Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
31/01 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- Viết bởi Mc 6,1-6
Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét.
Thứ Tư tuần 4 thường niên. – Thánh Gioan Boscô, linh mục. Lễ nhớ
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
* Chào đời năm 1815 tại Cáttennôvô, giáo phận Tôrinô, Gioan đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế, khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Salêdiêng và dòng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.
Lời Chúa: Mc 6,1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Quê quán của Người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.
“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.
Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Bản tính khó dời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người khó thay đổi. Khó thay đổi vì quá quen thuộc. Đã thành nếp. Nếp ăn. Nếp nghĩ. Người dân Na-da-rét quá quen với hình ảnh Chúa Giê-su thợ mộc. Cha Người làm thợ mộc. Người cũng làm thợ mộc. Không thể khác được. Khó thay đổi vì ngại ngùng. Tuy nghe tiếng Người ở Ca-phác-na-um đã làm những điều kỳ diệu. Tuy trực tiếp nghe những lời lẽ khôn ngoan Người nói. Họ ngạc nhiên vì sự thay đổi nơi Chúa Giê-su. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Nhưng chính họ không chịu thay đổi. Đã quen với ý niệm Giê-su thợ mộc, họ không thể đổi thành ý niệm Giê-su tiên tri được. “Và họ vấp ngã vì Người”.
Con người vốn yếu đuối và hay sai lầm. Vì thế cần thay đổi. Cần sám hối. Cần được chỉ dạy.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy biết khiêm tốn nhận lời chỉ dạy của Chúa. Đó là tình yêu thương của Chúa. Yêu cho roi cho vọt. “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy”. Chỉ khi khiêm tốn đón nhận, ta mới thay đổi để nên tốt hơn. “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (năm lẻ).
Đa-vít trở nên thánh vương vì ngài biết khiêm nhường chấp nhận tội lỗi. “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn”. Sám hối ngay khi được tiên tri Gát cảnh tỉnh. Và sẵn sàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!” Thay đổi như thế cần sự khiêm nhường. Biết mình. Phục thiện. HOàn toàn đón nhận thánh ý (năm chẵn). Đó là điều người dân Na-da-rét thiếu. Họ kiêu ngạo. Không biết mình. Và tệ nhất là không phục thiện để thay đổi.
Xin cho con biết khiêm nhường. Biết mình. Và mạnh dạn thay đổi. Theo lời Chúa dạy.
Suy Niệm 3: Cuộc sống âm thầm
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé lại và nói:
- Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.
Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu.
Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói:
- Ðây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Quả thật, về sau, cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột của mình. Có lẽ ngài không bao giờ quên lời căn dặn của mẹ ngài: "Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống trong cảnh nghèo; nếu con muốn làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con nữa".
Mẹ Maria có lẽ đã không bao giờ nói một lời như thế với Chúa Giêsu, khi Ngài đã sống bên cạnh Mẹ Maria tại Nazareth trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của Mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã từng uống từng lời dạy dỗ của Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống ẩn dật âm thầm tại Nazareth. Ðây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình, nhưng đã sống phần lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến độ những người đồng hương của Ngài phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?"
Phản ứng của những người đồng hương về những năm âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazareth là một xác quyết rằng Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình, mà đời sống ấy mang một giá trị và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người đều đáng được chúng ta chiêm ngưỡng, và trong ánh sáng của những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nguyện xin Chúa thánh hóa cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Suy Niệm 4: Quen quá hóa lờn
Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc. 6, 1-2)
Hẳn một ngày nào đó bạn đã có một kinh nghiệm này về chụp ảnh: để lấy hình một đài kỷ niệm hoặc một tòa nhà, bạn phải lùi lại xa. Đứng gần quá bạn chỉ trông thấy được một khối khổng lồ, nặng nề như muốn đè bẹp ta. Khi lấy ảnh quá gần, ta chỉ thấy được những tiểu tiết, không có được cái nhìn khái quát.
Những tương quan xã hội, gia đình, bằng hữu của ta cũng chịu chung số phận như vậy. Gần nhau quá nhiều dễ làm ta mất ý thức về người khác, nên dễ lờn, dễ coi thường… có khi lại chỉ nhìn thấy một vài khuyết điểm nhỏ nhoi của họ, mà không nhận ra bao điểm tốt khác.
Những người làng Nadarét đã có một cái nhìn quá gần, quá thiển cận về Chúa Giêsu. Đúng là “Gần chùa gọi Bụt bằng anh!”.
Từ mệt mỏi đến chán nản
Làm sao giải thích hiện tượng này?
Chủ yếu là bởi tại ta chỉ là những con người phàm trần, những người lớn. Phải, ta mau chán, mau quen lờn khiến cho cái mới dễ trở nên cũ, không còn hấp dẫn, như ta vẫn thường nói “có mới nới cũ” là vậy đó. Thực ra chỉ có các trẻ em – và những ai giống như chúng – mới có thể giữ cho cái nhìn ngỡ ngàng và cảm phục của mình luôn mới mẻ. Tuổi trẻ thường ngưỡng mộ các anh hùng, hoặc tuổi trẻ tài cao, như ta vẫn nói. Thế rồi, sau một thời gian, ta lại vội vã thu mình vào khung cảnh thường nhật và nếp sống đã quen, hầu che dấu đi những nỗi chán nản thất vọng của ta. Ta không còn ngưỡng mộ ai khác, ngay cả chính bản thân mình nữa.
Từ lòng tin đến nhận biết
Thế nên câu Phúc âm sau đây tuy vắn vỏi nhưng thật có tầm quan trọng: “Người lấy làm lạ vì họ không tin!”…
Đức tin không những là cần thiết để đón nhận lời Chúa Giêsu quả quyết Người là Con Thiên Chúa và là Con Người. Đức tin là cần thiết cốt để hiểu biết rõ Đức Kitô, cũng như để nhận biết mọi con người vậy.
Ta chỉ biết rõ một người, nếu như ta có lòng tin vào họ. Con người dù là nam hay nữ đều là một huyền nhiệm. Phải tin vào huyền nhiệm đó, nghĩa là tin vào cái thực thể phong phú, không bao giờ nắm bắt hết được, tin vào cái chiều sâu khôn lường của một nhân vị. Đó chính là nền tảng của mọi nhận thức vậy.
Nhận biết một người là tin trưóc rằng người ấy là một con người.
Tiếp đó, chúng ta mới sẽ có thể tin bằng tất cả sự thật rằng nơi con người này là Đức Giêsu Kitô còn có một huyền nhiệm khác nữa – huyền nhiệm là Con Thiên Chúa.
Suy Niệm 5: Số phận tiên tri và quê hương
Trong cuộc sống đời thường, người ta vẫn hay nói: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”; hay: “Bụt chùa nhà không thiêng, thiêng Bụt chùa người”.
Hôm nay, Đức Giêsu bị chính đồng hương của mình khinh miệt. Chuyện kể rằng: sau một khoảng thời gian, Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ, hôm nay, Ngài trở về nơi chôn nhau cắt rốn để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Mặc dù lời dạy của Ngài thật khôn ngoan và uy quyền, thế nhưng với những người đồng hương, họ sẵn có tính kỳ thị, và chính từ đó, lòng họ trở nên chai lỳ. Họ nói với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?".
Lối phản ứng trên đây cho thấy một sự lạnh nhạt, và không chấp nhận những giáo huấn của Đức Giêsu, mặc dù vẫn biết đấy là lời khôn ngoan!
Lối nói: "Con bà Maria" là lối nói kiểu khinh thường. Mẹ Maria cũng là người bình thường như ai, vậy thì một người vô danh tiểu tốt như thế không thể sinh ra một người con phi thường được, nên họ có đủ lý do để khước từ Đức Giêsu!
Trong cuộc sống của chúng ta, chắc cũng không thiếu những lối suy nghĩ như vậy! Một khi đã có sẵn trong lòng sự kỳ thị nào đó, thì nơi người ấy không có chút gì là tốt và chúng ta cũng không ngừng tìm mọi cách để làm cho họ không còn uy tín để làm việc...
Tại sao lại có những lối suy nghĩ xa lạ với Tin Mừng như thế? Thưa! Đơn giản là vì sự ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi và kiêu ngạo luôn luôn ngự trị trong lối nhìn và cách nghĩ của chúng ta, khiến ta không thể vượt ra xa và nhìn rộng để thấy tổng quát.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta không ngừng phấn đấu để vượt thắng những tham sân si đó, sống quảng đại và sẵn sàng đón nhận những giá trị tốt nơi người anh chị em chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có cái nhìn của Chúa, để chúng con biết yêu thương không giới hạn và sẵn sàng đón nhận anh chị em mình như Chúa đã quảng đại đón nhận chúng con là con Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Vượt qua thành kiến
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để sẵn sàng đón nhận ánh sáng tươi mát của đức tin, cần phải mạnh dạn vượt qua sự vây hãm của thành kiến và những lo toan thế trần.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian rao giảng ơn cứu độ cho các tội nhân, khơi dậy hy vọng giữa cõi đời tăm tối. Chính vì thế, những lời rao giảng của Chúa có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Nhưng một điều lạ lùng là chính những người đồng hương với Chúa lại chỉ nhận ra đó là những lời chói tai của con bác thợ mộc, chứ không nhận ra đó là lời loan báo tin vui của Con Thiên Chúa. Họ đã không giải mã được sứ điệp, vì họ không thể vượt qua được các thành kiến của mình. Họ đã từ chối ngước nhìn lên cao, đã cam chịu bám víu lấy trái đất, sợ phải xa rời những lực hút vốn đã quen, dù biết rằng sẽ có ngày đất nuốt họ đi. Con người đã chọn chính các giới hạn của mình làm nơi trú ẩn.
Lạy Chúa, chính con cũng đã sống như không có đời sau. Đức tin mà con đã lãnh nhận từ ngày được rửa tội vẫn chỉ là một đốm sáng hiu hắt giữa mịt mùng đêm tối. Nhiều khi con đã dừng lại, tự lừa dối mình rằng, bóng đêm là màn che an toàn nhất. Con lấp đầy khoảng trống trong đời con bằng những câu chuyện tiền nong cơm áo, bằng men rượu, bằng các giao du vô bổ. Con sống như người vô thần vì đã không nhận ra Con Thiên Chúa mang hình hài con bác thợ mộc, không nhận ra sứ điệp từ trời qua những tín hiệu trần gian.
Lạy Chúa, xin thương đánh thức con dậy và ban sức mạnh để con vượt qua chính bản thân mà đến với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đại thi hào R. Tagore, thi sĩ nổi tiếng Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu…
Một ngày kia ông làm được một bài thơ và đưa cho bố coi thử. Chẳng biết bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: “Dở ẹc”.
Ngày hôm sau, cậu lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho bố coi thử. Lần này bố liền “kê tủ đứng vào mũi” cậu nhóc: “Đúng là bài thơ … con cóc”.
Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.
Lần này thì bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: “Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa”.
Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu. Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình (Theo trang mạng Dũng Lạc).
Suy Niệm
Dân làng Nadarét, quê hương của Đức Kitô không tin vào Ngài, Đấng được Thiên Chúa sai đến, dù rằng họ rất ngạc nhiên, sửng sốt khi nghe những lời giáo huấn từ Ngài, nhưng gốc gác, thân thế về gia đình Đức Giêsu khiến họ hoài nghi về sứ vụ Mêssia của Ngài: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” (Mc 6,3).
Theo M.E. Boismard “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến là Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giustinô (khoảng năm 150) làm vang vọng lại niềm tin này khi kể lại ý niệm sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêssia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêssia” (Dial. 110,1).
Có lẽ vì thế với dân làng Nadarét nói riêng và dân Do Thái nói chung, khi biết thân phận khiêm tốn của Ngài “Họ đã vấp phạm vì Người” (Mc 6,3b), họ đã cố chấp cứng tin (x. Mc 6,6). Vì nguồn gốc khiêm tốn, vì quá quen biết về gia đình của Đức Giêsu, lòng ghen ghét đố kị đã khiến họ không tin vào Ngài cho nên thánh Gioan Kim Khẩu xác định: “Sự đố kị ghen ghét đi vào trong trái tim và đặt họ vào tình trạng chống đối với Đức Kitô” (Homélie XLIX sur l’évangile selon saint Matthieu).
Khi suy gẫm hành động cố chấp cứng tin của dân nói chung và của dân làng Nadarét nói riêng, chúng ta có cảm nghiệm đó cũng là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới mọi thời, nơi những người cố chấp không tin.
Ngày hôm nay, trong phương diện tập thể, thế giới muốn tục hóa dù rằng mình được nuôi sống trong nền văn hóa Kitô giáo (như ở Âu châu và Bắc Mỹ) chối bỏ nguồn gốc niềm tin của mình. Trên phương diện cá thể, người có đức tin lại cảm thấy như muốn xa rời bằng cách sống niềm tin hời hợt, họ mang tâm trạng như dân gian có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Hay họ vẫn còn niềm tin vào Thầy, vào Đức Kitô, vào Thiên Chúa nhưng cách thực hành niềm tin mang dấu ấn: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”, khi dồn sức tất cả cho giấc mơ tiền tài vật chất mà quên hoặc coi nhẹ cách thực thi đức tin theo lời giáo huấn của Thiên Chúa.
Thật thế, như Gioan thánh sử đã nói:
‘‘Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Hôm nay nhìn vào thái độ của dân làng Nadarét đối với Đức Kitô: Vấp phạm vì Ngài, cố chấp không tin, chúng ta cũng suy nghĩ về thái độ đức tin của chúng ta vào Ngài: Tin hay không tin trong đời sống hằng ngày. Rất có thể chúng ta đang có thái độ của dân làng Nadarét bằng cách cư xử, sống hững hờ với niềm tin chính mình, so đo thiệt hơn, ích kỷ với tính toán tiền bạc, cơm áo gạo tiền mà quên đi tin là chấp nhận sống trung thành lúc bình an hạnh phúc, đầy đủ nhưng cũng trung thành vượt khó với đức tin.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu bị khước từ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi đi rao giảng Tin Mừng một thời gian ngắn, hôm nay Chúa Giêsu trở về Nagiarét quê hương của Người. Người vào giảng dạy trong hội đường. Ai nấy đều cảm phục vì bao phép lạ Người làm, vì giáo lý của Người rất cao siêu và giảng dạy rất khôn ngoan. Nhưng vì họ cứ nghĩ Người là một anh thợ mộc tầm thường trong làng, mà không nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nên không chịu tin Lời Người. Họ có thành kiến lớn lao đối với Người. Thế nên Người không làm phép lạ nào để cứu giúp họ, mà chỉ chữa vài người bệnh, vì Người không muốn tỏ quyền năng của Người cho những kẻ đóng kín tâm hồn.
2. Theo ông Đào Duy Anh, ”Thành kiến” là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có nữa. Thành kiến đã bóp méo sự thật, giống như người đeo kính mầu xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính mầu đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì coi mọi sự đều đẹp đều tốt, khi ghét thì mọi cái là xấu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét ca tông chi họ hàng”.
3. Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên; do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình” (Ga 4,44).
4. Dân làng Nagiarét không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là Vị Cứu Tinh, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân làng Nazareth, Chúa Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay: “Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu Thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu Thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu Thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
5. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.
Các nhà rao giảng Tin Mừng hãy bắt chước Chúa Giêsu mà đón nhận thái độ ”Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Chúa Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.
6. Truyện: Cậu bé R. Tagore.
R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn Độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:
- Thơ mày là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
- Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia ra để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.
Suy Niệm 9: Thái độ không tin của người đồng hương với Chúa Giêsu
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Marcô đã từng cho thấy thái độ không tin nơi những người bà con của Chúa Giêsu (x.Mác Cô 3,20-21: họ nói Ngài mất trí và muốn bắt người về quê; Mác Cô 3,31: Họ ngăn cản Ngài rao giảng). Trong đoạn này, Mác Cô ghi nhận thêm thái độ không tin cỉa những người cùng làng với Ngài.
Lý do không tin là thành kiến “Bụt nhà không thiêng”: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em ông không phải là Giacôbê, Giosê và Simon sao? Chị em ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta hay sao?” (câu 3)
Hậu quả của thái độ không tin: “Ngài đã không làm được phép lạ nào tại đó; Ngài chỉ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ.” (câu 5)
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan tiền hô nói với dân Do Thái “Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Gioan 1,26). Trong nếp sống cộng đoàn thái độ này không có thái độ khuyến khích và tôn trọng lẫn nhau.
“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi với chúng ta nên ta coi thường Chúa?
2. Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Cá-phác-na-um thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là bác thợ mộc, là anh chị em ta. Bài Tin Mừng hôm nay khuyến khích chúng ta làm điều thứ hai, tức là tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em…
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sỹ ấn giáo tại chân núi Hymãlạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước đây tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn nhận thêm người tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà tu viện bây giờ chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sỹ thì lèo tèo vài người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sỹ ấn giáo cho biết nguyên nhân hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện đến tình trang trên đây. Tu sỹ ẩn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích: “Chúa Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”.
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và thông báo cho họ biết Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một ngươì trong nhà. Các tu sỹ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Chúa Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể là Chúa Cứu Thế.
Vậy từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Chúa Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm tin đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích “Món quà Giáng Sinh”)
3. ”Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4)
Ra trường với mảnh bằng sư phạm trong tay, tôi được cử dạy tại một ngôi trường gần nhà. Tôi rất sung sướng vì khỏi phải đi xa. Tôi dã cố gắng vận dụng mọi kiến thức và khả năng để giảng dậy cho các em, và điều đó làm cho tôi rất vui.
Một ngày kia, tình cờ tôi nghe thấy các em nói với nhau: “Ổng ở gần nhà tao đó. Mày có biết không, hồi nhỏ ổng dốt lắm, anh tao nói môn toán “xơi ngỗng” hoài!”.
Từ ngày đó, tôi phải chấp nhận những ánh mắt nghi ngờ, những dấu chấm hỏi làm nhức nhối con tim. Dù sao tôi vẫn không thể thoái nhiệm hay dễ dàng rời xa lý tưởng của mình.
Cầu nguyện: Xin giúp con theo Chúa đến cùng trên con đường yêu thương và phục vụ, dù có bị rẻ rúng giữa những người mà con đã hết lòng yêu thương và phục vụ. (Epphata)
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu bị người đồng hương chống đối
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Thông thường ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan Tiền Hô nói với dân Do Thái ”Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26).
“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi mà người ta đã coi thường Chúa?
Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Capharnaum thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là con bác thợ mộc, là anh chị em với mình.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta, hãy biết tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em… hơn là tin vào một Chúa Giêsu ở ngoài cuộc sống của chúng ta.
2. Chúa Giêsu đã phải đau xót mà nhắc lại một câu ngạn ngữ ”Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4).
Đi đâu Chúa Giêsu cũng được ca tụng tôn vinh, nhưng khi trở về quê hương mình thì lại bị coi thường.
Tại sao thế?
Con người thường có thói để cho những thành kiến chi phối mình.
Những người ở Nazareth đã làm cho Chúa Giêsu không làm được những phép lạ nào. Một sự thiệt thòi không đáng xảy ra nhưng nó đã xảy ra vì sự suy nghĩ hẹp hòi của họ.
Nếu chúng ta cũng như thế thì chúng ta sẽ làm mất đi rất nhiều niềm vui trong cuộc sống của chúng ta. Hãy biết đón nhận cuộc sống đang sống với tất cả lòng yêu thương và quảng đại. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được cuộc sống quả là một hồng ân.
Trong kho tàng những câu chuyện cổ của người Đức, người ta đọc được câu chuyện này:
Có một nhà hiền triết nọ, chuyên cố vấn giúp đỡ những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống. Bất cứ ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được từ ông những lời khuyên thiết thực…
Một hôm, có một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin ông giúp đỡ. Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và 7 đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì sự quấy phá của 7 đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ trẻ. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.
Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau:
- Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh.
Người đàn ông đáng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng vẫn đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu góp hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con vật hôi hám ấy không những không giúp được gì mà còn phóng uế nhơ bẩn kêu la be be om xòm suốt ngày. Cái xưởng may của anh ta vốn đã ồn ào nay lại biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu được…
Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh:
- Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác.
Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại. Khi về đến nhà, người đàn ông nhìn xuống sàn nhà của xưởng may rồi mỉm cười nhìn những đứa con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của mình, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn nhiều. Anh nở một nụ cười thật tươi vì chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc bằng ngày hôm đó.
Theo tâm lý thông thường, thì chúng ta dễ có thái độ “đứng núi này nhìn núi nọ”. Những cái quen thuộc, những cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường…
Không ai trong chúng ta được chọn lựa cha mẹ để sinh ra làm người. Mỗi người chúng ta đều vào đời với một hành trang có sẵn. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận cuộc đời như một hồng ân của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng phút giây của cuộc sống như một ân huệ…
Nói như thánh Phaolô “tất cả đều là ân sủng của Chúa”: tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác. Có như thế, chúng ta mới có thể thấy niềm vui cho cuộc sống mình, bằng không thì suốt đời sẽ chỉ là những bất mãn, những chán nản, những thất vọng và cuộc đời như thế sẽ chẳng được chúc phúc như những người Nazareth trong bài Tin Mừng hôm nay.
30/01 Tin nơi Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 5, 21-43
Tin nơi Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 4 thường niên.
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Lời Chúa: Mc 5, 21-43
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng:: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi:: “Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng:: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi: “Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà:: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng:: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng:: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê.
Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ:: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng:: “Talitha, Koumi!", nghĩa là:: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đụng đến áo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu,
có những người đụng vào áo Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả tang.
Ðó là cái đụng của một người phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác,
không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.
“Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”
Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.
Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang nào,
không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn,
vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Ðụng vào Ðấng Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo:: “Hãy trỗi dậy.”
Trỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Trỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.
Trỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
“Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giarô:
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Sự ân cần
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin mừng cho thấy quyền năng phi phàm nhưng đồng thời cũng cho thấy sự ân cần của Chúa. Giữa những người chen lấn vẫn có sự quan tâm đến từng người. Giữa những người cao sang vẫn còn thì giờ quan tâm đến những người bé nhỏ. Quan tâm đến một phụ nữ vô danh. Đưa chị ra ánh sáng để ca ngợi đức tin mạnh mẽ của chị. Con người này cao quí vì có đức tin mạnh mẽ chứ không vì có địa vị trong xã hội. Quan tâm nên đến tận nhà một em bé. Thời xưa, trẻ con, nhất là trẻ gái, thường không được quan tâm. Huống hồ đây là một trẻ gái đã chết. Thái độ của Chúa thật ân cần. Chúa cầm tay và nói với em. Vừa yêu thương. Vừa trân trọng.. Và còn ân cần hơn nữa. Khi mọi người tíu tít mừng rỡ thì Chúa quan tâm lo cho em ăn uống.
Điều này khiến ta an tâm tin tưởng. Vì Chúa yêu thương và quan tâm đến từng người chúng ta. Dù chúng ta là những người bé nhỏ nghèo hèn, vô danh tiểu tốt. Còn hơn cả quan tâm, Chúa hi sinh vì chúng ta. Chúa gánh lấy mọi bệnh hoạn, đau khổ tật nguyền của chúng ta. Để chúng ta được lành mạnh. Người còn cam lòng chịu chết cho ta được sống. Như thư Do thái khẳng định:: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí”. Vì thế nếu ta gặp khó khăn thử thách, hãy vững lòng tin tưởng chiến đấu. Vì Chúa sẽ trợ giúp và giải thoát ta.: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (năm lẻ).
Chúa bày tỏ tấm lòng của người cha yêu thương con. Nếu Đa-vít tiếc thương Áp-sa-lôm là đứa con phản bội. Thánh vương còn muốn chết thay cho con. Khi Áp-sa-lôm đã chết, nhà vua khóc thương:: “Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con”. Nhưng Chúa không chỉ muốn chết thay cho ta. Chúa thực sự đã chết cho ta (năm chẵn).
Vì thế dù tội lỗi đến đâu, ta hãy tin tưởng. Đứng dậy trở về. Vì Chúa quan tâm yêu thương từng người. Chúa đến tìm con chiên lạc. Chúa sẵn sàng chết cho ta được sống.
Suy Niệm 3: Nhận ra phép lạ mỗi ngày
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Ðavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau:: “Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Ðavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi: “tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà:: “Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
Suy Niệm 4: Một y dược mới lạ
Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin:: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc. 5, 21-23)
Tương truyền thánh Maccô là một y sĩ. Phúc âm của ngài đầy rẫy những chi tiết về thuốc men cùng những ngón nghề trị bệnh. Nhưng hình như ngài đã tự ý bỏ nghề làm thuốc sau khi đã so sánh những thành công về y khoa của mình với những thành công của Tin Mừng nơi Đức Giêsu Kitô. Thế nên, trong bài tường thuật này, Maccô muốn minh chứng sự đụng chạm đến Chúa Giêsu, dù là kín đáo, cũng tạo được một khả năng hữu hiệu là phục hồi sức khỏe hay phục sinh.
Đụng chạm đến Chúa Giêsu
Chúa Giêsu thực hiện một số phép lạ: “từ xa” hoặc bằng lời nói của Người. Trong trường hợp này, Maccô nhấn mạnh đến chi tiết này là phép lạ đã xảy ra nhờ tiếp xúc với Chúa:: “Ai đã sờ vào tôi?”,: “Người cầm lấy tay đứa bé”.
Chúng ta biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh từ xa, nhưng cũng phải biết rằng Người có thể tác động cách gần gũi, cảm thấy được. Các Bí tích là gì, nếu không phải là những cử chỉ và hành động của Đức Kitô – như trong Bí tích Thánh Thể – của chính Đức Kitô.
Nhưng chúng ta có giống như đám đông chen lấn Chúa, đụng chạm đến Người, mà chẳng sinh được hiệu quả gì chăng? Hay sẽ như người đàn bà nọ bị bệnh băng huyết tiến đến gần Người với lòng tin nên được khỏi bệnh chăng? Chúng ta đến lãnh nhận các Bí tích với tinh thần nào?
Dù là kín đáo không ai hay biết
Có nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện trước công chúng, mà mọi người được mắt thấy tai nghe. Trong trường hợp phép lạ ở đây, lại khác hẳn. Việc người phụ nữ bị bệnh loạn huyết được khỏi, chẳng có ai hay biết, còn số người chứng kiến việc con gái ông Giai-ia được phục sinh cũng chỉ có mấy người. Việc Chúa Giêsu hành động cách kín đáo, hoặc Người bảo người ta phải kín miệng cảnh báo chúng ta phải coi chừng những phép lạ hàng loạt, và những trường hợp lành bệnh có tính cách phô trương rùm beng. Mỗi người cần có niềm tin sâu xa tự đáy lòng mình, đó mới là điều cốt yếu.
Tiến tới một sự phục hồi toàn diện
Cuối cùng, sự tiếp xúc với chính Chúa Kitô và đụng chạm đến Người phải đưa đến một sự phục hồi toàn diện con người. Chúa Giêsu không ngừng làm cho ta đứng thẳng, trong tư thế của người đang làm việc; Người làm cho chúng ta trở thành người hữu ích, đảm đang. Và cứ như thế cho đến giai đoạn phục hồi chung cuộc, khi con người toàn diện của chúng ta, luôn tỉnh thức phục vụ, được phục sinh trong ngày Chúa ngự đến.
Suy Niệm 5: Tin sẽ được khỏi
Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gặp rất nhiều người đến xin Ngài chữa bệnh hoặc người ta tự ý đụng chạm đến Ngài để được khỏi bệnh. Trong mọi trường hợp, Ngài đều khơi gợi lên nơi họ một mối tương quan trực tiếp với Ngài. Mối liên hệ đó chính là đức tin. Có đức tin sẽ được lành. Không có đức tin thì không thể khỏi.
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người đàn bà bị băng huyết và cho em bé 12 tuổi đã chết được sống lại.
Trường hợp người đàn bà băng huyết thì Đức Giêsu đòi hỏi bà ta phải có niềm tin trực tiếp vào Ngài. Còn với em bé được Ngài cho sống lại thì chính đức tin của cha em đã làm Đức Giêsu chạnh lòng thương và cứu sống em.
Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi chúng ta tin Chúa, nhưng tin nửa vời, tức là tin khi thành công, thuận lợi, nhưng khi đức tin bị thử thách, chúng ta sẵn sàng buông xuôi. Như vậy, nếu không có lợi thì tức khắc chúng ta chuyển niềm tin sang đối tượng khác! Chúa không còn là Đấng duy nhất chúng ta tin tưởng!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin của mình được triển nở. Bởi vì đức tin mà không việc làm thì đức tin chết. Đức tin phải được thanh uyện bằng những thử thách. Có thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, và mình mới đủ can đảm để làm chứng cho Chúa ngay trong những lúc khó khăn, thử thách nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chính nhờ đức tin của chúng con vào Chúa, chúng con được sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sờ vào Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu mang nơi mình một thần lực sinh động và diệu kỳ. Bất cứ ai tiếp xúc với Người trong niềm tin sẽ được chữa lành và được ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khung cảnh đám đông chen lấn xung quanh và đụng cả vào Chúa, thật là thường tình trong những ngày Chúa rao giảng Tin Mừng. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, con ngắm nhìn một kẻ cố ý đụng vào Chúa, cố tình sờ vào áo của Chúa với vẻ rụt rè vì sợ bắt quả tang. Đó là thái độ của một phụ nữ đã mắc bệnh nhiều năm.
Lạy Chúa Giêsu, bà ấy sờ vào áo Chúa bằng tay và bằng lòng tin. Với lòng tin đơn sơ chân thành, bà ngẫm nghĩ: Tôi mà sờ vào áo choàng của Ngài thôi, tôi sẽ được khỏi bệnh. Điều ấy chính Chúa đã xác nhận: sự đụng chạm của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh, một chứng bệnh đã kéo dài suốt 12 năm.
Lạy Chúa, đã nhiều lần tay con sờ tới Lời Chúa, đôi mắt con đã dõi theo Lời Chúa, đôi tai con đã nghe Lời Chúa, nhưng dường như con vẫn còn xa lạ với Lời Chúa. Hơn nữa, môi miệng con đã đụng chạm tới Mình Máu Thánh Chúa, nhưng đó chỉ là thói quen thường ngày. Xin Chúa giúp con ý thức để biết cố ý đụng chạm tới Chúa với lòng tin và tình mến.
Lạy Chúa, với lòng chân thành phó thác, xin Chúa nắm lấy tay con và lôi con trở dậy, như Chúa đã làm với con gái ông Giai-rô lúc ấy, chắc chắn con sẽ được đổi mới. Amen.
Ghi nhớ: “Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy”.
Suy Niệm 7: Sờ vào áo Người, là sẽ được cứu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một tác giả người Mỹ đã ghi lại một câu chuyện về niềm tin như sau: Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một ngày Chúa nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa (Theo Radio Véritas).
Suy niệm
Bà góa bị bệnh băng huyết, theo quan niệm của người Do Thái xưa, máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi bà mất dần đi, tiêu hao đi coi như bà là người đang đi vào cõi chết. Hơn thế nữa, theo Luật Môisê (x. Lv 15,25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng: Bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ vì tiếp xúc với bà. Cho nên, bà không chỉ đau đớn về bệnh tật hoành hành cả đời bà, niềm đau hơn nữa là bà bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, khỏi cộng đoàn tôn giáo. Trong cơn thất vọng về tình trạng bệnh tật và tâm linh, bà tin Đức Kitô có thể chữa bà khỏi cơn bạo bệnh và qua đó còn đưa bà trở về với cuộc sống xã hội. Bà tin và chân thành xin một chút sức mạnh từ nơi Đấng Mêssia bằng cử chỉ đụng vào áo Ngài, lòng tin đơn sơ nhưng thật mạnh mẽ:: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi” (Mc 5,28). Và bà: “chạm đến áo Người” trong lúc bà mang cơn bệnh là thái độ liều lĩnh vì đã xé rào Luật Lệ ngăn cấm, nhưng đó cũng là thái độ đức tin vững vàng của bà. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.Ông Giairô đã không hề ngại đến thân thế của mình là trưởng hội đường, ông khiêm tốn nài xin Chúa Giêsu đến thăm viếng để cứu chữa người con gái ông đang bị bệnh nặng:: “Xin Ngài đặt tay trên nó”(Mc 5,23). Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân và họ được khỏi bệnh (x. Mc 6,5; 7,32; 8,23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng: Ngài sẽ chữa khỏi được bệnh cho con ông. Ông xác tín cử chỉ đặt tay của Thầy - Đấng Mêssia mang đến cho con ông được cứu như ông tuyên tín:: “Để nó được khỏi và được sống” (Mc 5,23b), dù em bé bệnh rất nặng và đang hấp hối nguy ngập. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu và con ông đã được sống dù nó đã chết như người nhà loan báo khi Chúa đến đầu ngõ nhà ông.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa mắc bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng:: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định:: “Niềm tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Được lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý mà còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng. Còn ông Giairô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin:: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai:: “Con ông đã chết rồi: “ (Mc 5,35).
Sống đức tin là dám sẵn sàng ra khỏi chính mình để đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp và sờ áo Chúa và ông Giairô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.
Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: Có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng, hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn... Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giairô xin Thầy đến bên con gái ông đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.
Mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy:: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131,2).
Suy Niệm 8: Chữa bệnh và cho sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô thuật lạ cho chúng ta hai phép lạ. Khi Chúa Giêsu đang đứng trên bãi biển thì ông trưởng hội đường đến sấp mình van xin Người cứu chữa con gái ông sắp chết. Người liền đi với ông, và dân chúng kéo theo rất đông. Dọc đường, có người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã tìm thầy chạy thuốc hết tiền hết của mà không hết bệnh. Khi nghe nói đến Chúa Giêsu, bà thầm nghĩ: nếu sờ được áo Người chắc khỏi bệnh, nên bà lẩn vào đám đông và sờ vào áo Chúa. Tức thì bà được lành bệnh.
