharisiêu và kinh sư tưởng rằng mình biện minh được cho thái độ bất hiếu của mình cũng như nhóm Pharisiêu và kinh sư xưa đã nhân danh lời của tiền nhân để lại. Lời của Đức Giêsu nhắc lại trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 không cho phép ai được biện hộ cho thái độ bất kính, bất hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, ngay cả khi họ nại ra lý do tôn giáo nữa.
Ngày đầu xuân Giáo Hội nhắc lại cho mỗi người, mọi người sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Ngày đầu xuân mới, chúng ta nhớ đến các Ngài. Chúng ta xin lễ, cầu nguyện cho các Ngài, xin Chúa là Đấng từ bi thương xót xóa hết lỗi lầm các Ngài đã trót phạm và mau đưa các Ngài về hưởng nhan thánh Chúa mãi mãi, muôn đời.
Lạy Chúa, xin thương ban thiên đàng cho tất cả những người đã nuôi nấng, lo lắng và giáo dục chúng con. Amen.
25.Hiếu thảo với cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Truyền thống dân tộc Việt Nam quả rất cao quí khi ông bà tổ tiên, cha mẹ luôn được mọi người kính yêu, hiếu thảo. Tuy nhiên, Hội Thánh Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết để con cái cháu chắt tưởng nhớ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội luôn cho con cái hiểu rằng việc hiếu thảo có giá trị rất cao và là một trong những điều Chúa dạy. Bởi vì, trong mười điều răn của Chúa, giới răn thứ bốn: “ Hãy thảo kính cha mẹ ” là một giới răn được xếp trong mười điều Chúa dạy bảo. Chính vì thế, hôm nay, con cái của Chúa dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, cha mẹ là một điều thích hợp, phải lẽ đồng thời cũng rất hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 1-6.
Ngược lại với quan niệm, suy nghĩ của dân Do Thái, đặc biệt là các Kinh sư, Pharisêu về vấn đề báo hiếu, Chúa Giêsu luôn đề cao việc hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, các bậc sinh thành, dưỡng dục. Kinh sư và Pharisêu cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là đủ rồi, là tròn bổn phận và trách nhiệm rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Họ giới hạn bổn phận và nghĩa vụ dựa trên vật chất, và họ gán cho nó tính chất đạo đức. Đối với Chúa Giêsu, Ngài nói cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi người biết rằng: “ Phải thảo kính cha mẹ…” theo đúng giới răn thứ bốn trong thập giới của Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê: “ Thảo kính cha mẹ “. Chúa nói: “ Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Chúa Giêsu mở ra cho thế giới, cho con người, cho mỗi người một chân trời mới về nghĩa vụ và bổn phận đối với các bậc sinh thành. Vật chất cần thật nhưng tấm lòng, con tim, tinh thần còn có giá trị cao vời hơn. Thật vậy, xưa cũng như nay, vấn đề hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được đặt ra với nhiều quan niệm và suy nghĩ khác nhau. Ngày nay, tại nhiều đất nước, việc truyền bá tự do luôn được đề cao, nhiều nơi xem sự tự do là chính mà quên đi giá trị đạo đức. Do đó, giá trị truyền thống hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ. Nhiều nước, luật pháp bảo vệ tự do quá đáng: cha mẹ không được nói nặng tới con cái, chứ chưa nói tới quát nạt, to tiếng hay đánh sửa dạy. Nhiều nước, con cái tới 18 tuổi được luật pháp bảo hộ theo ý của mình. Cha mẹ luôn phải dè chừng với con cái. Nên, giá trị đạo đức bị lung lay: con cái muốn làm gì thì làm. Luân lý bị coi nhẹ. Cha mẹ được xem như gánh nặng đối với con cái. Con cái thích tự lập, ở riêng. Người già đã có nhà xã hội, nhà dưỡng lão vv…Việc hiếu thảo đối với cha mẹ được xem nhẹ. Cha mẹ già thường cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Có người đã nói cay chua, mỉa mai: “ Ước gì mình được con cái chăm sóc như con chó mà con mình đang nuôi “. Đó là sự thực nhưng sự thực thật cay đắng và mỉa mai. Thiết tưởng, mọi gia đình phải nhìn vào mẫu của gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để noi gương bắt chước. Chúa là Chúa nhưng làm người, Ngài luôn vâng lời, tuân phục và sống thảo hiếu với cha mẹ của mình.
Dân tộc Việt Nam luôn còn giữ được truyền thống thảo hiếu và giáo dân Việt Nam còn biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa. Do đó, nghĩa vụ, bổn phận đối với các bậc sinh thành, tổ tiên luôn được trân trọng giữ gìn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con luôn biết thảo hiếu với tổ tiên, cha mẹ: sống thì thăm hỏi, giúp đỡ, nuôi dưỡng, khi các Ngài khuất bóng thì biết xin lễ, cầu nguyện và làm những việc phúc đức dâng cho cha mẹ, tổ tiên. Amen.
26.Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu (Mt 15, 1-6)--J. B. Nguyễn Quốc Tuấn
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
“Biển cả mênh mông đong sao đầy tình mẹ
Gió trời lồng lộng ngăn không nổi công cha” (Danh ngôn đạo đức)
Đạo hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân cũng là thời điểm thuận tiện để con cháu bày tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể lý và tâm linh. Người Kitô hữu ý thức Đạo hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn chữ Hiếu cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
1. Đạo hiếu theo Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội
Tiếp sau bổn phận của con người đối với Thiên Chúa được nêu lên trong Thập giới (mười điều răn), Kinh Thánh đã coi thái độ hiếu thảo với cha mẹ là nền tảng thứ nhất và quan trọng nhất trong những tương quan giữa con người với con người (Is 49, 15; 63, 16…).
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Đạo hiếu đối với bề trên được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7, 27-28). “Hỡi những người con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo thể hiện qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự vâng phục, khiêm kính. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn hụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6, 20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13, 1).
Lòng hiếu thảo là một hành vi nhân linh đặc biệt quan trọng có giá trị kiện toàn bản thân ta nên công chính thánh thiện hơn mỗi ngày. “…Vì của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi…” (Hc 3, 14-15).
Tân ước đề cao Đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn trọn hảo bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2, 51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa. “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Thư 1Tm 5, 8 xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5, 8).
Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV, số 48).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
2. Niềm vui chưa trọn vẹn
Trong ngày đầu xuân, thật hạnh phúc khi chúng ta được đoàn tụ trong bầu khí yêu thương của gia tộc để bày tỏ đạo hiếu với tổ tiên. Nhưng niềm vui của chúng ta chưa thể trọn vẹn được, khi vẫn còn đó bao cụ già neo đơn, bao bậc làm cha, làm mẹ phải đau xót khốn cùng vì bị con cái hắt hủi, bỏ rơi giữa ngày đời tàn hơi, xế bóng…
Chúng ta vui sao được trước thực trạng xã hội, trong đó, một bộ phận đông đảo những người trẻ đang chạy theo lối sống tự do mất định hướng, cố tình ngoảnh mặt trước các chuẩn mực truyền thống và quan niệm sự vâng phục các đấng bậc sinh thành như một thứ bó buộc tiêu cực đối với họ.
Nếp sống đề cao tính cố kết gia tộc trong bản sắc văn hóa của các làng xã Việt Nam dường như đang bị phai nhạt dần. Các cặp vợ chồng trẻ mới thành hôn có xu hướng thích “ra riêng” (gia đình độc lập) hầu có thể thoát ra ngoài “chiếc vòng kim cô” của đại gia đình nhiều thế hệ. Điều này đang có nguy cơ dẫn tới việc các thế hệ sau ngày càng có biểu hiện xem nhẹ vai trò của những người đi trước. Và hậu quả là, họ cố tình “bỏ ngoài tai” những giáo huấn vốn được kết tinh từ kinh nghiệm sống của ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Ngày Tết là thời điểm thật thuận tiện để những người con, người cháu cháu chúng ta tự vấn lại bổn phận và thái độ sống cần thiết đối với các bậc tiền nhân. Năm cũ qua đi, có biết bao lần ta đã làm phiền lòng những người đã phải vật lộn một nắng hai sương, lam lũ giữa dòng đời cay đắy với bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ vì mong muốn, dìu dắt ta nên người. Biết bao lần ta đã vi phạm trầm trọng chuẩn mực đạo hiếu chỉ vì muốn được tự do sống theo ý riêng mình…
Năm mới, ta hãy sống sao cho đẹp Chữ Hiếu.
3. Sống đẹp Chữ Hiếu
Nhiều giáo xứ đang phát huy truyền thống tốt đẹp, đó là tổ chức long trọng thánh lễ kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày Mồng Hai Tết. Trong ngày này, con cháu, dâu rể… dù ở phương xa phải bận bịu trăm công nghìn việc, vẫn cố gắng sắp xếp quy tụ về bên phần mộ gia tộc, cùng nhau thắp lên nén hương lòng kính hiếu và chung lời nguyện xin cho người quá cố được sớm an nghỉ trong Chúa. Thật là nghĩa cử đẹp đẽ, nói lên Đức ái Kitô giáo được biểu lộ qua đạo hiếu.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm sẽ cháy mãi và bừng lên nơi tâm hồn của những người con hiền, cháu thảo như một lời tri ân đáp trả nồng nhiệt công ơn của các đấng bậc đã sinh thành, dưỡng dục ta.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm cho tổ tiên sẽ lan tỏa trong đời bạn, đời tôi để chúng ta luôn sống xứng với truyền thống Đức tin rạng ngời của tiền nhân.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
Ước mong nén hương lòng đầu năm trước người quá cố đang và sẽ thức tỉnh những ai có biểu hiện xem thường chuẩn mực đạo hiếu.
Và nguyện ước cho nén hương lòng đầu năm trước tổ tiên là tất cả tâm thành của ta hướng về Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho ta có được tổ tiên ông bà cha mẹ. Nhờ sống trọn, sống đẹp Đạo Hiếu, chúng ta góp phần tôn vinh Thiên Chúa, tôn vinh Đạo Trời.
27.Uống Nước Nhớ Nguồn- Trích Logos B
Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại trong “Sự Tích Cây Vú Sữa” như sau:
Ngày xưa, ở vùng Lái Thiêu (thuộc tỉnh Sông Bé) có hai mẹ con sống đơn chiếc bên nhau. Thương con trai mồ côi bố, người mẹ hết sức cưng chiều con. Vì quá nuông chiều, cậu bé trở nên nghịch phá và ham chơi.
Một ngày kia, vì phá phách, bị mẹ quở mắng, cậu bé bỏ nhà ra đi. Cậu đi lang thang hết ngày này sang ngày khác, ai cho cái gì thì ăn cái ấy.
Một hôm, cậu quyết tâm trở về với mẹ. Sau bao ngày lặn lội, cậu cũng về tới nhà. Cảnh vật còn nguyên, nhưng mẹ cậu thì không còn nữa. Cậu bé đâu có biết rằng mẹ cậu vì mong mãi con không về đã sinh bệnh rồi chết, hóa thành một cây xanh.
Cậu bé gọi hoài, gọi mãi không thấy mẹ. Cậu chỉ biết ôm lấy cây xanh mà khóc. Bỗng cây xanh run rẩy và rơi xuống một trái to, da căng mịn và xanh óng ánh.
Vừa đói, vừa mệt, cậu bé đưa quả lên rồi cắn một miếng, dòng sữa trắng trong quả trào ra, như dòng sữa mẹ thật thơm ngon.
Vỏ cây xù xì như bàn tay lam lũ của mẹ, lá cây một mặt xanh bóng, một mặt đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Mẹ không còn nữa, nhưng mẹ vẫn đứng đó để nuôi con bằng dòng sữa mẹ ngọt ngào.
Từ đó, người ta gọi cây xanh ấy là cây vú sữa, để tưởng nhớ đến tình mẹ thiêng liêng và cao cả.
Không lời nào có thể diễn tả hết tình mẹ tình cha, không bút mực nào có thể tát cạn được công cha nghĩa mẹ. Trong những ngày lễ tết hay giỗ chạp, người ta cũng không quên nhắc đến nguồn cội gốc rễ là những bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, những đấng đã sinh thành, dưỡng dục và chăm lo cho đời sống con cái, cháu chắt nên người. Đó là truyền thống đạo đức rất đáng trân trọng của người Việt Nam. Và truyền thống đạo đức ấy của dân tộc không đi ngược lại với niềm tin Kitô giáo. Trái lại, “lương giáo” đều có chung một chữ hiếu. Tuy hai con đường, nhưng chỉ là một chữ hiếu.
Chữ hiếu trong đạo nghĩa dân tộc
Chữ hiếu luôn được người Việt Nam coi trọng và đặt lên hàng đầu. Chữ hiếu được biểu lộ qua lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà cha mẹ. Tổ tiên, ông bà cha mẹ được coi là nguồn gốc của sự giàu sang phú quý và luôn là mối dây linh thiêng, huyền nhiệm liên kết tất cả mọi con cháu lại thành một giòng tộc.
Trong đạo gia tộc, chữ hiếu được diễn tả và thực thi bằng nhiều cách: khi ông bà cha mẹ còn sống, con cháu sẽ vây quanh để biểu lộ sự tôn kính, vâng phục, phụng dưỡng hết lòng ; khi các ngài khuất bóng, con cháu luôn nhớ đến trong những ngày giỗ kỵ, lễ tết, qua việc nhắc nhở nhau tụ họp lại để kính nhớ. Theo tập tục, con cháu sẽ lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ với đèn nhang, hoa quả đầy ắp.
Lòng biết ơn đối với các bậc tiền nhân, lão thành, những người có công trạng được thể hiện bằng việc tưởng nhớ, ghi công trên bia, mộ. Đó chính là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam, rất đáng được giữ gìn và phát huy.
Chữ hiếu trong đạo Kitô
Giáo Hội dành riêng ngày Mùng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì thế, ca nhập lễ của ngày lễ hôm nay trích lời sách Châm ngôn:
“Con ơi giữ lấy lời cha
Chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm
Đèn soi trong chốn tối tăm
Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền
Nhớ cầu cho bậc tổ tiên
Khắc ghi công đức một niềm tri ân” (Cn 6, 20. 23abc)
Như thế, qua lời khuyên nhủ của sách Châm ngôn, việc kính nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ không những là một đạo hiếu, mà còn là một lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính điều răn thứ bốn trong mười điều răn dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”.
Trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài không chọn cho mình một con đường siêu việt từ trời xuống trần gian làm người cách trực tiếp và minh nhiên, nhưng Ngài đã chọn cho mình người mẹ, người cha và đã đồng hành với người thế qua con đường gia đình bình thường như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng sống trong một tổ ấm yêu thương và nhất là đã nêu gương mẫu về tinh thần vâng phục của người con đối với cha mẹ dưới mái nhà Nagiarét (Lc 3, 51).
Lòng tôn kính, hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ xuất phát từ sự biết ơn đối với các ngài, những người đã sinh thành, dưỡng dục chúng ta lớn lên về vóc dáng, về sự khôn ngoan và nhất là về ân sủng trước mặt Thiên Chúa, như lời sách Huấn Ca dạy: “Hãy hết lòng tôn kính cha con và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục. Công ơn ấy con lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7, 27–28).
Lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ còn đòi buộc chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần. Khi các ngài khỏe mạnh, cũng như lúc già cả yếu đau và ngay cả khi qua đời, chúng ta vẫn một lòng biết ơn, phụng dưỡng và cầu nguyện cho các ngài.
Tóm lại, chúng ta là người theo “đạo Chúa”, chúng ta càng phải giữ “đạo hiếu” đối với tổ tiên ông bà. Chữ hiếu tô đậm thêm tình con thảo đối với gia đình và với Thiên Chúa. Dù là hai con đường, nhưng cũng chỉ là một chữ hiếu làm đầu. Hiếu thảo với ông bà cha mẹ sẽ giúp ta hiếu thảo hơn với Thiên Chúa.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng ông để hết tâm trí phụng dưỡng song thân.
Một hôm, nghe nói có ông Võ Tế là bậc đại sĩ rất giỏi giang, Dương Phủ từ biệt cha mẹ để đến thụ giáo cùng ông Võ Tế.
Dọc đường, Dương Phủ gặp một vị sư già chỉ cho biết: “Gặp được Võ Tế chẳng bằng gặp được Phật”. Dương Phủ bèn hỏi: “Phật ở đâu?” Vị sư già giải thích: “Cứ trở về gặp người nào mặc chiếc áo choàng, chân đi dép như thế này, thì chính là Phật đấy!”.
Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà, người mẹ khoác mền, chân đi dép ra đón con. Bấy giờ, Dương Phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị sư già đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra cha mẹ trong nhà chính là Phật, ông càng hết tâm phụng dưỡng cha mẹ hơn.
Đúng như lời ca dao:
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa,
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ, những người còn sống cũng như đã qua đời. Lòng hiếu thảo luôn luôn là bông hoa đẹp làm vui lòng ông bà cha mẹ và làm đẹp lòng Thiên Chúa.
28.Về Với Gia Đình- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày giáp Tết, dọc dài Quốc lộ I, xe cộ nối đuôi nhau tấp nập ngược xuôi Nam Bắc. Ai cũng hối hả, nôn nao mong sớm về với gia đình.
Tết là dịp mọi người về sum họp mái ấm tình thương. Con cháu sum vầy bên cha mẹ và anh chị em hòa hợp bên nhau. Anh chị em công nhân đi chuyến xe cuối năm chấp nhận bị nhồi nhét miễn là về đến nhà.
“Ngày đầu xuân bao người đi xa, cũng về với gia đình”. Về với mẹ cha nguồn cội gia đình hay về nhà tự thắp nén hương bày tỏ tấm lòng thành của con cháu với ông bà tổ tiên.
Tết là lễ hội của gia đình. Nhà cha mẹ trở nên ấm cúng thân thương. Con cháu quy tụ về vui mừng nói cười rộn rã. Con cháu thắp nén hương trước bàn thờ tiên tổ với tâm tình thành kính tri ân rồi thì thầm với các ngài những điều nguyện ước. Quây quần quanh ông bà cha mẹ để chúc thọ tỏ lòng thảo kính và đón nhận lời giáo huấn đầu năm.Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Nhiều giáo xứ tổ chức Thánh lễ tại nghĩa trang để cầu nguyện cho những người thân yêu đã an nghĩ. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình. Đạo lý ngày Tết tuyệt đẹp: “Uống nước nhớ nguồn”, con cháu tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Người Việt rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự.Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên.Tôn kính tổ tiên là cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân,ông bà cha mẹ. Lúc các ngài còn sống,con cháu phải kính mến phụng dưỡng,vâng lời chiều ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm.Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt đều có một đạo rất gần gũi. Đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu.
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Việt Nam. Hiếu là gốc của Đức. Người ta có một trăm nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu.Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung,cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống,thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh,bằng thờ cúng giỗ chạp.Đó là nhiệm vụ thiêng liêng,là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt từ Nam chí Bắc, dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh nhưng với ý niệm “Cây có cội,nước có nguồn”, đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Biết ơn là sống tâm tình tri ân tình cha nghĩa mẹ. Cha mẹ đã hy sinh cả đời mưa nắng cho con. Cha mẹ đã sống vì hạnh phúc của con. Lòng hiếu thảo hơn mọi lễ vật mà con cái dâng cho các ngài.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn.Biết ơn trời đất,biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ.Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao,dục báo chi đức,hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng,vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển: “Công cha như núi thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt Nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng.Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông.Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ….đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương,Đỗ Trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm.Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình.
Gia đình là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất.Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội.Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa.
Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của lòng hiếu thảo.
Sách Giảng Viên dạy: “Thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa,tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”.
Sách Huấn ca dạy: “Hỡi các con hãy nghe cha đây.Hãy xử sự sao để được độ sinh.Vì Chúa đặt vinh quang cha trên con cái,quyền lợi mẹ, Ngài củng cố nơi đàn con.
Kẻ tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm và trọng kính mẹ khác gì tích trữ kho tàng.Kẻ tôn kính cha sẽ hoan lạc nơi con cái, khi khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời.Kẻ tôn vinh cha sẽ được trường thọ, người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa.Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha,nó sẽ phục vụ các bậc sinh thành như chủ của mình.
Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, ngõ hầu mọi phúc lành đổ xuống trên con, vì chúc lành của cha làm cho rễ chắc, còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây.
Con đừng vênh vang về việc cha con bị nhục,vì vẻ vang gì cho con, cái nhục của cha con!
Quả thế, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính, và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh bỉ.
Con ơi! Hãy săn sóc cha con lúc tuổi già. Sinh thời người, chớ làm người sầu tủi. Trí khôn người có suy giảm, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.Vì lòng hiếu thảo đối với cha sẽ không bị quên lãng, nó sẽ đền bù tội lỗi cho con.
Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan, như sương muối biến ta lúc đẹp trời.Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, Kẻ khinh rể mẹ, chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3,1-16).
Thiên Chúa muốn con cái phải hết lòng tôn kính và thảo hiếu, đặc biệt nhấn mạnh đến công ơn sinh thành của người mẹ: “Hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ họ, con đã sinh ra. Làm sao con báo đền được điều họ cho con?” (Hc 7,27-28).
Sách Tôbia cũng dạy rằng: “Hãy thảo kính mẹ con. Đừng bỏ người ngày nào trong suốt đời người. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Hỡi con, con hãy nhớ là người đã phải trải qua bao nỗi gian lao hiểm nguy vì con khi con còn trong lòng dạ người” (Tob 4,3-4).
Thánh Phaolô khẳng định, hiếu thảo là việc làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa” (Col 3,20).
Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Là Ngôi Hai Thiên Chúa và với thân phận con người, trong vai trò làm con, Ngài đã thực hành đạo hiếu qua đời sống vâng phục cha mẹ của mình. Thánh Kinh ghi lại rằng sau khi hoàn tất công việc của Thiên Chúa tại đền thờ Giêrusalem: “Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu.Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Ngài chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa,yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Ngài.Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc. Nếu một người con không thảo kính cha mẹ, người đó không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa. Bởi lẽ, người ấy đã không giữ luật Thiên Chúa. Giới luật Thứ Tư còn được gọi là giới răn hiếu thảo: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ.”. Mỗi Kitô hữu đều biết hiểu và thực hành giới răn này.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin Mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo. Tin Mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8,12). Tin Mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau.
Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo; dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”.Tin Mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt Nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ.
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc.Tin Mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
Dưới ánh sáng đức tin, Đạo Hiếu không chỉ là một hành động luân lý, đạo đức xã hội mà còn là một giới luật được Thiên Chúa truyền dạy, một giới răn chỉ đứng sau ba giới răn dành riêng cho Thiên Chúa. Người Công Giáo thảo hiếu, kính trọng cha mẹ không chỉ theo ảnh hưởng của văn hóa, xã hội, tâm lý, mà còn đặt trên niềm tin tôn giáo. Thảo kính cha mẹ là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới Mậu Tuất.
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen( Lời nguyện nhập lễ, Mồng Hai Tết ).
29.Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày Tết Việt nam luôn có một ý nghĩa gia đình rất sâu đậm. Dù đi đâu xa người ta vẫn cố gắng về quê ăn Tết. Ngày xuân gia đình đoàn tụ, con cái chúc tuổi cha mẹ, học trò chúc tuổi thầy cô, kẻ dưới chúc tuổi người trên, bà con bạn bè thăm viếng nhau. Ngày Tết mọi người được liên kết trong niềm vui yêu thương chia sẻ. Ngày Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình.
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên đất Việt nam khá sớm vào ngày 18. 1. 1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng “Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”, Sài gòn 1959, tr. 55).
Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên. Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải kính mến, phụng dưỡng các ngài thì lòng phải vui, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm. Khi tam giáo (Phật, Khổng, Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có chén cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được, nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con cái để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt nam đều có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu kính biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x. Gia đình Việt nam, mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, Thời sự thần học số 32 tháng 06/03).
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh, nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn. Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng, vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng. Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một…. đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.
Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách Giảng Viên dạy: “thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, Tin mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8, 12). Tin mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau. Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo;dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”;dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình, lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” (ĐHV 505).
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
30.Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kình đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.
Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.
Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sư lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phài vất vả nhiều hơn.
Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.
Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sư bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.
Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.
Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha me. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.
Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sơ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị. trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.
Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.
Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sư lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sư nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.
31.Cần có một tấm lòng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong tác phẩm “Để gió cuốn đi” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đặt một câu hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không?” Nhạc sĩ đã trả lời: “Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có người thắc mắc tại sao lại cần có một tấm lòng để gió cuốn đi như vậy? Có lẽ, nhạc sĩ họ Trịnh này muốn dùng hình ảnh “gió cuốn đi” không phải là một cơn bão xóa sổ một ngôi làng, nhưng đây là một cơn gió mát giữa trưa hè oi bức, một ngọn gió thu lúc buổi sớm, mang theo hương cau, mùi lúa mới, làm nhẹ lòng người, khiến lòng con người cảm thấy thanh thản và yêu cuộc sống hơn. Như thế, theo Trịnh Công Sơn, tấm lòng chân thành là điều cần thiết giúp lòng người có thể gặp nhau và làm vui lòng nhau.
Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài ban cho con người có một dáng vẻ bên ngoài và một thế giới bên trong được gọi bằng ngôn ngữ bình dân đó là lòng người. Thế nhưng, không phải lúc nào dáng vẻ bên ngoài của một người cũng đồng nhất với cái lòng bên trong. Có nhiều lúc, bên ngoài có vẻ thành thật nhưng cái lòng lại gian dối, bên ngoài có vẻ tươi cười vui vẻ, nhưng lòng lại đau thắt. Ngược lại, có những lúc trong lòng rất yêu rất thương, nhưng bên ngoài lại tỏ ra giận dỗi. Thông thường, người ta thường lấy cái vẻ bên ngoài, để che đây cái lòng bên trong. Nhưng khi có một tấm lòng thành, lòng thật, thì sự thành thật sẽ thể hiện ra bên ngoài qua ánh mắt, cử chỉ lời nói. Khi có một người tấm lòng thành, người khác sẽ dễ dàng cảm nhận được điều đó qua các cử chỉ bên ngoài.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên ngoài lẫn trong lòng của mỗi người. Ngài thấu tỏ từ ý nghĩ, lời nói và tấm lòng của con người, cho dù con người chưa tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta đến với Chúa và sống với Chúa, bằng một tấm lòng thành thật chứ không chỉ là những hình thức bên ngoài. Chúa muốn chúng ta làm việc tốt với một tấm lòng tốt, không tính toán, không gian dối, Chúa cũng muốn chúng ta đối xử với nhau bằng tấm lòng chân thành, không hình thức, không chiến thuật. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy, những người Biệt Phái đã sống và thực hành đạo chỉ có hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng bên trong, họ đến với Chúa bằng áo quần lượt thượt và nghi lễ dài dòng, nhưng lại không có tấm lòng. Những người Biệt Phái trách Chúa Giêsu và các môn đệ không rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân. Việc rửa tay của người Do Thái không phải là việc giữ vệ sinh như ngày nay, nhưng là một nghi lễ thanh tẩy. Tuy nhiên, do trở thành thói quen, người Do Thái không còn biết mình rửa tay trước khi ăn để làm gì. Chúa Giêsu đã trách họ, vì họ chỉ còn hình thức mà không có nội dung, giữ các tập tục, hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng. Chúa muốn đưa họ trở về với ý nghĩa đích thực của tập tục này, đó là việc thanh tẩy bên ngoài, rửa tay rửa bình, nhắc cho mỗi người phải không ngừng tẩy rửa lòng mình khỏi mọi thói quen xấu từ bên ngoài và thanh tẩy những vết nhơ tính xấu và tội lỗi từ bên trong. Chúa Giêsu đã trích lời tiên tri Isaia cảnh cáo lối sống giả dối của họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta”. Hơn nữa, Chúa còn cảnh cáo lối sống hai lòng hai dạ của họ: Thay vì những Biệt Phái và Luật Sĩ phải có bổn phận dạy cho dân chúng Lời và Ý của Chúa thì họ lại không làm như vậy. Họ đã khéo đánh tráo vào công việc và lời nói của mình, thay vì nói Lời của Chúa, họ lại nói lời của họ; thay vì làm việc làm của Chúa, họ lại làm việc theo ý riêng cá nhân và dạy người khác làm. Họ đã đánh tráo cả vị trí của Thiên Chúa để thay thế mình vào chỗ của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai Chúa trách các Biệt Phái về lòng gian của họ. Họ đã bẻ quẹo Lời Chúa để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Luật Chúa đòi mọi người phải thờ cha kính mẹ, hết lòng thảo hiếu phụng dưỡng các Ngài nhất là khi tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, các Luật Sĩ lại mượn Thiên Chúa để bẻ quẹo luật Chúa, khi họ dạy người khác rằng: Ai tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì không phải nuôi dưỡng phụng kính cha mẹ nữa. Như thế, có nhiều kẻ không muốn phụng dưỡng cha mẹ, kẻ ấy chỉ cần tuyên bố sẽ dâng hết tài sản cho Chúa. Chắc chắn Chúa không chấp nhận của lễ dâng cho Ngài từ một kẻ bất hiếu như thế. Chúa cũng không muốn một cái lòng gian dối, quanh co, luồn lách trách nhiệm như vậy. Chúa mong muốn, trước hết mỗi người phải có một tấm lòng thành đối với cha mẹ và lòng trung đối với Thiên Chúa, không thể bỏ qua bên nào, cũng không thể chỉ chọn một trong hai. Đồng thời, Chúa cũng không chấp nhận con người tìm cách thay thế luật Chúa bằng những tập tục gian dối của mình, hoặc chỉ chú trọng đến tập tục truyền thống mà làm lu mờ luật Chúa. (Dựa theo ý bài chia sẻ của Đức Cha Giuse ngày thường huấn 06/2/2018)
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận thảo hiếu với ông bà tổ tiên. Việc nhớ đến ông bà tổ tiên cũng phải đặt trên một tấm lòng thành. Lời Chúa hôm nay soi rọi cho Chữ Hiếu của người Việt Nam, việc hiếu thảo phải được thể hiện một cách đặc biệt qua các dịp lễ tết, bằng việc trân trọng gìn giữ nét đẹp truyền thống của gia đình. Kế đến, là việc thảo kính vâng lời và làm vui lòng các bậc sinh thành và tiền nhân.
Bài đọc một khuyên chúng ta: “Hãy ca tụng công đức của các bậc tiền nhân vì bao công lao khó nhọc và phúc ấm các ngài để lại cho con cháu”. Hãy gìn giữ và làm phát huy những giá trị tốt đẹp, là tài sản quý giá mà cha ông để lại. Gần đây, có một vài tiến sĩ đề nghị bỏ cái tết cổ truyền, với lý do là nghỉ tết nhiều, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế. Nói như thế chứng tỏ, những nhà tiến sĩ này đã quên các giá trị đạo đức gia đình, truyền thống và văn hóa dân tộc, để chỉ nghĩ đến tiền (kinh tế). Ngày tết không đơn thuần là ngày nghỉ, vì ngày tết còn là ngày mỗi người có thể đụng chạm đến hồn dân tộc và cảm nhận được văn hóa lâu đời của một dân tộc, là dịp để mọi người sống, cảm nhận và vun đắp cho truyền thống gia đình. Vì vậy, không có ngày nào trong năm mà mỗi người cảm thấy thiêng liêng, quan trọng như đêm ba mươi và sáng mồng một tết. Cũng vì sự thiêng liêng quan trọng này, mà cha mẹ ở nhà mong con cháu về xum họp, mọi người đi xa đều mong về đến nhà, để xum họp với ông bà, mẹ cha và nhất là để thắp cho ông bà, tổ tiên một nén hương, thể hiện tấm lòng thảo hiếu biết ơn. Như thế, có bài học biết ơn nào hay hơn bài học thực tế này trong ngày tết; có tình cảm nào thiêng liêng, ấm cúng cho bằng tình cảm của gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Chính trong dịp xum họp đầu năm này, mà các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình được lưu truyền cho con cháu. Cha mẹ, ông bà hạnh phúc vì con cháu thành đạt, xum họp đông đủ, con cháu tự hào, trân trọng, duy trì và làm phát huy truyền thống gia đình. Tuy nhiên, lòng thảo hiếu biết ơn, tình cảm gia đình, cuộc xum họp ngày xuân chỉ thực sự trở nên có ý nghĩa, khi mỗi người trở về với mẹ cha và gia đình bằng một tấm lòng thành. Thiếu tấm lòng thành, sự thảo hiếu chỉ còn là hình thức, thiếu tấm lòng, ngày xum họp gia đình, anh em chỉ còn là một màn kịch, bằng mặt mà không bằng lòng. Có nhiều gia đình ngày tết cha mẹ anh em gặp nhau mà không mừng, gần nhau mà không quý, còn có sự hiện diện của cha mẹ, anh em mà không biết trân trọng.
Thư Ephêsô dạy chúng ta duy trì bầu khí ấm cúng, truyền thống của gia đình mọi ngày trong đời sống bằng cách: “Hãy vâng lời và thảo hiếu cha mẹ, để ngươi cũng được trường thọ trêm mặt đất này”. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho, thảo hiếu cha mẹ trước hết bằng sự tôn kính và vâng lời các ngài, vì các Ngài thay mặt Chúa, cộng tác với Chúa để sinh thành, nuôi dưỡng dạy dỗ và yêu thương chúng ta. Vì vậy, đạo làm con là phải biết vâng nghe lời dạy của mẹ cha, vì các ngài luôn muốn điều tốt và làm điều tốt cho ta. Ta yêu mến kính trọng các ngài, đừng hắt hủi khinh dể khi các ngài tuổi cao sức yếu, vì các ngài đã một đời hi sinh vất vả cho ta ngày hôm nay và vì các ngài hết mực yêu thương không tiếc gì với ta. Nay cha mẹ tuổi cao, ta có bổn phận phải làm cho tuổi già của các ngài được an vui hạnh phúc. Đừng khi nào tỏ ra bội nghĩa vong ân, hỗn láo hay cử xử tệ bạc với cha mẹ vì đó là điều đáng bị nguyền rủa và bị Thiên Chúa kết án.
Lời Chúa ngày tết hôm nay nhắc cho những người đang lơ là với cha mẹ và gia đình, cần biết điều chỉnh lại lòng mình. Gạt bỏ những gì là ấm ức tức tối, bất hòa bất đồng, những gì là bằng mặt mà không bằng lòng, để vun đắp lại tình nghĩa gia đình và tình cảm mẹ cha anh em. Vì, các thứ khác trên đời này có thể mua bằng tiền, nhưng cha mẹ, anh em và hạnh phúc gia đình không thể mua bằng tiền, mà phải đổi bằng hy sinh có khi là của cải, kể cả công danh sự nghiệp mới có được thứ hạnh phúc ấy - hạnh phúc gia đình. Amen.
32.Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một vài năm gần đây, vào dịp cuối năm, trên mạng có nhiều đoạn clip để nhắc cho mọi người trở về xum họp gia đình trong dịp tết. Có những đoạn film rất xúc động với hình ảnh cha mẹ già, ngày ngày đợi con đi làm ăn xa trở về đoàn tụ. Cũng có nhiều lời kêu gọi: Cha mẹ ngày càng già, hãy trở về xum họp với mẹ cha trong ngày tết. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày xum họp không chỉ với mẹ cha, anh em để bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn, nhưng người Việt Nam còn tin rằng: Ngày tết cả ông bà tổ tiên, những người đã khuất cũng trở về gia đình xum họp với con cháu. Ngày nay, xã hội có xu hướng tổ chức những tụ điểm vui chơi vào đêm giao thừa và mồng một, để kéo mọi người ra đường đón tết. Việc làm này có lẽ đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, đêm ba mươi và mồng một, mọi người luôn gắn liền với gia đình. Không biết có phải vì sự thay đổi này dẫn đến sự lỏng lẻo trong tương quan các gia đình? Bên cạnh đó, có những người đã trốn tết bằng cách đi du lịch vào đúng ngày ba mươi mồng một, với lý do cả năm bận rộn, tranh thủ những ngày tết để đi nghỉ ngơi.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có đăng một đoạn nhận xét rằng: Ngày tết bỏ nhà đi du lịch không ở với mẹ cha là bất hiếu. Đoạn nhận xét này đã có phản ứng mạnh từ nhiều thành phần. Có người ủng hộ, có người phản đối. Người phản đối cho rằng, nhu cầu nghỉ ngơi là cần thiết, đưa cả gia đình đi chơi cũng là điều hay… Dù đồng tình với nhận xet trên hay không đồng tình, người ta cũng thấy rằng, mối tương quan gia đình ngày nay đang bị rạn nứt, tình cảm gia đình bị lỏng lẻo, các giá trì văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình đang bị mai một.
Giáo Hội công Giáo Việt Nam đã đón nhận những tập tục và những giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống để đưa vào phụng vụ ngày tết. Giáo hội dạy giúp chúng ta duy trì và phát triển những giá trị tốt đẹp về gia đình trong truyền thống văn hóa cho phù hợp với Tin Mừng. Ngày Mồng một tết, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ và sự sống, để tạ ơn tôn vinh Chúa, cũng như xin ơn bình an cho năm mới. Hôm nay mồng hai tết, Giáo hội hướng chúng ta về cội nguôn của gia đình để kính nhớ tổ tiên ông bà và các đấng sinh thành dưỡng dục, đồng thời làm sáng tỏ và vun đắp cho các giá trị tốt đẹp của đời sống mỗi gia đình.
Bài đọc sách Huấn Ca mời gọi chúng ta giữ gìn nề nếp truyền thống tốt đẹp của gia đình qua lời văn rất hay: Chúng ta hãy ca tụng các vị danh nhân cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ, công đức các ngài không chìm vào quên lãng, dòng dõi các ngài là lũ cháu đàn con. Đọc những lời dạy của Kinh Thánh trong bầu khí ngày tết, mời gọi chúng ta luôn sống tâm tình biết ơn đối với ông bà cha mẹ. Các ngài là những người đã dày công sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người hôm nay. Kể sao hết được sự vất vả của người cha dầm mưa dãi nắng, lo cơm, kiếm gạo về cho gia đình, nuôi cho con khôn lớn; nói sao cho vừa với sự hy sinh đêm ngày để lo cho con học hành bằng anh bằng chị. Diễn tả sao hết sự vất vả tần tảo của người mẹ, thân cò lăn lội, mang nặng đẻ đau, lo cho con từng li từng tí, từng ngày từng giờ. Cho dù con còn nhỏ hay khôn lớn, thì trong mắt mẹ cha, nó vẫn luôn là đứa bé cần được yêu thương chăm sóc. Cho dù vất vả truân chuyên trăm bề, mẹ cha không bao giờ kể lể, tính toán với con cái, các ngài luôn dành cho con lòng bao dung độ lượng. Cho dù con cái ngỗ nghịch phá phách, làm đau lòng mẹ cha, bất hiếu bất kính với cha mẹ, cha mẹ vẫn sãn lòng để yêu thương tha thứ và ôm con vào lòng. Vì tất cả những công lao hy sinh vất vả ấy, phận làm con không bao giờ được phép quên và cũng không bao giờ được vô ơn bạc hiếu với các ngài.
Cha mẹ không mong đợi gì nhiều nơi con cái, các ngài chỉ mong muốn được nhìn thấy con cháu lớn khôn, thành nhân, thành đạt. Niềm vui của cha mẹ ông bà là được nhìn thấy con cái cháu chắt xum vầy, thấy con cháu yêu thương nâng đỡ lẫn nhau. Không gì đau khổ bất hạnh cho bậc cha mẹ, khi thấy các con kèn cựa, cãi vã, giận hờn lẫn nhau. Ngày tết là ngày của xum họp gia đình, các bậc ông bà tuổi cao sức yếu không mong đồng quà tấm bánh, nhưng chỉ mong được gặp con cháu xum họp và lấy niềm vui tiếng cười của con cháu, làm niềm vui và hạnh phúc cho tuổi gìa của mình. Chính vì thế, ngày tết đừng để cha mẹ mòn mỏi đợi chờ, cũng đừng gây đau khổ cho cha mẹ bằng những chuyện anh em bất hòa, nhưng hãy lấy tình yêu thương tha thứ để cư xử với nhau, đó là cách đem đế hạnh phúc an vui cho ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô trong thư Ephesô khuyên dạy: ‘‘Các kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất. Cha mẹ chính là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và sinh thành, đưa chúng ta vào đời. Con cái là hoa trái tình yêu của cha mẹ. Mỗi chúng ta được cưu mang trong tình yêu, nuôi dưỡng không chỉ bằng sữa hoặc cơm bánh, nhưng được lớn lên trong tình yêu. Vì thế, việc tôn kính vâng lời trong yêu mến, chính là thái độ đền đáp tình yêu thương cha mẹ đã dành cho chúng ta. Khi tôn kính vâng lời cha mẹ, là chúng ta tôn kính vâng lời Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã cậy nhờ cha mẹ để sinh thành và dưỡng dục chúng ta. Trái lại bất kính và không vâng lời, không chỉ là bất hiếu, làm tổn thương đến tình yêu của cha mẹ, mà còn là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Ngày nay, con cái dường như được học hành nhiều hơn thế hệ cha mẹ ngày xưa, hiểu biết nhiều về khoa học và công nghệ nhiều hơn các ngài, nhưng lại cư xử rất tệ với cha mẹ, khinh chê, bất kính bất hiếu với cha mẹ. Các ngôi nhà của các gia đình, sang trọng, đẹp đẽ, có đầy đủ tiện nghi, nhưng dường như không có chỗ cho cha mẹ. Họ sợ cha mẹ già bôi bẩn ra nhà, sợ hôi nhà, không cho ông bà gần con cháu, vì sợ bẩn, sợ hôi, họ hắt hủi khinh dể cha mẹ già, chỉ mong ông bà ra khỏi nhà.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo về thái độ bất hiếu bất kính nhân danh bất cứ lý do gì, kể cả nhân danh việc đạo đức. Những người Do Thái ngày xưa đã nhân danh Thiên Chúa để từ chối bổn phận nuôi dưỡng chăm sóc cho cha mẹ. Họ tự đặt ra một truyền thống cho rằng: Những người tuyên bố dâng cúng của cải cho Thiên Chúa, thì không phải phụng dưỡng cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã phản đối và chỉ trích truyền thống vô đạo đức này và lặp lại giáo huấn của Thiên Chúa: Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử. Khi nhấn mạnh bổn phận thờ cha kính mẹ, có thể nói Chúa Giêsu nâng bổn phận của con cái thảo hiếu với ông bà cha mẹ, trở thành một đạo, đó là đạo hiếu, đạo làm người. Ai không chu toàn được bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì cũng không thể chu toàn đạo với Thiên Chúa. Cũng vậy, chỉ những ai chu toàn đạo hiếu với cha mẹ trần gian thì mới có thể biết và chu toàn bổn phận thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Thưa quý OBACE, tôn kính thảo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ là điều giáo hội dạy, là đạo lý của người Việt chúng ta. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, chúng ta vẫn còn thấy nhiều cảnh trái tai gai mắt, khi con cháu đối xử tệ bạc với ông bà, bất hiếu bất kính và hành hung đánh đập ông bà cha mẹ, là những Đấng bậc sinh thanh dưỡng dục mình. Chúng ta vẫn thấy những gia đình đông con, nhưng con cháu đùn đẩy bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già, họ tính toán thiệt hơn với ông bà cha mẹ từng đồng. Ngày xưa cha mẹ đã hết sức kiên nhẫn để yêu thương dậy dỗ chúng ta nên người, không hề tính toán thiệt hơn, nhưng đến nay dường như con cái lại không kiên nhẫn yêu thương khi cha mẹ tuổi cao sức yếu, khi trí khôn trí nhớ các ngài giảm sút.
Cử hành ngày Tết kính nhớ tổ tiên hôm nay, nhắc mỗi chúng ta biết ơn ông bà cha mẹ của mình và cũng xét lại bổn phận và lòng thảo hiếu của mỗi chúng ta đối với các ngài. Nếu chưa chu toàn vuông tròn, thì hãy tận dụng thời gian này, để đền đáp công ơn cha mẹ, vì các ngài không còn ở với chúng ta lâu nữa. Đồng thời mỗi người cũng cần vun đắp cho gia đình mình bằng tình yêu, sự quảng đại và tha thứ, để gia đình thực sự đầm ấm yên vui không chỉ trong những ngày tết mà là suốt đời.
Cầu chúc cho mọi gia đình được được an vui thuận hòa, con cháu ngoan hiền, gia đình êm ấm và là dấu chỉ lòng thương xót Chúa cho xã hội hôm nay Amen.
33.Biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, tết là ngày xum họp gia đình, là dịp mọi người dù đi làm ăn nơi phương xa thì cũng thu xếp để kịp về nhà vào những ngày này để quây quần bên nhau. Có dịp đi dọc quốc lộ trong những ngày vừa qua có thể thấy được sự khao khát trong ánh mắt của anh chị em công nhân chờ đón những chuyến xe cuối năm đề trở về nhà. Chính vì khao khát bằng mọi giá phải có mặt ở nhà dịp tết mà nhiều khi họ chấp nhận bị nhồi nhét trên những chiếc xe chật chội, cũ kỹ. Trở về nhà trong dịp đầu năm là về với gia đình, về với mẹ cha, dù nhiều người cha mẹ, ông bà đã không còn, nhưng họ vẫn muốn trở về ngôi nhà tổ, nơi ông bà cha mẹ đã từng sinh sống để thắp lên một nén nhang, để bày tỏ tấm lòng thành của con cháu biết ơn mẹ cha.
Giáo Hội đã dành ngày mồng hai tết để dạy chúng ta biết ơn các bậc sinh thành, dưỡng dục; nhắc chúng ta nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã khuất và bày tỏ lòng hiếu kính đối với ông bà cha mẹ là những người còn đang sống. Đã từ lâu, do cách sống và giải thích sai của người có đạo, khiến nhiều người ngoại đạo nghĩ rằng: người Công giáo là những người bất hiếu, không thờ cúng ông bà tổ tiên. Chúng ta nghĩ gì khi người ngoại trách chúng ta như thế? Và, chúng ta cần phải sửa lại cách sống thế nào để giải thích cho mọi người về giáo lý của đạo chúng ta?
Người Công giáo có được “thờ cúng ông bà tổ tiên” hay không? Tức là, cúng giỗ ông bà có được phép hay không? Thưa - thờ cúng ông bà là bổn phận thảo hiếu buộc tất cả mọi người có đạo cũng như không có đạo phải chu toàn. Việc thờ cúng ông bà hoàn toàn khác với việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ cúng công bà là đòi buộc của đạo làm con, đạo làm người. Vì đạo làm người, đạo hiếu, đạo làm con là đạo đức căn bản trong đời sống nhân bản của con người. Ai không chu toàn bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì không thể chu toàn đạo nào khác được. Vì thế, việc thờ cúng ông bà, việc tổ chức cúng giỗ tổ tiên là việc bổn phận phải làm của mọi người, còn cách thức làm như thế nào thì tùy thuộc vào tập tục văn hóa của mỗi vùng, mỗi gia đình.
Đối với người Công Giáo, việc thờ cúng tổ tiên và chu toàn đạo hiếu, đạo làm con còn là đòi buộc của giới răn thứ bốn: Thảo kính cha mẹ. Trong mười giới răn của đạo Chúa, ba giới răn đầu là những đòi buộc về những bổn phận đối với Thiên Chúa, còn bảy giới răn sau là những đòi buộc trong tương quan đời sống con người thì giới răn thứ bốn đứng đầu trong bảy giới răn này. Điều đó cho thấy bổn phận thảo kính cha mẹ là bổn phận đầu tiên của con người. Cũng như các giới răn khác, khi xúc phạm đến giới răn thứ bốn này, thì cũng là một trọng tội trước mặt Thiên Chúa và là sự xúc phạm trực tiếp đến chính Thiên Chúa.
Chính vì thế, ngày mồng hai tết hôm nay, các bài đọc nhắc cho chúng ta về những đạo lý và bổn phận căn bản của con người, đó là thảo hiếu, biết ơn ông bà cha mẹ, những người còn sống và đã qua đời. Bài đọc một sách Huấn Ca nhắc nhở rằng: Chúng ta hãy ca tụng các bậc tiền nhân, có những người đã ra đi mà không được con cháu nhớ đến nữa, nhưng có những người vẫn còn lưu danh cho hậu thế vì công phúc của họ đã để lại. Người Việt nam nói rằng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con, và nhiều người vẫn tin rằng, họ đang được hưởng phúc lộc của ông bà. Như thế, trong chúng ta ngồi đây, ai cũng được thừa hưởng phúc lộc từ nơi cha mẹ ông bà của mình, ai cũng đang mang trong mình một món nợ ân tình của mẹ cha.
Kể sao hết được những món nợ ân tình ấy. Trước hết, chúng ta đang mang trong mình dòng máu và sự sống của cha mẹ. Thiên Chúa đã cho cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta, trao tặng chúng ta sự sống. Vì món quà sự sống mà mỗi người đang có là từ Thiên Chúa được trao qua mẹ cha nên ơn sinh thành là ơn trời biển mà phận con cái không sao có thể đáp đền mẹ cha cho cân xứng. Kế đến là sự dưỡng dục và tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái. Chính vì tình yêu thương, vì lo cho con cái có cơm ăn áo mặc mà cha mẹ phải lặn lội, vất vả sớm hôm. Kể sao hết những nỗi nhọc nhằn, những giọt mồ hôi vất vả người cha phải chịu. Đong sao hết những tháng ngày vất vả của mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và cả một đời yêu thương con. Những lúc con ốm con đau, những khi con đói vì khát sữa, những đêm con quấy vì mọc răng, biết lẫy, là những đêm mẹ cha mất ngủ. Để nuôi con khôn lớn nên người bằng anh bằng em, thì người mẹ đã phải tần tảo một nắng hai sương, thân cò lặn lội sớm hôm ; người cha phải còng lưng vất vả lo cho con có cái áo, quyển vở đến trường, và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn khác nữa.
Vì thế, trong thư gửi cộng đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người: Hỡi những bậc làm con, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa: để ngươi được phần phúc và sống lâu trên địa cầu. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa chúc lành và ban ơn cho những ai biết thảo hiếu với cha mẹ ông bà mình. Yêu mến và kính trọng cha mẹ ông bà bằng việc vâng nghe những lời dạy bảo, vì cha mẹ là người thương chúng ta nhất và có kinh nghiệm nhiều hơn chúng ta, nên lời dạy bảo của các ngài là những lời dạy bảo khôn ngoan. Hãy yêu mến thảo hiếu ông bà cha mẹ khi các ngài về già, khi sức khỏe và trí khôn của các ngài giảm sút. Hãy kính trọng, thông cảm, phục vụ và chăm sóc các ngài, vì khi xưa chúng ta còn bé, cha mẹ cũng đã thông cảm, đã ân cần săn sóc chúng ta từng miếng ăn, giấc ngủ như vậy. Khi cha mẹ qua đời, hãy nhớ đến cha mẹ bằng việc đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ cho các ngài, vì khi xưa các ngài cũng đã đêm ngày cầu nguyện và âm thầm hy sinh cho chúng ta. Đừng bao giờ tỏ ra vô lễ, bất hiếu với mẹ cha, đừng bao giờ để tuổi già của mẹ cha phải buồn tủi vì những lời nói hay cử chỉ coi thường, xúc phạm.
Cuối cùng, mỗi người hãy sống thảo hiếu hết lòng, đừng nại vào bất cứ lý do gì để từ chối mẹ cha, từ chối bổn phận phụng dưỡng các ngài, để các ngài có thể hưởng một tuổi già hạnh phúc. Mỗi người chỉ có một mẹ một cha mà thôi, đừng để tuổi già của các ngài phải rơi nước mắt vì tủi nhục, vì con cháu bỏ bê, đùn đẩy cho nhau. Những người Do Thái ngày xưa đưa ra một điều luật vô trách nhiệm đối với cha mẹ và đã bị Chúa Giêsu cảnh cáo. Họ đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để tuân giữ những tục lệ của nhau. Trong khi Chúa đòi phải thảo kính cha mẹ, thì những thầy luật sĩ lại dạy rằng: Nếu ai tuyên bố với cha mẹ rằng những của tôi có để giúp cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã không chấp nhận thứ tục lệ ấy, vì nó đi ngược lại với đạo làm người, đi ngược lại giới răn Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng không chấp nhận một của lễ dâng tiến bất hiếu như thế.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày của gia đình, là ngày đoàn tụ, ngày trở về với cội nguồn của gia đình là ông bà cha mẹ. Song ngày nay, dường như nét đẹp văn hóa này đang bị mai một bởi cuộc sống kinh tế và lối sống thực dụng. Nhiều gia đình đã vì đồng tiền, tấc đất, mà anh em đánh lộn, chửi bới, mất tình mất nghĩa, không nhìn mặt nhau. Cha mẹ và con cái chỉ vì phân chia chút tài sản mà đi đến giận hờn, hỗn láo. Có nhiều gia đình ngày tết mà cũng không thể tổ chúc được bữa cơm chung xum họp ông bà cha mẹ con cháu. Nhiều cảnh con cái bất hiếu, chửi bới, khinh thường cha mẹ đang xảy ra mà chúng ta có thể chứng kiến. Tất cả những điều ấy đang làm tổn thương các gia đình và làm đổ vỡ các tổ ấm. Nguy hiểm hơn nữa là nó đang tạo ra những gương xấu cho các thế hệ trẻ sau này.
Các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng vun đắp cho gia đình mình thực sự trở thành một tổ ấm yêu thương, là nơi mọi thành viên có thể cảm nhận được sự nâng đỡ và cảm thông, chia sẻ. Đừng vì mải mê lo tìm kiếm cơm áo gạo tiền mà quên tìm hạnh phúc cho gia đình. Đừng biến gia đình mình trở thành một nhà trọ sáng đi tối về. Đừng để cho khó khăn cuộc sống cướp đi tiếng cười, tiếng nói trong gia đình. Nhất là các bậc làm cha mẹ đừng để cho rượu chè, cờ bạc, số đề, say sưa làm cho gia đình mình tan nát, làm cho con cái hoảng sợ; Trái lại, hãy dùng tình yêu thương, lòng đạo đức để vun đắp hạnh phúc và sự ấm cúng cho gia đình.
Còn các bậc làm con, hãy hết lòng yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Đừng để cha mẹ đã khổ sở nhọc nhằn vì cơm áo, lại phải khóc thầm khóc vụng vì ta. Hãy góp phần làm cho gia đình thêm hạnh phúc bằng việc siêng năng học tập và làm việc để chia sẻ gánh nặng với cha mẹ. Hãy trở thành nhưng người con ngoan và đạo đức để làm yên lòng mẹ cha, để cho tuổi già các ngài được vui trọn vẹn.
Xin Chúa, Đức Maria ban cho các gia đình mỗi ngày một thêm ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
34.Kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.
Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.
Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.
Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.
Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.
Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.
Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.
Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.
Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được anh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.
35.Sống Chữ Hiếu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện.
Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền
Người con yêu quý nhất trên đời
Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
36.Tri Ân Ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đạo truyền thống Việt Nam được coi là đạo hiếu. Cốt tuỷ của Đạo hiếu là Đức Hiếu thảo được thể hiện qua hai điều: Tôn kính cha mẹ lúc còn sống và thờ kính cha mẹ, ông bà khi các ngài qua đời.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Bởi đó khi cha mẹ về già, con cái phụng dưỡng cha mẹ với của ngon vật lạ, sáng viếng tối thăm:
“Muốn cho gần mẹ gần cha
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.”
Suốt dọc dài lịch sử, cha ông đã để lại rất nhiều mẫu gương sáng ngời về đạo hiếu. Lòng hiếu thuận ấy sâu đậm đến nỗi khóc thương mẹ mà mù cả đôi mắt như chuyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Chuyện kể rằng:
Lục Vân Tiên đang trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, quá thương xót mẹ, chàng khóc lóc thảm thiết. Chàng đã bỏ thi - bỏ dở cả con đường công danh sự nghiệp sáng lạn đang ở phía trước, quay về quê để chịu tang mẹ. Trên đường về khóc thương mẹ đến thành bệnh mà mù mắt. Mắt đã mù nhưng nỗi sầu vẫn chưa nguôi ngoai:
Ôi thôi! Con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy gì đâu.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật chữ Hiếu nơi Lục Vân Tiên để rồi răn bảo người đời:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Vào những ngày đầu Năm Mới, Giáo hội Việt Nam dành trọn ngày Mồng Hai Tết để con cái dâng thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Đây là dịp để con cái tri ân công ơn trời bể của cha mẹ. Cuộc đời chúng ta được dệt nên từ những giọt mồ hôi lao công vất vả của ông bà cha mẹ. Các ngài đã hy sinh một nắng hai sương cho cuộc đời ta tươi vui, hạnh phúc. Công ơn của các ngài thật lớn lao, lớn lao đến nỗi ca dao cũng từng nói:
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn Chữ Hiếu mới là Đạo con”
Lời ca dao thật đơn sơ, mộc mạc nhưng biểu lộ một giá trị bất hủ của Đạo hiếu trong lòng người Việt Nam. Điểm nổi bật của lòng hiếu nghĩa là lòng biết ơn và sống báo đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu nghĩa khi còn ở với cha mẹ thì vâng lời kính yêu các ngài. Hiếu nghĩa khi ở xa thì luôn biết thăm hỏi, dành đồng quà tấm bánh cho các ngài. Hiếu nghĩa cả khi các ngài qua đời thì cầu kinh dâng lễ.
Hôm nay trong ngày mừng xuân là dịp con cái quây quần bên cha mẹ ông bà để tỏ lòng tri ân. Thật hạnh phúc trong ngày xuân chúng ta được cha mẹ ông bà chúc lành cho ngày xuân của chúng ta. Thật hân hoan khi ngày xuân được sum họp bên nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Đúng như thánh vịnh nói:
“Anh em sum họp một nhà
Bao là tốt đẹp, bao là tốt tươi”.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân, là cùng đích của mọi vạn vật chúc lành cho ngày sum họp của các gia đình luôn nồng nàn mến thương. Xin cho chúng ta luôn biết trân trọng mái ấm gia đình, vì chẳng ở đâu có người yêu thương, lo lắng cho ta bằng những người thân trong gia đình. Hãy trân trọng gia đình bằng việc sống có trách nhiệm với bổn phận của mình. Đừng vì thói lười biếng, trốn tránh trách nhiệm của mình mà mang lại những nỗi đau cho người thân. Xin đừng bao giờ vui xuân mà bán hết gia tài, gây nên đau khổ cho gia đình chỉ vì đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, …
Xin cho ngày xuân luôn thắt chặt tình ruột thịt để cùng nhau xây dựng gia đình trong yêu thương nồng ấm và mỗi ngày an khang thịnh vượng hơn. Amen.
37.Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày tết là dịp để chúng ta đoàn tụ với gia đình. Ai cũng mong được về cùng chung với gia đình bên mân cơm. Cùng dâng cho nhau ly rượu chúc mừng năm mới. Bữa cơm tết với gia đình thật ấm cúng, thật đáng quý biết bao. Vì ở giữa cuộc đời bon chen, không ở đâu bình yên bằng gia đình. Không ở đâu có tình yêu chân thật bằng cha mẹ con cái yêu thương nhau. Gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người, dù đi đâu thì gia đình vẫn luôn sẵn sàng là bến đỗ để ta trở về.
Thế nhưng, để hiểu điều này đôi khi phải chờ đến khi rời xa gia đình, lúc ấy chúng ta mới nuối tiếc về mái ấm gia đình mà chúng ta đã từng làm lơ hay hững hờ:
Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình
Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ
Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ
Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…(Kim Liên)
Có những người khi xa gia đình mới cảm thấy thương cha thương mẹ. Họ mới cảm nhận được “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Xa cha, nhớ mẹ, họ chỉ mong cho các ngài bình yên hạnh phúc trong lời kinh nguyện mà thôi:
Giữ mãi gia đình trong một góc riêng
Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện:
- Xin nỗi buồn đừng hằn trên mặt mẹ
Và nụ cười đừng chia cách môi cha… (Kim Liên)
Khi rời xa khỏi vòng tay nồng ấm của cha mẹ, người ta mới thấy hụt hẫng, bâng khuâng. Tuy trong đời họ có tiền, có địa vị nhưng lại thiếu một tình yêu ôm ấp bảo ban. Thế nên, có những người thầm ước được trở về tuổi thơ, để nơi đó họ được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha:
Thời gian thấm thoắt trôi đi,
Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ?
Một thời lém lỉnh ngây ngô,
Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương. (ST)
Tuổi thơ ai cũng hạnh phúc. Cái hạnh phúc là được ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Cái hạnh phúc nồng ấm khi được cha mẹ “Nâng như nâng trứng – Hứng như hứng hoa”. Cái hạnh phúc được làm nũng, được ăn vạ và được mẹ vỗ về. Đó cũng là món nợ ân tình mà những người làm con phải trả cho các bậc sinh thành đến suốt cuộc đời.
Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận
Rong ruổi suốt cuộc đời không định hướng tương lai
Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi
Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ
Nợ ân nghĩa mẹ cha đòi hỏi chúng ta phải trả cho suốt cuộc đời. Nếu các ngài đang trong tuổi già lầm lũi cô đơn thì hãy chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng tuổi già. Nếu các ngài là những cha mẹ trẻ đang bươn chải một nắng hai sương thì phận làm con, hãy chia sẻ gánh nặng với các ngài trong khả năng của mình. Và nếu các ngài đã qua đời thì xin dành cho các ngài những nén hương với lời nguyện cầu tha thiết cho các ngài sớm hưởng phúc thiên đàng bên Chúa.
Một nén hương nồng nàn lặng lẽ
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
Dù bao năm dù có hóa vô thường
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Nhưng dù muốn dù không khi nói đến tình nghĩa mẹ cha, ai cũng cảm thấy mình còn thiếu sót, còn nhiều lỗi lầm với mẹ cha. Có những người đã từng cãi lời mẹ cha. Có những người đã từng quên lãng mẹ cha để mải miết đi tìm danh vọng. Có những người còn bất hiếu với mẹ cha qua những việc làm thất đức, đáng xấu hổ với “liệt tổ, liệt tông”. Đó là lý do khiến bao người khi nghĩ đến mẹ cha lại cảm thấy nuối tiếc về thời gian bên cha mẹ, nuối tiếc vì những việc làm đã gây đau khổ cho cha mẹ. Thế nên, có ai đó nói rằng:
Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi!
Xin cho con im lặng để mắt con cay
Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc
Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm
Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng.
Hôm nay Mồng Hai Tết, ngày cầu cho ông bà cha mẹ. Ai cũng phải nợ ân, nợ nghĩa ông bà cha mẹ. Hãy dùng thời gian hôm nay để nói lên lòng hiếu kính của chúng ta với các ngài. Hãy dâng cho các ngài lời nguyện cầu với lòng biết ơn mong sao các ngài luôn hạnh phúc bên đàn con cháu. Chúng ta hãy dành thời gian hôm nay để sum vầy bên các ngài quanh cầu chuyện đầu năm. Cùng chúc mừng các ngài vạn sự cát tường.
Xin cầu chúc cho các gia đình một ngày ngập tràn niềm vui sum vầy bên những người thân yêu nhất. Cầu chúc cho mọi nhà rộn ràng tiếng cười vui bên mâm cơm gia đình. Xin Chúa chúc lành cho ngày sum họp hôm nay được trọn niềm trong Chúa và bên nhau. Amen.
38.Sống thảo hiếu--Lm. Tạ Duy Tuyền
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:
“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”
Thế nên,
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm
Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.
Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.
Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.
Lá thư ấy viết rằng:
Con thân mến,
Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!
Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.
Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.
Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều
Là người Ki-Tô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành.
“Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: ”Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
“Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).
Người ta nói: ”Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.
Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen.
39.Đốt Hương Trầm Nhớ Quê- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày Tết, cùng với đất trời giao hòa, con người dường như cũng gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp với gió xuân nhè nhẹ của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau như muốn giữ lại một chút kỷ niệm thân thuơng của những ngày tháng năm xưa:
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
‘Nhớ quê’, quê nào đây? Có phải khu vườn xưa xanh um bóng lá? Có phải mảnh ruộng đồng lúa mạ đơm bông? Có phải mái nhà tranh hay nóc ngói đơn sơ mà nay ta cách biệt? Nếu chỉ thế thì đâu phải đợi vào đêm, trong giờ phút cô vắng ta mới chạnh lòng vương vấn tâm tư trong những lời thơ mơn man, trải dài xa vắng?
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm…”
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Trong làn khói hương nghi ngút, trong mùi trầm ngào ngạt, lòng con người như muốn bay về cội nguồn, mong tìm về quê hương thời tuổi trẻ, nơi chứa đựng cõi trời ấu thơ, nơi gắn bó đời mình với biết bao kỷ niệm thân thương, mà mỗi bước đi xa là một khúc ruột bị chặt lìa, một thứ ‘đoạn trường tân thanh’ muôn đời, miên viễn.
Như thế, nhớ quê ở đây là nhớ về cội nguồn, nhớ về nguồn gốc tổ tiên: “vì chim có tổ, nước có nguồn, con người có cha mẹ sinh ra”. Nhớ quê ở đây là một cái nhớ ở trong tiềm thức của mỗi người, nhớ về tình yêu của cha, của mẹ, của anh chị em trong nhà.
Xa quê chạnh nhớ quê nghèo
Mẹ cha vất vả gieo neo ruộng đồng
Nuôi con ăn học hết lòng
Con luôn thấu hiểu tấm lòng bao la.
Trong chữ “Quê” có nguồn cuội. Có hình bóng của những con người “bán lưng cho trời – bán mặt cho đất” chỉ mong sao con lớn khôn thành người.
Thương con không quảng nắng mưa
Thức khuya dậy sớm, mưa giông không màng
Gian lao khổ cực nào than
Cho con no đủ, hiên ngang với đời
Khi hồi tưởng về quê nhà ta mới thấy thấp thoáng bao kỷ niệm về gia đình, nơi đó chan hòa tiếng cười và đầy ắp yêu thương. Hồi tưởng về quê nhà ta mới thấy sự trưởng thành của ta được xây đắp bằng tình yêu hy sinh vất vả của mẹ cha.
Cuộc đời bao nỗi đắng cay
Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào
Hôm nay nước mắt tuôn trào
Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang
Hồi tưởng về quê nhà, ta mới thấy mình phải có bổn phận “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, ta mới thấy làm sao đáp đền công ơn trời bể mà cha mẹ đã dành cho ta.
Con đây chẳng nói nên lời
Nghẹn ngào nước mắt, lòng này khắc ghi
Lạy cha lạy mẹ con quỳ
Công ơn trời biển, đời đời không quên.
Khởi đầu năm mới, chúng ta tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên, những người có công đức sinh thành dưỡng dục chúng ta. Chúng ta đâu biết rằng để mình có ngày hôm nay, cha mẹ chúng ta phải đánh đổi cuộc đời như thế nào? Vì danh dự của con, vì muốn cho con có tiền đến trường đến lớp, vì muốn cho con bằng chúng bằng bạn, cha mẹ nào cũng sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình vì hạnh phúc đàn con.
Do đó, uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây. Có được niềm vui đón xuân hôm nay, chúng ta cũng cần tỏ lòng hiếu kính, biết ơn đối với các bậc tổ tiên đã khuất và đối với ông bà cha mẹ những người còn đang sống và còn đang hao mòn vì chúng ta.
Chính Chúa Giê-su cũng luôn sống hiếu thảo với cha mẹ của mình. Phúc âm nói Ngài hằng vâng phục cha mẹ mình. Và dưới cây thập giá Ngài còn mời gọi thánh Gioan thay mặt Ngài đón Mẹ về nhà của mình để sống trọn chức hiếu.
Vì thế, trong bầu khí mừng xuân Mậu Tuất và nhớ về cội nguồn. Chúng ta cùng hiệp dâng thánh lễ hôm nay để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ của những ai đã qua đời và cầu bình an cho các bậc sinh thành vẫn đang còn hiện diện với chúng ta và với tấm lòng thảo hiểu chúng ta hãy cùng nhau ước nguyện:
Mỗi đêm con thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
40.Hiếu Hôm Nay Phúc Ngày Mai--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn có cho có nhận. Ta cho đi tình yêu thương, sự thiện hảo thì ta cũng nhận lại được lòng tri ân và cảm tạ. Ta cho đi sự phục vụ quảng đại thì ta cũng nhận lại được sự chia sẻ yêu thương của anh em. Thế nên, dòng chảy cuộc đời luôn đòi ta phải tạo phúc cho đời, biết sống chia sẻ yêu thương thì con sóng yêu thương mới mangphù sa yêu thương về lại cho ta.
Có câu chuyện kể rằng:
Tại làng kia, trong một gia đình nọ có ông cụ già sống với con trai, nàng dâu và hai đứa cháu nội lên 8 và 6 tuổi. Cụ già, mắt mờ, tai gần như điếc và hai đầu gối thường rung chạm vào nhau. Không trách gì mỗi lần ngồi vào bàn cơm với con cháu cụ thường ăn uống vụng về, con trai và con dâu rất lấy làm khó chịu và xấu hổ, nên sau cùng họ quyết định cho cụ ngồi ăn một mình trong góc nhà gần lò sưởi. Nàng dâu chỉ cho cụ một muôi cháo trong cái chén bằng sành cũ kỹ. Cụ già chỉ biết tủi thân mắt đẫm lệ nhìn con cháu vui vẻ trên bàn cơm.
Rồi một hôm vì quá yếu, hai tay run rẩy không cầm nổi chén cháo trên tay nên đánh rớt xuống sàn nhà vỡ tan từng mảnh. Nàng dâu không tiếc lời xỉ vả, lại còn nỡ lòng mua cho cụ một cái chén bằng nhựa chỉ đáng mấy xu mà thôi. Cụ già chỉ biết tủi thân an phận thở dài nhưng không một lời ca thán. Rồi một bữa nọ, hai đứa cháu nội ra cười chơi nhặt những mảnh sảnh từ chén cơm mẻ của ông nội đã trượt tay đánh vỡ. Suốt buổi hai anh em hý hoáy tìm cách dính những mảnh sành lại với nhau. Ba má em tìm chúng quanh nhà, sau cùng mới thấy hai anh em ngồi chơi ngoài góc vườn. Thấy vậy ba em hỏi:
– Con muốn làm gì với những mảnh sành đó?
Không chút do dự, đứa em thản nhiên đáp:
– Con muốn gắn những mảnh sành này lại thành cái bát, để sau này khi ba má về già như ông nội, ba má sẽ dùng chén này mà ăn.
Câu trả lời ngây thơ phát xuất từ miệng một đứa trẻ vô tội đã trở nên như tiếng sét đánh ngang tai cho cha mẹ nó. Họ đứng lặng nhìn nhau không nói một lời. Họ đã tự hiểu được hành động vô ơn bất hiếu của mình đối với người cha già đã từng nhịn đắng nuốt cay từ lâu vì những yếu đuối của tuổi già. Từ ngày đó, cụ già lại được đưa vào ngồi chung với con cái trong bữa cơm và không còn phải nghe những lời xỉ vả mỗi lần vụng về khi ăn uống nữa. Trái lại còn được chăm sóc rất chu đáo.