Lúc ấy người nhà ông trưởng hội đường đến đưa tin con gái ông đã chết và khuyên đừng rước Chúa đi nữa. Nhưng Chúa bảo ông cứ vững tin. Rồi Người cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan đến nhà ông. Người cầm tay đứa bé và bảo: “Hỡi con, Ta truyền cho con chỗi dậy”. Tức thì đứa bé chỗi dậy, trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Muốn có phép lạ phải có đức tin đi trước.
Tất cả các phép lạ Chúa Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi đuợc những phép lạ Người đã làm như chữa bệnh, trừ quỉ, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại... Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt mọi người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Chúa Giêsu hay nói với bệnh nhân: ”Đức tin của con đã chữa con”.
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: “Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Người thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà: “Đức tin của con đã chữa con”.
3. Phép lạ còn đòi phải có lòng khiêm nhường.
Ông trưởng hội đường Giairô hôm nay đã diễn tả lòng tin tưởng với khiêm nhường thẩm sâu. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu sắc của ông, ông đã quỳ mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
4. Qua việc chữa lành cho người đàn bà bị xuất huyết và phục sinh cho con gái ông trưởng hội đường, Chúa Giêsu đã tỏ bầy lòng thông cảm và quan tâm đến những nỗi khổ của con người.
Trong cuộc sống hằng ngày mà ai ai cũng biết thông cảm và quan tâm đến nhau thì đau khổ sẽ bị chế ngự và hạnh phúc sẽ ngự trị nơi mỗi người và trong xã hội.
Mỗi người trong chúng ta có một vai diễn trên sân khấu của cuộc đời.
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với mọi người xung quanh, nói với họ rằng chúng ta yêu mến họ.
Nếu bạn không quan tâm đến người khác, bạn sẽ không bị trừng phạt đâu, đơn giản bạn chỉ bị lãng quên, hững hờ y như bạn đã từng đối với người khác.
Vậy từ hôm nay, chúng ta hãy tập thói quen bày tỏ sự quan tâm đến người khác. Đâu mất gì khi chúng ta nở một nụ cười, siết chặt một bàn tay, thốt lên một lời khích lệ hoặc đơn giản nói rằng chúng ta muốn lắng nghe.
5. Truyện: Biết lưu tâm đến người khác.
Vào tháng hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị tên là Mai Hương.
Vâng, chúng ta hãy học tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự: “dửng dưng và vô cảm” của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.
Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui sẽ được nhân lên gấp bội và nỗi buồn được chia sẻ là nỗi buồn sẽ vơi đi một nửa.
Suy Niệm 9: Uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Phép lạ cuối cùng trong loạt 3 phép lạ mặc khải uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết
- Nơi đứa con gái của ông Giairô sự sống đã mất hẳn vì nó đã chết, ai nấy cũng xác nhận cái chết ấy vì họ đã bắt đầu khóc than kêu la ầm ĩ, người ta còn cười nhạo khi Chúa Giêsu bảo nó chưa chết.
- Nơi người phụ nữ bị băng huyết sự sống đang mất dần (máu là biểu tượng của sự sống).
- Chúa Giêsu là chủ và là nguồn của sự sống a/ Người phụ nữ bị băng huyết chỉ cần sờ đến gấu áo Ngài thì sự sống được phục hồi; b/ Ngài gọi cô bé sống lại cách dễ dàng như đánh thức một người khỏi giấc ngủ.
B.... nẩy mầm.
1. "Đứa bé có chết đâu. Nó ngủ đấy thôi". Khi Ladarô chết, Chúa Giêsu cũng nói "Ladarô bạn của ta đang yên giấc. Thầy đi đánh thức anh ấy dậy" (Ga 11,11). Đối với Chúa, chết chỉ là một giấc ngủ, mở mắt thức dậy là một cuộc sống thật, vĩnh cửu.
2. Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
Ta chỉ tin suông vào sự sống thật mai sau. Thực chất là ta vẫn còn coi trọng sự sống đời này hơn.
3. Một ông lão ở Marocco đến gặp một nhà truyền giáo để tìm con đường cứu độ, vì ông biết mình chẳng sống bao lâu nữa. Để giúp ông, nhà truyền giáo dùng một cuốn sách, trong đó trang 1 màu đen tượng trưng cho tội lỗi, trang 2 màu đỏ tượng trưng máu Chúa Kitô, trang 3 màu trắng chỉ lương tâm trong sạch, trang 4 màu vàng chỉ vinh quang Nước Trời.
Sau khi nhập đạo ít lâu, người đó lâm cơn hấp hối. Bà vợ là người theo đạo Hồi khuyên ông kêu cầu đức Mahomet, nhưng ông không chịu, bảo Chúa của ông là Đức Kitô. Bà vợ nói "Vậy ông hãy lấy cuốn sách nhà truyền giáo cho, mở trang 3, hi vọng Chúa sẽ cho ông sạch tội mà vào thiên đàng." Ông đáp "Không, hãy mở trang 2 cho tôi." Và ông chết trong lúc tựa đầu vào trang sách tượng trưng máu Chúa Kitô. (Góp nhặt)
4. Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao! (Góp nhặt).
5. "Người phụ nữ lách qua đám đông tiến đến phía sau Chúa Giêsu và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ Tôi mà sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu. Tức khắc bà đã được khỏi bệnh" (Mc 5,27-29)
Băng huyết là bệnh nan y trong thời Chúa Giêsu. Người mắc bệnh này thường tuyệt vọng. Nhưng người phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng đã không giam mình trong nỗi thất vọng. Chị đã đến với Chúa và hết lòng tin tưởng vào Người, tin rằng Người có thể lấp đầy những khát vọng của mình.
Dù cách biểu lộ niềm tin của chị còn thô thiển là tìm cách sờ vào áo của Người, nhưng chỉ cần ngần ấy thôi cũng đủ để Chúa Giêsu nhận ra lòng tin mãnh liệt của chị, lòng tin mà, theo Người, đã cứu chữa chị và đem lại cho chị sự bình an.
Tôi chợt nghĩ đến căn bệnh của thời đại, đến những người đang thất vọng vì nhiễm HIV, và thầm nguyện cho họ được vững một niềm tin vào Chúa, Đấng duy nhất có thể thoả mãn những mong đợi mà Người đã đặt trong trái tim của mỗi người. Chính Người đã đến để loan báo cho ta niềm hy vọng tuyệt vời, vì Người là tác giả của sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ Người mà con đã khám phá ra khuôn mặt mới của Thiên Chúa một Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương hết mọi người. (Epphata).
29/01 Người bị quỷ ám và đàn heo
- Viết bởi Mc 5, 1-20
Người bị quỷ ám và đàn heo.
Thứ Hai tuần 4 thường niên.
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
LỜI CHÚA: Mc 5, 1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tên tôi là đạo binh
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trừ quỷ là việc Đức Giêsu vẫn hay làm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ngài trừ quỷ ở vùng đất dân Ngoại.
Tài kể chuyện của Máccô được thể hiện rõ nét qua bài Tin Mừng này.
Hiếm khi có câu chuyện sống động và ly kỳ đến thế!
Đức Giêsu và các môn đệ vượt biển để đến vùng đất Ghêrasa.
Vừa ra khỏi thuyền thì gặp ngay người bị ám bởi thần ô uế.
Anh sống ở nơi mồ mả, nơi thường được coi là chỗ ở của quỷ ma.
Anh mạnh ghê gớm đến nỗi không xiềng xích nào có thể kiềm chế được.
Sống cô độc, đe dọa người khác, tự hành hạ và làm hại chính bản thân,
đó là thân phận bi đát mà anh không sao thoát khỏi (cc. 3-5).
Rõ ràng anh hoàn toàn bị quỷ dữ chiếm đoạt, chẳng còn chút tự do.
Nhưng lạ thay, chính anh lại chạy đến với Đức Giêsu để gặp Ngài.
Quỷ dữ nơi anh biết rõ Đức Giêsu là ai, là Con Thiên Chúa Tối Cao.
Nhưng cái biết đó lại khiến nó phải run sợ xin Ngài đừng hành hạ (c. 7).
Quỷ dữ biết danh tánh của Đức Giêsu, nhưng không chế ngự được Ngài.
Bây giờ Ngài bắt nó phải khai danh tánh của nó, trước khi Ngài hành động.
Hóa ra đây không phải là một quỷ, mà là một lũ quỷ đông đảo (c. 9).
Đạo binh quỷ này khẩn khoản xin Đức Giêsu một ơn,
đó là chỉ đuổi chúng ra khỏi người này, chứ đừng đuổi ra khỏi vùng này,
vì chúng hy vọng sẽ tìm được một con mồi khác (c. 10).
Đạo binh thần ô uế xin được nhập vào đàn heo vốn bị coi là ô uế.
Sự đồng ý của Đức Giêsu khiến toàn bộ những gì ô uế bị hủy diệt.
Ngài đã thanh tẩy chẳng những anh bị quỷ ám, mà cả vùng anh ở nữa.
Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa.
Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15).
Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ.
Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18).
Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.
Ngài khuyên anh nên về nhà, ở lại vùng đất của mình,
để loan báo mọi điều Chúa đã làm cho anh và thương xót anh (c. 19).
Anh đã vâng lời và trở nên người loan báo về Đức Giêsu nơi dân Ngoại.
Đối với anh, Đức Giêsu chính là Chúa.
Thế giới chúng ta sống thì văn minh hơn, khoa học hơn, hạnh phúc hơn,
nhưng vẫn không thiếu cảnh những người sống như bị ám, như bị ma nhập.
Có những người sống trong cô độc và trở nên nguy hiểm cho tha nhân.
Có những kẻ tự giết mình từng ngày trước khi tự tử.
Tru tréo và lấy đá rạch mình không phải là chuyện hiếm (c. 5).
Ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo
là niềm mơ ước của biết bao gia đình có người thân bị bệnh.
Bệnh tâm thần là căn bệnh mà ít nhiều chúng ta đều dễ mắc.
Lắm khi con người thấy bó tay, không tự mình giải thoát mình được.
Xin Chúa Giêsu tiếp tục trừ quỷ cho chúng ta, cho vùng đất chúng ta sống.
Xin Ngài tiếp tục tẩy trừ sự ô uế đang thao túng ở lòng con người.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Cuộc chiến xây dựng Nước Thiên Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Xây dựng Nước Thiên Chúa là xây dựng hạnh phúc. Nhưng đó không là hạnh phúc có sẵn. Đó thực sự là một cuộc chiến. Cuộc chiến chống ma quỉ. Cuộc chiến rất khốc liệt. Vì ma quỉ rất mạnh và rất đông: “Tên chúng tôi là đạo binh. Vì chúng tôi đông lắm”.
Ma quỉ là lực lượng sự chết. Chúng muốn tiêu diệt con người. Giam cầm con người trong bóng tối của thế giới kẻ chết. “Từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liên ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả”. Chưa hoàn toàn giết chết anh, nhưng ma quỉ làm cho anh chết dần mòn. Trước hết là tâm trí mê man, mụ mẫm. Không còn sáng suốt. Không còn tỉnh táo. Vì bị ma quỉ khống chế. Không có tự do để làm điều tốt. “Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá rạch mình”. Chỉ làm theo sự sai khiến của ma quỉ. Và tiếp tay với ma quỉ tàn phá. “Anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được”.
Chỉ có Thiên Chúa và Đấng Người sai đến, là Chúa Giê-su Ki-tô, mới chiến thắng ma quỉ. Chúa truyền lệnh. Ma quỉ phải ra khỏi con người. Khi thoát khỏi ách ma quỉ, con người sống lại “ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo”. Và có thể làm việc lành. “Anh nài xin được ở với Người”.
Ma quỉ có thể dùng con người giết hại lẫn nhau. Như Áp-sa-lôm, đòi giết vua cha Đa-vít để cướp ngôi. Như Sim-y, nguyền rủa và ném đá vua Đa-vít. Đa-vít đã dùng quyền năng Thiên Chúa chiến thắng. Nhận mình tội lỗi. Không phản ứng lại các xúc phạm. Để Thiên Chúa phân xử và hành động theo ý Chúa. “Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta, và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc” (năm chẵn).
Ma quỉ có thể dùng vua chúa bắt đạo. Môn đệ Chúa phải chống lại bằng sự hi sinh quên mình. Dâng hiến mạng sống. Để xây dựng Nước Thiên Chúa. Chiến thắng ma quỉ. Nhờ đức tin, các ngài chiến thắng bằng sức mạnh của Thiên Chúa. “Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn”. Nhờ đó các ngài xây dựng Nước Thiên Chúa. Làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh.
Suy Niệm 3: Số phận của Chúa Giêsu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Người Do thái thời Chúa Giêsu có một cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình ảnh rất sống động: Chúa Giêsu trục xuất cả một đạo binh ma quỷ ra khỏi người bị quỷ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
Thế nhưng, sự thành công của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Marcô thật là yếu ớt. Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt đối với Ngài. Chỉ có ma quỷ là kẻ duy nhất biết rõ Ngài là ai nhưng chẳng bao giờ có thể hoán cải được nữa. Các luật sĩ và biệt phái thì càng lúc càng tỏ ra chai lỳ, bà con thân thuộc thì chỉ nhìn về Ngài với những tính toán vụ lợi, đám đông dân chúng thì không nhận ra được ý nghĩa đích thực của sứ mệnh thiên sai của Ngài, còn dân ngoại thì nài nỉ Ngài quay trở lại quê hương Ngài để họ khỏi phải mang họa vào thân, và khi Chúa Giêsu chiến thắng được ma quỷ, thì đó cũng là lúc loài người tẩy chay Ngài. Trong một tình thế bi đát như vậy, cái chết trên Thập giá là chuyện tất yếu đối với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn của Marcô, mỗi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đương thời của Ngài là một tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài, Ngài là một con người triền miên bị khước từ.
Suy nghĩ về số phận của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại thân phận của người Kitô hữu chúng ta trong trần thế. Là môn đệ Chúa Giêsu, là chấp nhận lội ngược dòng. Không thể đi theo Chúa Giêsu mà lại sống theo triết lý: người ta sao, tôi vậy. Làm chứng cho Ðấng đã từng bị khước từ, người Kitô hữu bị khước từ đã đành, mà ngay cả khi phục vụ một cách vô vụ lợi, họ cũng không hẳn được người đời thương mến. Nói như thánh Phaolô: bổ khuyết những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, đó là số phận của người Kitô hữu trong trần thế này.
Nguyện xin Chúa ban thêm can đảm và sức mạnh, để chúng ta kiên trì trong mọi khổ đau vì Danh Ngài.
Suy Niệm 4: Chúa Giêsu chế ngự ma quỷ
Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (Mc. 5, 1-3)
Trình thuật về phép lạ Chúa chữa người bị quỷ ám và đàn heo biến mất đặt ra những vấn đề khó xử và có nhiều điều khác thường tưởng chừng như mê tín dị đoan.
Hình như đây là những sự kiện biệt lập được ghép lại với nhau. Chúa Giêsu lúc đó đang ở vùng Ghêrasa nằm ở phía đông Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét là vùng đất dân ngoại, nơi nuôi heo là thú vật ô uế đối với người Do thái. Khi Chúa chữa cho một người bị quỷ ám ở đây thì có một sự cố xảy ra trong một trại nuôi heo lớn. Có lẽ là hai sự kiện này xảy ra vào cùng kỳ, nên được tác giả lợi dụng ghép lại với nhau để sự kiện này giải thích cho sự kiện kia và rút ra một bài học luân lý. Đó cũng là một lối kết cấu câu chuyện có tính cách bình dân vậy.
Nhưng sự ghép nối này trở nên có ý nghĩa. Thánh sử Maccô dùng nó để minh họa cho điều ngài muốn chứng minh: Chúa Giêsu tỏ bày quyền năng của Người đối với thần ô uế ở vùng đất thuộc dân ngoại. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Một quyền năng vô địch
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Maccô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Nếu “bị gông cùm và bị xiềng xích”, nhưng người bị quỷ ám ấy “đã bẻ gẫy xiềng xích và đập tan gông cùm”, thì phải nói gì về quyền lực của Đấng đã bắt qủy phải xưng tên mình ra – điều đó theo ý kiến các vị trừ tà thời ấy - là dấu chứng tỏ một sự chế ngự hoàn toàn.
Một xứ sở được thanh tẩy
Còn về chuyện bầy heo cả chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ rằng một người được ơn giải thoát có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.
Suy Niệm 5: Chúa tỏ bày quyền năng, và …
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại.
Sức mạnh của sự dữ thật lớn, nhưng Ðức Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người.
Trình thuật kết thúc bằng sự thất bại bi thảm: Ðức Giêsu bị người ta trục xuất khéo léo. Thiên Chúa luôn mở rộng con đường hạnh phúc, nhưng Satan thì cản lối và con người lại nhát đảm dấn thân. Họ khước từ bởi họ quyến luyến với trần thế hơn.
Suy Niệm 6: Sứ vụ của Đấng Thiên Sai
Có những cái nhìn và lối suy nghĩ đã đi vào truyền kiếp. Nếu cái nhìn tích cực thì lối suy nghĩ cũng tích cực, nếu không thì ngược lại!
Người Do thái thời Đức Giêsu cũng vậy! Họ đã nhìn ai với cái nhìn khinh bỉ thì muôn đời, con người đó không có điểm nào tốt được!
Thật vậy, vào thời Đức Giêsu, dưới con mắt của người Do thái, dân ngoại là dân đáng bị miệt thị, là dân luôn sống trong tội lỗi và dưới ách thống trị của Ma Quỷ.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, Ngài không còn phân biệt lằn ranh giữa Do thái hay dân ngoại, nhưng sứ vụ của Ngài là đem ơn cứu độ đến với muôn dân.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu đến vùng Ghêrasa và làm phép lạ xua đuổi Ma Quỷ ra khỏi người bị quỷ ám.
Qua phép lạ này, dưới con mắt người đời, thì đây là một sự thành công, vì người bị Quỷ ám có một sức mạnh phi thường, không ai đụng tới hắn được, bởi lẽ anh ta bị cả một cơ binh Quỷ nhập vào. Một cơ binh chính là tên gọi của một đạo quân Lamã thời ấy và có khoảng 6.826 người lính. Như vậy, số Quỷ nhập vào người này cũng đông vô số kể như vậy. Khi Ma Quỷ nhập vào người thanh niên này, anh ta mạnh khỏe phi thường.
Phép lạ này cho thấy, Đức Giêsu có quyền năng trên Ma Quỷ, Ngài đến để giải thoát con người khỏi bị ràng buộc bởi sự dữ. Đem lại cho họ cuộc sống tự do.
Nhưng cái giá mà Ngài phải chịu, chính là sự loại trừ của những Luật Sĩ và Pharisêu.
Suy nghĩ về sứ vụ và thân phận ngôn sứ của Đức Giêsu, một lần nữa chúng ta ý thức hơn về sứ mạng và số phận của mỗi người chúng ta trên hành trình sống đạo và loan báo Tin Mừng. Số phận của Thầy cũng là của trò. Muốn trở nên môn đệ đích thực của Thầy Giêsu, hẳn chúng ta phải lội ngược dòng. Đi ngược quy luật tự nhiên để hiểu được giá trị của những nghịch cảnh khi chúng ta bị người đời phản đối, khước từ, cho dù những việc làm của chúng ta là những hy sinh vô vị lợi!
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của Chúa đã không ngừng thi ân giáng phúc, nhưng Chúa đã không được người đời coi trọng, mà luôn bị khinh khi! Xin Chúa cho chúng con hiểu được sự thật này để chỉ tìm vinh danh Chúa và mong sao cho Nước Chúa được hiển trị muôn nơi, còn chuyện khen chê, xin cho chúng con không coi trọng nó mà ảnh hưởng đến sứ vụ được trao. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa giải thoát con người khỏi ma quỷ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Ma quỷ có sức mạnh phi thường. Nhưng sức mạnh phi thường của ma quỷ cũng phải phục tùng Chúa Giêsu. Chúa muốn mỗi người chúng ta làm chứng nhân cho Thiên Chúa toàn năng và từ bi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không phải chỉ người thanh niên miền Ghê-ra-sa kia mới là nạn nhân của ma quỷ, nhưng cả con nữa. Ma quỷ không ngừng đến cám dỗ loài người, trong đó có con. Evà xưa kia đã bị thua, và bà cùng con cháu là loài người chúng con đã bị thảm hại với sức mạnh độc dữ của ma quỷ. Con đã được Chúa cứu chuộc, nhưng ma quỷ vẫn không ngừng tìm cách thống trị con.
Người Ghê-ra-sa bị trần trụi, sống chui rúc ở các mồ mả, anh bẻ gãy xiềng xích gông cùm, lấy đá vạch hết mình mẩy và tru trếu, nghe dễ sợ và không ai trị nổi. Anh bị quỷ ô uế làm cho ra như thế, nhưng Chúa đã giải thoát anh.
Lạy Chúa Giêsu, con dễ dàng bị ma quỷ khéo léo lôi con vào cảnh tương tự. Con sẽ trần trụi, mất hết mọi nhân đức và công phúc. Con sẽ sống chui rúc và cứ lén lút phạm tội. Con sẽ có sức mạnh của ma quỷ vì con không sao bỏ được những thói quen xấu xa. Con cũng làm khổ chính mình vì hàng ngày bị bối rối lo âu, và không ai có thể đem lại cho con sự bình an nội tâm.
Chỉ có Chúa là Đấng Thánh, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ mới có thể giải thoát con. Lạy Chúa, xin cứu giúp con.
Chúa không muốn cho người thanh niên Ghê-ra-sa đi cùng Chúa, nhưng muốn anh ở lại với thân nhân và làm chứng về Chúa cho họ. Chúa cũng không cất con khỏi thế gian, nhưng muốn con loan truyền quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Xin giúp con trong sứ vụ này. Amen.
Ghi nhớ: ”Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này”.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám ở Ghêrasa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bị cám dỗ, Samson vào bẫy của Philitin khi bị cạo trọc đầu, ông mất sức, không còn được sức mạnh như trước đó, nên bị quân Philitin bắt trói, khoét mắt, xiềng lại, bỏ tù và bắt xay cối xay (x. Tph 16,19-21).
Ma quỷ cũng vậy, chúng cám dỗ chúng ta theo chúng, rồi chúng khoét mắt đức tin của chúng ta. Và khi chúng ta không còn ánh sáng đức tin chiếu soi nữa, ma quỷ dẫn chúng ta dễ dàng đi trên con đường tội lỗi để sa xuống hỏa ngục với chúng.
Suy Niệm
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa… khi ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của con rắn là Satan, một thế lực đối nghịch với “Thiên Chúa - Đấng Thánh” và ảnh hưởng của chúng lan tràn trên cuộc sống con người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy ma quỷ bị Chúa Giêsu vạch mặt chỉ tên là “thần ô uế”. Như thế, “thần ô uế” - ma quỷ là có thật, có thể gây ảnh hưởng trên con người như: quấy, phá, hành, hại, ám và nhập.
Chúa Giêsu Kitô là “Đấng Thánh” đến cứu vớt tất cả mọi người, đặc biệt những ai đang bị quyền lực Satan trói buộc. Ngài dùng uy quyền của mình xua đuổi “thần ô uế” cho người đang bị chúng khống chế được tự do.
Qua mọi thời, ma quỷ vẫn luôn tìm cách ảnh hưởng trên cuộc sống con người. Chúng là dối gian; hận thù; ghen ghét… Chúng ta chỉ thật sự thoát khỏi sự khống chế của “thần ô uế”, của ma quỷ, khi tin và phó thác hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa - Đấng Thánh là ánh sáng chiến thắng bóng tối - Satan để người tin sống trong tự do hoàn toàn của con cái Thiên Chúa…
Suy Niệm 9: Chúa Kitô trừ quỷ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Vừa đến miền Ghêrasa, Chúa Giêsu gặp ngay một người bị quỷ ám. Anh ta thường ở nơi mồ mả. Thấy Chúa Giêsu, anh ta tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa và xin Người đừng làm khổ anh. Chúa đuổi quỷ ra khỏi anh. Ma quỷ liền xuất ra khỏi người đó và nhập vào đàn heo, làm cho đàn heo lao mình xuống biển chết hết! Những người chăn heo thấy vậy hoảng hốt chạy báo tin khắp nơi. Dân chúng tuốn đến thì thấy người trước kia bị quỷ ám đang tề chỉnh ngồi đó. Họ khiếp sợ nên xin Chúa rời khỏi địa hạt của họ.
2. Người Do thái thời Chúa Giêsu có cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó, cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình anh rất sống động: Chúa Giêsu đã trục xuất cả đạo binh ma quỉ ra khỏi người bị quỉ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
3. Tình trạng người bị quỉ ám được nói đến trong Tin Mừng hôm nay rất đáng thương. Dưới sự kềm tỏa của thần ô uế, anh ta đã bị tước mất tình người và bị cách ly với cộng đoàn. Đó là hình ảnh của những ai đang còn sống dưới sự chi phối của ma quỷ. Họ có thể là những người tôn thờ ma quỷ, qua việc sử dụng bùa ngải; hoặc đang sống trong sự chối bỏ Thiên Chúa và chìm đắm trong tội lỗi. Họ có thể là những dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng, đang sống trong sự tối tăm lầm lạc.
4. Chúa Giêsu đối diện với cả một “cơ binh quỷ dữ” để dành lấy một con người. Chúa Giêsu không chỉ kéo một con người ra khỏi tội lỗi và đời sống xấu xa, mà còn nhấn chìm tận căn cả bè lũ satan cùng với sự ô uế tội lỗi, mà chuyện gần cả hai ngàn con heo từ “trên núi” lao “xuống biển” chết sạch là một biểu tượng.
Cả đàn heo đã lao từ trên núi xuổng chết đuối nói lên ý nghĩa: Núi trong quan niệm Thánh Kinh của Do thái là nơi hiện diện của thần linh; biển là nơi ẩn náu của ma quỷ xấu xa tội lỗi. Chúa Giêsu đã tống xuống biển cả và dìm chết ma quỷ và sự ô uế, đòi lại chủ quyền cho Thiên Chúa, lấy lại sự thánh thiện và đời sống thiêng liêng trong sạch cho con người. Đó là nội dung Tin Mừng cần chuyển tải, chứ không phải tính lịch sử của câu chuyện.
Như vậy, trước ánh sáng thần hóa của Thiên Chúa thì mọi thứ nhơ uế bị quét sạch; có Chúa Giêsu ngự trong con người thì quỷ ma không thể làm gì được. Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đang được ở trên “núi thánh” của Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để Ngài xua đuổi “bầy heo ma quỷ” ra khỏi tâm hồn chúng ta (Hiền Lâm).
5. Chúa Giêsu đã bầy tỏ quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô song. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, trước tiên thánh Marcô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sức ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỷ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỷ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.
6. Truyện: Ai lớn hơn.
Một bé trai hỏi bố:
- Quỷ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỷ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỷ.
Suy Niệm 10: Quyền của Chúa Giêsu trên ma quỷ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Các đoạn Tin Mừng từ Thứ Bảy tuần trước đến Thứ Ba tuần này lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh của mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Phép lạ này mặc khải uy quyền Chúa Giêsu chiến thắng uy quyền ma quỷ
- Người bị quỷ ám trong chuyện này là sào huyệt của tất cả quyền lực ma quỷ được tổng động viên. Hắn tự xưng "Tên tôi là đạo binh" (câu 9).
- Ảnh hưởng của việc bị quỷ khống chế
a/ Mất tương giao hài hòa với đồng loại ""Anh ta thường sống trong đám mồ mả" (câu 3)
b/ Mất tự do đích thực "bị gông cùm xiềng xích" (câu 4)
c/ Tự hại mình "Lấy đá đập vào mình" (câu 5)
d/ Mất nhân phẩm "tru tréo" (câu 5), không ăn mặc đàng hoàng, muốn nhập vào đàn heo (câu 12).
- Kết quả khi được Chúa giải thoát
a/ Nhân phẩm được trả lại "Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo" (câu 15)
b/ Gắn bó với Chúa "Anh nài xin được ở với Ngài" (câu 18)
c/ Hội nhập lại trong tương giao đồng loại "Anh cứ về nhà với thân nhân" (câu 19).
d/ Thành sứ giả của Tin Mừng "Anh ra đi và bắt đầu rao truyền... tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho anh" (câu 20).
Thế nhưng dân làng xin Chúa Giêsu rời khỏi vùng đất của họ vì tiếc của (đã bị chết chừng 2000 con heo), họ từ chối Đấng Messia!
B.... nẩy mầm.
1. Phản ứng của người bị quỷ khống chế là không muốn được giải thoát khỏi sự khống chế đó Người bị quỷ ám này nói với Chúa Giêsu "Chuyện tôi can gì đến ông?... Tôi van ông đừng hành hạ tôi". Chúa phải hành động mạnh "Thần ô uế kia, hãy xuất khỏi người này" - Khi ma quỷ khống chế ta, nó cũng xúi ta trốn tránh Chúa và không muốn được giải thoát. Xin cho con đừng mù quáng muốn ở lì mãi trong tội và trốn tránh những người thiện chí Chúa gởi đến cứu giúp con...
2. Chúa Giêsu phân biệt rất rõ Ngài cương quyết tiêu diệt thế lực của ma quỷ, nhưng vẫn yêu thương và muốn giải thoát những kẻ bị ma quỷ khống chế.
3. Trong Thánh Kinh, heo là hình ảnh của ô uế và của thế lực gian tà. Làng Ghêrasa này đầy heo nhưng lại tiếc rẻ khi đàn heo ấy chết đuối. Họ lại còn xin Chúa Giêsu rời khỏi làng họ. Khi ta bám vào của cải vật chất thì ma quỷ cũng theo đó mà bám víu ta.
4. Có lần Napoleon cầm tấm bản đồ thế giới, chỉ vào nước Anh, tức tối nhận xét "Nếu không có cái chấm đỏ này thì Ta đã là bá chủ thế giới.
Ma quỉ cũng chỉ vào thánh giá Đức Kitô nói "Nếu không có chấm đỏ này thì ta đã bá chủ thế giới." (Góp nhặt)
5. Một thanh niên say rượu, đi ngang qua đám đông đang nghe giảng. Anh muốn tỏ ra "ta đây" và làm cho nhà giảng thuyết mất mặt chơi. "Chào, này ông ơi, về nhà đi thôi, đừng giảng nữa, ma quỉ chết hết rồi!" Vị giảng thuyết lạnh lùng nhìn anh nói "Ma quỉ chết rồi à ? Vậy là từ nay anh mồ côi rồi!" Chàng ta xấu hổ lủi mất, trong khi đám đông được trận cười khoái chí. (Góp nhặt)
6. "Chúa Giêsu bảo kẻ trước kia đã bị quỷ ám ‘Anh cứ về nhà với thân nhân và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh và Người đã thương anh như thế nào" (Mc 5,19)
Sau khi được chữa lành, người trước kia đã bị quỷ ám nài xin Chúa cho được ở với Người. Nhưng Người đã không đồng ý và bảo anh trở về nhà loan truyền và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa những người thân yêu của mình.
Chúa Giêsu đã làm ơn cho anh nhưng không muốn giữ anh lại với Người để kẻ chịu ơn phải suốt đời đền ơn đáp nghĩa. Người chỉ muốn ơn ban chảy tràn đến mọi người, qua trung gian của những kẻ đã một lần được yêu thương và chữa lành.
Con đường dẫn ta đến với Chúa chẳng bao giờ là đường cùng hay ngõ cụt nhưng luôn dẫn ta đến với mọi người, trước hết là những người thân cận, rồi đến những người đáng thương hay đang cần được yêu thương và giúp đỡ.
Chúa ơi! Đường của con là Chúa. Tình yêu của con là Chúa. Và quê hương của con cũng là Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 11: Uy quyền của Chúa Giêsu trên ma quỉ
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng thứ bảy tuần trước cho chúng ta thấy uy quyền của Chúa trên sức mạnh của thiên nhiên: Chúa dẹp yên sóng gió bão táp.
Phép lạ trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy uy quyền của Chúa Giêsu trên ma quỉ: Chúa chiến thắng ma quỷ.
Khi được Chúa giải thoát thì kết quả hết sức tốt đẹp:
1. Chúa Giêsu đã bày tỏ bày quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Chúa Giêsu có một quyền năng vô địch.
Một bé trai hỏi bố: - Quỉ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỉ lơn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỉ,
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Marcô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỉ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định là phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỉ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.
Hơn nữa việc xua đuổi cả một bày quỉ cho nó nhập vào đàn heo làm cho đàn heo chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ một người được ơn giải thoát đã có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do Thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ hơn ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.
2. Việc Chúa Giêsu làm phép lạ này ở miền đất của dân ngoại chứng tỏ sứ mạng của Chúa Giêsu không còn đóng khung trong miền đất của người Do Thái nữa. Ngài đến để cứu vớt tất cả mọi người. Và sau khi Phục Sinh, Chúa còn sai các Tông Đồ đi rao giảng cho muôn dân. Rồi khi các người Kitô hữu đầu tiên ở Jêrusalem bị bắt bớ thì họ đã chạy sang tận bên kia bờ Địa Trung Hải. Tại đây họ cũng đã bắt đầu rao giảng về Chúa cho những cư dân ở đó. Rồi từ đó, Tin Mừng được loan đến cho những nơi khác.
Tin Mừng được loan báo cũng có nghĩa là quyền lực của Satan bị đẩy lui.