Hôm nay ngày Mồng Hai Tết Giáo hội mời gọi chúng ta hãy dành trọn ngày này để tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Vì trong đời một người, không ai có công lao với mình bằng cha mẹ. Và càng không có ai dám hy sinh một đời vì chúng ta ngoài cha mẹ. Ơn sinh thành, công dưỡng dục của cha mẹ thật lớn lao đến nỗi việc hiếu kính tổ tiên đã trở thành đạo của cả dân tộc Việt Nam:
“Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”.
Chân tu hiểu là sống đúng với lương tri con người. Không vì tình mà quên nghĩa. Không vì tiền mà vong ân. Người chân tu phải biết sống ân nghĩa với cha với mẹ. Sống tốt với gia đình. Sống đẹp lòng mẹ cha. Đó là nền tảng đạo đức để sau này tung cánh vào đời, trở thành kẻ có ích cho người, cho đời. “Tu thân tích đức, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Lòng hiếu thảo, đạo làm con ấy được Thiên Chúa quy định trong giới răn thứ tư: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”. Đây là giới răn duy nhất trong 10 giới răn nhận được lời chúc phúc nếu tuân giữ một cách trọn vẹn sẽ được sống lâu trên mặt đất. “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi thì ngươi sẽ được sống lâu trên mặt đất”.
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu.
Đây là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên đã khuất mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa là chủ thời gian ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
41.Ông bà tổ tiên--Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến
(Hc 44, 1.10-15; Ep 6, 1-4.18-23; Mt 15, 1-6)
Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an, thì trong ngày mồng hai tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mừng lễ hôm nay là dịp nhắc nhở chúng ta nhớ đến nguồn cội của mình và công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta...
Người Á Đông nói chung, đặc biệt người VN nói riêng rất đề cao chữ HIẾU và nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU.
“Mẹ cha vất vả nuôi mình//Từ khi trứng nước công trình biết bao./ Làm con phải nhớ công lao,/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Kẻ làm con phải “Dĩ hiếu vi tiên” nghĩa là lấy hiếu làm đầu. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Bởi vậy, từ thuở mới cắp sách tới trường, bài học đầu tiên của ta là: Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Sự hiện diện của mỗi người trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là mắt xích của cả một công trình vĩ đại, một chuỗi dài những liên hệ yêu thương từ Adam đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và giờ đây là chúng ta,… Người ta thường nói: “Con người có cố có ông,/ Như cây có cội như sông có nguồn”. Người ta có cha có mẹ/ Không ai ở chỗ nẻ chui lên (Tục ngữ).
Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình tự nhiên hay là một qui định xã hội mà còn là một điều răn Chúa dạy trong 10 điều Chúa truyền qua ông Môsê: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. 10 điều răn được khắc vào 2 bia đá; và nếu để ý một chút ta sẽ thấy không phải là mỗi bên 5 điều nhưng một bên 3, một bên 7; bia đá thứ nhất gồm 3 điều ghi lại bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; bia đá thứ hai 7 điều ghi lại bổn phận giữa con người với nhau; và như thế ta mới thấy điều răn mà ta gọi là thứ tư lại là điều răn thứ nhất trong đạo làm người.
Các bài đọc Lời Chúa thánh lễ hôm nay, có chung chủ đề là chữ Hiếu.
Bài đọc thứ nhất trích sách Huấn ca nhắc chúng ta không chỉ biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói với chúng ta qua thư gửi tín hữu Ephêso: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Đúng ra, Phaolô đã viết lại lời Chúa trong sách Xuất Hành: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).
Bài tin mừng, Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời trong sách Xuất Hành và Lêvi: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Đặc biệt, Chúa Giêsu khiển trách những luật sĩ và biệt phái về việc áp dụng sai luật Chúa. Đối với họ, lễ vật gọi là ‘Coban’, tức là những gì họ dâng cho Chúa rồi thì họ không còn bổn phận giúp cha mẹ nữa.
Ngày hôm nay cũng còn có những người con như thế: đưa cha mẹ vào trại dưỡng lão, đóng tiền cho người ta nuôi; hay cho cha mẹ tiền, quà rồi cho đó là thảo hiếu, nhưng không hề về thăm hay hỏi han cha mẹ mạnh khỏe ra sao? Đau yếu thế nào?
Chúa Giêsu không chỉ nhắc nhở con người về đạo làm con mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là Người Con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa, khi nhập thể làm người, Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Đức Maria và thánh Giuse.
Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày mồng hai tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày mồng một tết, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Ngài và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày mồng 2 tết, ta thảo kính OBTT, cha mẹ chúng ta. Trong ngày mồng hai Tết này chúng ta hãy nhìn lại lòng thảo kính của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì?
Thảo kính cha mẹ (theo sách giáo lý Tân định) là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi [các ngài] còn sống và [cũng như] đã qua đời.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Nuôi cha mẹ già không phải là dễ. “Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày”; bởi vậy, người ta nói: “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ”.
Tiếc thay, rất nhiều người -dù đã đang nuôi con- đã có kinh nghiệm vất vả vì con nhưng lại quên ơn nghĩa sinh thành. Họ coi việc chăm sóc cha mẹ già là một gánh nặng nên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Tục ngữ VN có câu: “Sống không cho ăn, chết thì làm văn tế ruồi” là lời nhắc nhớ con cháu phải cần kíp chăm sóc cha mẹ bao nhiêu có thể khi các ngài còn sống với ta trong cõi đời này. Ngày hôm nay, có những người con tuy vui tết, nhưng vẫn cứ ân hận vì mình đã không lo chu toàn bổn phận chữ hiếu với cha mẹ mình, bây giờ cha mẹ không còn nữa; trái lại, ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy có những người con trước khi đi làm đã tranh thủ đút cháo và sếp giường chiếu cho cha mẹ; có những người con dìu dắt cha mẹ già lọm khọm bước lên bực cấp nhà thờ để dự lễ. Hình ảnh này làm cho tất cả chúng ta cảm động và thấy mình cần có trách nhiệm hơn nữa đối với song thân sinh thành dưỡng dục mình. Hơn nữa: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Nếu ta không trọng cha mẹ ta, khi ta về già, sao con cháu có thể trọng ta được!
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu ông bà cha mẹ còn sống mà ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến các ngài hằng ngày khi các ngài đã qua đời? Thật ra, các ngài qua đời/khuất núi nhưng vẫn hiện diện [Chứ không phải trở về hư vô]. Giữa âm và dương thật gần gũi. “Người chết nối linh thiêng vào đời” là vậy.
Bởi thế, mỗi dịp giỗ chạp, đặc biệt là tháng 11 và mồng 2 tết là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài: “Ai mà phụ nghĩa quên công/ Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Hôm rồi, lễ an táng 1 bà cụ Anna Nguyễn Thị Đẫm [bà Tộ], một cha già nhắc tôi: đối với cha mẹ và ân nhân, các cha phải nhớ: “Sống thì phải tết, chết thì phải lễ”. Lời cha già nhắc tôi cũng là lời nhắc tất cả chúng ta vì ai trong chúng ta ra đời cũng có cha có mẹ.
Vậy, mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Hãy chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; Hãy dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.
42.Nguyện Xin Thiên Chúa Xót Thương Cả Tổ Tiên--Trầm Thiên Thu
Có lẽ chẳng ai lại không biết câu ca dao này: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra; Một lòng thờ mẹ, kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Câu ca dao bình dị mà thâm thúy với cách so sánh cụ thể. Ân nghĩa là món nợ về lòng hiếu thảo mà cả đời chúng ta cũng không thể nào trả được, nhưng đó là thứ cần mắc nợ nhau suốt đời: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8).
Chắc chắn ai cũng có một gia đình, dù là “ông kia, bà nọ” thì cũng vẫn xuất thân từ một gia đình – dù gia đình giàu hay nghèo, to hay nhỏ. Có điều tất yếu là người ta có thể tự chọn nhiều thứ, nhưng không ai có thể tự chọn cha mẹ – tất nhiên kể cả ông bà, tổ tiên. Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người ta gọi gia đình là Tổ Ấm hoặc Mái Ấm. Dấu hiệu đầu tiên của hạnh phúc gia đình là tình yêu gia đình, chính “ngọn lửa” tình yêu làm cho gia đình ấm áp.
Dù là Thiên Chúa, nhưng khi Đức Giêsu giáng sinh làm người, Ngài cũng sinh trưởng trong một gia đình. Điều đó chứng tỏ gia đình rất quan trọng. Hai tiếng “gia đình” đơn giản lắm, nhưng cũng phức tạp lắm. Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) nhận xét: “Khả năng tìm được cái đẹp trong những điều nhỏ bé nhất khiến gia đình trở nên hạnh phúc và cuộc đời trở nên đáng yêu” (The power of finding beauty in the humblest things makes home happy and life lovely). Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) đề nghị: “Lòng nhân đức bắt đầu từ gia đình nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home but should not end there). Bộ ba Cha-Mẹ-Con là chiếc kiềng ba chân yêu thương để chống đỡ gia đình: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” (Ca dao).
Ngày lễ, tết, và những dịp đặc biệt, nhớ tới công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tiền nhân là điều cần thiết. Trên đời này, không có công ơn nào to lớn bằng công ơn cha mẹ, đặc biệt là người mẹ. Chữ Hiếu (mệnh danh là Đạo Hiếu) không thể nào bù đắp chín Đức Cù Lao (*). Cứ tính đơn giản theo nghĩa đen thì cũng thấy không cân xứng: Một chữ không thể so với chín chữ. Con cái chỉ có một chữ mà vẫn không giữ trọn!
Kinh Thi có đề cập đức cù lao của cha mẹ: “Cù lao vu dã” – nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội; và “bi ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” – thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta.
Dịp đầu Xuân, thời gian đẹp nhất trong năm – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, sách Huấn Ca mời gọi: “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Tại sao? Lý do minh nhiên: “Họ là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15).
Chúa Giêsu đã nêu gương về đạo Hiếu để chúng ta noi theo. Sau ba ngày lo việc của Chúa Cha, Cậu Hai Giêsu ở lại Đền Thờ khiến Cô Maria và Chú Giuse lo sốt vó, tìm kiếm xuôi ngược suốt ba ngày. Khi gặp cha mẹ, Cậu Hai Giêsu mau mắn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).
Ai cũng có cha mẹ, dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là người sinh thành dưỡng dục mình. Ai sống có hiếu thì được Chúa chúc lành: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128:1-2).
Con cái có hiếu thì cha mẹ an tâm, gia đình hạnh phúc: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Chắc hẳn ai cũng mong ước như vậy, vấn đề là phải thể hiện cụ thể, đừng nói suông. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6). Nguyện chúc mọi gia đình vui hưởng thái bình như Thánh Gia – hôm nay và mãi mãi, đặc biệt trong những ngày Xuân đoàn tụ này.
Thánh Phaolô nhắc nhở những người con về Đạo Hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Và nhắc nhở những người làm cha mẹ: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Bổn phận và trách nhiệm với nhau là điều cần thiết: Con cái đối với cha mẹ, và cha mẹ đối với con cái.
Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì là hành động. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18-19). Cầu nguyện là việc làm phải liên tục, bất kể thời gian hoặc địa điểm. Thật vậy, cầu nguyện có thể thực hiện ngay tại bàn tiệc, khi đang nói chuyện với người khác, khi chạy xe,… thậm chí ngay khi chúng ta ở giữa một đám đông ồn ào náo nhiệt. Đừng chỉ cầu nguyện khi vào nhà thờ hoặc ở nơi tĩnh lặng, vì cầu nguyện rất dễ: Hướng tâm hồn lên với Chúa, gặp Chúa, có khi không cần nói gì cả. Cầu nguyện liên lỉ là “thói quen” của người sống tâm linh theo tinh thần của Đức Kitô.
Người cha, người mẹ và người con đều sống tâm linh như vậy thì chắc chắn gia đình hạnh phúc, là Tổ Ấm thực sự, ấm trong tình yêu của Thiên Chúa, nóng hổi ngọn lửa thương xót của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc” (Tv 112:1-2). Niềm hạnh phúc thánh đức thật tuyệt vời!
Thiên Chúa phù trì liên vạn đại
Thánh Gia bảo giám mãi thiên thu
Nước có quốc pháp, nhà có gia phong. Truyền thống là điều nên duy trì – nếu đó là truyền thống tốt đẹp và hợp lòng người. Đừng bao giờ câu nệ!
Trình thuật Mt 15:1-6 cho biết: Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”. Ngài biết chẳng ai trả lời được nên Ngài lý luận: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”. Họ chỉ có nước “ngậm tăm”, im như thóc thối, câm như hến.
Có khi chúng ta cũng như bọn Pharisêu đấy, đầu toàn là “đậu hũ” mà bày đặt lý luận để bắt bẻ người khác. Dốt mà chảnh là thế đấy! Không chỉ vậy, chúng ta lấy lý do “vì, bởi, tại,…” mà biện hộ cho mình. Thật nguy hiểm! Thiết tưởng đôi khi chúng ta phải tự xét lại về các động thái của mình, đừng tưởng những gì chúng ta đưa ra đều là vì Chúa, có thể chính chúng ta “chơi ép” Chúa, “điều khiển” Chúa, rồi lại tự tôn bằng các biện hộ đó là Ý Chúa. Ôi, lạy Thiên Chúa!
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu còn cha mẹ, thật hạnh phúc cho bạn, nhưng hãy “động não” một chút: Khi bạn đang uống ly nước giải khát, hãy nghĩ xem cha mẹ thường uống gì. Khi bạn mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, xin hãy nghĩ xem cha mẹ bạn thường mặc ra sao. Khi bạn thoải mái chi tiêu, hãy nghĩ đến những thứ cha mẹ bạn thường dùng thế nào. Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ bao công sức, đổ bao hạt mồ hôi, đều chỉ vì mong cho bạn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ bạn đang dùng đều là do công sức cha mẹ tạo ra. Xin hãy yêu quý cha mẹ và cố gắng giữ trọn chữ hiếu cho xứng đáng là người con. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này, biết đâu bạn không còn kịp nữa đâu!
Tết đến bình an nhờ Thiên Chúa
Xuân về hạnh phúc với Thánh Gia
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con có ông bà, cha mẹ, xin thương chúc lành cho họ; xin giúp chúng con biết giữ trọn Ân Nghĩa với Chúa và với ông bà, cha mẹ của chúng con. Xin tình yêu Thánh Gia luôn tràn đầy trong mọi gia đình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) Cù Lao là siêng năng, cần mẫn, nhọc nhằn. Chín đức cù lao gồm: [1] SINH: Cha mẹ đẻ ra, [2] CÚC: Nâng đỡ, [3] PHỦ: Vỗ về, vuốt ve, [4] SÚC: Cho ăn, bú mớm; [5] TRƯỞNG: Nuôi dưỡng thể xác; [6] DỤC: Giáo dưỡng tinh thần; [7] CỐ: Trông nom, nhìn ngắm; [8] PHỤC: Quấn quít, săn sóc không ngơi; [9] PHÚC: Bồng ẵm, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, bảo vệ con khỏi bị ăn hiếp.
43.Uống nước nhớ nguồn--Trầm Thiên Thu
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.
Nói đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công giáo không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính (tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công giáo không chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công giáo khi chưa hiểu rõ!
Cổ thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.
Liên quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An Tiêm.
Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế, bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ chồng ra hoang đảo.
Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này. Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó chính là trái dưa hấu.
Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.
Và chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả cũng là người con chí hiếu.
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó, nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen họ” (Hc 44:15).
Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên, không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán, muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4).
Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep 6:18-20).
Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28).
Và Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).
Hãy ghi nhớ và noi theo tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6)
Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích) sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.
Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong, Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).
Tất nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm! Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!
Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
44.Không có hiếu là vứt đi--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tôn kính tổ tiên và hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ là truyền thống và gia sản tốt đẹp của cha ông ta từ bao đời nay.
Đây là nghĩa cử cao quý mà bất cứ ai, đã sinh ra làm người thì khi đến tuổi khôn đều phải được dạy cho biết gia sản quý báu của dân tộc, đồng thời mỗi người phải coi đây là bổn phận, nghĩa vụ trong lòng mến chứ không chỉ đơn thuần là tình cảm tự nhiên.
Ngược lại, nếu ai sống một cuộc đời bất hiếu, thì có thể kể hạng người đó vào số những người vô giáo dục, hay không phải là con người đúng nghĩa!
Hôm nay, Giáo Hội dành riêng ngày mồng hai tết cổ truyền của dân tộc để mời gọi con cái mình hướng về cội nguồn để cầu nguyện cho các bậc sinh thành, và noi gương sáng của các ngài để lại, hầu có thể làm sáng danh Thiên Chúa, rạng rỡ gia phong và vẻ vang dân tộc… đây chính là: “Của lễ làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Cl 3,20).
1. Đạo hiếu ngày xưa
Ngày xưa, cha ông ta rất coi trọng chữ hiếu. Chữ hiếu được đưa lên hàng đầu vì: ”Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, thời suy ra trăm nết đều nên”.
Vì thế, khi đánh giá một người nào, các cụ ta thường hay xem họ có hiếu nghĩa với ông bà, cha mẹ, sống có tình nghĩa với anh chị em trong gia đình và làng xóm không?
Còn khi chọn ai đó làm quan, nhà vua thường dựa trên quy luật: “Tướng – Hàm –Hiếu”. Tức là phải có tướng mạo, học hành giỏi giang và có hiếu với bậc sinh thành. Tuy nhiên, hiếu nghĩa quyết định người đó đậu hay không.
Khi người xưa coi trọng chữ hiếu như vậy, các bậc tiền bối của chúng ta coi chữ hiếu là căn cốt, là bản lề, là cột trụ trong việc hình thành nhân cách cũng như nền tảng xây dựng xã hội và nghề nghiệp.
Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất, bởi lẽ: “Người ta có cha có mẹ, không ai ở chỗ nẻ chui lên”, nên: “Người ta có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”.
Vì thế, người thời xưa, sáng ngày mồng một, con cháu quy tụ về nhà tổ để làm lễ gia tiên với người đã khuất, sau đó đến phần bày tỏ hiếu nghĩa với người còn sống.
2. Đạo hiếu ngày nay
Trên đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta khi nói và sống chữ hiếu. Còn ngày nay thì sao?
Nếu ngày xưa, nhà nhà, người người coi lễ giáo gia phong, tôn ty trật tự, hiếu nghĩa thảo hiền là điều quan trọng không thể thiếu trong các mối tương quan, thì ngày nay, có khi: “Mò kim đáy biển”.
Vì thế, trong những ngày giáp tết vừa qua, trên các trang mạng xã hội có đăng tải những tấm hình gây nhiều chú ý, bức xúc kèm theo những lời kết án gắt gao, đó là: hình ảnh một bà cụ già trạc 90 tuổi, bị nhốt dưới bếp và khóa trái cửa, cụ đẩy cửa và nhìn hé ra ngoài, bên dưới là lời nói: “Con ơi, mở cửa cho mẹ, mẹ không lên phòng khách đâu!!!”. Rồi hình ảnh khác, một bà cụ ngồi vệ đường với bát cơm trộn. Cụ vừa ăn vừa khóc! Bên dưới có lời bình: “Cuộc đời vất vả nuôi con, cầu mong con lớn, nhờ con về già! Vậy mà khi tuổi xế tà, sức lực cạn kiệt thân già ốm đau. Con cái thì lại ganh nhau, chăm được ba bữa càu nhàu rên la. Mẹ già cay đắng lệ xa, bát cơm chan lệ như là chan canh”. Ôi đọc mà đau nhói con tim, tê tái tâm hồn!
Rồi nhìn chung quanh, có khi không chừng, ngay cả trong nhà thờ này, vẫn còn đó những đứa con bất hiếu, vô giáo dục khi đối xử với thậm tệ với cha mẹ!
Vì thế, vẫn thấy đây đó nhiều bậc cha mẹ phải bỏ nhà ra đi hay bị đuổi ra khỏi nhà vì cảnh con dâu quá láo, con trai phụ bạc, các cháu hỗn hào… Ôi thật đau xót biết chừng nào!!!
Những hạng người bất hiếu trên, có lẽ họ quên mất một quy luật tất yếu, đó là: “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, anh con trai mua một cái sọt, rồi nhốt cha già trong đó và mang vào rừng bỏ đói cho chết. Thấy vậy, con trai anh tuy còn nhỏ, nhưng đã ý thức và đau xót nên nói với cha mình rằng: “Ba đem ông vào rừng rồi sau đó mang sọt về cho con nhé”. Người cha liền hỏi: “Mang về làm gì?” Người con đáp: “Để sau này có cái mà nhốt cha!”. Đây quả là quy luật tất yếu dành cho kẻ bất hiếu.
3. Đạo hiếu trong truyền thống Công Giáo
Đối với người Công Giáo, đạo hiếu không chỉ là một bổn phận phải có đối với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn là đòi hỏi, là lệnh truyền, là giới răn của chính Thiên Chúa.
Trong thập giới, Thiên Chúa dành ra giới răn thứ tư để truyền phải giữ, đó là: “Thảo kính cha mẹ”. Giới răn này chỉ đứng sau những giới răn tôn thờ Thiên Chúa. Như vậy, ngoài bổn phận với Thiên Chúa, người Công Giáo phải trung thành tuân giữ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên.
Khi hiếu kính với tổ tiên, chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và tha thứ lỗi lầm, vì: “Ai tôn thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4). Thánh Phaolô thêm: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3); vì: “Ai vâng lời cha mẹ trong mọi sự sẽ đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) và sẽ được Thiên Chúa sẽ nhận lời người hiếu nghĩa cầu xin (x. Hc 3,8).
Còn với Đức Giêsu, ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).
4. Thi hành việc hiếu nghĩa
Như những gì đã chia sẻ ở trên, chúng ta thấy chữ hiếu đối với người Công Giáo thật là quan trọng, nó kéo theo việc được chúc lành hay chúc dữ tùy vào thái độ của chúng ta.
Thiết nghĩ, ngay trong giây phút này, mỗi người hãy làm mới lại tinh thần hiếu nghĩa đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.
Trước tiên, chúng ta hãy cầu nguyện, kết hợp với những hy sinh để cầu cho linh hồn các bậc tổ tiên đã ra đi, đồng thời cầu nguyện cho những bậc còn sống được bình an. Hãy nhớ nằm lòng câu ca dao sau: “Cây có gốc mới nở ngành sinh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Người ta có gốc từ đâu! Có cha có mẹ rồi sau có mình”.
Thứ đến, hãy vui vẻ lễ phép, chăm lo cơm cháo, đồng quà tấm bánh, nhất là lo thuốc thang khi các ngài ốm đau bênh tật. Sống yêu thương, kính trọng như lời Kinh Thánh dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi con” (Hc 3,12-14).
Cuối cùng, nếu ai đã hỗn sược, lếu láo với bậc sinh thành, ngay lập tức, sau thánh lễ này, hãy xin lỗi các ngài và quyết tâm sửa sai. Nên nhớ rằng, đây là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình hay không.
Ước gì, trong dịp tết năm nay, nhất là trong ngày cầu cho tổ tiên, cũng như hằng ngày trong đời sống, mỗi người chúng ta phải thực sự là tấm gương cho con cháu về lòng hiếu nghĩa với các bậc tổ tiên, để như một quy luật tất yếu, con cái sẽ noi gương và báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của chúng ta hôm nay và ngày mai. Amen.
45.Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Người công giáo Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, tuy không theo những nghi thức nơi dân ngoại, nhưng luôn kính viếng các phần mộ cha ông, và dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Sau nhiều cố gắng HĐGMVN trước 1975 cũng đã được Tòa Thánh chấp thuận những khẩn cầu để có thể thiết lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình, để hằng ngày có thể hiệp thông với các ngài trong cầu nguyện.
Thực sự, ngay từ thời Cựu Ước, tương quan với tổ tiên không chỉ là tương quan nghi lễ, mà còn là tương quan gắn liền với Giao Ước của Thiên Chúa. Theo đó “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con” “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước” nhờ đó mà “Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại”.
Đến thời Tân Ước, tương quan đó được đẩy lên mức cao tuyệt đối, vì thánh Phaolô đặt tương quan ấy “theo tinh thần của Chúa” mà thánh sử Luca gói trọn trong lời “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” và trước khi từ giã cõi đời, Chúa đã trối Mẹ mình cho người môn đệ Ngài yêu để thay Ngài chăm sóc Mẹ, và Hội Thánh đã nhận lời trối của Chúa để luôn có lòng đón nhận Mẹ Ngài như là mẹ của mình. Thật ra phải nói rằng theo tinh thần của Chúa, thì đời sống đặt nền tảng trên đức hiếu thảo không chỉ với Chúa Cha mà cả với cha mẹ trần gian nữa. Và đức hiếu thảo này chính là nền tảng cho sự thánh thiện của Dân mới.
Thánh Phaolô nhìn vào đức Hiếu Thảo của Chúa là một tương quan 2 chiều: Cha mẹ - con cái. Về phần con cái thì phải “tôn kính cha mẹ” như là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. Về phần cha-mẹ “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”.
Bài Tin Mừng cho thấy người làm cha là Giacaria đã nhìn thấy nơi người con của mình là Gioan tiền hô, có một sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho, sứ mạng làm cho mọi người nhận biết “Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” theo “lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta”. Sứ mạng gắn liền với Giao Ước. Mỗi người cha, người mẹ, người con đều phải “phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời”.
Tương quan hai chiều này suốt theo dòng lịch sử luôn bị khủng hoảng, nhiều khi rất khủng khiếp: cha mẹ-con cái nhiều khi trở thành thù hận, thậm chí chém giết như thấy trên các báo ngày nay. Vì thế muốn giữ được tương quan theo tinh thần của Chúa thánh Tông Đồ khuyên chúng ta “Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”, nghĩa là cho mọi người được Thánh Thần nâng đỡ để chu toàn giới răn này.
Và tôi mượn lời của Thánh Tông Đồ “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin.”
46.Mt 15,1-6--Hãy hiếu kính ông bà cha mẹ--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).
2. CÂU CHUYỆN:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già nên tay thường bị run, và có lần đã làm bể bát chén kiểu đắt tiền khi đang ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt một chiếc gáo dừa mang về gọt dũa làm thành một cái chén bằng gáo dừa để bố anh ta dùng. Đứa con trai của anh ta thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh trả lời con rằng: Để ông nội con dùng chén này ăn cơm nếu có run tay làm rơi cũng không bị bể.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này khi bố già dùng sẽ không bị bể nếu bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.
3. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
4. SUY NIỆM:
1) Bổn phận thảo kính cha mẹ:
Ba ngày Tết, sau ngày Mùng Một dành Tạ Ơn Chúa xin ơn bình an năm mới, thì ngày Mùng Hai dành để Kính nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ. Có lẽ không ai trong chúng ta lại không biết câu thơ đã trở thành câu ca dao và bài hát bất tử về đạo làm con: “Uống nước nhớ nguồn. Làm con phải hiểu. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Hay: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”…
Và chắc không ai trong chúng ta lại không biết nhạc phẩm Lòng mẹ của cố nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình…”
Với người Ki-tô hữu, ai cũng nằm lòng Mười Điều Răn, trong đó, ba điều răn đầu tiên dành cho Chúa, ngay sau đó, điều răn thứ tư dành cho cha mẹ. “Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ”. Người Công Giáo có tháng 11, tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời, cũng là dịp đặc biệt nhớ về ông bà cha mẹ đã an nghỉ. Hằng ngày, người Công Giáo tham dự Thánh Lễ luôn kính nhớ nguyện cầu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt là các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ…” (Kinh Nguyện Thánh Thể).
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được đón giờ phút thiêng liêng ngày đầu xuân bên cha mẹ, ông bà và con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải thể hiện trong suốt thời gian sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu không được xem thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, cho bú mớm và lau dọn vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?:
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì như câu ca dao người xưa dạy:
“Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bạn sẽ mua biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa là Chúa của Mùa Xuân đất trời.
Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay.
Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha.
Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.
Xin cho chúng con một Năm Mới an lành và hạnh phúc trong bàn tay quan phòng của Cha.- Amen.
47.Suy niệm Lời Chúa
Câu chuyện
Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về
Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân ở phương xa về quê sum họp gia đình và dành thời gian để thăm viếng thân nhân, cúng bái tổ tiên, thờ phượng đất trời. Vì Tết là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”.
Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ tốt đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Ngày mùng hai tết, người Trung Quốc (gồm cả Đài Loan) có một truyền thống rất tốt đẹp là: Tất cả những người con gái đã xuất giá (lấy chồng) đều cùng với chồng và con trở về nhà cha mẹ ruột của mình, để cùng ăn cơm, cùng vui Tết, cùng chúc tuổi cha mẹ, đó cũng là một cách báo hiếu của con gái đã lấy chồng.
Suy niệm
Mùng hai tết, tuy không khí ngày tết vẫn rộn ràng vui tươi của ngày xuân, những người Công giáo Việt Nam đến nhà thờ và viếng nghĩa trang với tâm trạng bồi hồi xúc động, vì hôm nay kính nhớ tổ tiên, những người con dâng thánh lễ với tấm lòng hiếu thảo cầu nguyện cho gia tiên và hồi tưởng về tổ tiên, ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời. Những ánh nến lung linh soi hồi ức của người con về những kỷ niệm đẹp với ông bà cha mẹ và người thân khi họ còn sống bên cạnh, những nén hương thơm tựa như lời cầu nguyện chân thành dành cho người đã khuất bay tới trời cao như Thánh Vịnh có nói: “Ước chi lời con nguyện, tựa hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” (Tv 141,2), những bông hoa muôn sắc dâng tiến như tâm tình biết ơn đẹp mãi không phai và luôn thắm như hoa xuân.
Nhớ về tổ tiên, chúng ta làm sống lại tâm tình của sách Huấn ca về sự nghiệp của tổ tiên luôn sống động mãi: “Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ” (Hc 44,12-15).
Thảo hiếu với cha mẹ còn sống và kính nhớ ông bà tổ tiên đã khuất bằng lời cầu nguyện trong ngày mùng hai Tết, chúng ta sống tâm tình của thánh Phaolô về chữ hiếu trong gia đình luôn làm phần phúc cho người con thảo mà ngài đã viết khuyên nhủ cộng đoàn tín hữu Êphêsô: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu” (Ep 6,1-2).
Hôm nay ngày cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, chúng ta càng thêm xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”, tin vào lời Thầy Giêsu đã phán dạy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26). Được sống muôn đời là sống trong mùa xuân vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng.
Cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ là hành động của niềm tin vào Đấng Phục Sinh - Chúa Xuân vĩnh cửu sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc thật trường tồn. Kính nhớ ông bà tổ tiên còn là “đạo làm người” trong tư cách con người, biểu hiện lòng biết ơn các đấng sinh thành dưỡng dục.
Ngày xuân nhớ đến gia tiên, với cây nến, nén hương trong tay chúng ta tin rằng: Mừng xuân hôm nay nói về mùa xuân Thiên quốc: Tất cả đều trổ bông với một sức sống mới: Con người cũng sẽ phục sinh, nở hoa khi theo bước chân của Đức Kitô, như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14). Tất cả sẽ cùng Đức Kitô đi vào trong Giáo hội Chiến Thắng - Mùa Xuân Cứu Độ.
Ý lực sống
“Người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng…
Kẻ kính cha sẽ được trường thọ” (Hc 3,4.6).
48.Suy Niệm Lời Chúa Mt 15, 1-6
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?…” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”
Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình”. Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi”. Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên – ông bà – cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6, 1-3)”.
Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.
Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.
Lạy Chúa,
Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.
Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.
Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.
49.Suy niệm Lời Chúa
Giáo hội dành ngày mùng hai tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là để nhớ đến công ơn của các ngài. Giáo hội nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài là bởi vì, tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các ngài tận tụy dậy dỗ mình sống đời sống làm người, và đặc biệt nhờ các ngài mà mình được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển.
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Quả thật, truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ của mình như thế nào. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”.
Và hơn nữa, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng nhắc: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo”.
Và đặc biệt trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nhắc lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người mọi thời rằng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, việc hiếu thảo đối với cha mẹ là điều hết sức quan trọng và là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu.
Như thế, việc thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân, nhưng đó là thánh ý của Thiên Chúa, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, và đó là đòi buộc của Thiên Chúa.
Ngày đầu xuân Giáo hội nhắc lại sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Thế nhưng, ta phải có những thái độ nào, phải có những cách hành xử như thế nào, để đạo “thờ cha, kính mẹ” cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa? Đó có phải chỉ là cấp tiền nuôi dưỡng cha mẹ? Hay đó có phải chỉ là đến ngày, đến tháng vào xin một thánh lễ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên là xong?
Trong sách xưa có một bài về đạo hiếu rất hay và cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo:
“Hiếu hữu tam:
Đại hiếu tôn thân
Kỳ thứ phất nhục
Kỳ thứ năng dưỡng”
Tạm dịch là:
Đạo hiếu có ba điều:
Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ
Hai là không làm nhục cha mẹ mình
Ba là có thể nuôi dưỡng cha mẹ mình.
Vậy, thế nào là tôn vinh cha mẹ? Thế nào là không làm nhục cha mẹ? Và thế nào là dưỡng nuôi cha mẹ mình?
1. Tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và con người
Theo quan niệm của Kitô giáo, thì sự tôn vinh cha mẹ ở cấp độ cao nhất đó là sự tôn vinh cha mẹ, làm rạng rỡ cha mẹ ở trước mặt Thiên Chúa. Niềm vinh dự lớn lao của cha mẹ đó là được tôn vinh trước mặt Thiên Chúa. Thành ra, người có hiếu lớn nhất đó là người sống ngay lành, làm điều tốt trước mặt Thiên Chúa: sống theo thánh ý Chúa, sống theo luật Chúa đó là tốt nhất. Do đó khi sống đạo tốt, đó là mình thể hiện cái hiếu lớn nhất đối với cha mẹ.
Mặt khác, tôn vinh cha mẹ không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn là tôn vinh, làm rạng danh cha mẹ trước mặt người đời. Mình không thể nói là có hiếu với cha mẹ khi mà đời sống của mình bê bối đủ điều. Mình không thể nói là có hiếu nếu mình cứ sống một cuộc sống mua gian bán lận, một cuộc sống thiếu yêu thương bác ái đối với người khác, một cuộc sống muốn loại trừ những người khác. Do đó, cái hiếu đối với cha mẹ, đó còn là việc thể hiện một đời sống tốt trước mặt người đời. Bởi vì khi mình sống tốt trước mặt người đời là mình đang làm rạng danh, đang tôn vinh cha mẹ mình.
Hơn thế nữa, cái hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, không chỉ là tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và tôn vinh cha mẹ trước mặt người đời, nhưng còn là thể hiện cái hiếu qua việc tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình. Tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình đó là khi mình biết vâng lời cha mẹ, tôn kính cha mẹ. Do đó, mình không thể nói là có hiếu trong khi mình cứ luôn cãi lời cha mẹ, không biết tôn kính cha mẹ.
2. Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ
Trước hết chúng ta xét đến tương quan với Thiên Chúa, đó là đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa. Nghĩa là, khi xa lánh tội lỗi, không làm điều xấu đó là mình thể hiện cái hiếu đối với cha mẹ. Chúng ta không thể là người có hiếu nếu cứ sống trong tình trạng lầm lạc, trong những đam mê, những thú vui tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội đó là mình đang làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, và như thế thì không thể nói là mình đang sống trọn chữ hiếu với cha mẹ được. Và chúng ta không chỉ đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa mà còn không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời. Mình đừng để cho người đời vì mình mà chửi cha mẹ mình. Con cái đi làm điều bậy bạ để rồi cha mẹ phải lãnh lấy hậu quả, bị người đời coi thường, khi đó chúng ta không thể là người sống có hiếu được.
3. Và cái hiếu thứ ba đó là có thể nuôi dưỡng cha mẹ
Nuôi dưỡng hay chu cấp cho cha mẹ ở đây không chỉ là về những nhu cầu vật chất nhưng là còn về tinh thần.
Trước mặt Thiên Chúa, mình cầu nguyện cho cha mẹ đó là nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, lời cầu nguyện của chúng ta cho cha mẹ thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.
Trước mặt người đời, người có hiếu là người có thể phụng dưỡng cho cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần, đem lại niềm vui, đem lại niềm hạnh phúc cho cha mẹ.
Như vậy, cái hiếu lớn nhất của mỗi người đó là tôn vinh cha mẹ, làm rạng danh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và trước mặt chính mình.
Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời.
Cái hiếu thứ ba đó là nuôi dưỡng cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời.
Làm được như thế đó là mình sống trọn lòng hiếu thảo đối với cha mẹ như lòng Chúa mong muốn.
Lắng nghe lời Chúa trong ngày đầu năm này, ước gì mỗi người một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình qua ông bà cha mẹ, để hết lòng tri ân và cảm tạ các ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện để mình duyệt xét lại lòng thảo hiếu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thảo kính này, không chỉ là dâng một ít quà hay một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng lòng thảo hiếu này, cần được kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người.
Xin Chúa cho mỗi người có được lòng mến yêu, có được một tinh thần thảo hiếu, để chúng ta có thể luôn biết thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.
50.Hiếu kính Cha Mẹ
Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó, anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó, ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta, không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi, nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành, là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta, khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh, đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…
Ngày Tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ.
Ngày Tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời.
Dầu rằng, Tình Cha, Tình Mẹ có khác nhau nhưng nhờ Ơn Cha, nhờ Nghĩa Mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.
Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ.
Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả.
Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.
Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái, nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ.
Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng.
Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã, vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn.
Nhưng đáng tiếc, chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi Thái Sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình.
Mất cha, người con mới ngậm ngùi nói rằng:
Còn cha, gót đỏ như son
Mất cha, gót mẹ, gót con đen sì.
Hay:
Thương cha lam lũ một đời,
Tìm trong xa vắng những lời xa xưa.
Bồng bềnh gió đẩy mây đưa,
Bơ vơ con đứng, bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)
Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:
Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng
Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.
Bởi vì:
Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường
Con đi, mới hiểu tình thương mẹ hiền.
Đời con xuôi ngược bao miền
Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương.
Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này, chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:
Tình thương xuôi chảy một miền
Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu
Con nay hầu mẹ tuổi chiều
Nuôi cha dưỡng mẹ, ít nhiều kể công.
Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:
“Ngày đêm khấn nguyện cầu Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Linh mục Nguyễn Duy đã lột tả.
“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là Thái Sơn cao xa cao xa, là Biển Đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.
Rồi lớn lên, con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa, thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên, con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”
Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày.
Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con.
Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh, mà lại thật thân mật gần gũi, được Chúa dành cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ, thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Amen.
+++++++++
Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái.
Chín chữ cù lao gồm:
1. Sinh: Sanh đẻ.
2. Cúc: Nâng đỡ.
3. Dục: Dạy dỗ.
4. Phủ: Vuốt ve triều mến.
5. Xúc: Cho bú sữa.
6. Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.
7. Cố: Trông nom.
8. Phục: Ôm ấp.
9. Phúc: Bảo vệ.
************************************
Chúa Giêsu chữa người phong cùi.
12/02 – CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch".
Lời Chúa: Mc 1, 40-45
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch".
Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch.
Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".
Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31 – 11,1; Mc 1,40-45
MỤC LỤC
1. Muốn và có thể--‘Manna’--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Chạnh lòng thương--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Bệnh phong tâm hồn--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. “Người chạm vào anh”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Hãy loan báo tin vui--GM. Arthur Tonne
6. Người cùi--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. "Sạch" và "dơ"--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
8. Người anh em phung hủi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
9. Đức Giêsu, Đấng chữa lành mọi bệnh tật--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Lạc quan vui sống--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
11. Người mắc bệnh phong--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
12. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
13. “Người chạnh lòng thương”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
14. Hủi ngoài da, hủi tâm hồn--Anmai, CSsR
15. Phong cùi--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
16. Rất cần sự cảm thông--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
17. “Hãy sống đẹp cho nhau”--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Một vị Thiên Chúa vượt trên lề luật, phong tục--An Phong, OP.
19. Niềm vui tròn đầy--John W. Martens--Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ
20. Giơ tay đụng vào--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
21. Niềm hy vọng--Trầm Thiên Thu
22. Ước vọng--Trầm Thiên Thu
23. Ước muốn--Trầm Thiên Thu
24. Hãy cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ
25. Hãy đem đến cho xã hội chút tình người--Lm Nguyễn Hữu Thy
26. Tôi muốn anh được sạch--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
27. Người mắc bệnh phong hủi--Lm. Anphongsô
28. Chữa người phong cùi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--Radio Veritas Asia
29. Người bị loại trừ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
30. Bệnh phong cùi--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
31. Lòng thương xót vượt qua tất cả--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
32. Ai là người đồng thời với người phong cùi?--‘Mở Ra Những Kho Tàng’
33. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Trần Bình Trọng
34. Một lời cầu nguyện đẹp--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
35. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
36. Niềm vui tăng--Lm. Vũ Đình Tường
37. Chia sẻ niềm vui--Lm. Vũ Đình Tường
38. Giêsu: Đấng chữa lành mọi bệnh tật con người--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
39. Tìm kiếm lương thực nuôi hồn--Lm. Ignatiô Trần Ngà
40. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà
41. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi--Noel Quesson
42. Hãy được lành!--Lm. Mark Link, SJ.
43. Mùa tình yêu--Lm Giuse Đỗ Vân Lực
44. Đức Giêsu chữa người bị phong cùi--JKN
45. Tình thương và bác ái--Lm. Thu Băng
46. Tình thương--Lm. Nguyễn Hữu An
47. Đức Giêsu chữa một người phong hủi--Lm. FX. Vũ Phan Long
48. Hữu hạn và Toàn năng--Lm. Giuse Lê Danh Tường
49. Vâng phục, tín thác và tri ân--Alphonse Marie Trần Bình An
50. Tôi muốn, anh sạch đi!--Alphonse Marie Trần Bình An
51. Chứng phong hủi biến khỏi anh--Lm. Trầm Phúc
52. Chúa thương chữa người bệnh cùi--Hiếu Nguyễn sưu tầm--thanhlinh.net
53. Tại sao người được chữa lành không giữ lời Đức Giêsu căn dặn?--Lm. Giuse Lê Minh Thông
54. Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
55. Người phong cùi được sạch--William Barclay
56. Chữa người phung hủi--Jacques Hervieux
57. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Noel Quesson
58. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa--Yvon Daigneau
59. Thiên Chúa giàu lòng thương xót--Đaminh Phạm Thanh Cao, OP.
60. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
61. Bệnh tật là thông phần đau khổ với Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
62. Vị lương y
63. Phong cùi
64. Phong cùi
65. Bệnh "cùi" tâm hồn và thân xác
66. Chúa Nhật 6 Thường Niên
67. Chúa Nhật 6 Thường Niên
68. Lạy Ngài, nếu Ngài muốn thì Ngài có thể
69. Được lành sạch để hòa nhập lại cộng đoàn
70. Đức Giêsu, Đấng cứu chữa người bất hạnh
71. Niềm tin vào Lòng Thương Xót
72. Loan báo Tin Mừng
73. “Vì loài người chúng tôi”
74. Cử chỉ
75. Lời của Thiên Chúa có sức chữa lành
76. Lạc quan
77. Lòng từ ái
78. Phong cùi
79. Phong cùi
80. Tông đồ người phong
81. Hàn Mặc Tử
82. Sự chấp nhận
83. Chúa Nhật 6 Thường Niên
84. Hãy làm lại lần nữa
85. “Tôi muốn, anh sạch đi!”
86. Hãy sẻ chia nỗi đau của người đồng loại--Huệ Minh
87. Niềm vui của chàng phung cùi, niềm vui của chúng ta--Huệ Minh
1.Muốn và có thể--‘Manna’--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta.
Những thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ:
“Hãy chạm đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của bạn”.
Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ.
Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu.
Đi đâu người ấy cũng phải la to: “Ô uế! ô uế!” (Lv 13,45-46).
Bị cách ly với mọi người,
bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn,
người phong sống mà như chết.
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt.
Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài.
Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực.
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài.
Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý.
Dù rất muốn khỏi bệnh,
nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn.
Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh:
“Nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9,22).
Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh.
Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi.
Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh
đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.
Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: “Tôi muốn.”
Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong
và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh.
Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế.
Bàn tay Ngài đụng vào da thịt anh với các vết thương.
Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế.
Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh,
như chính anh đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.
Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật.
Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường,
được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa.
Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm.
Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi.
Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành.
Còn Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871,
người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành.
Họ không còn bị trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại.
Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong:
những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập,
những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh...
Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình,
vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?
Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”.
2.Chạnh lòng thương--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm.
Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).
Người ấy phải mặc quần áo rách,
để tóc bù xù, che môi trên, phải vừa đi vừa kêu lên:
“Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa.
Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…
Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong
và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh,
người phong phải trình tư tế,
phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,
và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.
Anh dám lại gần Đức Giêsu,
dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,
mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh,
chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.
Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh,
đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,
dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.
Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.
Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.
Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!
Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu
đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở Việt Nam,
ta thấy bóng dáng của các nữ tu.
Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…
Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,
đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ.
Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong,
ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,
và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo Hội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
3.Bệnh phong tâm hồn--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
4.“Người chạm vào anh”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Xuất phát từ một chủ để chung là bệnh phong cùi, bài đọc trích sách Lêvi và bài Tin Mừng Thánh Mác-cô hôm nay nêu lên sự khác biệt giữa giáo huấn của Cựu ước và giáo huấn của Tân ước. Xưa cũng như nay, bệnh cùi là một trong những chứng bệnh nan y. Bệnh nhân không chỉ đau đớn về thể xác, mà còn đau đớn về tinh thần, vì bị mọi người khiếp sợ và xa lánh. Sách Lêvi quy định rõ: những ai bị bệnh này phải trùm đầu, phải sống xa khu dân cư và nếu gặp ai, phải hô lớn tiếng để cho người ta biết mà tránh (Bài đọc I). Nếu những người phong cùi bị kết án là “ô uế” thì quyền năng của Con Thiên Chúa đã làm cho người ấy nên thanh sạch. Qua việc giơ tay chạm vào người bệnh nhân, Chúa Giêsu đã vượt qua mọi định kiến của truyền thống cũng như của quan niệm tôn giáo.
Thánh Mác-cô đã dùng động từ “chạm vào” để diễn tả việc Chúa Giêsu chữa lành người cùi. Chạm tới là chia sẻ, là động viên. Đây vừa là một cử chỉ thân thương gần gũi, vừa là một hành động phục hồi người cùi, từ chỗ bị xa lánh, được tái hoà nhập vào cộng đồng. Cử chỉ “chạm tới” của Chúa Giêsu giúp ta liên hệ tới mầu nhiệm nhập thể. Qua mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã cúi mình xuống để gặp gỡ con người. Ngôi Hai đã khiêm hạ rời bỏ địa vị cao sang để làm người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa trở nên gần gũi con người, chạm tới nỗi đau của họ để chữa lành và giúp họ phục hồi. Chúa Giêsu đã tiếp xúc trực tiếp với những người đau khổ bệnh tật, đồng thời Người truyền cho họ sức mạnh và tình thương. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa chạm tay vào chiếc quan tài của người đã chết, làm cho người thanh niên sống lại và cầm tay trao cho người mẹ đang đau khổ (x. Lc 7,11-18). Sứ mạng thiên sai của Chúa là đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng xã hội và hướng tới phần thưởng đời đời Thiên Chúa dành cho người công chính.
Trong truyền thống Thánh Kinh, bệnh cùi không đơn giản là bệnh tật thể xác, nhưng còn là sự ô uế đối với phụng vụ và đối với cộng đoàn. Họ không được tham dự các buổi hội họp tôn giáo, cũng không được sống chung với những người khác. Vì vậy, tác giả Mác-cô, thay vì nói được chữa lành, thì nói: anh được sạch. Điều đó có nghĩa anh không còn bị coi là ô uế nữa, nhưng đã được thanh sạch nhờ được Chúa chạm tới. Anh cũng được tái hoà nhập vào đời sống cộng đồng như những người bình thường khác. Sau khi chữa cho anh được sạch, Chúa Giêsu bảo anh đi gặp các tư tế để được xác nhận mình không còn bị nhơ uế nữa. Với việc đi trình diện các tư tế, anh được những người có trách nhiệm trong tôn giáo công nhận là thanh sạch. Anh được quyền tham dự các nghi lễ ở Đền thờ và Hội đường. Anh cũng sẽ có một tương lai như biết bao người khác và không bị mọi người xa lánh phân biệt, nhưng trở thành một công dân bình thường. Chúa Giêsu đến trần gian để mời gọi con người hãy đón nhận nhau trong tình huynh đệ, không phân biệt nhơ uế hay thanh sạch, tội lỗi hay thánh thiện, giàu hay nghèo, vì tất cả là đều là anh chị em với nhau.
Thánh Máccô cũng nhấn mạnh đến một hành động của người phong cùi, đó là “đến gặp Chúa Giêsu”. Đối với anh, đến gặp Chúa Giêsu là một hành động bạo dạn và được thúc đẩy bởi lòng tin. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, những người phong cùi không chỉ bị cấm tiếp xúc với người khác, mà còn phải hô lớn tiếng “ô uế! ô uế!” mỗi khi gặp người đi ngang qua. Để đến được với Chúa Giêsu, người cùi cũng phải vượt qua mọi quan niệm khắt khe, mọi rào cản của phong tục tập quán. Lòng tin mạnh mẽ đã giúp anh đến với Chúa Giêsu, vì anh tin rằng Người là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự. Thay vì hô lên “ô uế”, người này lại xin Chúa chữa mình được khỏi bệnh và trở nên thanh sạch.
Hành động “đến gặp Chúa Giêsu” của người cùi là mời gọi thôi thúc chúng ta hãy mạnh dạn đến với Chúa. Có nhiều người vì lý do này hay lý do khác ngại ngùng không muốn đến với Chúa và như thế, càng ngày họ càng xao lãng Đức tin. Hãy dến với Chúa, dù còn nhiều khiếm khuyết bất xứng. Chúa Giêsu vẫn đang chờ đợi chúng ta đến với Người để ban ơn phúc và dẫn dắt chỉ lối cho chúng ta trên đường đời. Người phong cùi là có một quyết định quan trọng là đến với Chúa, và quyết định này đã thay đổi cuộc đời, đem lại cho anh một tương lai. Chúng ta cũng vậy, nếu dứt khoát trút bỏ những yếu hèn tội lỗi để về với Chúa, chúng ta sẽ được Người chạm tới và ban sức mạnh.
Người phong cùi, một khi được chữa lành đã trở thành người loan báo Tin Mừng. Anh muốn hét to lên niềm vui được khỏi bệnh. Anh như người đã chết mà được cứu sống, đã bị loại trừ khỏi xã hội mà nay được tái hòa nhập vào cộng đồng những người thân. Anh muốn nói cho mọi người biết Đức Giêsu là vị Ngôn sứ, là Đấng Thiên sai và là Thiên Chúa quyền năng. Noi gương người phong cùi, mỗi chúng ta, một khi đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, cũng hãy là những chứng nhân của lòng thương xót Chúa. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta “hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”. Thánh nhân cũng cảnh báo chúng ta đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai, nhưng hãy nên gương sáng trong mọi hoàn cảnh. Thánh nhân cũng tự hào vì được trở nên giống Chúa Giêsu và mời gọi mọi người hãy làm như mình (Bài đọc II).
Trong những ngày đầu xuân Tân Sửu, theo truyền thống, chúng ta sum họp gia đình, bạn bè để cầu chúc cho nhau những điều tốt lành. Tuy vậy, nếu có những người vui niềm vui sum họp, thì vẫn còn những người đang tìm một mái ấm hoặc đang khao khát tình thương. Qua việc Chúa chữa người phong cùi, chúng ta nhận được bài giáo huấn quan tâm chia sẻ với những người bất hạnh. Những cử chỉ bác ái khi tết đến xuân về là một trong những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, nhất là khi những chia sẻ ấy được thực hiện trong tinh thần bác ái Kitô giáo. Khi quảng đại chia sẻ tinh thần vật chất cho những người kém may mắn, mùa xuân sẽ đẹp hơn, nắng xuân sẽ ấm áp hơn, bởi lẽ tình Chúa tình người đang được nhân rộng nơi cuộc sống hôm nay.
5.Hãy loan báo tin vui--GM. Arthur Tonne
Người cha của một gia đình ở Idaho mới trở thành Kitô hữu. Ông nói về Chúa Kitô mỗi lần có dịp. Ngày kia, người láng giềng vô thần thử ông với một câu hỏi: “Thực sự anh có biết gì về Đức Kitô không?”. Người đạo mới trả lời: “Có, tôi biết”. Người vô thần hỏi: “Người sinh ra bao giờ?”. Người đạo mới không biết chắc. Tới câu hỏi khác: “Người chết lúc Người bao nhiêu tuổi?”. Một lần nữa, người đạo mới của Đức Kitô không trả lời được. Quả thực câu trả lời của ông quá yếu không xác thực đối với các câu hỏi của người lối xóm. Cuối cùng người vô thần la lên “Coi, anh chẳng biết gì về Đức Kitô, phải không?”. Người đạo mới trả lời quả quyết: “Tôi biết ít lắm. Nhưng tôi biết điều này: hai năm trước đây, tôi nằm đường, nằm chợ, tôi say sưa, tôi mắc nợ ngập đầu. Hai năm trước đây vợ tôi ít khi mỉm cười. Thấy bóng tôi các con tôi sợ hãi. Nhưng ngày nay, tôi là một người đàn ông tiết độ. Tôi sạch nợ và còn đủ tiền để mua một căn nhà mới. Ngày nay, vợ tôi thường tươi cười, các con tôi chạy lại đón chào tôi. Chúa Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là điều tôi biết”.
Rất giống người phong cùi trong Tin Mừng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô; nhưng anh biết một điều Đức Kitô đã chữa lành bệnh. Anh ra đi và loan truyền tin ấy. Mặc dù Đức Giêsu đã bảo anh: “Đừng nói với ai cả”.
Người phong cùi khỏi bệnh nói với mọi người. Đó là ý tưởng của ngày hôm nay. Bạn và tôi phải nói cho mọi người những gì mà Đức Giêsu đã làm cho mỗi người chúng ta. Cử chỉ Chúa làm cho người phong cùi cảm động và đáng chú ý: “Người giang tay đụng tới anh… và bỗng nhiên bệnh cùi biến mất”. Đức Giêsu còn giang tay và đụng tới bạn và tôi bằng nhiều cách.
Ví dụ: Đức Kitô đụng vào chúng ta bằng bí tích Rửa Tội, và làm chúng ta nên anh chị em của Người. Người đụng vào chúng ta với dầu Thêm Sức để ban cho chúng ta Thánh Linh Người đã hứa. Trong phép Giải Tội, Đức Kitô đụng tới chúng ta và chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Khi rước lễ, phép lạ hơn mọi phép lạ, Đức Giêsu không chỉ đụng tới chúng ta, mà còn đến và sống trong tâm hồn chúng ta. Khi Xức Dầu Bệnh Nhân, Người đụng tới thân thể yếu liệt và linh hồn run sợ của chúng ta, Người chữa lành tất cả. Người giang tay cho bạn là cô dâu, là chú rể để thánh hóa sự kết hợp hôn phối của bạn.
Đức Giêsu đặt tay trên tôi trong nghi lễ truyền chức để ban cho tôi quyền làm cho bạn nhiều việc Người đã làm. Chúng ta, người công giáo, như người phong cùi khỏi bệnh phải nói cho người khác những gì mà Đức Kitô đã làm cho chúng ta.
Chúng ta có thể dùng những lời của Đức Trinh Nữ Maria trong bài ca tán tụng Magnificat: “Chúa là Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi muôn việc lớn lao”.
Việc của tôi, một linh mục là nói lên những gì Đức Kitô đã làm cho chúng ta. Bạn là cha, là mẹ phải nói cho con em bạn những gì Đức Kitô đã làm cho bạn và cho chúng. Bạn là giáo lý viên cũng làm như vậy. Tất cả chúng ta phải nói cho những người tin cũng như không tin bằng lời nói, bằng sách báo công giáo, những gì Thầy Chí Thánh đã làm cho chúng ta. Đặc biệt, những gì Người làm trong và qua Thánh Lễ: “Người đổ máu ra cho mọi người”.
Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng chúng ta biết Người đã làm một sự thay đổi lớn - chúng ta được tốt hơn.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
6.Người cùi--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong chuyến đi từ Sàigòn đến Quy Nhơn năm 1960, tôi giữ mãi một kỷ niệm, không phải kỷ niệm thăm bến cảng, tháp chàm Chiêm Thành hay tường thành Đế đô Quang Trung, nhưng là một làng cùi. Đi đầu đoàn là Giám Mục, Linh mục rồi đến chủng sinh, phải vượt qua mấy ngọn đồi hoang vắng mới đến làng cùi. Bước tới cổng làng, mọi người đều xúm quanh một ngôi mộ của một người cùi nổi tiếng: thi sĩ thời danh Hàn Mặc Tử. Một người cùi đã biến những rung cảm trong sầu khổ thành những vần thơ tuyệt diệu, óng mượt như tơ vàng, nhẹ nhàng như hơi thở, run run như giây đàn. Từ cổng làng vào đến trại, ai nấy đều im lặng, một thứ im lặng rờn rợn sởn gai ốc, vì những ý nghĩ đen tối ghê tởm về bệnh cùi đang lởn vởn trong đầu óc.
Họ đó, người cùi đó. Đó là những dì phước mặc áo trắng đi đầu hàng những người cùi ra đón phái đoàn. Họ vui vẻ, tươi cười, không một chút lo ngại, không một chút mặc cảm tủi hổ về thân phận của mình.
Chúng tôi bỡ ngỡ, ngó qua ngó lại. Một đám trẻ cùi đang xích lại gần chúng tôi. Chúng tôi ái ngại nhìn chúng từ đầu đến chân. Con những người cùi đó. Họ ở trong những căn nhà xây nho nhỏ, sạch sẽ dưới những hàng dừa mát rợi. Nhưng tội nghiệp biết bao! Họ cụt tai, rụng mũi, đục mắt, mất răng, xún lợi, hở hàm, trông như những chiếc đầu lâu cải mả. Chân tay họ như không còn ngón nào. Họ bị sống xa xã hội như bị lưu đầy trong hoang địa rừng rú. Chỉ có mươi bà phước đang sống lăn lộn với họ. Đó là nguồn ủi an duy nhất của họ ngoài niềm tin ra.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ một mình Người đã thấu nỗi lòng sầu thảm của người cùi. Người đã đến với họ, thương yêu an ủi họ, tiếp đón họ và cứu chữa họ lành mạnh cả thể xác tâm hồn. Người đã quý mến họ hơn tất cả châu báu thế gian … vì họ là quý tử của nước Trời.
Thế gian xưa cũng như nay, Do thái cũng như Hy lạp, phương Đông cũng như phương Tây đều ghê tởm xua đuổi họ. Nhưng chỗ nào có tiền của, có bụi vàng, có địa vị, có thú vui, thế gian xô nhau đến luồn cúi, lăn lộn, đào bới, moi móc đến bỏ mạng. Thế gian quý vật chất hơn quý người.
May thay, Hội thánh Chúa luôn luôn theo chân Đấng Cứu Thế phục vụ con người, dù đó là ai, nghèo đói, bệnh tật, khốn cùng, da vàng hay da đen, tự do hay nô lệ đều được con cái Hội thánh Chúa, như cha Đamiêng, Đức Giám mục Catxe (Cassaigne) đã phục vụ người cùi cho đến hơi thở cuối cùng. Hàng trăm hàng ngàn tu sĩ đã săn sóc người cùi như anh em một nhà.
Còn chúng ta, chúng ta được phúc là những người lành mạnh, được sống chung với gia đình, sống chung với nhau, được tự do đi đây đó, sao không biết cảm tạ Thiên Chúa? Sao không biết sống hòa thuận ấm cúng thương yêu nhau? Sao không biết giúp đỡ nhau, đưa Tin mừng cho những người nghèo khổ, an ủi kẻ đau yếu, tật nguyền?
Xin cho chúng ta biết luôn tạ ơn Chúa trong việc thương giúp những người bé mọn khổ đau.
7."Sạch" và "dơ"--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa; có khi chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao? Lời Chúa hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng ta sống theo lời Ngài dạy.
II. Gợi ý sám hối
- Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.
- Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu chuyện khiếm nhã.
- Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống ích kỷ và giận hờn ganh ghét.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Lv 13, 1-2. 45-46)
Đoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên gọi là "Luật về sự tinh sạch". Đoạn này đề cập riêng về bệnh cùi. Nhưng quan niệm về "bệnh cùi" không giống với quan niệm ngày nay:
- Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu hoặc bóng láng) đều bị gọi là "cùi". Người ta còn nghĩ rằng bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc bệnh ấy phải ở riêng.
- Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn giáo: trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này "nếu" khỏi bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là một chữ "nếu" to tướng, vì người ta đều coi cùi là một chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa ra tay cứu chữa.
Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và Đức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do Thiên Chúa ban.
2. Đáp ca (Tv 31)
Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của người được tha thứ.
3. Tin Mừng (Mc 1, 40-45)
Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người Do Thái coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi; b/ chứng bệnh rất hay lây; c/ có liên hệ đến tội lỗi.
Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Đức Giêsu "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Điều này chứng tỏ anh tin rằng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy: chứng tỏ Ngài không sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.
Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng: chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (1 Cr 10, 31--11, 1)
Đoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng chung một vấn đề, đó là "sạch và dơ". Người Do Thái thời thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn "sạch" và thức ăn "dơ". Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Điều quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Thứ bệnh "cùi" nguy hiểm hơn
Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.
Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả: Đó là một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế, lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi người xa lánh.
Tội "cùi" ấy là gì? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan truyền những ý nghĩ xấu ấy.
Ebba de Pauli trong quyển "Vị ẩn sĩ" đã mô tả một người cùi như thế: Đó là một bà trung lưu và có thể nói là "đạo đức". Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận:
- Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn độc!
- Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc?
- Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan... Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn.
- Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao.
Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp: từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành; khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.
Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.
* 2. Những "con hủi"
Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.
Có nhiều người tuy không "cùi" nhưng vẫn bị coi là "con hủi" do bị mọi người khinh tởm tránh xa.
Nhưng Đức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi với những "con hủi" ấy, chẳng hạn những người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp v. v.
* 3. Nỗi khổ bị xua đuổi
Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.
Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.
Người cùi đến với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này là một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.
Điểm hay trong chuyện này không phải là việc Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.
Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v. v. Đó là những mũi kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor Mc Carthy)
* 4. Bệnh phong cùi
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: "Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy".
Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.
*
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên "ô uế" để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: "Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch" (Mc. 1, 40).
Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh" (Mc. 1, 41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M. Carré có nói: "Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông". Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: "Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ".
Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: "In God we trust" (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói: "Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa".
*
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chạm vào
Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác.
Thà cho người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm tới mình.
Đức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không ngại chạm vào.
Ngài chạm vào những người cùi, những người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người chết.
Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui mừng sung sướng.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu dàng. (Flor Mc Carthy)
* 6. Chúa chạm vào
Người phong cùi nói với Đức Giêsu: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Đức Giêsu chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo "Tôi muốn, anh hãy được sạch"
Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng:
+ Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều "cùi" vì ai cũng có tội.
+ "Nếu Ngài muốn": Đức Giêsu có muốn cho chúng ta hết "cùi" thiêng liêng không? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì Đức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi: "Tôi muốn"
+ Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Đức Giêsu đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Đức Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.
7. Ý nghĩa việc làm của Đức Giêsu
Các sách Tin Mừng trình bày Đức Giêsu luôn làm hai việc: chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, Đức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao giảng. Ta cũng có thể nói: chữa bệnh là một cách rao giảng Tin Mừng.
Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin Mừng: "Đi khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó... và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã không ngại đụng chạm đến người cùi để chữa lành và tỏ lòng yêu thương họ. Chúng ta xin Đức Giêsu thương chữa lành cho mọi bệnh tật phần hồn và phần xác cho chúng ta:
1. Trong Hội thánh có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng là sống trong tình trạng tội nặng / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ sớm chạy đến tòa cáo giải để được lành sạch.
2. Trên thế giới có đủ các thứ bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết quan tâm để mọi người dân được chữa bệnh cả phần xác lẫn phần hồn.
3. Ngày nay ở khắp nơi có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo không thể chữa được như ung thư, sida / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ luôn được nhiều người yêu thương và ủi an.
4. Trong xứ đạo chúng ta có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng mà không ý thức và không muốn chữa lành / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ gặp dịp để ăn năn sám hối và chạy đến với Chúa để được chữa lành.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn luôn muốn chữa lành mọi bệnh tật phần hồn phần xác cho chúng con, Xin cho chúng con biết tin tưởng và tìm đến với Chúa, để Chúa chữa lành cho chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Như những đứa con bệnh hoạn tật nguyền vì những chứng bệnh phần hồn, phần xác, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh sau đây: "Lạy Cha chúng con ở trên trời..."
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ làm cho tâm hồn chúng con ra nhơ uế, và sự dữ tách chúng con ra khỏi nếp sống cộng đoàn yêu thương, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Nhờ linh dược của Thánh Thể, mọi bệnh tật nhơ uế trong tâm hồn chúng ta đã được sạch. Chúng ta hãy ra về và giúp cho anh chị em chúng ta cũng được lành sạch như vậy.
8.Người anh em phung hủi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Bệnh phung hủi là một chứng bệnh ghê sợ nhất và cũng khó chữa. Hiện nay trên thế giới có chừng 15 triệu nạn nhân. Ở Việt nam chúng ta cũng chẳng thiếu gì người bị phung hủi. Hiện nay có 21 trại phong cùi. Một trong những trại phung nổi tiếng mà thi sĩ Hàn mạc Tử đã phải ở đó và ngôi mộ của thi sĩ cũng còn ở gần đó: trại phung Qui hòa thuộc tỉnh Bình định.
Đối với xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, người phung hủi bị coi như là người có tội bị Thiên Chúa phạt, nên họ bị kỳ thị triệt để, bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, phải sống riêng rẽ ở nơi hẻo lánh, xa mọi người, sống cô đơn, không được tham dự các lễ nghi. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa khỏi, mới cứu sống được.
Ngoài bệnh phung cùi thể xác, còn một thứ bệnh khác là bệnh phung cùi thiêng liêng. Khi phạm tội trọng là người ta đã trở nên phung cùi trước mặt Chúa. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho linh hồn họ khỏi bệnh cùi. Hãy đến với toà cáo giải.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Lv 13,1-2.45-46
Sách Lêvi trong Kinh thánh dùng hai chương nói về căn bệnh này, không phải về phương diện thể lý cho bằng cách đối xử với nạn nhân trong cộng đoàn. Sách Luật không đề cập đến cách điều trị, vì đó không phải là mục tiêu mà trước tiên nhắm đến phương thế khám phá những triệu chứng, để trục xuất người mắc bệnh ra khỏi cộng đoàn.
Luật Maisen đòi buộc người mắc bệnh phung cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi gặp người nào lành sạch thì phải hô lên: ”Ô uế, ô uế”. Vì là người bị cho là ô uế, tội lỗi nên phải sống riêng rẽ, sống bên ngoài trại.
+ Bài đọc 2: 1Cr 10,31-11,1
Đây là phần kết luận của đoạn kết về vấn đề ăn thịt cúng. Tuy thánh Phaolô không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cùng chung một vấn đề là “sạch và dơ”. Người Do thái luôn chú trọng đến đồ ăn sạch và dơ, họ nhất quyết phải lánh xa những đồ ăn dơ. Nhưng thánh Phaolô đã đả phá quan niệm ấy, ngài cho rằng những gì Thiên Chúa đã dựng nên cho con người thì đều sạch cả, nó chỉ trở nên dơ do lòng người mà ra. Vì thế Ngài kết luận: đừng chú trọng phân biệt đồ ăn sạch hay dơ mà điều cần nhất là khi ăn khi uống, dù khi bất cứ làm việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
+ Bài Tin mừng: Mc 1, 40-45
Cả ba sách Phúc âm nhất lãm đều nhắc đến việc Đức Giêsu chữa lành người phung hủi, ở đây có lẽ là một trong những phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu. Đó là một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất cho thấy thời Thiên sai đã đến. Đối với người Do thái, bệnh phung cùi là bệnh nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi. Chứng bệnh này rất hay lây và có liên hệ đến tội lỗi. Người phung hủi là người bị loại ra khỏi đời sống xã hội Do thái: khi chữa lành, Đức Giêsu đã phục hồi phẩm giá cho anh và cáo giác việc cấm đoán anh ta cho đến lúc đó.
Việc chữa bệnh này còn nói lên lòng thương xót của Chúa đối với nạn nhân; đồng thời đả phá những luật lệ cấm kỵ làm thương tổn đến phẩm giá con người. Phép lạ này cũng nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Đừng trở thành người phung cùi
I. BỆNH PHUNG HỦI THỜI ĐỨC GIÊSU
1. Luật Do thái về bệnh phung cùi
Theo luật Do thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn.
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống nghề nghiệp và tất cả mọi người thân thương quen biết. Một lần vĩnh biệt như là đã chết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và nỗi đau lòng khổ tâm vì bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi cộng đồng xã hội, phải nói thật là có sức tàn phá khủng khiếp. Hơn nữa, người bệnh bị mang danh là người tội lỗi bị Thiên Chúa phạt.
2. Đau đớn thể xác
Có những triệu chứng để xem biết ai đã mắc chứng bệnh này. Nó có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè... Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết.
Cũng có thể bắt đầu bằng tình trạng mất cảm giác ở một vài phần thân thể, dây thần kinh bị nhiễm trùng, gân cốt co lại làm cho hai bàn tay trông giống như móng thú vật. Tiếp theo là tay chân bị lở loét, ngón tay ngón chân rụng dần cho đến khi cả hai bàn tay bàn chân rớt hẳn ra. Trường hợp này có thể kéo dài từ 20 đến 30 năm. Đó là cái chết tiệm tiến kinh khủng làm cho con người chết từng phần một.
3. Đau khổ tinh thần
Đau khổ tinh thần còn lớn hơn đau khổ về thể xác. Theo sách Lêvi, người phung cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm:”Người mắc bệnh phung hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên:”Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là là một nơi bên ngoài trại
(Lv 13, 45-46). Nếu gặp người mạnh khỏe ngoài đường, họ phải hô hoán lên cho người ta biết là mình mắc bệnh, như là dấu hiệu đề phòng cho người khác. Ngoài ra, người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và còn bị coi là bị Chúa phạt.
Thời trung cổ, người nào mắc bệnh phung cùi thì thầy cả mặc áo lễ, cầm thánh giá đưa người bệnh vào nhà thờ và cử hành lễ an táng.
Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu ở trại cùi Qui hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.
Đọc chuyện cha Đa-miêng, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức giám mục ở đảo Hawai giới thiệu cha Đa-miêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đa-miêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Đa-miêng là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau:”Không”. Dần dần cha Đa-miêng hoà đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.
II. ĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH PHUNG CÙI
Người Do thái rất sợ người phung cùi vì họ là người ô uế phải tránh xa. Không ai được phép chào hỏi một người phung ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phung hủi đi qua.
Vì có những sự kỳ thị và cấm kỵ quá mức như vậy, chúng ta cần xem thái độ của người phung và của Đức Giêsu trong phép lạ chữa bệnh này.
1. Thái độ của người phung cùi
Theo nguyên tắc, người mắc mệnh phung không được đến gần người lành. Đây là một cấm kỵ. Nhưng người phung hủi đây bỏ mọi mặc cảm đến với một lòng tin tưởng: anh chắc chắn nếu Chúa muốn Ngài có thể chữa lành. Nếu không tin, anh đã không dám làm thế vì không một người phung hủi nào dám đến gần một vị bác sĩ vì biết sẽ bị ném đá đuổi đi. Nhưng nguời này đã đến với Đức Giêsu. Anh hoàn toàn tin tưởng Ngài sẵn sàng tiếp đón một người bị mọi người xua đuổi. Lòng tin tưởng đã khiến anh liều mình bị ném đá khi đến gần Đức Giêsu vì đã vi phạm luật.
Anh còn đến với Chúa với tấm lòng khiêm cung khi anh ta nói:”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được lành”. Nói như thế, anh ta dường như muốn nói với Đức Giêsu rằng:”Tôi biết mình chẳng ra gì, mọi người xa lánh, khinh dể tôi, tôi biết tôi không có quyền gì kêu cầu Ngài, chỉ mong Ngài đoái thương đến cảnh cùng khốn của tôi”. Chính lòng khiêm nhường nhận biết sự bất xứng và nhu cầu của mình, người bệnh tìm đến với Đức Giêsu.
2. Thái độ của Đức Giêsu
Tin mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu rất xúc động cảm thông khi gặp thấy người cùi. Thấy người phung cùi tiến đến, Chúa bầy tỏ lòng thương xót ngay. Dầu luật pháp không cho phép đụng đến người phung hủi, chỉ đến gần 2 mét đã bị ô uế rồi, thế mà Đức Giêsu giơ tay ra đụng đến anh ta. Đối với Đức Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một bó buộc duy nhất là luật yêu thương. Đây là lần duy nhất trong số những người tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn quan tâm săn sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn.
III. BỆNH PHUNG HỦI THIÊNG LIÊNG
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thế xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.
Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phung cùi đã tìm đến Chúa để xin được chữa lành. Người cùi đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu Chúa. Cái điều mà tội nhân cần có là đức tin và lòng trông cậy của người cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến quyền năng và lòng thương xót của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh và có tội. Người không nhận mình là có bệnh và có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.
Khi phạm tội trọng, đó là lúc linh hồn bị bệnh phong cùi, linh hôn còn sống mà đã như chết trước mặt Chúa, chỉ có phép giải tội mới làm cho linh hồn được khỏi bệnh phong, mới làm cho linh hồn được trong sạch và được sống lại. Thiên Chúa không trực tiếp chữa bệnh phong linh hồn nhưng Ngài nhờ tay Linh mục để sửa chữa và làm cho sống lại.
Truyện: Pho tượng biết hát.
Nơi đồng Memnon, chỗ thành Thèbes cũ, người ta đựng lên hai tượng đá mạnh mẽ, cao độ 20 thước, tượng hai ông vua, khắc trong một thứ đá bở, ngồi đó từ 20 thế kỷ trước Chúa giáng sinh. Chính vua Pharao Amenhotep III đã dựng hai tượng ấy. Một trong” hai cây cột Memnon này”(người đời xưa gọi hai tượng ấy là cột trụ) nứt ra hồi động đất năm 27 trước Chúa giáng sinh. Vừa khi mặt trời mới mọc soi bức tượng, tượng đã ra nóng và bắt đầu rên siết, bắt đầu kêu la cách lạ kỳ, đó là bức tượng Memnon “hát”.
Trong linh hồn ta cũng vậy, sự sống bắt đầu hát, bắt đầu rên siết, bắt đầu reo vui và khoái chí sau khi xưng tội cho tử tế, chính là lúc mức ánh sáng mặt trời đầu hết, lúc sự yêu mến hay thiêu đốt của Chúa Giêsu, đổ xuống chan chứa trong linh hồn ta khi Thầy Cả ban phép giải tội. Chúa Giêsu vào ở lại trong linh hồn ta tràn trề sự vui, và tiếp theo sau Chúa Giêsu một mãnh lực như đồng như sắt chỗi dậy: đó là ý muốn quyết định bắt đầu một cuộc đời mới mẻ, đẹp hơn và thanh sạch hơn. Phải làm thử đã thì mới nghiệm biết phép lạ Chúa làm trong linh hồn ở tòa giải tội. Bởi vì sự dựng nên thế giới là điều ít cao siêu hơn là sự linh hồn chết được sống lại (GM Toth – Phêrô Thông, Tôn giáo với thanh niên, 1949, tr 235).
IV. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NẠN NHÂN ĐAU KHỔ
Đứng trước những nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị... Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử...chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.
Thái độ tiếp theo của chúng ta là phải yêu thương và tôn trọng người đau khổ, nhất là những người phong cùi về thể xác cũng như linh hồn. Xử đối tốt với người đau khổ là món quà quí giá chúng ta tặng cho họ, không gì làm cho họ sung sướng hơn. Người ta thường nói:
- Của cho không qúi bằng cách cho.
- Lời chào cao hơn mâm cỗ.
- Vật khinh nhưng hình trọng.
(Tục ngữ)
Chúa Giêsu luôn tiếp đón mọi người một cách lịch sự và yêu thương, không bao giờ Ngài có thái độ cứng rắn hay khinh miệt người đau khổ và tội lỗi. Có biết bao gương tốt đẹp của Chúa Giêsu đã được ghi trong sách Tin Mừng, tất cả đều nói lên tình thương và tôn trọng mọi người, không phân biệt sang hèn hay màu da ngôn ngữ, kẻ lành hay người dữ.
Truyện: Léon Tolstoi và người hành khất.
Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi áo này sang túi áo khác mà không kiếm thấy đồng nào. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau: “Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi. Vì hôm nay tôi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi! ” Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói: “Tôi thật không biết phải cảm ơn ông thế nào cho xứng. Vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà qúi báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là “Người anh em”.
9.Đức Giêsu, Đấng chữa lành mọi bệnh tật--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu.
1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều
Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh này.
Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại.
Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không được hạnh phúc.
2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện
Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi bệnh “khủng khiếp” này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi!”
Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào anh và nói: “dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi.” Đức Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết con người lại với nhau và với Thiên Chúa.
3) Đức Giêsu không chỉ là một con người
Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai nữa. Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được, thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân tướng của Ngài mà thôi.
Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, nhưng bằng một lời: “tôi muốn chứ, anh khỏi đi.” Cách chữa bệnh bằng lời của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó từ Ngài mà ra.
Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng “từ trên.”
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ?
2. Thánh Phaolô viết: “vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều này không? bằng cách nào?
10.Lạc quan vui sống--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắc khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Mô-sê được ghi lại trong chương 13 sách Lê-vi, quy định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: "dơ, dơ" để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.
Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.
Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.
Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài dặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: "Tôi muốn, anh hãy được sạch".
Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp trả bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.
Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.
Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị... có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử... chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.
Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.
11.Người mắc bệnh phong--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng…Một hôm, đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khỏe mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh “Tông đồ người phong”.
Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng không?”. Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha…Cha hỏi đức giám mục: “Thưa đức cha, họ làm gì vậy?”. Đức cha trả lời: “Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau: “Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá”.
Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: “Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?”, cô cháu trả lời: “Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy”. Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa? mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn...anh chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông hoặc kêu lên “dơ, dơ” để mọi người biết mà tránh xa.. Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.
Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin: “Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chúng ta hãy để ý câu anh nói “Nếu Ngài muốn”, anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.
Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói “Tôi muốn, anh sạch đi” vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
12.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm B có chung một chủ đề: sự thanh sạch và sự ô uế.
Lv 13: 1-2, 44-46
Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy nỗi đau khổ mà người bị bệnh phong hủi phải gánh chịu như thế nào. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.
1Cr 10: 31-11: 1
Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô cho thấy sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề thanh sạch và ô uế như những lệnh cấm thức ăn. Bởi lẽ Chúa Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.
Mc 1: 40-45
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su không ngại chạm đến người phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử những tội nhân như vậy. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi.
BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 44-46).
Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư hay sách Luật (To-ra). Theo truyền thống, Ngũ Thư nhận được nguồn gợi hứng lên đến tận ông Mô-sê.
Sách Lê-vi là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì những tư tế đều thuộc chi tộc Lê-vi. Xưa kia, chi tộc Lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy Lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành (Lc 10: 31-32).
1. Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:
Bộ luật tư tế nầy dành chương 13 cho “luật thanh sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố, làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai.
Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới, đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!” để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.
2. Nỗi khốn cùng về phương diện tinh thần:
Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn giáo cổ xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẻ với ý tưởng thánh thiêng. Dân Ít-ra-en cốt yếu là một cộng đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng vụ.
Bệnh phong hủi gợi ra không những sự ghê tởm về mặt thể lý, nhưng còn một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy định đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy đến với thầy tư tế”.
Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, “đồ bỏ đi”, “kẻ bị khai trừ”, những người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, “Người Tôi Trung của Đức Chúa” được mô tả như một người phong hủi, vì Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người (x. Is 53: 3).
Đó là thân phận bi thương cùng cực của những người phong hủi được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da thịt mình; nhưng cả về mặt xã hội: vì là chứng bệnh truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; lẫn về mặt tinh thần: vì được coi là những người tội lỗi, bị khai trừ khỏi đời sống phụng vụ và không được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)
Đoạn trích thư thánh Phao-lô nầy làm chứng cho một cuộc cách mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn Thiên Chúa, vì mọi thức ăn đều do Thiên Chúa ban để con người hưởng dùng. Thêm nữa, không có hành động nào là vô tình. Tất cả những gì chúng ta làm là để tôn vinh Thiên Chúa.
1. Vấn đề ăn thịt cúng:
Sách Lê-vi đưa ra nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân Ít-ra-en phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không còn bận lòng về vấn đề này nữa. Tuy nhiên có một vấn đề khác được đặt ra cho họ, nhưng cũng cho những người Ki-tô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt mà lương dân dâng cúng cho các thần linh của họ không?
2. Giải pháp của thánh Phao-lô:
Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi sáng.
“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật, người Ki-tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn nào, vì thế họ có thể gây nên gương xấu. Thế nên cần phải thận trọng khi ăn khi uống.
Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này, chúng ta biết rằng thánh nhân thường đẩy cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những mối quan tâm. Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).
Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh nhân triển khai lời dạy của mình một cách tế nhị như sau: nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em: “Đây là của cúng”, thì anh em đừng ăn, không phải anh em không được phép ăn, nhưng để tránh gây gương xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng đừng gây gương xấu cho người ấy. Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với mối quan tâm duy nhất, đó là “cứu độ người khác”. Đây là luật vàng của Đức Ái.
TIN MỪNG (Mc 1: 40-45)
Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su khắp miền Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” kèm theo, đặc biệt việc chữa lành bệnh hoạn tật nguyền. Trong đoạn văn nầy, Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi.
Bài Đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương cùng cực mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người phong hủi bày tỏ sự đồng cảm sâu xa của Ngài, đồng thời cũng cho thấy quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.
1. Vượt qua Lề Luật:
Trước hoàn cảnh đáng thương của một người phong hủi bị xem là đồ ô uế và bị cách ly khỏi xã hội và tôn giáo, không ai dám đến gần, Đức Giê-su “chạnh lòng thương”. Đây là diễn ngữ mà Tân Ước thường dành riêng cho Đức Giê-su để diễn tả sự đồng cảm tận đáy lòng đến mức Ngài phải ra tay hành động, không thể khoanh tay đứng nhìn, như Đức Giê-su “chạnh lòng thương” một bà góa có người con trai một qua đời (Lc 7: 13) hay Đức Giê-su “chạnh lòng thương” hai người mù tại Giê-ri-cô (Mt 20: 34).
Thật ra, nhiều lần Ngài để lộ mối quan tâm của Ngài đối với những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với những môn đệ được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).
Đức Giê-su không ngại vượt lên trên các tập tục và các quy định của Lề Luật khi giơ tay chạm đến người phong hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra: điều làm cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong, tức là những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).
2. Tuân thủ Lề Luật:
Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống cộng đoàn sau khi chứng thực anh khỏi bệnh và chu toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định.
Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo anh cách nghiêm khắc: “Coi chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta lại gặp thấy ở nơi Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự cuồng nhiệt của đám đông làm phương hại đến sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, vì người phong hủi đã không tuân giữ lệnh im lặng nầy, nên “Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế niềm vui được tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?
3. Bệnh phong hủi của tâm hồn:
Thật ra, Đức Giê-su đối xử người phong hủi như thế nào, thì Ngài cũng đối xử những người tội lỗi cũng như vậy. Ngài không ngần ngại giao tiếp với họ. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ tai tiếng đụng chạm đến mình (Lc 7: 38), và thậm chí Ngài còn đồng bàn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi (Lc 15: 1-3). Như vậy, Ngài bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội lỗi của chúng ta, Ngài không muốn khai trừ chúng ta, ngược lại Ngài công bố: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9: 12; Mc 2: 17).
13.“Người chạnh lòng thương”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Người mắc bệnh phong
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta hình dung ra một người mắc bệnh phong và để cho những cảm xúc tự nhiên của chúng ta xuất hiện (ghê người, không muốn nhìn hay tiếp cận, cảm giác buồn nôn…). Chắc chắn trong chúng ta, đã có những người nhìn thấy và hơn nữa đi thăm hỏi những người phong; nếu không, chúng ta có lẽ đã có lần nhìn thấy người bệnh phong trong phim ảnh, chẳng hạn trong phim Ben Hur.
a. Đau khổ thể lý
Bệnh phong là một những thứ bệnh khủng khiếp nhất mà loài người chúng ta mắc phải: da thịt người mắc bệnh lở loét; khi bị nặng, vết thương sẽ lõm vào da thịt; tình trạng mất cảm giác sẽ xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể; sau đó các bắp thịt tiêu đi; nếu ở giai đoạn bị nặng, các ngón tay và ngón chân sẽ rụng dần.
Chúng ta hãy cảm thông và cầu nguyện cho những người bệnh phong, và nếu có thể, chúng ta hãy giúp đỡ san sẻ. Bởi vì chính chúng ta là những người được nâng đỡ trước tiên khi chúng ta nghĩ tới những người cùng khổ. Thật vậy, khi liên đối với người cùng khổ, chúng ta sẽ tương đối hóa những nỗi khổ của chúng ta, chúng ta thấy nhẹ nhàng hơn, chúng ta có thể ra khỏi mình để hướng về những người bất hạnh hơn; và năng động này sẽ làm cho chúng ta bình an hơn để đảm nhận thân phận của mình trong niềm hi vọng.
b. Đau khổ tinh thần
Chúng ta vừa nói đến sự đau đớn tột cùng trong thân xác; nhưng người bệnh phong còn chịu một sự đau khổ còn lớn hơn nữa là bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường, khỏi nhà của mình, khỏi những người thân yêu, và có khi còn bị bỏ rơi luôn, không được ai nhìn nhận nữa, như Lề Luật, trong bài đọc thứ nhất, trích sách Lê-vi, truyền lệnh:
Người mắc bệnh phong phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.
(Lv 13, 46)
Như thế, người bị bệnh vừa đau khổ trong thân xác và vừa đau khổ về tinh thần, vì thiếu tình thương và sự liên đới.
c. Đau khổ thiêng liêng
Vẫn chưa hết, theo quan niệm của Do thái giáo, bệnh phong hủi là hình phạt tiêu biểu nhất của Thiên Chúa đối với người có tội, như sách Lê-vi nói:
Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: Ô uế! Ô uế!
(Lv 13, 45)
Tội vô hình có trong tâm hồn, Chúa cho nó hiện hình ra bên ngoài và nó xấu xa ghê tởm như là bệnh cùi. Theo quan niệm này, chúng ta có thể giả sử rằng, nếu tất cả mọi tội chúng ta đã phạm trong thầm kín mà lộ ra bên ngoài khiến người ta nhìn thấy được, có lẽ chúng ta cũng không khác người phong cùi bao nhiêu, và có khi còn ghê hơn ! Và điều này hoàn toàn đúng, vì hậu quả của tội nằm ngay trong hành vi phạm tội, không cần phải Chúa phạt; tội, dù bé dù to, luôn để lại dấu vết nhơ uế trong tâm hồn, và làm đổ vỡ ngay trong lòng chúng ta các mối tương quan: với chính tôi, với người khác, với cộng đồng và với chính Chúa. Vì thế chúng ta cũng là những người mắc bệnh phong đầy người, nhưng vô hình.
***
Như vậy, nỗi đau của người bị bệnh có tới ba chiều kích: đau khổ trong thân xác, đau khổ trong tinh thần, và đau khổ vì cảm thức bị Thiên Chúa trừng phạt, và nhiều khi vì những tội gì cũng chẳng rõ hay vì những những tội chẳng đáng bị phạt như thế.
Thật ra, chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm tương tự: khi chúng ta bị đau, chúng ta rất nhạy cảm với sự hiện diện chăm sóc và yêu thương của người thân, và vì người thân không thể lúc nào cũng ở bên cạnh và chăm sóc chúng ta, chúng ta thường có cảm thức bị bỏ rơi, bị quên lãng, nhưng thực ra không phải như vậy; hơn nữa, chúng ta còn có thể tự hỏi: Tại sao tôi lại ra nông nỗi này? Đây có phải là một hình phạt của Chúa không? Tôi đã làm gì để bị như thế này?
2. “Người chạnh lòng thương”
Tuy nhiên, Lời Chúa trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ngừng đặt câu hỏi: tại sao lại bệnh tật, tại sao lại đủ mọi khổ đau, phải chăng là hình phạt? Bởi vì, càng đặt câu hỏi, chúng ta sẽ càng bị dồn vào ngõ bí và tự làm khổ mình. Hơn nữa, ma quỉ sẽ thờ cơ gieo vào lòng trí chúng ta nọc độc quên ơn và nghi ngờ, từ đó hình ảnh một hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa (x. St 3, 1-7).
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy đảm nhận thân phận sinh lão bệnh tử của con người và số phận thăng trầm và đôi khi đầy tai họa của riêng mình, bằng cách thả mình vào tình thương và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô. Thật vậy, Ngài chạnh lòng thương người bệnh phong và chữa anh lành bệnh, một cách vô điều kiện; anh chỉ cần bày tỏ lòng ước ao thôi:
Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.
(c. 40)
Với nỗi đau khổ tột cùng như thế, nhưng người bệnh vẫn không đánh mất đi lòng ước ao, và lòng ước ao của anh thật lớn lao. Thật vậy, anh đã vượt qua mọi rào cản luật lệ để vào thành, chạy đến, sấp mặt xuống và kêu xin:
* “Nếu ngài muốn”: lòng ước ao là như thế, một đằng hướng tới ơn huệ, nhưng đàng khác luôn tôn trọng tự do của Đấng ban ơn huệ.
* “Ngài có thể”: lời này diễn tả lòng tín thác nơi quyền năng chữa lành của Đấng ban ơn.
* “Làm cho tôi được sạch”: lòng ước ao hướng tới không chỉ ơn chữa lành thể xác, nhưng còn hướng tới ơn được nên “thanh sạch” trong tâm hồn.
Để đáp lại lời kêu cầu của người bệnh, Đức Giê-su đã đụng vào anh trước khi nói: “Tôi muốn anh sạch đi”. Đụng vào người cùi, thì theo luật, người ta sẽ bị ô uế cả trong thân xác lẫn tâm hồn. Như thế, Đức Giê-su đã chia sẻ nỗi đau, căn bệnh “ba chiều kích” của anh. Ngài đã mang lấy thân phận con người ở mức độ thấp nhất, cùng khổ nhất, cùng tận nhất về mọi phương diện, trước khi ban lời chữa lành: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Và lời chữa lành của Đức Giê-su có sức mạnh giống như lời sáng tạo: “lập tức, bệnh phong biến khỏi anh”.
Chúa cũng nói với chúng ta lời chữa lành như thế, chúng ta hãy lắng nghe và cảm nghiệm hiệu quả tức thì nơi thân xác, tâm hồn, cuộc đời của chúng ta hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Bởi vì, chúng ta, có thể nói, là những người phong hủi vô hình. Vậy, chúng ta hãy can đảm nhìn vào những “vết hủi” nơi con người chúng ta, không phải để lên án hay tuyệt vọng, nhưng để diễn tả lòng ước ao như người bệnh trong bài Tin Mừng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”, và để cảm nếm lòng thương xót bao la vô hạn của Chúa, và lòng mến lớn lao đối với Chúa sẽ phát sinh từ kinh nghiệm này, như đã phát sinh nơi người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7, 36-50).
3. “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta”
Trước khi nói lời chữa lành: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào người bệnh. Phép lạ chữa bệnh này mang lại cho chúng ta niềm hi vọng thật bao la cho loài người và từng người tật nguyền chúng ta. Bởi vì, như chúng ta nói ở trên, đụng vào người cùi, theo luật là bị ô uế cả trong thân xác lẫn tâm hồn. Đó chính là cách Đức Giê-su chạnh lòng thương và chữa lành chúng ta, là cách Người bày tỏ sự cảm thông và tình thương của Thiên Chúa đối với loài người đau khổ của chúng ta, với nỗi đau khổ của mỗi người chúng ta: Người không lấy đi đau khổ, nhưng mang vào mình đau khổ của loài người của chúng ta (Mt 8, 7 và Rm 8, 3; 2Cr 5, 21; Gl 3, 12).
Thật vậy, Đức Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, thay vì cất hết đi mọi bệnh tật của cả loài người, Ngài lại mang hết vào mình và đưa lên Thập Giá, như lời ngôn sứ Isaia đã nói:
“Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta”
(Mt 8, 17)
Trên Thập Giá, Con Thiên Chúa để cho mình bị hành hạ, thân thể của Ngài bị nát tan còn hơn cả người mắc bệnh phong. Nhưng ở nơi Ngài, đau khổ và sự chết không phải là dấu chấm hết, thân phận con người không phải đường cùng, nhưng là đối tượng của tình thương và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và là con đường dẫn đến sáng tạo mới, đến sự sống mới, không còn bệnh tật, đau khổ, than khóc và chết chóc. Chính khi Đức Giê-su mang thương tích và bị loại trừ trên Thập Giá, là lúc tình yêu Thiên Chúa trở nên rạng người nhất, và cũng là lúc Ngài được tôn vinh, được nhận biết, được hiển linh. Như thế, trước khi đáp lời loài người đau khổ, Thiên Chúa nơi Đức Giê-su, nhận lấy đau khổ của con người làm của mình.
***
Và bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo trước vinh quang lớn lao này của Đức Giê-su rồi. Thật vậy, chính khi “Ngài phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành”, nghĩa là bị loại trừ, lại là lúc, “dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người”, nghĩa là Ngài được tôn vinh và được nhận biết.
14.Hủi ngoài da, hủi tâm hồn--Anmai, CSsR
"Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò" (thơ Hàn Mạc Tử)
"Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
Lầu ông Hoàng đó thuở nào trăng
Hàn Mặc Tử đã qua
Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương, như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người tìm về giữa đêm buồn
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tang thương, mà khổ đau niềm riêng.
Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân nơi nhà hoang
Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi
Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.
Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân chàng đến
Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa
Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ
Khóc thương thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia
Trơì đất như điên cuồng khi hồn phách vút lên cao
Mặc Tử nay còn đâu?
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi chăng..."
Đó là bài ca về thi nhân Hàn Mạc Tử, do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác do nguồn cảm hứng từ những áng thơ bất hủ và chuyện tình thương tâm của nhà thơ nàỵ.
Ít nhiều gì chúng ta hơn một lần nghe nói về chàng thi sĩ tài hoa vắn số này. Thơ của chàng rất hay nhưng cung mệnh đời của chàng quá vắn. Chàng nằm xuống để rồi không biết bao nhiêu người đã nuối tiếc cho con người “tài hoa bạc mệnh này”.
Hàn Mặc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam. Thơ của Hàn Mạc Tử là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ.
Bài Thánh Nữ Đồng trinh trứ danh của Hàn Mạc Tử đã diễn đạt lại ý tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:
… Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giầu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng hai hàng lệ
…Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm.
Nhà thơ Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, cũng như không biết bao nhiêu người mang trong mình chứng bệnh phong khắc nghiệt này rất đau khổ. Chưa nói đến chuyện người ta phải cách ly, thì những người bệnh phong này phải tự tìm cách cách ly với những người lành sạch. Nguyễn Trọng Trí chưa cần đợi người ta xua đuổi, cách ly, đã tìm đến ngôi nhà hoang để dấu mình trong những ngày cuối đời khi mang trong mình chứng bệnh quái ác này.
Hàn Mặc Tử, cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo phi thường là đau khổ không dìm sâu họ xuống bùn đen mà đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế
Ở Hàn Mặc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn thì thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp vào trí tưởng của thi nhân.
Hàn Mặc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đã tự ví mình: khi xưa ta là chim phượng hoàng, Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất"; ý tứ mình "cao cường hơn ngọn núi"; hồn mình "chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây"
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, ai trong chúng ta cũng biết tác hại của bệnh phong là như thế nào. Chẳng ai trong chúng ta muốn cho mình bị chứng bệnh ấy. Những bệnh nhân phong rất tội nghiệp, chân tay của họ không lành lặn như những người bình thường. Họ làm việc gì cũng khó cả vì chân tay của họ cứ teo dần teo dần. Nghiệt một cái là bệnh phong thuộc dạng lây lan để rồi từ ngàn xưa người ta vẫn thường kỳ thị những ai mang chứng bệnh này. Người ta sợ đến độ phải cách ly những ai mang bệnh phong để giữ gìn cho những người sạch không nhiễm bệnh.
Phải đọc kỹ đoạn sách Lê-vi nói về bệnh phong chúng ta sẽ rõ quy định như thế nào về những người bệnh phong. Môsê và Aharon được Đức Chúa phán rất rõ ràng về chứng bệnh này. Có hai loại phong: phong hủi và phong hủi kinh niên.
Người bệnh phong hủi là: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong vòng bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch. Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám. Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong hủi.” (Lv 13, 2-8).
Còn người bị phong hủi kinh niên là: “Khi trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. Tư tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra, thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô uế. Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy, thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. Nhưng ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế; tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi. Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư tế; tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.” (Lv 13, 9-17).
Sách Lê-vi quy định rất rõ ràng về người nào mắc chứng bệnh này cũng như quy định khi nào người mắc bệnh này được lành sạch.
Ngày hôm nay, khoa học tiến bộ nên số người bị phong cùi đã giảm hẳn vì người ta đã tìm cách khống chế căn bệnh mang tính di truyền này. Thế nhưng, chưa phải căn bệnh này đã chấm dứt. Đâu đó vẫn còn những trại phong quy tụ bệnh nhân lại để nuôi dưỡng, để chăm sóc, để nâng đỡ họ trong những ngày cuối đời. Chúng ta vẫn nghe đâu đó những trại phong Quả Cảm, Thanh Bình, Bến Sắn, Phước Tân, … Ai nào đó một lần đến và tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh phong cùi sẽ thấy họ thiệt thòi, họ đau khổ như thế nào.
Bệnh nào cũng vậy chứ không riêng gì bệnh phong cùi. Ai đã mang trong mình mầm bệnh thì đều mong được chữa lành. Với người bệnh cùi, được chữa lành quả là điều vô cùng hạnh phúc vì họ được hội nhập với cộng đồng, không còn bị cách ly, không còn bị miệt thị, không còn bị phân biệt đối xử nữa.
Người hạnh phúc mà chúng ta vừa được nghe thánh Máccô thuật lại trong trang Tin mừng hôm nay đó không ai khác là anh chàng bị phong hủi. Anh ta nghe tiếng tăm đồn đãi về Chúa Giêsu và tìm đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa cho anh được lành bệnh. Anh tin vào Chúa Giêsu và anh lành bệnh. Chúa cũng truyền cho anh đi trình diện cho các vị tư tế theo luật Môsê truyền dạy.
Quan niệm của người Do Thái rất buồn cười, cách riêng là những người Biệt Phái và Pharisêu. Họ cho rằng tất cả những ai bệnh hoạn tật nguyền là do người đó phạm tội nên bị trừng phạt. Họ không cho những người bệnh hoạn tật nguyền là những người kém may mắn hơn họ nhưng họ kết luận rằng vì những người đó phạm tội trong tâm hồn nên mới bị bệnh như vậy. Chẳng hiểu họ dựa vào đâu, chứng cứ nào để kết luận điều ấy.
Chúng ta còn nhớ cái anh què được Chúa chữa lành vác chõng mà về. Với người Do Thái, anh què chính là do tội lỗi của anh chứ người ta không công nhận đó là những khiếm khuyết về thể xác của con người.
Những người Do Thái trong đó có Pharisêu, Biệt Phái và cả chúng ta nữa, đều có cái nhìn, quan niệm khác với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn bên trong tâm hồn còn chúng ta, chúng ta vẫn mang trong mình thói quen nhìn bề ngoài.
Thật ra, bệnh ngoài da cũng sợ nhưng sợ hơn là bệnh trong tâm hồn. Có những người bề ngoài trông rất sạch sẽ, thơm tho nhưng bên trong lại quá ư là phong hủi. Mà cũng lạ ! Những người mang chứng phong trong tâm hồn thì lại sơn phết cho mình cái mã bên ngoài cực kỳ đẹp. Chúng ta còn nhớ, hơn một lần Chúa nói với Pharisêu và Biệt Phái là “Đồ thứ mồ mả tô vôi ! Bên ngoài trông đẹp nhưng bên trong là một dúm xương khô !”.
Thế đấy ! Nhiều người bên trong mang chứng bệnh phong hủi kinh khủng nhưng bên ngoài vẫn cố che đậy và đi khinh chê những người bệnh ngoài da.
Như Hàn Mạc Tử, anh mang trong mình chứng bệnh phong hủi, chứ tâm hồn anh quá đẹp, qúa thơ mộng. Anh đã để lại cho đời nhiều bài thơ bất hủ. Hàn Mạc Tử chắc có lẽ là người con yêu của Đức Mẹ nên Hàn Mạc Tử có những bài thơ về Đức Mẹ thật tuyệt vời. Bề ngoài thì anh bệnh nhưng trong tâm của anh thật sạch.
Chuyện cần, đó là chữa tâm hồn, chữa lòng mình cho sạch chứ không phải là chuyện bên ngoài. Chưa chắc bệnh ngoài da là xấu, bệnh trong lòng xấu mới là điều đáng sợ. Đừng đánh giá bề ngoài vì bề ngoài đôi khi là bóng bẩy nhưng bên trong thối hoắc. Đôi khi bên ngoài nó sần sùi, nham nhám chút nhưng bên trong cả là một tâm hồn cao thượng, một tâm hồn trong sạch. Những người phong cùi bề ngoài đấy nhưng trong lòng họ còn sạch hơn những người sạch bên ngoài mà bên trong thì hôi thối.
Hôm nay, Chúa chữa chàng thanh niên bị phung hủi nghĩa là Chúa đã giải thoát được cho anh cả chứng bệnh ngoài da và chứng bệnh tâm hồn vì như đã nói người Do Thái cho rằng anh bệnh hoạn tâm hồn nên anh mới bị ngoài da. Chúng ta, may mắn hơn anh ta là chúng ta không bị phong hủi ngoài da, nhưng chắc hẳn trong tâm hồn mỗi người chúng ta còn lợn cợn điều gì đó trong tâm hồn và chúng ta chạy đến Chúa để xin Chúa chữa cho chúng ta những cái lợn cợn trong tâm hồn để tâm hồn để chúng ta được thanh sạch hơn, được thơm tho hơn để đón mời Chúa đến và ngự lại trong lòng chúng ta.
15.Phong cùi--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Cùi hủi là một con bệnh đáng ghê sợ nhất. Nhiều ngàn năm trước, bệnh phong cùi đã xuất hiện nơi thân xác của con người. Đây là một bệnh truyền nhiễm và ô uế. Theo luật của dân Do-thái, ngay từ thời Môisen đã có những hướng dẫn riêng dành cho những người bị bệnh phong cùi. Những người mắc chứng bệnh phong cùi phải ở riêng, mặc áo rách, để đầu trần, lấy tay che miệng và la cho mọi người biết để đừng ai đến gần. Thật là khổ sổ và đau lòng! Con vi trùng cùi hủi quái ác đã ăn cướp mất nhân phẩm của con người. Thân phận của những người phong cùi thật đáng thương, họ bị tách lìa khỏi gia đình, cộng đoàn và mọi sinh hoạt chung. Họ bị bỏ rơi và bị người đời khinh bỉ, xem họ như là những thân xác đáng ghê tởm mà mọi người cần xa tránh. Người xưa chưa có cách phòng bệnh và trị bệnh nên những ai bị mắc phong cùi thì như lãnh một bản án chung thân.
Nỗi đau thân xác khôn lường, mà nỗi đau của tâm hồn lại càng khốc liệt. Những người phong cùi phải xa tránh mọi người và tự lo cho cuộc sống mình. Họ bị tước mất tư cách làm người và mất cả nhân phẩm. Họ khổ đau quằn quại khi thân xác bị lở loét, cùi cụt và hôi thối. Mọi người không đến gần, ngay cả những người thân thiết trong gia đình cũng không được chung đụng. Chúng ta không thể tưởng tượng được nỗi sầu khổ và mặc cảm lấn chiếm tâm hồn họ. Họ bị rơi xuống đáy vực thẳm của kiếp nhân sinh. Lê lết sầu muộn từng ngày nơi hoang vắng cô quạnh. Đau khổ hơn nữa là khi đối diện với những ánh mắt khinh thị và kinh hãi. Chúng ta nhớ rằng khả năng khoa học y tế của con người thời đó đành bó tay với cùi hủi. Ngày nay vẫn còn nhiều người bị nhiễm chứng bệnh phong cùi nhưng nhờ có thuốc thang ngăn ngừa, họ cũng được giảm bớt đau khổ phần nào. Với cuộc sống xã hội đương thời, những người phong cùi cho dù được sự thăm viếng, chia sẻ, thông cảm và ủi an nhưng họ vẫn còn phải chịu nhiều sự tủi nhục và sầu khổ.
Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng giải thoát. Chúa có uy quyền chữa lành cả thân xác và tâm hồn. Hai ngàn năm trước, với khả năng của con người, sự chữa lành của cả hai nhu cầu vật chất và tâm linh đều rơi vào ngõ cụt. Cộng thêm sự phân chia giai cấp và cách đối xử bất công trong xã hội không có lối thoát. Chúa Giêsu đã xuất hiện trong bối cảnh xã hội mà nhiều người bị loại trừ. Sự thực hành đời sống tôn giáo và xã hội thiếu tình yêu thương bác ái. Những người bệnh hoạn tật nguyền, phong bại, phong cùi và qủy ám là những thứ bệnh quái ác hoành hành khắp nơi. Tất cả những ai chạy đến với Chúa đều được xót thương chữa lành. Cả những bệnh cùi hủi trong tâm hồn, Chúa Giêsu đã tẩy sạch và tha thứ.
Tâm trạng bị bỏ rơi và chối từ làm cho con người cảm thấy cô đơn sầu khổ. Không chỉ bệnh cùi mà cả những chứng bệnh thời đại. Những người già cả ốm đau bị con cái bỏ rơi. Những trẻ thành niên bị chối từ khỏi gia đình, không được yêu thương và chấp nhận. Những trẻ em sơ sinh bị bỏ rơi vì bị cha mẹ coi như một món nợ. Những người tàn tật và què quặt không được tiếp nhận vào những đại tiệc của xã hội. Những khách lạ hiền lương bị chối từ nơi ẩn trú. Những người vô gia cư và vô nghề nghiệp không có nơi nương tựa và bị coi như là những kẻ ăn bám xã hội. Những người mắc những chứng bệnh thời đại Si-đa cũng bị xô đẩy vào đường cùng phải sống trong cô đơn và loại bỏ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người sống cần có tình yêu, tình người và sự chấp nhận.
Còn biết bao những khinh miệt khác đối với những con người không sống theo kỷ luật bị coi như những tội phạm của xã hội. Những nhóm người gây khủng bố, gian tham, cướp của giết người, buôn bán nô lệ, thuốc phiện, buôn bán tình dục phụ nữ trẻ em, những bà tú, ma cô và nhà độc tài gian ác…Chúng ta cũng nên nhớ rằng không phải tất cả các tù nhân đều là tội phạm cả đâu. Có nhiều người bị nhốt tù vì công lý, vì bất đồng chính kiến, vì niềm tin, vì lương tâm và vì nhiều lý do khác tùy theo từng chế độ. Xã hội có muôn mặt và muôn cách sống. Chúng ta khó có thể phân biệt trắng đen, lành dữ, xấu tốt và phải trái, khi dựa vào những phán đoán của con người. Tất cả các tệ trạng của con người xã hội đều là những căn bệnh cần phải được chữa trị. Con người phải đi tìm đúng nguồn cội quyền lực để xin ơn chữa lành cả xác lẫn hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi ân sủng chữa lành.
Bệnh nào cũng cần thuốc chữa. Con người có cả ngàn thứ bệnh khác nhau cả về thể xác lẫn tinh thần. Mỗi một thứ bệnh cần có những liều lượng thuốc chữa trị riêng. Chúa Giêsu có toàn quyền trên cả vũ trụ hữu hình và vô hình. Ngài có quyền sáng tạo, chữa trị, đổi mới và hoàn thành. Câu truyện phúc âm, người bệnh cùi đến van xin Chúa chữa lành, Chúa đã giơ tay đặt trên người đó và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Chúa chỉ cần muốn là mọi sự thực hiện theo ý của Ngài. Bệnh cùi được chữa lành ngay tức khắc. Chúng ta nhớ câu truyện của ông Saulô, đang khi đi bách hại người Kitô hữu, một luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và Chúa Giêsu đã biến đổi ông thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Chúa có thể biến đổi tất cả theo ý muốn của Chúa.
Thánh Phaolô sau khi đã trở lại với Chúa Kitô, ngài đã không ngừng loan báo tin mừng. Trong mọi sự như ăn, như uống hay làm bất cứ việc gì, Phaolô khuyên dậy chúng ta hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Phaolô đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao Chúa không đánh ngã thêm nhiều người nữa để họ tiếp tục mở rộng Nước Chúa? Biết rằng tư tưởng của Chúa vượt hẳn trên tư tưởng loài người và đường lối của Chúa cao siêu hơn đường lối của con người. Chúa muốn chính mỗi người chúng ta làm nhân chứng cho Chúa. Chúa muốn cứu độ mỗi người bằng chính sự sám hối và trở về của họ. Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa thái độ. Chúng ta hãy đến quỳ gối van xin: Nếu Chúa muốn, Chúa có thể khiến con nên sạch. Đặt niềm tin vào Chúa Kitô và qua Giáo Hội, Chúa đã ban các ân điển qua các Bí Tích, Á Bí Tích, các kinh nguyện và sự thực hành sống đạo sốt mến. Từng bước phát triển đời sống đạo qua các Bí Tích chúng ta lãnh nhận, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn ơn sủng của sự chữa lành.
Bệnh phong cùi cũng như tội lỗi của con người thật ghê gớm. Ai cũng sợ hãi những chứng bệnh cùi hủi, bệnh siđa, bệnh ung thư hay một số bệnh chết người. Khoa học y tế có phát triển vượt bực nhưng con người vẫn còn cảm thấy bất lực hoặc chào thua trước những con bệnh hiểm nghèo này. Một thực tại sống mà chúng ta không thể chối từ. Sinh, lão, bệnh và tử là lẽ thường ở đời. Điều quan trọng là chúng ta hãy đón nhận thân phận làm người với tất cả những biến chứng của nó. Hãy tôn trọng nhân phẩm, đối xử và đón nhận mọi người như là con người, cùng chung một Cha trên trời. Chúng ta đừng khinh khi loại trừ, ghét bỏ ruồng rẫy và đóng cửa gài then trước những mảnh đời cùng khổ.
Lạy Chúa, đã nhiều lần chúng con ngã bệnh và phạm tội làm nhơ nhuốc tấm linh hồn, xin Chúa giơ tay chữa lành và rửa sạch những vết nhơ bụi trần. Xin cho chúng con biết chia sẻ lòng nhân ái với những người bất hạnh, biết giơ tay đón tiếp những kẻ cùng khốn và biết chấp nhận mọi người như là anh chị em, để chúng con tìm được nguồn ủi an và chữa lành đích thực của Chúa cả trong tâm hồn lẫn thể xác. Chúng con chỉ biết dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân. Chúng con đã được lãnh nhận dư tràn ơn sủng của Chúa trong suốt đời sống. Chúng con cầu xin Chúa.
16.Rất cần sự cảm thông--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bệnh phong cùi đã có từ bao đời nay. Bệnh này thường bị coi là căn bệnh nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm. Người Do Thái thời xưa rất sợ bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bất trị thường gặp lúc bấy giờ. Căn bệnh đáng sợ này có thể tấn công các đầu dây thần kinh của người bệnh, làm cho cơ thể bị thương tổn và biến dạng vĩnh viễn. Vào thời đó, người ta không biết cách chữa căn bệnh này. Người bệnh bị cách ly và bắt buộc phải cảnh báo người khác về căn bệnh của mình (x. Lv 13, 1-2. 44-46).
Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đặt thêm luật về bệnh phong cùi, khiến cho cuộc sống của người bệnh gặp khó khăn một cách không cần thiết. Chẳng hạn, luật lệ của giới ráp-bi cấm bất kỳ ai đến gần người phong cù, phải ở xa họ khoảng khoảng 2m. Nhưng nếu đang có gió, không ai được đến gần trong vòng khoảng 45m. Sách Lêvi đưa ra điều luật là người phong cùi phải sống "phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại"(x. Lv 13, 44-46). Tuy nhiên, một số chuyên gia luật Do Thái giải thích rằng điều luật này có nghĩa là những người phong cùi không được sống trong các thành có tường thành. Vì vậy, khi thấy một người phong cùi trong thành, một ráp-bi sẽ ném đá vào người đó và nói: “Hãy trở về chỗ ngươi ở, đừng làm ô uế người khác”.
Về mặt tôn giáo, bệnh phong cùi làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi. Người Việt Nam chúng ta cũng na ná tương tự như người Do Thái, ai bị bệnh thì phải xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực long.
Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi vẫn bị liệt vào loại bị cấm tiếp xúc, người bị bện phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Người đến để yêu thương và cứu giúp mọi người, nên Người đã chữa lành cho người mắc bệnh phong cùi như trong Tin Mừng Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.
Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này. Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Chúa về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật còn là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối vớ tội lỗi con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật của con người.
Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại "Người cùi" kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc, họ bị liệt ra bên ngoài xã hội, thiếu sự cảm thông và tình liên đới cộng đồng.
Con người ta, sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình. Bệnh tật là điều phải có trong kiếp sống làm người. Ai cũng có bệnh, không nhẹ thì nặng, chẳng ai thoát khỏi căn bệnh ở đời. Vì thế, chúng ta phải liên đới, hiệp thông và trợ giúp lẫn nhau với tình yêu thương, đặc biệt với những ai mắc bệnh hiểm nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vì yêu mà vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa với con người, giữa người khỏe với kẻ bệnh tật để chữa lành họ. Xin trợ giúp chúng con làm được những điều Chúa muốn. Amen.
17.“Hãy sống đẹp cho nhau”--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái đẹp cho bản thân như ăn ngon mặc đẹp. Cái đẹp cho tha nhân như một cử chỉ đẹp, một phong cách đẹp, một lời nói làm đẹp lòng người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông như sau: Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá công viên, từ xa có một người quần áo rách nát tả tơi đến gần và ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy cảnh cơ cực, nhà văn liền thò tay vào túi định lấy tiền giúp cho người hành khất. Thế nhưng, ông đưa tay tìm hết túi này đến túi kia cũng không kiếm được một đồng nào trong túi. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói trong sự hối tiếc: “Này người anh em! Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc là hôm nay tôi không mang theo một đồng nào trong túi”. Nghe lời nói chân tình đó, người ăn xin không buồn mà còn nở nụ cười rạng rỡ trên môi và nói: “Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho tôi một món quà quý báu còn hơn cả tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà còn coi tôi như người anh em của ông”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Marcô cũng tường thuật lại một cử chỉ đẹp mà Chúa Giêsu đã dành cho người bệnh phong hủi nan y. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.
Có ai đó đã từng nói rằng: “một lời nói hay không bằng một cử chỉ đẹp”. Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc sống sẽ bớt đi những tủi hờn, những cô đơn và thất vọng nếu chúng ta biết sống đẹp với nhau. Đừng chơi xấu, đừng loại trừ nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc sống sẽ vơi đi những nỗi sầu khổ đắng cay nếu mỗi người chúng ta biết đối xử đẹp với nhau.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những lối sống tiểu nhân tầm thường, nên vẫn còn đó những oan ức, những giọt nước mắt đắng cay vì tình người phụ bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen. Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những lối sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn nên vẫn còn đó những ứng xử thô lỗ, cộc cằn, những hành vi phi nhân và bất nghĩa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy can đảm loại bỏ những hành vi thô lỗ, cộc cằn, những hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ chính gia đình chúng ta. Mỗi thành viên trong gia đình hãy biết dâng tặng cho nhau những cử chỉ đẹp như: sự quan tâm, sự khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với nhau. Chúng ta không thể “khôn nhà dại chợ”, sống tốt với hàng xóm mà cư xử tệ với anh em. Chúng ta không thể sống trọn vẹn đức ái Kitô giáo nếu chúng ta không yêu mến gia đình chúng ta. Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ nhau một cách quảng đại, hy sinh và quên mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với nhau. Đức ái bao hàm sự bao dung và đón nhận nhau trong yêu thương và tha thứ. Đức ái không cho phép chúng ta loại trừ hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng ta dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương làm đẹp lòng nhau.
Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì con người anh có thể lành lặn. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Phải chăng, Ngài cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục trao ban cho nhau những nghĩa cử yêu thương nồng ấm tình người? Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta sẽ là dấu chỉ chứng nhân tin mừng cho thế giới hôm nay. Amen.
18.Một vị Thiên Chúa vượt trên lề luật, phong tục--An Phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người phong cùi. Người đã bộc lộ dung mạo của một vị Thiên Chúa vượt lên trên tất cả mọi phong tục, tập quán, lề luật, định chế xã hội… Bởi một lẽ duy nhất là vị Thiên Chúa của Tin mừng là vị Thiên Chúa dám nghĩ, dám làm, dám sống.
Sách Lê vi, chương 13, câu 45-46 có viết: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu ria và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”. Theo sách Talmud - Babilon, họ đi vào nhà nào là mang ô uế vào nhà đó. Bất cứ ai chạm đến họ đều bị coi là ô uế. Họ là những người bị Chúa phạt, họ không được phép lên Đền thờ Giêrusalem, và nếu có được tham dự lễ nghi phụng vụ, họ phải ở trong một căn phòng đặc biệt dành riêng cho họ. Họ bị đối xử như người đã chết.
Người phong cùi trong Tin mừng hôm nay đã dám “đến gặp Chúa Giêsu, quì xuống, van xin…”. Đức Giêsu “chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh…”. Cả hai hành vi, người cùi đến gặp Chúa và Chúa đưa tay chạm đến họ, đều là những hành vi “liều mạng”, vượt trên mọi thể chế, phong tục… bình thường.
* Người phong cùi hẳn là biết rõ việc mình làm. Anh biết thân phận mình, biết những qui định ngặt nghèo là không được đến gần người khác. Anh chẳng màng đến những qui định này. Hẳn là anh không ghê tởm con người mình và cũng không sợ phán quyết khắc nghiệt của Đức Giêsu. Anh biết Người là Đấng nhân từ và bao dung. Nếu ghê tởm chính mình, hẳn là anh đã trốn biệt. Nếu sợ phán quyết khắc nghiệt, hẳn là anh đã không dám đến gần Đức Giêsu và van xin Người chữa lành. Anh đã liều và đã đạt được điều mình mong muốn.
* Đức Giêsu, một Rabbi Do Thái chắc chắn là biết rõ điều luật “cấm không được đến gần người cùi trong khoảng cách một sải tay”. Nhưng Người đã không màng đến những qui định như thế. Người tự do và thoải mái hành động vì hạnh phúc con người. Người đã phá đổ những qui định phi nhân bản - loại trừ một con người đau khổ. Đức Giêsu thực là hình ảnh một vị Thiên Chúa cúi mình xuống với nỗi khổ đau của con người. Người đã cúi mình thật sâu (kenosis) trong biến cố làm người và trong cái chết trên thập giá. Người cúi xuống để nâng con người lên, miễn là con người nhận ra chính mình và cầu xin ơn cứu độ.
Ngày nay, căn bệnh cùi thể lý đã bị tiến bộ y khoa đẩy lui, nhưng vẫn còn đó những bệnh cùi tâm linh, như tệ nạn xã hội: si đa, xì ke, ma túy, mọi hình thức vô nhân… và thường bị những người chung quanh khinh bỉ. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi thể hiện sự thông cảm, quan tâm đối với những người bất hạnh. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi để dám vượt qua những định chế, tập tục vô nhân.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy cho chúng con
biết cúi mình xuống với những mảnh đời đau khổ, bất hạnh
để cảm thông và chia sẻ,
vì chính chúng con cũng đã được Chúa cảm thông và chia sẻ.
Xin cho chúng con
dám vượt qua con người của mình, như người phong hủi,
để đến và khẩn cầu với Chúa.
19.Niềm vui tròn đầy--John W. Martens--Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ
Vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi (Mc 1,45)
Trong tác phẩm “Bàn về sự nhiễm uế và tội lỗi trong nền văn hóa Do Thái cổ đại”, tác giả Jonathan Klawans đã nêu ra sự khác biệt giữa sự nhiễm uế do tội lỗi, và sự nhiễm uế do tập tục. Sự nhơ uế mang tính luân lý gồm những tội như ngoại tình và giết người, hàm ngậm những hành vi tội lỗi và dơ bẩn. Còn sự nhơ uế do phong hóa mang tính tập tục bao gồm những tiến tình tự nhiên, như việc sinh nở, hành vi giao phối vợ chồng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ v..v.. Những quy trình tự nhiên này không liên quan gì đến hành vi tội lỗi cả. Bệnh phong hủi, là một trong những bệnh ngoài da vẫn được người ta xem như một thứ nhơ uế, nhưng chỉ mang tính phong hóa theo tập tục thời bấy giờ mà thôi.
Cho dù một người mắc bệnh ngoài da, như những người bệnh phong, sẽ không bị kết án là có tội, nhưng theo sách Lêvi “ người đó vẫn bị coi là nhơ uế bao lâu còn mang bệnh tật trong người. Họ phải sống một mình, tách khỏi lều trại nơi cộng đồng sinh sống (Lv 13,45-46)”. Nhiều người nhiễm bệnh phong hủi còn bị cắt đứt sự tương giao hoàn toàn, cả về mặt xã hội và cả trong đời sống tôn giáo. Những sự nhiễm uế khác theo tập tục, như sinh nở, kinh nguyệt, chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thường một ngày hay một tuần, nhưng cách riêng nhiễm uế do bệnh cùi có thể trở thành vĩnh viễn suốt cả một đời người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi một người phong hủi đi tìm kiếm và đến gặp Đức Giêsu. Anh ta nài xin Ngài giúp anh ta trở lại hòa nhập với cộng đồng. Qùy gối trước mặt Đức Giêsu, anh ta khẩn xin tha thiết với một ước muốn giản đơn “ Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Mặc dù bệnh nhân không nài ép Chúa với một cung điệu ai oán và trang trọng, nhưng anh ta bày tỏ mong ước với một động thái xác quyết và tin tưởng, vì “ Ngài có thể làm việc này”. Đây là một thái độ biểu tỏ đức tin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Đức Giêsu và tín thác nơi lòng trắc ẩn của Ngài.
Đức Giêsu chạnh lòng thương đối với bệnh nhân. Marcô sử dụng hạn từ Splanchnizomai trong tiếng Hy lạp, diễn tả một tình cảm sâu xa, một sự thương cảm và yêu thương dạt dào. Trái tim của Đức Giêsu đã lay động trước hoàn cảnh bi thương của người bệnh và Ngài giơ tay chạm vào anh ta. “Ngài nói: Tôi muốn, anh hãy được sạch. Lập tức bệnh phong hủi biến mất và anh ta được lành sạch (Mc 1,42)”. Khi chạm vào người cùi, Đức Giêsu có làm điều gì sai trái không? Chắc chắn không và tuyệt đối không. Cho dù bệnh cùi là căn bệnh lây lan, và luật Do Thái vẫn coi sự sờ chạm đến bệnh nhân là một sự nhiễm uế, nhưng sự nhiễm uế này hoàn toàn không phải do tội lỗi. Khi Đức Giêsu chạm đến người cùi để chữa lành cho anh ta, có thể đó là một hành vi phản khoa học, khiến dễ bị lây nhiễm, nhưng tuyệt đối nơi Ngài không thể có sự nhiễm uế. Động thái này có nghĩa là gì? Chúng ta thấy Đức Giêsu vẫn cẩn thận tuân thủ lề luật và Ngài không tỏ ra khinh suất lề luật chút nào.
Sau khi bệnh nhân đã hoàn toàn được lành lặn, Đức Giêsu nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay và còn căn dặn kỹ lưỡng “ Đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết (Mc 1,44). Sự đồng cảm của Đức Giêsu được thể hiện không phải bằng một cái ôm hôn thắm thiết để chúc mừng anh ta, vì anh được trở lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng, Ngài nói với người được chữa lành là hãy đi thực hành những gì mà luật Môsê dạy bảo, như đã viết trong sách Lêvi 14,1-32. Bệnh nhân sau khi được lành bệnh, phải thực hiện điều luật, để được đón nhận trở lại hội nhập với cộng đồng. Vị tư tế sẽ còn phải kiểm tra, như sách Lêvi đã dạy, và sự kiểm tra này kéo dài suốt cả tuần lễ. Anh ta đang trên đường để tái hòa nhập, và lúc Đức Giêsu chữa lành cho anh ta, anh ta vẫn chưa có thể trở lại với cộng đồng một cách hoàn toàn lúc bấy giờ.
Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nghiêm giọng bảo anh ta đừng nói gì cho ai biết? Có phải thực sự Đức Giêsu mong muốn người bệnh đã được chữa lành phải câm lặng tuyệt đối hay không? Có phải bệnh nhân sau khi được lành sạch sẽ không nói cho vị tư tế biết ai đã chữa lành cho mình?
Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu là mời gọi mọi người tiến vào Vương quốc Nước Trời, thế thì tại sao Ngài lại nghiêm cấm người vừa được chữa lành do quyền năng của Ngài lại phải câm nín? Người được Đức Giêsu cứu chữa chắc chắn không thể im miệng được. Anh ta ra đi và bắt đầu công bố cho mọi người, quảng bá rộng khắp tin vui mà mình mới được lãnh nhận. Vì vậy số người đến tìm gặp Đức Giêsu ngày càng đông đến mức độ Ngài không thể công khai vào thành nào, mà chỉ có thể ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành (Mc 1,45).
Dường như có sự mâu thuẫn và đối kháng giữa chỉ thị của Đức Giêsu cấm người bệnh đừng nói gì với ai, với sứ mệnh quảng bá Vương quốc Nước Trời. Trong Tin mừng Marcô, chúng ta thấy nhiều lần Đức Giêsu đã nói như vậy. Các học giả kinh thánh gọi đó là “Bí mật Thiên Sai”. Một đàng, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy bước theo Ngài và Ngài đã chữa lành các bệnh nhân một cách công khai, một đàng lại có vẻ như Ngài muốn bịt miệng các chứng nhân, cấm họ nói bất kỳ điều gì. Có phải đây là một sự đánh đố mang tính tâm lý mà Đức Giêsu khởi xướng, hay chỉ là một kỹ xảo chơi chữ theo kiểu văn chương mà Marcô đã sử dụng?
Các học giả cho chúng ta thấy thái độ phản ứng của bệnh nhân được chữa lành nói lên câu trả lời cho vấn nạn này. Niềm vui Tin Mừng vọt trào nơi tâm hồn những con người mà Đức Giêsu đã sờ chạm đến, phải được công bố và được nhân rộng. Niềm vui đó cần được sẻ chia, cần được quảng bá rộng khắp cho mọi người. Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay đã chu toàn những gì lề luật đòi hỏi, nhưng anh ta biết rằng mình không thể câm lặng, ôm giữ cho riêng mình niềm vui sung mãn và ngập tràn đó. Sau khi đã trải nghiệm sự vui mừng lớn lao vì được thụ lãnh quyền năng chữa lành của Đức Giêsu, anh ta ra đi và nói cho mọi người biết. Đây là hình mẫu và là chân dung của một nhà truyền giáo đích thực, mà mỗi người chúng ta cần phải sao chép.
20.Giơ tay đụng vào--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo…”
Kể từ cái trải nghiệm nhỏ bé nhận được trong khóa học BISA VIII tại Bangkok - Thái Lan đúng vào mấy ngày Tết Nhâm Thìn, tôi đã có một cái nhìn rất khác về ‘phép lạ’ Đức Giêsu chữa người bị phong hủi.
BISA (Bishops’ Institute for Social Action) là khóa học dành cho các giám mục Á Châu về các đề tài liên quan tới phát triển con người theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội do OHD (Office of Human Development) thuộc FABC (Federation of Asian Bishops’ Conferences) tổ chức. Khóa VIII na7m đó có sự tham dự của khoảng 30 giám mục, 10 đại biểu linh mục, giáo dân đại diện cho 18 Hội Đồng Giám Mục và 06 tổ chức quốc tế. Tôi được mời tham dự trong tư cách đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vì đề tài học tập liên quan đến các di dân và thổ dân. Khóa học được chia làm hai phần, bốn ngày dành cho chương trìnhthực nghiệm (immersion program) và bốn ngày cho hội nghị thuyết trình và thảo luận. Trong phần thực nghiệm, các tham dự viên được chia thành từng nhóm 4-5 người đi thực tế trong một môi trường xã hội cụ thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có 02 giám mục, đi làm việc tại một trung tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for AIDS Patient Center) tại tỉnh Sayong miền đông nam Bangkok - Thái Lan, gần biên giới Kampuchia. Công việc của chúng tôi là cùng với các y công và y tá của trung tâm chăm sóc các bệnh nhân AIDS đang trong giai đoạn cuối. Một trong các công việc tôi được trao là thay tã (tampers) và chùi rửa các bệnh nhân AIDS hoàn toàn bại liệt.
Việc phục vụ và đụng chạm trực tiếp tới những con người này (một thứ phong hủi ghê tởm hiện đại?) trong trạng thái dơ bẩn nhất của thân xác họ, đã để lại nơi tôi một ấn tượng khó quên; mọi cảm xúc tự nhiên trong mình như muốn nổi loạn, buộc tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm nghĩ lóe lên nhiều lần trong đầu tôi lúc đó chính là: “Ôi tình yêu nhập thể, khủng khiệp quá!” Phải, Thiên Chúa trong mầu nhiệm nhập thể đã đụng chạm trực tiếp tới tình trạng kinh tởm dơ dáy tột cùng của thể xác, nhất là của tinh thần con người (trường hợp Người giơ tay đụng vào người mắc bệnh phong cùi ghê tởm ở đây chỉ là một chút điển hình!). Và Người làm hành đông này không có bất kỳ một thiết bị bảo hộ nào như tôi lúc đó, nào là khẩu trang, bao tay cao su, nào là các thiết bị y tế, nước sát trùng… và cả các tấm tã cực kỳ tiện lợi. Điều duy nhất mà Người được trang bị và sở đắc tới độ siêu đẳng (đồng thời cũng chính là điều tôi hoàn toàn thiếu thốn) đó là ‘Người chạnh lòng thương’! Thế đấy, tình yêu nhập thể thực quá cụ thể và chạm tới những ngõ ngách cùng tận và tăm tối nhất của kiếp người. Điều mà Đức Giêsu đã làm với người phong hủi xưa, Người sẽ còn tiếp tục làm mãi với từng con người nhân loại chúng ta, đặc biệt những ai cùng khổ bất hạnh, bệnh tật kinh tởm nhất, cả về mặt thể lý lẫn luân lý; bất cứ ai Người cũng chạm tới được miễn là họ biết ‘quỳ xuống và van xin…’ như người phong hủi xưa.
Và cũng từ trải nghiệm này tôi còn được học thêm một điều nữa, đó là việc chữa lành (hay phép lạ) không phải là điều quan trọng và cần nhấn mạnh nhất. Khi phục vụ tại CPU-AIDS tôi được cho biết, bệnh nhân nào tìm lại được ý chí muốn sống, người đó mới có cơ may kéo dài cuộc sống, ngược lại bệnh nhân sẽ tàn lụi vô phương cứu chữa. Tác động lớn nhất trong việc điều dưỡng không phải là thuốc men hay phương tiện y tế, mà chính là trả lại cho bệnh nhân niềm tin và hy vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình ngay nơi các bệnh nhân AIDS mà tôi phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), một số họ đã bắt đầu tỏ ra có các dấu hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB (lao phổi) nặng, bị mọi người xa tránh vì dễ lây nhiễm và nhầy nhụa, nhưng khi được tôi ân cần đút cơm và trò truyện, anh đã nở được nụ cười thật tươi sau nhiều ngày vật vã… Và bác sĩ cho biết, bệnh tình của anh đã có dấu hiệu khả quan hơn.
Thế đấy, tác giả Mác-cô viết: ‘Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch…’ ôi sao mà xác thực quá! ‘Chạnh lòng thương’ còn quan trọng hơn nhiều việc Đức Giêsu lấy quyền năng mà làm phép lạ… Nói cách khác, chính ‘chạnh lòng thương’ mới là phép lạ lớn hơn hết vì nó đáp ứng trực tiếp nỗi khát vọng thâm sâu nhất của bệnh nhân phong hủi này, khi anh ta thoát khỏi tình trạng bị mọi người hắt hủi, và kể từ lúc đó chứng phong hủi của anh khởi sự tiến trình hoàn toàn biến mất.
Ôi, sức mạnh của lòng thương xót thật vô song, và mong sao mọi linh mục của Đức Kitô không những hiểu được điều này mà còn tham gia tích cực vào quyền năng này nữa!
Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm tạ Chúa không ngừng, không phải vì các phép lạ hoặc các ơn trọng đại con nhận được, nhưng vì đã biết tín thác vào lòng Chúa xót thương. Cho dầu không thể sửa trị được hết các yếu đuối phần hồn phần xác (sẽ không bao giờ, với bất cứ ai!), con vẫn mừng vui khôn xiết vì Chúa đã chạnh thương chạm tới sự ghê tởm, thấp hèn và tội lỗi của con, qua đó trả lại cho con niềm hy vọng tràn trề và một sức sống bất tận. Amen.
21.Niềm hy vọng--Trầm Thiên Thu
Niềm hy vọng là nhân đức trông cậy – một trong ba nhân đức đối thần. Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42), và tất cả đều có thể: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).
Về đức cậy, Thánh TS Augustinô cho biết: “Đức cậy khuyến cáo chúng ta coi nhẹ đời này là hư ảo, hy vọng tương lai là hạnh phúc. Người nào đem hy vọng của họ ký thác nơi chóng qua như mây khói ở đời này, đó là đi ngược lại đức cậy”. Còn Thánh TS Terese Avila xác định: “Thiên Chúa yêu thích những linh hồn khẳng khái nhưng ước vọng vĩ đại”.
Trong ca khúc “Tôi Muốn”, NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần gũi với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn là điều quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.
GIẢ THUYẾT
Chỉ vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn, khao khát. Bất cứ ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn, gần hay xa. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, ước muốn đơn giản và cụ thể là được khỏi bệnh. Ngày nay người ta rất sợ chứng ung thư, còn ngày xưa người ta “ngán” chứng phong hủi (cùi). Chính Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người nào hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt thì đó lại là phong hủi loang ra (Lv 13:42).
Hồi đó, các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46). Khổ thật!
Như vậy là khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, mặc dù là thời Tân ước, và mặc dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Lm Gioan Vianney phân tích: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”. Ôi, vẫn liên quan “cái tôi” đáng ghét!
Bệnh phong là laoị bệnh ghê gớm, ngày xưa là chứng nan y. Ngày nay, bệnh phong không còn đáng sợ, mà chứng nan y đáng sợ là ung thư hoặc HIV/AIDS. Tuy nhiên, đó là bệnh liên quan thể lý. Loại phong cùi, chứng ung thư hoặc HIV ghê gớm nhất chính là tội lỗi, thế nhưng có vẻ người ta lại… không sợ. Quái lạ!
Đối với các tù nhân, ngày được phóng thích giống như thoát khỏi địa ngục trần gian. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19), đó là điều chắc chắn, bởi vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững? (Tv 130:2). Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá bao la!
Thánh TS Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Giả sử bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng… “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, bởi vì Ngài hoàn toàn cho phép chúng ta trọn quyền tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!
Là phàm nhân thì ai cũng là tội nhân, vì đã có “vốn tội” rồi: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, Thánh GH tiên khởi Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Augustinô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu thực sự ước muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu chân thành xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay lập tức!
Tuy nhiên, có 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi” mà chúng ta cần phải lưu ý:
1. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách CAN DỰ VÀO TỘI LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC.
2. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách LÔI KÉO HỌ VÀO TỘI LỖI CỦA MÌNH.
Có những giả thuyết mãi mãi là giả thuyết, nhưng có những giả thuyết lại khả dĩ trở thành sự thật – một sự thật minh nhiên hoặc mặc nhiên.
SỰ THẬT
Người ta sẽ chú tâm hành động sau khi đã ước muốn, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật là khó chứ không hề đơn giản, thế nhưng ai cũng phải cố gắng thực hiện. Nếu cảm thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Thật tuyệt vời với cách nhận định của thi sĩ Paul Claudel (*) đậm “chất” đức tin: “Chúa xuống thế KHÔNG để diệt trừ khổ đau, cũng KHÔNG giải nghĩa khổ đau, mà để CHIA SỚT khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.
Trong các “mối khổ”, chắc chắn ai cũng biết rằng bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay tinh thần. Riêng bệnh phong thì bệnh nhân rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ về tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).
Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà chỉ muốn chứng tỏ lòng yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài chỉ vì tính nhỏ nhen, vì lòng ghen ghét. Con gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, tìm cách trù dập, hoặc “không ăn được thì đạp đổ”, đó là tình trạng tệ hại của con người vì “cái tôi” quá lớn, nó che khuất mọi tầm nhìn mất rồi. Đúng như một danh nhân đã nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”. Kinh Thánh nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần” (Cn 26:11).
Hữu xạ tự nhiên hương. Mùi hương thơm có sức lan tỏa. Tiếng lành cũng được đồn xa. Đèn sáng rất dễ nhìn thấy. Thế nên vừa mới ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!
Lạy Thiên Chúa là Đấng trung tín, xin ban thêm các nhân đức cần thiết cho con, xin thanh tẩy và thánh hóa con bởi vì con ô uế nhưng thật lòng ước muốn được nên sạch, mặc dù bất xứng nhưng con thành tâm tín thác vào Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của nhân loại. Amen.
------------------
(*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.
22.Ước vọng--Trầm Thiên Thu
Bệnh phong còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen (1) gây ra. Vi khuẩn này không có bào tử nên nó không lây qua vật trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1-2 ngày. Vi khuẩn Mycobacterium Leprae và Mycobacterium Lepromatosis là tác nhân gây bệnh phong. Da thịt bệnh nhân thường nổi nhọt, lở loét, nặng hơn thì vết thương lõm vào da thịt, lông mày rụng, mắt lộ ra,...
Bệnh nhân phong chịu đựng sự đau nhức vào những đêm trăng sáng, trăng càng sáng thì họ càng đau nhức vì vi khuẩn rúc rỉa, do đó mà Thi sĩ Phanxicô Hàn Mặc Tử (1912-1944) đã mong ước “khác người” khi ông thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho...” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co rút lại, khiến đôi tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Ước vọng của họ rất đơn giản: Khỏi bệnh. Họ khổ cả thể lý lẫn tinh thần vì bị mọi người xa lánh, kỳ thị. Ngày nay, bệnh phong đã trị được, nhưng người ta vẫn “ngại” khi tiếp xúc với bệnh nhân phong.
Bệnh phong xuất hiện từ xa xưa, thời Cựu Ước cũng đã có. Thời đó, Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Kinh Thánh giải thích: “Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, nó bị vết thương ở đầu” (Lv 13:43-44). Các bệnh nhân hóa nạn nhân, vì họ không chỉ khổ thể lý mà còn khổ tâm, có thể nói đối với họ là điều sỉ nhục!
Thật vậy, vì thời đó người ta lập ra “quy chế người phong hủi”, khắt khe và tàn nhẫn lắm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:45-46). Ngày nay, cái quan niệm tàn nhẫn đó vẫn chưa thể “tẩy não” hoàn toàn được! Nếu có dịp đến Trại Phong Di Linh (2), bạn sẽ thấy các bệnh nhân phong thật đáng thương. Họ có vẻ ít nói với vẻ ngần ngại lắm. Có lẽ họ không dám tin rằng người đối diện với họ không ác ý, vì trong tâm trí họ đã in sâu “nếp nghĩ” rồi!
Phong cùi thể lý thật đáng sợ và đáng thương, nhưng phong cùi tâm linh còn đáng sợ và đáng thương hơn. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị chứng “phong cùi” này. Nhưng thật diễm phúc vì chúng ta có Đại Bác Sĩ Giêsu chữa trị. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Dạng diễm phúc này đôi khi chúng ta không để ý, nhưng thực sự là niềm hạnh phúc khôn tả, vì được Thiên Chúa chúc phúc.
Một khi cảm nhận được như vậy, chắc hẳn người ta không ngần ngại hoặc lần lữa đến với Bí tích của Lòng Chúa Thương Xót: “Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32:5). Sau đó, người ta còn chia sẻ với người khác về niềm vui thánh thiện: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo!” (Tv 32:11).
Có Chúa là có tất cả. Người có Chúa không còn ham mê điều gì khác ngoài Chúa, và họ làm gì cũng chỉ muốn tôn vinh Chúa. Đúng như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:31-33). Người biết sống vì Chúa thì cũng biết vì tha nhân, bởi vì thước đo lòng mến Chúa là lòng yêu người. Vả lại, ai nói yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân thì là kẻ nói dối (1 Ga 4:20). Ước gì chúng ta khả dĩ mạnh dạn nói được như Thánh Phaolô khi chúng ta tâm sự với người khác: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Trình thuật Mc 1:40-45 nói về việc Đức Giêsu chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16). Một hôm, có người bị phong hủi đến gặp Ngài, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chữ “” ở đây không phải là nghi ngờ, mà chỉ là “một cách nói” mà thôi. Chắc hẳn người này đã rất khổ sở vì mắc bệnh phong đã lâu, khổ đủ thứ, và anh rất muốn được khỏi để không bị xã hội ruồng rẫy. Anh đến cầu xin với Chúa Giêsu, chứng tỏ anh rất vững tin vào Ngài, tin chắc Ngài là người có quyền phép vô song. Anh tin thật chứ không mê tín dị đoan hoặc xin theo phong trào như nhiều người ngày nay vẫn làm. Vâng, vấn đề quan trọng là niềm tin chân thành và vững vàng.