Có một người đàn ông ở Scotland. Người này bị ngã gãy lưng vào năm 15 tuổi. Suốt 40 nằm trên giường bịnh, nỗi đau của ông không thề nào tả xiết. Nhưng ơn Chúa đã giúp ông luôn bình tâm chấp nhận. Có lần ông được hỏi:
- Có bao giờ ma quỉ cám dỗ ông không, chẳng hạn nó bảo ông Thiên Chúa là quan án nghiêm khắc để ông nghi ngờ tình Ngài.
Ông đáp: “Có chứ, nhiều lần lắm. Khi thấy người khác giàu có, Satan bảo: nếu Chúa tốt lành, hẳn Ngài đã cho anh khỏe mạnh giàu sang, chứ đâu anh phải khốn khổ như vậy.
- Thế ông làm gì khi Satan cám dỗ?
- À, con dẫn Satan đến núi Calvê, chỉ cho nó thấy Đức Giêsu với các dấu đinh và nói: “Ngài không yêu tôi đó sao? Thế là nó cút, để tôi yên”.
3. Sau khi được chữa lành, người trước kia đã bị quỷ ám nài xin Chúa cho được ở với Người. Nhưng Người đã không đồng ý và bảo anh trở về nhà loan truyền và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa những người thân yêu của mình.
Chúa Giêsu đã làm ơn cho anh nhưng không muốn giữ anh lại với Người để kẻ chịu ơn phải suốt đời đền ơn đáp nghĩa. Người chỉ muốn ơn ban chảy tràn đến mọi người, qua trung gian của những kẻ đã một lần được yêu thương và chữa lành.
Con đường dẫn ta đến với Chúa chẳng bao giờ là đường cùng hay ngõ cụt nhưng luôn dẫn ta đến với mọi người, trước hết là những người thân cận, rồi đến những người đáng thương hay đang cần được yêu thương và giúp đỡ.
Chúa ơi! Đường của con là Chúa. Tình yêu của con là Chúa. Và quê hương của con cũng là Chúa. (Epphata)
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao
người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát. (Rabboni).
28/01 Hoạt động của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 1, 21-28
Hoạt động của Chúa Giêsu.
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
Lời Chúa: Mc 1, 21-28
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người".
Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Dnl 18,15-20; 1Cr 7,32-35; Mc 1,21-28
MỤC LỤC
1. Hãy xuất khỏi người này--‘Manna’
2. Chúng phải tuân lệnh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
3. Đấng Thánh của Thiên Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
4. Ma quỷ thời đại mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Diệt trừ sự dữ--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Lời đầy uy quyền--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Hãy tin theo Đức Giêsu--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
8. Hãy theo Đức Giêsu, vì Người là Đấng rất uy quyền--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
9. Chân tướng của Đức Giêsu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Quyền năng trên ma quỷ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
11. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Đan Vinh
12. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
13. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
14. “Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
15. Nhờ Lời Chúa để đẩy lùi quyền lực Satan--Lm. Ignatiô Trần Ngà
16. Đức Giêsu, Đấng giải thoát ta khỏi sự dữ--An Phong, OP.
17. "Con Người đến để phục vụ"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Tin Mừng về Lòng Thương Xót--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
19. Ma quỷ ngày nay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
20. Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa--HN sưu tầm -thanhlinh.net
21. Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa--HN sưu tầm -thanhlinh.net
22. Lời giảng quyền uy và tân kỳ--AM Trần Bình An
23. Tôi biết Ông là ai!--AM Trần Bình An
24. Giảng dạy như có thẩm quyền--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
25. Chạy theo tà thần--Anmai, CSsR
26. Lời quyền năng cứu độ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
27. Chúa quyền năng, vì Chúa là Đấng Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
28. Uy quyền--Lm. Vũ Đình Tường
29. Cho phép--Lm. Vũ Đình Tường
30. Vác đời--Trầm Thiên Thu
31. Chuyện lạ--Trầm Thiên Thu
32. Vị Tôn Sư đích thực--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
33. Sức mạnh Lời Chúa--Lm. John Nguyễn Tươi
34. Sức mạnh siêu phàm--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
35. Đấng có uy quyền--Radio Veritas Asia
36. Người trừ quỷ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
37. Tại Hội đường Caphácnaum--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
38. Chúa Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa uy quyền--Pm. Cao Huy Hoàng
39. Hãy nói cho tôi những tin tức tốt lành--John W. Martens – Lm GB Văn Hào SDB chuyển ngữ
40. “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
41. Một ngày ở Ca-phác-na-um--P. Trần Đình Phan Tiến
42. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm Trầm Phúc
43. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Website Giáo Phận Thái Bình
44. Chứng nhân trong cuộc sống--Lm. Giuse Lê Danh Tường
45. Ngài dạy dỗ họ như Đấng có uy quyền--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
46. Xua đuổi ma quỷ--Arthur Tone
47. Lời ngôn sứ--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
48. Người giảng dạy với uy quyền--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
49. Chúa Giêsu ban lề luật mới--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
50. “Lời Chúa là đèn soi cho con bước”--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
51. Như Đấng có thẩm quyền—Lm. G. Nguyễn Cao Luật, OP
52. Quyền năng và tình yêu--Lm. Minh Anh
53. Sức Mạnh Lời Chúa--Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
54. Người đi đến đâu thì thi ân giáng phúc đến đấy--Phêrô Mai Viết Độ, OP
55. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Trọng Hương
56. Ma quỷ thời đại mới--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
57. Vương quốc Thiên Chúa--Lm. Mark Link, SJ.
58. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Gioan Trần Khả
59. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Jacques Hervieux
60. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Noel Quesson
61. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Noel Quesson
62. Các bạn có tin ma quỷ không?--Guy Morin
63. Đấng Thánh của Thiên Chúa--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
64. Chúa Giêsu Kitô đã thắng satan--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
65. Ý nghĩa của một lần trừ quỷ--Lm. FX. Vũ Phan Long
66. Chúa Nhật 4 Thường Niên--William Barclay
67. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
68. Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
69. Sống Lời Chúa sẽ trừ được quỷ trong ta--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
70. Chữ tín
71. Chúa Giêsu và dân chúng
72. Ma quỷ
73. Bóng tối
74. Chúa Nhật 4 Thường Niên
75. Ma quỷ
76. Ma quỷ
77. Trong đời
78. Quyền năng
79. Quyền năng
80. Mặc chúng tôi
81. Giêsu Nagiarét
82. Chúa Nhật 4 Thường Niên
83. Uy quyền của Chúa Giêsu
84. Ma quỷ. 153
85. Chúa Nhật 4 Thường Niên
86. Uy quyền
87. Chúa Nhật 4 Thường Niên
88. Chúa Nhật 4 Thường Niên
89. Chúa Nhật 4 Thường Niên
90. Thắng tà thần nhờ quyền năng Chúa--Huệ Minh
1.Hãy xuất khỏi người này--‘Manna’
Suy Niệm
Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.
Maccô không cho ta biết Đức Giêsu đã giảng gì.
Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ,
và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền.
Còn Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền.
Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và đầy uy quyền,
Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến,
triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy
đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ.
Đức Giêsu ra lệnh: "Hãy câm đi và xuất khỏi người này."
Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở.
Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Đức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ.
Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế.
Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ.
Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó,
và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta.
Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn.
Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào.
Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều.
Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa.
Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo.
"Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả".
Làm gì có hạnh phúc vững bền
khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám.
Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác:
tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng:
tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình.
Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên cần Đấng Thánh của Thiên Chúa.
"Hãy xuất ra khỏi người này":
Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?
"Hãy xuất ra khỏi thế giới này":
Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lời xin cuối của kinh Lạy Cha: Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Theo sách Giáo Lý Công Giáo, sự dữ ở đây để chỉ một nhân vật, đó là Xa-tan, là vị thiên thần đã chống lại Thiên Chúa, là ma quỷ (số 2851). Bạn tin có Xa-tan, có ma quỷ không? Ma quỷ đã có tác động xấu nào trên đời bạn?
Ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (Ga 8,44). Có khi nào việc bạn làm lúc đầu thấy là tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi nào bị ma quỷ đánh lừa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
2.Chúng phải tuân lệnh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Có quỷ không? Quỷ bởi đâu mà ra? Quỷ có đáng sợ không?
Đây là những câu hỏi mà các kitô hữu thường đặt ra.
Sách Giáo lý Công giáo cho ta câu trả lời (GLCG 2538).
Quỷ vốn là những thụ tạo tốt đẹp do Thiên Chúa dựng nên.
Sau khi phạm tội bất phục tùng, các thiên thần trở thành quỷ.
Quỷ luôn chống lại Thiên Chúa, và cám dỗ con người xa Chúa.
Quỷ vừa ranh ma, vừa lắm quyền năng.
Nhưng may thay Thiên Chúa lại mạnh hơn quỷ gấp bội.
Từ nay cho đến tận thế, cuộc chiến giữa hai bên vẫn kéo dài.
Thiên Chúa là Đấng có thể thắng quỷ và bảo vệ chúng ta.
Tin Mừng Máccô hay kể chuyện những người bị quỷ ám
được Đức Giêsu chữa lành (Mc 1,21-28; 5,1-20; 7,24-30; 9,17-29).
Trong tất cả những truyện này, quỷ luôn được gọi là thần ô uế.
Nó nhập vào con người, làm con người mất tự chủ, tự do,
và biến con người thành con rối trong tay nó.
Người bị quỷ nhập phải sống trong đau khổ (Mc 5,3-5; 9,32).
Đối với Đức Giêsu, trừ quỷ đơn giản là đuổi nó ra,
vĩnh viễn không cho nó còn quyền gì trên con người.
Sau khi được trừ quỷ, người đó có lại sự bình an
và trở lại cuộc sống bình thường (Mc 5,15; 7,30; 9,27).
Có người nghĩ rằng người bị quỷ ám
chẳng qua là người mắc bệnh tâm thần,
vì dấu hiệu bên ngoài của đôi bên không khác nhau là mấy.
Nhưng Đức Giêsu đã thực sự đuổi thần ô uế ra khỏi con người.
Thần này không chịu ra khỏi căn nhà nó chiếm hữu.
Chỉ Đấng có sức mạnh vượt trội mới tống được nó ra.
Đức Giêsu không trừ quỷ chỉ nhằm mục đích chữa bệnh.
Ngài trừ quỷ để làm chứng về lời mình loan báo:
“Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,15).
Sự sụp đổ của nước của quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mc 3,22)
là dấu hiệu rõ ràng cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến.
Đức Giêsu đã thắng Xatan cám dỗ Ngài ở hoang địa (Mc 1,13).
Cả sứ vụ của Ngài sau này cũng kéo dài chiến thắng đó.
Phép lạ đầu tiên của Tin Mừng Máccô là phép lạ trừ quỷ.
Phép lạ này xảy ra vào ngày sabát nơi hội đường Caphácnaum.
Đức Giêsu được ông trưởng hội đường mời đọc Sách Thánh,
và sau đó đứng giải thích đoạn sách vừa đọc.
Thính giả sững sờ vì Ngài dạy như người tự mình có uy quyền,
khác hẳn với lối giảng dạy của các kinh sư,
vì các kinh sư hay dựa vào uy thế của truyền thống.
Chính lời giảng dạy đầy uy quyền này đã làm thần ô uế khiếp sợ.
Nó biết Đức Giêsu là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sự thánh thiện của Ngài đối nghịch với sự ô uế của nó.
Bởi đó, dù Đức Giêsu chưa ra tay, nó đã thấy mình bị đe dọa.
Không phải chỉ mình nó, mà tất cả đồng bọn của nó.
“Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?” (Mc 1,24).
Nó biết mục tiêu của sự hiện diện và sứ mạng của Ngài.
Đức Giêsu đã dạy bằng lời đầy uy quyền,
Ngài cũng trừ quỷ bằng một lời: “Xuất ra khỏi người này!”
Thần ô uế thét to và xuất ra một cách khó khăn,
vì nó không hề muốn bị trục xuất khỏi nơi êm ấm.
Lời của Đức Giêsu có quyền bắt các thần ô uế phải vâng lệnh.
Người Công giáo sống trong một thế giới mà người ta nói đến
bùa ngải, thư ếm, bói toán, lên đồng, cầu cơ…
Có những giáo phái thờ Xatan ở nước ngoài.
Người bình dân tin cô hồn nhập vào hay khuấy phá người sống.
Dù sao theo Giáo lý Công giáo quỷ là có thật.
Nước của Xatan cũng có thật và đang hoành hành trên địa cầu.
Đức Giêsu đã bị nó cám dỗ và đã đối mặt với nó.
Trong Kinh Lạy Cha, Ngài dạy ta: “xin cứu chúng con khỏi Ác thần”
Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần nhắc đến nó.
Mỗi giáo phận có một vị được đức giám mục giao nhiệm vụ trừ quỷ.
Chúng ta không hoảng hốt vì đôi khi thấy quỷ tấn công mình.
Chỉ mong chúng ta giữ lời đã hứa khi chịu Phép Rửa:
“từ bỏ Xatan và những việc làm của nó”
và vững tin vào Đấng mạnh hơn quỷ là Đấng Thánh mang tên Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Chúa không cho phép.
Cả những chuyện xấu xa tồi tệ mà con người làm cho nhau.
Cả sự dữ đang hoành hành do Xatan gây ra trên mặt đất.
Nhiều khi chúng con không hiểu được
tại sao Chúa lại cho phép xảy ra những chuyện như thế.
Nhưng chúng con tin rằng, đối với ai yêu mến Chúa,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ.
Chúng con tin rằng những gì Chúa cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Chúa đau đớn khi phải dùng roi mà sửa dạy
như người cha sửa dạy con mình để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Chúa muốn nhắc nhở,
để cải hóa bản thân và điều chỉnh đời mình cho hợp với ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái,
trên đường về quê trời,
Chúa muốn chúng con trải qua những thử thách cam go,
như bệnh tật, khổ đau và cái chết,
để chúng con nên cứng cáp và trưởng thành.
Xin cho chúng con đừng nổi loạn trước thử thách,
nhưng biết nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá,
để nhẫn nại và giữ vững niềm hy vọng,
kể cả khi thấy Thiên Chúa vắng bóng, thinh lặng hay khoanh tay.
Ước gì dịch bệnh làm chúng con ý thức sự bất lực của mình,
để tha thiết cầu xin và tín thác vào tình yêu Chúa.
Ước gì khi Chúa cho chúng con khỏi bệnh,
chúng con lại thấy sự sống của Chúa chiến thắng vinh quang.
3.Đấng Thánh của Thiên Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô,
ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mát-thêu hay Gio-an.
Nhưng bù lại Mác-cô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay
là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Mác-cô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Mác-cô không kể lại nội dung của bài giảng,
chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài
vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ.
Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu,
anh ta sợ hãi nên kêu lên:
“Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư?
Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh
cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,
vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung,
và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ,
lời quát mắng, lời ra lệnh đầy uy quyền,
lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa,
bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng
để anh ấy được thật sự là mình,
được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm,
từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần,
bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn,
sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
4.Ma quỷ thời đại mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
5.Diệt trừ sự dữ--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Độc giả hôm nay cũng như những người chứng kiến sự kiện mà thánh Mác-cô thuật lại đều ngỡ ngàng và thú vị ở chi tiết: chính thần ô uế công khai tuyên xưng thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu. Theo khái niệm của Kinh Thánh, thần ô uế vừa tượng trưng cho ma quỷ Satan, vừa là lực lượng đối lập với những gì là thiện hảo, ngay lành và thậm chí còn đối lập với chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thần ô uế đã tuyên xưng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã bắt nó phải buông tha người bị nó ám. Thánh Mác-cô hay diễn tả uy quyền của Chúa bằng cách ra lệnh cho các thế lực thiên nhiên hay ma quỷ, như trong Mc 4,9, Chúa đe gió và biển: “Im đi, câm đi”; Chúa ra lệnh cho người bại tay (x. 3,5). Chắc hẳn lời tuyên xưng của thần ô uế đã giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu, nhận ra Người là Đấng đến trần gian để xua đuổi thế lực của tối tăm, diệt trừ sự dữ và xây dựng một vương quốc thánh thiện, nhằm thánh hóa con người.
Thánh Mác-cô cho chúng ta một chi tiết đặc biệt nữa: Hội đường là nơi thánh thiêng của người Do Thái cũng giống như nhà thờ của các Kitô hữu ngày nay. Vào mỗi ngày Sa-bát, mọi người đều tập trung ở đó để đọc và nghe Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu, khi trở về thăm quê hương Nagiarét, đã vào hội đường và đọc Kinh Thánh trước mặt cộng đoàn (x Lc,4,16-28). Vậy mà, dưới ngòi bút tường thuật của thánh Mác-cô, nơi ấy cũng có thần ô uế ám ảnh. Chính nơi thờ phượng thiêng liêng của người Do Thái cũng có sự hiện diện của Satan. Với những chi tiết này, Thánh Mác-cô có ngầm ý khẳng định với chúng ta rằng, Chúa Giêsu đến để canh tân phụng vụ Do Thái đã trở nên lỗi thời và còn nhiều khiếm khuyết. Sau này, chính Chúa Giêsu tuyên bố Người là Đền thờ đích thực. Nền phụng vụ mới mà Chúa Giêsu đề nghị, đó chính là thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý. Sự hiện diện của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi đền thờ hay hội đường, tình yêu thương của Chúa không phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ, nhưng ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Đức Chúa Trời. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, lời ca tụng tôn vinh Chúa phải xuất phát từ tấm lòng chân thành và phải đi đôi với thiện chí để nên trọn lành.
Sứ mạng của Đấng Thiên sai là đẩy lui quyền lực của bóng tối đang bao phủ nhân loại. Chúa Giêsu đã đến trần gian để giải phóng con người khỏi ách kìm kẹp của ma quỷ, là quyền lực của tối tăm. Người là ánh sáng trần gian đã bừng lên trong tăm tối để dẫn đưa con người về chính lộ. Những người Do Thái chuyên tâm đọc Sách Thánh sẽ dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu chính là vị ngôn sứ mà Cựu ước đã loan báo. Sách Đệ Nhị Luật ghi lại những lời giáo huấn của ông Môisen, vị thủ lãnh đã dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập. Trong những lời trăng trối cuối đời, ông Môisen đã nói đến một vị ngôn sứ Chúa sẽ gửi đến. Vị này cũng đầy quyền uy để lãnh đạo dân như ông Môisen, và còn hơn cả Môisen nữa. Sứ mạng của vị Ngôn sứ này là đem Lời Chúa làm lương thực nuôi dân chúng (Bài đọc I). Chúa Giêsu chính là vị Ngôn sứ muôn dân mong đợi. Ngài đến để thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi, để thiết lập một nền phụng vụ đích thực, không còn những uế tạp trần tục, nhưng có khả năng thánh hóa con người. Những người có mặt hôm đó tại hội đường, từ tâm trạng sững sờ đến trầm trồ thán phục: “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”.
Hơn hai ngàn năm đã qua, Giáo Hội không ngừng loan báo Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là Đấng cứu độ và giải phóng con người. Giáo Hội cũng đang tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhằm đem ơn cứu độ đến cho mọi dân tộc. Loan báo Đức Giêsu cũng là sứ mạng của mỗi Kitô hữu. Đó chính là nhiệm vụ chúng ta đã lãnh nhận khi được chịu phép Thanh tẩy. Tuy vậy, trước khi nói đến loan truyền Tin Mừng cho người khác, mỗi chúng ta phải sống Tin Mừng trong cuộc sống cụ thể hằng ngày. Trong con người của chúng ta, đang hiện hữu vừa ánh sáng vừa bóng tối, vừa hình ảnh của Thiên Chúa nhưng cũng vừa hình ảnh của Satan. Chính vì thế mà chúng ta phải thanh tẩy bản thân mỗi ngày. Ơn gọi nên thánh không phải là những điều quá sức con người, mà đó là những điều rất bình dị trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã cụ thể hóa đời sống Kitô hữu bằng cách khuyên mỗi người trong gia đình và trong cộng đoàn hãy chuyên tâm thực thi bổn phận của mình đối với Chúa và đối với tha nhân. Người lập gia đình thì chăm lo việc gia đình. Người tu hành thì chăm lo việc Chúa. Những công việc đời thường, nếu được chu toàn với thiện ý và với tâm tình Đức tin, thì cũng góp phần làm cho chúng ta nên hoàn thiện (Bài đọc II).
Là Kitô hữu, chúng ta được tham dự vào chức ngôn sứ của Chúa Giêsu. Mục đích của chức năng này là rao giảng Lời Chúa. Được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu nhờ bí tích Thanh Tẩy, người Kitô hữu cũng đang cùng với Chúa Giêsu để diệt trừ sự dữ, đẩy lui quyền lực của tối tăm và làm cho ánh sáng cứu độ bừng lên nơi mọi nẻo đường của cuộc sống. Những người dân thành Caphanaum chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu làm đã đồn ra khắp vùng. Mỗi chúng ta khi cảm nghiệm những điều lạ lùng Chúa làm cho mình, hãy nỗ lực cố gắng để nói về Chúa cho mọi người xung quanh, để kể lại những kỳ công của Người.
6.Lời đầy uy quyền--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cả hội đường đều ngạc nhiên về lời giảng và lời trừ quỷ của Đức Giêsu. Tại sao họ kinh ngạc? Họ kinh ngạc thấy Đức Giêsu là một thường dân, không có địa vị đạo đời, không phải tư tế, giáo trưởng, luật sĩ, biệt phái hay quan chức. Người chỉ là thứ dân, thợ mộc làm công, làm mướn, dám đứng lên đăng đàn thuyết pháp trước một cử tọa đông đủ các nhân vật quan trọng của một thành phố sầm uất phồn thịnh như Caphanaum.
Người ta càng kinh ngạc hơn nữa trước những lời đầy uy quyền. Lời Người thật khác xa lời của các luật sĩ, giáo trưởng, tuy họ rất thông thạo tập tục, luật lệ kinh điển tiền nhân và các tiên tri, nhưng họ chỉ biết giải thích tỉ mỉ, khô khan theo mạch chữ chết, một cách nhồi sọ máy móc vô hồn. Phần Đức Giêsu, Người dạy một đạo lý mới, đạo lý phát xuất từ tâm tư sống động, từ lòng xác tín mãnh liệt, từ chính cuộc sống sung mãn của con người, cuộc sống tôn giáo thâm sâu huyền diệu, cuộc sống linh thiêng hài hòa với kinh nghiệm sống đạo thực tế của chính bản thân. Người tô điểm lời đạo lý bởi trời bằng nhiều cảnh sắc thiên nhiên phong phú. Bất cứ ai lắng nghe học hỏi, đều nắm bắt ý nghĩa đích thực vừa ý mình. Lời đạo lý của Người chứa ẩn nhiều kho tàng quý giá, ai mộ mến tìm tòi, suy gẫm, chiêm niệm đều được sống sung mãn dồi dào.
Tuy nhiên, Người trình bày ý tứ rất đơn sơ trong sáng, hợp với mọi tâm trí người ta. Do đó, họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa đang bao trùm khắp muôn dân, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn, thống trị hay nô lệ, Do thái hay Hy lạp. Tất cả đều là anh em, con một Cha chung trên trời. Lời Người đang đổ tràn vào lòng họ tình yêu vô biên trong một thế giới đầy chia rẽ, hận thù. Họ cảm động trước lòng nhân từ của Thiên Chúa bao dung, đầy lòng thương xót hết mọi tội nhân, như mục tử tốt lành đi tìm chiên lạc giữa sói rừng. Lời Người làm cho họ sống lại, thoát khỏi sự chết dưới ách tội lỗi và gông cùm quỷ dữ. Lời Người khiến quỷ dữ đang trói buộc, ám hại con người phải thét lên tuyệt vọng: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi”. Lời Người là lời cực thánh đầy sức mạnh thánh hóa khiến quỷ không chịu nổi sự thánh thiện của Người, nên chúng phải thốt ra, tuyên xưng cho mọi người biết: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô chỉ được đưa lên tầng trời thứ ba thôi, thế mà không thể tả được những sự lạ lùng ông thấy. Ông chỉ kêu lên: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm thấy bao giờ”. Người dưới đất kể chuyện trên trời còn lạ lùng như vậy. Huống chi lời người trên trời giảng những sự trên trời còn tuyệt diệu biết bao! Đến nỗi thánh Marcô chỉ có thể tả lại sự xúc động tột độ của thính giả bằng tiếng: thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên - Mọi người đều kinh ngạc.
Họ kinh ngạc, nhưng họ chưa nhận ra được tại sao lời Người đầy uy quyền, lời Người trừ khử quỷ dữ?
Lời Người đầy uy quyền vì lời Người là lời của Thiên Chúa, chứ không phải của các kinh sư hay của vua chúa phàm trần. Lời Người cứu chữa kẻ bị quỷ ám, trừ khử quỷ dữ vì lời Người là lời Thiên Chúa. Đây thực sự là điều rất kinh ngạc: Thiên Chúa đã đến ở cùng loài người. Loài người không còn xa lạc Thiên Chúa nữa, không còn dưới ách tội lỗi, dưới ách sa tan. Loài người không còn chết nữa, loài người sẽ được sống vinh quang trong gia đình Thiên Chúa, nếu họ nhận biết và thực thi lời Người, sống hòa hợp và yêu mến Người.
Nếu chúng ta giống như người Do thái chỉ ngạc nhiên thấy vẻ uy quyền bề ngoài của Đức Giêsu như xem xiếc, xem kịch, thì thật vô ích và đáng thương.
Thực ra, bây giờ chúng ta không được trực tiếp mắt thấy, tai nghe những việc lạ lùng cụ thể của Đức Giêsu nên không còn ngạc nhiên như người Do thái xưa. Nhưng chúng ta hơn người Do thái, đã được phúc học hỏi biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng quyền năng thánh thiện vô cùng. Lời Người là lời hằng sống, lời cứu độ muôn dân. Chúng ta càng phải có trách nhiệm đón nhận lời Người để lời Người như nguồn mạch sự sống càng uống càng làm chúng ta mãn nguyện thỏa thuê. Lời Người như “hạt giống tốt gieo vào lòng chúng ta sinh hoa kết quả, hạt được một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi” (Mt. 13, 8). Sinh hoa kết quả cho mình và cho mọi người, như bài đọc một, đòi chúng ta phải thực hiện làm ngôn sứ loan truyền lời đầy uy quyền của Chúa cho mọi người được giáo lý mới, được Đấng Thánh của Thiên Chúa đến giải thoát họ khỏi vòng tội lỗi của quỷ dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vào hội đường giảng dạy, xin Chúa vào giảng dạy trong lòng con, cho con thấm nhuần giáo lý mới của Đấng Thánh. Chúa đã rảo khắp các làng mạc, thành phố (Mc. 1, 9 Lc. 4, 43), xin cho mọi Kitô hữu trở nên những ngôn sứ biết loan truyền lời Chúa cho muôn dân được thấy ánh huy hoàng rực rỡ soi sáng cho họ thoát khỏi cảnh đời lầm than của bóng tối tử thần. Allêluia.
7.Hãy tin theo Đức Giêsu--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để tuyên sấm lời Chúa, nhắc nhở cho dân Do thái biết thi hành những nhiệm vụ của họ. Nhưng thời sau cùng, Thiên Chúa không dùng các ngài nữa mà dùng chính Con của Ngài mà dạy dỗ. Đó là Đức Giêsu Kitô. Ngài là một Tiên tri tuyệt hảo của Thiên Chúa mà Maisen đã loan báo như trong bài đọc 1 hôm nay.
Ngài trực tiếp đến dạy dỗ loài người như một Đấng uy quyền chứ không như các luật sĩ chỉ nhắc lại những lời dạy của người xưa, không thêm không bớt một chữ. Đức Giêsu đến dạy một giáo lý mới mẻ cùng với phép lạ như trừ qủi, làm cho dân chúng hết sức kinh ngạc. Ngài dạy giáo lý riêng của Ngài, có khi loại bỏ, có khi sửa chữa, có khi hoàn chỉnh những lời dạy của người xưa, khi Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng...”.
Chúng ta đã được biết Ngài qua đức tin, đã được học biết giáo lý của Ngài nên chúng ta phải quyết tâm theo Ngài vì chỉ mới Ngài mới có lời ban sự sống đời đời. Chính Ngài là thủ lãnh của đời ta, là thần tượng của sự chọn lựa của chúng ta, nên chúng ta phải quyết tâm tin theo Ngài và phụng sự Ngài cách triệt để trong mỗi hoàn cảnh sống của mỗi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Đnl 18,15-20.
Để đi về đất hứa, dân Do thái đã phải trải qua một thời gian dài 40 năm trong sa mạc. Trước khi vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa mà Chúa đã hứa với cha ông họ, ông Maisen thấy mình không được vào đất hứa và thấy mình đã gần đất xa trời, ông yên ủi dân chúng, khuyên họ đừng buồn tiếc về việc ông ra đi. Đàng khác, ông nói tiên tri cho họ rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Tiên tri tài danh nhất trong lịch sử, không những không kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đấng Tiên tri tuyệt hảo đó sẽ là Đấng Kitô, Đấng Trung gian toàn hảo vì Ngài vừa là Con Thiên Chúa và vừa là con loài người.
+ Bài đọc 2: 1Cr 7,32-35.
Thánh Phaolô bày tỏ quan niệm riêng của Ngài về vấn đề hôn nhân và độc thân. Ngài giải thích lý do tại sao ngài thích bậc độc thân hơn vì nó cho phép người ta chuyên lo “việc Chúa” trong lúc ngày tận thế đã gần kề và nhân loại không cần sinh sôi nữa. Trong hoàn cảnh như thế, tốt hơn hết là gắn bó “trọn vẹn” với Chúa.
Một lần nữa, chúng ta thấy vị Tông đồ phán đoán mọi sự vào một sự tuyệt đối duy nhất. Và ngài cũng không hề hạ giá hôn nhân: khi nói đến hôn nhân, ngài cũng sẽ qui chiếu nó về tình yêu của Chúa (x. Ep 5,21-33).
+ Bài Tin mừng: Mc 1,21-28.
Trong đoạn này, thánh Marcô cho thấy Đức Giêsu Kitô là một Tiên tri ngoại hạng mà Maisen đã tiên báo. Ngài là một Tiên tri có uy quyền trong lời nói và hành động.
* Uy quyền trong lời nói: Trong khi những luật sĩ kèn cựa bàn cãi không dứt về những đoạn văn của Kinh thánh, thì Đức Giêsu khẳng định: Ngài không lặp lại học thuyết của người khác, mà trình bầy học thuyết của Ngài, ví dụ Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng...”.
* Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì qủi ô uế phải xuất khỏi người bị nó nhập, đến nỗi khán thính giả phải thốt lên:”Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tin theo Đấng có uy quyền.
I. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG RẤT UY QUYỀN.
Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt động liền. Hồi bấy giờ xứ Palestine có nhiều hội đường. Những thành phố nhỏ cũng có.
1. Cách tổ chức hội đường.
Hội đường khác với Đền thờ. Hội đường thì có nhiều, còn đền thờ thì chỉ có một ở Giêrusalem. Một buổi họp lại ở hội đường chỉ gồm 3 việc: cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải lời ấy. Không có cử nhạc, hát xướng, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói: Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ chỉ bảo.
Luật pháp qui định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do thái, thì phải có một hội đường. Do đó, bất kỳ nơi nào một nhóm người Do thái định cư thì có một hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi thuận tiện cho người ấy trình bầy. Đức Giêsu cũng biết lợi dụng tập tục này để giới thiệu giáo thuyết của mình.
2. Sinh hoạt trong hội đường.
Việc phụng vụ trong hội đường chia làm hai phần: phần đầu là phần phụng vụ thực sự. Trong phần này, người ta hát các bài chúc tụng Chúa. Phần thứ hai là phần giáo huấn, người ta đọc sách Luật hoặc các tiên tri. Đọc rồi, ông hội trưởng hoặc chính ông mời vị nào có tiếng, cắt nghĩa đoạn văn đó.
Khi mọi người họp lại trong hội đường và buổi họp bắt đầu thì ông trưởng hội đường có nhiệm vụ chỉ định người có trách nhiệm giảng giải, trình bầy kinh điển hay một thông điệp mới. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Đức Giêsu có thể lợi dụng dịp thuận tiện này để trình bầy thông điệp mới mẻ của mình.
Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các luật sĩ là các chuyên viên về luật pháp. Các luật sĩ này là ai? Theo người Do thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật pháp và kinh Torak. Trái tim của luật pháp là Mười điều răn, nhưng người Do thái hiểu luật pháp là 5 quyển đầu của Cựu ước mà ta gọi là Ngũ kinh (Pantateuch). Theo người Do thái, luật pháp ấy đến hoàn toàn từ Thiên Chúa. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Maisen, nó hoàn toàn thánh khiết và có tính cách ràng buộc tuyệt đối.
3. Đức Giêsu giảng dạy tại hội đường.
Ngày hưu lễ hôm đó, Đức Giêsu được mời chú giải đoạn văn vừa đọc, có lẽ cũng là đoạn văn Ngài đã chú giải ở Nazareth, thánh Luca kể lại (Lc 4,16-22). Ngài đã làm kinh ngạc mọi thính giả.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Thính giả mỗi ngày một đông, gồm đủ thành phần. Nhưng ai nấy đều nhận định rằng: Ngài không dạy như các luật sĩ. Các ông này thường nại đến thế giá những người xưa. Lý tưởng các ông là trao lại nguyên vẹn giáo lý họ đã lãnh nhận, không thêm mà cũng không bớt. Trái lại, về mọi vấn đề, Đức Giêsu có sẵn mọi cái để giải quyết. Ngài cũng chẳng ngần ngại dạy những điều đi ngược với người xưa, hoặc sửa lại cho hoàn hảo. “Đã nói cho người xưa rằng...Phần Ta, Ta bảo các ngươi”(Mt 5,21t).