Nghe anh nói, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”. Thật hạnh phúc cho anh vì ước muốn của anh hoàn toàn hợp ý Chúa. Thế nên ngay lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Anh đã được toại nguyện.
Nhưng Ngài nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”. Chúa Giêsu bảo anh “coi chừng” vì anh có nói ra cũng chẳng ai tin, và những kẻ có quyền hành chỉ muốn tìm dịp để bắt giết Ngài. Tuy nhiên, làm sao anh có thể im lặng được, và anh không thể hoãn lại cái sự sung sướng ấy, thế nên vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Ngài không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.
Nhưng Ngài có đi đâu thì người ta cũng tìm cho bằng được, bởi vì họ đã tận mắt thấy anh chàng phong cùi hôm nào đã sạch hoàn toàn. Lạ quá sức! Và rồi dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài, đông như trẩy hội.
Ai cũng có những ước vọng, dù lớn hay nhỏ, ước vọng cho chính mình và cho người khác, nhất là cho những người thân yêu. Ước vọng có thể cao thượng, bình thường hoặc tầm thường. Thi văn sĩ kiêm lý luận phê bình Samuel Johnson (1709-1784, Anh quốc) nói: “Mỗi người đều giàu có hay nghèo khổ tùy thuộc tỷ lệ giữa niềm ước vọng và sự thỏa mãn của mình”.
Thiên Chúa biết rõ mọi ước vọng thầm kín của chúng ta (Tv 38:10). Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn; Ngài cho họ an lòng và lắng tai nghe họ, để bênh kẻ mồ côi và người bị áp bức, khiến cho kẻ mang thân cát bụi, chẳng còn khủng bố ai” (Tv 10:17-18).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết cầu xin Con Một Ngài chữa lành “chứng phong cùi” tâm hồn của chúng con. Xin dẫn chúng con đến với những người nhỏ bé hèn mọn trong xã hội, trong Giáo Hội, để chúng con thông cảm và chia sẻ với họ bằng tấm lòng chân thành vì Danh Thánh Đức Giêsu Kitô. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
----------------------------
(1) Bác sĩ Armauer Hansen, người Na-Uy, đã phát hiện vi khuẩn gây bệnh phong vào năm 1873.
(2) ĐGM Cassaigne, thường được gọi thân thương là Cha Sanh, thuộc Hội Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. Chính ngài đã lập Trại Phong Di linh (Djiring) năm 1929. Ngài sinh ngày 30-1-1895 tại Grenade (Pháp), thụ phong linh mục ngày 19-2-1925. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa Saigon, lễ tấn phong giám mục diễn ra tại Nhà Thờ Đức Bà ngày 24-6-1941. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor). Ngài qua đời lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973 và được mệnh danh là “Tông Đồ của Người Cùi”.
23.Ước muốn--Trầm Thiên Thu
Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42).
Trong ca khúc “Tôi Muốn”, cố NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.
NẾU MUỐN SẠCH…
Vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn. Ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, họ chỉ muốn được khỏi bệnh. Ngày nay người ta sợ chứng ung thư, ngày xưa người ta “ngán” phong (cùi). Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán (Lv 13:42).
Các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46).
Khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, dù là thời Tân ước, dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Gioan Vianney nói: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”.
Bệnh phong là bệnh ghê gớm, ngày xưa là nan y. Ngày nay nan y là ung thư hoặc HIV/AIDS. Nhưng đó là bệnh thể lý. Loại phong cùi, ung thư hoặc HIV ghê gớm hơn chính là tội lỗi, thế nhưng người ta lại… không sợ!
Các tù nhân, ngày được phóng thích đối với họ như thoát khỏi địa ngục. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19). Chắc chắn vậy, vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được!
Thánh Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!
Ai cũng có tội: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, thánh GH tiên khởi Phêrô, thánh Mađalêna, thánh Phaolô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay!
Thiết tưởng, chúng ta cũng nên lưu ý 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi”:
1. Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.
2. Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.
… SẼ ĐƯỢC SẠCH
Khi ước muốn, người ta sẽ chú tâm hành động, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật khó, không hề đơn giản, nhưng ai cũng phải làm. Nếu thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Paul Claudel (*) có cách nhận định thật tuyệt vời: “Chúa xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.
Bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay “bệnh” tinh thần. Bệnh nhân phong rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ vì tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).
Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà vì yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài vì lòng ghen ghét. Gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, đó là tình trạng tệ hại của con người. Đúng như một danh nhân nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”.
Hương thơm lan tỏa. Tiếng lành đồn xa. Thế nên, vừa ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin thanh tẩy và thánh hóa chúng con vì chúng con thật lòng ước muốn được sạch. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
-------------------------
(*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.
24.Hãy cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ
Tin mừng Mc 1: 40-45: Ngay từ hồi xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh phong cùi...
Người phong cùi tiến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, nài xin Chúa chữa lành. Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phong cùi là kẻ hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô uế như thế, kẻ ấy phải sống ngoài cộng đoàn của mình.
Ngay từ hồi xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh phong cùi.
Sách luật Môse nói như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, người phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, râu mép để dài và phải la lớn: Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46).
Trong Kinh Thánh, bệnh phong cùi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh tởm, gậm nhấm và làm biến dạng cơ thể người bệnh, mà nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo.
Kẻ mắc bệnh phong cùi bị xem như đã phạm trọng tội nên bị Chúa trừng phạt.
Một số giáo sĩ đương thời với Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh phong cùi được dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, sống trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam.
Từ thuở xưa, người phong cùi bị mọi người kể như là một xác chết không hồn. Bị phong cùi là ngay lập tức bị khai trừ, bị ruồng bỏ như một thây ma ô uế, nghĩa là không thể tương giao với Thiên Chúa cũng như với con người.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành thứ bệnh này. Ngài đã dùng như một hình phạt thì chỉ mình Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó. (x. cuộc đời Myria, em gái Môse trong Ds 12,1-16).[1]
Chính vì thế, người phong cùi đến với Đức Giêsu, quì gối xuống van xin Người, và nói với Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch.” Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh ta và nói với anh ta: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Ngay lập tức, bệnh phong cùi biến khỏi anh ta và anh ta được sạch.
Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (Mc 1,44).
Anh ta đã không vâng lời Chúa Giêsu nhưng đã lớn tiếng rao báo lòng thương vô bờ bến của Chúa đối với anh. Và đây chính là cách bày tỏ tác động lớn lao của việc được chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng được khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu.
Một Mục Sư Tin Lành kể lại: "Ông được mời đến giảng Lời Chúa tại một trài cùi do cơ quan truyền giáo lập ra. Ông rất đắn đo, do dự vì ông không thích đến một nơi như vậy. Nhưng rồi vì lời mời quá nồng nhiệt tha thiết nên cuối cùng ông không thể từ chối. Ông nghĩ cử tọa là những người bị xã hội ruồng bỏ, ít học, nghèo nàn với cuộc sống của những con người như những vật phế thải nên không cần chuẩn bị bài giảng.
Ông đến nơi trước một ngày. Vừa 7g00 sáng, ông đã thấy họ mang Thánh Kinh đến nhà thờ trong trại, mặc dù theo chương trình, buổi thờ phượng 9g00 mới bắt đầu. Ông tò mò bước lần đến nhà thờ. Ông thấy họ cầu nguyện, họ tôn vinh rồi họ cầu nguyện. Ông thấy họ rất vui, bình an và rất hạnh phúc có lẽ hơn những người lành mạnh trong Hội Thánh của ông.
Tời giờ thờ phượng, họ như sốt ruột, ngóng chờ tôi và rất muốn nghe bài chia sẻ của tôi. Cầu nguyện khai lễ là một người cùi cao niên. Ông cảm tạ Chúa đã ban cho họ sự sống, ban cho họ thức ăn, quần áo mà không phải làm lụng vất vả như nhiều người khác. Ông cầu xin Chúa ban phúc cho những người hảo tâm đã thương yêu và giúp đỡ họ. Ông nài xin Chúa ban cho những ân nhân của họ có cuộc sống hạnh phúc.
Tôi cúi đầu khi nghe lời cầu nguyện. Lòng tôi bắt đầu tự hỏi.
Tại sao họ có sự bình an, hạnh phúc trong khi họ mang trong người chứng bệnh nan y? Biết bao nhiêu người lành lặn như tôi đã vô cùng chật vật tìm kiếm sự bình an, hạnh phúc như họ. Họ sống trong thiếu thốn, với nhu cầu tối thiểu nhưng họ rất bình an và vui thỏa. Tại sao họ có thể cám ơn Chúa khi đang mang trên mình một chứng bệnh nan y, bị xã hội ruồng bỏ? Những thắc mắc đó vẫn tiếp tục trong đầu tôi.
Sau đó họ tôn vinh. Họ hát bản nhạc” Hãy Đếm Các Ơn Phúc Chúa Ban”. Họ hát hết ba câu rồi họ tiếp tục tôn vinh trở lại. Họ hát say mê, say mê tôn vinh cho đến khi người điều khiển chương trình ra dấu chấm dứt thì họ mới ngưng hát.
Tôi thấy xấu hổ trước khung cảnh đầy hạnh phúc này. Tôi xấu hổ trước thái độ tôn vinh của họ. Tôi thấy tôi không xứng đáng đứng trên bục giảng để nói với một cử tọa tràn đầy hạnh phúc, tràn ngập sự bình an, thỏa lòng và nhất là hết lòng cảm tạ vì những hồng ân Chúa ban cho họ.
Mục Sư kể tiếp: “Dĩ nhiên bài chia sẻ của tôi là lời thú tội".
- Tôi xấu hổ vì tôi không "Đếm Các Ơn Phúc Chúa Ban" cho mà chỉ biết trông chờ những gì còn đang thiếu.
- Tôi xấu hổ vì tôi chỉ cảm tạ những gì tôi có mà người khác không có, trong khi họ cảm tạ Chúa vì những nhu yếu của con người như không khí, hơi thở, thức ăn cần dùng, quần áo giản dị, lành lặn và giấc ngủ an lành mỗi đêm.
Quả thật họ ý thức được thế nào là hành trang của một khách lữ hành, sống tạm ở thế gian rồi sẽ trở về với Chúa. Chúng ta biết mình là lữ hành nhưng sống như một người định cư vĩnh viễn. Mai này gặp Chúa, thật sẽ ngỡ ngàng, xấu hổ.
Người phong cùi đã lớn tiếng cám ơn Chúa Giêsu dù Chúa Giêsu đã cấm anh ta. Đây là một điều làm chúng ta phải suy nghĩ. Nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra những ơn lành mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, chắc chắn chúng ta phải loan báo Tin Vui cho những người khác. Trong thực tế, chúng ta đã nhận được rất nhiều ơn, nhưng chúng ta đã không nhận ra những hồng ân đó. Vậy chúng ta hãy tha thiết xin Chúa ban cho chúng ta nhận ra các ơn lành phần hồn phần xác mà mỗi ngày Thiên Chúa ban cho chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ hăng say đi loan báo Tin Mừng Tin Vui như người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
-----------------
[1] Jacques Hervieux: CN 6B TN
25.Hãy đem đến cho xã hội chút tình người--Lm Nguyễn Hữu Thy
Một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người, đó là tính hợp quần, tính đoàn thể: Bất cứ con người nào cũng đều mang trong mình nhu cầu muốn được giao lưu với người khác, muốn được thuộc về một gia đình, muốn được thuộc về một đoàn thể hay một cộng đồng.
Vì thế, sự đau khổ lớn nhất của một bệnh nhân phong cùi không chỉ là bệnh tật đang ngày đêm gặm mòn cơ thể anh, nhưng trước hết là sự ghê tởm và xa tránh của đồng loại, là sự bị cô lập khỏi xã hội loài người. Anh không còn được sống trong gia đình, không còn được tiếp xúc với người khõe mạnh hay không còn được sống chung trong làng xóm với người khác, nhưng phải sống ở một nơi biệt lập hẳn với người khác, ở trong những túp lều hay trong những hang động xa xôi hẻo lánh. Vì sợ lây bệnh, nên không một ai dám bắt tay hay động vào người anh. Đó thật là một bản án vô cùng nặng nề, là cả một cực hình khủng khiếp nhất mà con người phải gánh chịu. Vì thế, trong một cuốn tiểu thuyết nổi danh tựa đề là “La Peste“ - Bệnh Dịch, Albert Camus đã trình bày rất ấn tượng về tình trạng của người bị mắc bệnh dịch: phải sống ra sao, bị đối xử như thế nào, v.v... Nhất là ông đã làm cho người đọc hiểu được sự tác động của bệnh dịch trên tâm trạng và trên cả cuộc sống người bệnh trầm trọng như thế nào!
Ngày nay bệnh phonh cùi hay bệnh hủi không còn mang tính cách nghiêm trọng nữa, vì nó có thể chữa lành. Một thứ bệnh khủng khiếp từng tiêu hủy bao nhiêu triệu nhân mạng trong hằng thế kỷ qua đã hoàn toàn bị chận đứng. Đó thật là một niềm vui quá to lớn, là một ơn lành vô cùng trọng đại cho toàn thể nhân loại. Con người có thể thở phào nhẹ nhõm và sống tin tưởng lạc quan hơn.
Thế nhưng ngày nay, một loại vi khuẩn của bệnh “phong cùi “kiểu mới đã tái xuất hiện dưới những dạng thức và danh xưng hoàn toàn khác hẳn, đang tác hại trên nhân loại và đã biến bao nhiêu người thành “người hủi thời đại“. Dĩ nhiên, ở đây tôi không muốn chỉ đề cập tới những bệnh nhân bị nhiễm vi trùng Xi-đa, HIV hay những người nghiện xì ke ma túy, nhưng cả những người bị tàn tật đang phải sống nhờ vào sự bố thí của xã hội, những người vô gia cư đang lang thang đầu đường xó chợ hay những tội phạm và thân nhân của họ, v.v....
Có lẽ con người trong bất cứ thời đại hay trong bất cứ xã hội nào cũng phải mang ơn những người bệnh phong cùi, những người đang bị đẩy ra ngoài lề xã hội, bởi vì nhờ họ bệnh mà chúng ta mới biết được rằng mình còn có quá nhiều may mắn và hạnh phúc là không bị nhiễm những thứ vi trùng của những căn bệnh độc hãi đó. Và cũng nhờ vậy mà chưa bị xã hội cô lập, tẩy chay, chưa bị đẩy ra ngoài lệ xã hội.
Tuy nhiên, ai tự quá đề cao mình, cho mình là quan trọng, là “cái rốn “ của vũ trụ, người đó đương nhiên coi kẻ khác là đối thủ nguy hiểm của mình và không thể chấp nhận cùng cho đứng trên một chiến tuyến với mình đươc, nhưng tìm cách gạt bỏ ra ngoài lề xã hội. Vâng, theo tâm lý, khi thấy có ai đó có lối sống khác với chúng ta, tư duy khác với chúng ta, có tư tuởng chính trị khác với chúng ta hay giao lưu với những người chúng ta không quen biết,nhất là với những người chúng ta không ưa, v.v... tự nhiên chúng ta cảm thấy anh ta là người xa lạ, cảm thấy mình đang bị đe dọa và rôi tìm cách xa lánh, cô lập anh ta và tìm cách đẩy anh ta ra ngoài lề: Loại người này không thể chấp nhận được, y không thuộc về quỉ đạo của chúng tôi. Tiếp đế, vì không ưa nên đổ thừa cho bỏ ghét, cốt tìm cách loại trừ cho bằng được loại đối tượng mà chúng ta không ưa như thế!
Trong khi đó, Đức Kitô, Đấng mà chúng ta được mang trên mình tên gọi của Người - Kitô hữu - lại có quan điểm và cách cư xử hoàn toàn khác hẳn. Đối với Người, trước hết tất cả mọi người đều là con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa dựng nên, được Thiên Chúa vô cùng yêu thương và đã được Người kêu mời hưởng ơn cứu rỗi. Đức Giêsu không chỉ dạy cho con người biết rằng họ đều là anh chị em với nhau, bởi vì họ có một Cha chung trên Trời, nhưng chính Người đã sống như thế. Sự cố Đức Giêsu chữa lành người bệnh cùi được tường thuật lại trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là một ví dụ điển hình về thái độ và cách xử sự đầy nhân bản của Đức Giêsu.
Trước hết, một cuộc sống như người bị bệnh phong này đang sống, kể như là không còn sống nữa, sống mà cũng như đã chết. Đó là cái chết về mặt tinh thần, cái chết “xã hội, trước khi chết thực sự về mặt y khoa. Do đó Đức Giêsu đã thương cho số phận của anh ta nên đã giơ tay ra và nói với người bệnh đáng thương đang đứng trước mặt mình: “Tôi muốn cho anh nên sạch và khỏi bệnh!” Vâng, tình thương của Đức Giêsu đối với loài người chúng ta không chỉ bằng lời nói suông, không chỉ bằng tâm tình thông cảm và an ủi lý thuyết, nhưng bằng chính việc làm cụ thể, bằng sự dấn thân trọn vẹn.
Bởi vậy, chúng ta cần phải thành thực tự hỏi lòng mình:
- Làm thế nào để những người mắc phải những thứ bệnh khủng khiếp như phong hủi hay Xi-đa - xưa kia cũng như ngày nay - có thể tin tưởng được rằng họ vẫn được chấp nhận, khi chính họ lại không cảm nghiệm được điều đó trong đời sống hằng ngày?
- Làm thế nào để cho vợ con và thân nhân của của những người phạm pháp còn tin tưởng vào sự thiện hảo và lòng tốt của đồng loại được, khi họ đang bị người láng giềng lối xóm nghi kỵ, tránh né và cô lập?
- Làm thế nào để những người vợ/chồng ly dị nhau và nay lại lập gia đình với người khác, còn tin tưởng vào lòng thương xót và khoan dung vô bờ của Thiên Chúa, khi họ bị chính nghững người Kitô hữu khác đối xử một cách bất khoan dung với họ, xua đuổi họ, nhất là tẩy chay không cho họ được lãnh nhận các Phép Bí Tích?
- Làm thế nào để một người luôn bị thất bại trong cuộc đời, luôn chỉ gặp đau khổ và cảm thấy mình bỏ rơi, còn có thể sống lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc được, khi không có lấy một người còn biết thông cảm và chia sẻ số phận hẩm hiu của anh ta, cùng đồng hành và động viên anh ta, giơ tay mắn chặt tay anh ta và thăm hỏi thân tình?
Chắc chắn rằng xã hội chúng ta, Giáo Hội chúng ta cũng như mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ không bị mất mát hay thiệt hại gì cả, nếu chúng ta biết gạt bỏ những định kiến và cố gắng đem đến cho cuộc sống xã hội thêm chút tình người, thêm chút tình nhân bản nữa, một chút nữa thôi! Nếu được như thế, bài Tin Mừng về biến cố Đức Giêsu chữa lành người phong cùi trong Chúa Nhật hôm nay khi được đọc trong tất cả các nhà thờ trên toàn thế giới sẽ không trở thành uổng công vô ích! Nếu được như thế, phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa lành bệnh xưa sẽ còn được tái diễn mãi, ít là được “lành bệnh“ về mặt tinh thần, và giải cứu “người bị bệnh phong“ ra khỏi chốn ngục tù sự chết và đem anh ta trở lại cuộc sống mới trong tin tưởng và an hòa.
26.Tôi muốn anh được sạch--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Từ câu 1:39, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu đã bắt đầu mở rộng hoạt động khắp miền Galilê. Tiếp theo là câu chuyện chữa lành người phong hủi. Và trong câu kết (1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở Galilê cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi Chúa Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng, như dân chúng ở Capharnaum đã làm (1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung hủi được thuật lại riêng, không chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh nhân đều được mang đến cho Chúa Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh nhân phung hủi nầy tự mình tìm đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng ai dám đụng đến người phung hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã được làm nổi bật cách đặc biệt trong trình thuật nầy.
Hành động đầu tiên của bệnh nhân là đến lại gần và quỳ gối trước mặt Người. Theo luật Môisen, bệnh phong hủi là một bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh bị xem như người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ của dân Thiên Chúa thánh thiện, và phải xa lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị đánh giá như là một sự hủy hoại không những thân xác, mà cả mọi tương quan của bệnh nhân với Thiên Chúa và xã hội. Do đó, đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu là một thái độ đức tin. Ông đến với Chúa Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành nhiều người (1:21-28; 32-34). Và ông cũng thấy Người có quyền năng hơn cả các luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể luật Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu xin chữa bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông tin Người có quyền năng, và Người có thể làm được nếu Người muốn. Ông phó thác vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch.
Đáp lại cử chỉ đức tin của người phong hủi, Chúa Giêsu đưa tay đụng đến anh và nói lời chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu hiệu hành động của quyền năng Thiên Chúa (Xh 3:20; 7:5; Tv 138:7), hoặc hành động nhân danh Thiên Chúa (Xh 14:16.21.27). Đụng đến người phung hủi theo Luật là vấy uế. Nhưng vì Chúa Giêsu ở trên Luật Môisen (x. 2:10-12), nên khi đụng đến ông, Người không bị ô uế. Ngược lại, Người làm cho người bị kể là ô uế được lành sạch hoàn toàn. Cũng đáp lại lời tuyên xưng đức tin của người phung hủi, Chúa Giêsu dùng lại lời của ông mà chữa ông lành:”Tôi muốn, anh sạch đi!”.
Lý do Chúa Giêsu muốn người phung hủi ra về trong thinh lặng là để ông có thể cảm nghiệm lâu dài và cách cá nhân quyền năng của Thiên Chúa, biểu lộ trong Chúa Giêsu, đang thực hiện trong ông. Quyền năng ấy đã chữa ông lành bệnh phong hủi, đã đưa ông vào lại trong tương quan và hiệp thông với Thiên Chúa và con người (x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa Giêsu không thành công. Người không thể kiềm hãm được người phong hủi. Ông được chữa lành, và ông kinh nghiệm bản thân về lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa quá lớn lao trong ông, khiến ông chỉ có một cách là “rao giảng” kèrusso, tin mừng ấy cho mọi người biết. Sau Gioan (1:4), Chúa Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ ba rao giảng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa (1:45), và những người khác sau ông (3:14; 5:20; 6:12; 7:36).
Chúa Giêsu đến để hội nhập lại những người ngoài trật tự của con người và Thiên Chúa. Người thực hiện điều ấy với quyền năng và lòng thương xót, nên danh Người vẫn được loan truyền giữa con người.
27.Người mắc bệnh phong hủi--Lm. Anphongsô
Chúa Giêsu vẫn luôn mở rộng lòng đối với tất cả chúng ta, chỉ cần chúng ta đến và thưa với Người bằng tâm tình đơn sơ như anh bệnh phong hôm nay: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Chia sẻ:
Căn bệnh truyền nhiễm mà hôm nay chúng ta nghe, ở Việt Nam, được người miền Bắc gọi là “hủi”, người miền Nam gọi là “cùi”, còn người miền Trung gọi là “phong”. Từ “phong” nghe có vẻ thanh hơn, nên được sử dụng rộng rãi để nói về số phận bi thương của bệnh nhân mang trên mình căn bệnh truyền nhiễm.
Trong Bài đọc I trích sách Lêvi chúng ta vừa nghe, theo luật Cựu Ước, vì phong là bệnh nan y và hay lây, nên trên da thịt những ai phát ra nhọt, lác, lở loét... đều phải rời bỏ gia đình, sống riêng ở nơi hoang vắng, nghĩa địa. Người phong phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu. Mỗi khi có người nào đến gần mình, bệnh nhân phải la lên: “Ô uế! Ô uế!” để người ta biết mà tránh xa. (Lv 13,45-46). Bệnh nhân phong chịu đau đớn nhất mỗi khi trời có trăng. Trăng càng sáng thì vi trùng Hansen càng rúc rỉa, do đó mà thi sĩ Hàn Mặc Tử, tên thật là Phanxicô Trần Trọng Trí (1912-1944), trong những tháng ngày chống chọi với căn bệnh này, đã phải đau đớn thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho...” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).
Bị đau đớn về thể xác như thế, người phong còn chịu đau đớn trong tâm hồn gấp đôi vì bị cách ly với mọi người, bị coi như mắc trọng tội. Không phải chỉ trong xã hội Do Thái ngày xưa, mà ngay cả thời nay, một số người cũng nhìn người phong với một ánh nhìn kỳ thị, tránh xa. Và chính vì bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài, nên người phong sống mà như chết.
Thế nhưng, người bệnh phong trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc 1,40-45) thay vì tránh xa, thì lại bất chấp sự cấm đoán của luật lệ, anh lấy hết can đảm đến gặp Chúa Giêsu để cầu khẩn Người: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Phải công nhận lời cầu nguyện này rất đẹp lòng Chúa, vì nó biểu lộ lòng tín thác của bệnh nhân vào Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, có quyền năng chữa lành bệnh cho anh. Việc anh không đòi hỏi Chúa Giêsu chữa bệnh theo ý muốn của anh, nhưng để Người tự do hành động theo ý muốn của Người “Chỉ cần Ngài muốn là đủ” cho thấy bệnh nhân trông cậy vào lòng từ bi nhân hậu của Người. Chính sự chân thành của anh khi cầu xin đã chạm đến lòng trắc ẩn thẳm sâu nơi Chúa Giêsu khiến Người lập tức nói: “Tôi muốn, anh sạch đi”.
Chúa Giêsu vẫn luôn mở rộng lòng đối với tất cả chúng ta, chỉ cần chúng ta đến và thưa với Người bằng tâm tình đơn sơ như anh bệnh phong hôm nay: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Dẫu vậy, đã có lần nào chúng ta cầu xin Chúa tha thiết với tâm tình phó thác vào tình thương và quyền năng của Chúa như người phong hôm nay? Nhu cầu của chúng ta luôn có, nhưng để lãnh nhận ơn Chúa, có khi nào lúc cầu xin, chúng ta đặt ý muốn của Chúa lên trên ý muốn của chúng ta? Thay vì “Xin cho con vạn sự như ý”, chúng ta có dám học nơi gương người phong hôm nay tâm tình cậy trông để cũng biết cầu nguyện rằng “Xin cho con vạn sự như ý Chúa”.
Hôm nay cũng là ngày 11 tháng 2, ngày Quốc tế cầu cho Bệnh nhân. Hiện nay, trên thế giới, dường như càng ngày càng có những căn bệnh mới, bệnh lạ mà các nhà khoa học chưa tìm ra được thuốc chữa. Còn có những người đang phải chịu sự ghẻ lạnh, không được đoái hoài gì tới: đó là những người già cả ốm đau bị con cái bỏ rơi, những người mang những căn bệnh xã hội bị kỳ thị. Thêm vào đó, còn có những trẻ vị thành niên bụi đời do chịu những cú sốc và không được quan tâm từ việc gia đình có cha mẹ đường ai nấy đi; và còn những người trẻ được nuông chiều nên đã rơi vào nghiện ngập games, ma túy, bạo lực; những thai nhi là hoa quả của tình yêu nhưng lại bị xem là hậu quả tai hại nên phải đối diện với việc bị sát hại; trẻ sơ sinh bị bỏ rơi vì cha mẹ coi chúng như một món nợ, cả những người nam nữ bị bán làm nô lệ; những người tàn tật bị xem là những kẻ ăn bám xã hội…
Trước những vấn nạn ấy, chúng ta còn được mời gọi bắt chước Chúa Giêsu, đến với các “bệnh nhân” bằng con tim của Chúa. Như khoa sư phạm giáo dục Don Bosco, thánh nhân dùng thuật ngữ ‘Amorevolezza’ để diễn tả lòng thương mến này. Chính “lý trí, tôn giáo và lòng thương mến” là một trong ba yếu tố dẫn đến thành công. Nếu không có lòng thương mến, Chúa Giêsu đã không chạm đến người phong và chữa lành cho anh. Cũng vậy, nếu thiếu vắng tình yêu, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể chữa lành những san chấn tâm lý, bệnh tật và nỗi đau khổ của anh chị em.
Vâng, mỗi chúng ta được mời gọi hãy sống với một tấm lòng cảm thương như Chúa. Chính khi chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, chúng ta mới có thể sống với một tấm lòng sẵn sàng làm việc thiện cho anh chị em mình. Ngày Tết Nguyên Đán Mậu Tuất 2018 đã gần kề, vậy chúng ta cũng được mời gọi không chỉ lo cho mình và gia đình có được cái Tết đầy ắp tình thân và hạnh phúc nhưng cũng được mời gọi có một trái tim nhân lành như Chúa để có thể đong đầy tình thương cho người kém may mắn, để họ cũng được đón Tế trong bình an của Chúa Xuân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có một trái tim cảm thương để biết hành động như lời thánh nữ Têrêsa Avila mời gọi: “Ngày nay Chúa Giêsu không còn hiện diện cách thể lý nhưng Người hiện diện qua chính con người của chúng ta. Người dùng chính đôi mắt của chúng ta để Người nhìn ngắm thế giới, Người dùng chính đôi chân của chúng ta để Người có thể bước đến giúp đỡ anh chị em mình, Người dùng chính cánh tay của chúng ta để nâng dậy và chúc lành cho thế giới. Vì thế, chúng ta hãy là cánh tay, cặp mắt, đôi chân của Chúa”. Amen.
28.Chữa người phong cùi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--Radio Veritas Asia
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.
Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:
- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?
Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:
- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.
Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.
Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.
29.Người bị loại trừ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.
Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội.
Anh chị em thân mến,
Có hiểu số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch.
Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi.
Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong cùi”. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật…
Thái độ tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời.
Có lẽ ông bà anh chị em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người bạn của người phong cùi, một chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ người phong cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ.
Mười tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm phục tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được gọi là: “Cha của người phong cùi”.
Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài.
Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.
30.Bệnh phong cùi--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi vị bỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: “Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy”.
Thế mà hai năm sau, với niềm tự tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khôn của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Tại đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.
***
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên “ô uế” để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: “Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch” (Mc 1,40).
Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh” (Mc 1,41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M. Carré có nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách. Chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy, người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế, Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thế xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra p hép lạ”.
Bí quyết trở nên hgùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: “In God We trust” (chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salesio nói: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen.
31.Lòng thương xót vượt qua tất cả--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Có một cô gái đẹp và tính tình rất tốt. Nhan sắc cũng như đức tính của cô làm mê hồn nhiều chàng trai, khiến biết bao trai tráng trong làng mê mẩn đến điên cuồng và rất nhiều người muốn được làm chồng cô trong tương lai!
Tuy nhiên, một tai ương ập đến với cô, đó là: một hôm, cô đang nấu ăn ở trong bếp, bỗng nhiên bình ga bốc nổ, khiến lửa bốc cháy dữ dội và bén vào người làm cô bị bỏng rất nặng. Người thân của cô đưa cô đến bệnh viện, nhưng các bác sĩ chỉ có thể cứu sống cô, họ không thể làm thêm được gì hết! Kết cục, khuôn mặt và thân hình của cô bị biến dạng, trông ghê rợn hãi hùng! Cũng kể từ thời điểm đó, cô không được sự ngưỡng mộ của những thanh niên cùng trang lứa. Chẳng ai thèm để ý và hy vọng được làm chồng của cô như trước nữa. Ai nhìn thấy cô, họ cũng đều sợ hãi vì sự dị dạng bất thường nơi cô. Nhiều người còn buông ra những lời nguyền rủa không thương tiếc cho số phận hẩm hiu của nàng. Nói chung, họ đều xa tránh cô, khiến cô rất đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần!
Hôm nay, câu chuyện Tin Mừng cũng trình bày về số phận của người bị phong cùi. Anh ta cũng trải qua biết bao đau đớn về thể xác và chịu đựng nỗi khốn khổ khôn nguôi về tinh thần.
Tuy nhiên, may mắn cho anh cùi trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, giữa biết bao người khinh miệt, ruồng bỏ, hất hủi, loại trừ, chà đạp và xúc phạm, anh đã gặp được quý nhân phù trợ. Đức Giêsu đã không chỉ thương anh bằng tình thương của con người với nhau, mà Ngài còn thương anh bằng trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa, nên anh đã được chữa lành không chỉ thể xác, nhưng còn được chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn mà bấy lâu anh đã lãnh chịu.
1. Căn bệnh thế kỷ và nỗi khổ khôn nguôi
Để hiểu được nỗi khổ tâm đến xót xa của người bệnh và thấy được lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu, chúng ta cần tìm hiểu về quan niệm, lối nhìn của người Dothái thời bấy giờ về căn bệnh quái ác này và thái độ của họ đối với người không may mắc phải.
Vào thời Đức Giêsu, người ta rất sợ hãi nghe được hay nhìn thấy hoặc đụng trạm đến những người bị bệnh phong. Họ coi những người này như một thứ quái dị, đồ bỏ. Vì thế, những người bị mắc phải bệnh cùi, họ bị chính người thân trong gia đình và xã hội loại ra bên lề.
Theo quan niệm của người Dothái, bất cứ ai tiếp xúc với người bệnh phong thì đều bị coi là ô uế và nếu đụng chạm tới thì mắc tội trọng. Người mắc bệnh phong cùi thì không bao giờ được vào thành Giêrusalem cũng như bất cứ thành phố nào được bảo vệ bằng tường bao. Người phong cùi mà vô tình thò đầu vào nhà nào thì nhà ấy trở thành nhà ô uế và ngay cả cái kèo trên mái nhà cũng bị ô uế theo. Khi ra ngoài đường, họ không được chào hỏi ai và cũng chẳng được ai chào hỏi. Khoảng cách mà người bệnh và người khỏe phải giữ với nhau, đó là gần hai mét. Nếu vô tình, người bệnh đứng ở đầu gió, thì những ai ở cùng hướng gió phải cách 45 mét. Hơn nữa, người ta kiêng kỵ đến độ những vật bày bán ở nơi người phong đi qua, cũng không nên mua và chắc chắn là không ăn.
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở góc độ bị coi thường khinh miệt, mà chính bản thân họ, họ cũng phải tự mình ý thức là người đáng bị kinh tởm và tự nhận mình là người gây nên sự bất tiện cho mọi người. Để hiểu rõ điều này, chúng ta thấy sách Lêvi có đề cập đến như sau: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).
Chính vì sự phân biệt phũ phàng đến như vậy, nên họ bị đẩy vào rừng sâu hay nơi sa mạc hoặc ra nơi đồng ruộng để tồn tại.
Trong hoàn cảnh đó, những người bị bệnh, họ đau đớn tột cùng về thể xác, nhưng có lẽ nỗi đau tinh thần còn lớn hơn gấp bội qua việc bị khinh thường và loại trừ ngay từ những người thân. Nỗi ám ảnh về số phận và tự ti vì bị coi là tội lỗi nên mới phải chịu thứ bệnh quái ác này đã làm cho họ bị dằn vặt tinh thần rất nhiều!
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu và chính anh cùi đã lội ngược dòng với những quan niệm của người Dothái đương thời, để giữa Ngài và anh có một mối liên hệ mật thiết qua lòng trắc ẩn của Đức Giêsu và nơi đức tin mạnh mẽ của anh, khiến Đức Giêsu đã làm phép lạ để giải thoát anh cách toàn diện, trọn vẹn.
2. Đức tin và lòng thương xót
Vượt qua ranh giới, bất chấp lề luật, chẳng sợ lây nhiễm, nên Đức Giêsu đã tiến lại và chạm vào người bị phong cùi. Đây là hành vi phi thường đến dợn tóc gáy mỗi khi người Dothái nghĩ tới!
Còn nơi người phong cùi, anh ta có thái độ tin tưởng quá phi thường và thái độ tôn thờ đến tuyệt đối, nên đã dám đến gần Đức Giêsu, quỳ gối và van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”.
Thái độ này của Đức Giêsu hoàn toàn đi ngược lại với những nhà lãnh đạo và quan niệm của dân chúng thời bấy giờ. Nơi Đức Giêsu, Ngài không thể ngồi đó xem cách hành xử bất công của người Dothái và sự tủi nhục của người bệnh. Không! Ngài coi nó như bổn phận buộc mình phải thi hành. Điều này làm toát lên dung mạo xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
3. Bài học cho chúng ta
Sống trong xã hội loài người, dù thời điểm nào, người ta cũng cần lắm một tấm lòng cảm thông đối với người bất hạnh. Mặt khác, nếu chúng ta là những người bị coi là bất hạnh, thì chính mình phải là người can đảm chạy đến với Chúa để được Ngài xót thương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, hãy noi gương Đức Giêsu, luôn yêu thương và không loại trừ anh chị em chúng ta, nhất là những người bất hạnh, nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, buồn khổ, mặc cảm, tự ti…. Luôn biết hàn gắn những vết thương tâm hồn và tôn trọng nhân phẩm của người khác. Tránh xa sự chia rẽ và thái độ phân biệt đối xử để sống sự liên đới với mọi người.
Thứ đến, cần tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Luôn sống tình bác ái yêu thương, nhất là hãy hành động vì đức ái. Có thế, chúng ta mới đụng chạm được cốt lõi của Tin Mừng và mới có cơ hội ngửi, cảm, thấu nỗi đau khổ của anh chị em xung quanh và ra tay nâng đỡ họ. Cần can đảm loại trừ những gì làm thui chột tình thương và không phù hợp với giá trị Tin Mừng.
Thứ đến, noi gương người phong cùi, hãy khiêm tốn và can đảm đứng dạy để tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài sẽ chữa lành những ai bệnh tật, xoa dịu những tâm hồn đau thương, băng bó những cõi lòng tan nát, an ủi những ai sầu khổ và cứu chuộc những ai có lòng tin.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho đôi mắt của chúng con được mở ra và nhìn thấy những người bất hạnh; cho trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương; cho khối óc biết nghĩ đến người đau khổ; cho đôi chân biết đi tới những nơi cần sự giúp đỡ; cho đôi tay biết mở ra để ban phát, và, cho đôi tai biết lắng nghe để cảm thông. Amen.
32.Ai là người đồng thời với người phong cùi?--‘Mở Ra Những Kho Tàng’
Căn bệnh cùi đã lây nhiễm rất nhiều trong xã hội thời bấy giờ. Vào thời Chúa Giêsu căn bệnh này thì đáng sợ nhất trong mọi thứ bệnh tật. Những khuôn mặt bị tàn phá của nạn nhân đã cưỡng bách họ phải sống trong vùng hoang mạc xa cách gia đình và bạn bè, họ không còn xứng đáng thờ lạy một cách công khai nữa.
Khi người phong cùi tiến đến gặp Chúa Giêsu để tìm sự chữa lành, ông ta đã ra ngoài giới hạn của mình. Ông không được phép rời khỏi chỗ lưu đày của mình để đến nơi dân chúng tụ họp lại. Ông là một người đã bị xã hội ruồng bỏ. Đúng hơn khi yêu cầu sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, ông ta đã kêu lên: “Tôi bị ô uế, tôi bị ô uế” và như vậy là không ai dám đến gần ông ta.
Đoạn Phúc Âm ngày hôm nay thì rất đặc biệt, không những Chúa Giêsu tiếp đón người đàn ông đó; mà thật sự Ngài còn đưa tay ra và đụng đến ông. Ngài không xua đuổi, khinh bỉ người đàn ông biến dạng khốn khổ này. Và hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã kêu xin một quyền lực cao hơn của luật Lêvi là bất cứ ai đụng đến người hủi là người không thanh sạch và như thế có nghĩa là người không xứng đáng làm việc thờ lạy. Chúa Giêsu đã ngấm ngầm loại bỏ điều luật như vậy và Ngài tuyên bố đức Ái cao hơn tất cả các việc khác. Ngài nói với người hủi hãy đi trình diện với tư tế ở đền thờ để vị tư tế tuyên bố ông đã được sạch bệnh hủi và chấp nhận cho ông trở lại việc thờ phượng công khai.
Ngài muốn thay đổi thái độ của chúng ta hướng đến những người hủi và những người bị loại bỏ trong xã hội. Chúng ta cần phải chấp nhận một thách đố từ Chúa Giêsu, không nhìn những người hủi như là chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng hãy nhìn những người đó với tất cả sự quan tâm bởi họ đã bị những người cùng thời khinh miệt.
Căn bệnh đáng sợ nhất trong thời đại của chúng ta là bệnh Siđa, một cách nào đó như là bệnh hủi trong thời đại chúng ta bây giờ. Một số người nhanh chóng kết án bất cứ người nào lây nhiễm HIV, làm như đó là một sự xuống cấp của luân lý, đi xa hơn nữa có thể nói Thiên Chúa đã phạt họ, rằng họ phải chịu như vậy thì đáng lắm, Chúa Giêsu không hỏi người cùi về đạo đức của ông. Người không làm một xét đoán nào về ông ta ngay cả khi Ngài đọc được nỗi lòng của ông. Chúa Giêsu biết Cha của Người là Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ và Chúa Giêsu đã đến để trợ giúp người phong hủi này. Điều đó nói với chúng ta thái độ mà chúng ta phải trở thành.
Một số người bạn của chúng ta muốn người ngoại quốc ra khỏi đất nước của mình. Thái độ đó của họ chính đáng khi xem những người dân nhập cư như tội nhân, bởi vì họ hay xem thường và hay phá luật. Giáo Hội không bào chữa cho bất kỳ hành động bất công hay thô bạo nào, nhưng Giáo Hội vẫn lấy Chúa Giêsu làm gương mẫu đức ái thì cao hơn bất cứ luật nào khác.
Một số người nhìn vẻ khinh miệt trên những người lãnh tiền trợ cấp, họ là những bà mẹ không kết hôn, họ rất nhanh chóng dè bỉu các phần từ khác trong nòi giống hoặc quốc gia có điều gì hơn bản thân họ. Có ai lắng nghe Phúc Âm rồi lại khinh bỉ người khác không? Có người nào theo Chúa Giêsu trong hành trình nhân từ và thương xót của Người để rồi đối xử với người khác cách khinh bỉ không? Có người nào cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, mà lại kết án người khác không?
Ngày nay ít người mắc bệnh hủi nhưng lan tràn giữa chúng ta là căn bệnh oán ghét, tự cho mình là công chính và loại bỏ những người bạn của mình, những người có lương tâm không thể có những tinh thần đó, nó xa lạ với những người theo Chúa Giêsu.
33.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Trần Bình Trọng
Ngay từ thời cổ xưa, bệnh phong cùi đã gây ra mối lo sợ cho loài người, tương tự như mối lo sợ của người đời nay về những bệnh nan trị như ung thư, si-đa... Ngoài việc phải phấn đấu với chứng bệnh huỷ hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một hình phạt thấm thía hơn về tinh thần: đó là bị người đời xa tránh.
Người phong cùi thời xưa phải sống tách biệt khỏi người lành mạnh. Sách Lêvi ghi lại: Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại (Lv 13:46). Nếu gặp người mạnh khoẻ ngoài đường, họ phải hô hoán lên: Ô uế (Lv 13:45) cho người khác biết mà đề phòng. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì bệnh phong cùi bị coi là nhơ bẩn. Vì thế mà người phong cùi trong Phúc âm hôm nay quyết tâm đến gặp Chúa để xin được chữa lành: Nếu Ngài muốn, xin Ngài cứu chữa tôi (Mc 1:40). Động lòng thương xót, Chúa giơ tay động vào người cùi mà bảo: Tôi muốn, anh hãy được sạch (Mc 1:42).
Đọc những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người thi sĩ trẻ tuổi tài cao mắc bệnh cùi, phải vào ở trại Qui Hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh buồn tủi và sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người mắc bệnh như thế nào! Cuối cùng người thi sĩ bệnh phong đã tìm nương tựa vào Chúa và niềm an ủi nơi trinh nữ Maria.
Hình ảnh linh mục Đa-miêng, vị tông đồ người cùi, cho thấy một đời hi sinh quên mình. Khi Đức cha ở đảo Molokai giới thiệu cha Đamiêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đamiêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức cha giải thích cho cha Đamiêng là họ không thể hiểu nổi tại sao một người ở phương xa từ Bỉ quốc, không liên hệ gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như họ, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của mình nên mới đến sờ thử vào người cha, xem cha có thực sự mắc bệnh cùi không? Rồi họ nói với nhau: Không. Dần dần cha Đamiêng hoà đồng được với họ và không còn cảm thấy ghê tởm như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.
Một vị tông đồ khác, Đức cha Cassaigne, từ chức tổng giám mục Sàigòn để lên phục vụ người cùi ở Di Linh. Đức cha viết thư về Pháp kể lại: khi những ung nhọt bắt đầu lở loét, khiến người xung quanh tởm ghớm, người cùi không tự giúp mình được nữa, thì dân làng đưa họ vào xó rừng, để người cùi ở lại đó một mình, cô đơn, hiu quạnh, đói khổ mà chết dần chết mòn. Cuối cùng Đức Cha Cassaigne cũng chết vì mắc bệnh cùi.
Tình yêu Chúa còn thúc đẩy những nữ tu và giáo dân như Sơ Maria Goretti và chị Anna Xuân đã phục vụ những trại cùi ở quê nhà. Nữ tu Nguyễn Thị Khuyên sau hai mươi năm săn sóc người cùi ở trại Ja Lai, Kông Tum cũng mắc bệnh mà chết. Năm 1963, báo chí Sàigòn loan tin về một chiêu đãi viên trẻ đẹp, hãng máy bay PANAM Mỹ, tình nguyện sang phục vụ người cùi ở trại Di Linh sáu tháng. Đến xin ý kiến Giám mục Fulton Sheen xem cô phải làm gì để tạ ơn Thiên Chúa cho sắc đẹp của cô như Đức Cha đã có lần khen và hỏi xem cô đã làm gì để tạ ơn Chúa. Bất chợt không sửa soạn, Đức Cha đề nghị cô nên sang Việt Nam giúp Đức Cha Cassaigne phục vụ người cùi ở đây một thời gian để làm dịu bớt những đau khổ và lẻ loi của người xấu số. Thất vọng về lời đề nghị, cô bỏ ra về mà không thèm chào. Nhờ suy nghĩ và cầu nguyện, cuối cùng cô đã chấp nhận ra đi.
Hiện nay vẫn còn có những trại phong cùi trên thế giới. Năm 2005, con số khai báo cho Liên hiệp quốc là 47.596 người mắc bệnh phong cùi ở Phi châu, 36.877 ở Mỹ châu, 5.398 ở miền tây Đia Trung Hải, 186.182 ở Đông Nam Á châu gồm Việt nam với 28 trại phong cùi và 10.010 ở phía Tây Thái Bình Dương. Ngày nay vẫn còn có những linh mục, nữ tu, và giáo dân tình nguyện phục vụ họ. Vào Ngày Phong Cùi Thế Giới 29 tháng 01, 2006 Đức giáo hoàng Bênêđítô XVI cho rằng nguyên nhân của bệnh phong cùi là do sự nghèo đói và kêu gọi cộng đồng quốc tế tìm cách diệt trừ mầm mống của bệnh này. Có dịp đi thăm một trại phong cùi, với cặp mắt quan sát bệnh nhân cũng như những người phục vụ họ, cùng với đầu óc suy tư và ghi nhận, ta sẽ thấy đời sống thay đổi. Rồi sẽ thấy mình bớt phạm tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Và rồi mình cũng sẽ tự hỏi mình xem yếu tố nào đã thúc đẩy những người này dám hi sinh quên mình để phục vụ họ như vậy?
Giới tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường ví tội lỗi như một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Chúa và tha nhân. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Có những tội khiến người ta muốn tránh, không muốn gặp người khác vì mắc cở. Người khác cũng không muốn gặp họ vì không muốn gợi lại những kỉ niệm đau lòng quá khứ và không muốn trở thành nạn nhân lần thứ hai.
Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phong cùi đã tìm đến Chúa để xin được ơn chữa lành. Bệnh nhân đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu với Chúa. Điều mà người mắc bệnh cùi thiêng liêng cần có là đức tin và lòng cậy trông như niềm tin cậy của người phong cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến lòng thương xót và quyền năng của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh hoặc có tội. Người không nhận mình có bệnh hay có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.
Lời cầu nguyện cho bệnh nhân phong và những người phục vụ họ:
Lạy Chúa, Chúa đã đến chữa người phong cùi thuở xưa.
Xin Chúa cũng chữa bệnh phong trong thời hiện đại,
ban cho bệnh nhân lòng tin cậy, phó thác vào Chúa.
Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia
để họ tìm ra thuốc men và cách thế trị bệnh.
Còn những người phục vụ bệnh nhân,
xin Chúa là nguồn sức mạnh và kiên nhẫn của họ
và gìn giữ họ khỏi bị nhiễm bệnh. Amen.
34.Một lời cầu nguyện đẹp--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Bệnh tật nào cũng luôn khiến con người đau khổ. Nhưng bệnh phong cùi có lẽ là căn bệnh khiến con người đau khổ gấp đôi. Họ không chỉ đau khổ về thể xác mà còn đau khổ về tâm hồn. Họ không được hòa nhập với xã hội. Họ phải sống trong các trại, cách ly với môi trường xung quanh. Mặc dù ngày hôm nay người ta đã tìm ra được thuốc để chữa trị căn bệnh nan y này, nhưng những người phong cùi vẫn chưa thoát được cái nhìn kỳ thị của xã hội. Đạo diễn Trần Văn Thủy viết trong kịch bản phim “Chuyện tử tế” cho rằng cái gì xấu xa nhất thì người ta gán cho người hủi: Đồ hủi, không dây với hủi, lười như hủi, xấu như hủi, bẩn như hủi …Tôi không có may mắn được sống với người phong cùi như các bạn đồng khóa với tôi. Nhưng tôi cũng đã có vài lần được theo cha linh hướng Cosma Hoàng Văn Đạt, nay là Giám mục Bắc Ninh, đến thăm và dâng lễ tại các trại phong Miền Bắc. Gặp gỡ họ, tôi mới thấy hết được nỗi đau của họ. Có người chẳng bao giờ được về thăm quê hương vì người thân không muốn. Có những người được người thân đến thăm thì còn buồn hơn. Người thân đến thăm mà không dám uống nước vì sợ lây bệnh.
Nếu như người phong cùi ngày hôm nay phải gặp nhiều nỗi khổ như thế thì người phong cùi thời Chúa Giêsu còn khổ hơn nhiều lần. Bài đọc 1 trích trong sách Lêvi mô tả tình trạng của người mắc bệnh phong: “Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”. (Lv 13,45-46). Hiểu như thế, ta mới thấy hết tình trạng bi đát của người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Cũng như bao nhiêu người khác, hẳn anh đã nghe biết về một Ngôn Sứ mới xuất hiện có tên là Giêsu. Vị Ngôn Sứ ấy có những khả năng phi thường. Người giảng dạy và chữa được mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người làm cho người mù sáng mắt, người câm nói được, người điếc nghe được và người què đi lại bình thường. Trong thâm tâm, anh tin rằng Chúa có khả năng chữa anh lành bệnh phong cùi. Nhưng làm sao đến được với Chúa? Trong Tin Mừng, Thánh Marcô mô tả vắn gọn rằng “một người phong cùi đến tìm gặp Chúa Giêsu”. Nhưng tôi nghĩ trong thực tế, người phong cùi đã phải vất vả lắm mới tới gặp được Chúa. Anh phải vượt qua mọi rào cản của đám đông. Có lẽ trong tột cùng của đau khổ, con người có thể làm được tất cả. Chắc chắn có nhiều cái nhìn soi mói và ghẻ lạnh. Nhưng anh không quan tâm. Anh tin vào Chúa và xác tín rằng Chúa có thể chữa anh. Và cuối cùng anh đã gặp được Chúa. Nếu tôi là anh lúc đó, tôi sẽ cầu nguyện với Chúa thế này: “Chúa ơi con đau khổ quá. Con đã bị căn bệnh này từ lâu. Con không chỉ đau về thân xác mà còn tan nát tận cõi lòng. Cả xã hội và người thân đều tránh xa con. Xin Chúa hãy chữa con lành đi”. Thế nhưng anh đã không cầu như tôi nghĩ. Anh thưa với Chúa: Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa con lành. Ôi một lời cầu nguyện thật đẹp. Không phải con muốn mà là Chúa muốn. Dù con bi đát, dù con đau khổ nhưng nếu Chúa muốn thế thì con chấp nhận. Cầu nguyện như thế, trong lòng anh đã đầy sức mạnh rồi. Anh sẽ có đủ sức để chấp nhận tất cả nghịch cảnh. Anh không bắt Chúa làm theo ý anh mà để thuận theo ý Chúa. Chúa đã cho anh hơn cả những gì anh mong đợi. Chúa đã chữa anh lành và trả anh về với cuộc sống cộng đoàn.
Tôi thấy nhiều người trong chúng ta không làm được như anh phong cùi hôm nay. Chúng ta đến nhà thờ để cầu nguyện, nhưng không phải thuận theo ý Chúa mà theo ý của chúng ta. Và khi không được như ý, chúng ta hay có thái độ buồn chán và thất vọng. Chúng ta đổ lỗi cho Chúa, đổ lỗi cho tha nhân. Cuối cùng, chúng ta không có được sự bình an trong tâm hồn.
Lạy Chúa, mọi sự của con đều là của Chúa. Chúa trao ban, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy. Xin cho con biết chấp nhận nghịch cảnh dù cho có bi đát đến đâu. Xin đừng theo ý con nhưng một xin theo ý Chúa. Xin ban cho con đủ sức để thực thi những gì Chúa muốn trong cuộc đời của con. Amen.
35.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với dân Do thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi ấy không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bị bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và bị ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống nghề nghiệp và tất cả mọi người thân thương quen biết. Một lần vĩnh biệt như là đã chết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và nỗi đau lòng khổ tâm vì bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi cộng đồng xã hội phải nói thật là có sức tàn phá khủng khiếp. Ở mọi phương diện, người cùi là một người bên lề xã hội, không chút hy vọng nào được hưởng tình thân hữu của bè bạn huốn gì đến việc đón nhận tình yêu. Nạn nhân không còn được coi như là con người nữa, phải bới tìm thức ăn trong những đống rác ngoài thành, luôn đeo lủng lẳng một cái chuông quanh cổ để báo cho người ta tránh xa. Hơn nữa theo quan niệm Do Thái bệnh tật là một hình phạt bởi tội lỗi mà ra và là dấu chỉ bị tách xa khỏi Thiên Chúa quyền năng, Đấng trao ban sự sống. Mỗi khi dân Do thái không trung tín với Giavê Thiên Chúa, Tiên tri Ysaia đã dùng bệnh phong cùi làm biểu tượng ám chỉ tình trạng bệnh hoạn của dân trầm kha đến mức nào.
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu rất là xúc động cảm thông khi gặp người phong cùi. Ngài không sợ giơ tay ra động chạm vào họ. Đây là lần duy nhất trong số những lần tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa luôn quan tâm chăm sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn.
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Nó khu trú trong những tâm hồn băng hoại làm chúng ta phải chia lìa với Thiên Chúa, và còn nghiêm trọng hơn là bệnh cùi thiêng liêng không ai thấy và trong suốt một thời gian dài cũng chẳng ai hay. Tin vui đích thực dành cho tất cả chúng ta là cũng y như ngày xưa Đức Chúa Giêsu giơ tay ra chạm tới và chữa lành người cùi, thì ngày nay Ngài cũng sẽ giơ tay ra cứu vớt chúng ta, chữa lành băng bó tất cả những vết thương tội lỗi chúng ta.
Nếu ngày xưa bệnh cùi bị xem là một thứ bệnh dịch khủng khiếp thì ngày nay bệnh AIDS đang đe doạ sinh mạng biết bao người trên thế giới. Điều mà người ta thường quên mất là họ vẫn là một con người vì thế trong khi đang chết dần mòn vì vẫn chưa có thuốc chữa, hay vắc-xin chủng ngừa chống lây lan, những người bệnh AIDS nhiều khi bị xa lánh, bị xem thường, bị coi là đáng kiếp với số phần thịnh nộ của Thiên Chúa. Là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta đã được sai đi để chữa lành, để giải hoà và yêu thương vô điều kiện. Quyền năng của Thiên Chúa nơi bản năng thiện hảo của người môn đệ Đức Kitô sẽ có dịp vươn ra chạm đến những tâm hồn bằng nhiều cách không sao giải thích được. Trong khi chúng ta cảm thấy phẫn nộ bất bình như bị xúc phạm trước phong cách cư xử với người phong cùi thời trước, thì ngày nay nếu như có nhu cầu kêu gọi, liệu người ta có hy vọng là chúng ta sẽ đem đến cho một căn bệnh AIDS khủng khiếp những cảm thông xoa dịu chữa lành của Đức Kitô?
36.Niềm vui tăng--Lm. Vũ Đình Tường
Khi nhận được tin vui sẽ có hai sự kiện xảy ra trong tim ta. Một là niềm vui làm cho tim ta thổn thức khôn nguôi. Một khi niềm vui làm cho con tim thổn thức thì con tim không thể cầm giữ niềm vui rộn ràng đó cho chính nó nhưng nó đòi được bộc phát ra, chia sẻ với thân nhân, thân hữu. Điều kì lạ là càng chia sẻ niềm vui thì niềm vui đó càng lớn mạnh và rộn ràng hơn. Đây chính là kinh nghiệm bản thân anh chàng mắc bệnh phong hủi trong sách Thánh Macô 1-40-50. Thời đó ai mắc bệnh cùi hủi coi như đời tàn vì không những bệnh nan y mà còn bị loại ra khỏi cộng đoàn đang sống. Bệnh khiến mọi người kinh tởm, sợ, tránh xa vì sợ lây bệnh nên đẩy người bệnh ra khỏi cộng đoàn. Một hiểu lầm tai hại, giết người đáng tiếc là xã hội thời đó liệt kẻ bệnh vào hàng tội lỗi, bị trừng phạt bệnh nan y.
Người phong hủi gặp Đức Kitô và xin Ngài chữa lành. Đức Kitô tỏ lòng thương chữa anh lành bệnh. Ngài dặn anh giữ im lặng đừng nói cho công chúng nhưng báo cho linh mục và dâng lễ vật tạ ơn. Báo cho linh mục để anh được công nhận và đón trở về cộng đoàn. Dâng lễ vật tạ ơn để nói lên tâm tình tạ ơn của anh với Thiên Chúa. Niềm vui của anh quá lớn, trào dâng anh đã làm nửađiều Đức Kitô dặn, dâng lễ vật, còn im tiếng thì không. Anh lên tiếng ca tụng Thiên Chúa trước đám đông. Kết quả của việc không vâng lời dẫn đến hậu quả.
(Đức Kitô) không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người c.45
Đức Kitô ngăn cấm người phong hủi nói về Đức Kitô vì anh không biết rõ Ngài lài ai. Thực ra không phải mình anh mà hầu như không ai biết rõ về Đức Kitô và sứ mạng của Ngài. Người gọi Ngài là tiên tri đại tài; kẻ khác bác sĩ lừng danh; người nữa một thanh niên đạo đức; một số cho Ngài là nhà lãnh đạo đầy triển vọng xuất hiện đến giải thoát dân chúng khỏi ách đô hộ của hoàng đế Roma. Đức Kitô xuống thế không phải làm những điều như người ta tưởng. Sứ mạng của Ngài là mang tình yêu Chúa đến tha nhân. Sứ mạng Ngài là đem con người ra Ánh Sáng thoát bóng tối sự chết. Sứ mạng Ngài là giải thoát con người khỏi nô lệ của ma quỉ. Sứ mạng Ngài là dậy con người biết vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Đức Kitô ngăn cấm người phong hủi nói về Người bởi thời gian được chọn mặc khải Đức Kitô là ai là do chính Đức Kitô chọn, không phải ma quỉ hay con người có quyền chọn lựa mà Chính Chúa. Vì thế Đức Kitô ngăn cấm ma quỉ nói Ngài là ai. Thiên Chúa là Đấng duy nhất quyết định khi nào đến lúc mặc khải về Ngài. Ngày nay chúng ta biết thời gian mặc khải Đức Kitô là Con Thiên Chúa xảy ra sau Phục Sinh. Sau khi chịu khổ hình thập giá và sống lại vinh quang là lúc Đức Kitô tỏ vinh quang của Ngài một cách rõ ràng cho muôn dân. Đức Kitô dậy các môn đệ làm điều đó khi sai các ông đi rao giảng về Đức Kitô.
Có lẽ những ai đã từng biết người bị phong hủi trước kia nay thấy anh bình phục mừng thay cho anh và cùng với anh loan tin vui đó cho mọi người. Còn người đi đường không biết khi thấy anh vui mừng, rạng rỡ. Họ kinh ngạc và hỏi nhau điều chi làm cho con người mạnh khoẻ vui hơn hội xuân thế. Đức Kitô không những chữa anh lành bệnh mà còn phục hồi chức vị thành viên cộng đoàn, ban cho anh đời sống mới, con tim hoan lạc và ban thêm niềm tin nhỏ xíu của anh thành một người đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô.
Chúng ta đừng ngạc nhiên khi cầu xin Đức Kitô chữa bệnh cho mình hoặc thân nhân mà có khi lời cầu xin được nhận lời; khi không được Chúa đáp ứng. Đức Kitô chữa bệnh để tỏ lộ quyền năng của Thiên Chúa trên bệnh tật và sự dữ, thần ác. Sứ mạng cao cả của Đức Kitô là ban ơn cứu độ cho muôn dân, giải thoát họ khỏi xiềng xích tội lỗi và chỉ dẫn con đường về cùng Chúa Cha. Đấng có quyền quyết định cho gì, cho bao nhiêu, lúc nào thuộc về Chúa là Đấng ban phát, không phải kẻ xin là chúng ta có quyền quyết định. Kẻ xin chỉ biết đón nhận với tâm tình tạ ơn, miệng cao rao ca tụng Thiên Chúa, như người phong hủi đã làm.
37.Chia sẻ niềm vui--Lm. Vũ Đình Tường
Con người không chỉ có nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ mà còn nhu cầu tinh thần cũng như nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tinh thần thể hiện qua việc tâm sự buồn cần chia sẻ cùng người tin tưởng, biết lắng nghe. Nềm vui cần chia sẻ cho người khác biết để niềm vui được trọn vẹn. Niềm vui trọn vẹn là niềm vui được chia sẻ cho mọi người cùng chung niềm vui với mình. Niềm vui không trọn vẹn là niềm vui bị giấu kín trong cõi lòng. Phải dấu kín vì sợ. Thí dụ một người trúng số độc đắc không giám công khai cho người khác biết niềm vui vì sợ niềm vui kia sẽ mang đến hậu quả tai hại vì thế chỉ âm thầm vui một mình.
Biết được nhu cầu cần chia sẻ cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người bị bệnh phong cùi là bệnh thời đó không thuốc chữa. Ai mắc bệnh đó coi như bị bỏ ra ngoài xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, không cho sinh hoạt chung trong cộng đoàn. Người đó có cuộc sống dật dờ, sống cũng như chết vì không còn bạn bè, thân thích. Anh ta được Đức Kitô chữa lành. Niềm vui của anh tràn ngập tâm hồn nên anh không thể cầm giữ trong lòng mà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa. Mặc dù Đức Kitô dặn anh đừng nói cho ai biết việc này cho đến khi vào đền thờ dâng lời tạ ơn nhưng anh không kiềm chế được niềm vui và để cho nó bộc phát. Có lẽ dù không lớn tiếng nói, khuôn mặt anh không dấu được niềm vui. Miệng luôn điểm nụ cười. Làn da trên người tố cáo niềm vui nội tâm, nó không còn sần sùi, trông đến gớm như xưa nhưng bóng nhẵn. Chính những dấu chỉ này tố cáo anh nhận được ơn đặc biệt. Vì thế khi nhìn bàn tay sạch bệnh anh không thể nào không lớn tiếng vui mừng. Soi bóng mình trên nước anh không khỏi nhảy múa. Toàn thân con người anh tự tố cáo, toàn thân con người viết lên bản nhạc vui, nội tâm mừng rỡ, tấm lòng hân hoan. Chính vì thế mà anh không thể kìm hãm được niềm vui.
Hàng năm tôi có cơ may nhận biết những khuôn mặt ngây thơ, rộn rã, niềm vui như thế. Đó là những khuôn mặt cười tươi, hồn nhiên, trong sáng của các em chuẩn bị tập dợt trong dịp lãnh nhận bí tích Thêm Sức hay Rước Lễ lần đầu. Trên khuôn mặt thơ dại kia cũng vẽ lên niềm vui rực sáng như thế. Các em cũng tung tăng trong y phục bóng láng, cũng vui vẻ khoe nhau quần áo, lơ, giầy mới. Các em cũng bước đi đá chân sáo, nhảy nhót nhịp nhàng diễn tả niềm vui tràn đầy trong tâm hồn. Rất ít thấy niềm vui như trên thể hiện nơi người lớn. Người lớn diễn tả niềm vui rộn ràng, kín đáo hơn các em. Tôi bắt gặp người nào đó tay làm miệng hát nho nhỏ câu ca tụng tình Chúa. Niềm vui diễn tả nhẹ nhàng qua nốt nhạc. Tôi thấy anh nọ thanh thản trong bộ y phục, đường ủi thẳng tắp, không một vết nhăn. Cái càvạt còn thơm mùi vải mới. Thái độ thong thả của anh cho biết anh đang vui trong lòng, lòng phơi phới tiến về trung tâm chia sẻ niềm vui với mọi người. Tôi gặp cụ già, rẽ ngôi giữa đầu, quần áo chỉnh tề đến trước giờ hội hơn tiếng đồng hồ. Điều đó biểu lộ niềm vui mong chờ cụ ôm ấp trong tim.
Những niềm vui đó bàng bạc trong cuộc sống, trong những sinh hoạt tôn giáo, những dịp đại lễ, nhắc chúng ta tôn giáo không phải luôn là gánh nặng với nhiều luật lệ cứng ngắc. Tôn giáo là cánh cửa mang lại niềm vui, thức tỉnh niềm vui trong tâm hồn. Niềm vui được đánh thức, được khuếch tán rộng ra mỗi khi tâm hồn ta gặp gỡ Đức Kitô.
Anh cùi gặp Đức Kitô xin Ngài được chữa lành, làm sống lại cuộc đời ủ dột. Xã hội loài người liệt anh vào hạng vất bỏ. Đức Kitô ban cho anh sự sống với, sống vui mạnh hơn những người đón nhận ơn mưa móc, hưởng lộc từ xã hội.
Xin ơn gặp gỡ Đức Kitô, cuộc đời được biến đổi thành chuỗi ngày vui thoả.
38.Giêsu: Đấng chữa lành mọi bệnh tật con người--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Bệnh tật là một thảm họa đối với con người. Nó không chỉ phá hủy dần năng lực sống, mà tệ hơn, tù hãm hoặc dần tước đoạt tình liên đới hiệp thông đẩy con người vào tình trạng cô đơn, cô độc, chết dần chết mòn.
Bệnh tật giết chết con người, cả thể xác lẫn tinh thần. Vì lẽ đó, ai cũng sợ hãi và áp dụng mọi biện pháp phòng tránh.
Thời Chúa Giê-su, bệnh phong cùi là thảm họa, vì nó lây lan trong cộng đồng. Người mắc bệnh phải bị cách ly cho đến khi chứng minh là đã được chữa lành.
Covid-19 là thảm họa trên toàn thế giới. Tính nghiêm trọng của dịch bệnh còn hơn cả bệnh cùi. Bất cứ ai dương tính hoặc đến từ vùng dịch đều phải cách ly bắt buộc trong một khoảng thời gian ấn định. Virus phát tán vào không khí do hô hấp và lập tức lây sang người khác khi không tuân thủ khoảng cách an toàn.
Bệnh phong cùi thời Chúa Giê-su bị coi là nan y, nguy hiểm. Covid-19 bị xếp vào loại đặc biệt nguy hiểm, bởi sự lây lan khủng khiếp và giết chết bệnh nhân trong một thời gian ngắn.
Từ khi phát hiện nhiễm bệnh cho đến chết phải bị cách ly hoàn toàn. Chỉ nghĩ đến nó thôi cũng thấy rùng rợn.
Con người cũng bất lực trước dịch bệnh như bệnh phong cùi thời Chúa Giê-su !
Ai sẽ cứu chúng ta khỏi tình trạng bi thảm này?
Thưa: tình liên đới hiệp thông trong Chúa Giê-su chữa lành tất cả, vì nó đặt nền tảng trên chính “tình yêu và sự sống”.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày thảm cảnh con người bị khuất phục bởi bệnh tật và ơn chữa lành trong Đức Kitô.
Bài đọc I, trích sách Lê-vi, xác định dấu hiệu bệnh phong cùi khi quan sát trên da thịt có những ung nhọt, dần lở loét thành vết thương không lành, thì đó là bệnh phong cùi.
Luật quy định cho người mắc bệnh phong: phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và luôn kêu lên: “Ô uế, ô uế”, người khác nghe biết tránh xa để khỏi nhiễm uế.
Nặng nề hơn là phải ở riêng, cách ly khỏi sinh hoạt xã hội. Đó chính là sự nghiệt ngã đổ xuống nạn nhân. Lẽ ra người bệnh phải được quan tâm, nâng đỡ, săn sóc đặc biệt, để họ vơi đi nỗi đau bệnh tật. Sự kì thị này đẩy nạn nhân vào đau khổ, thất vọng gấp nhiều lần.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã đến đúng lúc. Chúa và người phong cùi gặp nhau. Cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử. Giê-su đã vượt lên trên những quy định khắt khe của luật. Người đến gần, chạm vào anh, khiến phong hủi biến mất, anh được sạch.
Ai có thể vui mừng hơn anh phong cùi được khỏi bệnh hôm nay.
Không thể cầm mình, anh đi trình diện với tư tế, chứng minh đã khỏi bệnh, rồi lớn tiếng rao truyền và tung tin mừng khắp nơi.
Anh phong cùi được sạch trở nên chứng nhân Tin Mừng. Anh đã góp phần thúc đẩy dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giê-su.
Thưa anh chị em,
Không chỉ anh phong cùi, mà tất cả cùng chung tình trạng, vì mọi người đều đã phạm tội và đã che khuất vinh quang Thiên Chúa, nên khi được thứ tha, mỗi người cũng cần có thái độ như người được khỏi bệnh hôm nay.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, chỉ cách thức tông đồ rất đơn giản, nhưng hữu hiệu: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Việc kế tiếp cần lưu tâm: “Đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là Do Thái hay dân ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 10, 32).
Lời dạy mang tính phổ quát đại đồng, nghĩa là: không loại trừ ai.
Phao-lô nêu gương cho chúng ta thực hành nếp sống văn hóa toàn thể, tích cực bồi đắp nền văn minh tình thương. Trong mọi hoàn cảnh, ngài cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống niềm hy vọng đức tin như người phong cùi đã dám chạy đến với Chúa và kêu cầu ơn chữa lành. Đức tin ấy có việc làm nên đã sẵn sàng trút mọi lo toan cho Chúa, vì tin rằng người mang lấy gánh nặng bệnh tật của anh.
Thật, ơn chữa lành của Chúa, không đơn giản xẩy ra sau lệnh truyền của Giê-su, nhưng là sự nhận lấy, mang thay bệnh tật và sự yếu đau của chúng ta mà lôi kéo nó lên thập giá. Chúa Giê-su phải trả giá đắt để chuộc lấy sự hư mất của chúng ta.
Ơn chữa lành được thực hiện bằng một cuộc trao đổi kỳ diệu: Đấng vốn giầu có, chấp nhận trở nên nghèo hèn, để chúng ta, những kẻ vốn nghèo trở nên giầu có mọi sự. Đấng mang lấy bệnh tật, thương tích, tội lỗi của chúng ta, để chúng ta được ơn chữa lành và được thứ tha. Đấng hằng sống đã chấp nhận sự chết, để những kẻ phải chết được sống muôn đời.
Cảm tạ lòng Chúa xót thương, chúng ta cũng cần hành động như người phong cùi hôm nay: chỗi dậy, lớn tiếng loan truyền cho mọi người, Thiên Chúa đã yêu thương và đã làm điều kỳ diệu cho chúng ta. Hành động tạ ơn đó rất đẹp lòng Chúa.
Nguyện xin bình an của Chúa ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.
39.Tìm kiếm lương thực nuôi hồn--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.
Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính tình và cách sống của em lại thuộc loài chó.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu. (Mt 4,4)
Khao khát lương thực tinh thần
Tin Mừng hôm nay cho thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giêsu, không phải để tìm lương thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.
Vì thấy các môn đệ mệt nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giêsu sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi cho lại sức.
Các môn đệ vừa xuống thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giêsu và các môn đệ.
Khi Chúa Giêsu lên bờ thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ.
Thiên Chúa ban cho con người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.
Chúng ta vô cùng diễm phúc khi được sống bên Chúa Giêsu là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, nếu không biết khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp. Tổ tiên họ sở hữu một kho tàng vô cùng phong phú nằm ngay dưới chân mình. Đó là một kho dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng trắng” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có bậc nhất.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giêsu, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con luôn nhớ rằng thân xác của chúng con mai đây sẽ hư nát và chỉ còn là tro bụi, nên chỉ cần chăm sóc vừa phải, còn linh hồn chúng con sẽ tồn tại vĩnh viễn nên đáng được nuôi dưỡng chu đáo hơn. Amen.
40.Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà
Thời Chúa Giêsu, người mắc bệnh phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn trong đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người phong hủi phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái, những người thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm hại.
Bài trích sách Lêvi được trích đọc trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình trạng thương tâm đó: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi riêng bên ngoài trại.” (Lêvi 13, 45-46)
Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa Giêsu.
Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh phong hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm không thua kém.
Giáo lý công giáo dạy rằng bí tích thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành nho được tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành thế nào thì Chúa Giêsu cũng chuyển thông sự sống thần linh của Người cho các tín hữu như thế.
Bí tích thánh tẩy làm cho “người tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giêsu” (giáo lý công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa Giêsu được thông ban cho họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong từng chi thể.
Thế nhưng, khi phạm tội trọng, người tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giêsu như cành nho bị chặt phăng khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể.
Hậu quả của việc cắt lìa nầy là họ trở nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận của họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình, thôn xóm và cách ly với mọi người.
Chúa Giêsu cứu ta khỏi tội và đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh.
Khi “người bị phong hủi đến gặp Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.” (Mc 1, 40-42)
Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa Giêsu nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42)
Từ đây, anh được thoát khỏi chứng bệnh quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô tịch để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu.
Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi tình trạng “cành lìa cây”, “cánh tay bị cắt lìa cơ thể” do tội lỗi gây ra, Chúa Giêsu lập nên bí tích giải tội để nối kết chúng ta lại với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người tiếp tục truyền qua cho chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho cành, như sự sống từ thân mình chuyển qua cho bàn tay.
Ngày qua ngày, Chúa Giêsu vẫn trông chờ chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như người chủ chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu.
Ước gì chúng ta biết thành khẩn tìm đến với Chúa Giêsu như người mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ xuống trước mặt Người và tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa lại được thông truyền cho chúng con.”
41.Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi--Noel Quesson
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.
Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:
- Bác đi đâu vậy?
- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.
- Chúa của bác to hay nhỏ?
- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi.
Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy.
Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.
Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế.
Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.
42.Hãy được lành!--Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Dù tình trạng bi đát đến mức nào, Chúa Giêsu vẫn có thể hoán chuyển thành tốt hơn, miễn là ta biết tin vào Ngài"
Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người anh, Peter Cropper được mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hoà nhạc đặc biệt. Vì lòng ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari. Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du dương. Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng khinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! thế là Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một người chuyên sửa đàn dày dạn Kinh nghiệm tên là Charler Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước. Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!
Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ đám thính giả.
Câu chuyện về chiếc vĩ cầm trên là một hỉnh ảnh tuyệt hảo diễn ý những gì đã xảy ra cho người bị phong cùi trong bài Phúc Âm hôm nay. Thời xưa, không hình ảnh nào ghê tởm bằng hình ảnh người bệnh cùi. Ai ai cũng sợ bị anh ta lây bệnh. Đời sống của người bệnh cùi chẳng khác gì cuộc sống địa ngục. Người khác lấy làm gớm ghiếc anh ta đã dành, mà chính anh ta cũng kinh tởm chính mình nữa. Thánh vịnh 31 đã mô tả tình trạng thê thảm của anh như sau; "Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi, trông thấy tôi ngoài đường là họ lánh xa… Tôi chả khác nào đồ vật phế thải" (Tv 31: 11-12). Thế mà đối với người phung cùi bị đát như vậy, Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài chạm vào và chữa cho anh ta lành bệnh.
Câu chuyện người phung cùi và câu chuyện chiếc vĩ cầm chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với tất cả chúng ta. Chúng cho ta thấy những điều vẫn thường xuyên xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hạn một biến cố cực kỳ bi đát nào đó như; một người thân mình qua đời, bạn bè phản bội mình, tại nạn xẩy tới làm con mình tàn tật, cha mình mất sở làm, mẹ mình nghiện rượu… khi sự bất hạnh ấy chụp lên đầu chúng ta, lòng chúng ta đầy đớn đau, lo lắng, giống như người bệnh cùi lúc bị vướng bệnh, chúng ta cảm thấy cõi lòng tan nát, và giống như Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng hết sức khủng hoảng.
Vậy hai câu chuyện trên dạy chúng ta điều gì khi lâm phải những hoàn cảnh bi đát tương tự như thế? Chúng cho ta thấy không có hoàn cảnh bi đát nào khủng khiếp đến mức ta không thể vượt qua được. Không một tai hoạ nào tàn khốc đến mức không thể phục hồi được. Dầu cho rủi ro tàn phá đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhặt lên những mãnh vụn và bắt đầu khiến tạo lại thành một hình dạng mới. Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng đời mình kể như vĩnh viễn tàn lụi, hư hỏng, chúng ta chỉ cần quay nhìn về Chúa Giêsu, Ngài có thể chữa lành cuộc đời tan vỡ chúng ta, giống như người sửa đàn tài hoa đã sửa chữa chiếc vĩ cầm bể nát nọ. Và Chúa Giêsu còn làm được hơn thế. Ngài có thể biến một cuộc đời tan nát thành tốt hơn, đẹp hơn trước đó nữa.
Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: "Chị nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!" thế mà hai năm sau, cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được, cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm, những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho thấy thiên hạ đã lầm, mà chẳng là vì cậu có năng khiếu về môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic Berlin đã đến. Glenn chẳng những được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.
Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân, nay đã trở thành vận động viên chạy chay nhanh nhất thế giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra.
Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau: "Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã lòng. " (2 Cr 4: 8-9, 16)
Và trong thư gởi tín hữu Roma thánh Phaolô có nói; "Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho những kẻ yêu mến Ngài" (Rm 8:28)
Đây chính là "Tin Mừng" ẩn chứa trong các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Những bài đọc này dạy ta biết rằng dù ta có gặp tai nạn thảm khốc đến mức nào, chúng ta cũng vẫn có thể được chữa lành- giống như trường hợp chiếc vĩ cầm quí giá nọ. Những bài đọc dạy ta rằng bất cứ bệnh tật nào dù thê lương đến đâu xảy đến cho chúng ta như bệnh cùi chẳng hạn, chúng ta vẫn có thể được chữa lành dù sự kiện bi đát nào ụp xuống trên ta giống trường hợp xảy đến cho Glenn, chúng ta cũng vẫn có thể hoàn toàn phục hồi như cậu ta. Những bài đọc còn dạy chúng ta thêm điều này. Dù Chúa Giêsu có thể không chọn phương cách phục hồi toàn vẹn đời sống cho chúng ta, Ngài vẫn có thể dùng nghịch cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn trước.
Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện được tìm thấy trong túi một chiến binh tử trận.
"Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…
Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc nhiều nhất"…
43.Mùa tình yêu--Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Mùa tình yêu đã đến. Những bó hoa thơm ngát đưa hương tình yêu vượt qua mọi biên giới. Tình yêu đem con người lại gần nhau. Tình yêu đan chéo cuộc đời. Tình yêu là một sức mạnh sáng tạo và mạc khải những khung trời huyền nhiệm trong thế giới con người. Chính sức mạnh tình yêu đã kéo Con Thiên Chúa đến trần gian, khiến Đức Giêsu có thể đến với những người đau khổ nhất. Hôm nay Chúa đến với người phong cùi để mạc khải tất cả sức mạnh tình yêu Thiên Chúa vượt qua mọi trở ngại và phục hồi giá trị đích thực cho con người.
Số phận con người
Mặc dù khoa học và xã hội đã đi đến những bước nhảy vọt trong việc phục hồi giá trị cho những người phong cùi, nhưng ngày nay những người phong cùi vẫn phải sống trong một thế giới riêng. Bình thường việc đó chỉ có tính cách xã hội, vì sợ lây bệnh. Nhưng ngày xưa luật Do thái còn muốn đi xa hơn. Những người phong cùi bị mất hẳn tư cách tôn giáo, bị loại ra khỏi cộng đoàn phượng tự. Đó là một nỗi sỉ nhục lớn lao cho những người mắc bệnh nan y. Tất cả đều xa lánh. Kể cả thần thánh cũng không chấp nhận những con người khiếm khuyết và không còn xứng đáng làm phần tử xã hội Giavê, một xã hội chuyên lo phụng tự. Thiếu lành mạnh thân xác tố cáo một linh hồn tội lỗi. Khi đã bị các tư tế chứng nhận mắc bệnh, người phong cùi phải biệt lánh ra một nơi, phải để tóc râu phủ kín người và phải la lên cho mọi người tránh xa. Họ phải xa lánh mọi người kể cả gia đình và bạn bè. Nói tóm, họ bị tước hết quyền làm người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đến phá vỡ hàng rào ngăn cản người phong cùi với cộng đồng. Phép lạ Người làm không chỉ nhằm chữa tật bệnh thể xác, nhưng còn trả lại quyền làm người và đưa họ về với làng xóm, về cuộc sống cộng đồng. Bởi vậy, khác với mọi người tránh xa vì sợ lây bệnh, Đức Giêsu “giơ tay đụng vào” người phong hủi (Mc 1:41). Hơn nữa “Người chạnh lòng thương” (c.41) trước lời van xin tha thiết của người bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c.40). Quyền lực của Người không thể kìm nổi trước một đức tin mạnh mẽ như thế. Người nói: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (c.41). Điều mơ ước của người phong hủi đã thành sự thật: “Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (c.42). Còn niềm vui nào lớn hơn?! Anh đã chứng kiến một ân phúc lớn nhất trong đời anh. Thân thể anh từ nay sạch hết mọi vết thương mưng mủ. Chân tay lành lặn. Da dẻ mịn màng như tất cả mọi người.
Điểm quan trọng không phải là thân xác lành mạnh, nhưng là toàn thể cuộc sống của anh. Để được hội nhập vào cộng đoàn, anh phải tuân theo lời căn dặn của Đức Giêsu: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (c.44). Đó là thủ tục tối thiểu để người phong cùi trở lại cuộc sống bình thường như mọi người. Từ nay anh sẽ lấy lại tất cả những tương quan đã mất. Bạn bè, gia đình, thân nhân anh sẽ vui mừng biết chừng nào khi nhìn thấy anh trở lại với làng xóm! Anh sẽ chia sẻ quyền lợi và nghĩa vụ với mọi người. Từ nay không ai có quyền khinh bỉ anh nữa. Anh đã thực sự làm người và có thể hãnh diện về những đóng góp của mình vào cuộc sống xã hội. Niềm vui lớn lao như thế làm sao giữ kín mãi trong lòng? Bởi vậy, mặc dù Đức Giêsu cấm anh “đừng nói với ai cả” (c.44), “nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được” (c.45).
Tin mừng ấy đã đến với mọi người. Chính vì biết quên mình và chỉ sống “để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), Đức Giêsu đã lăn xả vào mọi hoàn cảnh để “cho nhiều người được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thánh Phaolô đã theo sát gót Thày chí thánh, đến nỗi ông đã hãnh diện khuyên nhủ tín hữu Côrintô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1). Theo Đức Kitô không phải để làm phép lạ, tạo sự kinh ngạc cho nhiều người. Nhưng theo Đức Kitô để phục hồi quyền con người và trả lại cho con người những tương quan tốt đẹp nhất trong cộng đồng nhân loại.
Giá trị con người trong cộng đồng nhân loại
Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu đến với con người trong hoàn cảnh cùng cực nhất. Người đã phục hồi thể xác, nhân phẩm cá nhân và giá trị đích thực của cộng đoàn. Nếu mọi người đều có một thái độ đến với đồng loại như Người, chắc chắn mọi biên giới giữa người với người đã sụp đổ từ lâu. Nhưng cho tới nay, giữa con người vẫn còn quá nhiều xa cách về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, tôn giáo v.v. Chính vì vậy cần có một cuộc canh tân mãnh liệt theo tinh thần Đức Giêsu để xóa tan những ngăn cách tưởng tượng dựa trên giàu nghèo, địa vị. Tất cả đều phải vì con người. Khi không giúp con người làm người nữa, mọi tương quan đều vô nghĩa.
“Con người được kêu gọi để sống hiệp thông và sống thành cộng đoàn, cùng hiện hữu với và vì người khác. Dĩ nhiên, con người không sinh ra cho cộng đoàn hay tập thể đến nỗi phải hi sinh quyền lợi con người cho cộng đoàn hay tập thể. Trái lại, cộng đoàn hiện hữu vì con người là những thành phần của cộng đoàn, và mục đích của cộng đoàn hay tập thể là bảo vệ và cổ xúy quyền làm người.” (Dwyer 1994:733) Khi chỉ còn biết có tập thể, người ta quên mất nguồn gốc và mục đích của tập thể đó. Xét về mọi phương diện, cộng đoàn hay tập thể không thể có trước con người. Cộng đoàn hay tập thể cuối cùng cũng chỉ là một phương tiện giúp con người đạt tới cứu cánh cuộc đời mà thôi. Chính vì thế Đức Giêsu đã không ngần ngại đến với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị đàn áp và gạt ra ngoài lề xã hội, để trả lại địa vị đích thực của con người.
Không làm người, không thể xây dựng giá trị đích thực nhân bản và siêu việt. Khi đã làm người, con người mới xây dựng những cơ cấu để giúp nhau đạt tới mục đích cuộc sống cách nhanh nhất và hoàn hảo nhất. Nói khác, “con người được kêu gọi để tham dự vào việc tạo thành xã hội hầu thăng tiến hạnh phúc các thành phần xã hội.” (Dwyer 1994:734) Chính vì thế, những luật lệ không còn phù hợp với con người thời đại đều cần phải xét lại. Mỗi thời đại đều có những nhu cầu và khuynh hướng riêng. Bởi thế con người được mời gọi không ngừng tham gia vào việc thành hình và cải tổ cơ chế xã hội để đáp ứng những đòi hỏi thời đại. Không ai có thể phủ nhận quyền lợi và bổn phận đó của con người.
Tất cả giá trị con người đều tuỳ thuộc tình yêu. Chính trong tình yêu, các bạn trẻ mới nhận ra giá trị người yêu. Thiên Chúa cũng mở ra một mùa tình yêu khi sai Con Một đến với những người nghèo khổ nhất, những người đã bị chính anh em mình chối bỏ. Với sức mạnh tình yêu, người môn đệ đích thực có thể vượt qua mọi trở ngại để Đức Kitô mạc khải cho mọi người biết “Thiên Chúa là tình yêu.”(1 Ga 4:16) Chỉ khi nào “Đức Kitô là tất cả và ở trong tất cả,” (Cl 3:11) giá trị đích thực con người mới được thành toàn. Tất cả mọi nỗ lực đều hướng tới niềm hi vọng đó, vì tình yêu Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả sức mạnh nơi cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nhưng làm sao nhận ra sức mạnh vô song của tình yêu, nếu không cầu nguyện? Quả thực, “sức mạnh lời cầu hệ tại việc chiêm nghiệm hai chân lý nền tảng: tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện sẽ chiếu toả trong thế giới, biến thành chứng từ cho những ai không cùng chia sẻ niềm tin với chúng ta. Bởi đó, ca ngợi tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa trở thành một chứng từ có thể biến đổi thế giới, một thế giới bị đe doạ vì kỹ thuật đang che mờ cõi thiêng, lòng tự mãn đang tràn ngập xã hội.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 5/2/03)
44.Đức Giêsu chữa người bị phong cùi--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. So với những người Do Thái thường tình, cách đối xử của Đức Giêsu đối với những người cùi hủi có gì khác lạ? Ta có thể rút ra bài học gì về cách xử sự với những người xấu số, bị người đời khinh ghét, ghê tởm?
2. Đức Giêsu có phân biệt đối xử dựa trên giàu nghèo, sang hèn không? Sự phân biệt đối xử như thế chứng tỏ một tình trạng tâm linh thế nào?
3. Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu người cùi được Ngài chữa lành đừng nói gì về việc Ngài đã làm cho anh ta?
4. Làm được một việc lành mà lại muốn khoe cho người khác biết thì ta được lợi gì về mặt tâm linh? Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người dựa trên cái gì?
Suy tư gợi ý:
Thái độ của Đức Giêsu đối với những người bệnh cùi: yêu thương và tôn trọng người xấu số
Bệnh cùi là một bệnh rất dễ lây truyền, mà ở vào thời Đức Giêsu, lại là một bệnh nan y không có thuốc chữa. Nếu không có biện pháp cách ly những người bệnh cùi khỏi những người không bệnh, thì thật là nguy hiểm cho xã hội. Vì thế, luật Môsê (x. Lv 13,1-14,57) chủ trương buộc những người lãnh đạo trong dân phải cô lập họ ở một nơi nhất định, thường là hẻo lánh, đồng thời tuyên bố những người nhiễm bệnh này là người ô uế, để mọi người tránh xa họ. Ai tiếp xúc với họ thì cũng trở thành ô uế. Nhưng người cùi nhiều khi lại không chịu ở nơi qui định cho họ, mà lại hay đi lang thang để xin ăn, hoặc tìm cách gặp thân nhân của mình. Vì thế, để buộc họ phải tránh xa mình, một số dân chúng đã ném đá họ khi gặp họ trên đường đi. Do đó, người bị bệnh cùi phải sống một cuộc sống hết sức cô đơn, khốn khổ, thiếu thốn, và đầy mặc cảm vì bị mọi người ghê tởm, xa lánh.
Nhưng theo Đức Giêsu, dù thân hình họ xấu xa gớm ghiếc, họ vẫn là con cái Thiên Chúa, là con cháu của Áp-ra-ham, là đồng bào ruột thịt, nên họ vẫn là anh chị em với mình. Vì thế, mình cần phải yêu thương họ, phải đối xử với họ bằng tình thương. Vả lại, không vì hình thể gớm ghiếc bên ngoài mà giá trị con người của họ bị suy giảm trước mặt Thiên Chúa. Đối với Đức Giêsu, người biết nhìn vào chiều sâu của tâm hồn con người, thì họ không đáng gớm ghiếc và xa lánh cho bằng những người cùi hủi về mặt tâm linh. Cùi hủi tâm linh là tình trạng của những con người sống không biết đến tình nghĩa, sống ích kỷ, chỉ nghĩ tới hạnh phúc hay đau khổ của một mình mình hay của gia đình mình, không hề nghĩ đến hạnh phúc hay đau khổ của người khác, hay của những gia đình khác. Họ sẵn sàng có những hành động bỉ ổi để đè nén hay áp chế người khác, và cách hành động của họ thường là “ném đá dấu tay”, “khẩu Phật tâm xà”. Càng là người trí thức, càng có địa vị cao trong tôn giáo và xã hội, sự cùi hủi này càng được ngụy trang một cách tinh vi, khéo léo bằng những lời nói, hành động vị tha, bằng vẻ đạo đức bên ngoài (x. Mt 23). Đức Giêsu càng tỏ ra an ủi vỗ những người cùi hủi thể chất bao nhiêu, Ngài càng không tiếc lời khiển trách những người cùi hủi tâm linh bấy nhiêu, thậm chí đến “cạn tàu ráo máng” (x. Mt 23).
Khi người cùi hủi đến cầu cứu Đức Giêsu, Ngài không hề tỏ ra ghê tởm hay xúc phạm đến anh. Trái lại, Ngài “chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào” người anh và nói: “Tôi muốn anh được sạch!” Ta đừng vội nghĩ rằng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài không sợ lây nhiễm, hay có lây nhiễm thì Ngài sẽ dùng phép lạ để tự chữa. Tôi nghĩ rằng Ngài là “người” thật sự, đúng nghĩa một con người, nghĩa là có thể bị lây nhiễm như bao người khác. Và nếu bị lây nhiễm, không hẳn Ngài sẽ dùng quyền phép Thiên Chúa để tự chữa cho mình, cũng như Ngài đã không lạm dụng quyền năng Thiên Chúa để biến đá thành bánh mà ăn khi đói (x. Mt 4,2-4), hay để trốn thoát khi bị bắt (Mt 26,47-56), v.v… Tốt hơn, nên nghĩ rằng Ngài đối xử với anh ta bằng một tình yêu chân thành nhất, bằng sự tôn trọng đúng nghĩa nhất của một con người đối với một con người, bất chấp phải trả giá đắt. Và đó là điều ta nên noi gương Ngài khi đối xử với mọi người, nhất là với những người xấu số, bị xã hội coi thường, khinh bỉ. Đạo đức của ta có hay không, ít hay nhiều hệ tại điều này. Sự phân biệt đối xử căn cứ trên giàu nghèo, sang hèn chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn về đạo đức và tâm linh.
2. Thái độ của Đức Giêsu: không muốn ai biết về mình
Bài Tin Mừng cho thấy, sau khi chữa lành căn bệnh nan y như thế, Ngài nói với người được chữa lành: “Đừng nói gì với ai cả”. Đó là một thái độ thường hằng của Ngài sau khi làm được một điều gì đáng khen ngợi, thậm chí đến kinh ngạc: Ngài không muốn được người khác biết đến (x. Mt 8,4; 16,20; 17,9; Mc 1,34; 1,44; Lc 4,41), trì phi vì ích lợi cho họ (chẳng hạn để họ được cứu rỗi). Ngài đã áp dụng đúng điều Ngài khuyên mọi người: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,1.3).
Thử đặt mình vào địa vị của Ngài khi làm xong một việc mà không ai làm được, ta sẽ cảm thấy ta muốn được nổi tiếng, được mọi người ca tụng hay khen ngợi, hầu đi tới đâu ta cũng được khâm phục, kính trọng và được đối xử một cách đặc biệt. Ta cũng mong có những đặc quyền đặc lợi vì những việc phi thường đã làm được. Khi viết được một bài báo hay, giảng được một bài mà ta đoán được nhiều người tâm đắc, làm được một việc tốt, ta mong chờ những lời khen ngợi. Nếu không được khen, ta cảm thấy như bị hụt hẫng, lòng không thỏa mãn. Ta muốn “cái tôi” của ta được phình to lên, to hơn những người khác.
Xét trên bình diện tự nhiên, đó là một khuynh hướng rất thường tình, rất phổ quát, khá lành mạnh, nó tạo nên động lực để ta cố gắng, nỗ lực hết mình. Tuy nhiên, nếu để khuynh hướng tự nhiên này ảnh hưởng quá đáng trên tất cả mọi việc làm, đến nỗi nó trở thành động lực duy nhất thúc đẩy ta hành động tốt, thì ta trở nên một con người rất tầm thường, dù ta có làm được những việc phi thường. Lúc đó, ta làm mọi sự chỉ là để được khen, được nổi tiếng, một mục đích hoàn toàn vị kỷ, chứ không còn vì yêu thương, vì ích lợi cho người khác nữa.
Còn xét trên bình diện siêu nhiên, khuynh hướng này có thể trở thành một mầm nguy hại cho sự phát triển tâm linh, đạo đức. Theo định luật của tâm linh, muốn cho tâm linh lớn lên, phát triển, thì “cái tôi” phải nhỏ đi, nghĩa là phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình, quên mình. Đời sống tâm linh càng cao, thì động lực thúc đẩy ta hành động càng phải vị tha, càng phải “vô kỷ, vô công, vô danh” (=không làm vì mình, làm xong không cậy công, không mong được người khác biết mình đã làm).
3. Cách Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người
Sự thánh thiện của một người được đánh giá theo mức độ vị tha, quên mình khi hành động. Động lực thúc đẩy hành động của một người thánh thiện chính là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Càng thánh thiện thì động lực thúc đẩy càng phải thuần túy là tình yêu hơn, và càng ít tính chất vị kỷ đi. Chính tình yêu làm cho hành động – dù nhỏ hay lớn – trở nên có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không vì yêu thương, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,2-3). Như thế, những việc có vẻ đầy tình thương như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí”, nếu ta làm chỉ vì mong được tiếng là đạo đức, là thương người, hay để được một lợi ích nào đó cho bản thân ta, chứ hoàn toàn không vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa. Nó chẳng phải là một việc đạo đức, mặc dù có vẻ rất đạo đức.
Câu nói trên của thánh Phao-lô cho thấy: một việc làm dù rất nhỏ như quét nhà, giặt giũ, nấu bếp của một người vợ hay người con trong nhà, nếu được làm với tâm tình yêu mến Thiên Chúa, nhằm làm cho những người thân yêu của mình tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, thì có thể có giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa. Những việc làm nhỏ bé được làm với tình yêu ấy rất có thể giá trị trước Thiên Chúa hơn cả những việc làm hết sức lớn lao của những bậc vị vọng trong xã hội cũng như Giáo Hội, nếu những người này làm chỉ vì muốn được danh tiếng, được thăng quan tiến chức, chứ không phải vì yêu thương.
Cứ xem cách đánh giá của Đức Giêsu khi quan sát những người bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ thì thấy rõ cách định giá trị của Thiên Chúa đối với các việc làm của con người: “Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (x. Mt 12,41-44). Cách Ngài đánh giá khác hẳn với cách của con người. Ngài dựa trên tấm lòng, động lực thúc đẩy hành động, chứ không dựa trên hiện vật hay kết quả của hành động. Cùng một việc làm, nhưng động lực tình yêu càng lớn, thì giá trị công việc càng cao. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đánh giá chính xác giá trị của một hành động, vì chỉ Ngài mới biết rõ động lực thúc đẩy của hành động ấy là gì.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu luôn luôn tự đồng hóa Ngài với tha nhân của con, nhất là với những người bé mọn, đau khổ nhất (x. Mt 25,40.45; Lc 9,48). Xin cho con biết yêu thương và cư xử với những người bị thế gian coi thường ấy như với chính Cha và Đức Giêsu vậy.
45.Tình thương và bác ái--Lm. Thu Băng
Đức Cha John Cassaigne (sinh năm 1895) là Linh Mục thuộc Hội Truyền giáo Hội Ba lê (19-12-1925) đã được cử sang truyền giáo tại Việt Nam (5-5-1926). Ngài đã lãnh sứ mệnh Cha Sở miền cao nguyên Di Linh (20-10-1926), lúc cha vừa trọn 32 tuổi. Sau mười lăm năm gây dựng công việc truyền giáo trên miền thượng. Từ con số không (có một người tín hữu nào lên đến 400, và biến buôn thượng trở thành một xứ đạo sầm uất, ngài đã lập nên một làng thượng cùi để đêm ngày săn sóc. Ngài thương những người thượng cùi hơn con đẻ). Mặc dù Ngài được bề trên Tổng quyền Sàigòn đặt lên chức vụ Giám Mục (4-2-1941), nhưng ngài vẫn tiếc công trình xây dựng làng cùi với 133 người con mà ngài đã và đang săn sóc. Cuối cùng ước vọng của ngài cũng được toại nguyện, vì bệnh cùi đã chơm nở trên thân thể ngài (1943). Biết ngài đã mắc bệnh nên Bề trên đã cho ngài từ chức Giám Mục Sàigòn để trở về với làng cùi nguyền sống chết với họ cho đến ngày bệnh cùi nơi ngài phát nặng (30 năm).
Với công lao xây dựng và hy sinh cho đồng bào kinh thượng thật lớn lao ấy. Ngày 12-4-1972, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa đã đến tận giường bệnh trao tặng ngài “Bảo Quốc Huân Chương” tri ân lòng quảng đại sâu xa của ngài. Sau 6 tháng chịu đau đớn vì bệnh nạn, ngài nói với người Thượng “Tôi hy vọng Chúa nhân lành sẽ đón tôi về. Tôi sẽ ở cùng anh chị em luôn mãi”. Ngài để lại lời di chúc: “Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa. Tôi ao ước được chịu khổ lâu dài với anh chị em xấu số của tôi. Tôi ước ao được an nghỉ yên giữa những người anh em đau khổ. Tôi sung sướng được hiến thân cho quê hương Việt Nam muôn đời của tôi (1895-1973)”. Và Ngày (5-11-1973) lễ an táng của người cha yêu thương đã làm trọn được lời di chúc.
Người cùi trong bài Phúc Âm Thánh Lễ hôm nay cũng vậy. Anh chẳng biết gì về Chúa Giêsu, nhưng anh đã được Chúa Giêsu thương chữa lành cho, kéo anh ra khỏi cơn bệnh ngặt nghèo mà người Do Thái đã cho là Chúa phạt. Tình thương và bác ái của Cha Cassaigne cũng chạm đến lòng trắc ẩn mà ngài nhận được nơi Thiên Chúa, đã giúp biết bao người khôi phục lại niềm tin, đã giúp họ hiểu được giá trị của con người là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thời xưa, không hình ảnh nào ghê gớm cho bằng hình ảnh người cùi. Nhất là trông người cùi lở loét, mặt mũi sưng phù, tai to, rướm máu, chân tay cụt đi từng ngon. Ai cũng sợ bị lây và muốn tránh xa và chính ngay người cùi cũng cảm thấy mình gớm tởm, thấy mình như đang đi vào cõi chết. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài để chạm đến họ, để chữa họ, vì thương họ bị bỏ rơi, bị nhục mạ. Tình thương của Ngài đi đến chỗ tuyệt cùng, đi đến chỗ dấn thân sâu thẳm.
Là người Công Giáo, chúng ta cũng được mời gọi nên nhân chứng yêu thương và phục vụ cho người khác theo khả năng và sự dấn thân của mình, để mọi người được tiếp nhận lòng tình thương của Chúa trải dài trên chúng ta.
Theo gương người cùi trong Phúc Âm, chúng ta cũng hãy kể cho mọi người biết những điều Chúa Kitô đã làm cho chúng ta, đã thương chúng ta, đã săn sóc chúng ta, để quyền năng của Ngài được mọi người ca ngợi
46.Tình thương--Lm. Nguyễn Hữu An
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.
Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do thái, “thánh” có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, khỏi cái tầm thường thông tục. Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả, đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần.
Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi, họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.
Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đó đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm lính thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục. Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, của Đền thờ, của nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ.
Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút đầu thai, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Người đầu thai trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời Người đã lấy chuồng bò làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn. Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang tin mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu không ngại đưa tay sờ tới người cùi để chữa cho người ấy được lành sạch. Đức Giêsu không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế.
Người mắc bệnh phong cùi đau đớn về thân xác sẽ chết dần chết mòn. Nỗi đớn đau về tinh thần còn khốn khổ hơn nữa. Trong bài đọc 1 sách Lêvi quy định “Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xoã tóc che râu và kêu lên:”Ô uế! Ô uế!”. Họ bị cách ly ra khỏi cộng đồng, sống tủi nhục cho đến chết. Ai tiếp xúc hay đụng đến họ là bị nhơ bẩn, ô uế. Nếu người phong cùi chỉ thò đầu vào nhà nào thì nhà đó bị lây bẩn đến tận cây kèo trên mái. Không ai được phép chào hỏi một người phong cùi ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phong đứng đầu gió, người ở cuối gió phải cách xa 45m. Ngay cả một quả trứng cũng không được ăn nếu bán ở đường phố có người phong đi qua. Chưa có bệnh tật nào lại phân rẽ một người với đồng bào mình như bệnh phong. Thê mà Đức Giêsu đã sờ đến người phong. Bàn tay Người đụng vào da thịt bệnh nhân với các vết thương lỡ loét. Người không bị ô uế, bị dơ bẩn nhưng Người làm cho bệnh nhân hết ô uế và được lành sạch, được hội nhập vào đời sống cộng đoàn. Anh ta lấy lại phẩm giá con người. Niềm vui quá lớn lao khiến anh đi loan báo khắp nơi.
Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng con người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Đức Giêsu khẳng định: Ngày Sabat được lập ra cho con người chứ không phải con người được dựng nên cho ngày Sabat và vì thế con người làm chủ luôn ngày Sabat. Tất cả đều vì con người và cho con người. Đức Giêsu luôn sống tình thương cho con người. Tình thương chính là sự thánh thiện. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương. Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn”Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”. Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện.
Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cúu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể, tiệc Tình thương. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bàc ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian. Người tín hữu luôn được mời gọi sống như lời Thánh Phaolô khuyên nhủ trong bài đọc 2:”Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm vì danh Chúa Kitô”.
47.Đức Giêsu chữa một người phong hủi--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh phong hủi.
2.- Bố cục
Bản văn này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);
3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).
3.- Vài điểm chú giải
- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta không nói “chữa lành” nhưng là “được thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga’ (“nó đánh”) và nega’ (“đòn đánh”; “vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).
Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.
Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).
Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?
- Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis, partic. aorist của động từ splanchnizomai do từ ta splanchna, lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong lòng”.
- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người “đuổi” anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của Người. Động từ embrimaomai không có từ tương đương trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away with the stern warning).
- để làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng trước mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chữa lành người phong hủi (40-42)
Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)
Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.
* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.
+ Kết luận
Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý: không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài định liệu:”Nếu Ngài muốn”.
2. “Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời khuyên rất tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin vào sự tốt lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng thời khẳng định đức tin của anh… Nếu đức tin yếu, đức tin trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức tin mới cho thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành tâm hồn và than xác.
Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: “Người đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)… Đức tin tinh tuyền, được sống trong tình yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy trọng kính trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn cảnh được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’” (Thánh Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).
3. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục vụ. Như Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của anh chị em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người Kitô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của người khác).
4. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.
48.Hữu hạn và Toàn năng--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Chúa nhật trước Giáo hội mời gọi chúng ta biết vượt ra khỏi sự tầm thường ở đời này để đến với những giá trị cao đẹp và trường cửu. Chúa nhật này, chúng ta được mời gọi cảm nhận sự giới hạn của con người. Chấp nhận giới hạn của mình là cánh cửa giúp ta bước vào và đụng chạm tới quyền năng của Vĩnh cửu.
Giới hạn của con người
Bài đọc trích trong sách Levi (Lv 13, 1-2. 44-46) và bài Tin mừng theo Thánh Marco (Mc 1, 40-45) nói về những người mang bệnh phong. Ngày nay căn bệnh này không còn là nỗi sợ hãi của nhân loại bởi đã có thuốc đặc trị. Nhưng những gì được nói đến trong các Bài đọc cho ta thấy sự sợ hãi của người dân với căn bệnh này. Nó diễn tả sự bất lực của con người khi đã nhiễm bệnh cùi. Người ta sợ bị nhiễm bệnh từ người bệnh nên xã hội đã dùng biện pháp cách ly thật tồi tệ. Người khoẻ xa lánh bệnh nhân, còn bệnh nhân phải “phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế.” (Lv 43, 45-46).
Đứng trước cái giới hạn và sự bất lực của con người trong hiện tại, có người chấp nhận thân phận giới hạn của mình; Nhưng có người coi đó chỉ là tạm thời và tin tưởng khoa học sẽ giúp giải quyết tất cả, nên họ không chấp nhận sự giới hạn của con người.
Bệnh cùi hủi năm xưa giờ đây nhân loại đã chiến thắng. Nhưng cả thế giới đang đối diện với đại dịch Covid. Người ta cảm nhận thật nét thân phận mong manh của con người. Đến giờ này thì người ta đã làm được kháng sinh để giải quyết vấn đề. Việc đẩy lui Đại dịch chỉ còn là thời gian. Và những người không chấp nhận sự giới hạn của kiếp người lại thở phào và thốt lên: con người sẽ làm được tất cả mà. Hình ảnh Siêu nhân ngày càng rõ nét với họ.
Sự thật của cuộc sống thì vẫn cứ bày ra trước mắt. Người ta giải quyết được vấn đề này thì vấn đề khác xuất hiện. Nếu con người sẽ chiến thắng tất cả thì đó là việc của con người tương lai mà thôi. Con người trong hiện tại chắc chắn nó phải cúi đầu trước giới hạn của mình. Đại dịch Covid rồi sẽ qua đi, nhưng thái độ đón nhận cuộc sống này đưa bạn và tôi đến những chân trời khác nhau.
Quyền năng của vĩnh cửu
Thiên Chúa xuống thế làm người. Nơi Ngài sự sống tràn đầy và vĩnh cửu. Quyền năng của Ngài được bộc lộ qua chính Đức Giê-su trong thân phận con người. Trong bài Tin mừng, Thánh Marco đã mô tả quyền năng của Ngài thật lớn lao. Tong Tin mừng tuần trước chúng ta được chứng kiến Chúa Giê-su chữa lành mọi người với mọi thứ bệnh. Ngài không cần dùng thuốc hay liệu pháp gì cả. “Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.” (Mc 1, 31). Chỉ một sự đụng chạm giữa bệnh nhân và Chúa Giê-su đã khiến mọi bệnh tật tan biến.
Trong bài Tin mừng tuần này cũng có cảnh con người bị bệnh, một bệnh nhân không còn hy vọng gì đối với con người, đã đụng chạm đến Đức Giê-su, Đấng Toàn năng. Người phong cùi trong trình thuật đã hoàn toàn khỏi bệnh ngay khi Chúa Giê-su đụng đến anh.
Chỉ việc đụng chạm ấy khiến con người khỏi bệnh thì là phi lý đối với khoa học. Người ta không thể hiểu được việc không có sự can thiệp gì của các biện pháp y tế mà bệnh tình có thể biến mất. Nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự lại đều có thể. Nếu bạn tin vào Thiên Chúa thì hẳn bạn biết Ngài đã dựng nên con người chúng ta. Ngài đã dựng nên con người từ không mà có, thì việc ngài đưa con người từ tình trạng bệnh tật trở về tinh trạng khoẻ mạnh thì có gì mà không thể. Thiên Chúa hoàn toàn có thể biến sự dữ thành sự lành, và Ngài đã và đang làm chuyện đó trong cuộc sống này với chúng ta. Trường hợp bị bệnh phong nổi tiếng trong sách Các Vua (2 V 5,1-14) về ông Naaman đã được tiên tri Elisa đã chữa lành bệnh phong cách lạ lùng. Tất cả những gì ông phải làm là xuống sông Giodan tắm thì khỏi.
Vậy phải làm sao để có thể được chữa lành như những người trong Kinh thánh đã khỏi.
Chấp nhận giới hạn để Chúa nâng ta lên trong bất tử
Bạn sẽ chẳng bao giờ chạy đến thầy thuốc nếu bạn không có bệnh. Và bạn cũng chẳng chấp nhận nhập viện nếu bạn cho rằng mình không có bệnh gì cả hay căn bệnh của bạn hoàn toàn có thể bị tiêu diệt với khả năng của bạn. Người ta chỉ thực sự cất lên lời cầu cứu khi thấy mình đã bất lực, không thể giải quyết được vấn đề. Người ta cũng chỉ chấp nhận để vị bác sỹ chữa trị nếu họ tin rằng bác sỹ này có thể chữa cho họ.
Những người bệnh phong trong Thánh Kinh đã nhận ra sự bất lực của con người đối với bệnh tình của mình. Đồng thời họ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng hoàn toản có thể chữa lành cho họ. Thánh Marco đã mô tả chi tiết cho thấy người bệnh phong đã có cả 2 thái độ này: “có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”” (Mc 1,40).
Người này sẽ chẳng được khỏi nếu họ không chấp nhận giới hạn của chính mình và chạy đến với Chúa trong sự thần phục. Với Chúa Giê-su thì quả thực, việc chữa lành bệnh nhân này chỉ là Ngài có muốn hay không. Cũng như trong trình thuật Sáng tạo, ở đây Chúa chỉ muốn là mọi sự liền có. Bệnh nhân được mời gọi đi trình diện các tư tế, đi dâng của lễ chỉ là để được hoà nhập vào trong đời sống của thế giới với những con người hữu hạn chúng ta. Còn trước quyền năng của Đấng Vô Biên thì những việc đó chẳng là gì.
Đấng Toàn Năng và giàu lòng Thương xót vẫn có đó và luôn sẵn sàng chữa lành cho chúng ta. Bạn và tôi đều là những kẻ hữu hạn sống giữa thế gian chật hẹp này. Chúng ta sẽ mãi quẩn quanh trong giới hạn khi chúng ta ảo tưởng chính mình, nhận mình là siêu nhân có thể làm được tất cả. Trái lại, chính khi chấp nhận sự bất lực của mình, biết cúi mình trước Đấng Toàn Năng, bạn và tôi hoàn toàn có thể vươn cao bay xa, chiến thắng mọi bệnh tật hay trở ngại, bởi chính Chúa kéo ta lên và chữa lành cho ta. Nếu Chúa muốn thì mọi sự không thể đối với con người đều trở thành có thể và giản đơn.
Lạy Chúa, này con đây. Thân con yếu đuối, xác con mỏi mòn. Bao gục ngã đã làm con biến đổi. XIn Chúa kéo con lên, xin tái tạo con và dẫn con về trong ơn nghĩa Chúa.
49.Vâng phục, tín thác và tri ân--Alphonse Marie Trần Bình An
Ngày 20 tháng 9, 1940, Nguyễn Trọng Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ Maria Juetta. Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh (Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm.. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí đều đều như kinh Nhật Tụng: 5 Giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng lễ, rước lễ. 7 Giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán đen. 8 Giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh. 11 Giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi. 14 giờ 30 Lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ dùng cơm chiều… Trí là một người rất sùng kính Đức Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Đức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội.. Suốt hơn một tuần, từ 30 tháng 10, 1940 đến 7 tháng 11, 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên mất sức! Đêm ngày 8. 11. 1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l' Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí. Đây là bút tích cuối đời của Trí. Khi ông Nguyễn Văn Xê đưa Mẹ Nhất Maria Juetta, người Pháp, đọc bài viết này, Mẹ Juetta nói: “Giỏi quá, uổng quá, Hàn Mạc Tử là một thiên tài hiếm có! Nhưng Mẹ xin phép tác giả đổi chữ "nénuphards" (hoa súng) thay cho chữ "lotus" (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi tại đây với các bệnh nhân phong, chính là những bông hoa súng lên xuống theo con nước và bập bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự nhận mình như những bông hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi. (Lm Trần Quý Thiện, Tưởng niệm nhà thơ Công giáo Hàn Mặc Tử)
Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sống 52 ngày cưối đời thật trong sáng với tinh thần sám hối trở về, hân hoan chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, tán dương Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc qua những vần thơ tuyệt vời. Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô tường thuật Đức Giêsu chữa lành người phong, căn dặn đi trình thầy tư tế và không được tiết lộ. Nhưng khi được chữa lành, anh không thể nín lặng, công khai vui mừng rao truyền và loan tin vui.
Lời cầu xin của anh là gương mẫu cho bất cứ ai thành tâm nguyện cầu, xin Chúa xót thương cứu giúp: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Anh hoàn toàn xin vâng theo Thánh Ý Chúa toàn năng, khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”
Vâng phục
“Nếu Ngài muốn,” Với lời khẩn cầu tha thiết, trân trọng Đấng Thiên Sai, anh bệnh phong tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, toàn quyền nắm giữ sinh mệnh, cũng như sức khỏe, hạnh phúc, bình an của mình. Lời nguyện xin khiêm hạ này cũng gợi nhớ “Xin Vâng” của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38)
Người bệnh phong không dám biểu lộ ý riêng của mình, vả lại không thân thưa, thì Đức Giêsu cũng đã thấu suốt nguyện vọng ấp ủ từ bao lâu rồi. Anh hoàn toàn vâng theo Thánh Ý toàn năng, sẵn sàng chấp thuận Thiên Chúa định đoạt thân phận, không hề oán than. Một đức tin vững chãi qua cơn thử thách thật nặng nề.
Trước cuộc khổ nạn kinh hoàng, Đức Giêsu cũng làm gương sáng chói về đức vâng lời, Người ba lần cầu nguyện: “Cha ơi, nếu được xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. ” (Mt 26, 39-44)
“Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: “Vâng lời đến chết!” (Đường Hy Vọng, số 395)
Tín thác
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Hoàn toàn tín thác vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, người bệnh phong công khai tin cậy, trao thân gửi phận cho Đức Giêsu cứu giúp. Người Kitô hữu liệu có luôn xác tín vào Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, được Chúa Giêsu truyền cho chị nữ tu Faustina Kowalska hay chăng? “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.” Có hoàn toàn vững tin như lời nguyện Hiệp Lễ chăng? “Lạy Chúa, con không đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch.”
Vì đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Chúa, người phong không ngần ngại lỗi luật Do Thái, phải chịu cách ly với người lành. Đức Giêsu vì thương yêu, chí nhân chí ái, cũng vô tư vượt qua điều luật này, khi Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”
“Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống. Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất: Niềm hy vọng ấy, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10). Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria:”Nguồn hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 962)
Tri ân
Được chữa lành, anh quên ngay lời Đức Giêsu căn dặn “đừng nói gì với ai cả.” Bởi vì lòng anh tràn ngập niềm tri ân, cảm tạ Thiên Chúa. Anh không thể giữ niềm vui, ân huệ cho riêng mình, mà hân hoan công khai chia sẻ với mọi người về hồng ân mới lãnh nhận nhưng không.Nên vừa đi khỏi, anh đã rao truyền và loan tin ấy khắp nơi.”
Lòng Mến tràn đầy của anh đã lan tỏa khắp nơi, khiến dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Đức Giêsu. Niềm tri ân, lòng cảm mến đã biến anh thành chứng nhân sống động, rao giảng Tin Mừng đến tha nhân. Anh không sở hữu ơn cứu độ cho riêng mình, mà trái lại anh đã thực hiện đúng ba bước như mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích. Ngài cho rằng có ba tiêu chuẩn để không không tư nhân hóa sự cứu rỗi: “Đức Tin vào Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta, Đức Cậy khích lệ chúng ta nhìn tới những lời hứa và tiến đi về phía trước và Đức Mến là chăm sóc lẫn nhau, khuyến khích tất cả chúng ta thực hành bác ái và các việc lành." (Đồng Nhân, Vietcatholic, ĐTC: Thành phần ưu tú của Giáo hội không được biến đức tin làm của riêng mình)
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu thoát chúng con khỏi bệnh phong, khỏi bệnh liệt kháng tâm hồn, xin cứu chúng con khỏi vũng lầy tội lỗi, khỏi thung lũng đầy nước mắt này, xin ban cho chúng con biết sám hối, ăn năn trở về cùng Chúa hằng ngày.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn che chở chúng con khỏi những căn bệnh nan y thời đaị là đánh mất Tin, Cậy, Mến. Xin Mẹ cầu bầu, cứu giúp chúng con thoát khỏi cạm bẫy ba thù, để được Mẹ dắt dìu chúng con theo Chúa luôn. Amen.
50.Tôi muốn, anh sạch đi!--Alphonse Marie Trần Bình An
Chiếc xe buýt Buôn Trấp, ngoại ô thành phố Buôn Mê Thuột tạt vào trạm đón khách. Môt nữ tu nhỏ nhắn Dòng Nữ Vương Hòa Bình nhanh nhẹn bước lên. Người soát vé hỏi đi đâu. Nữ tu nhanh nhẩu đáp: “Làm ơn cho tôi xuống trại cùi E Ana!” Nghe thế, hành khách đang nêm kín trên xe, bỗng nhiên tự động dạt ra, để tránh cho xa nữ tu ấy.
Thấy ghế trống do khách bỏ lại, nữ tu liền nhìn quanh cúi đầu, mỉm cười cám ơn, rồi lặng lẽ ngồi xuống lần hạt. Hình ảnh đó lâu nay đã trở nên qúa quen thuộc trên tuyến đường này. Thậm chí nhiều khi người soát vé cũng ngần ngại, chẳng dám đến gần, để thu tiền vé của nữ tu đang phục vụ trại cùi ấy!
Ngày nay, mặc dầu y khoa đã chế ngự và chữa trị được bệnh phong hủi, nhưng người ta vẫn không thế thoát được nỗi kinh hoàng về chứng tưởng như nan y ấy. Thế mà từ hơn 2000 năm trước, có người cùi đến gặp Chúa Giê su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch, Ngài chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (Mc 1, 40-42)
Chúa Giêsu thật sự là nhà cánh mạng lỗi lạc tiên phong đối với bênh nhân phong cùi. Sau này, còn biết bao vị thánh theo chân Người đến an ủi người cùi, như thánh Phanxicô Assisiô khó khăn, Cha Thánh Đa Miêng, cùng gần đây Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn Jean Cassaigne, các tu sĩ phục vụ trại phong …
Hiện nay bệnh cùi thể xác đã có thể điều trị được, nhưng bệnh cùi tâm hồn mới thật sự đáng sợ. Tính bất nhân, vô cảm, gian manh, cùng những điều ác mới chính là chứng bệnh nan y, vô phương cứu chữa, nếu không tìm đến nguồn ơn cứu độ của Đức Kitô. Cứ đơn giản bắt chước thái độ chân thành, tin cậy và quả quyết của người cùi trong Tin Mừng, mà nguyện xin: Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch, chắc chắn không ai phải thất vọng.
Tiếc thay, hình như bây giờ người ta dửng dưng với chứng bệnh cùi tâm hồn. Tựa như câu nói dân gian: Cùi không sợ lở! Người ta còn thích ung dung sống chung, sống cùng, sống với nó nữa, chẳng hề khiếp đảm hay mắc cở. Nên nào muốn chữa trị tuyệt nọc. Nào muốn sám hối, chạy đến tòa Hòa Giải, mà Chúa Giêsu vẫn hằng mòn mỏi chờ đợi để tha thứ, để chữa trị bình phục. Có lẽ Chúa đành chịu bó tay, chỉ biết tiếc thương cho những con bệnh ngoan cố xa lánh Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con được thoát khỏi những chứng hư tật xấu vô luân, khỏi những đam mê xác thịt, khỏi những cám dỗ tiền tài, danh vọng, để trở nên sạch sẽ trước nhan thánh Chúa.
Lạy Mẹ mến yêu, xin dìu dắt con thoát khỏi ách nô lệ của bệnh cùi hiện đại, tránh xa những cạm bẫy ba thù, để con hy vọng được sạch sẽ về cùng Mẹ. Amen.
51.Chứng phong hủi biến khỏi anh--Lm. Trầm Phúc
Chúng ta nghe kể lại phép lạ Chúa Giêsu chữa một người cùi, xem như một phép lạ riêng cho một bệnh nhân mắc một thứ bệnh mà thời đó người ta xem như bệnh ô uế. Ô uế ở đây phải hiểu là cả thân xác và cả tâm hồn. Theo luật Môsê, ai mắc bệnh ngoài da lan tỏa khắp người, thì không được ở trong cộng đoàn, phải tìm một chỗ riêng biệt để khỏi lây cho người khác, và người khác cũng không bị nhiễm lây sự ô uế đó. Ai chạm vào người bệnh sẽ bị ô uế.
Trình thuật của Maccô không nói rõ phép lạ này xảy ra ở đâu, chỉ nói là ở cửa một thành phố. Người bệnh không được phép vào thành phố hay nơi có đông người. Thái độ của anh cùi là một sự liều lĩnh. Anh đến với Chúa Giêsu. Anh có thể bị đuổi và có thể bị ném đá vì người ta rất sợ bệnh này. Bệnh nhân phải đứng xa và la lên: “Ô uế, ô uế!” Anh này ngược lại đã đến với Chúa, quỳ gối xuống, van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Thái độ và lời khẩn xin của anh cùi cho chúng ta thấy lòng tin vững mạnh của anh. Anh không sợ bị xua đuổi. “Nếu Ngài muốn”. Anh tin tuyệt đối vào quyền năng của Ngài. Anh quỳ gối xuống, một cử chỉ vừa khiêm tốn vừa tha thiết. Thánh Maccô cho thấy thái độ nhân từ của Chúa Giêsu. Ngài đáp lại bằng một cử chỉ hết sức yêu thương. Ngài chạnh lòng thương, giơ tay động đến anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Chúa Giêsu cũng liều khi giơ tay chạm đến anh cùi. Ngài không sợ bị ô uế. Thay vì chỉ cần nói một lời, Ngài chạm đến anh. Một cử chỉ đầy tình thương. Ngài muốn cho anh thấy rằng Ngài thông cảm sâu xa hoàn cảnh khốn khổ của anh. Ngài chấp nhận bị liên lụy với anh trong sự khốn khổ của anh. Nhập thể là như thế. Ngài chấp nhận thân phận con người như chúng ta. Ngài không đứng ở xa, Ngài đến gần, thật gần để chia sẻ nỗi thống khổ của con người, của chúng ta. Chúng ta có nhìn thấy được tình thương của Ngài không? Chúng ta có tin không? Chúng ta có đến với Ngài để được chữa lành không?
Theo lời cầu xin của anh cùi, Chúa nói rõ: “Tôi muốn, anh hãy lành sạch”. Bệnh cùi biến ngay. Một lời nói vừa uy nghi và vừa hữu hiệu! Ngài chứng tỏ Ngài là một Đấng có uy quyền, là Đấng Thiên Sai. Chữa lành bệnh nhân có thể xem như một sự giải thoát. Mục tiêu của Ngài, quyền năng của Ngài chính là cứu vớt con người khỏi bệnh tật phần xác và cả những đau khổ phần hồn.
Chữa lành bệnh tật cũng là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đang bị đè nặng dưới đau khổ và tội lỗi. Chúng ta có cảm thấy mình là thân phận nhơ hèn tội lỗi không? Chúng ta thân phận cùi đày khốn khổ, chúng ta có cảm thấy cần một lời tha thứ hay chữa lành không? Thường chúng ta không tin vì chúng ta không biết mình bị phong cùi. Tâm hồn chúng ta có gì là tốt đẹp? Chúng ta có cảm thấy cần được lành sạch không? Hay chúng ta vẫn tự mãn như tên Pharisêu kia, cảm thấy mình thánh thiện và khinh chê những người khác? Hay chúng ta thích ở lì trong sự nhơ hèn của chúng ta? Hay chúng ta cảm thấy mình đủ thánh thiện rồi, không cần phải thanh tẩy?
Cha De Mello nói: “Những người tội nhân khét tiếng nhất là những người không biết mình phạm tội”.
Hãy thành thật và khiêm tốn nhìn lại tâm hồn mình, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta thật khốn cùng, đầy những vết nhơ tật xấu. Chúng ta chưa thánh thiện đâu. Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn không ngại nói rằng mình là người tội lỗi.
Thế giới hôm nay đang cần những người thánh, nhưng được mấy người? Nhiều người Công giáo đã mất đi tâm thức về tội lỗi, phạm tội mà vẫn thấy mình công chính. Đây chính là tai nạn kinh khủng nhất mà không ai hay. Trong một giáo xứ, một vài người thù oán cha sở, tìm hết mọi cách để hạ nhục và hãm hại cha sở của mình suốt hơn hai mươi năm, vẫn rước lễ mỗi ngày. Một giáo dân khác, mười năm không đi xưng tội vẫn rước Chúa mỗi tuần. Như thế là thế nào? Họ đã mất đi ý thức về tội. Họ giữ đạo như một thủ tục, như một thói quen. Ngược lại, thánh Gioan-Maria Vianney, Cha sở họ Ars, vẫn luôn cảm thấy mình quá tội lỗi không xứng đáng làm cha sở. Ngài đã tìm cách bỏ trốn họ đạo hai lần, nhưng không thành công. Ai là người thánh thiện? Trong quyển sách “Người hành hương nước Nga”, anh ấy chỉ có một lời nguyện trên môi suốt năm này đến năm khác: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là người tội lỗi”. Chúng ta có cảm thấy như thế không? Tinh thần thống hối là con đường đưa vào sự sống. Muốn được sống, chúng ta hãy làm như anh cùi kia: nhìn nhận sự khốn cùng của mình, tìm đến Chúa, quỳ gối xuống nài xin, tin tưởng: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho con được sạch”.
Chúa Giêsu không xa lắm đâu. Ngài ở nơi tòa giải tội. Ngài trông chờ chúng ta đến để chữa chúng ta lành sạch. Ngài không mõi mệt tha thứ. Chúng ta có muốn đến với Ngài thường xuyên để tâm hồn chúng ta được lành sạch và tươi sáng không?
Và phương thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa lành tâm hồn chúng ta chính là Mình Thánh Chúa. Đó là phương thuốc của tình yêu. Hãy ăn lấy tấm Bánh Tình Yêu để tình yêu của Ngài thấm nhập vào da thịt và tâm hồn phong cùi chúng ta, mang lại sức sống dồi dào và giúp chúng ta hòa nhập vào đoàn dân thánh, cao rao những kỳ công và tình yêu của Chúa. Giờ đây, Chúa không cấm chúng ta rao truyền quyền năng Chúa như đã cấm anh cùi. Giờ đây chúng ta có thể lớn tiếng ca ngợi lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Hãy đi ra, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói. Hãy rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, như anh cùi kia, vì Chúa đang đến, vì “tình yêu của Chúa bền vững muôn đời”.
52.Chúa thương chữa người bệnh cùi--Hiếu Nguyễn sưu tầm--thanhlinh.net
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Một loại phong cùi
Trong một giáo xứ, cha sở đã lập một ban Hội đồng mục vụ. Ngài chọn những người đạo đức gương mẫu vào ban này. Ngài luôn khuyến khích nâng cao tinh thần tông đồ và lòng vị tha cho họ.
Dầu vậy, một người trong ban đã sa ngã phạm tội làm gương xấu, phần đông bổn đạo đều biết và xầm xì bàn tán. Người đó lại là người trước nay rất đạo đức, hăng hái hoạt động tông đồ.
Thấy vậy cha sở rất đau lòng. Ngài cầu nguyện cách riêng cho ông và tìm cách khuyên mời ông ăn năn hối cải. Ngài hỏi ý kiến một vị trong Hội đồng:
- Ông nghĩ sao về gương của người đó?
- Thưa cha, một người trong Hội đồng mà làm gương xấu như thế thì không thể chấp nhận được.
Cha hỏi người khác, ông này nói:
- Con đề nghị sa thải ông ấy, nếu không cả Hội đồng sẽ mang tiếng và khó làm việc.
Thấy một người ngồi im lặng có vẻ nghĩ ngợi, cha sở hỏi:
- Còn ông, ông nghĩ sao?
- Thưa cha, theo con nghĩ: ông ta chưa đến nỗi tệ. Nếu con lâm vào hoàn cảnh ông ấy chắc con còn tồi tệ hơn.
----------
Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mắc bệnh phong cùi. Phải chăng gương xấu của người trong Hội đồng mục vụ trên đây cũng là một loại phong cùi, phong cùi vì gương xấu của ông ta. Loại bệnh này cũng lây nhiễm nguy hiểm cho người khác: nhất là ông ta là người có chức quyền trong họ đạo, thì ô nhiễm của ông ta càng trầm trọng hơn.
Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta trong thư gởi giáo đoàn Côrintô hôm nay: “Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai”. Vậy Chúa Giêsu đã phán: Ai làm gương xấu, hãy treo đá vào cổ nó và xô xuống biển cho nó chết.
Tại sao Chúa kết án nặng cho kẻ làm gương xấu như thế? Vì nó rất nguy hiểm, nó làm cớ cho kẻ khác bắt chước phạm tội như nó. Nó là một thứ phong cùi hay lây nhiễm ô uế xấu xa.
Nhưng Chúa vẫn thương cứu chữa những kẻ ấy. Lẽ nào chúng ta không thương giúp?... (Theo “Maria, Mẹ tuyệt mỹ”).
2. Anh tung tin khắp nơi
Dưới thời tổng thống Sutacô Gaiep bắt đạo, Giáo hội Công giáo tại Mêhicô phải chịu bách hại dữ dằn. Hai mươi ngàn nhà thờ bị đóng cửa. Đặc sứ Tòa Thánh và các linh mục tu sĩ nước ngoài bị trục xuất. Hàng ngàn Linh mục và giáo dân bị xử bắn vì không chịu chối Chúa bỏ đạo. Tại thành phố Pueblo có cụ Jose Saphan là Kitô hữu can đảm. Cụ có tiệm tạp hóa nhỏ, và bất chấp lệnh cấm đạo, cụ treo tấm bảng trước cửa tiệm với hàng chữ lớn: “Vạn tuế Chúa Kitô” Đây là khẩu hiệu của các tín hữu Kitô ở Mêhicô… Ngày 20 tháng 07 năm 1926, viên tướng tư lệnh quân đội tại thành phố Pueblo đi ngang cửa tiệm cụ, thấy tấm bảng với hàng chữ đó. Ông tức giận truyền cho cụ phải tháo gỡ. Nhưng cụ cương quyết trả lời “Không” với viên tướng. Thế là cụ bị bắt giam ngục. Và hôm sau bị dẫn đem đi bắn. Nhưng chưa tới nơi hành quyết, cụ đã bị một tên lính bắn chết nằm bên vệ đường
Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Chúa Giêsu chữa người phong hủi được sạch, “Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả… Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi” (Mc.1,43-45).
Mặc dầu bị Chúa Giêsu cấm đoán, người phong hủi được Chúa chữa lành cũng can đảm “rao truyền và tung tin ấy khắp nơi” cho con người nhận biết quyền năng vô cùng của Chúa, để mọi người nhìn nhận Người, tin kính Người là Đấng Cứu Thế Chúa Cha sai đến để cứu rỗi con người.
Cụ Jose Saphan trong câu chuyện trên đây tuy bị cấm cách tù ngục cũng vẫn mạnh mẽ tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô. Cụ biết nhà cầm quyền sẽ dứt bỏ biểu ngữ tuyên xưng niềm tin của cụ và sẽ giết cụ, nhưng cụ vẫn can đảm nói lên xác tín chỉ có Chúa Kitô là Thiên Chúa duy nhất cứu rỗi con người, đem lại hạnh phúc đích thực và vững bền cho loài người.
Phải chăng đó là những tấm gương tuyệt vời cho các Kitô hữu chúng ta hôm nay. Dù khó khăn cam khổ thế nào cũng mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin vào Đấng cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Kitô.
(Theo “Phép lạ trên biển cả”).
---------
3. Chiếc vĩ cầm bị bể
Năm 1981, Peter Cropper nhạc sĩ vĩ cầm danh tiếng nước Anh được mời đến Phần Lan trình diễn trong buổi hòa nhạc đặc biệt. Anh đã được nhạc viện hoàng gia tặng cho chiếc vĩ cầm vô giá đã chế tạo cách đó 285 năm. Anh luôn sử dụng nó trong các buổi hòa nhạc. Hôm nay anh mang nó đến Phần Lan để trình diễn. Nhưng rủi thay khi bước lên sân khấu, anh trợt chân té xuống, làm chiếc vĩ cầm vô giá của anh vỡ tan từng mảnh!...
Thế là anh trở về Luân Đôn, lòng trí khủng hoảng tột độ. Dù vậy anh không chán nãn ngã lòng. Anh mang nó đến một người thợ chuyên sửa đàn đầy kinh nghiệm tên là Charles Beare và nhờ ông sửa chữa. Cuối cùng ông đã lắp ráp lại được toàn bộ các mảnh vỡ, làm thành cây đàn nguyên vẹn như trước. Ông giao chiếc đàn lại cho Peter. Người nhạc sĩ vĩ cầm lấy cây đàn hồi hộp trổi nhạc. Âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như trước và xem ra còn xuất sắc hơn trước khi nó bị bể vỡ nữa. Từ đó anh mang nó đi trình diễn khắp nơi và nó đem lại cho anh biết bao lời hoan hô nồng nhiệt.
----------
Câu chuyện chiếc vĩ cầm trên đây là một hình ảnh tuyệt hảo cho những gì đã xảy ra nơi người phong cùi trong Tin mừng hôm nay. Ai cũng gớm ghiếc anh ta vì sợ lây nhiễm, chính anh ta cũng ghê tởm chính mình như Thánh vịnh 31 mô tả:
“Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi
trông thấy tôi ngoài đường là họ xa lánh!
…Tôi chẳng khác nào đồ phế thải”.
Thế mà đối với người phong cùi ghê tởm đó, Chúa Giêsu đã đưa tay trìu mến chạm vào, chữa cho anh khỏi bệnh. Điều đó đem đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng. Nếu một điều gì chẳng may xảy đến cho chúng ta, như một tai nạn, một bạn bè phản bội, một người thân mất, một nghèo đói bệnh tật, vv… làm cho chúng ta đau đớn khổ sở trầm trọng giống như người mắc bệnh cùi, như nhạc sĩ Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm… Chúng ta chỉ cần chạy đến Chúa Giêsu và kêu xin Người. Người sẽ chữa lành cuộc đời tan nát của chúng ta như ông thợ tài giỏi đã sửa chữa chiếc vĩ cầm tan vỡ. Và Người còn làm được hơn thế nữa. Người sẽ biến cuộc đời tan nát chúng ta tốt hơn, đẹp hơn trước nữa. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Bệnh phong cùi
Một vụ nổ làm chú bé 7 tuổi bị phỏng nặng hai chân, đến nỗi bác sĩ không chữa được, bảo phải cưa đôi chân. Và như thế nó sẽ phải tàn phế suốt đời!...
Thế mà hai năm sau với niềm tin mãnh liệt, cậu đã bỏ cặp mạng, tự đi được và còn chạy được nữa.
Cậu thi đậu đại học, và chọn môn ngoại khóa là chạy đua. Và cậu làm cho mọi người kinh ngạc, cậu phá kỷ lục môn này…
--------
Cậu bé tưởng chừng phải tàn phế suốt đời đã trở thành vận động viên xuất sắc nhờ niềm tin vào khả năng của mình. Với niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa, người phong cùi đã được lành sạch.
Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người bị phong hủi đến với Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc.1,40-42).
Đối với người Do thái xưa, kẻ mặc bệnh cùi là bị Chúa phạt vì tội lỗi của họ, và xã hội xa lánh vì sợ lây nhiễm, lây nhiễm phong cùi và nhất là lây nhiễm ô uế xấu xa. Trong tình trạng bi đát đau khổ đó, người phong cùi đã biết tin tưởng Chúa, chạy đến chúa, quỳ xuống van xin: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh. Đức Giêsu động lòng thương, đưa ty chạm đến anh và bảo: Tôi muốn. Tôi cho anh khỏi bệnh. Ngay tức khắc, anh được lành sạch. (Mc.1,40-42).
M. Carré nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, chúng ta phải là những nhà chuyên môn của tin tưởng trông cậy”. Và G. Bossis mời gọi chúng ta: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
53.Tại sao người được chữa lành không giữ lời Đức Giêsu căn dặn?--Lm. Giuse Lê Minh Thông
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc Đức Giêsu chữa một người mắc bệnh phong hủi và những gì xảy ra sau đó. Không phải tình cờ khi bản văn lặp đi lặp lại bốn lần từ “sạch”, trong đó 3 lần là động từ katharizô: “sạch” (Mc 1,40.41.42) và 1 lần danh từ katharismos “sự sạch” (1,44). Người mắc bệnh phong “muốn được sạch” và Đức Giêsu “muốn anh ta được sạch”. Hai ước muốn gặp nhau và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giêsu nói anh ta đi trình diện tư tế, để xác nhận “sự sạch” (được chữa lành) nơi anh ta. Như thế, bệnh phong hủi làm người ta trở thành “không sạch” và bị cách ly khỏi xã hội. Bệnh phong làm cho sự giao tiếp và tương quan của người bệnh với người khác bị cắt đứt. Vậy làm thế nào để biến đổi từ tình trạng “không sạch” trở thành “được sạch”, từ tình trạng “tương quan bị cắt đứt” trở thành “có tương quan với người khác”?
Điều lạ lùng trong cách hành văn là sau khi chữa lành, Đức Giêsu lại đuổi anh ta đi ngay, dặn anh ra không nói gì với ai và đi trình diện tư tế, nhưng anh ta đã không giữ lời Đức Giêsu căn dặn. Thay vì giữ im lặng thì người được chữa lành lại đi “rao giảng nhiều nơi, đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai đi vào thành” (1,45). Sự việc anh ta không giữ lời Đức Giêsu trong bản văn có ý nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ lùng của người được chữa lành. Cụ thể là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì trước khi được chữa lành, (2) đã phản ứng thế nào sau khi được chữa lành và (3) tại sao không làm theo lời Đức Giêsu căn dặn.
1. Hành động trước khi được chữa lành
Câu chuyện mở đầu bằng việc người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin để Người làm cho anh được sạch. Về phía Đức Giêsu, Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và nói: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” (1,41). Lập tức bệnh phong biến khỏi và anh ta được sạch. Như thế, việc chữa lành được thực hiện từ cả hai phía.
Ba động tác về phía người mắc bệnh phong hủi là “đến với”, “quỳ xuống” và “van xin Đức Giêsu” bằng một lời nói: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch” (1,40). Về phía Đức Giêsu, Người cũng thực hiện ba bước, trước hết Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào người phong hủi và sau cùng Người nói lên ý muốn của Người: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” (1,41). Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện động từ “muốn” (thelô) và động từ “sạch” (katharizô). Như thế, “ước muốn được sạch” của người bệnh phong chỉ có thể được thực hiện khi anh ta đối diện với một người vừa “muốn chữa lành”, vừa “có khả năng chữa lành”. Nếu “không muốn” và “không xin” thì chẳng có gì để nói, nhưng nếu “muốn” và “van xin” mà không gặp được “có khả năng” thì cũng không có gì xảy ra.