Nói tóm lại, các luật sĩ là tiếng nói của tập truyền, còn Đức Giêsu là tiếng nói riêng của Ngài. Ngài có cả quyền chuẩn y hoặc khước từ hoặc sửa sai tập truyền nữa. Lẽ dĩ nhiên kẻ cho mình cái quyền này, trong thời gian mà các luật sĩ và biệt phái dành cho mình độc quyền thiêng liêng, thì tất nhiên là con người hành động “như có uy quyền”.
4. Đức Giêsu chữa người bị qủi nhập.
Đức Giêsu tỏ ra có uy quyền trong lãnh vực giáo thuyết, Ngài còn tỏ ra có uy quyền trên lãnh vực hành động và biểu lộ quyền năng ấy bằng phép lạ chữa khỏi người bị thần ô uế ám để chứng minh giáo lý Ngài dạy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại: ”Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”? Thần ô uế đây là ma qủi: chữ “ô uế” trong Tân ước gắn liền với chữ “qủi” tới 23 lần. Ma qủi tỏ ra khổ cực và khiếp đảm khi gặp Đức Giêsu và Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủi, giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ấy. Chính vì vậy, mà ma qủi kêu lên như thầm xin với Ngài để mặc chúng. Qủi đang tuyên xưng danh Ngài thì Ngài quát mắng nó:”Câm đi, và ra khỏi người này”. Nó liền vật ngã người đó xuống, thét lên một tiếng rồi xuất ra.
Những khán thính giả đã được nghe và chứng kiến về giáo lý và việc trừ qủi của Đức Giêsu đều kinh ngạc vì họ nhận ra một cái gì mới mẻ nơi Đức Giêsu. Cái mới mẻ đó dẫn được họ tin nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Chính vì cái mới mẻ đó mà danh tiếng của Đức Giêsu được lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Đức Giêsu đã thực sự trừ qủi trước mặt mọi khán thính giả. Thiết tưởng cũng cần phải phân biệt ma và qủi. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt nam chúng ta thường gọi chung với nhau là “ma quỉ”.
Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe doạ hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn qủi là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đầy xuống hoả ngục.
Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ... thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xẩy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, để đương sự nhắn nhủ một điều gì đó với người sống, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn qủi thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Đức Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật B, tr 52).
II. THEO ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CÓ UY QUYỀN.
1. Hai vương quốc, hai thủ lãnh.
Trong hội đường hôm nay, khi trông thấy Đức Giêsu đầy uy quyền , ma qủi đã phải thốt lên:”Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa” ! Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó:”Câm đi, hãy xuất khỏi người này”. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu có quyền trên ma qủi, và vương quốc Đức Giêsu thiết lập trên trần gian này cũng trổi vượt trên vương quốc của ma qủi.
Trong cuốn “Linh thao” của thánh Ignace de Loyola, thánh nhân có hướng dẫn suy niệm về hai cờ hiệu (étandard): cờ hiệu của Đức Kitô, vị chỉ huy tối cao và Chúa chúng ta; cờ hiệu của Lucifer kẻ tử thù của bản tính loài người chúng ta. Đức Kitô kêu gọi và muốn cho mọi người ở dưới bóng cờ Ngài; và ngược lại, Lucifer (cũng gọi và muốn cho mọi người) ở dưới cờ của nó. Như vậy là có cuộc chiến khốc liệt giữa vương quốc của Đức Kitô và của ma qủi.
Việc Đức Giêsu trừ qủi nói lên rằng vương quốc của Satan từng kìm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ từ khi Adong phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho vương quốc của Thiên Chúa.
Điều này gợi lên cho chúng ta một vấn nạn: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm trước, thế thì tại sao đến ngày hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng? Hoặc nói cách khác: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao vương quốc Satan vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xẩy đến chỉ trong một lúc, mà là một chuyển động liên tục suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất . Đó là lý do tại sao trong lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu khẩn:”Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Đức Giêsu trồng cây ấy, tức vương quốc, vào trong đất, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ chúng ta là chăm sóc làm sao cho vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo ý định Thiên Chúa (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 191).
2. Theo Đức Giêsu là thủ lãnh.
Giới trẻ ngày nay thích tìm những thần tượng để suy tôn, để bắt chước. Thần tượng của họ chỉ là những diễn viên, minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, ca sĩ nhạc trẻ hoặc một nhà chính trị lừng danh. Nhưng những thần tượng đó chỉ nhất thời và cũng không đủ tiêu chuẩn để hướng dẫn đời họ, chỉ có một thần tượng tuyệt hảo là Đức Giêsu, có đủ mọi tiêu chuẩn để hướng dẫn cuộc sống của chúng ta một cách bảo đảm.
- Đức Giêsu là thủ lãnh trên đường đời của ta. Một thủ lãnh lôi cuốn bằng đời sống gương mẫu. Tin mừng hôm nay kể ma qủi khen Đức Giêsu qua miệng của đứa nó ám vào: Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa. Khen là Đấng thánh của Thiên Chúa thì chẳng còn cách nói nào khác hơn để ca tụng. Đời sống Chúa còn hoàn toàn hơn lời Ngài dạy. Thánh kinh nói:”Chúa bắt đầu làm rồi mới dạy”(Tđcv 1,1).
- Một thủ lãnh dạy một chủ thuyết đưa tới đời sống ấy. Tin Mừng hôm nay nói:”Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như luật sĩ”(Mc 1,22).
- Một thủ lãnh cho sức mạnh để thực hiện đầy đủ đời sống ấy. Tin Mừng kể Chúa làm phép đuổi qủi. Việc ấy chứng tỏ Ngài có quyền năng của Thiên Chúa.
Truyện: Theo anh là thủ lãnh.
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
- Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
- Em có bỏ không?
Lời thưa đầy hăng hái rằng:
- Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
3. Phục vụ cho thủ lãnh của mình
Sau khi đã tìm ra Đức Giêsu là thủ lãnh của đời ta, chắc chắn chúng ta phải tin theo Ngài, làm môn đệ của Ngài cũng như giới thiệu Ngài cho những người khác. Chúng ta theo gương các Tông đồ mà phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ cho Nước Ngài lan rộng khắp nơi. Thánh Ignace đã dạy chúng ta cầu nguyện để có tinh thần đó:
“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết là con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen.
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng yêu Chúa rất nồng nàn, thánh nữ chỉ biết yêu trong việc phụng sự Chúa. Không gì làm cho thánh nữ buồn sầu, tất cả những gian lao thử thách chỉ làm cho ngài thêm yêu Chúa. Những ý tưởng ấy được thánh nữ gói ghém trong câu thơ sau đây:
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi,
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.
Truyện: Phụng sự cho ai?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, ta thấy cũng có một câu truyện dụ ngôn về một chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng: Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.
Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:
- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp:
- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.
Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
8.Hãy theo Đức Giêsu, vì Người là Đấng rất uy quyền--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề: Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta kiên trì đi theo Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.
Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.
Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)
Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.
Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.
2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I. Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.
3. Tin Mừng (Mc 1,21-28)
Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền:
Uy quyền trong lời nói: "Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ".
Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám: "Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế".
4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống: bậc độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đi tìm "minh chủ"
Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm, một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng, liền hỏi lý do. Cậu bé đáp "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà không nặng cho được" Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa dạy: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên vai.
Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự, chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
* 2. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch. Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất. Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật. Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
*
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì: "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc.1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: "Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi" (Mt.5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là "Giáo lý mới mẻ". Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là: "Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo" (Mc.1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định: "Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên "muối men" cho cả nhân loại vì "ánh sáng" của những người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều".
Jacques Delarue viết: "Mọi phần tử trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: "Hãy ra đi bình an". Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật".
Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:
"Lời Chúa là đèn soi cho con bước.
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv.118,105).
*
Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con; qua bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. "Hãy để tôi yên"
Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?" Nói như thế cũng có nghĩa là nói "Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi".
Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.
Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.
Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.
Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.
Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)
4. Bệnh tật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa bệnh.
Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu:
Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy thuốc mà là việc của các đạo sĩ.
Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì phải xin Chúa tha tội.
Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý nghĩa khác của bệnh tật: đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác. Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh... Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.
Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống nguội lạnh.
Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.
Đó là những người có một đức tin còn ở một trình độ hết sức thấp kém: tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.
Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực: "Chúng ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa gởi đến?"
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói "Ai tin thì sẽ được rỗi" vậy.
5. Dị đoan
Theo nghĩa chữ, "đoan" là đầu mối, "dị" là kỳ lạ. Tin "dị đoan" là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v.
Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người:
Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.
Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.
Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.
Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
Trước kinh Lạy Cha: Trong lời Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
Trước lúc rước lễ: Mình Thánh Chúa là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng đáng để rước lấy thần dược ấy. "Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch"
VII. GIẢI TÁN
Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.
9.Chân tướng của Đức Giêsu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.
1) Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời
Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.
Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.
2) Hơn một vị ngôn sứ
Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).
Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.
Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).
3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).
Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?
2. Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?
10.Quyền năng trên ma quỷ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Sa-tan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta, Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới được mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích lũy như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực...
Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công được coi là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu.
Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề tới mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương..., chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
11.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Đan Vinh
HIẾN THÂN PHỤNG SỰ ĐỨC GIÊSU KITÔ
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Đức Giêsu đã khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào ngày Sa-bát trong một hội đường ở thành Ca-phác-na-um thuộc miền Ga-li-lê. Lời giảng dạy và quyền uy của Đức Giêsu khiến mọi người thán phục như Tin mừng Mác-cô ghi nhận như sau:
- "Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư " (c 22).
- Mọi người trong hội đường đều kinh ngạc khi chứng kiến ma quỷ chịu khuất phục xuất ra khỏi người chúng ám sau lời truyền của Đức Giêsu. Họ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (c 27).
CHÚ THÍCH:
- C 21-21: +Thành Ca-phác-na-um: Là một thành nằm về phía Tây Bắc của biển hồ Ga-li-lê. Đức Giêsu chọn thành này làm trung tâm truyền giảng Tin Mừng. Tại thành này, Người đã làm nhiều phép lạ như: trừ quỉ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh (x. Mc 5,25-34), cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,21-43)... Người cũng có lần quở trách thành này vì đã cứng lòng tin (x. Mt 11,23-24). + Hội đường: Là một ngôi nhà hình vuông gồm có ba gian, được xây hướng về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nơi gian giữa có đặt một tủ đựng Sách Thánh, và một cái giá dành cho chủ sự. Hội đường là nơi người Do Thái trong làng hội họp để nghe giảng Kinh Thánh và cầu nguyện. Chúa Giêsu thường được mời giảng tại các hội đường khắp nước Do thái.
- C 23-24: +Một người bị thần ô uế ám: Đây là một người bị quỉ nhập vào. Ma quỉ hay Xa-tan có nhiều nghĩa: “kẻ hủy diệt”, “kẻ gian ác”, “người cáo tội” (Tv 109,6)... Ở đây ma quỉ được gọi là “thần ô uế” để đối lập với Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
- C 25-27: +“Câm đi, hãy xuất khỏi người này”: Việc Đức Giêsu ra lệnh và ma quỷ đã phải im tiếng xuất ra khỏi người bị nó ám, chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người trên ma quỷ.
CÂU HỎI: 1- Ma quỉ có thực hay chỉ là tưởng tượng của những người mê tín dị đoan? Kinh Thánh nói gì về sự hiện hữu của ma quỉ và các hoạt động của chúng? Đức Giêsu và Giáo Hội sơ khai có thái độ thế nào đối với ma quỉ? 2- Khi thấy một người có biểu hiện bất thường về tâm thần, ta có nên vội kết luận họ bị quỉ ám và tìm cách trừ tà hay không? Ai có quyền cử hành nghi lễ trừ tà? 3- Để có thể trục xuất ma quỉ ra khỏi người bị nó ám thì người trừ quỉ cần có những điều kiện nào? 4- Ngày nay, ngoài việc trừ ma quỉ, giải thoát những người đang bị đàn áp khống chế, Giáo Hội còn có sứ mạng gì liên quan đến ma quỉ?
ĐÁP:
1. + Ngày nay, nhiều người không tin có ma quỉ. Họ thường giải thích các hiện tượng siêu nhiên do ma quỉ làm nơi con người thuần túy chỉ là những triệu chứng của bệnh thần kinh. Đang khi Kinh Thánh lại luôn khẳng định về sự hiện hữu của ma quỉ..
+ Trong Kinh Thánh, ma quỉ được gọi là “Con Mãng Xà”, “Xa-tan” hay “Thần ô uế” (x. Kh 20,2; Mc 1,23). Chúng vốn là thiên thần trên trời, nhưng do phản nghịch với Thiên Chúa nên đã bị phạt xuống hỏa ngục (x. Gd 1,6; Kh 20,7-10); Chúng được Thiên Chúa cho phép thử thách đức tin của người ta như trường hợp ông Gióp (x. G 1,6-2,7); Chúng cám dỗ người ta phạm tội như cám dỗ bà E-và (x. St 2,24), cám dỗ Đức Giêsu (x. Lc 4,2); Chúng ám hại người ta như đã giết 7 người chồng của bà Xa-ra (x. Tb 3,8; 6,14); Chúng trói buộc người ta bằng cách làm cho họ bị bệnh tật (x. Lc 13,16)...
+ Sứ mạng của Đức Giêsu là tiêu diệt ma quỉ (x. Mc 1,24). Người không nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ (x. Mc 3,22-26), nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Mt 12,22tt). Kết quả là ma quỉ phải chịu khuất phục (x. Ga 14,30). Người cũng ban cho các Tông đồ được quyền trừ quỉ (x. Mc 6,7). Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Người là lúc ma quỉ bị tống ra ngoài và bị xét xử (x. Ga 12,31; 16,11).
+ Đến thời Giáo Hội Sơ Khai, Phi-líp-phê đã nhờ Thánh Thần mà trừ quỉ (x. Cv 8,7); Phao-lô cũng có khả năng trừ quỉ (x. Cv 19,11-12). Ngày nay ma quỉ vẫn đang hoành hành bằng cách nhập vào những người yếu đức tin (x. Mt 13,43-45); Chúng hành hạ người ta như sàng gạo vậy (x. Lc 22,31). Chúng giống như sư tử luôn rình mồi cắn xé người ta (x. 1 Pr 5,8). Hội Thánh vững tin sẽ toàn thắng ma quỉ khi đến ngày tận thế. Bấy giờ ma quỉ cùng những kẻ đi theo chúng sẽ bị giam phạt trong hoả ngục đời đời (x. Mt 25,41; Lc 10,18).
2. + Không nên vội xác định bệnh nhân đã bị quỉ ám, nhưng trước tiên cần đem đến bác sĩ thần kinh hay bác sĩ phân tâm học để được khám và điều trị bằng thuốc men hay các phương pháp tâm lý tự nhiên. Nếu bệnh không thuyên giảm và có những bằng chứng do ma quỉ làm thực sự, thì phải nhờ Cha Sở hay Linh Mục đặc trách trừ quỉ điều tra xem xét. Các vị này sẽ tiến hành việc trừ quỉ dưới sự chỉ đạo của Đấng Bản Quyền Giáo phận.
+ Theo kết quả điều tra thì phần lớn các trường hợp nạn nhân tưởng là bị quỉ ám, thư ếm hay bùa ngải... Thực ra chỉ là hiện tượng suy nhược thần kinh hoặc do ảo giác tưởng tượng mà thôi. Riêng các hiện tượng lạ như bàn ghế tự nhiên xê dịch, giường nằm của bệnh nhân có ai đó dựng lên, hoặc bệnh nhân tự nhiên được nâng cao lên khỏi giường, hoặc có những tiếng gõ bàn hay tiếng nói mỗi khi thày ngải tra hỏi bệnh nhân... có thể do ma quỉ gây ra, mà cũng có thể chỉ là ảo thuật do các thầy pháp hay thầy phù thủy thực hiện, nhằm đánh lừa để người ta tin theo.
+ Trong trường hợp chắc chắn các hiện tượng trên do ma quỉ nhập vào và khống chế làm hại một người nào đó, thì Đấng Bản Quyền sẽ chỉ định các linh mục chuyên viên đủ kinh nghiệm chính thức cử hành nghi lễ trừ quỉ.
3. + Nếu bệnh nhân thực sự bị quỉ ám, thì các chuyên gia chỉ trừ được ma quỉ nếu có đức tin vững mạnh và ý chí kiên quyết (x. Mt 17,20). Phải ăn chay và cầu nguyện trong suốt thời gian trừ quỉ (x. Mt 4,5); Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu để nhờ quyền năng của Người mà trừ quỉ (x. Ga 15,5). Họ cũng phải nhờ Thần Khí của Chúa Giêsu (x. Mt 12,28) và nhân danh Người mà trừ quỉ (Mc 9,38). Cuối cùng họ còn phải là người từng trải và có kinh nghiệm để có thể đối phó hữu hiệu với ma quỉ và tránh bị chúng làm hại (x. Cv 19,11-19).
4. + Hiện nay, ngoài việc trừ quỉ, Hội Thánh còn có sứ mạng chống lại những sự dữ thuộc về ma quỉ như: ma thuật, đồng bóng và mê tín dị đoan (x. Cv 13,9-11). Bài trừ tận gốc các tệ nạn xã hội như: Sì-ke ma túy, mãi dâm, rượu chè, cờ bạc, sách báo phim ảnh khiêu dâm bạo lực (x. Mt 19,16-18); Hội Thánh cũng phải hòa giải các tranh chấp, đấu tranh chống lại bất công bóc lột. Cuối cùng Hội Thánh còn phải cộng tác với chính quyền và các tổ chức nhân đạo bài trừ các thứ giặc như: nghèo đói, dốt nát và mê tín (x. 1 Cr 10,20).
+ Ngoài ra, Hội Thánh cũng khuyên các tín hữu phải phòng tránh sự khôn ngoan giả dối của thế gian và ma quỉ (x. Gc 4.14-15), đề phòng các tiên tri giả là tay sai của ma quỉ đến rao giảng giáo lý sai lạc trái với giáo lý tông truyền (x. Tm 4,1; Kh 16,14).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Người mang vác Chúa Kitô
Kho truyện các thánh có ghi lại câu chuyện về một người mang vác Đức Kitô như sau:
Có một chàng thanh niên có sức mạnh phi thường nhưng không ai biết tên thật của chàng. Anh này có tâm nguyện đi tìm một người quyền lực nhất để phụng sự. Đầu tiên anh nghĩ không ai quyền lực hơn viên tướng cướp trong vùng anh đang ở nên đến gia nhập vào băng cướp và anh được phân công làm hộ vệ cho viên tướng cướp. Nhưng mỗi lần băng cướp sắp có vụ làm ăn, anh ta lại thấy viên tướng cướp phải đến nhờ thầy phù thuỷ làm phép cho vụ làm ăn thành công. Thế là anh thanh niên liền bỏ viên tướng cướp để xin theo hầu thầy phù thuỷ. Một hôm, khi theo thầy phù thủy đi hành nghề, anh thấy thầy đang đi trên đường gặp một cây Thánh giá bên vệ đường liền sợ hãi không dám đi tiếp mà vòng lại đi đường khác. Thế là anh chàng lực sĩ liền bỏ thầy phù thuỷ quay trở lại đứng bên cây Thánh giá để mong được gặp chủ nhân cây Thánh giá. Anh ta cứ đứng đó chờ mấy ngày liền mà vẫn không thấy chủ nhân cây Thánh giá xuất hiện. Nơi đó gần một khúc sông cạn và có nhiều người đã phải mạo hiểm lội bì bõm qua sông để sang bờ bên kia. Một hôm, một chú bé đến nhờ anh lực sĩ cõng qua sông và anh đã lập tức giúp cõng em trên vai lội qua sông. Có điều khi mới được một đoạn ngắn, anh lực sĩ tự nhiên cảm thấy chú bé trở nên quá nặng, liền hỏi lý do và được chú bé trả lời: "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay nên làm sao không nặng cho được". Cậu bé còn cho biết mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá mà chàng lực sĩ đang muốn gặp mặt. Thế là chàng lực sĩ liền xin đi theo vị Chúa Kitô Chủ Tể của trái đất này. Chúa Kitô dạy anh: “Nếu muốn phụng sự Ta, con hãy dựng một căn lều và luôn ở cạnh cây Thánh giá, để nếu có ai muốn qua sông thì con sẽ cõng họ qua”. Chàng lực sĩ liền làm theo lệnh Chúa truyền. Từ ngày đó, dân chúng trong vùng đã gọi chàng bằng cái tên thân thương là KÍT-TÔ-PHƠ (Christopher), nghĩa là người mang vác Chúa Kitô.
2) Phim “Người Trừ Quỉ”:
Vào năm 1970, cuốn phim “Người trừ quỉ” (Exorcist) được trình chiếu thì lập tức đã phá kỷ lục số vé bán ra. Chuyện phim kể lại một câu chuyện có thật về một thiếu niên 14 tuổi ở vùng Mao-Rai-mơ (Mt. Raimer), thuộc bang Me-ri-len (Maryland) của Hoa Kỳ vào năm 1949. Về sau, tờ “Tuần Tin Tức” (Newsweek) đã tường thuật câu chuyện này như sau: “Theo người cha kể lại thì cậu thiếu niên này thích ở một mình trên gác xép và chơi cầu cơ. Qua trò cầu cơ, cậu ta thường nói chuyện lâu giờ với một người có tên là “Ông Đại Úy”. Lúc đầu người cha cho rằng cầu cơ chỉ là một trò giải trí vô hại. Nhưng về sau, khi thấy con trai có những biểu hiện bất thường, thì cha mẹ cậu bé bắt đầu lo lắng. Nhất là một hôm ông bố nhìn thấy ghế bàn và chiếc giường cậu con đang nằm tự nhiên bị di chuyển trên sàn nhà giống như có bàn tay vô hình nào đó kéo đi. Rồi ban đêm cậu bé bị mất ngủ và hay nói lầu bầu điều gì đó với cái giọng khàn đặc của một gã đàn ông trung niên. Sau đó buộc lòng ông bố phải đưa con đến bệnh viện của trường Gioóc-dơ-tao (Georgetown), một trường đại học danh tiếng. Tại đây bác sĩ điều trị phát hiện ra cậu bé biết nói thành thạo tiếng La-tinh, một thứ cổ ngữ rất khó học mà cậu ta chưa từng biết đến trước đó. Cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị vô hiệu, cha mẹ cậu đành đem con về nhà và nhờ hai vị linh mục dòng Tên có lòng đạo đức thánh thiện đến nhà cử hành nghi lễ trừ quỉ.
Cuộc chiến đấu giành linh hồn của cậu bé đã xảy ra rất căng thẳng và quyết liệt, kéo dài suốt 2 tuần lễ. Cuối cùng ma quỉ cũng chịu khuất phục và xuất ra khỏi nạn nhân. Nhưng đồng thời vị linh mục chủ lễ cũng đã gục xuống chết tại chỗ do chứng nhồi máu cơ tim. Hiện nay cậu bé trên vẫn còn sống tại thủ đô Wo-sinh-tơn (Washington). Một trong hai linh mục từng tham gia vào việc trừ quỉ đã thề là không bàn luận gì thêm về công việc nguy hiểm này. Tuy nhiên ông cũng cho biết là chính nhờ tham gia vào việc trừ quỉ mà bản thân ông đã thêm đức tin để luôn trông cậy vào quyền năng và tình thương của Chúa.
3. SUY NIỆM:
1) Đức Giêsu: Đấng quyền năng trong lời rao giảng:
Đức Giêsu giải thích Lời Chúa trong hội đường Do thái khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì: "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc 1,22).
Vì Người được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của bất cứ ai, kể cả Mô-sê. Đức Giêsu đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
Tin Mừng Mác-cô đã thuật lại việc Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um gần biển hồ. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường mà giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng của Người như một Đấng có quyền, chứ không như các kinh sư của họ. Vì các kinh sư chỉ đọc và giải thích kinh thánh như đã học mà không thêm điều gì mới, khác với Đức Giêsu giảng dạy như một Đấng lập Luật mới như Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sa-bát, và khi bị hạch hỏi Người đã cho thấy quan điểm của Người như sau: "Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát" (Mc 2,27).
2) Đức Giêsu: Đấng quyền năng trong hành động:
Đúc Giêsu không những có uy quyền trong lời giảng, trong việc xua trừ ma quỷ, mà Người còn có quyền trên thiên nhiên như: biến nước lã thành rượu nho, nhân bánh ra nhiều, đi trên mặt nước, dẹp yên sóng gió, mẻ cá lạ lùng...
Người cũng đã dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: cho người mù được sáng mắt, kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…
Người đã phục sinh kẻ chết như cầm tay phục sinh một bé gái mới chết, cho chàng thanh niên đang đem đi chôn ở cử thành Na-im, cho La-da-rô chết 4 ngày sống lại ra khỏi mồ và chính Người đã từ trong cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã tiên báo.
3) Đức Giêsu: Đấng quyền năng trên thần ô uế là ma quỷ:
Gặp Đức Giêsu, ma quỷ đã nói ra sứ vụ cứu thế của Người như sau: “Ông Giêsu Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Đức Giêsu đã lên tiếng quát nạt ma quỷ: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26). Chính thái độ sợ hãi vâng phục của ma quỷ cho thấy quyền năng của Đức Giêsu như lời nhận xét của đám đông dân chúng: “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mt 1,27b).
4) Chỉ phụng sự một Đức Giêsu Kitô:
- Ngày nay chúng ta chỉ đi theo một vị Thầy là Chúa Giêsu noi gương Tông đồ Phê-rô: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống thì nhiều môn đệ đã tỏ ra chán nản không còn muốn theo làm môn đệ Đức Giêsu nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai còn ở lại. Dù vậy Đức Giêsu vẫn không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông xác định lập trường đi hay ở. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai trả lời rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
- Ngày nay muốn trung thành với Chúa Giêsu, chúng ta cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng Chúa trong thiên nhiên và các dấu chỉ của thời đại. Nhờ năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa trong sinh hoạt hội đoàn hằng tuần tại nhà thờ, hay trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành "muối men" hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm dậy lên men tình yêu. “Ánh sáng" của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca tụng Thiên Chúa trên trời.
- Ngoài ra chúng ta cần ý thức sứ vụ của mình là cộng tác với Chúa xua trừ ma quỷ, và các tệ đoan xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giêsu và Hội thánh. Chúng ta cần dấn thân làm những việc công ích và cộng tác với những người thiện chí xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh. Cần quan tâm an ủi những ai đang gặp gian nan khốn khó bằng cách giúp họ tin tưởng cậy trông vào lòng Chúa thương xót, xin Đức Mẹ và các thánh chuyển cầu và chính chúng ta cũng tích cực giúp đỡ họ với hết khả năng của mình.
4. THẢO LUẬN: 1- Kinh nghiệm của các người tham gia trừ quỷ cho biết: những người bị ma quỉ ám là những kẻ đã tin vào chúng và có quan hệ mật thiết với chúng như thường xem lên đồng, chơi cầu cơ, coi bói toán... Có khi nào vì tò mò mà bạn chơi thử những trò đó không? 2- Bạn phải làm gì để gia tăng đức tin hầu ma quỉ không thể xâm nhập và khống chế để bắt bạn làm tay sai cho chúng?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu là “Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa”. Chúa đến để tiêu diệt ma quỉ và thiết lập một Triều Đại Mới Của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, quyền năng của Chúa đã bắt ma quỉ phải câm miệng và xuất ra khỏi người bị chúng trói buộc. Chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa, và thành khẩn xin Chúa giúp chúng con chiến thắng ma quỉ, tội lỗi và các thói hư. Xin cho chúng con sẵn sàng cộng tác với Chúa đẩy lùi thế lực của ma quỷ như phim ảnh tục tĩu, sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè... ra khỏi gia đình và môi trường chúng con đang sống hầu Nước Chúa ngày một lan rộng.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Thường Niên Năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng Đức Giê-su đến để thực hiện một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en: chính Ngài là vị Ngôn Sứ tuyệt hảo xuất thân từ họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 15-20
Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê cảnh giác dân Ít-ra-en coi chừng những “ngôn sứ mạo danh”, nhưng đồng thời ông cũng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Vị Ngôn Sứ này sẽ là “Phát Ngôn của Thiên Chúa” bên cạnh dân Ngài.
1Cr 7: 32-35
Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.
Mc 1: 21-28
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm; Ngài là Phát Ngôn của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài, đồng thời là Phát Ngôn của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Đnl 18: 15-20)
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi là sách “To-ra”, nghĩa là sách “Luật”.
Nhan đề: “Đệ Nhị Luật”, có nghĩa “luật thứ hai” (“Thứ luật”). Quả thật, sách nầy được đặt vào trong bối cảnh ông Mô-sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en như những lời trăn trối sau cùng, bản di chúc của ông, trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. Thật ra, sách Đệ Nhị Luật phản ảnh bối cảnh dân Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Vì thế, bầu khí hăng say nhiệt thành thuở ban đầu đã lắng xuống. Tuy nhiên, nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tình tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.
1. Định chế ngôn sứ.
Đoạn văn nầy được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên định chế ngôn sứ. Theo văn mạch, trong một đoạn văn trước đó, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, thì người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng phải là một người trong số họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15).
Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính “từ giữa đồng bào của anh em” mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn của Ngài bên cạnh dân Ngài: “Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy”.
Đây không phải là lời tiên báo về một ngôn sứ độc nhất, nhưng về những ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Vì thế, ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát, như câu trích sau cùng nói lên cách rõ ràng hơn: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết”.
Sau nầy, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất, người ta sẽ đọc lại bản văn này theo một cách khác và người ta sẽ hiểu lời tiên báo nầy về một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời Thiên Sai, một Mô-sê mới. Đó là lý do tại sao những người được Giáo Quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21).
2. Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống.
Lời tiên báo nầy đáp lại nguyện ước của dân chúng. Trên đỉnh núi Xi-nai, Thiên Chúa đã tỏ mình ra và phán dạy trực tiếp với dân chúng khiến họ khiếp sợ nên cầu xin ông Mô-sê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh rất phổ biến vào thời đó, vì người ta tin rằng không ai thấy thần linh mà có thể vẫn sống. Giữa thần linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như bị tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo chẳng may nhìn thấy thần linh đến nhận của lễ mà mình phải chết chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì “ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối” (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế, ông chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy hình (1V 19: 12-13).
Bản văn Đệ Nhật Luật nầy, được đọc trong ánh sáng Tân Ước, mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó. Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ đã được ông Mô-sê tiên báo. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, Phát Ngôn trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là hiện thân của Thiên Chúa ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết, trái lại được đón nhận “hết ân nầy đến ân khác” của Ngài nữa (Ga 1; 16).
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 32-36)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trổi vượt trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực “chuyên lo việc Chúa”. Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.
1. Kinh nghiệm bản thân.
Cách giải thích thứ nhất từ chính kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Với tư cách là người lữ hành của Thiên Chúa, thánh Phao-lô rong ruỗi trên khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận lực chu toàn “sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Vì thế, trong một đoạn văn trước đó, thánh nhân không ngần ngại viện dẫn đời sống độc thân của mình ra làm gương: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1Cr 7: 7).
2. Quan niệm văn hóa và xã hội.
Cách giải thích thứ hai từ quan niệm văn hóa thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Từ đó suy ra rằng đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những mối dây ràng buộc trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc “chuyên lo phục vụ Chúa”.
Chuyện vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, theo quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân, chủ nghĩa thượng tôn nam giới tạo nên rào cản cho sự phát triển về quyền bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki-tô giáo. Thật ra, môi trường Cô-rin-tô thấm nhuần văn hóa Hy lạp, vì thế những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, thánh nhân nhắc nhở các người phụ nữ phải trùm khăn che đầu và không được lên tiếng trong các buổi hội họp cộng đồng, vì người nữ phải giữ thái độ im lặng và phục tùng, vân vân. Về quan điểm nầy, thánh Phao-lô vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm những quan niệm Do thái giáo kém tiến bộ. Tuy nhiên, thánh nhân biết công bố quyền bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam” (1Cr 11: 11).
TIN MỪNG (Mc 1: 21-28)
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ đến thành Ca-phác-na-um.
1. Thành Ca-phác-na-um.
Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp ranh giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pa-lét-tin, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế, thành phố được mệnh danh là “Ngã Tư Quốc Tế”. Chính thành này Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ hàm ẩn chiều kích phổ quát sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau nầy các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô cũng sẽ theo gương Ngài.
Hội đường là nơi các tín hữu tụ họp và cầu nguyện. Chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và hàng giáo sĩ, ở đó các tín hữu mới có thể dâng hy lễ lên Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Vào ngày Sa-bát, các tín hữu tụ họp ở hội đường, luôn luôn vào buổi sáng, để cử hành phụng vụ Lời Chúa (các bản văn Luật và các sách ngôn sứ), hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự nguyện hay được chỉ định, có thể công bố và giải thích những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su được mời công bố và giải thích Kinh Thánh vào một buổi phụng vụ sa-bát ở hội đường Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng.
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm, hay đúng hơn Đấng có uy quyền trong lời nói được minh chứng qua việc làm.
2. Cách thức Đức Giê-su giảng dạy:
“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc kinh sư danh tiếng của họ. Riêng Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “bậc kinh sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
3. Dấu chỉ kèm theo:
Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác phải công khai nhìn nhận sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm lặng.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1: 34).
4. Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Đấng Thiên Sai” theo Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được hé lộ chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Thật không khó để hiểu được thái độ nầy của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thực hiện: một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, theo hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể được bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
13.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
“Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: đừng cứng lòng”
Hằng ngày đôi tai và lòng trí của chúng ta nghe, biết được không biết bao nhiêu các loại âm thanh, tiếng nói, tin tức từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng điều đáng buồn thay, là trong những nguồn thông tin chúng ta nghe, thu nhận được, chúng ta khó có thể phân biệt đâu là tin thật, đâu là tin giả, đâu là nguồn tin chính thống - bổ ích, vì đa phần là nguồn thông tin không lành mạnh, phe nhóm, cánh này-cánh kia, thuyết âm mưu này nọ..; chính vì vậy, đã làm cho nhiều người bị lầm tưởng, hoang mang, mất lòng tin và bất an. Trong thực tế đau buồn của xã hội loài người, hôm nay Lời Chúa qua Thánh vịnh 94 mời gọi chúng ta và mong ước rằng: trong muôn vàn những âm thanh, tiếng nói ấy, hãy khiêm tốn mở lòng, hãy để tai, hãy chú ý lắng nghe để chúng ta có thể nghe được tiếng của Thiên Chúa, nghe được tiếng của Lời Chúa - Lời Hằng Sống. Nhờ đó, Lời Chúa sẽ uốn nắn lòng dạ và cuộc đời chúng ta, sẽ soi đường dẫn lối giúp chúng ta trở nên những người con ngoan-con thảo, người con sống đẹp lòng Chúa. Nhưng liệu chúng ta có muốn lựa chọn Lời Chúa để nghe, để sống và thực hành?
Bài đọc một từ sách Đệ Nhị Luật minh chứng cho chúng ta lời của Giavê –Thiên Chúa: “Ta sẽ gầy dựng giữa anh em một tiên tri; Ta sẽ đặt vào miệng người này những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người”. Chúa đã và đang nói với chúng ta qua muôn vàn cách thế, một trong những cách ấy chính là qua trung gian của những người được tuyển chọn để làm Ngôn sứ - Tiên tri cho Chúa. Những vị này, dẫu là những con người bất toàn nhưng họ là sứ giả của Chúa để tuyên sấm Lời Chúa cho dân. Lời được công bố là Lời của Chúa, chứ không phải là lời của con người. Do đó, nếu những sứ giả này nói lời của mình, nói những lời của người phàm, hay lời của những thần khác thì họ sẽ bị phạt, bị tiêu diệt. Cho nên, những ai nghe được những lời từ miệng của các Tiên tri mà tin theo, thực hành thì chắc chắn Lời Chúa sẽ trở nên ngọn đèn soi rọi cho bước chân, nên ánh sáng dẫn họ đi dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tin mừng hôm nay chính Chúa đang nói với chúng ta qua một cách thế rất đặc biệt, Lời của Chúa được tuyên bố ra không phải bằng miệng lưỡi của con người, nhưng qua chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời Hằng Sống, Ngài đang nói với chúng ta. Do đó, khi Chúa Giêsu rao giảng, ai ai cũng ngạc nhiên, sửng sốt về những gì mà Ngài dạy dỗ, loan truyền. “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Lời Hằng Sống từ nguyên thủy đã phán một lời thì có mọi sự, giờ đây cũng chính Lời Hằng Sống lại phán một lời, thì bệnh hoạn tật nguyền của con người được chữa lành, ma quỷ phải khiếp sợ, rút lui. Nhưng tiếc thay, Lời Chúa và ơn thánh từ Lời Chúa trong cuộc sống hiện tại của nhiều người trong chúng ta đang bị xem nhẹ, lãng quên. Ngay cả, một số người dùng Kinh Thánh để đặt tay lên mà tuyên thệ hay nói lời thề, thế nhưng họ lại không tin vào Lời Chúa, rồi đi ngược lại, làm theo ý riêng tư lợi, ích kỷ của mình. Và hậu quả là, con người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ, tang thương, hoang mang, lo sợ cho đồng loại của mình. Thật vậy, Lời Chúa có uy quyền, sức mạnh và làm cho nhiều người thán phục vì là đây là Lời Hằng Sống, Lời của yêu thương, Lời của tha thứ, chữa lành.
Đức Thánh Cha Bênêdictô trong Tông Huấn về Lời Chúa “Verbum Domini” đã xác tín và như muốn làm vang vọng lại cho cả Hội Thánh lời tuyên xưng đức tin cùng với tâm tình và kinh nghiệm sống từ hai ngàn năm về trước của Thánh Phêrô: “Lời Chúa đời đời bền vững. Đó chính là Lời Tin Mừng đã được loan báo cho anh em” (1 Pr 1,25). Ngài nói: “Vậy ước gì mỗi một ngày sống của chúng ta được hun đúc bởi cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Kitô, Ngôi Lời làm người của Chúa Cha: Người ở tại nguồn và ở cuối và “tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1,17). Hãy thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa và để suy ngẫm Lời ấy, hầu nhờ hoạt động hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Lời ấy tiếp tục ở lại, sống và nói với chúng ta mọi ngày trong đời chúng ta”.
Lạy Chúa, xin hãy dùng quyền năng sức mạnh của Lời Ngài mà uốn nắn lòng trí chúng con được nên khiêm tốn, trong sạch ; xin cho chúng con luôn được Lời Chúa soi dẫn, chữa lành và gia tăng ơn thánh hầu cuộc sống chúng con luôn đượm tình bác ái yêu thương. Amen.
14.“Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Lời của Người có uy quyền
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe mở đầu và kết thúc với kinh nghiệm sửng sốt của người nghe, về sự kiện Lời của Đức Giê-su có uy quyền:
Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
(c. 22)
Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.
(c. 27)
Đức Giê-su vẫn tiếp tục giảng dạy qua trung gian Giáo Hội trong Thánh Lễ, trong các buổi cử hành phụng vụ và nhất là trong những lần tĩnh tâm, vì trong thời gian này, chúng ta được nuôi sống bằng Lời Chúa một cách cụ thể và thực sự hơn bất cứ điều gì khác.
Chắc chắn chúng ta đã từng có kinh nghiệm này: « Lời của Người có uy quyền ». Xin cho kinh nghiệm thiêng liêng này trở nên sâu đậm và không thể phai nhòa đối với chúng ta.
2. Sự Dữ mạnh hơn con người
Chúng ta hãy hình dung ra người bị quỉ thần ô uế nhập trong hội đường. Ngày nay, hiện tượng này hầu như không còn nữa; nhưng không vì thế mà các quỉ thần ô uế không có mặt và hoạt động mạnh mẽ. Bằng chứng là đời sống của chúng ta hiện này bị chi phối nặng nề bởi những năng động xấu, đến từ ma quỉ: ghen tị, ghen ghét, nghi ngờ, nóng giận, gian dối, lừa đảo, không tôn trọng người khác, bạo lực, ham muốn vô độ, sợ chân lí, mưu đồ, bạo lực, phi nhân, thú tính… Trong những năng động xấu này, một đàng con người có trách nhiệm tạo ra và nuôi dưỡng; nhưng đàng khác, những năng động chết chóc này lại mạnh hơn con người. như thánh Phao-lô nói:
Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
(Rm 7, 19-20)
Theo cách này, ma quỉ đã biến người ta thành tay sai của chúng để gây ra bầu khí chết chóc và đi làm hại người khác. Cách ma quỉ ám người ta như thế còn nghiêm trọng hơn là dằn vặt thân xác ở bên ngoài, như trường hợp người bị quỉ thần ô uế nhập được kể lại trong bài Tin Mừng và như chúng ta thỉnh thoảng vẫn nghe nói có người này người kia bị quỉ ám.
Như thế, luôn luôn có Tội cư ngụ ở trong chúng ta và ám chúng ta. Đó không phải là những tội chúng ta đã phạm, nhưng là Tội (viết hoa), mà thánh Phao-lô mô tả như là một nhân vật, như là Ma Quỉ hay Sự Dữ. Và ai trong chúng ta cũng có sứ mạng “trừ quỉ” ở bình diện này, sau khi đã được chính sức mạnh của Lời Chúa giải thoát.
3. Lời Chúa mạnh hơn Sự Dữ
Tội hay Sự Dữ và tất cả những gì thuộc về Sự Dữ thì mạnh hơn chúng ta (x. St 3, 1-7); và chính bản thân mỗi người chúng ta có kinh nghiệm này. Chính vì thế, trong bài Tin Mừng, chính ma quỉ lên tiếng chứ không phải người bị quỉ ám; người này không làm chủ được mình nữa. Chưa hết, dường như nó còn muốn thỏa hiệp với Đức Giê-su:
Ông Giê-su Nazareth, chuyện chúng tôi can gì ông,
mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?
(c. 24)
Nói cách khác, ma quỉ muốn sống theo nguyên tắc: nước giếng không phạm nước sông; đôi bên thỏa hiệp, không cần giao chiến với nhau làm gì cho đôi bên đều bị tổn thất ! Nhưng Đức Giê-su là Sự Thiện, là Ánh Sáng, là Chân Lý, là Sự Sống tuyệt đối, vì thế Sự Dữ, Bóng Tối, Gian Dối và Sự Chết tất yếu phải bị tiêu tan. Bạo lực của Sự Dữ tất yếu bị tiêu tan không phải vì một bạo lực khác lớn hơn, như cách hành động của con người: để trấn áp một hỏa lực (nghĩa là bạo lực), con người phải dùng một hỏa lực lớn hơn. Bởi lẽ Thiên Chúa không thể là bạo lực, cho dù là bạo lực để bảo vệ sự thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa không thể dùng phương tiện của Sự Dữ để chống lại Sự Dữ. Nhưng Sự Dữ bị tiêu tan là do bản chất. Hình ảnh ánh sáng đẩy lùi một cách tự nhiên bóng tối minh họa rất đúng cách Thiên Chúa chiến thắng Sự Dữ, Thiên Chúa chiến thắng Sự Dữ không phải bằng bạo lực, nhưng bằng sự hiền lành, được tỏ hiện cách tuyệt đối nơi mầu nhiệm Thập Giá của Đức Ki-tô.
Sự Dữ mạnh hơn con người, nhưng lời của Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa, mạnh hơn Sự Dữ. Sức mạnh của Lời Chúa không phải là sức mạnh của bạo lực, nhưng là sức mạnh của ánh sáng. Thực vậy, trong bài Đức Giê-su, Đức Giê-su quát mắng nó:
Câm đi hãy xuất ra khỏi người này.
(c. 25)
Lời của Đức Giê-su vẫn được ban cho chúng ta mỗi ngày, để giải thoát chúng ta khỏi quỉ thần ô uế, khỏi Sự Dữ, để làm cho chúng ta trở nên tự do, hiền lành, an vui và tin tưởng. Chúng ta hãy học đón nhận lời của Đức Giê-su vào trong lòng của chúng ta, vào trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn, trong xã hội của chúng ta, để cùng với các chứng nhân khác của Giáo Hội, chúng ta công bố:
Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!
(c. 27)
Nhìn lại đời mình, chúng ta thấy mình không nghe và không sống Lời Chúa được bao nhiêu; chính khi đó, tất yếu chúng ta sẽ bị cho Sự dữ và những năng động của Sự Dữ ám chúng ta, nhập vào người chúng ta và thúc đẩy chúng ta hành động. Nhưng Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta bình an và tin tưởng, bởi vì, nếu chúng ta yếu đuối và bất lực, thì Lời Chúa có sức mạnh đẩy lùi sự dữ ra khỏi nội tâm và cuộc sống của chúng ta và làm cho chúng ta được tái sinh trong tương quan mới với Chúa và với nhau.
Tương tự như trong mầu nhiệm Sáng Tạo, nhờ Lời Chúa mà cõi hỗn mang đã trở thành môi trường sống hài hòa, trật tự và đẹp đẽ, từ đó phát sinh sự sống và nơi đó sự sống được duy trì (x. St 1, 1-2, 4a). Sự sống của loài người và của từng người chúng ta sẽ tất yếu trở thành hỗn mang, nếu không được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa. Như Đức Giê-su nói trong Bài Giảng Trên Núi:
Ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.
(Mt 7, 26-27)
***
Đọc lại đời mình hay một giai đoạn sống dưới ánh sáng của Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta thấy mình còn nhiều thiếu sót trong việc nghe và sống Lời Chúa. Và đó chính là nguyên nhân sâu xa làm chúng ta vẫn còn bị chi phối bởi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ, như vô ơn, nghi ngờ, không tín thác, ham muốn, kêu trách, ghen tị và bạo lực trong tâm hồn, lời nói, việc làm…
Xin Chúa thương xót tha thứ cho chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi những năng động xấu, những thần ô uế bằng Lời của Ngài.
15.Nhờ Lời Chúa để đẩy lùi quyền lực Satan--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chưa bao giờ ma quỷ mạnh thế như ngày hôm nay. Quyền lực ma quỷ đang bao trùm khắp thế giới.
Hiện nay, ma quỷ chi phối, lôi kéo, lèo lái rất nhiều người theo chúng. Có cả một tôn giáo mới được lập nên để tôn thờ Sa-tan gọi là đạo thờ Sa-tan và các tín đồ của đạo nầy quyết tâm phá hại đạo thánh Chúa và triệt hạ lòng đạo đức.
Hiện nay ma quỷ xem ra đang thắng thế trên khắp địa cầu. Chưa bao giờ tội lỗi lan tràn khắp chốn như ngày hôm nay: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. Một trong những mối lo của xã hội hôm nay là càng ngày thanh thiếu niên phạm pháp càng nhiều, ngay cả những thiếu nhi ở độ tuổi học trò cũng ra tay giết người cách thản nhiên như giết một con thằn lằn, không mảy may xúc động. Đời sống đạo đức khắp nơi trên thế giới đang suy đồi khủng khiếp. Một trong những tội lỗi đáng sợ là tệ nạn tình dục đồng phái và hôn nhân đồng tính: người nam quan hệ tình dục với nam, nữ quan hệ tình dục với nữ, rồi những cặp nầy đòi sống chung và đòi được pháp luật công nhận họ như một gia đình. Làm như thế là tuyệt nòi tuyệt giống. Làm như thế là sa đoạ hơn cả dân thành Sôđôma và Gômôra ngày xưa.
Những điều nói trên chứng tỏ ngày nay ma quỷ đang thắng lớn và nếu không có một mặt trận tinh thần chống lại thì nguy cơ huỷ diệt của loài người ngày càng chắc chắn. Điều khôn khéo của ma quỷ là chúng thường ẩn mặt, không mấy khi lộ diện nên nhiều người lầm tưởng chúng không hiện hữu trên đời. Ma quỷ ngày nay ít xuất đầu lộ diện hơn thời trước.
Cách đây vài chục năm, có một con quỷ nhập vào một phụ nữ tại giáo xứ Bảo Toàn, thuộc giáo phận Xuân Lộc, khiến cho giới trẻ khiếp sợ nên siêng năng đến nhà thờ đông đúc không nơi nào có. Hễ đến giờ lễ giờ kinh là thanh niên nam nữ vào chật cứng nhà thờ.
Khi người ta biết có ma quỷ hiện diện, người ta khiếp sợ chúng, ắt người ta chạy đến với Chúa khiến ma quỷ khó làm ăn. Thế nên ma quỷ hôm nay tinh khôn hơn. Chúng rất ít khi xuất đầu lộ diện, nhưng luôn ẩn mặt dấu mày, đứng trong bóng tối và dùng ma lực của chúng điều khiển, xui khiến người ta phạm tội như ta sử dụng remote để điều khiển màn hình TV.
Vì lầm tưởng ma quỷ không hiện hữu nên không mấy ai đề phòng mưu thần chước quỷ của chúng. Và khi người ta không đề phòng thì ma quỷ càng dễ chi phối điều khiển con người làm nô lệ cho chúng.
Khí giới độc hại ma quỷ thường dùng là phim ảnh xấu, sách báo xấu, âm nhạc đồi truỵ, những điệu vũ khiêu dâm, nạn mua bán dâm tràn lan khắp nơi dưới mọi hình thức.
Chúng còn tạo ra những mốt thời trang hở hang gợi dục, xui khiến giới trẻ mặc những kiểu áo quần thiếu vải. Nhiều bạn gái trẻ lòng non dạ, hăm hở chạy theo mốt thời trang thiếu đoan trang nầy và vô tình trở thành những người tiếp tay cho ma quỷ trong việc làm băng hoại giềng mối đạo đức và tiết hạnh.
Lấy gì để xua đuổi, để diệt trừ quyền lực Sa-tan?
Người ta không thể tưới xăng đốt chúng, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy chúng được.
Thậm chí người ta không thể dùng bom đạn, vũ khí hoá học, bom vi trùng, bom nguyên tử để tiêu diệt chúng vì chúng vô hình.
Chỉ có phương thế duy nhất để tẩy trừ chúng ra khỏi tâm hồn và trí não là cậy nhờ vào lời quyền năng của Thiên Chúa.
Hãy dùng Lời Chúa để xua quỷ khỏi tâm hồn mình.
Tin mừng Mác-cô thuật lại: Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! "Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.” (Mác-cô 1, 21-27)
Quả là Lời Chúa Giê-su có sức mạnh vạn năng.
Trước nấm mồ của La-da-rô đã chết đến bốn ngày, Chúa Giê-su đã dùng lời quyền năng của Người mà phán: “Ladarô! hãy ra ngoài!” thì người chết liền đội mồ sống lại.
Khi cùng các môn đệ chèo thuyền trên biển, sóng gió bão táp nổi lên tư bề, Chúa Giê-su cũng dùng lời truyền lệnh cho bão tố và sóng gió liền lặng im.
Khi trong hội đường có người bị quỷ nhập, Chúa Giê-su đã dùng lời truyền khiến: “Hãy xuất khỏi người nầy” và quỷ phải xuất ra.
Chỉ có lời quyền năng của Chúa Giê-su mới có thể đẩy lùi quyền lực ma quỷ và xua trừ chúng khỏi lòng người.
Vậy chúng ta hãy quý trọng lời Chúa Giê-su và vận dụng lời Người để thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi mọi tham vọng xấu xa, khỏi những ước muốn đê hèn; loại trừ khỏi cuộc đời chúng ta những hành vi gian ác.
Một khi Lời quyền năng của Chúa Giê-su đã thanh luyện cuộc đời và làm cho tâm hồn chúng ta được bừng sáng nhân đức thì quyền lực của ma quỷ sẽ từng bước bị đẩy lùi và vương quốc Chúa Giê-su ngày càng lan rộng trong tâm hồn, trong gia đình và trong xứ đạo chúng ta.
16.Đức Giêsu, Đấng giải thoát ta khỏi sự dữ--An Phong, OP
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Máccô cho rằng phép lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện là trừ quỷ. Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang theo Vương quốc Thiên Chúa vào trần gian, Vương quốc "công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần". Và như thế, quyền năng cụ thể, rõ ràng và tuyệt đối mạnh mẽ của Đức Giêsu đã phá hủy vương quốc Satan; vương quốc sự ác, sự dữ…
Có bao giờ đời sống lại tiện nghi như hôm nay chưa nhỉ? Đủ các loại phương tiện phục vụ đời sống mỗi ngày… các phương tiện giải trí, các phương tiện truyền thông xã hội… Có lẽ chưa bao giờ trái đất lại thu hẹp đến như thế. Chỉ cần bật một nút tivi lên, các thông tin trên khắp thế giới được tường thuật. Chỉ cần nhấc máy điện thoại lên, một người từ bán cầu này có thể nói chuyện với một người ở bán cầu khác, v.v…
Nhưng có bao giờ đời sống nhiều lo âu như hôm nay không nhỉ? Đủ loại các phương tiện "làm hư" con người: xì ke, ma túy, mại dâm, tội ác, bạo lực… và mọi hình thức sự dữ rình rập đè bẹp con người. Tất cả những thứ "làm hư con người" đó đồng nghĩa với vương quốc Satan, một vương quốc đang càng ngày càng bành trướng, bất chấp mọi nỗ lực đang cố "làm sạch".
Còn hơn thế nữa, ngay trong con người, có một vương quốc sự dữ đang hoành hành. Thánh Gioan nói đó là "dục vọng của bản tính đam mê, của đôi mắt, và sự kiêu căng vì tiền bạc" (1Ga 2,16). Những đam mê, dục vọng đó hoành hành khắp nơi.
Thế gian và con người cần được Thiên Chúa giải thoát. Đức Giêsu đã đến với Vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Nơi nào có Thiên Chúa hiện diện, nơi đó là chính Nước Thiên Chúa, nơi đó có sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Mỗi ngày, trong Thánh lễ, lời cầu chúc "Chúa ở cùng anh chị em"; "bình an của Chúa ở cùng anh chị em" được gởi tới từng anh chị em như lời mời gọi xây dựng Nước Thiên Chúa. Xin Chúa ở cùng chúng ta, bình an của Chúa ở cùng chúng ta để giải thoát chúng ta "khỏi mọi sự dữ". Amen.
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có Chúa là Đấng giải thoát chúng con
khỏi vương quốc của sự dữ.
Xin Chúa cũng đồng hành với chúng con
trên bước đường đời
Và cùng chiến đấu với chúng con
trong cuộc chiến hằng ngày.
17."Con Người đến để phục vụ"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.
Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.
Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư - chết vô địa táng".
Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền".
Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.
18.Tin Mừng về Lòng Thương Xót--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có hai vợ chồng kia đã nhiều lần nghi ngờ xét đoán nhau.
Lần này đang lúc tranh cãi hăng say, người chồng bèn đề nghị:
“Này chúng ta đừng cãi nhau nữa, mỗi người hãy lấy giấy bút ra, rồi viết tất cả những lỗi lầm tật xấu của nhau, rồi trao cho nhau”
Người vợ đồng ý liền, người chồng cầm tờ giấy, nhìn vợ rồi cúi xuống viết.
Người vợ thấy chồng viết, cũng hối hả viết và kể lể hết mọi sự xấu xa của chồng, người vợ viết xong xem ra hả dạ.
Sau đó họ trao bản kết tội cho nhau.
Khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt vợ bổng đổi sắc vì xúc động, chị vội vã đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng, và có thái độ làm hòa.
Trong tờ giấy, người chồng chỉ viết một câu duy nhất: “Em à, Anh yêu em, đừng giận anh nữa!”
Có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu sức mạnh của lòng thương xót. Lòng thương xót chữa lành. Lòng thương xót mang lại bình an hạnh phúc. Lòng thương xót gìn giữ ngọn lửa tình yêu cho các gia đình.
Gia đình nếu không có lòng thương xót sẽ gây gỗ, bất hòa, nghi kỵ, hiểu lầm nhau. Gia đình không có lòng thương xót là một hỏa ngục tại thế. Vì sống bên nhau nhưng không hiểu nhau, không đối thoại được với nhau sẽ làm cho đời sống chung ngột ngạt và đau khổ.
Tin mừng Chúa Giê-su loan báo là tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho con người. Lòng thương xót của Chúa đã đích thân đi tìm con người. Lòng thương xót ấy chữa lành, xoa dịu nỗi đau cho con người. Lòng thương xót đẩy lùi sự dữ và mang lại bình an cho nhân thế.
Nhìn vào những việc làm của Chúa Giê-su người Do Thái cũng thấy nơi người toát lên lòng thương xót. Lòng thường xót chính là một giáo lý mới mẻ và đầy uy quyền mà người Do Thái ngỡ ngàng cảm phục. Chúa Giê-su không nói về sự công thẩm của Thiên Chúa mà trọng tâm rao giảng của Chúa là về tình thương của Ngài. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mô tả không phải là vị thẩm phán, nhưng là người cha giầu tình thương. Một Thiên Chúa không phân biệt giữa dân tộc này hoặc dân tộc nọ. Một Thiên Chúa không quan tâm đến của lễ toàn thiêu cho bằng con người thương yêu đùm bọc nhau. Một Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta trong quan hệ cha-con, chứ không phải là vua-tôi. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng là một Đấng trung tín, từ bi và nhân hậu. Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả, sẵn sàng đón nhận tất cả.
Năm nay với chủ đề “gia đình hãy là dấu chỉ Lòng thương xót” cụ thể là đồng hành cùng gia đình trẻ như là tiếng mời gọi các gia đình hãy tham gia vào sứ mạng của Hội thánh, rao truyền một nền văn minh tình thương và sự sống. Bằng tình thương chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi nền văn hoá bạo lực và chết chóc đang lan tràn chung quanh chúng ta. Vợ chồng hãy đối xử từ bi nhân ái với nhau. Cha mẹ hãy sống bao dung với con cái. Người trong xứ đạo hãy sống hòa hợp với nhau. Đây chính là sức mạnh của lòng thương xót mà người Do Thái đã nhìn ra nơi Chúa Giê-su như Đấng có đầy uy quyền. Bởi vì, uy quyền của Ngài đến từ lòng yêu thương, tinh thần phục vụ khiến mọi con tim thán phục, cảm mến.
Ước mong bóng tối sẽ bị đẩy lùi khi mỗi người tín hữu hãy thắp sáng lên tình yêu của Lòng thương xót ngay từ mái ấm gia đình mình. Xin cho các người cha người mẹ đừng lấy quyền mà áp đặt con cái nhưng biết thể hiện uy quyền của mình qua tình thương quan tâm dành cho con cái. Xin cho các đôi vợ chồng không đối xử hơn thua nhau nhưng bằng tình thương phục vụ mà khiêm tốn phục vụ lẫn nhau. Xin cho các đôi vợ chồng biết sống lòng thương xót để mái gia đình ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Amen.
19.Ma quỷ ngày nay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thế giới có ma quỷ hay không vẫn là câu hỏi của mọi người và mọi thời. Ở thời nào cũng có người tin, kẻ không tin. Kẻ tin thì bảo có. Người không tin thì chê cười.
Vậy ma quỷ là gì?
Thưa, theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, ma là người đã chết còn quỷ là con vật tưởng tượng dưới âm phủ, hình thù kỳ dị và dữ tợn hiện lên quấy nhiễu và làm hại người.
Theo niềm tin Kitô giáo, “ma” có thể hiểu là linh hồn người đã khuất, còn “quỷ” là những thiên thần sa ngã cắt đứt hoàn toàn sự hiệp thông với Thiên Chúa (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 391,392,414 và 2851). Tuy nhiên, khi nói tới ma quỷ là ta nghĩ đến chúng là những “kẻ phá ngang” kế hoạch của Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.
Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta thấy trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên có hai loài cao trọng là thiên thần và con người. Tiếc thay, có một số thiên thần, mà đứng đầu là Luciphe do kiêu ngạo đứng lên chống lại Thiên Chúa. Vì bất tuân phục Thiên Chúa nên Luciphe và bè lũ của chúng trở thành đối kháng với Thiên Chúa. Từ đó chúng luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài.
Nạn nhân đầu tiên bị dụ dỗ là Adam-Eva. Ông bà đã toa rập với chúng để chống lại Thiên Chúa và hậu quả đã di căn qua kiếp người là phải đau khổ và chết. Tứ đây tội lỗi đã đi vào trần gian. Sự ác mỗi ngày một gia tăng. Cain giết Aben, vụ án tháp Baben..và cho đến hôm nay, Nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Nó vẫn đang tiếp tục trói cột và ru ngủ con người bằng những lời đường mật, gian dối, làm cho nhân loại quay lưng lại với Thiên Chúa.
Thật thế, nhìn vào xã hội hôm nay dường như ma quỷ xem ra đang lộng hành trên khắp địa cầu. Chưa bao giờ tội lỗi lan tràn khắp chốn như ngày hôm nay: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. . .
Đời sống đạo đức đang suy đồi khủng khiếp. Ma quỷ xem ra rất tinh khôn. Nó không xuất hiện với hình dáng vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xí, đáng sợ. Nếu thế thì ta sẽ nhận ra nó, và nó chẳng bao giờ cám dỗ được ta. Ma quỷ thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Nó âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Nó kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Nó khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh quang và quyền lực. Nó vuốt ve thói ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Nhất là nó lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, và mất ý thức về tội.
Vậy, làm sao để xua đuổi, để diệt trừ quyền lực của nó ra khỏi cuộc sống này? Ta không thể tưới xăng đốt nó, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy nó được. Ta cũng không thể dùng bom đạn, vũ khí hoá học, để tiêu diệt nó vì nó là loài vô hình. Chỉ có phương thế duy nhất để tẩy trừ nó ra khỏi cuộc sống và tâm hồn con người là cậy nhờ vào lời quyền năng của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su chỉ cần nói một lời vắn gọn: “Hãy im đi và ra khỏi người này”, lập tức thần ô uế tuân lệnh và xuất ra khỏi người bệnh. Như vậy, chỉ có lời quyền năng của Chúa Giêsu mới có thể đẩy lùi quyền lực ma quỷ và xua trừ chúng ra khỏi cuộc sống và lòng người.
Xin cho chúng ta hiểu rằng theo ma quỷ là đi vào sự chết. Không thể có hạnh phúc nếu quay lưng lại với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn tỉnh táo để từ khước những ảo ảnh phù vân mà ma quỷ bày ra lôi cuốn. Ước gì chúng ta đừng bao giờ thất vọng trước những cám dỗ liên tục của ma quỷ nhưng luôn biết trông cậy vào ơn Chúa để xua đuổi những ước muốn tầm thường và tội lỗi ra khổ tâm trí và cuộc đời chúng ta. Amen.
20.Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa--HN sưu tầm -thanhlinh.net
MINH HỌA LỜI CHÚA -
1. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô đã biến La mã từ những đổ nát thành một La mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà lộng lẫy đồ sộ.
Nhưng ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu nhỏ bé đã làm chấn động cả thế giới và thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu sinh ra nghèo hèn trong một làng xa xôi hẻo lánh đã biến cả La mã khổng lồ của ông thành một vương quốc vĩ đại. Ông đâu ngờ các thần mInh ông tôn thờ phải lui bước, nhường chỗ cho một Thiên Chúa toàn năng, khiến ma quỷ phải khâm phục và mọi người tôn vinh.
***
Đó là sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện và biểu hiện uy quyền của Người qua lời giảng dạy mới mẻ, qua sự kính phục của ma quỷ, và qua lòng ngưỡng mộ của mọi người: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo” (Mc.1,28).
Chính “giáo huấn mới mẻ: làm cho mọi người nhìn nhận Người là Đấng cứu thế; thẩm quyền của Người khiến ma quỷ phải kính phục, và việc ma quỷ tuân phục Người nói lên vương quốc cứu độ của Người đã đến với loài người.
Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, nhận ra quyền năng của Người tác động trong cuộc đời chúng ta, làm cho nó sinh bông kết trái thiêng liêng hằng ngày G.Coutois đã khẳng định: “Nếu chúng ta biết sống Lời Chúa trong môi trường hằng ngày, chúng ta sẽ âm thầm trở nên muối và men cho cả nhân loại, vì ánh sáng của người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều.”
“Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv.118).
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
2. Sức mạnh của Lời Chúa
Đi khắp nước Phi-luật-tân, đâu đâu cũng thấy nhan nhản những câu Lời Chúa, nhắc nhở mọi người nhớ Chúa, nhất là đem ra thực hành trong đời sống. Sở dĩ ở Phi-luật-tân có được điều đó là vì số Kitô hữu chiếm hơn 90 phần trăm dân số.
Những lời Chúa đó khích lệ, động viên các tín hữu Phi-luật-tân hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh của từng giây từng phút sống. Lời Chúa có sức mạnh cải biến con người như thư Do-thái nói:
“Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hiện hữu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tìnhcũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
***
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sức mạnh của Lời Chúa luôn tác động mọi loài mọi vật và phát sinh hiệu lực như ngôn sứ Isaia nói:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về với trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy. Một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”.
Là đồ đệ Chúa và là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời chúa vào tâm hồn chúng ta và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Đó là cách tốt nhất để loan báo Chúa Kitô cho anh chị em xung quanh, vì loan báo bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. (Theo “Ánh Sáng thế gian”).
3. Hai vương quốc giao tranh
Năm 1970 bộ phim “Người trừ quỷ” ra mắt đã phá kỷ lục bán vé. Bộ phim kể lại một thiếu niên bị quỷ ám như anh chàng trong Tin mừng hôm nay.
Đó là cậu trai 14 tuổi sống ở vùng Raimer, bang Maryland vào năm 1949. Phòng cậu ở, mọi vật đều di động. Ban đêm cậu không sao ngủ được, miệng luôn thốt ra những lời nguyền rủa hung hãn. Và đến một lúc nào đó đầu cậu bị cột vào giường ngủ, thì thân xác cậu đầy những vết tích đẫm máu…
Nhưng cậu bình phục nhờ được trừ tà, hiện cậu còn sống ở vùng Washington nước Mỹ. Vị linh mục đã trừ tà cho cậu nói: “Nhờ dịp này, tôi đã biến đổi cuộc sống tốt hơn”.
***
Trong Tin mừng hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu trừ được quỷ, dân chúng thắc mắc: “Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là vì Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến” (Lc.11,20). Việc Chúa Giêsu trừ được quỷ nói lên vương quốc Satan giờ đây nhường chỗ cho vương quốc Thiên Chúa.
Điều này lại gợi lên vấn nạn: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa hơn 2000 năm nay, tại sao điều ác sự dữ vẫn còn? Tức là vương quốc ma quỷ vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta? Lý do vì vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc, đó là một bước tiến từ từ. Hơn nữa, Chúa giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất. Có thể vì vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng, giao cho chúng ta vun phân tưới nước cho nó lớn lên và sinh bông kết trái như ý Chúa muốn.
Điều này lại dẫn đến vấn nạn thứ hai: Tại sao vương quốc ma quỷ lâu tàn lụi và vương quốc Thiên Chúa chậm phát triển như thế? Câu trả lời phải nói là tại chúng ta chểnh mảng, không lo chu toàn trách nhiệm Chúa phú giao. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta kính mến chúa hết lòng, thương yêu người như Chúa thương? Có bao nhiêu người trong chúng ta trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho người khác? Có bao nhiêu người chúng ta sống hiền lành khiêm nhượng như Chúa Giêsu? !...
(Theo “Sunday Homilies”).