Bản văn vừa đề cao hành động của người bị phong hủi: “Đến với Đức Giêsu” và “van xin Người”. Đây là hành động “cầu xin” dựa trên niềm tin, bởi vì đây không phải là cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề cao “ước muốn” và “khả năng chữa lành” của Đức Giêsu. Người là Đấng có quyền năng làm cho người mắc bệnh phong “được sạch”, nghĩa là làm cho một người bị loại trừ khỏi cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể thiết lập tương quan với mọi người trong cộng đoàn.
2. Phản ứng sau khi được chữa lành
Sự hội nhập cộng đoàn của người được chữa lành diễn tả qua sự đảo ngược cách ngoạn mục. Từ chỗ anh ta không được tiếp xúc với cộng đồng đến chỗ trở thành người rao giảng về lời của Đức Giêsu. Người thuật chuyện cho biết: “Vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng nhiều nơi và loan truyền lời ấy” (1,45a). Câu kết của bài Tin Mừng cho thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của anh ta: “...đến nỗi Người (Đức Giêsu) không thể công khai đi vào thành, Người đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b).
Người mắc bệnh phong được chữa lành là người đã thi hành sứ vụ của Đức Giêsu: “Rao giảng” (kêrussô). Thực vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác giả Tin Mừng Máccô cho biết ở Mc 1,39: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng (kêrussô) trong các Hội đường.” Đến Mc 1,45, chính người được chữa lành đi “rao giảng nhiều nơi”, còn Đức Giêsu, Người lại không di chuyển để “giảng dạy” mà “ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b). Chi tiết: “Người ta từ khắp nơi đến với Người” cho thấy kết quả lời rao giảng của người bị bệnh phong được chữa lành là ngoài sức tưởng tượng.
Đầu đoạn văn, người phong “đến với Đức Giêsu” chứ không phải Đức Giêsu đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức Giêsu lại không thể công khai vào thành, vì người được chữa lành đã làm cho nhiều người khác từ khắp nơi “đến với Đức Giêsu”. Bản văn muốn nói với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu và được Người “chữa lành bệnh tương quan”, thì người ấy sẽ phản ứng bằng cách “rao giảng về Đức Giêsu” và làm cho “nhiều người khác”, “đến với Người”. Điều lạ trong bản văn là “lời rao giảng thành công” của người được chữa lành là do “không giữ lời Đức Giêsu”.
3. Ý nghĩa của việc “không vâng lời” ở Mc 1,44-45
Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu đã làm gì và nói gì với anh ta? Người nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (1,44).
Người được chữa lành đã hoàn toàn không giữ lời Đức Giêsu dặn. Đức Giêsu nói “Coi chừng, đừng nói gì với ai” thì anh ta lại “loan truyền lời ấy cho cả thành biết”. Đức Giêsu bảo “hãy đi trình diện tư tế và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền” thì anh ta lại không đi trình diện tư tế và dâng của lễ mà đi vào thành rao giảng và nói với mọi người về việc anh ta được chữa lành. Tại sao anh ta không giữ lời Đức Giêsu căn dặn? Kiểu hành văn này có ý nghĩa gì?
Lời dặn của Đức Giêsu có thể hiểu là nhằm tránh sự hiểu lầm về tư cách Mê-si-a của Người và Người có thể vào các thành rao giảng. Điều đáng chú ý là việc người được chữa lành không giữ lời dặn của Đức Giêsu trong đoạn văn mang lại những hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê ba ý sau:
(1) Điều tích cực thứ nhất là anh ta nói về Đức Giêsu cho mọi người, nhưng lời rao giảng của anh ta không thay thế lời rao giảng của Đức Giêsu, ngược lại, lời rao giảng của người được chữa lành đã làm cho “mọi người đến với Đức Giêsu”.
(2) Điều tích cực thứ hai là thay vì Đức Giêsu vào thành, đi rao giảng cho đám đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Nhờ lời rao giảng của người được chữa lành, Đức Giêsu có thể giảng dạy mà không phải đi đâu cả. Đồng thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn bị trước, dân chúng chủ động đến với Đức Giêsu nghĩa là họ thực sự muốn nghe lời Người.
(3) Điều tích cực thứ ba của việc “không giữ lời dặn của Đức Giêsu” là cách thức bày tỏ tác động lớn lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu. Dân chúng khắp nơi đã cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã kéo đến với Đức Giêsu, để cũng “được sạch” tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập tương quan với Đức Giêsu và tương quan với người khác.
Đề tài người được chữa lành “không giữ lời Đức Giêsu dặn” (Mc 1,44-45) còn xuất hiện ở các nơi khác trong Tin Mừng Mác-cô và đây là một trong những kiểu hành văn độc đáo của văn chương Mác-cô. Đề tài tương phản: “Càng cấm, càng nói” đã được phân tích phần nào trong bài viết: “Bí mật công khai”. Cấm không được nói mà ai cũng biết!
(http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html). Chi tiết “không vâng lời Đức Giêsu” trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc giả biết hai thông tin:
(1) Theo truyền thống Do Thái, để người bệnh phong hủi chữa lành có thể hội nhận vào cộng đồng, người ấy phải “trình diện tư tế, và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền” (1,44).
(2) Đối với độc giả dân ngoại (cũng là độc giả qua mọi thời đại), họ được mời gọi hành động như người phong được chữa lành: Ra đi rao giảng để mọi người từ khắp nơi đến với Đức Giêsu.
Kết luận
Đoạn Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả suy gẫm về hai đề tài lớn: (1) “Tương quan” và “hội nhập cộng đoàn”, “hội nhập xã hội”; (2) Thể hiện niềm vui và hạnh phúc được chữa lành bằng cách rao giảng “lời ban sự sống” đã đón nhận để mọi người đến với Đức Giêsu.
Con người có thể “cô đơn” và “đơn độc” ngay giữa đám đông. Có những người hoàn toàn khoẻ mạnh về thể lý, nhưng tương quan với người khác lại có thể bị tổn thương, bị rạn nứt, thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở thành những người “bị tách rời khỏi cộng đoàn” hay “tự mình cắt đứt tương quan với người khác”. Bài Tin Mừng dùng hình ảnh “bệnh phong hủi” để diễn tả “tương quan bị cắt đứt” giữa cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giêsu để được Người chữa lành. Hành trình của người mắc bệnh phong trong bản văn là lời mời gọi độc giả hãy “đến với và van xin” Đức Giêsu. Người sẽ chữa lành họ, vì Người là “Đấng muốn chữa lành” và “có khả năng chữa lành”. Nghĩa là Đức Giêsu có khả năng làm cho độc giả được thanh tẩy, được sạch, được hội nhập cộng đoàn và bước vào tương quan tốt đẹp với người khác.
Đồng thời, một khi đã được chữa lành, độc giả sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc khôn tả, đó là niềm vui và hạnh phúc được bước vào tương quan với Đức Giêsu và với mọi người. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao này sẽ thúc đẩy những ai được chữa lành lên đường, ra đi rao giảng và loan báo về Đức Giêsu để mọi người cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy bằng cách tìm đến với Đức Giêsu. Cách thức rao giảng mà bản văn đề cao là rao giảng như thế nào đó, để không phải mọi người đến với mình, nhưng để họ “đến với Đức Giêsu”, “lắng nghe Đức Giêsu” và tin vào Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giêsu, bước vào tương quan tràn đầy sức sống với Người và với mọi người. Từ đó hân hoan ra đi rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đã lãnh nhận cho những người xung quanh mình./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/mc-140-45-tai-sao-nguoi-uoc-chua-lanh.html
54.Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Khi mới đọc qua, đoạn Phúc âm này làm chúng ta ngạc nhiên vì một sự tương phản: Chúa Giêsu có hai thái độ trái ngược nhau. Chúa Giêsu vừa cảm động, xót thương người cùi, vừa xua đuổi anh, và ngược đãi anh. Đoạn này khiến ta phải suy nghĩ về lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, lòng nhân hậu vừa nhạy cảm lại vừa cương quyết.
1) Chúa Giêsu dễ cảm xúc, ‘Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay sờ đến người ấy mà phán bảo: Ta muốn, ngươi hãy lành bịnh’. Chúa Giêsu đã xúc cảm cách rất nhân loại. Lòng từ bi vô biên của Chúa ‘Giêsu-làm-người’ không phải chỉ là một sự hảo tâm, tuy hiệu nghiệm nhưng xa vời. Trong sự mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã truyền thông lòng từ bi vô biên của Người bằng sự rung cảm của một con tim thật sự nhân loại, trái tim của Chúa Giêsu. Lòng từ bi đó trở thành một sự cảm xúc rất nhân loại, nó biến thành lòng xót thương khi đứng trước sự đau khổ, nghĩa là thành khả năng có thể ‘cùng đau khổ’. Chúa Giêsu đau khổ trước sự đau khổ của người phung cùi khi anh này đến với Người. Hơn nữa, vì Người thương con bịnh, nên nỗi đau khổ của y làm cho Người khó chịu hơn chính sự đau khổ của Người. Khi người ta yêu ai thực sự, nếu người này đau khổ, người ta muốn mang lấy sự đau khổ cho kẻ ấy để giải thoát cho y. Chúa Giêsu không chữa cho người phung cùi bằng một hiệu quả của quyền-lực-toàn-năng Người. Người cúi xuống sát con bịnh đang quỳ dưới chân Người. Người đáp ứng lời van xin của y bằng một cử chỉ từ bi nhân hậu đi xa đến độ vi phạm cả một giới răn Lề Luật. Người chạm đến bịnh nhân cùi bằng tay Người. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ gây bối rối cho bịnh nhân mà một trong những đau khổ lớn lao nhất trong đời họ là cảm thấy bị loại ra khỏi xã hội loài người, những đồng loại không còn muốn tới gần họ nữa chứ đừng nói chi đến sự chìa tay ra cho họ. Vì họ là người không ai muốn sờ mó, đụng chạm tới. Như vậy là lòng từ bi của Chúa không những đã hữu ích cho họ bằng cách chữa họ lành đã, mà còn nâng họ lên hàng cao, bằng cách phục hồi danh dự địa vị cho họ, bằng cách trả lại cho họ danh dự con người. Chúng ta ghi nhớ điểm Chúa Giêsu đụng đến người cùi trước khi y lành đã, và cử chỉ ấy đã chữa y khỏi căn bịnh. Lòng từ nhân của chúng ta có thực sự động lòng xót thương, gần gũi sự đau khổ, chấp nhận hoặc phục hồi cho tha nhân nhân phẩm của họ chăng? Một lòng từ nhân như vậy lắm khi mang trong bản chất nó quyền lực chữa lành một số bịnh tật.
2) Chúa Giêsu cương quyết. Nhưng rồi ngược đãi y, Chúa Giêsu liền xua đuổi y mà bảo: Coi chừng đừng nói gì với ai. Chúa Giêsu không muốn ai tiếp nối những cử chỉ từ bi của mình bằng những tình cảm giả vờ hoặc thái quá. Trái lại là khác. Người không bao giờ rời mắt khỏi những lợi ích cao cả của sứ mạng Người. Không bao giờ Người chấp nhận cho một quyền lợi riêng tư đi ngược lại với quyền lợi tổng quát. Trong trường hợp hiện tại, sự lợi ích của sứ mạng Người đòi hỏi 1 hành động tiến dần đến mục đích tối hậu là: mọi người nhận ra Người, Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế. Trước các phép lạ Người làm, khi Người khởi đầu ra đi thi hành sứ mạng, những người tốt có thể coi Người như một nhân vật được thiên phú một quyền năng phi thường, không hơn không kém. Nhưng Chúa Giêsu cương quyết muốn rằng các phép lạ Người làm tiên vàn phải là chữ ký của Lời Người. Trước hết, Người muốn ban Lời Người. Đối với Người, điều quan hệ, không phải là sự nổi tiếng về quyền năng chữa bệnh của Người, nhưng là sức mạnh cứu độ của Lời Người. Vậy Lời ấy là nguồn gốc ơn cứu độ ở chỗ nào? Ở chỗ là Lời ấy kêu gọi con người hãy có lấy một sự tuyên xưng đức tin. Lòng tin vào Lời và Con Người của Chúa Giêsu mở cửa cho ơn cứu độ. Khi hắt hủi người cùi được chữa lành vì lòng từ nhân của Người, Chúa Giêsu không muốn bịnh nhân làm phương hại đến sứ mạng của Người bằng một niềm hân hoan thiếu kín đáo. Người không muốn sự chữa lành phần xác bao vây trí óc kẻ đương thời thu hẹp khả năng chữa lành bệnh của quyền năng Người. Người đã đến để loan báo Nước Thiên Chúa và chính trên sự loan báo ấy, Người muốn tập trung mọi tâm hồn và con tim, các phép lạ chỉ là một trong những ngôn ngữ của sự loan báo ấy. Thửa đất thực sự của lòng nhân từ Chúa chính là ơn Cứu chuộc mà chúng ta tiếp nhận bằng đức tin.
55.Người phong cùi được sạch--William Barclay
Trong Tân Ước không có chứng bệnh nào bị coi là khủng khiếp đáng thương hại bằng bệnh phong cùi. Lúc Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ, Ngài truyền dặn “Hãy chữa lành kẻ đau… làm sạch người phong”(Mt 10,8). Số phận người phong rất hẩm hiu. E.W.G. Masterman trong bài viết về bệnh phong in trong bộ “Tự điển Về Chúa Cứu Thế và Các Sách Phúc Âm” mà chúng tôi sẽ trích dẫn phần lớn có nói “không có bệnh nào khác đẩy người ta vào một tình trạng bị ghê tởm quá lâu năm như thế”. Trước hết, chúng ta hãy xét những sự kiện.
Có ba loại bệnh phong:
1/ Có bệnh phong do lao xương, nó bắt đầu bằng vô số lần hôn mê, rời rã và đau nhức ở các khớp xương, rồi nó xuất hiện trên thân thể, đặc biệt là trên lưng thành từng mảng da tái nhợt. Trên các mảng da ấy hình thành những mụn nhỏ ban đầu màu hồng sau chuyển sang màu nâu. Da trở nên dày hơn. Các mụn nhỏ đặc biệt tập trung tại các nếp da trên má, trên mũi, trên môi và trên trán. Cả gương mặt bị thay đổi hoàn toàn, khiến mặt bệnh nhân không còn là mặt người nữa và theo người xưa nói, thì trông giống như mặt sư tử hay dê thần. Các mụn cứ lở loét và từ đó có nước thối chảy ra. Lông mày rụng hết, đôi mắt sáng lên, giọng nói trở thành khàn khàn và hơi thở thì khò khè vì những vết ung thối gây ảnh hưởng trên các dây thanh quản. Tay chân cũng lở loét. Dần dần bệnh nhân trở thành một khối lở loét. Thời gian trung bình của căn bệnh là chín năm và nó kết thúc bằng sự sa sút tinh thần, hôn mê, rồi chết. Bệnh nhân trở thành hết sức ghê tởm cả cho chính mình lẫn người khác.
2/ Có bệnh phong tê, các giai đoạn đầu của bệnh này cũng giống như trên, nhưng trong loại này các dây thần kinh nhiễm bệnh. Các khu vực bị nhiễm mất hết cảm giác. Nó có thể xảy ra mà bệnh nhân chẳng hay biết gì cả, ngay khi bị đốt hay bị cắt vẫn không có cảm giác đau ở những chỗ đáng lẽ phải đau. Bệnh càng phát triển thì những chỗ dây thần kinh nhiễm bệnh trở thành nhợt nhạt, biến thành vết phồng lên. Các bắp thịt biến dần, các gân teo lại cho đến khi đôi tay bị có quắp lại. Móng tay rồi cũng biến dạng, rồi có những mụn lở loét ở bàn chân, bàn tay. Các ngón chân ngón tay rụng dần cho đến cuối cùng, cả bàn tay hoặc bàn chân có thể cụt hẳn. Căn bệnh kéo dài khoảng hai mươi đến ba mươi năm năm, đây là một cái chết dần mòn khủng khiếp của thân xác.
3/ Loại bệnh phong thứ ba là loại phổ biến nhất, kết hợp cả hai loại phong lở và phong tê.
Đó là bệnh phong nói chung, chắc đã có nhiều người phong như vậy tại Palestine và thời Chúa Giêsu. Bệnh phong được mô tả ở Lêvi 13 và theo phần mô tả đó thì rõ ràng vào thời Tân Ước, từ “phong” được dùng chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da khác. Dường như nó cũng dùng chỉ bệnh “bạch tạng” phủ toàn thân bằng những mảng da màu trắng, và có lẽ do đó mà có câu nói “bị phong trắng như tuyết”, dường như nó còn gồm cả bệnh sài (ring-worm) vốn khá phổ biến bên phương đông. Từ Do Thái chỉ bệnh phong ở Lêvi là tsaraath, nhưng Lêvi 13,47 còn đề cập tsaraath của y phục, và tsaraath trong nhà thì được đề cập trong Lêvi 14,33. Những vết ố trên quần áo có lẽ do nhữngg loại nấm những mốc, ở trong nhà thì có lẽ do nhũng loại nấm mốc trên cây mục hay trên loại rêu thường mọc trên đá. Dường như từ tsaraath, bệnh phong theo ý nghĩa của dân Do Thái bao gồm tất cả các chứng bệnh ngoài da lan dần che phủ cả thân thể. Với kiến thúc y khoa thô thiển thời bấy giờ, không thể chuẩn đoán để phân loại các chứng bệnh ngoài da, nhưng gộp chung cả chứng bệnh nan y, chết người với những chứng bệnh không nguy hiểm mấy vào cùng một loại cũng tương đối vô hại.
Bất kỳ chứng bệnh nào như kể trên đều khiến bệnh nhân bị ô uế, bị cấm thông công, giao thiệp với mọi người, phải ở riêng bên ngoài trại, đi đây đó với quần áo rách rưới, đầu trần, toàn thân che kín đến tận môi trên, vừa đi, vừa phải la lên “ô uế, ô uế” để báo cho mọi người về sự hiện diện ô uế của mình. Chúng ta có thể thấy cùng một cảnh tượng như vậy vào thời Trung cổ và đó chỉ là một hình thức áp dụng luật Môsê. Vị linh mục mặc áo choàng, cầm thập giá dẫn kẻ phong vaò nhà thờ, đọc kinh hành lễ an táng cho bệnh nhân. Người phong tuy còn sống nhưng bị kể như đã chết. Người ấy phải mặc y phục đen để mọi người có thể nhận thấy và người ấy sống trong một trại cùi. Người ấy không được tham dự một buổi hành lễ trong nhà thờ, nhưng có thể nhìn qua một cái lỗ dành cho người phong đục trong vách khi buổi lễ được cử hành. Chẳng những kẻ phong phải chịu sự đau đớn thể xác mà còn phải gánh chịu nỗi buồn khổ và đau đớn tinh thần vì bị xã hội ruồng bỏ và thật sự bị xa tránh như người ta tránh xa bệnh dịch vậy.
Nếu người phong được lành, bệnh phong thật sự vốn là nan y nên có lẽ ở đây ám chỉ các chứng bệnh ngoài da khác, người ấy phải trải qua một nghi lễ phức tạp về việc được lành bệnh như đã mô tả trong Lêvi 14. Người ấy phải được thầy tư tế khám xét, phải đem đến hai con chim, một con bị giết trong dòng nước chảy, thêm vào đó còn phải đem cây hương nam, màu đỏ sậm và nhành kinh giới, các vật ấy và con chim còn sống được nhúng vào máu của con chim đã bị giết, sau đó thả con chim bay đi. Người lành bệnh phải tắm rửa, thay y phục và cạo râu tóc. Bảy ngày sau, người ấy được tái khám. Bấy giờ, người ấy lại phải cạo lông, tóc, râu và lông mày. Rồi một số của lễ được dâng lên gồm hai con chiên đực không tỳ vết, một chiên cái chưa giáp năm, bột lọc chế dầu làm của lễ chay và một ít dầu. Số của lễ được giảm bớt cho người nghèo. Thầy tư tế lấy máu con vật và dầu bôi trên trái tai hữu, ngón tay cái bên mặt và trên ngón chân cái bên mặt của người được lành bệnh. Thầy tư tế khám xét lần cuối và nếu quả thật người ấy đã được lành bệnh, thì cho phép ra về với tờ chứng nhận người ấy đã được sạch.
Đây là một trong những bức tranh nổi bật của Chúa Giêsu:
1/ Ngài không xua đuổi kẻ đã vi phạm luật. Người phong không hề được quyền trò chuyện với Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã thoả mãn nhu cầu của một người lâm cảnh tuyệt vọng bằng thái độ thương xót và đầy cảm thông.
2/ Chúa Giêsu đã đưa tay ra chạm đến bệnh nhân. Ngài đã rờ tay vào kẻ ô uế. Với Chúa Giêsu thì người ấy không ô uế, người ấy chỉ là một linh hồn đang lâm cảnh tuyệt vọng cần được cứu giúp.
3/ Sau khi chữa lành người ấy, Chúa Giêsu dạy người ấy nên đi về, làm đúng mọi thủ tục đã ấn định. Chúa Giêsu giữ đúng luật lệ và sống công chính theo cách loài người. Ngài không bướng bỉnh thách đố các quy ước của loài người, nhưng khi cần, Ngài sẵn sàng phục tùng các quy ước ấy.
Ở đây chúng ta thấy cả lòng thương xót, quyền năng và sự khôn ngoan được kết hợp.
56.Chữa người phung hủi--Jacques Hervieux
Trình thuật khởi đầu một cách đầy bất ngờ, chẳng xác nhận thời gian lẫn nơi chốn (c. 40a). Đặc biệt động từ “đến” được dùng ở thì hiện tại lịch sử. Chắc chắn Maccô muốn nêu bật giá trị “hiện thực” của biến cố này cho bản văn của ông. Thêm vào đó, ngay nơi bản văn cũng đưa ra cho độc giả một vài vấn nạn. Tại sao Chúa Giêsu lại đuổi thẳng thừng anh chàng vừa được Ngài chữa lành? (c. 43). Tại sao anh chàng phung hủi vừa được chữa lành lại dám bất tuân không giữ lệnh Chúa truyền cho anh ta phải giữ kín miệng? (c. 45). Các nghịch lý này hẳn sẽ tác hại cho sự mạch lạc của bản tường trình có tính trực tiếp như thế nếu chúng không được giải thích đầy đủ trong nhãn quan của một sự cố được đọc lại dưới ánh sáng đức tin. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
Người bệnh tiến đến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, tin cậy van xin: anh ta quỳ gối xuống trước mặt Chúa, nài xin Chúa chữa lành nếu Chúa muốn (c. 40b). Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phung hủi là kẻ hoàn toàn bị “khai trừ” khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô nhiễm như thế, kẻ ấy phải sống ngoài lề cộng đoàn của mình. Ngay từ thời xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi sự đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và loại người mắc bệnh đáng tởm này. Bức chân dung được luật Môsê vẽ ra về loại bệnh nhân này tố cáo sự khai trừ mãnh liệt của Lề Luật như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, kẻ phong hủi phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai xõa xuống, râu mép để dài và phải la lớn: “Ô uế, ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46). Thực thế, trong Kinh Thánh, bệnh hủi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh hãi, gặm nhấm và làm biến dạng hình hài bệnh nhân (đến nỗi thấy kẻ ấy người ta phải che mặt), nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo. Kẻ mắc bệnh này bị xem như đã phạm một trọng tội nên bị Chúa trừng phạt. Một số giáo sĩ đương thời Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh hủi dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, ham trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam. Từ thời xửa thời xưa, người phong hủi bị mọi người kể như là một xác chết biết di động. Bị phung hủi là lập tức bị khai trừ, và bị ruồng bỏ như một thây ma đầy “ô uế”, nghĩa là không thể thông giao với Thiên Chúa cũng như với loài người. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành được thứ bệnh này. Ngài đã dùng nó như hình phạt thì chỉ Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó (xem Cuộc đời Myria, em gái Môsê trong Ds 12,1-16).
Thế mà người ta trông thấy Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào trước lời van xin của kẻ phung hủi bị khai trừ khỏi xã hội và cộng đoàn (c.41). Cử chỉ của Chúa Giêsu thật đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa: Ngài dám đưa tay chạm đến kẻ mà không ai dám sờ đến. Và lời Ngài mang uy lực lời nói của Thiên Chúa: Ngài nói và sự việc xảy ra đúng theo lời Ngài (c. 42).
Khi tường thuật lại sự cố này, hẳn Maccô đã chủ ý mang lại cho nó trọn vẹn một trong số các dấu chỉ giúp người ta nhận ra việc khánh thành thời đại Đấng Mêsia (x. Mt 11,1-5, câu trả lời của Chúa Giêsu cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả). Như vậy, Đấng Mêsia, Đấng hồi phục trọn vẹn sức khỏe thể lý và thiêng liêng cho con người, hiện đang có mặt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, người ta lại ngạc nhiên về tiến trình gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bệnh nhân được chữa lành (c. 43-44a). Hành vi của vị đạo sư quả là cứng cỏi. Ngài đuổi anh chàng trước đó bị mắc bệnh phung hủi: động từ trong tiếng Hy Lạp ở đây có nghĩa là “xua đuổi, trục xuất”. Chính Maccô đã dùng động từ này để chỉ việc trục xuất ma quỷ (1,34-39’ 3,15-22; 6,13 v.v…). Sự thô bạo của Chúa Giêsu đi kèm theo mệnh lệnh nghiêm khắc truyền giữ kín miệng, nghĩa là truyền anh ta phải giữ “Bí mật của Đấng Thiên Sai”. Vị Đạo Sư không muốn người ta hiểu sai ý nghĩa sứ mệnh của Ngài. Ngài không phải là gã phù thủy mà họ mong ước đến để tiêu hủy mọi sự dữ trên trái đất. Họ chỉ có thể thực sự hiểu được bản thể và sứ mệnh sâu sắc của Ngài dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài.
Trình thuật tiếp tục với lời Chúa Giêsu yêu cầu người trước đây bị phung hủi: “Hãy đi trình diện tư tế…” (c. 44b). Khi sai anh ta đến trình diện thầy tư tế, Chúa Giêsu muốn bảo đảm cho anh ta được tái hội nhập vào cộng đoàn tôn giáo. Chính thầy tư tế là người chính thức được đặc cách để chuẩn nhận việc anh ta được lành bệnh (Lv 14,1-9 và tiếp theo). Chu toàn nghi thức như thế trước các vị đại diện dân chúng không khác nào đưa ra “bằng chứng” cho dân Do Thái biết rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất niềm mong đợi lâu dài về Đấng Mêsia. Từ đó họ phải kết luận ra rằng thời gian cứu độ đã đến.
Tuy nhiên đây quả là điều làm chúng ta ngạc nhiên: Anh chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền phải nín lặng về trường hợp khỏi bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố” tin này ra; đây chính là động từ được dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua” thời đại Chúa Giêsu để đặt các độc giả của ông vào “hiện thực tính”. Người từng bị phung hủi trước kia giờ đã trở thành một loại thừa sai loan báo Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không cần giữ kín nữa. Giờ đây, sau khi được các biến cố cứu độ soi sáng, theo gương anh chàng phung hủi được Chúa Giêsu chữa lành, các độc giả được mời gọi loan báo sứ điệp giải phóng vui mừng của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, khi kết thúc trình thuật này, Maccô đã trở về lại với thời đại Chúa Giêsu. Vì hành vi cứu độ này cũng như vì bị dân chúng đồn ầm lên, vị Đạo Sư bó buộc phải lẩn trốn đám đông đang từ khắp nơi tuôn đến với Ngài (c. 45b). Lúc khởi đầu câu chuyện là một bệnh nhân đơn độc bạo Gioan tiến đến gần Chúa Giêsu. Vào đoạn kết là một đoàn người đông đúc tuôn đến gần vị lương y. Đối với đám đông này, cũng như đối với độc giả, câu hỏi được nêu lên như sau: “Người này là ai mà có thể đem lại vị trí cũ cho những kẻ bị khai trừ, giúp họ thông hiệp với Thiên Chúa và với cộng đồng anh em bè bạn của họ?”.
57.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Noel Quesson
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết” lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.
Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những “dấu chỉ” của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là “kêu xin” Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: “Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động lòng thương trước người đó.
Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: “splagknisteis” có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và “orgisteis” có nghĩa là “nổi giận”. Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ “nổi giận” nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai “câu dịch” đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một “phản ứng rất nhân bản”! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là “hiện thực”, đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận... “Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người”. Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính “Thiên Chúa hiện hình cụ thể”. Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước “vấn đề sự dữ”, họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.
“Động lòng thương”. Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng “làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể “hoàn hảo” được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là “Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian “không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn “hữu hạn”, rõ ràng “không phải là Chúa”. Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào “thế gian này”. Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người “nổi giận”, đã khơi dậy “lòng thương xót” của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một “dấu chỉ” báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự “sẽ được hoàn tất” (Rm 8,18).
Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến “bàn tay”. Ở đây, đối với một người phong hủi, một người “không ai được sờ động đến”, thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: “Nhơ! Nhơ!”: Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.
Người bảo: “Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh”.
Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một “cử chỉ” và “bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô”.
Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: “Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: “Nếu Ngài muốn điều đó”, nhưng là nếu Ngài muốn”. Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: “Tôi muốn điều đó”, mà là “Tôi muốn”. Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ “điều đó”, những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một “hình phạt của Thiên Chúa”, Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là “biểu tượng” của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận” và “lời” của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động “chữa lành” của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: “Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng”). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người “nhu mì”, mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: “không gì hết”, “không với một ai cả”.
Đó là “bí mật Thiên Sai” nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc “giải phóng” con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại.
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. “Lời” được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên “kẻ cứu độ” người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những “nơi hoang vắng”. Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một “Thiên Chúa ẩn giấu”.
58.Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa--Yvon Daigneau
Mở đầu.
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.
Bệnh tật.
Chúng ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.
Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh.
Thái độ của Chúa Giêsu.
Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế.
Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này.
Người phong cùi.
Theo Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm.
Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót.
Kết luận.
Trong lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
59.Thiên Chúa giàu lòng thương xót--Đaminh Phạm Thanh Cao, OP
Kính thưa cộng đoàn,
Hằng ngày khi nhìn lên Thánh giá, mỗi người không khỏi tự vấn: tại sao chúng ta lại tôn thờ một Giêsu chết treo tất tưởi trên cây gỗ giá!? Điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23). Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta câu hỏi này khi chia sẻ với tín hữu Ga-lát: Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh với tôi, và tôi với thế gian. (Gl 6,14). Đó là niềm vinh dự của thánh nhân và cũng là của chúng ta. Vì đó là cách Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót và tình yêu của Người cách tột cùng - vì bên kia sự chết là sự sống vinh quang.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói: cứu độ là như sen ngụp lặn dưới bùn lầy nhơ nhớp, hút lấy tất cả những gì của bùn lầy để dâng cho đời đoá sen tươi thắm thì đây còn hơn thế. Chính Đức Giêsu đã mang lấy toàn bộ tội lụy và nhuốc nhơ của chúng ta vào mình mà đưa lên cây thập giá và cho nở hoa vinh quang. Vinh quang này biến đổi chúng ta thành một con người hoàn toàn mới - con người trong mối hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Mối thông hiệp bị phá vỡ do nguyên tội nay được kết nối lại.
Cuộc kết nối này được tiên báo nhiều lần trong Cựu Ước và nhiều việc làm thi thố lòng thương xót của Đức Giêsu. Trình thuật chữa lành người phong hủi hôm nay là một trong những hình ảnh báo trước:
Thứ nhất: Đức Giêsu - Thiên Chúa - không đứng từ đàng xa dùng quyền năng của Người mà chữa anh nhưng đã chạnh lòng thương, cúi xuống, đụng tới anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Tức thì anh được sạch. Được chữa lành, anh được trở lại mối thân tình với Thiên Chúa, vì vào thời đó, dân Do Thái cho rằng: bệnh tật, nhất là phong hủi được coi như án phạt của Chúa trên kẻ có tội.
Thứ hai: việc người truyền anh trình diện với tư tế để anh được chứng thực khỏi bệnh đồng nghĩa với việc anh được hội nhập trở lại cộng đồng. Vì vào thời Đức Giêsu người phong hủi phải sống tách biệt khỏi cộng đồng.
Như thế không phải là hình ảnh báo trước cuộc kết nối trọn hảo chính Đức Giêsu sẽ thực hiện nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người! Nhưng để có thể được kết nối trở lại thì chúng ta cần có thái độ nào. Chính người phong hủi là tấm gương sống động cho mỗi người. Chính anh đã bước ra khỏi bản thân để đến với Đức Giêsu và xin Người: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (Mc 1, 40). Anh xin điều Đức Giêsu - Thiên Chúa muốn mà không phải theo ý anh; trong khi, thường chúng ta hay xin theo ý của ta và than trách Người khi không được như ý. Anh tin tưởng và phó thác một cách đơn thành cho tình thương và lòng thương xót của Đức Giêsu. Chính vì thế, Đức Giêsu đã thực hiện khoản luật trên hết mọi khoản luật - luật yêu thương - khi người cúi xuống, đụng tới và chữa lành anh. Điều Người không thể thực hiện tại quê hương của mình khi dân chúng chỉ xin theo ý họ và không tin (Mc 6, 1-6; Mt 13, 54-58; Lc 4, 16-30).
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót trong dụ ngôn người con hoang đàng. Người luôn chờ mong và sẵn sàng mở rộng vòng tay yêu thương và tha thứ khi người con biết nhìn nhận bản thân, tin tưởng và mở lòng ra với cha mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Đâu đó vẫn còn tình trạng phân biệt kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. Đâu đó vẫn còn hàng rào ngăn cách đối với những người HIV, lao; những người khuyết tật; những người tù tội; những người cơ nhỡ… Đó là thứ phong hủi thời đại mới. Thứ bệnh nhiều khi chính mình mắc phải mà chẳng hay. Xin thêm đức tin cho chúng con. Xin cho con biết phó thác, tin tưởng nơi Người, để Người ra tay chữa lành chứng phong hủi trong tâm hồn con. Xin cho con là cánh tay nối dài của tình yêu thương của Chúa trong thời đại hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể!
Cây Thánh giá gồm hai thanh: thanh dọc nối Trời và Đất, thanh ngang nối người với người. Xin cho con mang trọn thập giá đời mình không phải riêng thanh ngang hay thanh dọc vì Chúa dạy con: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi. (Mc 8, 34). Xin dùng con để con trở thành mối dây hiệp thông nơi mình sinh sống để Tình Chúa Tình Người mãi nở hoa. Amen.
60.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
Bài đọc I và Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến bệnh phong cùi. Vì thế, trong bài suy niệm hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Bệnh phong là gì? Số phận người mắc bệnh phong thời Đức Giêsu như thế nào? Chúng ta có mắc chứng bệnh phong không?
1. Bệnh Phong là gì?
Theo bách khoa toàn thư mở (vi.wikipedia.org): Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi bị nặng, vết thương lõm vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Người bệnh cũng không còn cảm giác nóng, lạnh và đau. Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng, ngón tay ngón chân rụng dần.
Bệnh phong chỉ lây khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân. Các thể phong nhẹ khác ít có khả nǎng lây hơn nhiều. Tỷ lệ lây giữa vợ chồng chỉ là 2-3%. Bệnh không di truyền và có thể chữa khỏi. Hiện có nhiều loại thuốc điều trị rất có hiệu quả. Trong đó khi dùng thuốc Rifampicine sau 5 ngày sẽ hạn chế khả năng lây lan của vi khuẩn tới 99,9%.
Trên thế giới có khoảng 15 triệu bệnh nhân phong cùi. Riêng ở Việt Nam hiện nay, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000 người. Có 23.371 bệnh nhân đã được chữa lành, 18.000 bệnh nhân còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng số làng phong đếm được là 13: Bến Sắn (Bình Dương); Bình Minh (Đồng Nai); Cẩm Thủy (Thanh Hóa); Di Linh (Lâm Đồng); Đắc Kia (Contum); Phú Bình (Thái Nguyên); Phước Tân (Đồng Nai); Quả Cảm (Bắc Ninh); Qui Hòa (Qui Nhơn); Quỳnh Lập (Nghệ An); Sóc Sơn (Hà Nội); Thanh Bình (Tp HCM); Văn Môn (Thái Bình). (Nguồn: vi.wikipedia.org)
2. Thời Đức Giêsu, số phận người mắc bệnh phong như thế nào?
Bài đọc I, trích sách Lêvi, cho chúng ta một số điểm để xác nhận người có thể có dấu hiệu mắc bệnh phong cùi: “Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.” (Lv 13,1-2). Khi những người có dấu hiệu như thế hoặc các dấu hiệu tương tự khác như lác, ung, phỏng, chốc, lang ben, sói đầu (x. Lv 13, 3-43) thì được đưa đến các tư tế và các tư tế có nhiệm vụ khám. Sau khi khám, vị tư tế đó kết luận có phải là mắc bệnh phong cùi hay không. Nếu tư tế kết luận bệnh nhân mắc bệnh phong cùi thì bệnh nhân đó phải chấp nhận những luật lệ sau đây: “Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại.” (Lv 13, 44-46).
Như vậy, khi xác định là bệnh nhân phong cùi thì người bệnh không những chịu đau đớn về thể xác do bệnh phong cùi gây ra mà họ còn phải chịu muôn vàn đau khổ khác về tinh thần:
Đau khổ thứ nhất là họ phải ở riêng, tức là phải sống cách ly với người thân, với gia đình, với cộng đoàn. Từ nay, họ không được sinh hoạt với gia đình với cộng đoàn, họ không được tham dự các lễ nghi tôn giáo như trước nữa. Sự cách ly này có thể vĩnh viễn cho đến chết. Bởi vì, vào thời Đức Giêsu, bệnh phong cùi thuộc loại bệnh nan y, tức là không có thuốc chữa khỏi. Đó là một đau khổ lớn lao đối với người mắc bệnh phong cùi.
Đau khổ thứ hai là khi đi ra ngoài hay khi gặp người khác họ phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình bị bệnh truyền nhiễm và ô uế. Làm như thế, để cho người khác biết mà xa tránh họ. Đó là một nỗi tủi nhục và đau khổ đối với họ.
Đau khổ thứ ba là họ mang tiếng bị Chúa phạt. Bởi vì, theo người Do thái, bệnh là do tội, vì tội cho nên Chúa phạt. Người bị bệnh phong cùi là do Chúa phạt. Đây là đau khổ lớn nhất mà người phong cùi phải chịu.
May mắn thay có một số bệnh nhân được Đức Giêsu chữa lành. Chẳng hạn, trường hợp được khỏi bệnh mà Tin mừng hôm nay tường thuật lại hay trường hợp mười người phong cùi được sạch (Lc 17, 11-19). Tuy nhiên, con số được Đức Giêsu chữa khỏi không phải là nhiều so với vô vàn vô số người phải chấp nhận sống chung với bệnh, họ sống mà như đã chết.
3. Chúng ta có mắc bệnh phong cùi không?
Có lẽ ít ai trong chúng ta mắc thứ bệnh phong cùi về thể xác. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân này. Đồng thời, tùy khả năng và hoàn cảnh cho phép chúng ta cần quan tâm đến những bệnh nhân phong cùi bằng cách: Dành thời gian tới các trung tâm để thăm viếng họ, đóng góp tiền của để giúp đỡ họ.
Tội lỗi cũng là loại bệnh phong cùi thiêng liêng. Ít ai tránh khỏi tội lỗi, nên ít ai tránh khỏi bệnh phong cùi thiêng liêng. Chúng ta mắc bệnh phong cùi thiêng liêng khi chúng ta lỗi luật Chúa, lỗi luật Hội Thánh: Có người mắc bệnh phong cùi do lỗi công bằng, bác ái yêu thương; có người mặc bệnh phong cùi do tham nhũng; có người mắc bệnh phong cùi do ích kỷ; có người mắc bệnh phong cùi do ham mê tửu sắc danh lợi; có người mắc bệnh phong cùi do kỳ thị hận thù; có người mắc bệnh phong cùi do ngoại tình; có người mắc bệnh phong cùi do thiếu sự hiếu thảo với ông bà, cha mẹ…Ngoài ra, chúng ta cũng có thể mắc bệnh phong cùi khi chúng ta tự cách ly mình với anh em, với cộng đoàn, với những người xung quanh: Đó là khi chúng ta sống ích kỷ không quan tâm đến những người xung quanh; đó là khi chúng ta gây chia rẽ, hận thù, làm cho cuộc sống giữa chúng ta và tha nhân bị ngăn cách.
Những thứ bệnh phong cùi thiêng liêng này cũng làm cho chúng ta sống mà như đã chết. Chúng ta bị cách ly với Chúa và cộng đoàn. Nếu không được chữa khỏi, chúng ta sẽ phải cách ly vĩnh viễn với Chúa đời này và đời sau. Vì thế, hãy đến với Đức Giêsu qua bí tích Giao hòa để được chữa khỏi, vì chỉ Ngài mới có thể chữa khỏi bệnh phong cùi thiêng liêng này.
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa những nạn nhân bị bệnh phong cùi. Xin cho chúng con thoát khỏi những bệnh phong cùi thiêng liêng. Amen.
61.Bệnh tật là thông phần đau khổ với Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Bệnh là một hiện tượng hiển nhiên trong cuộc đời, đã mang thân người là có bệnh. Cho nên, ông bà ta nói: “sinh lão bệnh tử là qui luật của con người". Mỗi chúng ta có thể trải qua một hay nhiều lần bệnh, không lúc này thì khi khác, không nặng thì nhẹ. Do đó, bệnh là một hiện tượng rất gần gũi với con người trực tiếp hoặc gián tiếp dù người đó giàu, nghèo, chức quyền hay dân thường, Giáo sĩ hay giáo dân. Người đời khi nói đến bệnh, là người ta nghĩ đến sự đau đớn, khổ sở, khó chịu, buồn bã, âu lo, sợ hãi, tủi hổ, xấu xa. Bệnh dĩ nhiên phải đau, điều này không ai phủ nhận. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đau (về thân), chúng ta đừng có khổ (về tâm). Chúng ta nói rằng bệnh làm sao mà không buồn không khổ? Tôi đã từng thắc mắc như nhưng sau khi bệnh, tôi nghiệm ra rằng lúc mình bệnh là cơ hội để nhận biết tín hiệu cơ thể mình yếu lắm, vì Lời Chúa nói: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi. Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng. Một cơn gió thoảng là xong. Chốn xưa mình ở cũng không biết mình!” (TV 103,15-16). Vì vậy, bệnh là dấu hiệu cho chúng ta biết rằng chúng ta cần điều chỉnh cho cuộc sống trở nên thoải mái hơn về tinh thần cũng như thể xác. Vì chưng, Chúa nói: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu" (Lc 12,5). Cho nên, khi bệnh, chúng ta thấy nhu cầu cho đời sống tâm linh trở nên cần thiết hơn vì chưng có Chúa, ta nào sợ chi, có Chúa làm cho ta hoan lạc và bình an.
Qủa thế, Thánh Kinh kể Ông Gióp, là một người hiền đức nhưng gặp căn bệnh quái ác, bà con ai cũng bỏ ông chạy xa đến nỗi ông kêu than rằng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ” (G 7,7). Tuy thế, ông tuyệt đối không bao giờ coi bệnh tật như là dấu chỉ hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải bệnh hoạn? Đối với ông, bệnh tật thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài ban ơn cho ông làm cho ông phải thốt lên rằng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10). Cho nên, Đức Giêsu đến trần gian không thuyết giảng về đau khổ bệnh tật nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Cụ thể, hôm nay Tin Mừng kể: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!”
Người đời coi đau khổ là một cái gì đó xấu và tội chẳng ai muốn đón nhận. Còn với Đức Giêsu, cần phải chấp nhận đau khổ bệnh tật để chiến đấu và chiến thắng. Cho nên Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ bệnh tật nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Vì vậy, Chúa Giêsu hơn Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại ở điểm này: Ngài đã không những chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống; nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu, chính là bình an của Chúa. Vì vậy, mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu ở trần gian là: rao giảng Tin Mừng và mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc hai dạy rằng trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.
Qủa thế, Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng và tin rằng quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, Ngài dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, để tật nguyền vẫn bình an. Cho nên, Đức Giaó Hoàng Phanxicô nói rằng: “Hoạt động cứu độ của Đức Ki-tô không chỉ diễn ra cùng với con người và cuộc sống tại thế của Ngài nhưng vẫn còn tiếp diễn thông qua Giáo Hội, bí tích của tình yêu và sự âu yếm của Thiên Chúa dành cho con người. Sai phái những môn đệ của mình trong các sứ mạng, Đức Giêsu ban cho họ một sự ủy thác kép: loan báo Tin Mừng cứu độ và chữa lành những bệnh tật (Mt 10, 7-8). Cho nên, Giáo Hội đã luôn dành sự quan tâm hỗ trợ hết mình đối với những ai bệnh tật trong sứ mạng của mình. Những người nghèo khó và những người đau khổ lúc nào cũng ở bên cạnh các ngươi (Mt 26,11), và Giáo Hội tiếp tục tìm kiếm họ trên các ngả đường, quan tâm đến những ai yếu đau như một phương thế đặc quyền để gặp gỡ Đức Ki-tô, để đón nhận Ngài và phục vụ Ngài. Quan tâm đến một người yếu đau, đón nhận người đó, phục vụ người đó là phục vụ Đức Ki-tô vì chưng người yếu đau là thịt của Đức Ki-tô”(Bài giảng trong Giờ kinh truyền tin 08-2-2015).
Noi gương Chúa Giêsu hôm nay, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn anh chị em bệnh tật ốm đau như Chúa Giêsu đau khổ vậy. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta trở nên anh chị em của họ, không trừ một ai, và sẵn sàng để phục vụ trong tình yêu thương. Chúng ta hãy nhớ rằng trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Vậy, giờ đây, chúng ta đang dự tiệc Thánh Thể, tiệc Tình thương. Lát nữa đây, chúng ta đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương sẻ chia góp phần cứu độ trần gian qua việc thăm viếng, ủi an và sẻ chia tinh thần cũng như vậy chất cho người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật vì người yếu đau là thịt của Đức Ki-tô. Amen.
62.Vị lương y
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy Chúa Giêsu đã chữa lành bện phong cùi cũng như đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền khác nữa. Tuy nhiên, ngài còn là một vị bác sĩ thiêng liêng, chữa lành những đau yếu phần hồn của chúng ta.
Thật vậy, trước hết ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn bằng những lời giảng dạy đầy khôn ngoan. Đúng thế, Tin Mừng sẽ làm cho con người được hạnh phúc, được khoẻ mạnh và được tự do. Nếu như tất cả chúng ta đều tuân giữ những điều chì dạy của vị lương y thần linh này, thì thế giới đã thoát khỏi biết bao nhiêu tai hoạ khủng khiếp. Chúng ta chỉ cần nhắc lại một vài nét đại cương, chẳng hạn với bài giảng trên núi, Chúa bảo: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, yêu chuộng hoà bình, phúc cho ai dịu hiền và khổ đau. Rồi Ngài còn xác định rõ ràng: Hãy yêu thương kẻ thù địch. Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Bằng đó cũng đã đủ để chúng ta thấy được con đường giải thoát bản thân chúng ta cũng như toàn thể thế giới.
Tiếp đến Ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta bằng những phương tiện hữu hiệu, đó là các bí tích. Nhất là với bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Thực vậy, nhờ hai bí tích này mà Chúa Giêsu chữa lành những tâm hồn tội lỗi, an ủi, bổ dưỡng và đem lại sự bình an mà thế gian không thể trao ban. Một ông bác sĩ đã viết: Ngoài bí tích Giải Tội và Thánh Thể, chúng ta sẽ không thể tìm thấy một phương tiện nào khác, khả dĩ đem lại sự nâng đỡ, sức mạnh và bình an cho tâm hồn, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hay như một mục sư Tin Lành cũng đã nói: Việc xưng tội riêng là điều cần thiết để tâm hồn được khoẻ mạnh và bình an, cũng như làm cho thần kinh giảm bớt đi được sự căng thẳng.
Sau cùng, Chúa Giêsu chữa lành những vết thương trong tâm hồn bằng sự hiện diện đầy tình thương xót của Ngài. Thực vậy, là vị lương y, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta trong những giờ phút đau khổ, Ngài lắng nghe những lời chúng ta kêu cầu ngày cũng như đêm. Nhất là trong nhà thờ với bí tích Thánh Thể như lời Ngài đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta hãy nhớ lại quang cảnh người phong cùi tìm đến gặp Chúa và nói: Lạy Thầy, xin thương xót đến tôi cùng. Nếu những người bệnh biết tìm đến bác sĩ, thì sự đau yếu của họ sẽ được chữa trị, nếu chúng ta biết tìm đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ được an ủi và khích lệ trước những khổ đau gặp phải. Bởi đó hãy chạy đến với Chúa và hãy kêu xin Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con. Và lúc bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ ngập tràn niềm vui mừng và hy vọng, như lời Chúa đã bảo: Không phải những người khoẻ mạnh mà là những kẻ đau yếu mới cần đến thầy thuốc.
63.Phong cùi
Theo luật Do Thái, những người phong cùi không được sống trà trộn với dân chúng. Đồng thời ai nấy phải lo giữ mình, không được động chạm tới họ. Họ phải sống riêng biệt ngoài thành, mặc áo rách, để tóc dài, không cạo râu. Nếu chẳng may gặp người mắc bệnh thì phải hô to lên để những người khác tìm lối tránh. Những người mắc bệnh không những chỉ đau khổ phần xác mà còn đau khổ phần hồn vì họ luôn phải sống trong một tình trạng cô đơn và tuyệt vọng.
Đối với ngày xưa, cũng như đối với hôm nay, chứng bệnh này vẫn còn là một nan y khó chữa, chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao người bệnh qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã bất chấp lề luật, chạy đến tìm gặp Chúa Giêsu, vì anh nghĩ rằng mình không còn phương tiện nào khác để được khỏi. Niềm hy vọng duy nhất của anh trong lúc bấy giờ là Chúa Giêsu. Bởi đó, anh đã quỳ xuống, sụp lạy Ngài và xin Ngài cứu chữa. Còn Chúa Giêsu đã đón nhận anh một cách nhân từ, chữa lành cho anh và bảo anh phải đi trình diện với hàng tư tế để được chứng nhận là mình đã khỏi thực sự. Qua cử chỉ và thái độ của Chúa, chúng ta nhận thấy Ngài thực tình thương xót như tiên tri Isaia đã viết: Ngài coi mọi bệnh tật của chúng ta như là của riêng Ngài, Ngài mang lấy hết mọi tai ương của chúng ta. Trước thái độ tin tưởng của người phong cùi, Chúa Giêsu đã đặt tay trên anh và chữa lành cho anh, cũng như Ngài đã từng cứu chữa biết bao những kẻ bệnh hoạn tật nguyền tìm đến với Ngài.
Tình thương này không phải chỉ được biểu lộ với những người đau khổ thân xác, mà còn đối với những người đau khổ phần hồn, tức là những kẻ tội lỗi. Chính Ngài đã xác định lập trường: Ta đến để kêu gọi những kẻ tội lỗi. Một người tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối. Chính vì vậy, Ngài không ngần ngại ngồi ăn uống với những người mà bọn biệt phái liệt vào hạng tội lỗi như Lêvi và Giakêu. Đồng thời Ngài còn sẵn sàng tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, cho tên trộm lành và nhiều người khác nữa.
Hẳn chúng ta đã biết qua về cuộc đời của cha Đamiêng, vị tông đồ người hủi. Ngài sinh tại nước Bỉ, gia nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được sai đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình nguyện đi giúp những người cùi ở Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ.
Như chúng ta đã biết, phong cùi là một chứng bệnh nan y và ghê sợ, nó làm cho cơ thể bị lở loét, người mắc bệnh mặc dù còn sống nhưng thực sự chỉ là một thây ma biết đi với một thân hình hôi thối. Đó cũng chính là hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở thành nhơ nhớp, hôi thối và chết đi như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có một vị lương y thần diệu đó là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, chúng ta hãy bắt chước người phong cùi chạy đến sấp mình trước mặt Chúa, xin Ngài xót thương. Ngài cũng sẽ bảo chúng ta trình diện với linh mục, nghĩa là hãy chạy đến toà giải tội với tâm tình thống hối ăn năn, hầu nhờ đó mà chúng ta sẽ được chữa lành, được tha thứ.
64.Phong cùi
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.
Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã hội.
Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh.
Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.
Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
65.Bệnh "cùi" tâm hồn và thân xác
Cách đây ít lâu, tôi có dịp ghé thăm các bệnh nhân bị phong hủi ở "Trại cùi Di Linh". Mỗi người có một hoàn cảnh thật đáng thương. Họ làm nhà ở gần nhau, sống tập trung mà mọi người vẫn gọi là "trại", nơi đó ngoài những dì Dòng Bác Ái, những ý tá, bác sĩ hay những người thiện nguyện chăm sóc...thì hầu như tất cả đều là những người bệnh. Họ sống với nhau như những người đồng cảnh ngộ mà không dám đi xa ra khỏi "trại" của mình vì sợ bị mọi người xa lánh. Bởi vì người ta ghê tởm vì căn bậnh của họ hoặc là sợ bị lây. Hoàn cảnh của những người bị phong hủi ở Di Linh cũng không khác chi với người bị phong hủi trong bài Tin Mừng hôm nay. Có thể nói tất cả những người bị bệnh phong hủi thì thật đáng thương, nhất là trong hoàn cảnh xã hội Do Thái lúc bấy giờ thì lại càng đáng thương hơn nữa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: "Ô uế, ô uế", cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Thế nhưng khi mà người ta nghĩ mình không còn niềm hy vọng nào, không còn chỗ nào để bám víu, không còn ai quan tâm, không còn ai dám đụng vào, thì chính Chúa lại đưa bàn tay ra chạm lấy để nâng họ lên. Qua hình hình ảnh của những Dì Phước, những lương y bác sĩ, những người thiện nguyện cho tôi thấy rõ hình ảnh của Đức Giêsu qua con người của họ nhằm xoa dịu đi căn bệnh đau khổ trên thân xác họ. Từ hình ảnh đó cho tôi liên tưởng đến những bệnh "cùi" trong tâm hồn nó còn nguy hiểm hơn gấp bội, mà chắc chắn nơi mỗi người đều có căn bệnh đó trong người
1. Chữa bệnh cùi thể xác.
Tất cả ước mơ của người thanh niên bị bệnh phong hủi trong bài Tin Mừng là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Khi anh ta đến xin "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúng ta có thể ngần hiểu rằng anh ta đã hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu và chỉ có Chúa Giêsu mới chữa anh ta khỏi bệnh mà thôi. Từ lời kêu cầu mong mỏi của con người đó, Ngài đã không ngần ngại trả lời "Tôi muốn, anh sạch đi!", điều đó đã được phát xuất từ con tim, Ngài đã trả lại cho anh những gì đã mất. Ngài phá tan đi rào cản ngăn cách giữa người bệnh mà xã hội Do Thái ruồng bỏ bằng cách "giơ tay đụng". Thái độ đối xử của của Đức Giêsu hoàn toàn bình đẳng với những người bất hạnh. Còn chúng ta đã có thái độ như thế nào? Chúng ta có thái độ coi thường và xa tránh không? Thật là đáng trách khi mà ngày nay chúng ta vẫn giữ lấy những thành kiến lầm lạc, những luật lệ làm cho con người xa cách con người, nhiều khi đưa đến làm cho họ xa cách cả Thiên Chúa.
2. Chữa bệnh cùi tâm hồn
Điểm hay trong bài Tin Mừng hôm nay chính là khi thấy người bị bệnh hủi đến gần mình, Đức Giêsu không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn "giơ tay đụng" vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh, Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Để chúng con cũng biết chạy đến xin Ngài chữa lành bệnh tật hồn xác chúng con. Amen.
66.Chúa Nhật 6 Thường Niên
Trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, người ta phải sợ hãi khi chứng kiến những cơn bệnh hiểm nghèo như bệnh cùi. Chẳng những nó cướp đi mạng sống của con người, mà nó lại còn gây ra biết bao đau đớn về thể xác, về tinh thần và đặc biệt trong xã hội lúc đó người cùi bị đẩy ra bên ngoài xã hội, không được tham gia sinh hoạt như những người bình thường khác. Một người cùi đến xin Chúa Giêsu chữa lành trong bài Tin Mừng (Mc 1, 40 - 45) hôm nay phần nào cho thấy điều ấy.
Bị đẩy ra bên ngoài xã hội, người cùi này rất tủi hổ, khổ sở. Khi ấy người cùi không còn được coi như "một con người". Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh đó nên Người không thể bỏ qua cơ hội chữa lành này cho người cùi này.
"Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch" (Mc 1, 40). Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh ta hiều rằng người này là "chiếc phao cuối cùng, bác sĩ cuối cùng.." để có thể giúp đỡ cho anh ta. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện điều đó. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, trở ngại của căn bệnh, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội.
Chúa Giêsu nhìn thấy nỗi lòng của anh. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường: "Ta muốn, anh hãy trở nên sạch". Người đã ban một phép lạ cho anh. Đó hẳn là một Hồng Ân hết sức lớn lao cho anh.
Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người cũng được như thế. Ngài cũng đang nói với mỗi người chúng ta: "Ta muốn, con hãy trở nên lành sạch". Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà chúng ta cũng đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn.
Mỗi người trong chúng ta hãy nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm, hiểm nghèo hơn mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho mình phải chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng theo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm.
Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết siêng năng đến với Chúa, cụ thề là qua bí tích Giải tội và bí tích Thánh Thể để Ngài làm cho chúng ta được trở nên tinh sạch hơn. Hằng ngày Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong cõi lòng. Chỉ cần một chút cố gắng, một lòng mến thật sự, Chúa sẽ thực hiện phép lạ đó cho mỗi người trong chúng ta. Phương thế chữa lành và bồi dưỡng hữu hiệu vẫn là Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể.
67.Chúa Nhật 6 Thường Niên
Con người luôn muốn được khoẻ mạnh, sống chan hoà với mọi người trong xã hội. Cho nên, hôm nay phúc âm kể lại việc Chúa Giêsu đã chữa bệnh cho một người cùi, đem anh ta trở về với Thiên Chúa, trở về với chính mình và trở về gia nhập vào đời sống cộng đoàn.
Thời Chúa Giêsu, y học chưa phát triển nên bệnh cùi là một bệnh nan y. Bệnh cùi gây nhiều khổ đau, khổ sở cho người mắc phải. Nó làm cho cơ thể người bệnh đau đớn nhức nhối, chết dần chết mòn. Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh dễ lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh này bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: "ô uế, ô uế" cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh cùi đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh này bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người cùi. Thế nên ta thấy cảm thương và đau xót cho người cùi. Bởi lẽ người cùi không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt. Họ bị xã hội khinh dễ và loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết ảnh hưởng dần dần.
Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người cùi không phải là căn bệnh cùi gây ra, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ. Do đó, chúng ta không lạ gì khi biết người cùi mặc cảm chán nản sợ sệt. Họ thất vọng về chính bản thân mình, họ chán nản và căm ghét xã hội đã bỏ rơi họ, xã hội đã cách ly và tránh xa họ. Hơn nữa, người mắc bệnh cùi không được cử hành việc tế tự. Họ mắc bệnh thì không được ở trong cộng đoàn để lo phụng sự Thiên Chúa. Từ những dữ kiện trên cho ta thấy những người cùi khao khát được lành sạch, thoát khỏi bệnh tật để được sống tự do sinh hoạt như những người khoẻ mạnh khác, được sống chung với cộng đoàn và cũng được thi hành việc tế tự thờ phượng Thiên Chúa theo bổn phận mình.
Chính niềm khát khao đó và cộng thêm niềm tin nên người cùi này hết sức can đảm đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho mình. Người cùi đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị dơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch".
Anh mong được khỏi bệnh. Anh mong được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được. Trước niềm tin này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã chữa anh ta. Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Kết quả của đức tin và sự nỗ lực hết mình là phép lạ của Chúa Giêsu xảy ra cho anh.
Khi chữa bệnh, Chúa Giêsu đã giải thoát anh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành sạch. Anh được gia nhập cộng đoàn. Khi chữa anh khỏi bệnh, Chúa Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh. Anh đã được Thiên Chúa tái tạo con người tốt đẹp như thuở ban đầu trong ý định của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, một lần nữa, Chúa Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người cùi. Không những Ngài đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương xót đã khiến Chúa Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn dành cho con người nhữg điều tốt đẹp nhất.
Có thể nói hình ảnh của bệnh cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa trước mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống ân sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh. Ngày nay, người ta mất ý thức về tội. Người Kitô hữu coi phạm tội là việc bình thường. Người ta cứ phạm tội. Tội lỗi mỗi ngày một nhiều hơn, nó tràn ngập khắp nơi. Nó ảnh hưởng xấu đến đời sống vật chất, tinh thần và cuối cùng là sự chết. Tội lỗi làm cho chúng ta mất liên lạc. Tội lỗi làm cho con người không hiệp thông với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Vì thế, sau khi đã tái nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy quyết tâm thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với thượng tế theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Chúa Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người. Phần chúng ta, là người Công giáo, chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta hãy sám hối, khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi của mình và can đảm đi xưng tội. Nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Bởi vì bí tích Giải tội chính là Bí tích của lòng thương xót của Thiên Chúa. Và tòa Giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa. Chắc trong chúng ta ít nhiều ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, có những vết thương sâu kín, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm an ủi được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta. Hơn nữa, bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không loại trừ anh em mình ra khỏi lòng mình, khỏi xã hội. Hãy can đảm và vui lòng đến với những người bị bỏ rơi, biết an ủi những người đang buồn khổ, biết tránh cho tha nhân những mặc cảm nặng nề, tôn trọng danh dự và nhân phẩm của tha nhân, giúp cho tha nhân được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Chúng ta hãy mạnh dạn diệt trừ bệnh chia rẽ, loại trừ, phân biệt, nghi kị... anh em mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã chữa lành người cùi trong đoạn phúc âm hôm nay. Xin Chúa cũng chữa lành những thương tích do tội lỗi đang phá hoại linh hồn chúng con. Xin cho chúng con can đảm đến với Bí tích Giải tội để được tha thứ, để đón nhận lòng thương xót và ân sủng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con không loại trừ tha nhân nhưng luôn biết thương yêu và giúp đỡ họ. Amen.
68.Lạy Ngài, nếu Ngài muốn thì Ngài có thể
Đáng lẽ những bài tường thuật phép lạ phải có tính lịch sữ cao. Nhưng vì được viết lâu sau Phục Sinh và dưới ánh sáng Phục Sinh lại nằm trong ý đồ của tác giả nên bị cắt xén và sữa đổi ngay cả với những chi tiết có tính lịch sữ như thời điểm và địa điểm. Mc chỉ muốn hé mở từ từ 'bí mật thiên sai' của Đức Giêsu nên 'cấm không cho nói'. Có lẽ ý chính của đoạn nầy là cách cầu nguyện có hiệu quả: cầu nguyên theo ý Chúa 'nếu Chúa muốn' chứ không xin theo ý ta vì như vậy là ép buộc Chúa, không để Chúa tự do. Chuá không thể chấp nhận.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Một người cùi đến gặp Người: kẻ cùi phải tránh xa mọi nguời và phải la lên 'cùi,cùi' Anh nầy bạo gan mới dám 'đến gặp'. Lòng tin mạnh mẻ khiến anh 'liều'.
- Anh ta quì xuống van xin 'nếu Ngài muốn Ngài có thể làm cho tôi được sạch': Khiêm tốn. Xin tận đáy lòng. Dấu chỉ nữa của lòng tin mạnh. Xin thì phải theo ý người cho. Ngài có thể. Tin chắc. Muốn là quyền của Ngài. Ép buộc không được. Vô phép! Chúa chỉ làm theo ý Chúa
- Người động lòng thương giơ tay chạm vào anh: Thấy lòng tin Người động lòng thương. Chỉ lòng tin mạnh mới làm cho Người động lòng và chạm vào. Ít được chú ý nên xin không được.
- Và bảo 'Ta muốn, anh hãy sạch đi': Chúa vô cùng yêu thương luôn muốn cứu chữa và ban ơn. Chúa muốn nhưng 'anh hãy sạch đi'. Sạch hay không là cuối cùng tuỳ ở anh. Anh không tự muốn bằng lòng tin mạnh thì cái 'Ta muốn' của Chúa không đến được với anh. Không có kết quả dù cái 'Ta muốn' có toàn năng. Là ý chính của tác giả khi thuật câu chuyện nầy để dạy cách cầu nguyện hiệu quả. Chỉ cầu nguyện cách nầy là có hiệu quả. Đức Giêsu đã nói 'cầu nguyện mà tin thật trong lòng thì được ngay'. Phải cho Chúa thấy lòng tin. Đức tin làm cho người ta cầu nguyện khiêm tốn và xin theo ý Chúa. Chúa chỉ làm theo ý Chúa chứ không làm theo ý bất cứ ai. Không xin theo ý Chúa là không biết xin vì Chúa không cho.
- Lập tức bệnh cùi biến khỏi anh và anh được sạch: Chúa cho thì kết quả tức khắc dù là bệnh nan y vì không có gì là không thể đối với Chúa.
- Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo 'coi chừng đừng nói với ai: Có lẽ chỉ có mình anh ta vì anh ta dám đến gần và Đức Giêsu không muốn cho người ta biết (sẽ phiền phức) nên mới đuổi. Hơn nữa chưa đến giờ trong chương trình của Chúa Cha (sau thập giá và Phục Sinh). Bây giờ chưa hiểu đúng về Đấng Messia của Thiên Chúa vì người ta đang mong đấng 'Messia do thái'.
- Nhưng hãy đi trình diện với tư tế.....: Phải giữ trọn lề luật và Đức Giêsu còn muốn anh ta nhờ giữ luật mà được chính thức phục hồi tư cách làm người bình thường mà bệnh cùi đã tước mất.
- Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền tin ấy khắp nơi......: Không vâng lời Chúa. Khi xin thì tin mà được rồi thì hết tin. Phúc Âm khó hiểu vì lẫn lộn chi tiết lịch sử trong ánh sáng Phục Sinh. Máccô được viết năm 67-70 khi mệnh lệnh rao giảng đang được thực hiện rộng rãi.
Cầu nguyện - cầu xin - là việc làm chiếm phần lớn sinh hoạt giữ đạo của người tín hữu. Nhưng cầu xin nhiều mà chẳng thấy được bao nhiêu vì không quan tâm và không làm đúng như Đức Giêsu dạy. Mở miệng ra là xin, lời nguyện nào cũng chỉ là xin mà không xin với những điều kiện Đức Giêsu dạy Xin mà tin thật trong lòng thì được. Người ta chỉ cầu nguyện bằng môi miệng mà không xin bằng cả tấm lòng nên không thấy được.
Phải cho Chúa thấy lòng tin 'thấy lòng tin của họ' Đức Giêsu nói với người bại liệt 'cùi thiêng liêng' tội con đã được tha. Điều kiện thứ nhất phải là sạch tội. Người cùi đến gặp Đức Giêsu quì xuống van xin. Khiêm tốn trước mặt Chúa dù là cùi Chúa cũng động lòng thương. Phải có lòng tin mới làm được cử chỉ nầy. Điều kiện thứ hai là 'nếu Ngài muốn' xin theo ý Chúa. Chúa muốn thì không gì là không thể. Phải để Chúa muốn theo ý Chúa. Đừng bắt Chúa muốn theo ý ta: là không có lòng tin, phải để Chúa tự do muốn. Làm cho Chúa muốn là tin: Chúa yêu thương, Chúa tốt lành. Mọi điều Chúa muốn đều là tốt nhất cho ta. Đừng dạy Chúa muốn thế nầy thế kia.
Chúa biết cùi là không tốt. Chúa muốn cho người cùi hết bệnh. Phần người cùi phải cho Chúa thấy lòng tin. Tin thì sám hối, bỏ tội làm ngăn cách với Chúa như bệnh cùi cách ly người cùi với cộng đoàn dân thánh. Tin-sám hối là khiêm tốn phó thác vào tình yêu và sự tốt lành của Chúa.
Một chi tiết không được quan tâm là Đức Giêsu bảo 'đừng nói với ai' nhưng ra khỏi đó thì anh ta 'rao truyền khắp nơi' làm hại Đức Giêsu 'không thể vào thành hay làng nào được mà phải dừng lại ở những nơi vắng vẻ'. Khi xin thì biết xin theo ý Chúa mà được rồi thì bỏ ý Chúa làm theo ý thích của mình nên 'làm hại Đức Giêsu'. Phải luôn làm ý Chúa. Xin Chúa thì theo ý Chúa là tỏ lòng tin còn khi làm thì cũng phải làm theo ý Chúa luôn mới nói lên lòng tin thật sự. Lâu dài mới đủ chứng minh.
Lạy Ngài nếu Ngài muốn......
69.Được lành sạch để hòa nhập lại cộng đoàn
Có một bài hát sinh hoạt như sau:
"Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi,
Đâu phải ai xa lạ mà là người đang sống bên tôi,
Thế giới này không ai là một hòn đảo,
Vườn hoa này không có loài hoa lạc loài."
Đúng vậy, một trong những điều đáng sợ đối với một con người là bị mọi người xa lánh và ghê tởm. Bởi ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên con người là hai chứ không phải là một (St 1, 22 - 23). Cho nên, tự bản chất con người được dựng nên để sống với, sống chung, sống cho và sống vì người khác. Hay nói cách ngắn gọn tự bản tính con người được kêu gọi để sống cộng đoàn.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy anh thanh niên bị bệnh phong cùi đã rất khổ tâm. Vì đối với người Do thái ngày xưa bệnh phong cùi là một trong những căn bệnh được xem là ô uế. Do vậy, chính người bệnh không được phép chủ động để tiếp xúc với bất cứ người nào lành sạch. Cũng thế, những người lành sạch thấy người bệnh phải tránh xa nếu như muốn không bị lây nhiễm ô uế.
Trong hoàn cảnh bị cô lập như thế, anh thanh niên này hầu như tuyệt vọng. Giờ đây anh chỉ còn biết cậy trông vào Chúa Giêsu. Quả thật, sự cậy trông và tin tưởng của anh vào Người đã đem lại cho anh kết quả tốt. "Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi! " (Mc 1, 41). Đây là cử chỉ hết sức đẹp mà anh đã được Chúa Giêsu ban tặng cho anh.
Sau khi được lành sạch Chúa Giêsu còn căn dặn anh:: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." (Mc 1, 44). Đi trình diện với tư tế để làm chứng rằng từ nay anh chính thức được trở lại với cộng đoàn theo đúng bản tính của mình.