4. Ông là Đấng Thánh
Có người mẫu Susam Missi gốc nước Anh đã bảo hiểm thân thể cô trị giá 15.800.000 mỹ kim. Cô rất hãnh diện về số tiền bảo hiệm cho thân thể cô. Nhưng phải chăng đó là giá trị của con người.
Đọc qua bản tin này, ai có quan niệm sống là để hưởng giàu sang và khoe khoang của cải sắc đẹp thì người đó thán phục và mơ ước mình cũng được như thế. Nhưng đối với những ai có tâm hồn quãng đại, yêu người thì sẽ trách phiền người mẫu kia là vô tâm, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết thương giúp đồng loại đau khổ thiếu thốn. Nhưng dù có phản ứng thế nào thì đây cũng là dịp tốt mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống, về phẩm giá con người.
Sự sống của mỗi người chúng ta có giá trị vô song, không thể sánh với tiền của vật chất. Người mẫu Susan Missi đã bảo hiểm thể xác mình gần 16 triệu mỹ kim, nhưng sự sống của cô không có gì đổi được.
***
Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa dạy cho biết sự sống con người thật quý giá, và sự sống đó sẽ triển nở đến muôn đời. Sự sống đó quý giá đến nỗi máu Con Thiên Chúa phải đổ ra chuộc lại.
Thánh Phêrô bảo chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anhh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh Thiện… Anh em hãy biết không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn vô tỳ tích là Đức Kitô…
Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn… hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tuông cùng mọi lời nói xấu gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ… (1Pr.1,15-2,2).
Chúng ta nhắc lại lời Thánh Phêrô kêu mời chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”.
Và trong Tin mừng hôm nay, chính thần ô uế cũng phải tuyên xưng: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc.1,24).
21.Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa--HN sưu tầm -thanhlinh.net
1. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô đã biến La mã từ những đổ nát thành một La mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà lộng lẫy đồ sộ.
Nhưng ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu nhỏ bé đã làm chấn động cả thế giới và thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu sinh ra nghèo hèn trong một làng xa xôi hẻo lánh đã biến cả La mã khổng lồ của ông thành một vương quốc vĩ đại. Ông đâu ngờ các thần mInh ông tôn thờ phải lui bước, nhường chỗ cho một Thiên Chúa toàn năng, khiến ma quỷ phải khâm phục và mọi người tôn vinh.
***
Đó là sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện và biểu hiện uy quyền của Người qua lời giảng dạy mới mẻ, qua sự kính phục của ma quỷ, và qua lòng ngưỡng mộ của mọi người: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo” (Mc.1,28).
Chính “giáo huấn mới mẻ: làm cho mọi người nhìn nhận Người là Đấng cứu thế; thẩm quyền của Người khiến ma quỷ phải kính phục, và việc ma quỷ tuân phục Người nói lên vương quốc cứu độ của Người đã đến với loài người.
Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, nhận ra quyền năng của Người tác động trong cuộc đời chúng ta, làm cho nó sinh bông kết trái thiêng liêng hằng ngày G.Coutois đã khẳng định: “Nếu chúng ta biết sống Lời Chúa trong môi trường hằng ngày, chúng ta sẽ âm thầm trở nên muối và men cho cả nhân loại, vì ánh sáng của người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều.”
“Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv.118).
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
2. Sức mạnh của Lời Chúa
Đi khắp nước Phi-luật-tân, đâu đâu cũng thấy nhan nhản những câu Lời Chúa, nhắc nhở mọi người nhớ Chúa, nhất là đem ra thực hành trong đời sống. Sở dĩ ở Phi-luật-tân có được điều đó là vì số Kitô hữu chiếm hơn 90 phần trăm dân số.
Những lời Chúa đó khích lệ, động viên các tín hữu Phi-luật-tân hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh của từng giây từng phút sống. Lời Chúa có sức mạnh cải biến con người như thư Do-thái nói:
“Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hiện hữu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tìnhcũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
***
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sức mạnh của Lời Chúa luôn tác động mọi loài mọi vật và phát sinh hiệu lực như ngôn sứ Isaia nói:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về với trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy. Một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”.
Là đồ đệ Chúa và là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời chúa vào tâm hồn chúng ta và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Đó là cách tốt nhất để loan báo Chúa Kitô cho anh chị em xung quanh, vì loan báo bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. (Theo “Ánh Sáng thế gian”).
3. Hai vương quốc giao tranh
Năm 1970 bộ phim “Người trừ quỷ” ra mắt đã phá kỷ lục bán vé. Bộ phim kể lại một thiếu niên bị quỷ ám như anh chàng trong Tin mừng hôm nay.
Đó là cậu trai 14 tuổi sống ở vùng Raimer, bang Maryland vào năm 1949. Phòng cậu ở, mọi vật đều di động. Ban đêm cậu không sao ngủ được, miệng luôn thốt ra những lời nguyền rủa hung hãn. Và đến một lúc nào đó đầu cậu bị cột vào giường ngủ, thì thân xác cậu đầy những vết tích đẫm máu…
Nhưng cậu bình phục nhờ được trừ tà, hiện cậu còn sống ở vùng Washington nước Mỹ. Vị linh mục đã trừ tà cho cậu nói: “Nhờ dịp này, tôi đã biến đổi cuộc sống tốt hơn”.
***
Trong Tin mừng hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu trừ được quỷ, dân chúng thắc mắc: “Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là vì Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến” (Lc.11,20). Việc Chúa Giêsu trừ được quỷ nói lên vương quốc Satan giờ đây nhường chỗ cho vương quốc Thiên Chúa.
Điều này lại gợi lên vấn nạn: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa hơn 2000 năm nay, tại sao điều ác sự dữ vẫn còn? Tức là vương quốc ma quỷ vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta? Lý do vì vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc, đó là một bước tiến từ từ. Hơn nữa, Chúa giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất. Có thể vì vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng, giao cho chúng ta vun phân tưới nước cho nó lớn lên và sinh bông kết trái như ý Chúa muốn.
Điều này lại dẫn đến vấn nạn thứ hai: Tại sao vương quốc ma quỷ lâu tàn lụi và vương quốc Thiên Chúa chậm phát triển như thế? Câu trả lời phải nói là tại chúng ta chểnh mảng, không lo chu toàn trách nhiệm Chúa phú giao. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta kính mến chúa hết lòng, thương yêu người như Chúa thương? Có bao nhiêu người trong chúng ta trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho người khác? Có bao nhiêu người chúng ta sống hiền lành khiêm nhượng như Chúa Giêsu?!...
(Theo “Sunday Homilies”).
4. Ông là Đấng Thánh
Có người mẫu Susam Missi gốc nước Anh đã bảo hiểm thân thể cô trị giá 15.800.000 mỹ kim. Cô rất hãnh diện về số tiền bảo hiệm cho thân thể cô. Nhưng phải chăng đó là giá trị của con người.
Đọc qua bản tin này, ai có quan niệm sống là để hưởng giàu sang và khoe khoang của cải sắc đẹp thì người đó thán phục và mơ ước mình cũng được như thế. Nhưng đối với những ai có tâm hồn quãng đại, yêu người thì sẽ trách phiền người mẫu kia là vô tâm, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết thương giúp đồng loại đau khổ thiếu thốn. Nhưng dù có phản ứng thế nào thì đây cũng là dịp tốt mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống, về phẩm giá con người.
Sự sống của mỗi người chúng ta có giá trị vô song, không thể sánh với tiền của vật chất. Người mẫu Susan Missi đã bảo hiểm thể xác mình gần 16 triệu mỹ kim, nhưng sự sống của cô không có gì đổi được.
***
Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa dạy cho biết sự sống con người thật quý giá, và sự sống đó sẽ triển nở đến muôn đời. Sự sống đó quý giá đến nỗi máu Con Thiên Chúa phải đổ ra chuộc lại.
Thánh Phêrô bảo chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anhh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh Thiện… Anh em hãy biết không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn vô tỳ tích là Đức Kitô…
Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn… hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tuông cùng mọi lời nói xấu gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ… (1Pr.1,15-2,2).
Chúng ta nhắc lại lời Thánh Phêrô kêu mời chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”.
Và trong Tin mừng hôm nay, chính thần ô uế cũng phải tuyên xưng: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc.1,24).
22.Lời giảng quyền uy và tân kỳ--AM Trần Bình An
Wat Traimit còn gọi là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ đẹp độc đáo, lịch sử của nó, và nhờ pho tượng Phật bằng vàng nguyên khối rất lớn. Chùa này tọa lạc ở cuối đường Yaowarat, gần ga Hualampong, thuộc Quận Samphathawong.
Tượng Phật Vàng là bức tượng Phật ngồi cao 3 mét đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn. Người địa phương cho rằng bức tượng lớn nhất thế giới này biểu thị cho sự thịnh vượng và thuần khiết cũng như sức mạnh và quyền năng. Trong số tất cả những bức tượng Phật mà du khách có thể nhìn thấy ở Bangkok, từ tượng Phật Emerald tại Wat Phra đến tượng Phật nằm tại Wat Pho, thì tượng Phật Vàng là một trong những bức tượng xinh đẹp nhất. Tượng Phật Vàng đã giúp Wat Traimit trở thành một trong những điểm đến hàng đầu nằm trong lịch trình tham quan Bangkok của du khách.
Tượng Phật Vàng được xác định là làm trong thời đại Sukhothai (khoảng thế kỷ 13-15), một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật của Thái Lan, đặt trong một ngôi chùa ở thủ đô cổ Ayutthaya (cách Bangkok về phía Bắc khoảng 1 giờ đồng hồ đi xe). Khi quân Miến Điện cướp phá thủ đô, để tránh sự xâm hại của quân xâm lược, tượng được phủ một lớp đất sét dầy và được giữ bí mật tuyệt đối, vì những người chịu trách nhiệm ngụy trang bức tượng này bị giết ngay sau khi hoàn tất công việc. Sau đó, tượng được đóng thùng chuyển đến Bangkok và đặt tại chính điện của chùa Choti-Naram (là Wat Phrayakrai hiện nay) dưới thời vua Rama III (1824 - 1851).
Năm 1931, ngôi chùa này bị bỏ hoang và bức tượng phủ đất sét này được chuyển đến một nơi tạm thời và chẳng mấy ai quan tâm trong suốt hai thế kỷ. Thập niên 1950, khi di chuyển đến một ngôi chùa mới ở Bangkok, tượng bị tuột khỏi cần cẩu, rơi xuống hố bùn. Cũng chẳng ai buồn trục tượng lên. Người dân địa phương kể rằng có một nhà sư được đức Phật báo mộng, nên đi tìm và kéo được tượng lên. Qua một vết nứt, nhà sư thấy một tia sáng màu vàng lóe lên và Phật Vàng được "tái sinh." (Wikipedia)
Vết nứt đất sét đã tình cờ lộ ra pho tượng Phật vàng ròng. Trong Tin Mừng Marcô hôm nay, chính tay quỷ sợ hãi, cũng hớt hải, vô tình làm lộ ra bản tính Thiên Chúa nơi Đức Giêsu: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1, 24) Tuy nhiên, Người cấm Satan tiết lộ Thánh Danh Người, vì quỷ dữ không xứng đáng công bố, mà dành cho sau này chính môn đệ Đá Tảng, Phêrô long trọng tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8, 27- 29).
Lời Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum vào ngày Sabat khiến thiên hạ ngạc nhiên, sửng sốt, “vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” (Mc 1, 22) Hành động trừ quỷ tiếp theo là một dấu chỉ khẳng định uy quyền Đấng Thiên Sai. Trước đó, Người được ông Gioan Tiền Hô long trọng giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga 1, 29)
Lời giảng uy quyền
Trong khi các thầy tư tế, kinh sư, Biệt Phái giảng dạy Ngũ Thư theo như truyền thống vụ luật, nguyên tắc và khắt khe, nghiêm nhặt, cầm buộc và cấm đoán, thì Đức Giêsu giảng giải khác hẳn và trái ngược, cởi mở, quảng đại, tràn đầy uy lực, quyền năng. Không những Người trình bày ý nghĩa, mục đích và tinh thần của Lề Luật thật sâu sắc, tinh tế và chính xác: “Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát.” Người còn tự nhận đứng trên cả Lề Luật, có đủ thẩm quyền giải thích Lề Luật: “Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát" (Mc 2, 27 - 28)
Thay vì Lề Luật định hướng con người kính Chúa, yêu người, trở nên tốt lành, xả kỷ vị tha, nhân ái, nhân hòa, yêu thương và phục vụ, lại trở nên gánh nặng phi lý cho con người, mà thánh Phaolô gọi đó là luật của người trần. “Chẳng hạn:“Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái nọ.” toàn là những cái cấm đoán đụng đến là hư. Đó chỉ là những giới luật và giáo huấn của người phàm.” (Cl 2, 20- 21)
Lời giảng tân kỳ
Đức Giêsu không hủy bỏ hay thay đổi Lề Luật. “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5, 17) Trái lại, Người hoàn chỉnh và khoác lên Luật Lệ bộ mặt mới thân thiện, cụ thể và hữu ích cho con người xứng đáng lãnh nhận ơn Cứu Độ:“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng ... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết ..." (Mt 5, 21) Người đổi mới tinh thần Luật, nâng cấp cho phù hợp với tình yêu thương, nhân từ, bác ái, mà Người hằng ấp ủ, chủ trương: “Ta ban cho các con điều răn mới, đó là các con phải yêu thương nhau. Như Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng phải yêu thương nhau thể ấy.” (Ga 13, 34 - 35).
Các kinh sư, luật sĩ, Biệt Phái đã trói buộc dân chúng thực thi 613 mitzvot, điều Luật, thật chi tiết, tỉ mỉ, vụn vặt trong đời sống, vô tình biến Luật thành vòng kim cô, thành hàng rào, tường lũy, ngăn cách và cắt đứt mối giao hảo, tương quan giữa con người và với Thiên Chúa. Điển hình trong dụ ngôn người Samarita nhân lành, Đức Giêsu nêu đích danh thầy tư tế, thầy Lêvi đã bỏ mặc kẻ hoạn nạn dở sống dở chết, chỉ vì họ đều mù quáng tuân thủ Luật lệ. Thay vì kết luận, Người hỏi ngược lại luật sĩ, buộc ông phải công khai khẳng định: “Vậy theo ý ông, thì ai trong ba người ấy đã nên đồng loại của người sa vào ổ cướp?" Ông ấy đáp: "Kẻ đã xử nhân nghĩa với người ấy." (Lc 10, 25-37)
“Biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 801)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa xua đuổi ma quỷ ra khỏi lòng trí chúng con, giải thoát chúng con khỏi đam mê thế gian, cứu chúng con khỏi cám dỗ xác thịt, để chúng con có thể lắng nghe, đón nhận và nhập tâm Lời Hằng Sống, hầu sống theo lời giảng dạy đầy quyền uy và tân kỳ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ xua tan đi những đám mây mù, u ám gian tà, tội lỗi, xấu xa đang ráo riết quyến rũ, bao vây, tấn công chúng con, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cứu vớt chúng con được sống trong tình thương, ân nghĩa của Chúa. Amen.
23.Tôi biết Ông là ai!--AM Trần Bình An
Chúa Giêsu cùng các môn đệ, xuất hiện và giảng dạy công khai trong một hội đường tại Caphạrnaum vào ngày lễ nghỉ sa bát. Thiên hạ ngạc nhiên vì lời Ngài như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Họ chỉ mới ngạc nhiên, sửng sốt, chứ chưa thể nhận biết rằng, Ngài chính là Đấng Có Thẩm Quyền. Nhưng có lẽ để thiên hạ biết rõ Ngài là ai, thì Chúa đã dùng ngay satan dưới lốt thần ô uế, thừa nhận vô cùng minh bạch: Tôi biết ông là ai rồi! Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!
Chẳng phải chỉ đáng buồn cho Israel, dân riêng của Chúa, đã không nhận biết Ngài là ai. Mà chính con cái Ngài hiện nay ở khắp nơi, cũng khiếm thị, khiếm thính, cũng không hề nhận ra Ngài, đang hiện diện trong mỗi con người chung quanh, những tha nhân khốn khó, những kẻ cô thế, kẻ bị giam cầm, bị áp bức, bị đói khát, bị gạt ra ngoài lề xã hội…
Ngài đến không chỉ soi đường, dẫn lỗi con người thoát kiếp lầm than, thoát kiếp nô lệ của satan, nhưng còn chữa lành, giải phóng con người thoát khỏi ảnh hưởng đen tối của u mê tội lỗi, của thói tham lam, thói ích kỷ, vị kỷ, thoát khỏi cái tôi như cái rốn vũ trụ.
Thần ô uế bây giờ tinh xảo, không còn ngây ngô, xấu xí hay kinh dị như xưa, mà trở nên biết hóa khôn lường, mặc lấy nhiều cái áo vô cùng mỹ miều, nhân danh đủ các lý tưởng thanh cao, đủ các chủ nghĩa mỵ dân, hòng che đậy cứu cánh dã tâm, không ngoài mục đích vinh thân phì gia, củng cố phe cánh, bè đảng, bằng nhiều chiêu độc, như tước đoạt của cải, bần cùng hóa và nô lệ hóa dân đen, chà đạp nhân phẩm, tước đoạt tự do,…
Thế mà Chúa Giêsu lại đến giải thoát con người khỏi ách nô lệ sự dữ, làm sao không động đến quyền lực đen, làm sao không làm nhức nhối những bạo quyền, những kẻ đang tâm bán rẻ linh hồn cho satan, kể cả những đám lâu la, ô hợp chạy theo cường quyền, để kiếm chác, bòn mót chút ân huệ, mà lạnh lùng hùa theo hãm hại dân lành. Chúa cũng không quên cảnh cáo những ngôn sứ phụ bạc, phản phé: Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết". (Đnl 18, 20)
Như vậy, đàn chiên Ngài chẳng lẽ lại dại dột nghe theo sói dữ, hay sói đột lốt chiên, để được yên thân, để khỏi bị thử thách, khỏi phải vác thánh giá? Lại chẳng biết đâu là chính nghĩa, đâu là danh chính ngôn thuận, đâu là Đường, đâu là Sự Thật, mà chính satan đã từng phải buộc lòng xác nhận?
Lạy Chúa, xin hãy mở mắt, mở tai, mở lòng trí con, để con luôn nhận ra Chúa hiện diện ngay bên con, ngay trong xã hội nhiễu nhương, và nhất là Chúa hiện diện trong Tin Mừng và trong Thánh Thể nhiệm mầu.
Lạy Mẹ kính yêu, xin thức tỉnh con nhìn thấy Chúa trong mọi người, luôn biết nương tựa nơi Chúa, hầu xa lánh được satan, luôn rình rẫp cám dỗ, muốn khống chế tầm hồn yếu đuối của con. Amen.
24.Giảng dạy như có thẩm quyền--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tác giả Máccô giới thiệu sứ vụ của Đức Giêsu tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở nên thuyết phục.
Mác-cô trước hết giới thiệu Đức Giêsu như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của Đức Giêsu là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng được rao giảng.
Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức Giêsu thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương Đức Giêsu thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Thật ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của Đức Giêsu đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng giữa họ với Đức Giêsu đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức Giêsu quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa, trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.
Suy niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Kitô.
- Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!
- Quan trọng đối với việc mục vụ: suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học - luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của Đức Kitô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường cách mãn nguyện?
Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
25.Chạy theo tà thần--Anmai, CSsR
"Đời là bể khổ", Đức Phật nói như thế! Ta có thể nói ngược lại "Bể khổ là đời!". Đã sinh ra trong thân phận làm người, ai ai cũng mang trong mình những đau khổ của cuộc đời. Không khổ nhiều cũng khổ ít chứ chẳng thể nào ai mà thoát khổ được. Trong những lúc cuộc đời gặp đau khổ, con người phải đối diện với chính trong sâu thẳm của lòng mình. Thường, người ta vẫn thường nói "lúc gian nan mới biết ai là bạn". Cũng vậy, trong những lúc gian nan thử thách của cuộc đời, ai là người để chúng ta tin tưởng, để chúng ta bám víu, để chúng ta trông cậy?
Buổi sáng nọ, đang làm việc, bỗng dưng sơ phụ trách cộng đoàn gọi tôi có việc. Ra hành lang thì thấy sơ dẫn hai mẹ con nọ đến gặp tôi. Tôi ngạc nhiên nhưng bình tĩnh hỏi chuyện.
Bà mẹ nói trước: "Thưa Cha! Con được người em con về nói văng vẳng bên tai con là con phải theo đạo Mẹ Maria, theo đạo ông Giêsu Kitô... mô phật! mô phật!" Tôi nghe bà nói tôi cảm thấy căng đây vì lẽ sao mà theo đạo Mẹ Maria mà miệng lại cứ mô phật, mô phật. Tôi lấy hết bình tĩnh để nghe hai mẹ con trình bày.
Chuyện là chồng của người con của bà đã bỏ vợ để đi theo một người đàn bà khác. Cuộc sống ngày một khó khăn, chu cấp không như ngày xưa nữa. Bực bội trước cảnh đó và rồi người con của bà suy nghĩ nhiều, căng thẳng, mất ngủ! Nghe thấy nó làm sao đó, tôi mới hỏi là tình hình sao thì người con nói là gần 1 năm nay, cô ta không ngủ được, chỉ chợp mắt nằm đó thôi và giờ đang buồn ngủ (lúc đó 9 giờ sáng). Bỗng dưng cô lăn ra chiếc ghế dài cô đang ngồi và cô nằm xuống, nằm một lát cô ngồi dậy. Tôi cảm thấy bắt đầu lúng túng và chỉ biết cầu nguyện thôi.
Đang lúc ấy thì miệng bà mẹ cứ mô phật, mô phật!
Bà mẹ lại nói tiếp rằng lúc nào bà cũng bị tiếng nói gì đó văng vẳng bên tai! Tiếng nói ấy bảo bà đến để theo đạo Kitô!
Tôi thấy cũng căng trước hai người phụ nữ không bình thường này. Tôi nghi là hai người này có chơi bùa chơi ngãi hay đi coi thầy bà gì đây và tôi hỏi thật lòng là hai người có đi coi thầy không thì tôi mới giải quyết vấn đề được. Ban đầu còn ấp úng nhưng sau đó cô con gái đã thú nhận là đã đi coi thầy khi gia đình gặp khủng hoảng, khó khăn, nhất là khi ông chồng bỏ vợ đi theo vợ bé. Cô còn khai thêm là người ta cho uống cái nước gì đó và hiện tại bây giờ mỗi ngày vẫn còn uống nước đó!
Tôi đã hiểu vấn đề và nguyên nhân của hậu quả mà hai mẹ con đang lãnh nhận.
Đó là hai mẹ con đã chơi với thế lực ma quỷ, thế lực của sự dữ nên giờ đây phải đón nhận hậu quả bi đát này.
Để giúp cho hai mẹ con. Tôi bắt đầu phân tích cho họ thấy rằng nếu như ông thầy bói toán mà biết được cuộc đời của mọi người để ông coi bói sao ông không biết được cuộc đời của ông để mà ông phải ngồi đó để bói toán cho những con người nhẹ dạ và cả tin như các cô các bà. Nếu ông biết được tương lai, biết được mọi chuyện thì đơn giản nhất là ông mua vé số để trúng số lấy tiền mua nhà lầu xe hơi chứ sao phải ngồi trong căn nhà ọp ẹp bói toán mà còn phải canh chừng công an!
Tôi nói thêm là thời nào cũng có ma quỷ. Như thời của Chúa Giêsu như trong trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại đấy! Thời nào cũng có ma quỷ cả! Ma quỷ chính là những thiên thần đã bất tuân lệnh Chúa. Và từ những trang đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy ma quỷ đã dụ dỗ bà Eva để rồi bà cùng ông phạm tội bất tuân Thiên Chúa. Chính vì hai mẹ con của bà ấy đã đi theo hay nói đúng hơn là chơi với ma quỷ thì phải lãnh nhận hậu quả như hiện nay.
Tôi bảo với hai mẹ con rằng nếu như muốn thoát khỏi tình trạng hiện nay thì phải dứt khoát với ma quỷ, không còn uống nước của ông thầy cúng cho nữa. Muốn theo đạo ông Giêsu cũng được nhưng trước hết, ngay trong hiện tại cứ cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ đã rồi từ từ học đạo để theo đạo.
Nguyên nhân mà hai mẹ con này gặp phải hậu quả này đó chính là khi cuộc sống gặp khó khăn đã đi tìm đến thế giới của ma quỷ, thế giới của tà thần để giúp mình. Đơn giản nhất, khi người chồng đã theo vợ bé không còn chu cấp như xưa nữa thì chính người vợ phải cố gắng lao động để nuôi 3 đứa con, đàng này, người vợ ăn ở không, không chịu làm gì cả và rồi chạy đến thầy bùa, thầy ngãi để "giải hạn". Tưởng chừng "giải hạn" nhưng nào ngờ "hạn" nó đến với hai mẹ con này không biết đến ngày nào mới giải được.
Thời nào cũng vậy, khi gặp khó khăn người ta không cố gắng vươn lên bằng chính khả năng của mình nhưng cứ muốn dựa vào thế lực nào đó để giải thoát mình. Lẽ ra người ta đi tìm đến Đấng Cứu Độ của đời mình, Đấng làm chủ thời gian và không gian, làm chủ trời đất muôn vật để giúp họ nhưng không, người ta vẫn cứ đi tìm những thế lực nào đó.
Như sách Đệ Nhị Luật vừa cho chúng ta biết thánh ý của Đức Chúa trên dân qua miệng Môsê. Thiên Chúa hứa sẽ cho một ngôn sứ xuất hiện để giúp cho dân, ngôn sứ ấy sẽ nói lời của Đức Chúa và người nào không nghe lời ngôn sứ ấy thì Đức Chúa sẽ hạch tội người đó.
Trước đoạn sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta vừa nghe, tác giả sách đã cảnh báo dân rằng: "Nếu ở giữa anh em xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho anh em một dấu lạ hay một điềm thiêng, nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác", những thần mà anh em không biết, thì anh em đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải theo; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người. Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và đã chuộc anh em khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh em ra khỏi con đường Đức Chúa đã truyền cho anh em phải đi. Anh em phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh em". (Đnl 13, 2,-6). Con người mọi thời đại vẫn nghe ngóng, vẫn trông chờ vào lời nói của những ngôn sứ giả.
Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cứu độ. Đức Chúa đã cho quá nhiều ngôn sứ đến để nói cho dân biết về tình thương cứu độ của Chúa, về thánh ý của Ngài nhưng rồi dân chúng cứ như bỏ ngoài tai để chạy theo không biết bao nhiêu là tà thần.
Thư gửi tín hữu Do Thái đã nói cho chúng ta: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng đến thời sau hết là những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử".
Quả thật, có quá nhiều ngôn sứ đã được Chúa sai đến để dạy bảo, để chỉ vẽ cho dân chúng biết con đường để đi theo Chúa nhưng rồi cha ông chúng ta và thậm chí chúng ta đây có nghe lời của các ngôn sứ đâu? Chúa nói quá nhiều, Chúa - vì yêu thương chúng ta - đã quá chăm sóc cho chúng ta nhưng nào chúng ta có chịu nghe Chúa. Những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử, qua Con Chí Ái của Ngài nhưng rồi chúng ta, cha ông chúng ta thời Chúa Giêsu - Con Chí Ái của Thiên Chúa - nhưng cha ông chúng ta và chúng ta có chịu nghe đâu? Nếu chúng ta thật sự nghe theo lời Chúa Giêsu thì cuộc đời của con người, cuộc đời của mỗi người chúng ta đâu có lao đao vất vả như thế này.
Cuộc đời chúng ta, chắc có lẽ phần nào cũng giống như hình ảnh của hai mẹ con nọ mà tôi đã gặp và tôi đã kể ở trên. Những lúc cuộc đời gặp lao đao vất vả, hai mẹ con ấy cũng như chính mỗi người chúng ta đã không biết tìm đến Chúa để mà bám víu. Chúng ta vẫn chạy theo người đời để nghe đủ mọi lời ngon ngọt của người phàm mà quên đi lời của Thiên Chúa. Giả như chúng ta quên thì Thiên Chúa với lòng bao dung của Ngài, Ngài sẽ tha thứ tất cả cho chúng ta nhưng chúng ta lại cố tình quên, đó mới là chuyện đáng nói.
Còn và còn khá nhiều người trong cuộc sống khi gặp gian nan khốn khó đã không chịu tìm đến với Chúa nhưng đã chạy theo tà thần. Khi bị những cơn sóng của cuộc đời xô đẩy, lẽ ra đi tìm đến Chúa nhưng không, lại đi tìm những thầy bói của cuộc đời.
Tôi quen một gia đình nọ. Người em thì hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa, người chị thì ngược lại. Đã hơn một lần người chị rủ người em đi xem bói nhưng người em dứt khoát là không. Người em kể lại chuyện ấy với tôi và bảo rằng chị không bao giờ đi xem bói vì chị không tin. Trong chúng ta cũng có một số người như người chị của người chị mà tôi quen này luôn tìm đến thầy bà để xem vận mạng của mình nhưng nào có ai biết được tương lai phận đời của mình đâu.
Chúng ta vẫn bị giằng co của cuộc đời. Những người bói toán là những con người cùng xác cùng thịt như chúng ta lại có "khả năng" biết được vận mạng, biết được tương lai của chúng ta. Còn Chúa, Chúa với chúng ta hình như nó xa vời vợi làm sao đó để rồi chúng ta không còn tin Chúa nữa mà tin theo người bói toán. Chúa vẫn ở đó, vẫn lặng lẽ để theo dõi, để quan sát, để chở che, để quan phòng chúng ta nhưng chúng ta không chịu nhận ra Ngài đó thôi.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa chính là cùng đích, là lẽ sống, là nguồn cậy trông của cuộc đời mỗi người chúng ta để rồi giữa những lao đao vất vả của cuộc đời xảy đến chúng ta luôn chạy đến Chúa, bám vào mình Chúa mà thôi.
26.Lời quyền năng cứu độ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hoán cải và tin theo Chúa Giêsu vì Nước Trời gần đến là lời mời gọi của Đấng Thiên sai (x. Mc 1, 14-20). Sứ vụ Thiên sai ấy được tiếp tục thi hành với Lời Quyền Năng Cứu Độ, Lời có sức chữa lành những người bị quỉ ám, khiến cho những người mù được sáng, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều ...thán phục; các thần ô uế phải vâng lệnh Người (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người ngồi đấy đều đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Người giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh Thánh. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, là Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Lời của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật (Mc 1, 22). Câu hỏi được đặt ra: Vậy có điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người" (x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi " (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó"(Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.
Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta ...
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là " Đấng thánh của Thiên Chúa " (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì? " (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi! " (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
27.Chúa quyền năng, vì Chúa là Đấng Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Lúc ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).
Điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi" (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó" (Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.
Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta...
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là "Đấng thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì?" (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1,24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi!" (Mc 1,25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
28.Uy quyền--Lm. Vũ Đình Tường
So sánh khác biệt
Đám đông nghe Đức Kitô giảng giải và họ xì xào, bàn tán với nhau. Ngài là ai mà 'Giáo lí thì mới mẻ và người dạy lại có quyền' c.27. Người ta không thể so sánh nếu không biết. Như thế đám đông so sánh với lời giảng của ai? Thưa đó chính là giáo huấn của các Kinh Sư. Các vị này thường dựa vào luật lệ và truyền thống để buộc tín hữu giữ luật hết sức nghiêm ngặt. Đức Kitô vạch ra sai lầm của họ khi họ đặt truyền thống trên Lời Chúa:
Các ông lấy truyền thống đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời của Thiên Chúa Mk 7,13
Các Kinh Sư và Luật Sĩ còn buộc người ta nhiều luật lệ khắt khe. Đức Kitô mô tả họ là những kẻ giả hình vì họ chất những ánh nặng trên vai người ta còn chính họ lại sống ngoài luật lệ, không tuân giữ lề luật Mt 23.
Giáo huấn của thánh Gioan Tiền Hô đưa ra đã mới và giáo huấn của Đức Kitô còn mới hơn. Gioan Tiền Hô kêu gọi thống hối và lời kêu gọi của Gioan kèm theo đe doạ và hình phạt; trong khi giáo huấn của Đức Kitô kêu gọi 'thống hối và tin vào Tin Mừng' mà không kèm theo đe dọa cũng không phải thống hối rập khuôn theo nguyên tắc lề luật truyền lại.
Mới mẻ
Thưa mới mẻ bởi Đức Kitô dậy từ sự khôn ngoan của riêng cá nhân Ngài. Kinh Thánh có lần nhắc rõ thời ẩn dật Đức Kitô
‘ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa Lc 2,40
Lời giảng dậy mới mẻ đến độ thính giả nghe đầy kinh ngạc lên tiếng hỏi nhau:
Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là làm sao? Mc 6,2
Lời giảng mới mẻ bởi giáo huấn của Ngài cởi trói, giải thoát họ khỏi bị luật lệ ràng buộc chặt chẽ đến độ con người trở thành nô lệ cho lề luật. Giáo huấn của Đức Kitô làm cho việc tôn thờ Thiên Chúa trở nên nhẹ nhàng, vui thích, chứ không bị bó buộc như xưa. Giáo huấn của Đức Kitô mới mẻ khai sáng họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và thương xót. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn, xoá tan mọi lỗi bất trung, bất tín họ phạm; lòng Chúa xót thương vô bờ và lượng từ bi Chúa dành cho tất cả, không loại trừ ai. Đây là những điều mới mẻ.
Uy quyền ra sao?