Mỗi khi sống trong tình trạng tội lỗi là mỗi khi chúng ta đã tự tách mình ra khỏi cộng đoàn dân thánh của Chúa. Những khi ấy chúng ta hãy mau mắn đến với Toà giải tội để được hoà nhập lại với cộng đoàn thiêng liêng quý giá ấy.
Còn đối với đời sống chung nhiều khi vì ích kỷ, tự ái, ganh tỵ và ghen ghét chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đoàn anh chị em của mình hay làm cho mọi người phải ghê sợ khi phải tiếp xúc với mình. Những lúc ấy chúng ta hãy can đảm dẹp bỏ những lợi ích riêng tư để hoà nhập với anh chị em của mình.
Đồng thời, chúng ta cũng luôn có thái độ thông cảm đón nhận anh chị em mình. Dù họ có tệ rạc cách mấy thì họ vẫn được chính Máu cũa Chúa Giêsu cứu chuộc nên chúng ta không nên có bất cứ thái độ nào để cô lập anh chị em của mình.
70.Đức Giêsu, Đấng cứu chữa người bất hạnh
Ngày nay, bệnh AIDS là mối đe doạ cho loài người. Tính đến nay có đến hàng triệu người nhiễm HIV. Rất nhiều người đang lâm vào tình cảnh bi đát, đau thương như đang đứng bên bờ vực thẳm. Nhưng bệnh này còn đỡ hơn bệnh cùi ngày xưa. Trong sách Lêvi qui định: ai bị cùi sẽ phải ở riêng, phải mặc áo rách và đi tới đâu cũng phải tự mình kêu lên: " ô uế" để mọi người tránh xa ra. Đối với người mắc bệnh nan y đó phải khổ sở đến mức nào vì họ bị loại khỏi xã hội, không tiếp xúc được với ai, không được ai chăm sóc và nâng đỡ!
Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã cứu chữa anh cùi cả phần xác lẫn phần hồn. Chính Ngài đã giúp anh thóat khỏi mặc cảm bị mọi người bỏ rơi và xa lánh, chính Ngài giúp anh hòa nhập với xã hội. Ngài dạy anh đi trình diện tư tế theo luật định để anh được hoà nhập với cộng đoàn, được quyền tiếp xúc với mọi người và được hưởng quyền lợi chính đáng như mọi người khác. Điều này cho thấy sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những người đau khổ, thấp hèn. Ngài giải thóat anh khỏi mọi nỗi khổ đau và cho anh hiểu tình thương vô biên của thiên Chúa đối với mình. Lúc anh tiếp xúc được với Ngài thì bệnh cùi của anh biến đi.
Chúa Giêsu là người có hành động táo bạo, dám đụng vào anh cùi, không sợ sự ô uế của anh lây qua. Ngược lại, chính sự trong sạch của Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài đã làm cho bệnh cùi phải biến đi. Tuy nhiên, có người thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại không cho anh loan tin vui đó cho mọi người. Có lẽ theo quan niệm của người Do thái thời đó, họ quá chú trọng đến một Messia đến giải phóng dân tộc hơn là cứu chuộc tòan diện cả hồn và xác; họ mong một Messia uy quyền hay ra hình phạt hơn là đối xử nhân từ với tội nhân nên Chúa Giêsu chưa muốn tỏ mình ra ngay lúc đó chăng? Có lẽ Ngài muốn rằng: Qua những lời rao giảng của Ngài, dân chúng sẽ hiểu đúng và chính xác về Ngài hơn. Ngài không muốn họ tìm Người chỉ vì phép lạ, nhưng tìm đến Ngài để hiểu biết đường lối Chúa và đón nhận ơn cứu rỗi.
Có một điều lạ là làm sao anh cùi biết về Chúa Giêsu, và quyết chí tìm đến Ngài để xin được cứu chữa. Bởi vì người cùi đâu được chen vào đám đông để nghe Chúa Giêsu giảng, cũng đâu được nói chuyện với ai vì mọi người đều sợ bệnh cùi của anh! Có lẽ anh không cần nghe nhiều về Chúa như mọi người nhưng lòng của anh luôn biết hướng về ngài, chỉ cần nghe một chút đã nhận ra được quyền năng của Ngài. Điều đáng lưu ý là anh cùi có lòng tin, đến van xin Chúa thì Ngài mới chữa lành cho. Nếu anh không biết kêu cầu Chúa thì anh sẽ khó mà khỏi bệnh.
Ngày hôm nay, lòai người chúng ta cũng gặp rất nhiều căn bệnh trầm kha về tinh thần hoặc về thể xác nhưng có được bao nhiêu phần trăm biết chạy đến Chúa Giêsu để được Ngài cứu chữa! Chắc hẳn, Ngài đang thiết tha mời gọi mỗi người chúng ta: hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc mang gánh nặng nề,Ta sẽ bổ sức cho.
Khi được Chúa chữa lành hay bổ sức cho, chúng ta hãy biết cám ơn Chúa, biết chúc tụng Chúa, biết đáp đền ơn Ngài bằng việc giúp những người khác biết Chúa Giêsu bằng cách rao truyền và làm chứng về lòng nhân từ và ơn cứu độ Chúa ban cho lòai người. Chúng ta hãy làm như lời thánh Phaolô dạy trong bài đọc 2: hãy làm tất cả để tôn vinh Chúa, đừng làm gương xấu nhưng hãy bắt chước Đức Kitô, làm mọi việc vì Chúa, vì ích lợi của tha nhân để họ được ơn cứu độ nhờ đời sống gương mẫu và lời rao giảng của mình. Chúng ta hãy bắt chước thánh Phaolô loan báo Tin Mừng Chúa cứu độ cho những người mà mình gặp gỡ, như anh cùi vừa được ơn lành bệnh thì không kềm lòng được, anh phải rao truyền cho mọi người biết ngay.
Chúng ta biết rõ rằng: Chúa Giêsu đã chết nhưng đã phục sinh để cứu chuộc mọi người chúng ta, nhưng chúng ta còn thụ động trong việc giữ đạo, không thiết tha sống theo lời dạy bảo của Chúa, chưa lo nói về Chúa cho người khác nghe! Nhiều khi chúng ta có dịp nói về chuá nhưng chúng ta vẫn trù trừ, không tỏ ra hết lòng tin cậy Chúa và không truyền đạt cho những người xung quanh biết về Chúa! Đó là sai sót lớn của chúng ta hôm nay. Có lẽ bài Tin Mừng hôm nay là thuốc chữa bệnh cho chúng ta, nhắc chúng ta nhớ lại bổn phận khi chịu Bí tích Thêm sức, đó là: can đảm thi hành Lời Chúa, hăng hái họat động tông đồ, góp phần xây dựng xã hội để thể hiện đức tin của mình, làm chứng cho Chúa giữa xã hội lòai người.
Nếu mọi người hăng hái rao truyền về Chúa như anh cùi hôm nay thì thế giới không mấy chốc sẽ tràn đầy Tin Mừng của Chúa. Từ đó, trên môi miệng của mọi người sẽ là những lời yêu thương, hy vọng và vui mừng vì Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
71.Niềm tin vào Lòng Thương Xót
Tin Mừng Thánh Marcô trình bày cuộc sống Chúa Giêsu một cách đơn giản và gần gũi với con người. Thánh Marcô vẽ ra một bức tranh rất thực về con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không vì thế mà Marcô bỏ quên phương diện thần tính của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ là một người ở giữa loài người. Ngài còn là một Thiên Chúa đang sống giữa con người. Ngài luôn khiến tâm trí con người cảm động trước những lời nói và việc làm của Ngài. Qua phép lạ Chúa Giêsu chữa lành anh bệnh phong hôm nay, tôi muốn chia sẻ về niềm tin vào lòng thương xót củaThiên Chúa.
Sứ mạng cứu chữa
Hành động của Chúa Giêsu hôm nay khiến con người phải ngỡ ngàng trước tình thương của Thiên Chúa. Phong hủi là thứ bệnh ghê tởm nhất thời Chúa Giêsu. Không có bệnh nào lại huỷ hoại con người lâu dài và ghê gớm như bệnh này. Nó khiến cơ thể bị lở loét, tanh hôi và rụng mất dần từng chi thể. Tệ hại hơn, những người bệnh phong bị coi như là "người đã chết". Họ hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội loài người. Mọi người khi thấy họ thì tránh xa vì sợ bị ô uế. Chúa Giêsu không hề xa tránh anh. Hành động của Ngài hoàn toàn khác hẳn với những người khác. Ngài đến giơ tay và đụng chạm vào anh. Tình thương của Ngài làm cho chứng phong cùi được chữa khỏi. Chứng phong hủi không lây được sang Ngài, trái lại sự thanh sạch của Ngài đã lan tràn sang anh, khiến anh được sạch.
Sứ mạng yêu thương
Chúa Giêsu mỗi khi xuất hiện Ngài luôn giữ vai trò là người gieo rắc tình thương: bệnh tật được chữa lành, tang tóc được hân hoan, tội lỗi được tha thứ, ngay cả cái chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an. Ở Naim, ngài đã biến đổi giọt nước mắt của người mẹ khóc thương con mình thành những giọt lệ vui mừng khi Ngài cho con bà sống lại. Cho đến nỗi, khi bị treo trên thập giá, tình thương Ngài vẫn tiếp tục cho anh trộm lành trong tuyệt vọng được tham dự vào Nước Ngài. Hành động Chúa Giêsu khiến cho con người nhận thấy quyền năng của Ngài là tình yêu chứ không phải là sức mạnh của binh lực. Ngài đến mang cho con người sự sống chứ không phải là kẻ tiêu diệt sự sống.
Đáp đền trong tin tưởng
Về phía anh phong hủi, anh đã không lầm khi dám liều mình tiến đến van nài trước vị Thầy đầy tình thương: "Nếu Ngài muốn, ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chính lòng tin đã thúc giục anh vượt qua những lời chê cười, khinh bỉ của bao cặp mắt người đời. Thông thường nếu anh đến với một thầy Rabbi hay mô#t thầy giáo luật chắc hẳn anh sẽ bị ném đá đuổi đi. nhưng với Chúa Giêsu, anh đặt hết niềm tin tưởng vào Ngài. Anh tin rằng, Ngài có thể làm được điều mà người khác không thể. "Nếu Ngài muốn", một lời mở đầu cho lời cầu xin đầy tin tưởng vào phó thác hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không hề bận tâm đến bề ngoài xấu xí, hôi tanh của anh, nhưng Ngài nhìn thấy tận trong tim anh một nỗi khát khao được chữa lành.
Hôm nay anh bệnh phong này đã làm được điều mà nhiều người chưa hề dám nghĩ. Đức tin của anh đã phát sinh hiệu quả khi gặp được tình thương của Chúa Giêsu. Đức tin là dám nghĩ rằng tình thương Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ta mặc dầu mọi bằng chứng đều cho thấy ngược lại. Tin là dám nghĩ rằng Thiên Chúa đang ở bên ta mặc dù thực tế ta thấy Ngài còn quá xa cách. Tin là dám nghĩ Ngài vẫn yêu thương ta dù ta chẳng có gì đáng yêu. Tin là dám nghĩ rằng Ngài vẫn hành động liên lĩ trong ta để biến đổi ta cho dù có khi ta nghĩ Ngài đã chết rồi. Anh phong hủi hôm nay đã dám nghĩ, dám làm điều mà nhiều người không dám làm, dám nghĩ.
Một điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là: Lòng thương xót Chúa thì không có giới hạn, thế nhưng Chúa Giêsu không chữa lành hết mọi bệnh nhân phong cùi của xứ Palestine. Ngài cũng không tiêu diệt tận gốc bất kỳ một thứ bệnh tật nào. Chúa Giêsu chỉ chữa một vài người mà Ngài gặp trên đường và xin Ngài cứu chữa. Điều đó nói lên rằng lòng thương xót không cho phép Ngài chữa một lần cho tất cả mọi bệnh tật rồi "cuốn goi" ra đi. Nhưng Ngài muốn cứu chữa từng người để cho con người thấy rằng Ngài vẫn đang còn hiện diện nơi đây để sẵn sàng cứu chữa những ai cần đến Ngài.
Hiện nay bệnh tật vẫn còn đó đây trên khắp thế giới. Những chứng bệnh nan y vẫn lan tràn và sự dữ vẫn còn nhan nhản. Những thứ bệnh tiểu đường, béo phì, HIV, siêu vi B... đủ làm cho nhiều người phải lo lắng. Tuy nhiên những chứng bệnh tâm hồn lại khiến con người càng lo lắng hơn. Những thiếu sót, lỡ lầm làm cho đời sống của ta bị tanh hôi, lở loét. Nó khiến tình yêu Thiên Chúa bị che mờ đến mức ta không nhìn thấy được nữa. Tội lỗi dễ khiến ta mất tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn tìm cách lánh xa Ngài. Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng: Bất luận ta nghĩ mình xấu xa như thế nào; bất luận tội lỗi làm cho ta ô uế ra sao. Chúa Giêsu luôn thấu suốt tận thâm sâu của mỗi người. Ngài sẵn sàng cứu chữa cho những tâm hồn biết tin tưởng cầu xin.
Những lỗi lầm trong quá khứ, những thử thách trong hiện tại dễ làm cho ta trở nên lạnh lùng khi đối diện với Thiên Chúa. Chúng ta hãy vững tin như người phong cùi trong Tin mừng hôm nay. Anh đã mạnh dạn tiến đến Chúa Giêsu. Chỉ một lần can đảm của anh khiến cho anh được sạch. Ước gì mỗi ngày ta càng thêm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta mạnh dạn đến với Ngài để tình yêu của Ngài luôn được hoạt động cách mạnh mẽ và hiệu quả trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
72.Loan báo Tin Mừng
Một người tân tòng mới trở lại cùng Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những gì về Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu. Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm, nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín của tôi.
Tình cảnh của người tân tòng này cũng phần nào giống với người phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra đi loan truyền cho mọi người biết điều đó…
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải nói cho mọi người biết những gì Đức Kitô đã làm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy lưu ý tới hành động của Chúa Giêsu. Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô uế, trái lại Ngài đã giơ tay ra, đụng tới người phong cùi và bỗng nhiên cơn bệnh của anh biến mất.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn giơ tay ra đụng tới chúng ta và chữa lành chứng bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta là tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Giải tội, để chữa lành những ung nhọt tội lỗi. Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Thêm sức, để trao ban Thánh Linh và gia tăng sức sống. Và nhất là Ngài không phải chỉ đụng đến chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Rồi khi chúng ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Xức dầu để xoa đi những đớn đau phần hồn cũng như phần xác. Ngài giơ tay ra cho những cô dâu và chú rể để giúp họ thánh hóa cuộc sống gia đình…
Chính vì thế, chúng ta có thể mượn lời kinh chúc tụng của Mẹ Maria để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Ngài là Đấng toàn năng, đã làm cho tôi muôn việc trọng đại. Là những người cha người mẹ, chúng ta phải nói cho con cái biết những gì Chúa đã làm cho chúng ta và cho gia đình chúng ta nữa.
Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, cũng phải nói cho những người tin cũng như không tin, bằng lời nói và bằng đời sống, những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài đã làm chuyển biến, đã làm thay đổi để chúng ta được trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
73.“Vì loài người chúng tôi”
“Ngài chạnh lòng thương, giơ tay sờ vào anh ta”
Như bị một ma lực cuốn hút, người phong cùi cứ rẽ đám đông xấn tới, tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho người ta nạt nộ quát mắng, ngăn cản anh. Và cũng bất chấp dư luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra đón và sờ vào anh ta. Theo phong tục Do Thái thời Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi vẫn còn như vậy), bệnh nhân phong bị cấm, không được lui tới những xóm thôn, thị tứ, nơi những “người lành” cư ngụ. Họ bị coi là “kẻ xấu xa” vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này vì tội lỗi của mình. Họ bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang vất vưởng như những bóng ma. Họ là những con ma sống, hay những xác chết còn thở hí hóp. Họ phải la to lên cảnh báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không muốn “dây với người hủi”. Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào anh ta. Khi đôi tay nhân lành chạm vào làn da “sượng sần và tê điếng”, lạ thay và cũng cao cả nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi, hồng hào lành lặn trở lại. Ai nói được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại bảo anh phải gấp rút đi gặp các tư tế.
Đây là một thủ tục cần thiết để người phong có thể hội nhập lại xã hội. Chứng nhận của tư tế sẽ giúp cho gia đình anh, bạn bè anh, bà con lối xóm vui lòng đón anh trở lại xã hội người. Cứu người phong khỏi bệnh, Chúa còn trả lại nhân phẩm cho anh, cứu anh khỏi thân phận bị loại trừ, hất hủi.
Lệnh truyền thứ hai của Chúa đối với người phong là anh ta không được kể chuyện mình cho ai nghe. Chi tiết này xem ra mâu thuẫn với việc phải đi bẩm báo các vị tư tế, và ý muốn cho anh hội nhập xã hội trở lại. Đương sự đã không thể giữ miệng được lâu. “Vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi”. Anh đã trở thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì anh đã được cứu độ, được giải phóng. Việc anh loan báo tin vui đã khiến Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Chúa không muốn bị người ta xem Ngài là ông thầy lang mát tay, Ngài không muốn gây một sự cuồng nhiệt nơi quần chúng. Cho dù làm cho người ta hiểu đúng Tin Mừng của Chúa không phải là một điều dễ dàng.
Thánh Gioan đã gọi các phép lạ của Chúa là những “dấu chỉ”, Chứng tỏ vương quốc tình yêu, công bình, hòa bình, hạnh phúc của Thiên Chúa đang đến với lịch sử nhân loại. Qua các phép lạ, Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa đến. Chúa đến không phải để làm thầy lang, người trừ qủi, người giảng thuyết, mà là để chia sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt vọng của con người chúng ta, và để cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta vẫn thường tuyên xưng: “Vì loài người chúng tôi và để cứu chuộc chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
74.Cử chỉ
So với những cử chỉ lớn lao, thì những cử chỉ nhỏ bé lại có thể giúp chúng ta thấu hiểu hơn về tính cách của một con người. Những điều lớn lao chứng tỏ cho chúng ta về sức mạnh nơi một con người. Còn những điều nhỏ nhoi lại cho chúng ta thấy được bản tính nhân loại nơi một con người. Chúng ta có được ví dụ rất tốt đẹp này trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là cử chỉ của Đức Giêsu, qua việc Người đụng chạm vào kẻ bị phong hủi, trước khi chữa lành cho anh ta. Mặc dù tự thân sự đụng chạm là một điều nhỏ bé, nhưng trong bối cảnh này, đó là một việc làm lớn lao. Chính những cử chỉ nhỏ bé giống như vậy, lại khẳng định được nhân cách và giá trị của con người.
Ngày nay, người ta không còn sợ hãi bệnh phong hủi như trước đây. nếu người nào bị lây nhiễm căn bệnh này, mà được điều trị kịp thời, thì họ có thể hoàn toàn khỏi bệnh, và không ai biết rằng họ đã từng bị mắc bệnh. Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, bệnh phong hủi là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất. Đối với dân chúng thời đó bệnh phong hủi tương tự như căn bệnh AIDS đối với chúng ta ngày nay.
Người mắc bệnh phong hủi bị cấm không được sống chung với cộng đồng, để bảo vệ cho cả cộng đồng khỏi bị lây nhiễm. Những người phong hủi cũng bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo, bởi vì họ bị coi là những kẻ không tinh sạch theo lễ nghi, và không ai dám liên lạc với họ. Do đó, họ là những kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo. Họ bị mọi người ruồng rẫy, khinh miệt và người ta tin rằng họ bị chính Thiên Chúa cũng ruồng rẫy, khinh miệt nữa. Nếu muốn công bố là đã khỏi bệnh, họ phải trải qua một lễ nghi thanh tẩy, trước khi được chấp nhận trở lại với cộng đồng.
Đức Giêsu biết tất cả những điều này. Tuy nhiên, Người đã vượt qua những cấm đoán của xã hội và tôn giáo. Đức Giêsu cho phép người phong hủi lại gần Người. Thế rồi Người đã làm một điều mà không ai ngờ. Người tiến đến gần, đụng chạm vào người phong hủi, trước khi chữa lành cho anh. Tại sao Người lại dám làm một điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng chạm đó cho thấy lòng thương xót lớn lao của Đức Giêsu đối với người sống ngoài lề xã hội, kẻ tội lỗi và người đau khổ.
Người đụng chạm vào người phong hủi, để có thể chứng tỏ rằng tất cả mọi sự đều tinh sạch đối với người mà tự bản thân họ đã tinh sạch. Sự không tinh sạch bên ngoài không hề làm mất đi sự tinh sạch của tâm hồn. Người đụng chạm vào anh ta, để dạy cho chúng ta rằng không được khinh miệt bất cứ ai, và coi họ như là những kẻ đáng thương, bởi vì nỗi đau đớn thể xác của họ. Người đụng chạm vào các thương tích của con người, không phải để cho các thương tích đó có thể dính chặt vào Người, mà là để Người có thể trừ khử chúng ta ra khỏi người đang bị đau đớn.
Đối với người phong hủi, cử chỉ đơn giản đó mang ý nghĩa của cả một thế giới. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là tự thân căn bệnh, mà là nỗi đau đớn vì bị tất cả mọi người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào người anh ta, Đức Giêsu đem đến cho anh một dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa đổi nơi anh ý tưởng rằng mình không tinh sạch, vô giá trị, không là gì cả, chỉ là một con người bỏ đi mà thôi.
Đức Giêsu đã có sự hiểu biết lớn lao, và có cảm xúc đối với những người đau khổ, Oscar Wilde nói về điều này như sau;
“Đức Giêsu đã thấu hiểu bệnh phong hủi của người phong hủi, sự tối tăm của người mù, sự bất hạnh do thói tự mãn của những kẻ sống theo lạc thú, sự nghèo nàn đến kỳ lạ của những kẻ giàu có, sự thèm khát có thể dẫn con người đến tình trạng uống cả những giòng nước bùn lầy”.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến khả năng thương xót của chúng ta. Người thách đố suy nghĩ của chúng ta về lòng yêu mến. Mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương lớn lao. Thật đáng tiếc là chúng ta thường không sử dụng đến khả năng yêu thương đó. Chúng ta có được khả năng này trong sức mạnh của chúng ta, để tiếp cận được với những người đang phải chịu đựng nỗi đau đớn của cảnh bị ruồng rẫy. Chúng ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta nhận ra được cách cư xử, mà một cộng đoàn Kitô hữu nên có, đối với những kẻ tội lỗi và những người bị xã hội ruồng bỏ. Trong thời đại của chúng ta, ai là những người phong hủi (sống ngoài lề xã hội)? Chúng ta đã nhận biết được cách cư xử của Đức Giêsu đối với họ. Vậy chúng ta phải cư xử với họ ra sao? Và theo mức độ con người, mỗi người chúng ta đều đã được Đức Kitô thanh tẩy trong phép Rửa tội, và chúng ta cần phải loan truyền tin vui.
75.Lời của Thiên Chúa có sức chữa lành
Anh chị em thân mến,
Mẹ Têrêsa Calcutta đang chăm sóc một người bệnh đầy ghẻ lở bên đường. Anh hôi thối bẩn thỉu lắm. Khi Mẹ đang lau rửa cho anh, một nguời đi đường trông thấy nói với Mẹ: "Trả cho tôi một triệu đô la, tôi cũng không làm cái việc này." Mẹ nghe nói ngẩng đầu lên trả lời: "Phần tôi, tôi cũng vậy."... Đúng thế, điều Mẹ Têrêsa muốn nói ở đây là, Mẹ và Tu hội của Mẹ lo lắng cho người nghèo không phải vì tiền, nhưng vì Chúa Giêsu... Chúa Giêsu yêu thương người đau yếu, bệnh tật, người tội lỗi hèn kém biết bao; Chúa luôn muốn chữa lành và chúc phúc cho họ. Chính vì điểm này mà Mẹ và Hội dòng của Mẹ, đã quyết tâm lo lắng cho người nghèo. Đây chính là chủ đề mà Hội thánh mong muốn chúng ta tìm hiểu hôm nay.
a/. Trước hết, xin nói về quan niệm và Luật lệ của Do thái về bệnh cùi:
+ Họ coi bệnh cùi là một thứ bệnh rất ngặt nghèo, không chỉ khủng khiếp về thể xác mà còn là dấu hiệu của hình phạt do đã phạm một tội nào đó. Đọc qua bài Cựu Ước, trích sách Lê vi ở trên, ta thấy những qui định của Lề luật dành cho người lây nhiểm bệnh cùi thật là khủng khiếp (Levi 13, 2.44-46): "Nếu ai mắc bệnh phong cùi, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Người ấy phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu. Gặp ai phải tránh xa và kêu lên: ô uế! ô uế! Phải ở riêng ra; chổ ở của họ là bên ngoài trại."
+ Ta thử nhìn lại về những qui định dành cho người bị bệnh cùi: Trước hết, khi trên da thịt của người nào có dấu hiệu nhọt, lát, hoặc đốm, mà đã được tư tế xác nhận là dấu hiệu bệnh cùi, ông sẽ tuyên bố người đó bị ô uế. Nhưng ta thử nghĩ, thời Chúa Giêsu, làm gì có những dụng cụ thử nghiệm chính xác như của ngày hôm nay, nên sẽ có rất nhiều lầm lẫn, nhất là khi tư tế không có cảm tình với người đó, kể cả vì ganh tị, hay để trả thù...Kế đến, vị tư tế sẽ công bố người bị phong cùi là hạng ô uế. Mà nếu bị coi là ô uế, cuộc đời của họ kể "tàn rồi", vì họ coi bệnh cùi là không chữa được, và hầu như vĩnh viển bị loại trừ ra khỏi cộng đồng xã hội, nhất là lễ nghi thờ phượng của người do thái. Lúc đó, người bệnh còn sống mà kể như đã chết. Cộng đồng coi người cùi là đáng sợ, vì họ ô uế, nên nếu cho họ gia nhập cộng đồng, cộng đồng sẽ bị ô uế luôn. Sau cùng, người bị bệnh phong cùi ít đau khổ thể xác hơn là tinh thần, vì họ cảm thấy bị mọi người sợ hải, cảm thấy bị khinh miệt, bị ghê tởm, nhất là bị xếp loại vào hạng người đang sống dưới ách của thần ô uế, bị phán xét là tội lỗi, bị Chúa chúc dữ và trừng phạt.
b/. Phần này chúng ta nói về việc anh cùi đến với Chúa Giêsu và cách Chúa chữa lành cho anh ta.
+ Bài Tin mừng thuật lại việc anh đi đến với Chúa Giêsu rất cụ thể: Anh đến bên Chúa Giêsu, quì xuống và van xin: "lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.." Đối với anh cùi, Chúa Giêsu là Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật cho anh, vì anh tin Chúa có sức mạnh chiến thắng thần ô uế. Anh đặt hết niềm tin vào Người. Có thể lâu nay, anh nghe người ta nói về Thầy Giêsu có quyền năng cao cả như thế, và anh chỉ tin vào Thầy Giêsu, không tin vào ai cả, kể cả các tư tế, hay chính gia đình anh nữa. Vì thế, anh không tuân theo qui chế dành cho người cùi, gặp người khác là bỏ chạy còn la "ô uế" nữa. Anh đã lên đường, lên con đường của lòng tin, con đường dẫn đến Đấng chữa lành cho nhân loại, và với lòng tin mạnh mẻ, anh nói: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể....."
+ Phần Chúa Giêsu, Phúc âm nói: "Chúa chạnh lòng thương..." vì Nguời hiểu được tâm trạng của anh cùi, hiểu được lòng tin của anh, nên Người đã chữa cho anh ngay: "Ta muốn, anh hãy được sạch". Chúa không chỉ chữa lành cho anh tật bệnh phần xác, mà chữa lành cho cả tật bệnh tâm hồn. Người chữa cho anh khỏi bị nguyền rủa là ô uế, chữa cho anh khỏi tiếng oan rất nặng nề là bị Chúa trừng phạt, giải thoát cho anh khỏi mặc cảm hèn kém, phục hồi cho anh tình trạng nguyên vẹn là một con người được bình đẳng trong xã hội, cả trong nghi lễ phụng thờ tôn giáo của do thái nữa...
Đó chính là Lời Thiên Chúa có sức chữa lành cho anh. Lời Thiên Chúa muốn anh lành mạnh, muốn anh không yếu đuối, muốn anh sống trong niềm tự tin, không mặc cảm, muốn anh không khuất phục quyền uy của ma quỉ, muốn anh sau khi chữa lành, được phục hồi toàn vẹn "hình ảnh của Thiên Chúa" lúc tạo dựng, nhờ cái chết của Con Chí ái của Ngài...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Anh cùi trong Tin mừng hôm nay, đã quá đau khổ thể xác, cũng quá đau khổ trong tâm hồn. Chúa Giêsu hiểu anh ta lắm, cả lòng tin của anh ta nữa, nên Chúa đã chữa lành cho anh ta. Phần chúng ta hôm nay, khi yếu đuối, sa ngã, ta có muốn Chúa Giêsu chữa lành tội lỗi của ta, là tật bệnh phần hồn không?
76.Lạc quan
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắt khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Môsê được ghi lại trong chương 13 sách Lêvi, qui định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: “dơ, dơ” để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.
Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.
Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.
Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài đặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”.
Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.
Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.
Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử… Chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.
Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.
77.Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, người ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những người phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ như là những người không thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ. Họ là những con người đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn, mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là loại người đó. Anh ta không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.
Đức Giêsu nhìn thấy người phong hủi đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có đụng chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương, Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào. Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay, hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một cảm giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm nhận được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những người phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem người phong hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người anh ta. Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta đã bị tổn thương sâu xa hơn – do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đức Giêsu đáp: “Tất nhiên là tôi muốn”. Và Người đã chữa lành cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.
Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một trong những điều mà người ta luôn phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ và y tá.
Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi im lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện Đức Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với anh.
Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta – những kẻ đi theo Người – trong việc tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ: các tù nhân, những người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân Aids…
Những điều mà người ta có thể làm cho người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai, phục hồi lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.
78.Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh.
Thế nhưng có một điều bi đát, đó là đối với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người ta thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại riêng biệt, hầu giới hạn sự lây lan của nó.
Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở giữa chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi ngày một bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành, không chỗ nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất ý thức về nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm, uống một ly nước.
Riêng với chúng ta thì sao? Sau khi đã nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có lấy một điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.
Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn khi trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối ăn năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho người phong cùi.
Phương thế ấy như thế nào: Con hãy đi trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.
Bởi vì như chúng ta đã biết, bí tích Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa.
Có một người khô khan nguội lạnh, tới gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một cách là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng thánh giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy trong nhân loại có con hay không?
- Thưa, có.
Thế là người đó thêm niềm cậy trông, giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn được bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.
79.Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn là một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương chăm sóc.
Phần lớn trong họ chưa biết Chúa, nên trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại phong cùi, rải rắc trên toàn đất nước.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải che lại. Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi như thế bị coi như là một người đã chết ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà thôi.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van:
- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch.
Tất cả ước mơ của anh là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài muốn.
Trước tình cảnh bi đát này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn, bởi vì Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.
Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta phải thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy, những người trộm cắp từng vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa… Chúng ta dễ có thái độ coi thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn mọi người quên đi cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta lại không tin là họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy của dĩ vãng, chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa Giêsu đã đưa tay động tới người phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc của chúng ta.
80.Tông đồ người phong
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng... Một hôm, Đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu Châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh "Tông đồ người phong".
Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: "Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng không?" Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha.. Cha hỏi đức giám mục: "Thưa đưc cha, họ làm gì vậy?" Đức cha trả lời: "Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau: "Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá".
Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: "Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?" cô cháu trả lời: "Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy". Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa? Mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn... anh chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông loặc kêu lên "dơ, dơ" để mọi người biết mà tránh xa... Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.
Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chúng ta hãy để ý câu anh nói "Nếu Ngài muốn", anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.
Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói "Tôi muốn, anh sạch đi" vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
81.Hàn Mặc Tử
Qua bài viết: “Nhớ Hàn Mặc Tử”, của ông Nguyễn văn Xê, người bạn đồng bệnh sống với anh Nguyễn Trọng Trí, tức nhà thơ Hàn Mặc Tử ở Quy Hòa vào những giây phút cuối cùng, đăng trên cuốn “Hằn Mặc Tử, Thơ và Đời”, do nhà xuất bản Văn Học, tôi mới giải quyết được nỗi thắc mắc. Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi hành hạ, thân xác vô cùng đau đớn, bị người đời xa tránh, ghê tởm, vậy mà sao thơ của anh lại thanh tao, siêu thoát “bay cho đến cõi thiên đàng”? Cả ý, lẫn lời, cùng với tâm hồn của nhà thơ đã thoát ra khỏi cơn bệnh khổ đau bay lên thật cao.
Câu trả lời đã nằm trong câu thơ: “Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh”, trong bài “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria”. “Trí” là Nguyễn Trọng Trí, tên anh. “Miêu duệ” nghĩa là con cháu. Ý nói Hàn Mặc Tử tự nhận mình là con cháu của các thánh. Đúng như vậy! Vì trái tim của anh tràn ngập tình yêu thương. Nguồn suối yêu thương tuôn đổ xuống từ người mẹ, người chị, và Mẹ Juetta. Tất cả thu về một nguồn mạch chính, tình yêu Thiên Chúa qua Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Từ đó, anh tự hào mình là con cháu của các thánh, của tình yêu!
Trần thị Huyền Trang trong bài “Những Người Thân Yêu, Những Vòng Tay Nối Kết” đã viết như sau về người mẹ của Hàn Mặc Tử, bà góa phụ Nguyễn thị Duy: “Căn bệnh nan y của nhà thơ là gánh nặng trên đôi vai già nua của bà. Nhưng người mẹ, trước sau như một, tận tụy thương con, nghe bất cứ nơi nào có thầy thuốc giỏi là không nề xa xôi khổ cực; lẽo đẽo theo con đến tận nơi chữa trị. Bà cố dành cho Hàn mọi nguồn an ủi tinh thần, chăm chút từng sở thích của đứa con bạc phận. Bà tự tay làm cho Hàn món cá bống kho tiêu rim mặn… Khi Hàn quyết định vào bệnh viện phong Quy Hòa… bà khóc lóc sợ xa đứa con yêu quý”.
Theo tâm lý, trong những lúc lâm nguy người ta thường gọi đến mẹ như một trẻ thơ xin cầu cứu. Trường hợp của Hàn Mặc Tử cũng như vậy: “Mẹ ơi, con sắp chết nay mai. Con không sợ chết mẹ ạ. Nhưng nghĩ rằng con sẽ phải rời bỏ mẹ, con đau lòng quá”.
Về chị Nguyễn thị Như Lễ, chị của Hàn Mặc Tử “là người gần gũi Hàn Mặc Tử nhất về tính tình và sở thích. Nếu như mẹ được Tử nhìn qua hình ảnh Đức Bà Maria ở năng lực che chở và đức hy sinh thì chị Lễ… là hiện thân của Đức Bà ở vẻ đẹp sáng trong uyển chuyển…” “Với tình thương rộng lớn và niềm thông cảm sâu sắc, chị đã cố gắng cho Hàn cảm giác dễ chịu và tự do tuyệt đối”. “Chị đã có mặt trong những trang thơ… lặng lẽ và dịu dàng như một vầng trăng, tỏa đầy những luồng sáng thanh khiết và ấm áp”.
Và Mẹ Juetta người Pháp, phụ trách nhà thương Nam bệnh phong cùi ở Quy Hòa, đã săn sóc Hàn Mặc Tử ngay từ khi mới nhập bệnh viện, được ông Xê diễn tả như sau:
“… người bệnh nhân đó như bị tê hai chân nên gắng gượng lắm mới đứng lên được, đầu gối run run bước từng bước một, tay bám vào xe cho khỏi ngã. Mẹ Juetta: “Mau đưa tay cho mẹ đỡ xuống con”. Mẹ nói và bước tới xốc đỡ người bệnh xuống đất một cách nhẹ nhàng. Theo bàn tay dìu đỡ của mẹ Juetta, người bệnh cố đi như lết, đầu cúi xuống… đến giường số 3, mẹ dừng lại: “Trí, đây là chỗ của con”. … Mẹ Juetta bưng đến một tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e ngại nói: “Xin mẹ để con tự bưng uống được”; mẹ lắc đầu nói: “Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm con phỏng tay”. Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố gắng uống cạn ly sữa. Mẹ nói: “Con nằm nghỉ, chút nữa ăn cơm” và Trí lễ phép: “Con cám ơn mẹ”.
Những nguồn mạch yêu thương này đã tạo nên nghị lực mạnh mẽ cho Hàn Mặc Tử tự phấn đấu trong đau khổ và đã chắp đôi cánh cho thơ của anh bay lên trời cao, như chính Hàn Mặc Tử đã tâm sự với anh Xê:
“Trí và tôi thường nói chuyện với nhau và có lần Trí thổ lộ tâm tư đôi chút: Tôi đến Quy Hòa này là nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người, nên tôi được hưởng cái bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã chết trong khi ở thôn Tấn đầy đau khổ, nghèo túng, cô đơn, không một ai đến an ủi, săn sóc, dù là người thân quyến”.
Tình yêu cứu chuộc con người. Sự săn sóc đặc biệt của mẹ Juetta đã giải thoát Hàn Mặc Tử, đã giúp cho Hàn Mặc Tử sống giữa sự hôi thối của bệnh phong cùi lại cảm thấy “Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng”. Sống giữa khổ đau lại cảm nghiệm “Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”. Chỉ có tình yêu mới giúp Hàn Mặc Tử chắp cánh đại bàng bay lên khung trời cao rộng từ vực thẳm tăm tối của đau khổ và tuyệt vọng. Qua tình yêu đích thực phản ảnh tấm lòng của Đức Mẹ Maria đối với nhân loại, mẹ Juetta đã chữa lành tâm hồn của Hàn Mặc Tử:
“Lạy bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm nguy vừa trải qua dưới thế”.
Mặc dù đau đớn đến run rẩy nhưng lòng vẫn tràn ngập mến thương:
“Run như run hơi thở chạm tơ vàng…
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”.
Và sau cùng đã giúp anh “bay cho đến cõi thiên đàng” như ông Xê đã chứng kiến tận mắt: “Còn nói đến cử chỉ hành động bộc lộ ra ngoài mà tôi và mọi người thấy rõ ràng nhất là Trí trong những ngày giờ biết mình sắp chết thì rất sốt sắng lo về phần hồn của tôn giáo, nên Trí rất thích nói về Đức Mẹ Maria đầy ơn phước”.
Hôm nay, có hai bài đọc nói về bệnh cùi. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Lêvi nói rõ người bị bệnh cùi phải “ở riêng một mình ngoài trại”. Còn bài Phúc âm diễn tả việc Chúa Giêsu giơ tay đặt lên người cùi, tiếp xúc với anh và anh được khỏi bệnh. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, bệnh cùi là biểu tượng của tội lỗi. Người Do Thái coi người bị bệnh cùi đã bị phạt bởi Thiên Chúa do tội lỗi của họ. Và sự lây lan của nó giống như sự lan truyền của tội lỗi. Do đó tất cả mọi người bị cấm đụng chạm đến họ. Họ bị tách biệt, cô lập ra khỏi gia đình, cộng đoàn và xã hội. Nhưng Chúa Giêsu, với tình yêu vô biên của Ngài: “Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy”. Ngài phá tan cái hàng rào ngăn cách, cái thành kiến sai lệch của cả ngàn năm. Nhờ đó tâm hồn anh ta đã được chữa lành trước khi bệnh phong cùi thể xác thực sự biến mất.
Quả thực, việc đặt tay hay đụng chạm đến người bệnh cùi phải là một việc khởi sự từ trong tâm hồn, từ con tim phát xuất yêu thương. Ngoài tình yêu ra không có một động lực nào có thể thúc đẩy chúng ta đến gần hay đụng chạm, chưa nói đến việc săn sóc. Một tình yêu lớn lao như Chúa Giêsu đã làm trước tiên, rồi mẹ Juetta ở trại phong Quy Hòa, và các sơ săn sóc các bệnh nhân bị cùi, bệnh AIDS… đã làm theo: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu:. (Jn 15, 13).
Chỉ nhờ tình yêu và ân sủng Thiên Chúa ban, con người mới có thể hành động được những việc phi thường như vậy thôi!
Truyện kể về việc Mẹ Têrêsa Calcutta đang săn sóc một người bệnh đầy thương tích nằm bên vệ đường. Anh hôi thối dơ dáy và bẩn thỉu. Khi mẹ đang lau rửa các vết thương cho anh, có một người khách qua đường trông thấy, cúi xuống nói với Mẹ Têrêsa như sau: “Trả cho tôi một triệu đôla tôi cũng không thể làm được việc này”. Mẹ Têrêsa bèn ngẩng đầu lên trả lời: “Tôi cũng vậy!”
Tiền bạc, của cải, vật chất hay bất cứ sự gì trên thế gian này cũng không thể làm cho người ta có thể hy sinh quên mình mà săn sóc cho các bệnh nhân bị phong cùi lở loét hôi thối được. Nhưng với tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa thì tất cả đều có thể làm được. Quyền năng của Thiên Chúa làm được mọi sự.
Đức Giám mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết trứ danh trên các show TV mỗi đêm thứ tư trong những năm 1955 – 1960. Một đêm ngài kể cho khán giả nghe về chuyến viếng thăm một trại cùi bên Phi Châu. Để làm quà ngài mang theo rất nhiều thánh giá bằng bạc có thể phát cho khoảng 500 bệnh nhân cùi trong trại. Bệnh nhân đầu tiên ngài gặp chỉ còn lại một cánh tay trái. Tay phải và bàn tay được băng bó với những vết thương nhầy nhụa. Đức cha mới cầm một tượng thánh giá, giữ nó cách bàn tay của người cùi chừng 10 cm và thả nó xuống lòng bàn tay của bệnh nhân. Trong một chớp nhoáng, ngài bị đánh động bởi chính việc ngài làm. Ngài nói:
“Thình lình, tôi nhận ra có 501 người cùi trong trại. Và người cùi ghẻ lở nhất là tôi. Tôi đã tặng họ cây thánh giá là biểu tượng tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa cho tất cả chúng ta. Nhưng rồi, tôi đã lấy đi mất cái tình yêu tuyệt đối đó và nhắm mắt lại trước cái ý nghĩa của nó đối với tôi. Tôi không dám nhìn thẳng vào cây thánh giá bé nhỏ. Và sau cùng tôi đã biết tôi phải làm gì. Tôi ấn bàn tay tôi vào bàn tay của những người cùi với một biểu tượng của tình yêu giữa chúng ta. Và rồi tôi đã làm y như thế cho 499 người bệnh cùi còn lại”.
Bao lâu chúng ta còn cảm thấy ghê tởm, sợ sệt và e dè là còn có ngăn cách. Còn ngăn cách là chưa có ân sủng và tình yêu đích thực. Mà không có tình yêu đích thực thì không thể nào làm cho một bệnh nhân phong cùi cảm thấy: “Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng” được! Huống chi là giúp cho họ cảm nghiệm: “Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng”!
82.Sự chấp nhận
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu thương, không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho một con người, đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân, khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta muốn co rút lại hoặc công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một hình phạt chủ yếu là tẩy chay.
Sự xua đuổi gây tác hại đối với trẻ con, người lớn tuổi, người tật nguyền… Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị cha mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là tất cả những bệnh tật của họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho người bị tật nguyền, không phải là do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã từng trải qua. Những người làm công việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v…) đều là những người nhạy cảm, dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà họ đã đạt được. về một phương diện nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.
Có những cách để tự cô lập mình khỏi tình trạng bị khước từ – phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả, tránh né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và tránh né các mối quan hệ, hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều này cũng giống như việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.
Người đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm vào anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi. Do đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.
Khi chúng ta khước từ người nào, là chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như những “người phong hủi”, mặc dù chúng ta không ý thức về điều đó. Chúng ta có thể khước từ một người, theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế – bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ, lại có thể tích lũy thành những hậu quả trầm trọng lâu dài.
Điều thú vị không phải là việc Đức Kitô chữa lành người phong hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai muốn đến gần họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.
Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó, Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng rằng mình là người dơ bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.
Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước từ. Đây là một trong những điều thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người mình có giá trị.
Mỗi người chúng ta đều khát khao được chấp nhận con người của mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người khác, làm cho chúng ta được là con người duy nhất theo đúng bản chất của mình. Khi chúng ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có thể làm cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không phải là con người duy nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của mình, thì chúng ta có khả năng nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế mà chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình, chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
83.Chúa Nhật 6 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.
Chúng ta biết câu chuyện nàng công chúa lọ lem.
Một cô gái hiền từ xinh đẹp, siêng năng cần mẫn trong công việc, nhưng lại phải sống trong một hoàn cảnh thật éo le. Những người chung quanh không thông cảm cũng không nhìn thấy những cực khổ mà nàng phải chịu, lại còn tìm cách làm cho nàng phải vất vả thêm.
Có dịp lễ hội nàng ước mong đi tham dự, nhưng khó quá. Nàng không biết làm sao cho công việc được kết thúc sớm, cũng không biết làm sao có bộ áo đẹp để dự lễ hội như những thiếu nữ cùng trang lứa khác. Điều nàng muốn đã được thực hiện; công việc được kết thúc và áo đẹp cũng được mang đến cho nàng. Nhưng dự lễ hội nàng phải lo về sớm trước giờ quy định. Trong lúc vội vàng trở về, nàng đánh rơi chiếc giầy của mình.
Ở hiền gặp lành, điều nàng mong muốn thoát khỏi cảnh cơ cực đã được thực hiện. Vị hoàng tử đã cho nàng thoát cảnh lọ lem, cho nàng một địa vị mới. Nàng đã hoàn toàn thay da đỗi thịt. Từ nay nàng không còn phải cực khổ, không còn phải lam lủ, nàng đã được hoà nhập với mọi người, được mọi người biết đến và yêu thương. Nàng đã cố gắng và được giúp đở để nàng đạt được những gì mình mong muốn.
Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch.
Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện ước muốn. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của căn bệnh, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội.
Chúa Giêsu nhìn thấy anh cùng với nỗi niềm ước mơ chân thành. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường. "Ta muốn, anh hãy trở nên sạch".
Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người như thế. Ngài cũng nói với mỗi người chúng ta như thế: "Ta muốn, con hãy trở nên sạch".
Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà mỗi người đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn.
Mỗi người trong chúng ta, để một chút thinh lặng, nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho con người của mình chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Chúng ta có muốn thoát khỏi nó để tìm mọi phương cách, cố gắng như nàng công chúa lọ lem. Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng thheo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm.
Mỗi người đang bằng lòng với những gì của hiện tại và không muốn bỏ đi những gì mình đang có. Chúng ta không muốn cho mình sạch hơn, mới hơn, cũng không muốn đến với Chúa. Còn việc hoà nhập với mọi người, không cần thiết, vì bản thân của mình tự rời xa mọi người, để không còn phải nghe những lời nói mà mình không thích. Chúng ta cũng không muốn nghe lời nói của Chúa Giêsu: "Ta muốn con hãy trở nên sạch". Nếu như thế thì làm sao Thiên Chúa có thể làm gì được cho chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết năng đến với Chúa để Ngài làm cho chúng ta được trở nên sạch.
84.Hãy làm lại lần nữa.
Trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô viết: Hãy cẩn thận, xem xét cách sống của mình, đừng sống như kẻ dại khờ, nhưng hãy sống như kẻ khôn ngoan, biết tận dụng mọi thời giờ... vì thế anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa (Ep 5,14.15).
Có thể nói, rất nhiều người coi ý Chúa giống như một điều nặng ngàn cân sắp sửa rơi vào họ. Nhưng thật sự mà nói từ ngữ “ý Chúa” đã được chuyển dịch từ tiếng Do thái và Hy lạp. Ý nghĩa của nó chính là sự mong mỏi, ước ao, mong chờ tình yêu nơi người khác. Không phải chỉ trong tâm trí, hoặc trong trái tim những phải là toàn thể con người. Sự mong đợi này đem đến cho chúng ta nhận thấy sự sâu thẳm chờ đợi của Chúa đối với chúng ta. Nhờ thế, chúng ta lãnh nhận Thánh ý Chúa với tất cả tấm lòng của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Hãy thấm nhuần Thần Khí, cùng nhau đối đáp những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh ứng: hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Nơi khác Thánh Phaolô viết, “Hãy mặc lấy Đức ái, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo... và hãy hát dâng Thiên Chúa, những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh ứng với tất cả tâm hồn” (Cl 3:14,16).
Khi chúng ta mong đợi để thánh ý Chúa thể hiện nơi chúng ta, chúng ta cảm nhận thấy cuộc sống của mình mang nhiều ý nghĩa và không ngừng hát những bài Thánh Ca. Chúng ta sẽ lãnh nhận những sự thúc đẩy mãnh liệt mỗi khi Chúa hành động. Chúng ta là những tín hữu, là Giáo Hội luôn dâng lên Chúa không ngừng những bài Thánh Ca để ca tôn danh Ngài.
Nhưng làm cách nào để chúng ta hát những bài Thánh Ca đó? Giống như nhà viết nhạc luôn mong muốn những người ca trưởng và những ca viên trình diễn những ca khúc của họ theo ý mình. Có rất nhiều điệu nhạc để trình diễn: như “adagio” có nghĩa là chậm; “allegro” có nghĩa là “nhanh, vui tươi” và “con brio” có nghĩa là “hoạt bát, hứng khởi.” Đó chính là cuộc sống mà Chúa Kitô kêu mời chúng ta. Chúng ta phải đáp ứng cách hăng say khi Chúa Kitô mời gọi chúng ta trong cuộc sống mới.
Cuộc sống phấn khởi của chúng ta sống động được đặt nền tảng trong chân lý Phúc Âm. Sức mạnh đó không đến với chúng ta do “quyền bính chính phủ” hoặc từ những vị lãnh tụ quốc gia, các nhà độc tài, hoặc do chính nơi con người tự mãn của mình. Nhưng sức mạnh tuyệt đối đó do chính Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ngài là Đấng tác tạo chúng ta. Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi tối tăm. Đấng đã nhận chúng ta là những con cái của Ngài và được Ngài chúc phúc. Chúa Kitô cũng không lìa bỏ chúng ta, Ngài nói: “Ta ở với các con! Hãy nhận lấy sự sống và sống thật tốt lành.”
Một hình ảnh thực tiễn nhất là khi chúng ta thẩy một em bé lên cao, rồi chúng ta chụp được nó. Em bé rất là thích và la to rằng “làm nữa đi” và nếu chúng ta tiếp tục làm như vậy, chúng ta sẽ luôn nghe được em bé kêu lên giống như những lần trước.
Đối với Thiên Chúa cũng không khác hơn. Khi Ngài tạo một bông hoa đẹp, nó cũng kêu lên như vậy và Ngài đã tạo dựng nên muôn vàn bông hoa tuyệt đẹp. Ngài không ngừng tạo nên chúng. Để nhận thức được ơn cứu rỗi, nhận biết mình được cứu chuộc, và trở nên một tạo vật hoàn ý của Thiên Chúa, chúng ta phải trở nên giống như Ngài. Là một Kitô hữu, chúng ta được biến đổi trở nên những người không cảm thấy chán nản, vô tri, tăm tối do những phát triển của thế giới ngày nay.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, người phong cùi quỳ xuống trước Chúa Giêsu với tất cả lòng tin của ông và nói: “Ngài có thể chữa tôi lành bệnh,” ông ta nói tiếp: “Nếu Ngài thực hiện, tôi sẽ khỏi.” Chúa Giêsu đặt tay trên người đó và nói: “Ta sẽ làm. Hãy chỗi dậy”. Ngay tức thì, người phong cùi được lành bệnh. Sự chữa lành bệnh này có ý nghĩa là từ nay người phong cùi không còn sống trong sự khinh chê. Ông đã được giải thoát khỏi gánh nặng thể xác. Chính vì vậy ông đã không ngừng ca tụng và loan truyền cho mọi người biết về quyền năng của Chúa Giêsu.
Hầu hết những ai cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn của mình. Họ đều thay đổi cách sống của họ. Như Thánh Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan; Maria, Mattha, người đàn bà xứ Samarita; người đàn bà ngoại tình, người mù v. v... khi Chúa Giêsu đi vào cuộc sống của họ, họ được sống với Chúa. Họ cảm nhận được sự mới mẻ nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành mọi vật. Và Ngài vẫn không ngừng công việc đó; vì thế, họ đã thay đổi cách sống trong cuộc sống của họ.
Trong Phúc Âm hôm nay, những người theo Chúa Kitô là những người luôn vui vẻ, hoạt bát, vui tươi ngay cả những lúc gặp khó khăn. Sách Tông Đồ Công Vụ viết: “Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêsusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội... Ông Saolô thì phá hoại Hội Thánh. Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục. Những người không bị bắt phải tản mác khắp nơi loan báo lời Chúa. Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân ở đó. Dân chúng một lòng lắng nghe những điều ông Philípphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm... Trong thành, người ta rất vui mừng (Cv 8:1,3-8).
Chúa Giêsu nói với các môn rằng, “Như Cha đã thương yêu Ta, Ta cũng yêu thương các con... Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Rồi Ngài dậy họ làm thế nào để niềm vui của họ được trọn vẹn: “Hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,9.11-12).
Cho dù bất cứ vì lý do gì, chúng ta sống trong cộng đoàn, chúng ta làm tất cả để thoả lòng khao khát Thiên Chúa. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta vui mừng, phấn khởi trong cuộc lữ hành Kitô hữu. Khi chúng ta thoát khỏi con người ích kỷ, chúng ta phục vụ tha nhân thì lúc đó chúng ta càng nhận được sự Chúa hiện diện trong chúng ta. Và chúng ta đáp lại cách nhiệt tình đối với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng luôn không ngừng tác tạo mọi vật, không phải chỉ những bông hoa nhỏ dại, nhưng là những con người hạnh phúc.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con biết phụng thờ Chúa trong vui tươi.
85. “Tôi muốn, anh sạch đi!”
Vài hàng sơ lược
Trong đoạn Phúc Âm này chúng ta nghe Mác-cô kể lại câu chuyện người bị bệnh phong xin Chúa Giêsu chữa lành. Trước khi đi vào đoạn Phúc Âm, chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội Do-thái, để hiểu được tình trạng và hoàn cảnh của người bị bệnh Phong thời đó. Theo Cha Cantalamesse thì sách Lêvi dạy rằng, người nào bị nghi mắc bệnh phong, phải được đưa tới một vị tư tế, vị này, sau khi khám xét, “tuyên bố người đó là dơ.” Để làm cho những sự việc ra xấu hơn, người phong đáng thương hại, bị loại khỏi tình bạn con người, chính người bịnh phải làm cho kẻ khác tránh xa mình, bằng cách báo cho họ biết sự nguy hiểm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế! “Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46)
Về điều này, Rudolf Pesch giải thích rằng: “Những người bị bệnh Phong được coi là kẻ bị ô uế, những người đáng chết. Họ phải xa lìa với xã hội, phải tự động cách ly với xã hội. Dù luật lệ trong Thánh Kinh có nghiêm ngặt, nhưng sự cách ly người Phong ra khỏi xã hội không được làm triệt đở ở khắp mọi nơi công cộng. Người bệnh Phong không được bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng trong các làng mạc, họ không bị cách ly hoàn toàn. Với những điều kiện đòi hỏi nhất định, hình như người ta cũng có thể để cho người bị bệnh Phong bước vào đền thờ. Dù thế nào, thì người bệnh Phong vẫn bị coi là những người bị Thiên Chúa xa cách.
Như vậy ai có thể chữa cho người bị bệnh Phong? Theo Adolf Pohl thì: “Việc chữa lành khỏi bệnh Phong được coi như là sự Phục Sinh từ cõi chết. Và người ta chỉ có thể chờ mong Thiên Chúa làm điều đó. Khi Vua dân Ít-ra-en, trong sách thứ 2 các Vua 5,7, nhận lệnh chữa lành cho người bị bệnh Phong, thì ông đã thốt lên rằng: “Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi?”
Ngoài ra, nói chung chung về bệnh Phong, theo Cha Cantalamesse thì “hai nhân tố lạ lùng đã góp phần gia tăng sự ghê tởm trước bệnh phong, đến nỗi biến nó thành biểu tượng của sự bất hạnh nhất có thể giáng xuống một con người, và cô lập những nạn nhân vô phúc tội nghiệp trong những con đường vô nhân đạo nhất.
Nhân tố thứ nhất là sự xác tín rằng, cơn bệnh này lây lan đến nỗi làm nhiễm độc bất cứ ai có thể đã tiếp xúc với người bệnh; nhân tố thứ hai, cũng không có cơ sở, vì bệnh phong là hình phạt vì tội lỗi.
Nhân vật đã góp phần hơn hết thay đổi thái độ và luật pháp đối với những người bệnh phong là Raoul Follereau (1903-1977). Trong năm 1954 ông đã thiết lập Ngày Thế Giới Bệnh Phong cổ võ những đại hội khoa học và cuối cùng, trong năm 1975 đã thành công để luật pháp thu hồi sự kỳ thị những người bệnh phong. Ngoài ra, có một câu chuyện rất cảm động về tấm lòng của ông Raoul giành cho người Phong: “Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái cùi và đưa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến cô gái bỡ ngỡ. Nhưng lạ thay, cô gái lại không chịu chìa tay ra đáp lễ. Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc bèn giải thích: Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách. Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, nhưng đâu cấm khách hôn bệnh nhân phải không? Vừa nói, ông Raoul vừa tiến đến ôm hôn cô gái cùi. Mọi người sững sờ. Trong phút chốc cả đám người cùi nhào đến bên ông. Và một tiếng thốt lên trong nghẹn ngào: Hôm nay, tôi cảm thấy chúng tôi là người.”
Trở về với đoạn Phúc Âm, chúng ta có thể phân ra như sau: câu 40: Cuộc gặp gỡ giữa người Phong với Giêsu, và người bị Phong mở lời xin được chữa lành. Câu 41: Giêsu chữa lành. Câu 42: Anh bị bệnh Phong được sạch. Câu 43-44: cấm không được loan truyền tin chữa lành, mà chỉ đến trình diện các tư tế. Câu 45: Dù bị cấm nhưng người khỏi bệnh vẫn lên đường loan báo tin vui.
Suy niệm
- Câu 40 kể là có một người bị bệnh Phong đến gặp Giêsu. Người bị bệnh Phong trong đôi mắt của người Do-thái, là người có tội với Thiên Chúa, đời sống của họ xa cách Thiên Chúa. Ở đây Adolf Pohl như đặt mình vào trong thân phận của người Phong và tự nói với mình rằng: “Tôi không hợp với Chúa. Tôi không xứng đáng có tương quan với Chúa.... Tôi không phải là con cái của Chúa, mà là con cái của thế gian. Tôi chỉ được “trang điểm” bởi một “lớp phấn Kitô hữu” rất mỏng. Trong cộng đoàn tốt lành kia, tôi là một cái xác lạ lẫm. Tôi không còn thật nữa: “Chẳng lẽ người phàm công chính trước Thiên Chúa? “Chẳng lẽ con người lại thanh sạch trước Đấng dựng nên mình?” (Gióp 4, 17)
Chính người Phong hủi đó hôm nay lại đến với Giêsu. Trong khi mọi người đều xa lánh anh ta, nếu anh ta xuất hiện trên đường. Vâng, chỉ có Giêsu thì không chạy trốn, chỉ có Giêsu ở lại và để cho anh ta đến với mình. Cha Cantalamesse giải thích rằng: “Chúa Giêsu không sợ lây, Người để kẻ phong đến với Người và quì trước mặt Người. Còn hơn điều đó: trong một thời đại khi người ta tưởng rằng chỉ sự ở gần người bệnh phong là đã lây nhiễm rồi, Người giơ tay và đụng vào anh.” Chúng ta đừng tưởng tất cả sự này là tự nhiên và không bắt Chúa Giêsu trả giá nào. Là con người, Chúa chia sẻ trong sự này, như trong nhiều điểm khác, những xác tín của thời đại Người và của xã hội Người đương sống. Nhưng sự thương cảm của Người đối với người bệnh thì mạnh trong Người hơn là sự sợ bệnh phong”
Khi đến gần Giêsu, người Phong quỳ xuống dưới chân Chúa và mở lời van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Thái độ quỳ xuống dưới chân ở đây đúng là thái độ kêu xin khẩn nài. Chúng ta có thể thấy ở đoạn khác: “Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người” (Mc 5, 22) hay “Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người.” (Mc 7, 26). Thái độ của anh bạn Phong không chỉ nói lên lời khẩn nài kêu xin, mà theo Rudolf Pesch và Adolf Pohl, thì còn nói lên niềm tin tưởng của anh vào Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy rằng, anh đã nói: “Nếu Ngài muốn”, chứ không nói như người cha có con bị bệnh câm: “Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9, 22). Tâm tình của anh bạn bị Phong hàm chứa một niềm tin chắc chắn vào Đấng yêu thương và quyền năng. Phải chăng anh ta tin rằng, Đấng có lần nói với mình: “Con là con yếu dấu của Cha”, sẽ không bao giờ bỏ rơi anh, chính Ngài sẽ giải thoát và cứu chữa anh? Phải chăng, với thái độ và lời nói của mình, anh muốn cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa! Xin thương xót con, con không giấu Chúa những vết thương của con, Chúa là bác sĩ, con là bệnh nhân; Chúa đầy lòng thương xót, con thì khốn khổ” (“Confessions,” X,39).
Ngoài ra, Adolf Pohl còn chú ý một điều nữa, là anh bị bệnh Phong trong câu nói kia, đã nhắc đến hai từ “Ngài” và chỉ có một từ: “tôi”. Chúng ta thấy qua lời xin trên đụng tới quyền năng của Giêsu. Ở đây theo Rudolf Pesch thì quyền năng của Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Vâng, Giêsu có muốn sử dụng quyền năng của mình để cứu chữa người bất hạnh kia không? Với tâm tình của sách Khôn Ngoan 11, 23: “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự”, chúng ta tiếp tục chiêm ngắm thái độ của Giêsu.
- “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (câu 41) Lời kêu xin của ang bị bệnh Phong thúc đẩy Giêsu mạnh đế nỗi, Giêsu đã tỏ ra bốn hành động liên tiếp. Ở đây chúng ta chú ý đến 4 động từ: (1) Người “chạnh lòng thương”. Theo Adolf Pohl thì các tác giả nhất lãm không bao giờ dùng từ chạnh lòng thương này để chỉ về sự thương hại, sự tội nghiệp cho bất cứ con người nào. Từ “chạnh lòng thương” như diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Cho nên ở đây không ám chỉ đến cảm giác tội nghiệp của Giêsu, mà diễn tả thực sự thiên tính của Ngài - một Thiên Chúa là tình yêu. Vâng, với ĐTC Biển Đức, thì trong câu chuyện này “Chúa Kitô là “bác sĩ” chân thật của nhân loại, là Đấng Chúa Cha từ trời đã sai xuống thế gian hầu chữa lành con người, bị đánh dấu trong thân xác và tinh thần bởi sự tội và các hậu quả sự tội....Tin Mừng Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta Chúa Giêsu Đấng, lúc bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người, hoàn toàn hiến mình để rao giảng và chữa lành người bệnh trong những làng xứ Galilêa. Những dấu lạ vô kể Người thực hiện cho người bệnh xác nhận “tin mừng” Nước Chúa. Tin Mừng hôm nay tường thuật sự chữa lành một người phong và diễn tả với hiệu quả lớn cường độ tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tóm tắt trong một cuộc đối thoại kỳ lạ: Người phong nói “nếu ngài muốn, ngài có thể chữa tôi được sạch”, Chúa Giêsu trả lời “Tôi muốn, anh hãy sạch”, tay Người đụng vào mình anh và giải cứu anh khỏi bệnh phong (Mc 1, 40-42).” Hành động thứ hai (2) Người “giơ tay”. Theo Rudolf Pesch thì hành động này biểu tượng cho sức mạnh và động từ (3) “đụng” vào anh là biểu tượng cho việc truyền sức mạnh của Chúa Giêsu lên trên người bị bệnh Phong. Vâng, sức mạnh của tình yêu, sức mạnh đem lại sự chữa lành. Chúng ta cũng có thể nhớ lại hình ảnh Giêsu đối với nhạc mẫu của Phê-rô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31). Ngoài ra, về hành động (2) và (3) này ĐTC diễn tả rất hay: “Cử chỉ này của Chúa Giêsu, Đấng giơ tay và động tới thân mình đầy vết thương của kẻ kêu xin Người, bày tỏ rõ ràng ý muốn Thiên Chúa chữa lành tạo vật sa ngã của Người, Chúa Kitô là “tay” Thiên Chúa giang ra cho nhân loại hầu nhân loại có thể được giải thoát khỏi những đống cát di chuyển bệnh tật và sự chết, hầu trỗi dậy bằng cách dựa vào tảng đá vững chắc của tình yêu thần linh (x. Tv 39, 2-3).”
Tiếp theo ba hành động kia là lời nói (4)”Tôi muốn, anh sạch đi! “ Đây là lời có sức chữa lành. Lời có sức chữa lành này Chúa Giêsu cũng lên tiếng với con gái ông Gia-ai: “Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 41) hay Chúa Giêsu đã thốt lên “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra” để chữa lành cho người vừa điếc vừa ngọng.(ss. Mc 7, 34).
- Sau 4 hành động của Chúa Giêsu, thì điều gì đã xảy ra? “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (câu 42) Điều xảy ra đúng như ĐTC vừa nói ở trên, là phục hồi sự sống cho anh bị bệnh Phong “cách dồi dào” (Ga 10,10), sự sống trọn vẹn, hạnh phúc, đời đời. Cụ thể hơn, chúng ta để ý tới từ “lập tức”. Từ này diễn tả sống động quyền năng và sức mạnh của Giêsu. Ngoài ra, động từ “biến” thuộc về bản chất của ma quỷ, chúng nhập vào và rồi lại biến đi. Tuy vậy, câu chuyện chữa lành anh bị Phong đây không thể so sánh được với những câu chuyện Chúa xua đuổi ma quỷ. Vâng, giờ đây anh được sạch rồi. Một tin vui thật lớn!
- Tin vui này có được phép loan truyền rộng rãi ra không? 43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,44 và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”(câu 43 và 44)
Nếu anh mới được chữa lành khỏi bệnh Phong không được phép nói với bất cứ ai về việc Giêsu chữa cho mình, thì không đúng, vì theo câu 44 anh phải đi trình diện nơi các tư tế, để họ chứng thực anh được khỏi bệnh, như anh mù trong phúc âm Gioan. (ss. 9, 1-41) Vâng, anh thanh niên đã được thanh sạch khỏi bệnh Phong cần được xã hội đón nhận, cần có được một chỗ đứng hẳn hoi. Tương quan với Chúa và tương quan với người khác luôn đi đôi với nhau. Sau khi trình diện nơi các tư tế xong theo như luật Môi-sê (Lê-vi 14, 1-9), thì anh cần phải dâng lễ vật như Mô-sê đã truyền (ss. Lê-vi 14, 10 và 21tt). Và như vậy người ta sẽ biết về sự thanh sạch của anh. “Người ta” ở đây chỉ số nhiều, theo Adolf Pohl nghĩa là những tư tế ở Ga-li-lê-a mà anh ta trình diện, và những tư tế ở Giê-ru-sa-lem nơi anh ta dâng của lễ.
Như vậy phải hiểu làm sao điều Chúa Giêsu ngăn cấm? Theo Pesch thì anh không nên nói về việc anh được chữa lành, mà qua chính sự trình diện và nghi thức dâng của lễ theo luật Mô-sê, anh sẽ được chứng thực khỏi bệnh. Ngoài ra, theo các nhà chú giải, thì vì Chúa Giêsu còn phải thi hành sứ mạng của Ngài. Nếu danh tánh của Ngài mà bị rao truyền khắp nơi, có thể Ngài bị cản trở không tự do đi lại được nữa, và qua đó ảnh hưởng đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài. Chúng ta có thể thấy được hậu quả về điều này, khi đọc câu 45. Sau khi anh ta tung tin ra, thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được nữa. Mặt khác, sự nghiêm cấm này liên quan đến chính thân phận của Chúa Giêsu: Trong Ngài chính Đấng Tạo Dựng và công trình cứu rỗi đang hiện diện. Vâng, Giêsu không phải là một tiên tri, mà là một Tiên Tri trọn hảo. Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 11) Và điều này không được phép tiết lộ ra. Vì nếu người Do Thái, dân đang trông chờ Đấng Messia, mà biết được, thì có lẽ chương trình của Chúa Giêsu sẽ chưa được nửa đường đã gãy cánh. Vâng, chương trình của Giêsu, Đấng Messia đích thực, đâu có hợp với sự mường tượng và mong đợi của dân Do-thái. Chúng ta cứ chiêm ngắm cuộc đời của Ngài thì sẽ nhận ra ngay.
Như vậy, anh thanh niên được thanh sạch đã không giữ lời nghiêm cấm của Giêsu. Một cách nào đó chúng ta cũng có thể thông cảm với anh, vì trước một phép lạ, một ơn cứu rỗi quá lớn lao trên chính bản thân mình, anh ta không thể nào câm lặng không rao truyền về vị thầy thuốc tốt lành tài ba. Ở đây, Mác-cô một cách nào đó đã cố ý làm nổi bật việc tung tin của anh thanh niên này, như là một cách rao giảng Tin Mừng, giống như người thanh niên được Chúa Giêsu chữa lành khỏi bị quỷ ám trong chương 5, 18-20: “Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.”
Tham khảo
- Về sự chữa bệnh của Chúa Kitô. Bài huấn dụ của ĐTC Biển Đức XVI trình bày lúc trưa khi ngài đọc kinh Truyền Tin từ cửa sổ văn phòng ngài với hàng ngàn người tập hơp trong Quảng Trường Thánh Phêrô. VietCatholic News 13/02/2006
- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchine, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích Tin Mừng Chúa Nhật VI TN: Những bệnh phong hủi mới của xã hội VietCatholic News 11/02/2006
- Rudolf Pesch,
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1
- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1.
86.Hãy sẻ chia nỗi đau của người đồng loại--Huệ Minh
Ai trong chúng ta cũng hơn một lần nghe bài hát Hàn Mạc Tử. Bài hát có những câu như thế này:
Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân nơi nhà hoang
Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi
Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.
Thân tàn này xin để một mình mình đơn côi! Thật tội nghiệp! Tại sao thế? Tại vì Hàn Mạc Tử đã mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo là bệnh phong hủi. Ai mắc bệnh phong hủi đều phải bị tách riêng ra khỏi cộng đồng bởi lẽ căn bệnh này sẽ lây cho người khác.
Không phải vào thời Hàn Mạc Tử mới có căn bệnh này nhưng từ xưa lắm, từ hồi ông Môsê đã có chứng bệnh này. Và, ta cũng vừa nghe trong sách Lêvi lời Đức Chúa phán với ông Môsê và Aaron rằng: "Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông. Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại".