Đức Kitô dậy có uy quyền bởi Ngài là Con Thiên Chúa và mặc khải một Thiên Chúa uy quyền nhưng rất mực yêu thương. Các Kinh Sư và Luật Sĩ cũng như Biệt Phái rất muốn tìm cơ hội bắt Đức Kitô nhưng lại sợ uy quyền Ngài. Giáo huấn theo truyền thống và nhờ vào uy quyền truyền thống để áp dụng luật; Đức Kitô không dựa vào truyền thống nhưng dựa vào tình yêu Thiên Chúa để giảng dậy. Chính Đức Kitô xác định điều này khi Thượng Tế và Kinh Sư chất vấn quyền của Ngài. Khi chữa lành người bệnh liệt giường Đức Kitô cho biết uy quyền của Ngài không nhắm vào trói buộc, ra hình phạt nhưng chú trọng vào tha thứ, ân xá và hoà giải một khi chấp nhận hoán cải.
Để các ông biết, ở dưới đất này Con Người có quyền tha tội. Đức Kitô bảo người bại liệt: Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà’ Mk 2,11
Đức Kitô có quyền xoá bỏ tội lỗi ta. Ngài có quyền trên quỷ ô uế và thần dữ bắt chúng vâng phục. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng sợ hãi la lớn tiếng: Tôi biết ông là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa. (Mc 1,24)
Một uy quyền khác cho biết Đức Kitô có toàn quyền trên thế giới thiên nhiên khi các tông đồ sợ hãi thuyền chìm giữa biển vì sóng to, gió lớn. Họ kêu cầu và Ngài truyền lệnh cho sóng gió bão bùng ngưng lại.
Điều giảng dậy thì mới mẻ cộng với quy quyền không phải cho Đức Kitô mà cho chúng ta, cho nhân loại.
29.Cho phép--Lm. Vũ Đình Tường
Khi nghe đồn thổi có phép lạ người ta rủ nhau đến người thì xem cho biết, kẻ thì đến xin ơn riêng cho chính mình hoặc cho gia đình. Thế mới rõ nhu cầu vật chất dư thừa nhưng đói khát tâm linh. Con người có khả năng sáng chế ra đủ thứ mang lại tiện nghi cho cuộc sống nhưng tiện nghi không mấy hỗ trợ cho thiếu thốn tinh thần. Họ vẫn cần ơn lạ. Có một loại phép lạ xảy ra cho mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Loại phép lạ này đôi khi gây ngạc nhiên cho người nghe. Lạ ở điểm người đó không có phép nhưng lại thích ban phép. Cho những gì mình không có mà vẫn muốn cho và đòi cho bằng được. Điểm đó mới là lạ, lạ hơn cả phép lạ.
Ai cũng biết gia đình có phép tắc gia đình; làng có phép làng; nước có phép nước. Nhưng không phải ai cũng có thẩm quyền cho các phép đó mà chỉ những ai được trao trách nhiệm mới có quyền. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp con người lạm dụng quyền hạn đến mức khó lường. Người có ưu thế đều tự ban cho mình quyền cho phép người làm việc này; cấm người kia làm việc nọ. Người ta lạm quyền ngay cả cho Đức Kitô.
Đức Kitô vào trong đền thờ giảng dậy, Người xua đuổi quỉ ra khỏi một người bị quỉ ám lâu năm. Ma quỉ kinh sợ, hét lên. Hỡi ông Giêsu, ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao. Chúng tôi biết ông là Con Đấng Tối Cao. Nhưng Đức Kitô cấm không cho chúng nói về Ngài.
Khi làm điều này Ngài tỏ ra là Đấng có thẩm quyền trên cả ma quỷ. Quyền này không phải chỉ thể hiện qua lời nói suông mà quyền đó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Trước mặt, không phải một nhóm nhỏ mà là đám đông dân chúng. Ngài ra lệnh và ma quỉ phải phục tùng. Thứ nhất ma quỷ vâng lời Ngài ra khỏi người kia mà không làm hại người đó. Thứ hai ma quỷ phải câm miệng, không được nói về Thiên Chúa, kể cả ca tụng hay nói điều tốt lành, cũng không được phép. Điều này cho thấy không phải bất cứ ai có kiến thức về Thiên Chúa đều có quyền nói về Ngài. Không phải như thế. Quyền rao giảng về Thiên Chúa dành riêng cho những ai dù không thuộc về Thiên Chúa, nhưng nếu yêu mến Thiên Chúa, mới có quyền nói về Thiên Chúa, rao giảng về nước Thiên Chúa. Bất cứ ai, dù ở bất cứ ngành nghề, giai cấp nào trong xã hội, một khi không yêu mến Thiên Chúa đều không có quyền nói về Thiên Chúa. Tiếng nói của họ là tiếng nói của kẻ lạm quyền, dù quyền đó không có nhưng vẫn lạm quyền. Đức Kitô ngăn cấm ma quỉ khi chúng nói về Ngài vì trong chúng không có tình yêu mến Thiên Chúa. Ma quỉ sợ Ngài nên nghe lệnh Ngài, người ta trái lại tự cho mình quyền không biết kính sợ Thiên Chúa nên nói về Ngài với lòng khinh dể, nhạo báng.
Không có lòng yêu mến Thiên Chúa thì không được phép nói về Ngài, ngay cả nói những điều tốt lành về Ngài cũng không được phép, nói chi đến những bài báo bài xích tôn giáo, chê trách Giáo Hội và công khai phỉ báng những người giao giảng Tin Mừng. Những loan tin nhằm bài xích, cách li, chia rẽ, đáng lừa công luận nhằm mục đích tuyên truyền không thể nào đến từ lòng yêu mến Thiên Chúa.
Đám đông dân chúng, trái lại, với lòng thành họ nghe Ngài giảng dậy thì tỏ lòng yêu mến, thể hiện thái độ thần phục, tâm phục, khẩu phục và thành tâm loan truyền niềm vui họ nhận được. Họ nói với nhau giáo lí của Ngài thì mới mẻ và Ngài giảng dậy như Đấng có quyền năng. Rõ ràng, sự thật là vậy. Ngài là Đấng có quyền, Ngài giảng dậy với quyền năng, quyền đó đến ngay cả ma quỉ còn phải thốt lên một sự thật - Ngài là Con Thiên Chúa.
Bài Phúc âm hôm nay nhóm chống đối Đức Kitô không dám lên tiếng vì sợ đám đông. Họ thầm bàn tán với nhau tại sao ông Giêsu lại làm việc này trong ngày Sabbath là ngày cấm làm việc. Việc ông ta phạm tội, lỗi luật ngày Sabbath không phải tại nơi đầu đường xó chợ, hay tư gia, chỗ kín đáo mà lại công khai phạm tội ngay giữa đền thờ là nơi thờ phượng. Điều này không thể bỏ qua, không thể tha thứ mà phải trừng trị đích đáng. Họ đã âm thầm họp kín với nhau để khi cơ hội thuận tiện ra tay như chúng ta biết sau này họ đã kết án Ngài về tội không giữ luật ngày hưu lễ.
Chúng ta cầu xin biết sống và rao giảng lời Chúa với tâm tình yêu mến. Đặc quyền này dành riêng cho người tôn kính, yêu mến Thiên Chúa.
30.Vác đời--Trầm Thiên Thu
VÌ MẾN TIN CÙNG CHÚA ÔM THẬP GIÁ
BỞI LẦM LỖI TỰ MÌNH VÁC CUỘC ĐỜI
Một định luật bất biến đã được chính Chúa Giêsu minh định: “Ai muốn theo Tôi, phải TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Hai động từ với hai hành động trái ngược: Bỏ cái này để lấy cái kia. Nghe chừng rất đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê! Tuy nhiên, theo Chúa là hành động tiên quyết mà mỗi người Kitô giáo phải thực hiện mọi ngày trong suốt cuộc đời mình. Nhưng cái gì cũng có điều kiện nhất định!
Cuộc sống không hề đơn giản, tức là khó và phải nỗ lực không ngừng, nhưng con người không phải cố gắng chiến đấu một mình. Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em, hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Đó là người được sai đi, chấp nhận lời sai đó tức là chấp nhận bước theo Chúa, đi theo thì phải hành động tích cực, không thể thụ động.
Và Ngài còn động viên: “Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó” (Ðnl 18:18-19). Ngài không hề hù dọa, mà đó chính là công lý và công bình. Mỗi người đều có trách nhiệm rao truyền và làm chứng nhân của Thiên Chúa. Trách nhiệm thì phải làm, không làm thì có tội. Thật vậy, chính Ngài đã cảnh báo: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:20).
Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Không chỉ vậy, chúng ta còn phải “cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên chúng ta, vì chính Người là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6). Đặc biệt và cấp bách hơn: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa, đừng cứng lòng!” (Tv 95:7-8). Thời điểm là hiện tại, không phải là quá khứ hoặc tương lai. Đó là lời cảnh báo nhưng cũng chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, bởi vì Ngài vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về, cứ hết ngày dài lại qua đêm thâu.
Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta lo lắng, thế nên phải biết khéo léo buông hoặc giữ cái gì để giữ cân bằng tâm sinh lý. Một trong nhiều cách đó là tạo “khoảng riêng” để tách mình ra khỏi cuộc đời xô bồ. Chắc chắn “khoảng sa mạc” trong tâm hồn rất cần thiết để có thể lắng nghe Tiếng Chúa. Thánh Phaolô đã nói rõ: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì” (1 Cr 7:32). Với nguyên nhân và mục đích rất cụ thể: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:33-34). Đó là hai cách thức khác nhau mà mỗi người có quyền tự do chọn lựa – bỏ cái này để lấy cái khác, chỉ có thể chọn một trong hai.
Khi nghe nói vậy, chắc chắn người đời không thể tin và không thể chấp nhận với tầm nhìn của phàm nhân bình thường, bởi vì những điều đó “không bình thường” chút nào và rất “ngược đời”, phải có tầm nhìn của đức tin mới khả dĩ chấp nhận mà hành động. Thánh Phaolô biết đó là những điều “khó nghe” mà lại rất thật, cho nên ông phân trần: “Tôi nói thế là để mong tìm ÍCH LỢI CHO ANH CHỊ EM, tôi không có ý GÀI BẪY anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em ĐƯỢC GẮN BÓ CÙNG CHÚA mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Và đó cũng là lời động viên dành cho mỗi chúng ta.
Cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê nên luôn có những điều khó chọn lựa. Có lần Chúa Giêsu đã phân tích: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6:45). Lần khác, Ngài lại xác định: “Kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:34). Theo nghĩa bình thường, kho tàng là tiền bạc, của cải hoặc vật chất, là những gì mình sở hữu. Cũng chính “kho tàng” đó có thể là chướng ngại vật trên hành trình theo Chúa. Điển hình là thanh niên nọ đến hỏi Chúa Giêsu về cách trở nên hoàn thiện, Chúa Giêsu bảo về bán tài sản và cho người nghèo, anh ta nghe vậy thì buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19:16-22; Mc 10:17-22; Lc 18:18-23).
Quả thật, sức hấp dẫn của vật chất rất mạnh, mạnh đến nỗi người ta gọi đó là ma lực. Người ta gọi thần tiền bạc là “thần tài”. Vật chất là một loại “thần” – thường mang nghĩa không tốt, vì nó có thể khiến người ta mê muội, mù quáng, mất cả nhân tính mà trở thành mưu mô và độc ác. Hàng ngày vẫn có nhiều vụ giết người dã man để cướp của đã xảy ra. Các “thần xấu” đó là các loại thần ô uế làm “biến chất” con người từ ngoài vào trong.
Rất nhiều vụ án dã man đã và đang xảy ra nơi này hoặc nơi kia, thậm chí có những vụ giết người cướp của đã xảy ra ngay trong các mối quan hệ ruột thịt gia đình. Những kẻ thủ ác là những người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, có kẻ vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên, và chuyện xích mích đôi khi chỉ là chuyện nhỏ, đúng như người ta nói “có bé xé ra to” hoặc “có ít xít ra nhiều”. Điều đó cho thấy rằng lòng người ta rất nhỏ mọn và luôn có “lửa” oán thù, chỉ cần chút gió là nó cháy bùng lên ngay. Thật là kinh khủng quá!
Trình thuật Mc 1:21-28 (Lc 4:31-37) đề cập sự đối đầu giữa Thiện và Ác, giữa Chúa Giêsu và thần ô uế. Một hôm nọ, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, người này “chịu không nổi” nên đã phải la to: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Mắt phàm nhân chưa nhận ra nhưng “thần ô uế” đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Tuy nhiên, Ngài liền quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1:25).
Chắc chắn ma quỷ không hề muốn ra khỏi “lãnh địa” mà nó đang chiếm giữ, thế nhưng nó vẫn phải tuân lệnh Chúa Giêsu. Rõ ràng Chúa Giêsu có quyền trên mọi thứ và mọi loài, cả hữu hình và vô hình. Ma quỷ không muốn quy phục Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa nhưng nó vẫn phải vâng lời, thậm chí nó còn phải trình diện Ngài (G 2:1). Nó có thể làm hại người ta nhưng nó “phải tôn trọng mạng sống” của người khác – cụ thể là trường hợp của ông Gióp (G 2:6).
Ngay sau khi “thần ô uế” xuất ra khỏi người kia, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27-28). Giáo lý mới mẻ và người dạy có uy, lạ lùng lắm, xưa nay chưa hề thấy có ai làm được như vậy. Những người chứng kiến đã nhận xét như vậy thì kể ra cũng lạ thật, nhưng cũng thật đáng khen vì họ có thể mau chóng tiếp thu được cái “mới mẻ” đó. Cuộc sống rất cần tinh thần phục thiện và dễ thích nghi như vậy. Đó cũng là một cách biết bỏ cái không cần thiết để nhận lấy cái cần thiết – đặc biệt là khi “cái cần thiết” đó lại không vừa ý mình.
Điều-cần-thiết-mà-trái-ý-mình chính là “vác thập giá hàng ngày”, điều mà Chúa Giêsu luôn khuyến khích. Ngài có cách động viên cũng chẳng giống ai, rất độc đáo. Thật vậy, C. S. Lewis đã nhận định thế này: “Thiên Chúa thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ”. Đúng là “đầu óc bã đậu” của chúng ta không thể nào hiểu nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:9).
Lạy Thiên Chúa là dũng lực của con, xin ban Thần Khí Chúa để con khả dĩ chân nhận Tiếng Chúa trong chính cuộc đời con, xin giúp con mau mắn bước theo Ngài và can đảm hành động đúng Tôn Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh sống. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
31.Chuyện lạ--Trầm Thiên Thu
Cuộc sống hàng ngày trôi đi có vẻ rất bình thường, thế nhưng vẫn có nhiều chuyện lạ với nhiều mức độ khác nhau. Cái gì lạ cũng khiến người ta tò mò vì trong con người luôn có tính hiếu kỳ. Cũng vì lợi dụng tính hiếu kỳ của con người mà có những kẻ xấu đồn thổi những chuyện không đâu nhằm lừa bịp. Nhẹ dạ cả tin thì “chết” thôi!
Tuy nhiên, có những thứ thực sự kỳ lạ thì người ta lại không để ý, vì cứ cho rằng đó là “tự nhiên”. Thật ra đó là một phép lạ lớn lao, lớn lắm. Đó là gì? Không khí. Thật vậy, thiếu không khí chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn thì người ta sẽ ngộp và… chết chắc, mọi sinh vật khác cũng chung số phận như thế!
Chuyện lạ “phổ biến” trong Kinh Thánh, đặc biệt là thời Cựu Ước, là sự xuất hiện của các ngôn sứ (tiên tri). Thiên Chúa đã cấm hành nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn (Ðnl 18:10-11), thế mà con người vẫn nhiễm “máu” mê tín, dị đoan, ngay cả những người Công giáo ngày nay vẫn chưa “dứt” nổi kiểu mê tín này! Đó là máu hiếu kỳ, tính tò mò, chạy đua đi tìm… “sự lạ”. Thấy gì khác thường một chút đã cho là “phép lạ”. Đức Tin ấu trĩ quá!
Sách Đệ Nhị Luật (Thứ Luật) cho biết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Điều đó xảy ra vì dân chúng đã xin với Đức Chúa tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội. Họ đã nói: “Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết” (Ðnl 18:16).
Đức Chúa chứng thực: “Chúng nói phải” (Ðnl 18:17). Và Ngài cam kết: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:18-20). Bịa đặt hoặc cố chấp thì ai cũng sẽ bị trừng phạt, dù là người nói hoặc kẻ nghe.
Từng ngày trôi qua, biết bao điều lạ mà người ta không cho là lạ, lại chỉ mơ tưởng “sự lạ” ở đâu đâu, chẳng khác là ảo tưởng, thích chuyện hão huyền. Cứng đầu cứng cổ thật, đâu khác gì dân Ít-ra-en xưa. Vậy mà vẫn tự cho mình là “ngoan đạo”. Kể cũng “lạ” thật đấy!
Tác giả Thánh Vịnh nhận biết các điều lạ xảy ra xung quanh chúng ta hằng ngày nên không thể im lặng, mà phải lên tiếng mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2).
Không chỉ chúc tụng Chúa mà còn phải thờ lạy Ngài, đó là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, những người luôn được Ngài trao ban biết bao Hồng Ân mỗi ngày, đơn giản và cơ bản nhất là sự sống. Ăn cây nào, rào cây nấy. Nhận lãnh thì phải biết ơn. Đồng thời hãy mời gọi người khác cùng hành động: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7). Vâng, ước gì điều ước này được chúng ta thực hiện luôn luôn!
Ngày xưa, Thiên Chúa đã nhắc nhở dân Chúa: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:8-9). Và ngày nay, đó cũng chính là lời khuyến cáo dành riêng cho mỗi chúng ta.
Xơ cứng cũng có nhiều dạng với mức độ khác nhau. Xơ gan là một dạng ung thư bất trị, nhưng xơ cứng tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì đó là dạng “ung thư tâm linh”, có thể bất trị cả đời này lẫn đời sau, nhưng nếu chịu điều trị thì lại khả dĩ chữa lành. Đúng là “chuyện lạ” thật!
Thánh Phaolô nói về một dạng lạ về tâm linh: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:32-34). Gọi là lạ nhưng lại không lạ. Những người này cũng vẫn là những người bình thường như chúng ta, không có gì khác thường. Tuy nhiên, không lạ mà lại lạ, họ sống giữa đời thường mà lại không thuộc về đời thường, vì họ không thấy có sức hút nào bằng sức hút của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô khuyên thật chứ không đùa, không có ơn Chúa thì không thể hiểu được. Dĩ nhiên, tất cả đều là tự nguyện, không bắt buộc, và cũng không thể ép buộc. Thánh Phaolô giải thích: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Rất chi tiết. Rất rạch ròi. Rất minh bạch. Và cũng rất chân thành.
Như chúng ta đã biết, cuộc sống có rất nhiều điều lạ, từ điều nhỏ tới điều lớn, từ đơn giản tới phức tạp. Thời nào cũng thế, đất nước nào cũng thế, dân tộc nào cũng vậy. Cũng là con người cả thôi, tính hiếu kỳ luôn chực chờ “nổi dậy”. Nhưng cần lưu ý rằng có điều lạ tốt và cũng có điều lạ xấu. Chúa Giêsu giáng sinh làm người, chịu chết trên Thập Giá, rồi phục sinh vinh quang. Vô cùng lạ, lạ hơn mọi thứ lạ khác. Các bí tích cũng toàn là những chuyện lạ. Cả đời chúng ta chứng kiến biết bao chuyện lạ, nói đúng ra là phép lạ!
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Hôm đó là ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài. Họ sửng sốt vì thấy quá đỗi lạ lùng. Tại sao? Vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ngay lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, nó la lên: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Còn hơn cả sự lạ lùng. Chắc hẳn dân chúng càng sửng sốt hơn. Nó không phải quỷ thường, mà là quỷ ô uế.
Nghe nó nói vậy, Đức Giêsu quát mắng nó, bắt nó câm miệng và buộc nó phải xuất ra khỏi nạn nhân. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Nạn nhân được tự do, thoát khỏi nanh vuốt kìm cặp của ma quỷ, đó là nhờ quyền phép của Đức Giêsu, Con-Thiên-Chúa-làm-người, Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta, Đấng Em-ma-nu-el. Thấy vậy, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27).
Không lạ sao được khi mà người ta mục kích sở thị chứ chẳng phải nghe đồn hoặc truyền khẩu. Tiếng lành đồn xa. Lập tức danh tiếng Ngài đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết phân biệt cái gì là điều lạ và cái gì là bình thường, cái gì là tốt và cái gì là xấu, để chúng con tin và hành động theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin giúp chúng con vạch rõ làn ranh giữa cái thiện và cái ác để chúng con không mơ hồ giữa cõi thế gian này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
32.Vị Tôn Sư đích thực--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Hầu hết chúng ta đã từng cắp sách đến trường và được các thầy cô dạy bảo. Chúng ta đã được thụ giáo dưới sự chỉ dẫn của các bậc làm thầy, bởi lẽ ‘Nhất tự vi sư, bán tự vi sư’, một chữ hay dù nửa chữ, các ngài cũng là thầy giáo dạy bảo chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã từng nói với các học trò: “Đừng gọi ai dưới đất là thầy, vì anh em chỉ có một ‘Rabbi’, một thầy duy nhất (Mt 23,8)”. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cũng trình thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường ở Capharnaum và giảng dạy như một Đấng có uy quyền (Mc 1,22). Cách Đức Giêsu dạy dỗ khác xa với cung cách làm thầy của các rabbi hồi xưa, cũng chẳng giống các vị tiến sỹ đứng trên bục giảng trong các giảng đường đại học ngày hôm nay. Ngài không nổi trội về kiến thức uyên bác hay có những bằng cấp chuyên môn, nhưng trên hết, Đức Giêsu là Đấng ‘Messia’, là Đấng đã đến trần gian để công bố cho chúng ta một Tin Mừng. Tin Mừng đó được hiển thị rõ nét qua các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện như được Thánh sử Marcô mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa giảng dạy kèm theo những phép lạ chứng tỏ Ngài là một ‘Đấng có uy quyền’, và đó là dung mạo của vị tôn sư đích thực mà chúng ta cần cung chiêm và học hỏi.
Tư cách làm thầy
Một giáo sư đại học khi dạy các sinh viên về môn Thuyết giảng trước công chúng (Public Speaking) đã nói: “Trong một lớp học, không bao giờ có học sinh dốt, nhưng chỉ có những ông thầy dốt. Dốt, vì ông ta không biết cách truyền đạt những kiến thức để cho sinh viên am hiểu”. Muốn làm thầy, người đó phải được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm. Cũng vậy, muốn trở thành thầy dạy (magistero) về đức tin, các các anh em linh mục cũng phải được đào tạo kỹ lưỡng ở chủng viện về các bộ môn thần học hay kinh thánh, nhất là phải có chiều sâu đức tin, bởi vì ‘Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có, không ai có thể dạy người khác điều mà mình không biết’.
Chúng ta được mời gọi nhìn vào chân dung Đức Giêsu, vị tôn sư đích thực của chúng ta. Khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta cần nhớ rằng mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những học trò của Ngài mà thôi, cho dầu chúng ta là Giám mục hay Linh mục, chúng ta có bằng tiến sỹ này hay bằng chuyên môn nọ.
Ngày xưa, Chúa chọn 12 môn sinh để họ kế tục sứ mệnh làm thầy giống như Ngài, tức là đi ‘rao giảng Tin Mừng’ cho người khác. Những anh học trò này chắc chắn không phải là những chuyên viên về Kinh thánh, tức là những ‘Halakha’ của thời bấy giờ. Một chữ bẻ làm đôi có lẽ nhiều vị cũng không biết. Nhưng điều mà các tông đồ đã học dưới mái trường do Đức Giêsu khai sáng, chính là mầu nhiệm về Thiên Chúa, hiển thị rõ nét nơi Đức Giêsu, vị tôn sư khả kính mà họ được thông dự vào qua cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, sau ngày lễ Ngũ tuần, các ông đã hăng hái đi đến mọi ngõ ngách để giảng giải, để nói về Đức Giêsu cho mọi người, không loại trừ ai. Khán thính giả của các tông đồ ngày xưa gồm đủ mọi thành phần, từ chính quyền đến thường dân, từ những nhà trí thức đến những bác dân quê mộc mạc chất phác. Ngôi trường mà Chúa Giêsu đã thiết lập cũng chẳng giống với ngôi trường nào. Ở đó không có sách vở, không có bàn ghế hay giấy bút. Khi được thụ giáo dưới mái trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp với văn bằng này hay chứng chỉ nọ. Chúng ta phải học, phải nghiền gẫm và phải đeo bám cho đến suốt đời. Đức Giêsu mãi mãi vẫn luôn là vị tôn sư khả kính mà chúng ta cần phải không ngừng học hỏi nơi Ngài.
Sức mạnh của ‘Lời’
Lời nói con người giống như một con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp xây dựng hòa khí thân thương song cũng có thể tạo ra những đổ vỡ. Lời Thiên Chúa thì khác. Những gì Thiên Chúa nói luôn mang lại cho con người sự sống. Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường Capharnaum kèm theo phép lạ để diễn bày tính năng cứu độ nơi Ngài. Ngài đã làm phép lạ trừ quỷ cách nhãn tiền khiến đám đông kinh ngạc và bảo nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (c. 27)”. Đây là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng đem đến cho con người sự chữa lành và ơn tha thứ. Những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện không phải nhằm phô diễn một kỳ tích hay như một màn ảo thuật để đánh lừa thị hiếu của đám đông. Mọi phép lạ Chúa làm đều mang chở một sứ điệp sâu xa, mời gọi con người hãy ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’ (Mc 1,15). Đó là Tin Mừng về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người, giục giã gọi mời chúng ta trở về để đón nhận. Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà sách Đệ nhị luật đã tiên báo như chúng ta được nghe trong bài đọc 1 hôm nay. Đây là ‘vị ngôn sứ’ đích thực của Chúa Cha, và vị ngôn sứ đó sẽ nói những điều Thiên Chúa truyền (Dnl 18, 18). Điều mà Đức Giêsu ngỏ trao chính là sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, mà đỉnh điểm là chính cái chết của Ngài trên Thập Gía.
Tác vụ giảng dạy
Các bài đọc lời Chúa hôm nay được gửi đến mọi người, đặc biệt các anh em linh mục. Chúng ta được mời gọi nhìn vào hình ảnh của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng để biết cách chu toàn tác vụ thánh trong việc công bố và giảng giải Lời Chúa. Trong cuốn ‘Chỉ nam Giảng thuyết (Homiletic Directory) do Thánh bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích ban hành năm 2015, Giáo hội cũng nhắc nhở các anh em linh mục đừng bao giờ biến bài giảng trong Thánh lễ thành một bài chú giải Kinh thánh mang tính khoa bảng, hay chỉ để chia sẻ những những kinh nghiệm cá nhân. Trên hết, tòa giảng phải là nơi để các linh mục dùng Lời Chúa nuôi dưỡng đời sống đức tin của cộng đoàn. Vì thế, Giáo hội cũng khuyên các cha hãy chuẩn bị bài giảng thật kỹ lưỡng qua việc suy niệm và cầu nguyện, nhất là cử hành Lectio Divina, để Lời Chúa chạm đến cõi lòng chúng ta và lay động tâm hồn của chính chúng ta. Có như thế chúng ta mới có thể dùng Lời Chúa như lương thực trường sinh, giúp nuôi dưỡng đức tin cộng đoàn. Không ít giáo dân than phiền về nội dung cũng như cách thức các cha giảng trong Thánh lễ, thậm chí có những giáo dân tỏ ra chán ngán vì có những vị còn lạm dụng cả tòa giảng để chửi bới giáo dân nữa.
Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền. Đây không phải là một thứ uy quyền để nạt nộ hay chửi rủa, nhưng là uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.
Kết luận
“Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (Đức Cha Lambert de la Motte). Đó cũng là đối tượng duy nhất mà chúng ta phải luôn cung chiêm và học hỏi. Chúng ta học hỏi nơi Ngài cách sống, cách chữa lành và cách thức Ngài rao giảng. Ngài chính là vị tôn sư duy nhất mà chúng ta cần phải xách cặp đến để xin thụ giáo cho đến suốt đời.
33.Sức mạnh Lời Chúa--Lm. John Nguyễn Tươi
Cụ già mù lòa ngồi ăn xin bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu để kiếm sống qua ngày, và ông ghi trên một tờ giấy với dòng chữ như sau: “ Tôi bị mù lòa, xin vui lòng giúp đỡ tôi”. Thế nhưng, chẳng ai thèm nhìn ngó và động lòng bố thí cho ông. Một cô gái xinh đẹp đi ngang qua, cô ta nhìn thấy ông ta vẫn chưa có đồng xu nào trong cái lon, cô gái thấy thương cho ông lão. Thế là cô ngồi xuống và viết lại thành một dòng chữ khác: “ Bầu trời hôm nay rất đẹp lắm, nhưng mắt tôi không thể nhìn thấy”. Khi cô gái bỏ đi, thì có nhiều người qua đường nhìn thấy dòng chữ này họ đã cảm thương và bố thí tiền cho cụ.
Thông điệp của cô gái viết rất đơn giản, nhưng nó đã làm thay đổi cõi lòng của nhiều người qua đường. Sức mạnh của ngôn từ thật là kỳ diệu, nó có thể làm thay đổi lòng người và thế giới xung quanh, giống như là một phép lạ dành cho ông lão ăn xin. Ông ta luôn tin vào lòng quảng đại của con người và tin vào cuộc sống. Nếu chúng ta dành chút thời gian trong ngày để thinh lặng và cầu nguyện, thì Lời Chúa có thể làm tan chảy cõi lòng cứng cỏi, chay lỳ của chúng ta. Lời Chúa có sức mạnh làm biến đổi lòng người. Mọi người đều sững sờ đến nỗi họ phải bàn tán với nhau: " Thế nghĩa là gì? Lời dạy thì mới mẻ, Người dạy có uy quyền. Ngài đã ra lệnh cho các thần ô uế phải tuân theo".
Khi nói đến phép lạ và quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường, thì chúng ta dễ đi đến một thái độ hồ nghi và miễn cưỡng. Chúng ta chỉ chấp nhận những gì hiện hữu và nhìn thấy bằng con mắt xác thịt, bằng những thứ mà chúng ta đang có và chiếm hữu nó ở trần gian này. Trong khi đó, phép lạ là một mầu nhiệm khởi đi từ đức tin. Không chỉ con người ngay nay hoài nghi về quyền năng của Chúa mà ngay cả người Do thái ngày xưa đi theo Chúa Giê-su. Nhưng khi Chúa cho thần ô uế xuất khỏi người này, thì họ ngạc nhiên và thán phục.
Và ngày hôm nay cũng thế, chúng ta có thể nghe Lời Chúa rất nhiều, nhưng hạt giống Lời Chúa chưa thực sự được lớn lên trong cõi lòng chúng ta, bởi các thần ô uế đang ngự trị nơi sâu thẳm cõi lòng chúng ta với ganh đua, hận thù, gian ác, lọc lừa, giả dối, hơn thua, dục vọng...thì Lời Chúa đang bị chết nghẹt và không đơm hoa kết trái được. Chúng ta không còn nghe được tiếng nói lương tâm để thức tỉnh và ngạc nhiên phép lạ đang xẩy ra trong đời sống thường ngày. Con mắt chúng ta đang bị mù, nhưng cứ tưởng mình sáng. Trái tim ta đang chết dần, nhưng tưởng mình sống mạnh mẽ. Tất cả là trò chơi giả dối của Satan đang hoạt động trong mỗi người và trong thế gian này.
Lạy Chúa, Ngài cho con có đôi tai để lắng nghe Lời Chúa, và cho con có trái tim biết rung động và xót thương, họ là những cụ già ăn xin bên đường, những trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, những người đang mang căn bệnh cần được chăm sóc và an ủi, những người già nua ốm đau bệnh tật, những người đang gặp thử thách, đau khổ, thất nghiệp và nghèo khổ, thì Lời Chúa là sức mạnh, là ngọn đèn soi bước chân con. Amen.
34.Sức mạnh siêu phàm--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Hoàng đế César Augusto của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch.
Nhưng trong triều đại của César Augusto, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến la Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất.
Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.
Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
***
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh nngạc, vì: “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: “Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi” (Mt 5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích Kinh thánh mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là “Giáo lý mới mẻ”. Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là: “Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy n iệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng”, của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Jacques Delarue viết: “Mọi phần tử trong Giáo Hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: “Hãy ra đi bình an”. Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật”.
Sống Lời Chúa chính là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:
“Lời Chúa là đèn soi cho con bước,
Là ánh áng chỉ đường cho con đi”
(Tv 118, 105)
Lạy Chúa, qua Kinh Thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con; qua Bí tích Giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con; qua Bí tích Thánh Thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen.
35.Đấng có uy quyền--Radio Veritas Asia
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỉ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. "Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?" Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
36.Người trừ quỷ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt. Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.
Một hôm trong phòng của cậu bé, các tranh ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Ban đêm hầu như cậu ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau khi được nhận vào bệnh viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang bị cột vào chiếc giường ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào dài nhuốm máu. Cuối cùng cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và hiện nay cậu đang sinh sống tại vùng Thủ đô Washington. Một linh mục già từng tham gia vào việc trừ tà cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy, ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt đẹp hơn.
Thưa anh chị em, như đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường Caphanaum đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa đàng sau quyền năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu đã trao ban cho Giáo Hội của Ngài?
Để trả lời cho câu hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, và điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc 11,20). Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là Vương quốc của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi chủ. Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao đến ngày hôm nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao Vương quốc Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển động liên tục xuyên suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài trao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng cây ấy, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo đúng ý định của Thiên Chúa.
Nhưng tại sao Vương quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan lại lâu lụi tàn như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng ta một cách thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất Vương quốc ấy đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại đồng lõa với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.