Những ai vướng vào căn bệnh phong hủi sẽ cảm thấy thật tủi thân vì bị xã hội cách ly, con người cách ly. Thế nhưng, với Thiên Chúa, đặc biệt nơi Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa làm người sinh xuống trần gian này có cách nhìn khác và cách hành xử khác.
Ta thấy thánh Máccô thuật lại cho chúng ta câu chuyện có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu anh ta quỳ xuống thưa với Chúa Giêsu rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch".
Nhìn thấy anh, nhìn thấy cách hành xử của anh, nhìn thấy lòng tin của anh và Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Và rồi, sau lời của Chúa Giêsu, mọi người thấy tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch.
Sau khi chữa lành cho anh, Chúa Giêsu nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".
Chạnh lòng thương những con người bệnh hoạn tật nguyền để rồi Chúa Giêsu đã chữa lành cho họ và đã mời gọi những người đi theo Chúa cũng phải có lòng chạnh thương như Chúa vậy.
Nhiều và nhiều người đã đi theo con đường của Chúa Giêsu đi là đã chia sẻ, đã băng bó những vết thương lòng cho những người đau yếu bệnh tật. Trong nhiều người đi theo con đường mà Chúa Giêsu đi đó, ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta đó là Đức cha Jean Cassaigne.
Đức cha Jean Cassaigne (1895 – 1973) là người sáng lập trại phong cùi Di Linh. Ngài đã bỏ quê hương xứ sở để đến sống và phục vụ những người phong cùi suốt 47 năm trời. Rồi chính ngài cũng mắc phải bệnh phong cùi giống như những người mà ngài phục vụ. Mặc dù mắc phải căn bệnh quái ác này nhưng ngài vẫn tin tưởng và cảm tạ Chúa rằng: “Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ”.
Lúc cuối đời trên giường bệnh, Đức cha nói với người nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực rằng: “Suốt 47 năm dài (1926–1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…”. Đức cha được an táng bên nhà nguyện Trại Phong ngày 5-11-1973.
Đức cha Jean Cassaigne đã tiếp nối sứ mạng yêu thương của Chúa Giêsu. Đức cha không những chạm tay để xoa dịu nỗi đau của anh chị em bất hạnh, mà ngài còn hòa mình vào nỗi đau đó, cùng đau đớn như họ để cảm thông, chia sẻ và nâng đỡ họ.
Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã sống như con người chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài sống như con người để cảm thương thân phận mỏng dòn, yếu đuối bệnh tật của con người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã đưa tay ra đụng chạm đến người phong cùi để chữa lành và xoa dịu nỗi khổ đau của họ. Qua đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài để đưa tay ra đụng chạm, nâng đỡ những anh chị em đang gặp khổ đau, bất hạnh.
Ngày hôm nay, tuy bệnh phong cùi đã có thuốc chữa và không còn đáng sợ nữa, nhưng vẫn còn nhiều mảnh đời thê thảm không kém gì những người bệnh phong cùi năm xưa, đó là những người già cả neo đơn, những người nghèo đói, bệnh tật, những trẻ em lang thang … Họ đang cần đến đôi tay sẻ chia, nâng đỡ của chúng ta.
Nhìn lại cuộc đời của ta, ta may mắn hơn những anh chị em bị bệnh phong còn lại ở vài trại trên đất nước ta, ta may mắn hơn những người kém may mắn phải vướng vào những chứng bệnh ngặt nghèo. Nhìn lại sự may mắn đó để rồi trong cuộc sống, có khi tiết kiệm ly cà phê, tô bún hay chút gì đó của nhu cầu vật chất để sẻ chia. Thiển nghĩ rằng những chia sẻ của ta cũng chẳng làm gì khá hơn cho cuộc đời kém may măn của anh chị em đồng loại nhưng ít nhiều cũng xoa dịu phần nào nỗi đau của những người đó.
Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hiểu nỗi đau là gì?
Ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin.
Chỉ cần ly nước thôi, chỉ cần bát cơm rơi bàn tay ai đó đón đưa.
Ngày hôm nay, ta đang sống giữa một xã hội mà tăng dần sự vô cảm và đánh mất tình đồng loại. Nhiều người vẫn cứ mãi khư khư của cải vật chất trong lòng mình. Dĩ nhiên là quyền họ làm họ được hưởng nhưng xin họ mở lòng ra để chia sẻ chút gì đó cho những mảnh đời kém may mắn xung quanh họ.
Và, trước nhất ta hãy cầu cho chính bản thân ta để ta biết sẻ chia cho những người cần một chút lòng thành của ta, ngay bên cạnh ta, ngay trong gia đình ta.
87.Niềm vui của chàng phung cùi, niềm vui của chúng ta--Huệ Minh
Tin mừng Mc 1: 40-45: Khi nào niềm tin của chúng ta đủ mạnh thì khi ấy Chúa có thể đến, và ở lại với chúng ta và chữa lành cho chúng ta. Còn khi niềm tin của chúng ta nó cứ hời hợt thì Chúa làm sao có thể đến với chúng ta...
Kính thưa Cộng Đoàn,
Chúng ta vừa nghe trang Tin Mừng theo Thánh Máccô thuật lại việc Chúa Giêsu chữa cho người phong.
Anh ta làm điều mà Chúa Giêsu không vui, bởi vì chữa cho anh thì Chúa Giêsu dặn anh ta: Đừng có đi nói với ai hết. Anh không làm theo lời Chúa Giêsu dặn. Và rồi anh ta vừa được chữa lành xong, anh ta đi loan báo cho mọi người cái niềm vui mà anh được chữa lành đó.
Và tại sao anh lại vi phạm cái lời của Chúa? Xin thưa: vì anh cảm thấy sướng quá! Bởi vì bao nhiêu năm trời anh ta bị giam trong nỗi cô đơn của đau đớn, của bệnh tật của sự miệt thị của biết bao nhiêu con người.
Trong khi đó, Chúa đã chạm và chữa cho anh sạch sẽ bệnh. Từ cái chạm của Chúa Giêsu, tất cả mọi khổ đau thể xác và tinh thần của anh đã biến mất. Phải nói rằng đó là một niềm vui quá lớn, không thể che giấu được nên anh chia sẻ niềm vui đó cho người khác, thì khi ấy niềm vui đó của anh mới được trọn vẹn. Và Chúng ta thấy, đó là niềm vui của cuộc đời.
Thi thoảng, chúng ta thấy giáo xứ này giáo xứ kia, chỗ này chỗ kia, cử hành gọi là năm thánh. Khai mạc năm thánh để mừng kỷ niệm thành lập giáo xứ chẳng hạn.
Năm thánh đó, thì chúng ta thấy đó là năm của niềm vui. Mời gọi mỗi người sống trong cái niềm vui của năm thánh, niềm vui từ Thiên Chúa trao ban cho con người.
Trong Thánh Kinh thì nếu mà trở về với những cái biến cố mà chúng ta thấy trong Cựu Ước có, đó là năm thánh.
Năm THÁNH là cái chữ mà gói gọn “vui lên”. Vui lên bởi vì năm thánh là năm của ơn toàn xá, là năm của niềm vui .
Và trong năm đó thì chúng ta thấy: Người nào nghèo mà đi bán đất cho người khác thì được trở về với cái miếng đất ngày xưa của mình, và những người đi làm nô lệ thì được giải thoát và được trả tự do. Và trong năm Thánh người nào mà bị mắc nợ thì được xóa sạch.
Thì rõ ràng chúng ta thấy rằng là năm thánh là năm của niềm vui lắm!
Và rồi, nhiều khi trong cuộc đời của chúng ta, giáo xứ của chúng ta, họ đạo của chúng ta, mừng năm thánh; chúng ta không có cảm thấy cái niềm vui, bởi vì cuộc sống của chúng ta vẫn còn đó những khó khăn. Mình nợ ngân hàng thì mình vẫn phải trả cho ngân hàng. Mình nợ người này người kia, mình phải trả lại cho người này người kia.
Và rồi, để làm sao mình có cái cảm nghiệm được cái niềm vui, niềm vui trong Chúa, niềm vui có Chúa, niềm vui cùng Chúa?
Thì chúng ta trở về với cái anh chàng phong cùi trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy, tại sao anh ta vui? Vui, bởi vì anh ta quá đau khổ ! Trong chớp mắt thôi! anh ta có kinh nghiệm về sự giải thoát của Chúa Giêsu cho anh ta khỏi bệnh tật. Thật sự ra mà nói thì , chúng ta chưa có cái cảm nghiệm được cái niềm vui của Thiên Chúa dành cho mình. Chúng ta chưa có kinh nghiệm được giải thoát!
Và rồi, chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên là tại sao mà Chúa lại dặn anh ta đừng có đi nói cho người khác về việc Chúa làm cho anh ta. Bởi vì đó là bí mật Đấng Messia, Chúa Giêsu không muốn anh ta đi loan báo cho mọi người rằng là: Chúa đã chữa lành cho anh ta. Bởi vì Chúa Giêsu sợ nếu mà anh ta đi loan báo việc Ngài đến chữa lành cho anh ta. Thì không khéo người ta nhìn Chúa Giêsu như một thầy lang, như là một người bác sĩ có tài chữa lành bệnh tật thôi!
Nhưng mà, sứ mạng của Chúa Giêsu thì không phải là như thế! Cái sứ mạng mà chúng ta thấy đâu đó! Chúa Giêsu chữa lành trong kinh thánh đó chỉ là mang dấu chỉ để mời người ta nhìn đến một cái ơn giải thoát sâu xa hơn. Ơn giải thoát đó, chúng ta phải nhìn vào thực tế và trong hoàn cảnh của người Phong cùi chúng ta sẽ thấy rõ.
Ở bài đọc thứ nhất, mô tả về người Phong cùi thời đó, cũng như bây giờ. Người nào mà bị phong cùi thì bị ở riêng một nơi .
Người nào bị phong cùi thì đầu tóc để rối, đi đâu cũng la lên rằng là "cùi đây, cùi đây"! để người ta biết mà tránh. Nếu mà không tránh thì bị lây.
Và chúng ta thấy, sống trong hoàn cảnh như thế thì người phong cùi không chỉ đau về nỗi đau thể xác mà còn là mang một cái nỗi đau tâm lý. Một cái nỗi đau của con người sống bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã hội nữa.
Và đặc biệt với xã hội người Do Thái là xã hội tôn giáo thì người ta lại quan niệm rằng: những người bị phạm tội là Chúa phạt như thế!
Đã nghèo, đã bệnh tật mà còn mang trong mình cái mặt cảm bị Thiên Chúa trừng phạt..Và đau đớn nhất là, không được vào trong Hội đường để mà thờ phượng Chúa nữa, đau khổ lắm!
Và rồi chúng ta thấy, sau khi được chữa lành, thì anh ta trở về với cộng đoàn và bệnh phong coi như là bị loại trừ khỏi anh. Anh ta cảm thấy cô đơn, đau khổ lắm nhưng mà rồi được trở về hòa nhập lại với cộng đoàn. Đó là một niềm vui!
Và chúng ta phải ở trong cái trạng thái của anh ta, khi mà mình được giải thoát khỏi nỗi cô đơn và mình được hội nhập cộng đoàn, với mọi người thì lúc đó mình mới cảm thấy niềm vui.
Ngày hôm nay, chúng ta thấy, chúng ta đang sống giữa một cái xã hội mà truyền thông phát triển: điện thoại, internet. Và chúng ta thấy: tưởng chừng con người đến với nhau nhiều hơn, nhưng mà thật sự ra con người cô đơn.
Nhiều lần, nhiều lúc đi ra quán cà phê chúng ta thấy: cả gia đình ngồi với nhau đó, nhưng mà mỗi người một cái điện thoại, mỗi người một cái iPhone, mỗi người một cái iPad để rồi không ai nhìn đến ai cả, và ai cũng làm việc riêng của mình, dẫu rằng người ta ngồi chung với nhau.
Chúng ta thấy, chính trong cái sự phát triển đó! mà con người không còn hiệp thông với nhau. Và đặc biệt chính vì cái sự hiệp thông đó của con người bị cắt đứt, thì con người cũng bị cắt đứt khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, người ta đến với Chúa: ầu ơ ví dầu, trong các thánh lễ, đến cho xong, đến cho hết rồi đi về. Không còn một cái tương quan nào với Thiên Chúa nữa.
Và rồi tất cả những điều đó đã làm nên cái tội lỗi nơi con người. Con người không còn tin nhận Thiên Chúa nữa.
Chính trong cái đam mê tội lỗi của mình, đam mê đã giam hãm con người ta, cắt đứt khỏi tương quan với Thiên Chúa và con người, và người ta loại trừ THIÊN Chúa ra khỏi người ta.
Đức Piô thứ 12 bảo: Tội con người ngày hôm nay đó là gì? Là tội mà con người đánh mất về cảm thức về tội lỗi.
Thì rõ ràng rằng là, ngày hôm nay giữa một cái xã hội mà chúng ta thấy, lương tâm người ta không còn bị cắn rứt nữa bởi tội lỗi, và người ta không cần đến Thiên Chúa nữa. Người ta sống trong một cái xã hội vô thần một cái quan niệm vô thần người ta không cần THIÊN CHÚA nữa!
Thì khi đó người ta đâu có cần đến để mà cầu xin Chúa chữa lành, như cái anh chàng phong cùi ngày hôm nay. Khi nào, người ta cảm thấy mình bị tội lỗi, mình bị cô đơn, mình bị đau khổ, thì lúc đó mình mới cần được giải thoát như anh chàng phong cùi.
Và chúng ta thấy anh chàng phong cùi ngày hôm nay, rất là dễ thương! Anh ta quỳ gối xuống và tha thiết xin: Lạy thầy, nếu thầy muốn thì xin cho con được khỏi bệnh. Nếu thầy muốn, nghĩa là thầy làm được ! Thầy muốn thì con sạch thôi! Và anh ta diễn tả niềm tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu.
Và đôi khi chúng ta thấy, chúng ta có niềm tin đấy! Nhưng mà niềm tin ấy chưa đủ mạnh, bởi vì chúng ta vẫn chạy theo tà thần. Chúng ta vẫn chạy theo thần này thần kia, để chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời và chúng ta không còn cảm thấy ơn CHÚA cứu độ là cái ơn cần cho cuộc đời của chúng ta nữa.
Và khuôn mặt của người phong cùi ngày hôm nay, chính là khuôn mặt của mỗi người chúng ta. Liệu rằng chúng ta có khám phá ra trong cái khuôn mặt của anh cùi là khuôn mặt của mỗi người chúng ta hay không? Khi chúng ta mang trong mình tội lỗi, yếu đuối, nhưng mà điều quan trọng rằng chúng ta có chạy đến với Chúa hay không?
Cuộc đời này chúng ta vẫn chạy theo những niềm vui. Niềm vui bên ngoài, rồi cuối cùng cũng được lấp đầy, nhưng mà rồi cuối cùng cũng thiếu thốn.
Và chúng ta cứ loay hoay mãi trong cái niềm vui của trần gian, chứ không phải là cái niềm vui mà Thiên Chúa ban tặng.
Niềm vui mà Thiên Chúa ban tặng là niềm vui sâu xa trong tâm hồn. Niềm vui đó chúng ta cần phải đi khám phá trong tĩnh lặng, trong gắn bó mật thiết với Chúa và đặc biệt trong niềm tin với Chúa. Như anh chàng phong cùi ngày hôm nay. Anh ta đã đủ mạnh niềm tin để anh ta quỳ xuống và Xin Chúa chữa lành.
Liệu rằng: chúng ta có can đảm, để chúng ta quỳ xuống với Chúa, xin Chúa chữa lành cho chúng ta như anh ta hay không?
Khi nào niềm tin của chúng ta đủ mạnh thì khi ấy Chúa có thể đến, và ở lại với chúng ta và chữa lành cho chúng ta. Còn khi niềm tin của chúng ta nó cứ hời hợt thì Chúa làm sao có thể đến với chúng ta. Nay chúng ta chạy đến chỗ này, mai chúng ta chạy đến chỗ kia! để chúng ta tìm được cái niềm vui, tìm được cái sự giải thoát. Nhưng mà thật sự ra, tất cả những cái đó chỉ là bên ngoài chỉ là niềm vui của tạm bợ không phải là niềm vui đến từ Chúa.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta bắt chước như anh chàng phong cùi của ngày hôm nay:
Để xin Chúa chữa lành cho chúng ta.
Để chúng ta thoát khỏi những bệnh tật của thể xác, của tâm hồn.
Để chúng ta đến gần Chúa hơn, và chúng ta sống mật thiết với Chúa hơn như anh cùi ngày hôm nay. Amen.
09/02 Chúa Giêsu và người điếc
- Viết bởi Mc 7, 31-37
Chúa Giêsu và người điếc.
Thứ Sáu tuần 5 thường niên.
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Lời Chúa: Mc 7, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nói được rõ ràng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,
ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta,
và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.
Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,
khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.
Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.
Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh,
và sợi dây đó được tháo cởi.
Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình,
đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình
khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm
vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:
kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ...
Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.
Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Epphatha, xin hãy mở miệng con
để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,
hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,
thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.
Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình
mà máy đột nhiên mất tiếng.
Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,
nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,
nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.
Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,
hay lắm khi nghe điều người khác nói
nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ.
Cần lắng nghe bằng cả trái tim.
Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,
hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Epphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,
ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,
để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,
vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.
Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,
chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,
để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,
đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đày.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm,
đem an hòa cho những ai bất thuận,
đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
đem ủi an cho người đang sầu khổ,
đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời. Amen. (NCĐ)
Suy Niệm 2: Mở và đóng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người có tương giao. Nhưng không phải tương giao nào cũng tốt. Vì thế tâm hồn cần có cánh cửa để đóng mở hợp lý. Mở ra với những tương giao tốt đẹp làm phong phú bản thân. Đóng lại với những tương giao nguy hiểm để bảo toàn tâm hồn.
Bà E-và không đóng mở hợp lý. Bà mở ra với loài rắn độc nguy hiểm. Bà lắng nghe những lời phỉnh nịnh đường mật. Bà mở sang thế giới tội lỗi. Nên thấy mình thật xấu xa. Khi mở sang thế giới ma quỉ, bà đóng lại tương giao với Thiên Chúa. Đóng lại cánh cửa ân phúc. Cắt đứt mối tình cha con. Và trốn tránh Thiên Chúa. Trốn tránh cả tha nhân bằng che phủ mình đi. Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa bà tự do và thành thực. Đến với Chúa và tha nhân làm phong phú và tươi đẹp nên không cần che giấu. Nhưng khi đóng chặt tâm hồn bà chìm trong tội lỗi. Thấy mình thật nghèo nàn nhơ uế. Không dám gặp gỡ. Trốn trong bụi rậm. Không còn chân thực. Nên phải che giấu (năm lẻ).
Đó cũng là trường hợp của Sa-lo-mon.Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa và toàn dân ông càng thêm phong phú. Nhưng khi đóng lại với Thiên Chúa ông trở nên nghèo nàn. Càng chiếm hữu thêm dục vọng và tà thần càng thấy trống rỗng, nghèo túng và khô cằn. Ông giống như manh áo rách. Ông đánh mất đất nước. Đánh mất dân chúng (năm chẵn).
Chúa Giê-su đến mở ra cánh cửa tâm hồn. E-pha-ta. Chúa đóng kín cánh cửa xấu xa. Giam kín ma quỉ và dục vọng. Để con người mở ra tiếp xúc với Thiên Chúa và tha nhân. Để lắng nghe và trao đổi. Để làm cho tâm hồn phong phú. Tương giao với Thiên Chúa là tương giao thân tình và quan tâm chăm sóc. Hãy chiêm ngắm Chúa “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Thật là thân tình. Thật là quan tâm chăm sóc. Cảnh tượng này gợi nhớ đến thuở tạo dựng Thiên Chúa nặn nên con người, thổi hơi vào lỗ mũi, ban sự sống cho con người. Hôm nay Chúa Giê-su ban sự sống mới. Sự sống trong tương giao. Con người mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa và đồng loại. Để cho đi và lãnh nhận trong một trao đổi phong phú. Để dứt khoát với thái độ đóng kín vào bản thân đầy nghèo nàn, tù túng và tàn lụi. Để mở ra trong một đời sống mới phong phú, tự do và triển nở.
Suy Niệm 3: Hãy mở ra
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.
Suy Niệm 4: Với một chút nước miếng
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh ta. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. (Mc. 7, 32-33)
Các thánh sử thích những phép lạ chữa lành những người câm và điếc; ta đếm được ít nhất sáu câu chuyện được kể lại tỉ mỉ và Chúa Giêsu thì coi những phép lạ ấy như những dấu chỉ về Đấng Thiên sai đã được các ngôn sứ loan báo. Dầu sao đó cũng là những phép lạ nhỏ khi so sánh với những phép lạ về phục sinh và hóa bánh ra nhiều.
Maccô dùng lại chủ đề của Cựu ước vốn coi tật câm, điếc và sự thiếu lòng tin như có liên hệ với nhau. Ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu than phiền về điều người ta có tai mà không nghe. Việc mở tai và tháo cởi cho lưỡi như thế không chỉ đơn thuần là việc chữa khỏi, mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, nếu không các thánh sử đã chẳng gán cho một tầm quan trọng như thế trong các sách Phúc âm.
Trình thuật của Maccô hình như bắt nguồn từ nghi thức đầu tiên trong nghi lễ thọ giáo trong đó có việc đặt tay lên mặt, mũi, tai. Theo quan niệm của Kinh thánh, nước miếng được coi như hơi thở đã đông đặc lại nên có đặc tính ám chỉ ơn ban của Thần Khí thực hiện ơn tái tạo trong con người. Tác giả còn giữ tiếng “Eppheta” vì trong phụng vụ phép rửa lúc buổi đầu người ta đã giữ lại lời này.
Nên nhớ rằng ông Mô-sê có tật nói ngọng và Thiên Chúa đã chữa ông khỏi tật và nói: “Giờ đây, ngươi hãy ra đi, Ta ở với môi miệng ngươi và sẽ dạy cho ngươi biết phải nói gì” (Xh. 4, 10-12). Ngôn sứ I-sai-a kể lại việc Chúa kêu gọi ông như sau: “Một trong những thiên thần Xê-ra-phim bay đến với tôi, tay cầm một cục than hồng… cham vào miệng tôi và nói: khi cục than hồng này đã chạm tới môi ngươi, thì lỗi của ngươi được cất khỏi” (Is. 6,6). Giê-rê-mi-a trỏ thành ngôn sứ khi “Thiên Chúa giơ tay ra chạm vào miệng tôi và nói: đây Ta đặt lời Ta trong miệng ngươi.”
Người ta dùng những lối nói như trên để ám chỉ rằng người ngôn sứ không thể tự mình nói Lời-Cứu-độ được, rằng ông phải loan truyền điều ông nhận được từ AI đó.
Nếu Chúa không mở tai tôi, không tháo cởi cho lưỡi tôi, tôi sẽ không biết nghe, lại càng không biết loan báo Lời Chúa. Khi tôi trưởng thành, người ta đưa tôi đi chịu phép rửa tội, lúc ấy vú bõ tôi như đưa đến một người điếc và không có thể nói được; người ta đã xin linh mục nhân danh Chúa đặt tay trên người ấy.Phép lạ chữa người điếc và câm đã được lặp lại và một ngôn sứ khác đã gia nhập Giáo hội vậy.
Suy Niệm 5: Hãy biết nhạy bén với những dấu chỉ
Ngày nay, người ta nói nhiều về sự vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Họ đưa ra rất nhiều lý do để giải thích cho sự dửng dưng và vô cảm đang trở thành phổ quát trong xã hội hôm nay.
Nguyên nhân mấu chốt, căn bản có lẽ chính là thiếu sự nhạy bén!
Thật vậy, nếu người ta có một chút nhạy bén thì hẳn họ đã không hờ hững khi thấy một người phải đói lả trong khi mình lại quá dư thừa; hay thiếu trách nhiệm khi xả rác cách bừa bãi trong khi hằng đêm vẫn có những người phải thức trắng để dọn dẹp đường phố; hoặc vô tâm đến mất nhân tính khi cướp đi từng gói mỳ tôm, từng nắm gạo của những người vô gia cư, nghèo khổ, đói khát đang thoi thóp mong chờ chút lương thực cho ấm lòng...! Tệ hơn nữa, đó là nhiều khi chúng ta lại phủi tay đến lạnh lùng trước tấm lòng của những người làm việc tốt, để rồi tung ra những lời nói không thật gây nên một sự hoang mang làm cho người ta bị khổ tâm!
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu ra tay cứu chữa cho một người điếc và nói ngọng được nghe và nói rõ ràng. Đây là niềm vui mừng của người bị bệnh và cũng là niềm vui của những người đã dẫn anh ta đến gặp Đức Giêsu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc lui lại các chương trước thì chúng ta sẽ thấy rõ giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu luôn có sự đối kháng, và họ luôn cho rằng: Đức Giêsu lấy quyền của tướng Quỷ mà trừ Quỷ. Như vậy, họ không hề có chút nhạy bén với điều thiện, mà ngược lại, họ luôn lạnh lùng, vô cảm và vô tâm trước những nghĩa cử tốt lành của Đức Giêsu.
Lối sống và cái nhìn của những người Pharisêu khi xưa có thể cũng chính là quan điểm và lựa chọn của chúng ta! Nhiều khi vì thành kiến cá nhân, mà chúng ta không thể thấy được điều tốt nơi anh chị em mình. Lòng ích kỷ nơi bản thân nó đã làm cho lương tâm bị che khuất, sự thật bị bóp méo, vì thế, hậu quả chính là sự chia rẽ, bất công và không thể nhận ra chân lý.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tâm tình như đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là luôn biết ca ngợi và chúc tụng những điều tốt đẹp Chúa đã làm chung quanh và cho bản thân chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đức Kitô là thầy thuốc tuyệt hảo
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Bị khuyết tật về thể lý đã là một đau khổ, nhưng bị khuyết tật về tâm linh lại càng đau khổ hơn. Chỉ có Đức Kitô là thầy thuốc tuyệt hảo sẽ chữa lành mọi khuyết tật thể xác và tâm linh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người bị bệnh câm điếc giao tiếp rất vất vả, khó khăn. Họ chỉ có thể nói và nghe bằng dấu hiệu bàn tay. Còn con, con cám ơn Chúa vì được diễm phúc vẫn là người lành lặn về thể xác. Nhưng lạy Chúa, rất nhiều lúc con lại câm điếc về cuộc sống thiêng liêng. Vâng, con câm điếc vì chẳng nghe Chúa nói và cũng chẳng biết nói Chúa nghe. Vì mải mê lạc thú trần gian và đi tìm vui chơi giải trí, con chẳng còn giờ đến với Chúa. Tiền bạc danh vọng chi phối con, nên con không còn thiết tha với việc cầu nguyện. Con hững hờ trước việc đọc kinh, các buổi phụng vụ, con dửng dưng với bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.
Còn đối với những người chung quanh, nhiều lúc con cũng trở thành một kẻ câm điếc. Bên cạnh con, biết bao người đang cần đến con: cần một nụ cười, một lời thăm hỏi, hay một sự giúp đỡ nào đó. Thế mà vì ích kỷ khép kín, con đã bịt tai ngậm miệng. Con chỉ nghĩ đến con, chỉ lo cho gia đình con.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con đến với Chúa, xin cứu chữa con khỏi căn bệnh trầm trọng đó. Xin Chúa mở tai con, để con lắng nghe tiếng Chúa, để con nghe được những nhu cầu của tha nhân. Xin cho con biết thương xót, biết lo lắng cho những ai ở gần con. Xin cho con biết sống yêu thương.
Xin Chúa dạy con biết lặng thinh khi không nên nói, và xin dạy con biết nói khi không được im lặng. Amen.
Ghi nhớ: ”Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Suy Niệm 7: Ephata – Hãy mở ra
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời: “Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc”.
Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gửi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!”...
Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen Keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khóa chặt lại: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản... (Câu chuyện theo Br. Thiện Mỹ, CMC).
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng nước miếng để mở môi miệng, tai anh câm điếc, chúng ta cũng thấy cùng một cử chỉ khi Đức Giêsu chữa người mù ở Bétsaiđa trong Tin Mừng Marcô (x. Mc 8,23) và làm cho người mù từ mới sinh được sáng mắt trong Tin Mừng Gioan (x. Ga 9,6). Tác giả J.Potin nghiên cứu môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm với nước miếng là: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức Giêsu Lịch sử đích thực, Centurion, tr.172). Ngài dùng các phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa.
Thánh Bède le Vénérable nhìn cử chỉ của Chúa Giêsu làm cho anh chàng câm điếc đã xác tín: “Trong phép lạ này tỏ hiện hai bản tính trong Chúa Giêsu, đó là bản tính con người – Người ngước nhìn lên trời, Người xao xuyến, cầu nguyện. Tiếp theo lời quyền năng Thiên Chúa (Ephata - Hãy mở ra) và Ngài thực hiện cuộc chữa lành” (Theo Commentaire de l’évangile selon saint Marc).
Cuộc sống của chúng ta không chỉ điếc, mù, ngọng, câm về thể lý, như chúng ta thường thấy nơi các anh em khuyết tật với tất cả sự xót thương dành cho họ. Tuy nhiên, nơi con người nói chung tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, trải qua đường đời bao nhiêu sóng gió, nghịch cảnh, khiến sự thất vọng rơi vào cõi lòng của con người, khiến cho họ tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt. Đó là tình trạng câm, mù khi con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa gợi mở và làm cho tương lai của con người. Còn nữa, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Thật thế, cuộc sống của chúng ta, như Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”. Hôm nay trước Ngài, chúng ta phải xin được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm nước Trời.
Ephata – Hãy mở ra:
Xin hãy mở miệng con, để con ca ngợi tình thương của Ngài, để con biết hỏi đường với Chúa và với anh em hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ, để con có thể hồn nhiên vén mở khám phá ra thế giới của mình, để con nhìn thấy tương lai, ơn gọi mà Chúa đã dành cho chúng con.
Xin mở mắt con để con biết nhìn kỳ công của Ngài, để con biết rằng Ngài đã thương con, mở mắt con để con biết nhìn vào tương lai với tâm tình xác tín Chúa dẫn con đi.
Xin mở tai con để con nghe lời Ngài - lời sự sống dẫn con đi trên khắp nẻo đường cuộc sống. Mở tai lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng con thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3,10).
Như anh chàng câm điếc được Đức Kitô đến và chữa lành, chúng ta cũng được Ngài đang đến bên cạnh, mời gọi tin và giơ tay chạm đến mỗi người: Ephata - hãy mở ra. Ngài khai thông mọi ngăn cách, cản ngăn vốn làm cho chúng ta ù tai, đau nhức để lắng nghe học hỏi thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Ngài mở môi, miệng lưỡi để chúng ta cất lời và tìm lại đời sống cầu nguyện, gắn bó thân tình với Thiên Chúa trong hành trình tiến vào tương lai... Chính lúc đó, tương lai của chúng ta đang mở ra, dù phải đối diện với bao nghịch cảnh, bao khốn khổ.
Ý lực sống: “Bấy giờ mắt kẻ mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm sẽ reo hò niềm vui. Nước sẽ phun lên trong sa mạc, khe suối tuôn chảy giữa vùng đất hoang vu… đất khô cằn có mạch nước trào ra” (Is 35,6-7a).
Suy Niệm 8: Chúa chữa người câm và điếc
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Chúa Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
3. Tâm lý người bị câm điếc.
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt một lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm, không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
3. Chúa Giêsu chữa người câm điếc.
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra.
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh ta mong đợi.
4. Bệnh câm điếc thiêng liêng.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
5. Tránh sự dửng dưng trong đời sống.
Trong truyện ngắn Máu Cá (tức máu lạnh), nhà văn Nguyễn Minh Châu kể chuyện một bà mẹ trẻ mất con ở ga Hàng Cỏ, kêu la thảm thiết, nhưng chẳng ai đoái hoài. Nhà văn xin một công an trực rao trên loa, người này cũng chẳng nói chẳng rằng. Cả ngàn người trên ga Hàng Cỏ như điếc, như câm trước nỗi khổ của người mẹ quẫn trí vì mất con! Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu không dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài đã chữa lành cho người câm điếc. Lời tán dương của đám đông gợi nhớ lại lời kết luận của sách Sáng thế về công trình sáng tạo (St 1,31). Chúa Giêsu đến để phục hồi sự tốt đẹp của công trình sáng tạo: một thế giới trong đó mọi người tin nhận và sống tư thế con thảo của Cha trên trời, nhìn vào mặt người khác và nhận ra họ là anh em, chị em mình (5 phút Lời Chúa).
6. Hãy biết lắng nghe và chia sẻ.
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
7.Truyện: Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
Suy Niệm 9: Ép-pha-ta – hãy mở ra
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Phép lạ này có nhiều ý nghĩa biểu tượng:
- Diễn ra “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất lương dân.
- Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được.
- Lúc chữa bệnh, Chúa Giêsu nói: Epphata (Hãy mở ra), tiếng nầy ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhằm giúp con người được sống sung mãn cương vị làm người của mình, trong đó khả năng tương giao rất quan trọng.
Có những người vì một lý do nào đó nên không “nói” lên được nỗi lòng của mình, và cũng không “nghe” được nỗi lòng của người khác. Có lẽ vì không có người tế nhị biết lắng nghe họ và không khéo léo khuyến khích họ nói.
2. ”Có mắt miệng không nhìn không nói; có mũi tai không ngửi không nghe” (Tv 115,5-6). Lời Thánh Vịnh này ám chỉ dân ngoại và những tượng thần của họ, không thấy những kỳ công của Thiên Chúa và không biết ngợi khen Ngài. Nhưng cũng đúng cho tôi nữa, vì nhiều khi tôi cũng như câm điếc đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán với miệng và tai con: Epphata.
3. Căn bệnh của anh này làm tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau.
4. ”Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Epphata”, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức, tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại” (Mc 7,34)
Khi sắm một bộ đồ mới, tôi không biết rằng có nhiều người đang mong bộ đồ cũ của tôi. Khi ngồi uống nước ngoài quán, tôi chẳng ngờ rằng có những người đang chờ tôi đứng lên để họ vét những giọt cuối cùng. Khi đổ thức ăn thừa vào thùng rác, tôi không biết là ngay lúc đó có biết bao con người đang chết dần vì đói.
Lạy Cha, xin hãy mở mắt con để con nhìn thấy những người khốn cùng trong xã hội. Xin hãy mở tay con để con đón nhận họ và nắm lấy tay mọi người (Epphata).
Suy Niệm 10: Ép-pha-ta
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Có hai điều đáng cho chúng ta để ý suy nghĩ trong bài Tin Mừng hôm nay.
1. Trước hết là vấn đề biết ngạc nhiên trong cuộc sống
Tin Mừng ghi lại thái độ của dân chúng khi thấy Chúa làm phép lạ cho người câm điếc được khỏi như thế này: “Họ hết sức kinh ngạc” (Mc 7, 37).
Vâng! Biết kinh ngạc hay ngạc nhiên trong cuộc sống là dấu chỉ của một con người có đời sống nội tâm tốt. Họ sống với một tâm hồn phong phú.
Trước phép lạ Chúa Giêsu làm, dân chúng hết sức ngạc nhiên còn người Pharisêu và các luật sĩ chẳng những không biết ngạc nhiên, mà lại còn tìm cách chế giễu Chúa. Họ cho là Chúa đã lấy quyền quỷ vương mà trừ quỷ con.
Sự độc ác trong tâm hồn đã đánh mất sự nhạy bén về những gì tốt lành chung quanh họ.
Tâm hồn họ đã bị vẩn đục không còn trong trắng như tâm hồn của một đứa trẻ. Chúng ta thấy một bé có tâm hồn trong trắng là một con người luôn biết ngạc nhiên với những gì xảy ra chung quanh cuộc sống. Bé luôn hỏi mẹ: Tại sao thế? Tại sao con chó lại sủa? Vì nó giữ nhà. Tại sao con mèo lại kêu meo meo? Vì nó muốn làm cho con chuột sợ. Tại sao con chuột lại sợ con mèo? Và đủ thứ tại sao, nhiều khi làm cho bà mẹ phải lúng túng trước sự ngạc nhiên vì những câu hỏi của bé: hỏi gì mà hỏi lắm thế!
Biết ngạc nhiên là một phẩm chất của tâm hồn đơn sơ và Chúa rất thích những tâm hồn đơn sơ. “Nước Trời chỉ định cho những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ nhỏ” (Lc 18, 17).
2. Sau thái độ ngạc nhiên, dân chúng còn đưa ra một nhận xét rất đẹp về cuộc sống của Chúa Giêsu: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7, 37).
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”. Một nhận xét tự phát, một nhận xét về cuộc sống của Chúa thật chân thành không khách sáo.
Chúa làm việc gì cũng tốt đẹp cả. Lý do vì tất cả những gì Chúa làm, việc nào cũng mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Ngoại trừ những người chống lại Chúa vì sợ quyền lợi của mình bị thiệt thòi còn tất cả những ai có lòng chân thành tìm đến với Chúa đều cảm thấy Chúa thật tốt lành: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7, 37).
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có được người ta nhận xét về chúng ta giống như ngày xưa người ta đã nhận xét về Chúa không? Hãy cẩn thận với những gì chúng ta làm cho người khác hôm nay. Đây là những vần thơ tôi đọc được từ Internet.
Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin.
Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt được thân thiện.
Nếu bạn gieo khiêm tốn, bạn sẽ gặt cao thượng.
Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt chiến thắng.
Nếu bạn gieo cân nhắc, bạn sẽ gặt hòa thuận.
Nếu bạn gieo chân chỉ, bạn sẽ gặt thành công.
Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hòa giải.
Nếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật.
Nếu bạn gieo chịu đựng bạn sẽ gặt cộng tác.
Nếu bạn gieo niềm tin bạn sẽ gặt phép mầu.
Nhưng
Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực.
Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn.
Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt hủy diệt.
Nếu bạn gieo đố kỵ, bạn sẽ gặt phiền muộn.
Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt mụ mẫm.
Nếu bạn gieo cay đắng, bạn sẽ gặt cô lập.
Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tổn hại.
Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù.
Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu lo.
Nếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi.
Vì vậy hãy cẩn thận với những gì bạn gieo hôm nay, nó sẽ quyết định những gì bạn gặt vào ngày mai.
Thánh Pacôme, khi còn ngoại đạo, đã tự hiến mình trong đạo binh của hoàng gia. Một ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài gặp phải hoàn cảnh cực kỳ đói khát sau khi phải đi bộ qua sa mạc dưới cái nắng chết người. Khi ngài và các binh sĩ vào thành Thèbes ở Ai Cập thì có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn và uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình. Pacôme rất ngạc nhiên trước những sự chăm sóc bất ngờ và bất thường này. Pacôme cho tra hỏi xem những người tốt lành này là ai? Thì người ta trả lời Ngài: “Đó là những người Kitô hữu”.
Ngài bèn la lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến được từ vị Chúa chân thật!”
Sau biến cố này, Pacôme đã giã từ binh nghiệp và trở lại đạo Công giáo. Ngài trở thành một vị sáng lập các đan viện vĩ đại và một vị thánh lừng danh.
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
đừng khép lại trên chính mình,
nhưng quảng đại như Chúa.
Xin cho con biết vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
và mọi trả thù ti tiện.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. (Rabboni).
Suy Niệm 11: Ép-pha-ta, thổn thức vì yêu
(Lm. Phêrô Trần Lê Thành Nhân)
Trong tương quan giữa người với người hoặc giữa con người với Thiên Chúa, có những lúc vì quá yêu thương khi phải thấy người mình yêu đau khổ mà chẳng thể nói lên lời. Đó là kinh nghiệm mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Dưới sự soi sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng dành một chút khoảng lặng trong tâm hồn để cảm nhận tình yêu của Chúa dành cho mỗi người, qua đó giúp chúng ta sống sao cho đẹp lòng Chúa và ngày càng mến thương nhau hơn.
Các trình thuật của bốn thánh sử Tin mừng vẫn thường kể lại rất nhiều trường hợp Chúa Giêsu chữa bệnh cho con người. Tuy nhiên, nét đặc biệt trong Tin mừng hôm nay được thánh sử Mac-cô ghi lại thì không nhiều:“Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng” (Mc 7,32-35). Điều đáng lưu ý là sau một loạt các tác động: đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi, ngước mắt lên trời thì Chúa Giêsu còn “thở dài”. Tiếng thở dài này không phải là sự chán chường khi phải chữa bệnh vì chúng ta biết sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến thế gian là để cứu chữa và giải thoát con người khỏi tội và những hậu quả của nó. Đối với người Do Thái, sự câm điếc thể lý còn có thể được hiểu là sự câm điếc về đức tin khi họ là những người không nghe và không được biết mạc khải của Thiên Chúa. Trong khi đó, sứ mạng của Chúa Giêsu là “công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt” (Lc 4,18). Vậy, việc Chúa thở dài xem ra não lòng ấy thật ra là một lời cầu xin tha thiết với Chúa Cha khi chứng kiến cảnh con người đau khổ. Quả thế, trước đó, Chúa Giêsu đã “ngước mắt lên trời” (Mc 7,34), một thái độ diễn tả Người đang bước vào sự đối thoại đặc biệt với Chúa Cha. Ta có thể hình dung Chúa Giêsu đang than thở với Chúa Cha khi thấy con người vẫn cứ chìm ngập trong đau khổ. Thái độ ấy của Chúa Giêsu xuất phát từ một tấm lòng rung động trước sự khốn khó của con người, là đối tượng mà Thiên Chúa hết lòng yêu thương. Cảm xúc nghẹn ngào này của Chúa là kết quả của một tình yêu trọn vẹn giữa Con Thiên Chúa với nhân loại, là sự biểu lộ cho chính lời tự tình của Thiên Chúa với dân Người trong Cựu ước mà nay được bày tỏ qua Ngôi Lời nhập thể làm người: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,8). Trong Cựu ước, rồi đến Tân ước cũng như cho đến tận cùng thời gian, Thiên Chúa vẫn luôn thổn thức và nghẹn ngào vì yêu thương con người, cho dẫu biết bao lần con người sa ngã trong tội lỗi hay thậm chí là khước từ Chúa!
Thật vậy, đọc lại câu chuyện của bài đọc thứ nhất, nếu ta đặt lòng cách sâu xa và cùng đi vào trong dòng tư tưởng nói trên, ta sẽ cảm nhận được sự nghẹn ngào của Chúa khi phải chứng kiến tội lỗi của vua Salomon mà từ đó đưa đến kết cục là vương quốc bị phân chia khi Chúa nói với Gia-róp-am: “Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: “Đây, Ta sẽ phân chia vương quốc từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc. Vì Đavít tôi tớ Ta và vì thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc Israel, Ta sẽ dành cho Salomon một chi tộc” (1V 11,31b-32). Đọc rồi cảm để thấy nghẹn lòng bởi chắc chắn Thiên Chúa không vui gì khi phải nói như thế. Trước đó, Thiên Chúa đã nhiều lần nhắc nhở vua Salomon về những sai trái của ông, vậy mà ông này vẫn cứ chạy theo các thần ngoại, chai lì trong tội và chối bỏ Thiên Chúa. Nghe câu kết mà thấy xót xa cho một giao ước mà trong đó Thiên Chúa luôn thuỷ chung, còn con người thì hay bội tín: “Như thế, Israel lìa bỏ nhà Đavít cho đến ngày nay” (1V 12,19). Thật đau đớn biết chừng nào khi đã hết lòng khuyên lơn mà người mình yêu lại cứ trơ như đá và lì trong tội, nhất là Chúa chẳng vui gì khi thấy con người, vì xa rời Chúa, mà tiến dần đến đau khổ và bất hạnh. Thật ra, Chúa chẳng được gì khi con người đến hay không đến với Chúa, nghe hay không nghe Người chỉ dạy! Chỉ là đáng thương và đáng tiếc khi con người không chịu đến và không chịu nghe theo sự chỉ dạy của Chúa, là những sự hướng dẫn khôn ngoan và ân sủng để, như lời thánh Phaolô, con người nội tâm nơi chúng ta được vững vàng. Nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy, chúng ta sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa (x. Ep 3,16b-19). Vì yêu thương con người và muốn cho con người được hạnh phúc, Thiên Chúa đau buồn khi thấy con người đau khổ. Yêu thật nhiều mà cứ thấy người mình yêu phải khổ thì sao không nghẹn ngào cho nổi! Ai đã từng yêu chắc hẳn sẽ cảm nếm được phần nào cảm xúc nghẹn ngào này của Chúa!
Suy gẫm một chút về tiếng lòng yêu thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người và hằng ở cùng nhân loại, chúng ta được mời gọi trở về lòng mình để xét lại tương quan của mỗi người với Chúa và cách mà mỗi chúng ta đã sống với Người, Đấng yêu thương từng người chúng ta. Chúa vẫn chờ ta trong Bí tích Thánh Thể để ta rước Chúa vào lòng, để ta với Chúa được kết hợp nên một trong một tình yêu cao cả nhiệm mầu, để ta được Chúa làm cho nên thánh, làm cho đời sống tràn đầy sức mạnh mà trổ sinh hoa trái thánh thiện. Vậy, mỗi chúng ta đã đáp trả lại sự ước mong mãnh liệt này của Chúa mỗi ngày như thế nào? Nếu vì bận rộn công việc mưu sinh nên không thể dự lễ hằng ngày, vậy chúng ta có nhớ rước lễ thiêng liêng nhiều lần trong ngày để dù ở đâu hay làm gì, ta và Chúa vẫn không xa nhau? Trước mỗi chọn lựa trong ngày sống, Chúa ở bên ta cách đặc biệt qua sự hướng dẫn trong lương tâm để nhắc ta làm lành lánh dữ. Những lúc đó, ta có nhớ lời Chúa, có chịu nghe tiếng Chúa, có xin Chúa chỉ dạy hay thậm chí lại cố tình cho qua để làm mọi sự theo ý thích của bản năng xác thịt và những ham muốn đê hèn? Nghĩ lại những lúc chúng ta làm trái ý Chúa thì Chúa quả thật nghẹn ngào biết dường nào! Chúa vẫn nói và nói trong thinh lặng của tâm hồn; Chúa nói qua lời Chúa mà chúng ta nghe, học từ tấm bé và vẫn nghe khi chúng ta đọc lời Chúa hoặc tham dự thánh lễ; Chúa nói qua sự nhắc nhở của những người thân; Chúa nói qua các biến cố xảy ra trong cuộc đời, tỉ dụ như qua cái chết của Cha Giuse Trần Ngọc Thanh mà những ngày qua các trang mạng không ngừng đưa tin. Chúa vẫn không ngừng nói để nhắc con người xa tránh tội lỗi, để sống thánh thiện công chính mà tìm được hạnh phúc và nên người xây dựng hạnh phúc cho người khác! Chúa nói rất nhiều và Người vẫn cứ mãi nghẹn ngào để chờ đợi con người đáp lại tiếng Chúa mà sống sao cho tốt, sống sao cho xứng là con cái Chúa!
Tiếng nghẹn ngào của Chúa cũng nhắc mỗi chúng ta về sự nghẹn ngào của người thân yêu ngay trong gia đình của chúng ta. Thật vậy, chắc không thiếu những người cha và những người mẹ trong gia đình đang nghẹn ngào không thốt nên lời khi thấy những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu; khi phải sống lây lất cho qua ngày với những người con thờ ơ, lãnh đạm và coi thường cha mẹ già yếu; khi phải thấy cảnh những người con tranh giành, xâu xé của cải của cha mẹ ngay lúc các ngài còn đang sống; hoặc khi phải chứng kiến cảnh con cái trong nhà thờ ơ với đời sống đức tin và trách nhiệm giáo dục đức tin cho con cháu;…Họ đau lòng không thốt nên lời khi phải thấy những người mà mình hết mực yêu thương đang phải đau khổ vì một đời sống xa vắng Chúa và cứ thế dần tuột dốc trên đường đưa tới tội lỗi và sự huỷ diệt. Thêm vào đó, ở đâu đó và ngay lúc này, bao trái tim của người vợ cũng đang nghẹn ngào không thốt nên lời vì phải sống với những người chồng ích kỷ, gia trưởng hoặc thiếu trách nhiệm. Họ nghẹn ngào vì ước ao được chồng tôn trọng, được chồng sẻ chia những bận rộn của cuộc sống gia đình, được có một người chồng gương mẫu trong trách nhiệm làm chồng và làm cha. Từ đây, cũng không thiếu những người chồng đang nghẹn ngào vì ước mong có được sự chung thuỷ của người vợ, ước mong vợ hết lòng yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chồng, cho con và cho gia đình. Rồi cũng lại có vô số những người con đang nghẹn ngào không thốt nên lời khi thấy cha mẹ không quan tâm đến niềm vui nỗi buồn và cuộc sống của con, thậm chí còn thường xuyên cãi vã, lời qua tiếng lại với nhau khiến bầu khí gia đình trở nên nặng nề đến phát chán! Tất cả những người cha, người mẹ, người vợ, người chồng, người con ấy đều mong ước có được hạnh phúc êm ấm. Họ ước ao mỗi người biết tôn trọng, biết quan tâm, biết chu toàn trách nhiệm, biết hết lòng yêu thương và quý trọng nhau. Đó là cách mà mỗi người đang cùng nhau cất đi những gánh nặng cho người thân yêu để làm vơi đi sự nghẹn ngào thẳm sâu trong lòng hầu gia đình được ngập đầy bầu khí yêu thương!
Mong sao mỗi người chúng ta, qua việc suy gẫm lời Chúa hôm nay, cảm nghiệm cách sâu hơn, mạnh hơn và chắc chắn hơn về tình yêu của Chúa dành cho mỗi người cũng như tình yêu của người thân thuộc dành cho chúng ta. Tình yêu ấy không ồn ào, không xa hoa, không hình thức bề ngoài nhưng cứ âm thầm ngay bên với sự thổn thức nghẹn ngào liên lỉ dành cho người hết lòng được yêu thương!
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thổn thức vì yêu khi thấy chúng con đau khổ và xa vắng Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được nỗi lòng sâu thẳm của Chúa để biết trở về và làm mới lại tương quan với Chúa sao cho sâu sắc và bền chặt hơn. Xin cho chúng con cũng nhận biết và cảm nghiệm được nỗi lòng nghẹn ngào vì yêu của cha mẹ, của vợ chồng và của con cái để biết quan tâm, lo lắng tận tình và nỗ lực xây dựng gia đình với tất cả tình yêu và trách nhiệm hầu mang hạnh phúc đến cho nhau. Amen.
Thực hành: Dành vài phút trước khi đi ngủ để suy gẫm về tình yêu của Chúa trong suốt cả ngày sống sắp qua.
08/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Mc 7, 24-30
Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo.
Thứ Năm tuần 5 thường niên.
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Lời Chúa: Mc 7, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được.
Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó". Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi". Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những mảnh vụn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất Ítraen để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với dân Ítraen,
để rồi chính môn đệ ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
“Hãy để con cái ăn trước,
vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là chó con,
được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
“Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: An và loạn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
Suy Niệm 3: Ơn cứu độ đại đồng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
Suy Niệm 4: Thế giới tha nhân
Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra. Bà ta không phải là thành phần của dân giao ước, nhưng lòng tin của bà tiếp nối lòng tin của Áp-ra-ham. Bà ta đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã làm thay đổi hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà trở thành con cái của Chúa Cha. Nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha nhậm lời bà cầu xin. Thiên Chúa mở đường cho việc rao giảng tin mừng sau này.
Và để loan báo tin mừng này, chỉ cần yêu thương, trung thực cho đến cùng. Chỉ cần sống say mê nhiệt tình: khi người ta thực tâm thực tình để chỉ lo cho một chuyện, mọi chuyện khác đều thấy là tương đối thôi.
Qua bai Phúc âm hôm nay, Chúa muốn mở mắt mở lòng ta để hướng về thế giới những người ngoại. Họ là những con người biết thu lượm những mảnh vụn từ bàn ăn khi họ đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật, công bằng, khi họ lo lắng cho việc phục vụ những người nghèo, khi họ muốn dỡ đi những hàng rào ngăn cách do những đặc quyền đặc ân của ta đã dựng lên.
Cuộc sống của ta có loan báo điều mới lạ này không, một điều làm cho ta có được trái tim nhân lành, thực nhân lành, theo đúng nghĩa của lời “không có ai nhân lành cả trừ một mình Thiên Chúa”?
Suy Niệm 5: Niềm tin cần được tôi luyện qua thử thách
Trong đời sống đức tin của mỗi người, nhiều khi chúng ta phải mần mò đi trong đêm tối! Có những lúc tưởng chừng như Chúa đang bỏ rơi chúng ta! Có khi cuộc đời chúng ta đi vào ngõ cụt với biết bao thách đố mà chúng ta khó hòng vượt qua.
Tuy nhiên, khi chúng ta không còn biết cậy dựa vào ai, thì lúc đó Chúa có mặt và giải thoát chúng ta cách nhiệm mầu. Điều quan trọng là chúng ta có dám lỳ trong đức tin hay không mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sáng của người đàn bà dân ngoại. Một mẫu gương về niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Bà thừa biết mình là người dân ngoại, nên không thể có lý do gì để xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Thế nhưng, niềm tin và sự hy vọng đã làm cho bà vượt qua hàng rào ngăn cách đó, nên bà đã mạnh dạn đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà.
Quả thật, Đức Giêsu đã không chữa ngay, mà ngược lại, Ngài đã nói một câu rất nặng để thử thách đức tin của bà, Ngài nói: “Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà mà nén cho lũ chó con” (Mc 7,27). Người phụ nữ này đã không nản lòng, nhưng qua câu nói đó, bà lại càng khiêm tốn và đức tin mỗi lúc lại mãnh liệt hơn, bà thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”(Mc 7, 28).
Chính đức tin mãnh liệt như thế, nên phép lạ đã xảy ra. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và cứu thoát con gái bà khỏi Quỷ ám.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì, trung thành và vững tin nơi Chúa. Bởi lẽ đức tin chỉ có thể trưởng thành khi chúng ta trải qua đau khổ và được tôi luyện bằng nghịch cảnh. Nhờ thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời xứng đáng trở nên chứng nhân về niềm hy vọng cho con người hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kiên nhẫn, khiêm nhường trong đức tin vững mạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa”.
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đau khổ vì hằng ngày chứng kiến cảnh quỷ dữ hành hạ con gái bà. Bà đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi rồi nhưng con bà vẫn không khỏi...
Chúa Giêsu đang ở vùng đất Tyrô và Siđon, rất xa quê hương bà. Thế nhưng bà đã tìm đến gặp Ngài. Tuy nhiên có sự ngăn cách giữa bà và Chúa Giêsu vì Người là người Do Thái mà người Do Thái lại không tiếp xúc với dân ngoại như bà, dòng giống Syrôphênixi. Tuy nhiên bà đến và phục lạy Ngài. Phục lạy là thái độ chỉ dành cho thần minh, như vậy có nghĩa là bà đã tôn vinh Ngài là vị thần.
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Ý lực sống: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 24,13).
Suy Niệm 7: Chúa trừ quỉ ở miền Tyrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỉ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
- Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà” nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
2. Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
- Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
- Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
- Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
3. Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
4. Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel’(Mt 8,10).
5. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. ”Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy, còn chúng ta thì sao? Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên nhiên học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết: “Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá”.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần: “Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng thấy mình còn dốt”.
Truyện: Giữ vững lòng tin sắt đá.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
Suy Niệm 8: Đức tin của bà mẹ người Phênixi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu chữa con gái một phụ nữ Phênixi
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bà bằng những lời rất nặng "Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con".
- Nhưng lòng tin kiên trì của bà đã biến bà thành "con cái trong nhà" nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lòng bà xin.
B.... nẩy mầm.
1. "Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết" Chúa Giêsu không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành.
Nhưng hình như môn đệ Chúa ngày nay không theo cùng một đường lối đó thích phô trương những sự "vĩ đại" của Giáo Hội, của nhà thờ, của tổ chức Giáo Hội, mà quên đi điều cốt yếu hơn là gieo niềm tin vào lòng người.
2. Đức tin của người phụ nữ Phênixi này là nguyên do khiến bà được ơn Chúa. Ta hãy nhìn lại đức tin của bà
- một đức tin khiêm tốn chịu nhận làm "chó con"
- một đức tin kiên trì dù bị từ khước ban đầu nhưng vẫn không nản lòng.
- một đức tin phó thác Chúa Giêsu bảo bà "cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi". Dù chưa thấy hiệu quả nhưng vì tin Lời Chúa, bà ra về.
3. Chính nhờ Chúa Giêsu đã thử thách đức tin của bà này bằng những lời rất nặng, nên Ngài mới biết được đức tin của bà rất mạnh.
Cũng vậy, đức tin của ta có được thử thách thì mới chứng tỏ là một đức tin thật.
Xin cho con kiên trì chịu đựng những thử thách về đức tin.
3. Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi
- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp
- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)
4. - Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.
- Thưa Ngài đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.
- Vì bà đã nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi (Mc 7,27-29)
Trong cuộc đối thoại thú vị ấy, người phụ nữ ngoại đạo đã dành phần thắng con gái chị được khỏi bệnh; và Chúa Giêsu cũng được lợi giúp một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đúng là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía chị phụ nữ khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ; Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc.
Tôi chợt nghĩ đến những cuộc đối thoại hôm nay giữa các vị nguyên thủ quốc gia, giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em…
Lạy Chúa, xin cho loài người chúng con biết đối thoại để thế giới này hạnh phúc hơn. (Epphata)
Suy Niệm 9: Bà mẹ ngoại giáo vững tin
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu chữa bệnh cho người con gái của một phụ nữ Phênisi:
Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết” (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên văn học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết:
- Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần:
-Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại càng phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng tự thấy mình còn dốt.
Socrate đã nói rất có lý:
- Bậc hiểu biết cao nhất của con người là biết được rằng mình chưa biết gì cả.
Và Sénèque cũng đã viết:
- Đừng tưởng mình là khôn ngoan, mới là khôn.
Ở Hungary có câu châm ngôn rất đúng:
- Nếu anh thông minh, anh đừng khoe khoang.
Người ta thường nói: gà cục tác nhiều thì đẻ trứng ít.
Một hôm, Alcibiade khoe với Socrate là thầy dạy mình về những lãnh thổ mênh mông của ông chung quanh vùng Athènes. Socrate liền mở bản đồ ra hỏi:
- Hãy chỉ cho tôi biết Á Đông ở đâu?
Alcibiade chỉ đúng cái lục địa rộng lớn ấy.
- Đúng! bây giờ chỉ cho tôi biết Hy Lạp ở đâu?
Alcibiade vẫn chỉ đúng.
- Đâu là Péloponèse, Socrate vẫn hỏi.
Alcibiade cố gắng mãi mới tìm thấy cái chấm nhỏ trong bản đồ.
-Vịnh Attique ở đâu?
Alcibiade thấy vịnh Attique là một cái chấm nhỏ quá gần như không trông thấy, Socrate kết luận: - Đó, bây giờ hãy cho tôi biết phần đất rộng lớn của anh chỗ nào!
Alcibiade nhận ra lãnh thổ của mình không đáng một phần nhỏ nào trong bản đồ.
Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống của mỗi người đâu có gì đáng tự hào mà phải khoe khoang, phô trương.
2. Người đàn bà trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho chúng ta về vấn đề này. Đối với Chúa quả là bà ta chẳng là gì. Chúng ta hãy xem cách bà đối thoại với Chúa, chúng ta sẽ thấy điều đó:
Trước hết chúng ta thấy bà là một người rất khiêm tốn: chịu nhận làm “chó con”
Thứ đến bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng, lòng tin của bà không hề lay chuyển.
Và cuối cùng, bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi”(Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin Lời Chúa nên bà ra về.
Trong cuộc đối thoại thú vị này, người phụ nữ đã dành được phần thắng: con gái của bà đã được khỏi bệnh, và Chúa Giêsu cũng được lợi: vì đã giúp được một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đây quả là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía: Người đàn bà thì khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ, không có một chút phô trương tự mãn nào nơi người bà, còn Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc. Kết quả quá đẹp. Đẹp cả cho Chúa và đẹp cả cho người đàn bà.
Phần chúng ta không biết cho đến bao giờ chúng ta mới học được sự khiêm nhường của người đà bà này và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được sự hiền hòa như Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa được nghe.
Thánh nữ Syncletica nói: “Bảo tàng sẽ mất giá trị khi bị phơi bày, nhân đức khi phô trương cũng tan biến như vậy; sáp tan chảy lúc để gần lửa thế nào, thì linh hồn cũng bị hư hoại vì lời ca tụng và mất hết mọi thành quả lao nhọc của mình như vậy”.
Xem ra có vẻ rất khó, nhưng nếu chúng ta biết cậy dựa vào ơn của Chúa, tôi tưởng chúng ta có thể làm được.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Xin làm cho chúng con biết trở nên giống Chúa mỗi ngày. Amen.
Suy Niệm 10: Kiên trì trong lời khẩn cầu
(Lm. Gio-an Trần Văn Viện)
Trong bài phúc âm hôm nay, Thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta câu chuyện của một người đàn bà ngoại giáo đang khẩn xin Chúa Giê-su chữa cho con gái của bà đang bị quỷ ám. Đây là một lời khẩn cầu rất chính đáng của một người mẹ đang rất lo lắng, quan tâm đến người con gái nhỏ của mình. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su có vẻ làm chúng ta ngạc nhiên. Chúa đã thẳng thắn từ chối lời kêu xin của bà với những lời nói cứng rắn, khó nghe: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Qua lời này, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh sứ mạng của Người là đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en (x. Mt 15, 24).
Chắc chắn người đàn bà kia hiểu được ẩn ý trong câu nói của Chúa vì bà biết rằng người Do Thái thường dùng hình ảnh “con chó” để nói về người ngoại giáo (x. 1 Sam 17, 43), còn họ luôn tự hào rằng mình là con cái Thiên Chúa. Trước những lời lẽ có chút “sỉ nhục” đó, bà vẫn hạ mình chấp nhận nhưng bà không từ bỏ để tiếp tục khẩn cầu lên Chúa và đòi chút quyền lợi cho đứa con gái: “chó con” có quyền ăn những miếng bánh vụn của đám trẻ nhỏ rớt xuống từ trên bàn. Chính sự kiên trì trong lời khẩn cầu tới Chúa mà bà đã được Người đáp lời. Chúa Giê-su đã trục xuất quỷ khỏi người con gái của bà. Niềm tin mạnh mẽ của bà nơi Chúa mặc cho Ngài thử thách đã giúp bà đạt được ước nguyện của mình (x. Mt 15, 28).
Mỗi chúng ta thử đặt mình vào vị trí của người đàn bà ngoại giáo này để xem phản ứng của chúng ta ra sao sau khi nghe lời từ chối chữa lành của Chúa Giê-su. Có thể nhiều người chúng ta sẽ bỏ đi vì cảm thấy mình bị Chúa coi thường, không để tâm đến. Cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta cũng sống xa Chúa như những người dân ngoại nhưng khi gặp những nghịch cảnh, đau khổ, bệnh tật hay một nhu cầu cần thiết… chúng ta thường chạy ngay đến Chúa để xin Người ban ơn, cứu giúp. Có thể Chúa vẫn thinh lặng, không nói lời nào và dường như Ngài chẳng đoái nhìn đến chúng ta. Nhưng chúng ta đừng từ bỏ mà hãy giữ vững niềm tin và tha thiết khẩn cầu lên Chúa. Chắc chắn Ngài sẽ rủ thương và đáp lại những ước nguyện của chúng ta.
Suy Niệm 11: Bà mẹ ngoại giáo với niềm tin
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Người Mẹ
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta về một người mẹ. Vậy, trước hết chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho từng người chúng ta quà tặng tuyệt vời là mẹ của chúng ta, là tất cả các phụ nữ trong cuộc đời của chúng ta: những người thân yêu, những người yêu mến chúng ta, những người chúng ta yêu mến, và nhất là Đức Maria. Nhận ra người này là ơn huệ Thiên Chúa ban cho người kia, sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, xung khắc và cả sự dữ cùng với những gì thuộc về sự dữ nữa (quên ơn, nghi ngờ, ham muốn, ghen tị, bạo lực…), để sống yêu thương, bao dung, tha thứ và hiệp nhất, ngay trong những lúc khó khăn nhất, những khác biệt và những khi thử thách nhất.
Chúng ta được mời gọi hình dung ra nỗi khổ của người mẹ được bài Tin Mừng hôm nay kể lại: bà là người Hi-lạp, gốc Phê-ni-xi, thuộc xứ Xy-ri, có đứa con gái bị quỉ ám; nhưng chắc chắn, không chỉ có người mẹ đau khổ, nhưng là cả nhà và những người thân quen. Dường như thời xưa, ma quỉ không có nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp hay mặt nạ hóa thân, nên hay ám người ta cách trực tiếp. Nhưng ngày nay, lối sống của loài người chúng ta đang cung cấp cho ma quỉ quá nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp và mặt nạ hóa thân: trò chơi đủ loại, phim ảnh, khoái lạc, bạo lực, gian dối, tiền bạc, danh vọng, phương tiện hưởng thụ… Vì thế, hơn bao giờ hết, trong hoàn cảnh hiện nay, có rất nhiều cha mẹ đau khổ vì con cái, không phải vì bị ma quỉ ám, nhưng bị ám, thậm chí “giam cầm” trong tâm trí bởi những điều xấu, những năng động xấu thuộc về ma quỉ, đó là lối sống vô trách nhiệm, vô ơn, đam mê phương tiện và thú vui, hưởng thụ, bạo lực, tự do luyến ái, vô kỉ luật, không có lí tưởng cao quí, mất hướng đi, không thao thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống….
Cách ma quỉ ám người ta như thế còn nghiêm trọng hơn, là khi dằn vặt thân xác ở bên ngoài, nghĩa là bị quỉ ám trực tiếp như một số trường hợp mà các Tin Mừng kể lại hay như chúng ta thỉnh thoảng vẫn còn nghe nói ngày nay. Chúng ta, những người con, có bao giờ chúng ta thật sự đặt mình vào những những âu lo, những nỗi khổ của cha mẹ chúng ta chưa? Chúng ta, những người trẻ đang được huấn luyện, chúng ta có bao giờ cảm thông với những trăn trở và bận tâm của những người huấn luyện và những người các trách nhiệm chưa?
2. Lòng tin của Người Mẹ
Trở lại với người mẹ đau khổ trong bài Tin Mừng, chúng ta chắc chắn rất ngạc nhiên, khi nghe lời đáp của Đức Giê-su, khi bà mẹ xin Ngài trừ quỉ cho con gái bà:
Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con. (c. 27)
Thái độ của Đức Giê-su làm cho chúng ta kinh ngạc, nhưng lòng tin mạnh mẽ và khôn ngoan của bà mẹ cũng phải làm cho chúng ta ngạc nhiên không kém:
Lòng tin mạnh mẽ, vì bà kiên trì kêu xin (x. Mt 15, 21-28).
Lòng tin khôn ngoan, vì bà dựa vào chính Lời Chúa để diễn tả lòng ước ao của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”! (c. 28)
Trong lời nói tuyệt vời của người mẹ khiến Đức Giê-su phải động lòng này, chúng ta còn nhận thấy thái độ khiêm tốn không ghen tị: bà tự nhận mình là thân phận dân ngoại và không ghen tị với dân được chọn là Israel.
Khiêm tốn không ghen tị, đó chính là tâm tình sâu xa mà Chúa chờ đợi và Lời của Ngài muốn khơi dậy nơi bà, nơi mọi người chúng ta, khi trong lịch sử cứu độ, Chúa ưu tiên đi vào tương quan với một dân tộc, với một số người được tuyển chọn, để qua đó bày tỏ cho chúng hiểu, thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Bởi lẽ tình yêu chỉ có thể được diễn tả và được hiểu trong tương quan đặc thù “một-một”. Và vì đó là tình yêu Thiên Chúa, nên mọi người được mời gọi “khiêm tốn không ghen tị”, mở lòng ra để đón nhận cũng một tình yêu thương xót như thế, được ban cho từng người, vốn là “những người ngoại”, như người phụ nữ có lòng tin mạnh mẽ. Kế hoạch yêu thương như thế của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Ki-tô, nơi Người, không còn phân biệt Do thái và dân ngoại, tự do và nô lệ, người nam và người nữ… Những gì Đức Giê-su thực hiện cho người mẹ đã loan báo sự hoàn tất này, sự hoàn tất mà chính Đức Giê-su sẽ thực hiện ngang qua mầu nhiệm Vượt Qua.
3. “Bà cứ về đi”
Cuối cùng, vẫn còn một điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa: lòng tin của người mẹ cứu được người con. Đức tin của người này cứu được người kia; chính vì thế chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người còn sống, cũng như cho người đã chết. Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta. Vì Chúa là tình yêu, Ngài cũng mến thương những người chúng ta thương mến trong Chúa.
Chân lí này được kể lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Đó là trường hợp bà góa thành Na-in có đứa con nhỏ chết sớm: vì thương người Mẹ đau khổ, mà Chúa đã cứu người con; đó là trường hợp những người khiêng kẻ bại liệt từ trên mái nhà thả xuống trước mặt Chúa: nhìn thấy lòng tin của họ, Ngài đã cứu chữa người bệnh; và còn nhiều trường hợp khác nữa, như người cha có đứa con gái nhỏ bị bệnh nặng sắp chết, như người chủ có anh đầy tớ bệnh liệt giường; và ơn cứu độ được ban cho cả nhà, nhờ vào hành trình đến với Đức Giê-su và tin vào Ngài của một mình ông Gia-kêu: “ Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19, 9). Cùng một lúc và thật là quảng đại, Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà ông Gia-kêu.
Có thể nói, đây chính là một tin vui, là NIỀM VUI TIN MỪNG (Evangelii Gaudium). Và tin vui này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta và đem lại cho chúng ta niềm hi vọng khi chúng ta cầu nguyện cho nhau, nhất là cho những người thân yêu đã qua đời. Mỗi người chúng ta hãy khát khao và xin Chúa ban cho chúng ta ơn huệ lớn lao này, đó là xin Chúa cũng công bố rằng, ơn cứu độ đã đến cho gia đình và Gia Quyến của chúng ta, cho cả cộng đoàn, cho cả giáo xứ. Ơn cứu độ chính là ơn được giải thoát khỏi sự chết, để sống sự sống mới và sống sự sống mới này mãi mãi với Chúa và với nhau, nhất là với những người thân yêu của chúng ta, còn sống cũng như đã qua đời. Và Chúa đã làm cho ơn cứu độ đời đời trổ sinh hoa trái dồi dào ngay hôm nay.
- 07/02 Tinh sạch tinh thần
- 06/02 Điều chính yếu của Tin Mừng
- 05/02 Chúa Giêsu hoạt động
- 04/02 Chúa Giêsu chữa bệnh – rao giảng
- 03/02 Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu
- 02/02 Dâng con trẻ
- 01/02 Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ
- 31/01 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- 30/01 Tin nơi Chúa Giêsu
- 29/01 Người bị quỷ ám và đàn heo