Chúa Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Anh chị em thân mến, Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu thế thì chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng như tập thể. Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để hù dọa tín đồ. Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh… Cái ám nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen. Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi người này!”. Nhờ ơn Chúa, tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế giới này.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để phát hiện những thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho Thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên ác thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức sống của Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
37.Tại Hội đường Caphácnaum--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Các ông sẽ là những người chứng kiến các hoạt động của Người ngay từ đầu. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,21-18) giới thiệu hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu mà các ông được chứng kiến: Chúa Giêsu giảng dạy tại Caphácnaum và chữa lành người bị quỷ ám.
“Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội đường giảng dạy” (c.21). Ngay từ đầu sứ vụ tại Galilê, giảng dạy đã là một trong những hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu. Chính Người sẽ xác nhận cách tỏ tường điều này khi quân dữ tra tay bắt Người: “Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy…” (14,49). Tác giả Mc rất chú tâm đến hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu. Nhưng, cũng như ở nhiều nơi khác (ví dụ 2,13; 6,2.6.34; 10,1), ở đây ông chỉ kể rằng Chúa Giêsu giảng dạy chứ không nói gì về nội dung của lời giảng dạy. Có lẽ đối với ông, điều đáng quan tâm nhất phải là chính Thầy Giêsu, hơn là điều Người giảng dạy.
Một nét đặc trưng của hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu là hiệu quả lời giảng dạy của Người. Hiệu quả đó được trình bày qua việc kể lại trải nghiệm của những người nghe giảng: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người” (c.22a). Họ bị đánh động sâu xa và rất ngạc nhiên. Tất cả những tiêu chí cổ điển để đánh giá lời giảng đều không còn giá trị nữa. Có một cái gì đó thực sự mới mẻ đã xuất hiện, gây nên một sự sửng sốt trong đám đông dân chúng. Nói cách khác, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức mạnh đặc biệt, giống như những hành động quyền năng của Người. Cuối bài Tin Mừng, tác giả sẽ nói rõ hơn về phản ứng của dân chúng: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (cc.27-28).
Sở dĩ đám đông dân chúng sửng sốt, là vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c.22b). Các kinh sư là những người hiểu biết Thánh Kinh, nhất là Tôra. Họ giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ chỉ cho dân chúng thấy cần phải làm gì để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Bản văn Mc 1,22 này không có bất cứ yếu tố nào cho phép chúng ta đánh giá tiêu cực về hoạt động giảng dạy của các kinh sư. Nhưng đồng thời, tác giả Mc muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng dân chúng đã mau chóng nhận ra rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu thì hoàn toànb khác với lời giảng dạy của các kinh sư. Lời giảng dạy của Người có một thẩm quyền đặc biệt, khác hẳn. Sau này, chính sự khác biệt hoàn toàn này sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực nơi các kinh sư: họ sẽ vu cáo rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng (2,7), rằng Người liên minh với quỷ vương (3,22), rằng Người đáng bị kết án tử hình (14,53-65).
Cùng với việc giảng dạy, Chúa Giêsu còn thể hiện uy quyền của Người bằng cách trừ quỷ. Khi ấy, “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (cc.23-26).
Trừ quỷ là một trong những hoạt động của Chúa Giêsu mà tác giả Mc ưa thích kể lại nhất, ví dụ trong 1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29. Ở đây, quỷ được gọi là “thần ô uế”. Chữ “thần” ở đây có ý nói đến một sức mạnh đầy quyền năng, hoạt động, và rất khó kiểm soát. Chữ “ô uế”, trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chỉ về thực tại xấu xa, phàm tục, khác hẳn thực tại của Thiên Chúa, đối nghịch hoàn toàn với Thiên Chúa. Trong sách Tin Mừng, thần ô uế xuất hiện như một sức mạnh không phải của con người, nhưng hành động một cách cá vị, có hiểu biết đặc biệt, hoàn toàn đối nghịch với Thiên Chúa, khống chế nhiều người và buộc họ phải làm những điều xấu xa… Thần ô uế rõ ràng là sức mạnh hoàn toàn đối nghịch với Thần Khí của Thiên Chúa. Nó cũng là sức mạnh thù nghịch với con người, phá hoại sự tự do hành động của con người.
Chúa Giêsu được khắc họa trong tư thế có quyền siêu việt tuyệt đối trên thần ô uế. Người quát mắng nó. Và chỉ bằng một lời quát mắng như thế, Người đã chiến thắng nó. Người giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ thần ô uế, trả lại cho họ sự tự do.
Trước khi bị trục xuất, thần ô uế đã kêu lớn tiếng với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Lời này nói về sứ mạng và căn tính của Chúa Giêsu. Nó cho thấy Chúa Giêsu có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa sai đến. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỷ. Sau này, Người sẽ nói rõ ràng hơn: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (2,17); “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay khắc họa cho chúng ta những đường nét chính yếu trong hoạt động của Chúa Giêsu:
(1) Ngay từ đầu, Người không hoạt động đơn độc, nhưng là trước sự hiện diện và chứng kiến của các môn đệ mà Người đã kêu gọi; họ đã bỏ mọi sự mà theo Người và Người cho họ được đồng hành với Người trong hoạt động cứu độ của Người.
(2) Người giảng dạy. Đây là một hoạt động chính yếu của Người ngay từ đầu.
(3) Người giảng dạy theo một cách thức hoàn toàn khác với các kinh sư Do Thái đương thời.
(4) Người trừ quỷ, tức là thực hiện những hành động quyền năng để giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ những thế lực gian ác.
(5) Người hoạt động trong một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
(6) Người giảng dạy và hành động như một Đấng có thẩm quyền đặc biệt.
Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động như thế giữa thế giới hôm nay, nhờ Hội Thánh. Sứ vụ của Người được tiếp nối bởi Hội Thánh. Và Hội Thánh được mời gọi hành động như Chúa đã hành động. Chúng ta được mời gọi ý thức về điều đó, để cầu nguyện cho Hội Thánh và để sống xứng đáng với sứ vụ cao cả của Hội Thánh.
38.Chúa Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa uy quyền--Pm. Cao Huy Hoàng
Trên thế gian này, có những chuyện quá xưa cũ, mà người ta vẫn lầm tưởng như là mới mẻ lắm. Điển hình, sự ngu muội của một số người vẫn cho mình là tiến bộ từ loài vượn đến loài người, và chưa hề mường tượng ra có một loài người đang tiến bộ từ loài người đến loài thiêng liêng thần thánh, chưa nói đến việc loài người ấy được tan hòa trong thiên tính vô cùng cao quí của một Đấng Thiêng Liêng là Đức Chúa Trời, được làm con Chúa Trời. Cái thói ăn bậy, nói bừa, như "con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói", cái thói xảo trá gian ngoa "đâm đầu thóc, thọc đầu gạo" của loại đòn xóc hai đầu, hoặc cái thói "nói đàng đông, làm đàng tây, nói một đường, làm một nẻo" vẫn là cái căn cốt của con quỷ Satan ngay từ buổi bình minh sáng thế. Có gì mới đâu! Thế nhưng, có những con người chủ trương sống và kêu gọi người ta sống lại cái thủa ban đầu của sự tăm tối ngu muội ấy, vì người ta không ưa thích sự thật, hoặc dùng sự thật bên ngoài như bức màn che bao điều giả dối ở bên trong: sự giả dối ngay trong hôn nhân gia đình: khoái lạc dưới tên gọi hạnh phúc; ở nhà trường, ở xã hội, thành tích thi đua thay cho thực lực, xin-cho có điều kiện được gọi là tự do, bố thí rửa tiền mang áo lụa thơm mùi bác ái.... Người ta đang tưởng mình sống, thật ra đang sống trong sự chết, tưởng mình tự do, thực ra đang nô lệ, tưởng mình chiến thắng, thực ra đang bại trận trong chính cuộc đời mình.
Sự giả dối đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, không loại trừ quốc gia, dân tộc, giáo hội, tổ chức, cá nhân...vì Satan luôn chọn 'lòng người" làm sào huyệt xuất phát, để chống lại sự thật là chính Thiên Chúa. Và khi lòng người giả dối, sẽ trổ sinh bao điều ô uế cho chính mình và cho cuộc đời. Mưu đồ của Satan còn khủng khiếp hơn nữa, khi chúng tôn vinh các sự dối trá bằng những tuyên dương, bằng cách đội cho các thông tin sai sự thật chiếc vương miện hoa hậu, bằng cách truyền bá rằng sự giả dối đang chiến thắng, đang thống trị.
Ai có thể tin được? Có đấy, có biết bao nhiêu người lầm tưởng.
Riêng với các tín hữu công giáo, là những người con của Thiên Chúa, con của sự thật, thì Lời Chúa hôm nay, đang cảnh tỉnh mỗi người đề phòng mưu chước của Satan, và một lần nữa khẳng định cho con cái Chúa biết rằng: Uy quyền thuộc về Thiên Chúa.
Lời Chúa đầy quyền năng vì là Lời của sự thật và Lời ban sự sống. Chỉ một Lời ngài phán, đã có ngay bầu trời và tinh tú cùng muôn vạn vật có sự sống (Tv 32). Công trình trần gian do Lời Chúa tác thành vẫn tồn tại, và tồn tại trong vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa mà người trần gian đến muôn đời vẫn không thể hiểu thấu.
Lời Chúa đầy uy lực khiến người nghe phải rung động tâm can vì Lời Chúa là tình yêu. Uy lực của tình yêu vô biên vì tình yêu chân thành, không hề giả dối, tình yêu tín trung không bao giờ phản bội, tình yêu thường hằng bất biến vì tình yêu không lệ thuộc thời gian không gian hữu hạn.
Thiên Chúa đã đặt Lời của Người vào miệng lưỡi của các tiên tri, để các Ngài thông tin cho nhân loại biết về một Thiên Chúa đầy toàn năng, toàn ái. Sách Đệ Nhị Luật 18,18-19, ghi rõ: "Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.19 Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó".
Thiên Chúa vẫn biết, Satan vẫn luôn đã và đang rêu rao phủ nhận sự hiện diện của Ngài. Còn Satan vẫn biết có Thiên Chúa, nhưng luôn muốn và làm cho con người không biết, hoặc biết mù mờ, hoặc từ chỗ biết đến chỗ phủ nhận từ chối. Satan không muốn cho con người chấp nhận có một sự thật hiển nhiên, tỏ tường là Thiên Chúa. Vì thế, ngay cả các tiên tri, cũng có thể bị chúng phỉnh lừa để nhân danh Thiên Chúa mà không nói Lời Thiên Chúa đã truyền, như Ngài đã tiên liệu và căn dặn: "Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."(c 20)
"Nhân danh Chúa mà nói lời Thiên Chúa không truyền dạy" là mưu chước tinh xảo nhất của Satan trong thời đại hiện nay. Chỗ này, chỗ kia, rồi chỗ nào cũng có những người áp đặt ý của mình thành ý của Thiên Chúa, lời của mình thành Lời của Thiên Chúa, giới thiệu cho người nghe một khuôn mặt Thiên Chúa đã bị biến dạng. Thiết tưởng, việc học hỏi lời Chúa trong các gia đình, trong các lớp giáo lý, cần được thực hiện nghiêm túc hơn nữa, từ người dạy đến người học, không chỉ để hiểu được Lời Chúa, sống lời Chúa, mà còn để cho Lời Chúa tác động trong mọi hành vi cử chỉ ngôn từ, và còn để phân biệt lời nào, ý nào của Chúa, lời nào, ý nào của loài người.
Để củng cố, kiện toàn cho Lời của Thiên Chúa đã được đặt nơi miệng của các Tiên Tri, Thiên Chúa đã sai chính Ngôi Lời của Ngài đến trong trần gian là Đức Giêsu Kitô. Quyền năng của Lời Thiên Chúa nay được ủy thác nơi chính Đức Giêsu Kitô. Vì thế, thánh Marcô ghi nhận rằng: "Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư" (Mc 1, 21-22).
Sự thật về Thiên Chúa là "Thiên Chúa là sự thật". Sức mạnh của sự thật cũng chính là sức mạnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu đang mang cả kho tàng sự thật của Thiên Chúa đến trong trần gian, và sức mạnh ấy chiến thắng sự giả dối đang ngự trị trong lòng con người, đang làm cho con người ra ô uế. Thần ô uế, con quỷ giả dối, biết khiếp sợ trước Lời đã hóa nên người phàm: " Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" (c 25). Vâng, Satan vẫn biết Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, vẫn biết chỉ có Đức Giêsu sẽ tiêu diệt nó khỏi lòng con người, để con người được an nhàn thư thái. Và quả vậy, thánh Marco hôm nay cho biết: Đức Giêsu đã không tiêu diệt con cái của Thiên Chúa, nhưng ngài dùng uy quyền của Lời Thiên Chúa mà trục xuất satan và ảnh hưởng của nó ra khỏi con người. "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! ". Ngài trả lại cho con người ấy nét đẹp nguyên tuyền của con cái Thiên Chúa, con cái của sự thật.
Ma quỷ không thể thắng được Lời của Thiên Chúa, nhưng sự dữ vẫn cứ tồn tại. Vì ma quỷ vẫn luôn nhũng nhiễu Thiên Chúa, làm rối loạn tâm can con cái của Ngài. Quỷ đang ám các chính phủ để củng cố quyền lực trần gian, lừa lọc nhau mưu lợi, tham nhũng, làm cho con cái Chúa lầm tưởng rằng phải cậy thế, cậy thần mới là chân lý. Quỷ đang ám các nhà kinh doanh người, kinh doanh trên thân xác con người, kiểu nầy, cách nọ. Quỷ cũng đang ám tâm trí bao người ăn chơi hưởng thụ vô trách nhiệm trước tội giết chết các thai nhi không thương tiếc. Quỷ đang ám các gia đình bắt đầu từ sự dối trá trong tiền bạc, trong tình cảm, đến dối trá cho những cuộc trăng hoa mây mưa ngoài vòng pháp luật của gia đình, làm mất sự thánh thiện của hôn nhân công giáo, và dần dần, phá vỡ tan tác khi cầm một tờ ly dị được xem như sự giải thoát, sự tự do.. Thần ô uế cũng đang ám tôi, ám bạn, làm cho cuộc đời mình sống trong sự giả dối từ sáng sớm đến chiều tối, và ngay cả khi vào giấc ngủ-hình ảnh của sự chết ngàn thu.
Đã đến thời gian không chỉ tin vào sức mạnh của Lời Thiên Chúa, mà phải sống Lời Thiên Chúa cách thiết thực là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Quyền Năng mà nhờ sức mạnh của Ngài làm thành lũy che chắn cho cuộc đời trước bao lời mời gọi của ma quỷ, của thần ô uế.
Nguyện xin Lời của Đức Kitô là sự thật đầy quyền năng, là giới răn mới của Thiên Chúa, thanh tẩy tâm trí chúng con khỏi sự giả dối trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động, để các sự ô uế không thấm nhiễm cuộc đời chúng con và thế lực chống lại Thiên Chúa không thể huyênh hoang rằng con cái của Chúa đã bại trận.
Và xin cho chúng con can đảm làm chứng cho sự thật, cho chân lý, cho Thiên Chúa trong thời đại con quỷ dối trá muốn khống chế tất cả loài người.
39.Hãy nói cho tôi những tin tức tốt lành--John W. Martens – Lm GB Văn Hào SDB chuyển ngữ
“Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền” (Mc, 1,27)
Trong cuộc sống, chúng ta đa phần đã trải nghiệm qua thời kỳ làm học sinh hay sinh viên một cách chính thức. Nhưng, hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta đã từng là những học trò để học hỏi, để tiếp thu biết bao nhiêu điều từ những người khác, không phải trong trường lớp nhưng ngay nơi trường đời. Cũng vậy, nhiều người đã từng là thầy giáo đứng bên bục giảng để chỉ huấn cho các học sinh đang thụ giáo nơi mình. Nhưng cũng hiểu theo nghĩa rộng, mọi người chúng ta đều đã từng làm thầy, khi chỉ dẫn cho người khác điều này hoặc điều nọ. Chúng ta hướng dẫn về cách sống, dạy bảo về cách ứng xử, cách giải quyết một vấn đề nào đó. Chúng ta chỉ giáo để uốn nắn một đứa bé, để giúp đỡ người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta dạy không phải bằng lý thuyết, nhưng dạy bằng những trải nghiệm cụ thể trong cuộc sống đời thường của chúng ta.
Nhiều người trong chúng ta trở thành thầy giáo, sau khi đã được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm, và chúng ta thường coi nghề dạy học như một ơn gọi. Chúng ta dạy các học trò trong những lãnh vực chuyên môn mà chúng ta đã đắc thủ kiến thức qua tiến trình đào tạo cách bài bản. Nhưng, Đức Giêsu đã từng nói với chúng ta “Anh em đừng để ai gọi mình là Rabbi, là thầy, bởi vì anh em chỉ có một thầy duy nhất, và tất cả chúng ta đều là học trò của Ngài. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, bởi vì anh em chỉ có một cha Đấng ngự trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người chỉ đạo, vì anh em chỉ có một người chỉ đạo là Đấng Messia” (Mt, 23,9-10). Lời huấn dụ này được ngỏ trao cho tất cả mọi Kitô hữu, không loại trừ ai. Nhưng rất khó để nói điều đó đối với những ai đã từng làm thầy dạy, làm giáo sư, hay làm người hướng dẫn kẻ khác. Có lẽ chúng ta dễ quên rằng khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta phải biết rằng, tất cả đều xuất phát nơi Ngài, và mãi mãi chúng ta cũng chỉ là học trò của Ngài mà thôi. Cũng vậy, đặc biệt đối với các học giả Kinh thánh, chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng Đức Giêsu đã không tuyển chọn các môn sinh từ giữa các chuyên viên về thánh kinh, tức là các “Halakha” của Do Thái, thời bấy giờ. Đó là các kinh sư, các vị thông luật, tương tự như các tiến sĩ giáo luật ngày nay. Trái lại, Ngài chọn các học trò từ giữa đám dân chài thất học. Các ngư phủ quê mùa dốt nát đó làm sao có thể trở thành giáo sư dạy kinh thánh và dạy về luật Do Thái được, bởi lẽ họ chưa từng được đào tạo chính quy một ngày nào trong những lãnh vực chuyên môn đó. Nhưng sự hiểu biết của họ có gì khác với tri thức uyên bác nơi các chuyên viên, các thầy thông luật hay không? Chắc chắn rất khác xa.
Tri thức mà các bác dân chài Galilê đắc thủ được, đó là sự hiểu biết, hoặc họ mong gặp gỡ để hiểu biết một đối tượng, là chính Thiên Chúa. Những ngư phủ tuy thất học và dốt đặc cán mai, nhưng họ đã biết Đức Giêsu, đã từng sống với Ngài, và họ cũng mong muốn học được nhiều điều từ nơi Đức Giêsu, người Thầy của họ. Họ có được những kiến thức mà các tiến sĩ luật, các nhà thông thái lúc bấy giờ đã không thể có. Đó là lý do rất quan trọng. Vì vậy, vài năm trước, học giả Ben F.Meyar đã diễn tả như sau: Các nhà thông luật và chuyên viên giải thích Kinh thánh thời Chúa Giêsu luôn muốn tỏ ra mình nổi trội hơn những người khác, đặc biệt trong việc cắt nghĩa kinh thánh. Họ thích tỏ ra mình là những nhà lãnh đạo trổi trang và muốn được nể trọng. Tuy nhiên, đằng sau dáng vẻ trịnh trọng đáng kính bên ngoài, khi họ cố cắt nghĩa các bản văn, bình luận về giá trị và những chân lý ẩn chứa bên trong, thì sự cao ngạo hợm hĩnh của họ cho thấy, họ chỉ là những chuyên viên rỗng tuếch, không đáng tin cậy chút nào. Điều mà Đức Giêsu muốn huấn luyện cho các môn sinh của Ngài, không phải là những kiến thức uyên bác qua trường lớp, nhưng là giúp họ tiếp cận Lời của Thiên Chúa. Lời đó có sức biến đổi và khơi dậy sự tự hiến nơi họ. Đức Giêsu có một đám đông học trò vây quanh. Họ là những con người rất bình thường ở Galilê, ở Giuđêa hoặc đến từ một vùng nào đó. Đức Giêsu hướng dẫn họ đi tìm kiếm chân lý. Họ đã vây quanh Đức Giêsu, tỏ ra khao khát, khi ngài giảng dạy để giúp họ học hỏi về một thực tại sâu sa nhất, đó là về Thiên Chúa và về chính họ. Vào một ngày Sabbat, Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy dân chúng. Đám đông kinh ngạc về những điều Chúa Giêsu dạy bảo, bởi vì Ngài dạy dỗ họ như một Đấng có uy quyền, chứ không giống các kinh sư thời đó. Những nhà lãnh đạo tôn giáo, các ký lục và các nhà thông luật, đã được Marcô nhắc tới ở đoạn văn này, cho dù dường như họ không có mặt tại hội đường lúc bấy giờ. Marcô đã nhắc đến họ như một hình thái tương phản với uy quyền của Đức Giêsu. Có lẽ nếu những kinh sư có mặt ở đó, họ sẽ phản kháng ngay lập tức. Họ sẽ hạch sách vì lời dạy của Đức Giêsu đụng chạm đến cuộc sống và đặc quyền của họ. Chắc chắn họ không chấp nhận rằng uy quyền của Đức Giêsu đặt nền tảng trên Kinh thánh hoặc uy quyền đó khởi nguồn từ nơi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, động thái cuối cùng của Đức Giêsu tại hội đường Capharnaum đã minh chứng rằng, uy quyền của Ngài qua lời giảng dạy, bắt nguồn đích thực từ nơi Thiên Chúa, khi Ngài chữa lành một người bị thần ô uế ám. Người bị quỷ ám la lên “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi. Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã chữa cho người bị quỷ ám, và đám đông một lần nữa lại tỏ ra kinh ngạc. Sự ngạc nhiên của họ cũng gợi lại sự kinh ngạc khi họ nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ hỏi nhau “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.” Đó là sự hiện diện và uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng đang ở giữa họ. Uy quyền và những lời dạy đó không phải là một bài học lý thuyết để chúng ta động não và nhồi nhét vào đầu, nhưng là một thực tại linh thánh để chúng ta đi đến và gặp gỡ.
Các thầy giáo cần phải nắm bắt kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực mà mình giảng dạy, đặc biệt về thần học và kinh thánh. Sự chuyên sâu và có thẩm quyền để giảng dạy luôn cần thiết trong mọi lãnh vực chúng ta chuyên trách. Nhưng trên hết, tất cả chúng ta đều là học trò, đang thụ giáo nơi một vị thầy duy nhất. Thầy giáo đó có uy quyền thực sự, uy quyền đem đến cho ta niềm vui và ơn cứu độ. Học dưới ngôi trường này, và được thụ giáo nơi vị tôn sư này, chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ tốt nghiệp, và vị thầy đó mãi luôn còn hướng dẫn và dạy dỗ chúng ta. Ngài sẽ dạy chúng ta hướng đến một mục tiêu duy nhất: Đó là để chúng ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa, và đi đến sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
40.“Người giảng dạy như Đấng có uy quyền”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc: “Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Trong Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).
- Uy quyền trong lời nói, vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.
- Uy quyền trong hành động, lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.
Lời giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.
G. Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).
41.Một ngày ở Ca-phác-na-um--P. Trần Đình Phan Tiến
Ca-phác-na-um là một thành trì nằm sát Biển hồ Ti-ber-ri-a, nơi mà Chúa Giêsu vừa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Nói về giao thông, thì Ca-phác-na-um thuận lợi hơn Giê-ru-sa-lem. Bởi vì, nó nằm gần sát trục lộ chính, trục lộ nầy là chiều dài của nước Do-thái, vì vậy, nó chạy xuyên xuốt nước Do-thai (song song với chiều dài Địa Trung Hải). Biển hồ Ti-ber-ri-a nằm ngay giữa trục lộ nầy, chạy dài xuống Biển Chết (Death Sea). Nơi Chúa Giêsu Giáng Sinh là Bê–lem (nguyên quán Vua Đa-vít), gần Giê-ru-sa-lem, gần Biển Chết. Nhưng, nơi sinh trưởng của Người là Na-za-ret, vì thế Người được gọi là “Giêsu Nazaret”. Na-za-ret gần Biển hồ Ti-ber-ria, vì vậy, Ca-phác-na-um là nơi giảng dạy đầu tiên của Người. Có thể ví Ca-phác-na-um như Vũng Tàu của Việt Nam, còn Thành Giê-ru-sa-lem như Hà Nội vậy.
Nhưng, Chúa Giêsu chỉ đến Ca-phác-na-um có một ngày “… Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về Lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c 21 -22).
Theo đó, Tin Mừng hôm nay được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất: Nói về sự giảng dạy của Chúa Giêsu tại hội đường Ca-phác- na-um (c 21-22).
Điều nầy nói lên rằng: Chúa Giêsu đang thực thi sứ mạng của mình. Người là Đấng Thiên Sai. Lời giảng dạy của Người có sức thu hút người nghe, bởi vì là Lời chân thật, Lời có sức thu hút, vì là Lời siêu nhiên. Chúng ta thấy một yếu tố thần học hiện rõ nơi Lời rao giảng của Chúa Giêsu, bởi vì là Lời Hằng Sống theo Thiên Tính của Người, còn theo nhân tính thì Lời ấy được phát ra từ chính một Con Người, có sức thu hút người nghe, bởi vì, Lời ấy không phải giảng dạy theo ý riêng của người rao giảng, mà là theo ý của Thiên Chúa. Chúng ta thấy ý nghĩa rõ rệt hiện ra ngay khi Chúa Giêsu rao giảng.Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền. Điều ấy có nghĩa là giá trị Lời nói của Chúa Giêsu hiện rõ lên. Nhưng người nghe có đón nhận hay không, và đón nhận như thế nào là tùy thuộc vào “mảnh đất tâm hồn“ của người đó. Chúng ta thấy sự khác biệt giữa sự giảng dạy của Chúa Giêsu và các kinh sư. Họ cũng giảng giải Thánh Kinh, nhưng theo ý của họ, chứ không theo ý của Thiên Chúa. Vì “họ nói mà không làm”, hoặc làm theo một cách máy móc, chứ không phát xuất từ tấm lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật là đoạn Tin Mừng gây ”nhức nhối” cho những ai đang rao giảng Lời Chúa. Vì, nếu muốn rao giảng như Chúa Giêsu, thì chúng ta phải “xin” cho có được một tâm hồn như Người. Và rao giảng như một con người tông đồ chân chính, chứ không rao giảng như một “con buôn”. Vì rao giảng Lời Chúa thì không phải là một chuyện dễ dàng, vì muốn rao giảng Lời Chúa thì phải sống như Lời Chúa dạy. Sở dĩ những người kinh sư không làm được như Chúa Giêsu, vì họ không sống được như Người.
- Phần thứ hai: (Từ câu 23-26) Chúa Giêsu trừ quỷ.
Chúng ta thấy, phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, là một sự chứng minh cho phần thứ nhất ở trên. Ngay lập tức, trong hội đường của họ, có người bị quỷ ám, la lên rằng: “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi liên quan gì đến ông, mà ông đến phá (tiêu diệt) chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c 24).
Chúng ta thấy, thẩm quyền của Chúa Giêsu là như vậy, chính thế lực tà thần phải thốt lên như vậy, vì phàm nhân không thể thấy được sự siêu phàm từ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu quát mắng nó: “Hãy câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy!” (c 25). Rõ ràng, Lời của Chúa Giêsu có sức xua tan thần ô uế. Một phép lạ, một sự trừ tà ngay lập tức được Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta thấy, quyền năng nơi Chúa Giêsu, lập tức phát ra, nếu Người muốn. Tuy đây là buổi giảng dạy công khai đầu tiên, nhưng Chúa Giêsu đã bày tỏ Thiên tính uy quyền nơi Người, vì thần ô uế hiện diện nơi ấy, và nó sợ hãi Người, đồng thời phá rối việc Người giảng dạy.
Qua đó, chúng ta thấy, việc rao giảng Lời Chúa luôn phải đối phó với việc phá rối của tà thần. Nhưng, chúng ta đừng sợ, vì sự rao giảng Tin Mừng chân chính, thì Lời Chúa sẽ phá tan tất cả những thế lực tà thần. Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Giáo Hội, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
- Phần thứ ba: Sự kinh ngạc của những người chứng kiến (c 27-28)
Vâng, mọi người đều kinh ngạc, ai lại không kinh ngạc, bởi vì tất cả đều lạ lùng. Chúa Giêsu đã bày tỏ sự lạ lùng của Người. Họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền…” (c 27). Như vậy, câu 27 đã minh chứng được phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay. Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (c 22).
Rồi, “lập tức danh tiếng của Người đồn ra khắp nơi, khắp các miền lân cận Ga-li-lê (c 28). Nhưng, Chúa Giêsu là Người không muốn nổi danh, bởi vì sứ vụ của Người không phải để được nổi danh, mà là đem ơn “Cứu độ” cho nhân loại. Một điều gì đó cao cả hơn, ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, xừng đáng hơn sự nổi danh của phàm nhân.
Khởi đi từ bài đọc I (Đnl 18, 15-20) hôm nay, minh chứng rằng tại sao Đấng cứu thế phải mặc nhân tính phàm nhân. Hầu để mang Lời Thiên Chúa qua sự hữu hình của nhân thế, mà ngày nay chúng at gọi là ”Ngôi Lời”. Vâng, “Ngôi Lời” đã làm Người, đã trở nên phàm nhân, nhưng, Thiên Tính là Bản Tính Thiên Chúa vẫn hiện hữu nơi Người. Đó là điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế. Đồng thời đó là ”Nhiệm Vụ tiên tri” của Đấng làm Người.
Bài đọc II (1Cr 7, 32-35), thánh Phao-lô cho biết ý nghĩa của nhân tính và thiên tính. Ai có gia đình thì chu toàn phận vụ gia đình. Ai không có gia đình thì chu toàn phận vụ Thiên sai.
Thánh vịnh 23 hôm nay, cho chúng ta biết, sự khải hoàn của Đấng Kitô là điều hiển nhiên. Đấng Kitô là Đấng công minh. Sự trong sạch và tấm lòng không vẩn đục.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trong thế gian, hầu mang ơn cứu độ đến cho nhân loại qua sứ vụ Thiên Sai, hầu biểu lộ Ngôi Lời của Thiên Chúa. Xin ban cho phàm nhân biết nhìn nhận và đáp trả, để đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa. Amen.
42.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm Trầm Phúc
NGƯỜI GIẢNG DẬY NHƯ ĐẤNG CÓ UY QUYỀN
Chúa Giêsu khởi đầu rao giảng. Ngài chọn miền Galilê trước hết, và gần như đó là môi trường Ngài chọn để công bố Nước Trời, và cũng nơi đó Ngài chọn những môn đệ đầu tiên của Ngài. Đó là vùng dân ngoại chiếm phần lớn. Nhưng Ngài cũng chú ý đến dân Do Thái vì Ngài đến cho mọi người, mang ơn cứu độ cho mọi người không trừ ai. Ngày sabat, Ngài vào Hội đường và theo thói quen của người Do Thái, một người nào đó được mời lên đọc sách thánh và giải thích. Ngài đứng lên đọc sách Thánh và giải thích Lời Chúa cho mọi người. Thánh Maccô thuật lại: “Mọi người đều sửng sốt vì Ngài giảng như Đấng có uy quyền”. Ngài là Thiên Chúa mà người ta không biết, vì Ngài sống như mọi người, không có gì đáng chú ý. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Ngài hé lộ cho thấy một nét nhỏ của Ngài thôi. Sau này chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi Ngài tuyên bố hiến chương Nước Trời trên núi: “Người xưa dạy rằng, còn Ta, Ta nói…”. Ngài nói như đấng có quyền lập pháp, chứ không chỉ giải thích như mọi người. Tiếng nói của Ngài đi sâu vào tâm hồn người nghe đến nỗi người ta sửng sốt. Từ sửng sốt của thánh Maccô mang một ý nghĩa rất mạnh, vì có lẽ từ trước đến giờ họ chưa thấy ai giảng Lời Chúa như Ngài.
Thêm một biến cố càng làm cho người ta sửng sốt hơn nữa, là trong Hội đường có một tên quỷ ám la lên: “Ông Giêsu Nadaret, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi. Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Lời của tên quỷ càng cho chúng ta thấy Ngài là ai. Tên quỷ dùng từ chúng tôi, nghĩa là nhiều lắm. Hơn nữa chúng nó lại tuyên xưng Ngài là Đấng thánh của Thiên Chúa. Đó phải chăng là một lời tuyên xưng đức tin? Quỷ cũng nói rõ công việc của Ngài, Ngài đến để tiêu diệt chúng nó.
Chúa Giêsu không cho nó nói và truyền lệnh: “Câm đi! Hãy xuất khỏi người này”. Và chúng ta biết kết quả của lời nói đó. Ma quỷ lay mạnh người đó rồi xuất ra. Dân chúng kinh ngạc và hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?” Họ không thể tin được! Từ xưa đến nay, chưa có ai có thể nói một lời mà ma quỷ phải khuất phục! Có lẽ trong Hội đường lúc bấy giờ người ta vẫn còn nhớ tiếng của ma quỷ: Chúng tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng thánh của Thiên Chúa”, tức là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chứng tỏ uy quyền của Ngài trong Hội đường, trước mặt mọi người. Thánh Maccô kết luận bằng một câu: “Danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.
Nhưng hôm nay, chúng ta thấy gì? Một thế giới dưới quyền của Satan, một thế giới tràn ngập tội ác. Tội ác thống trị trong mọi lãnh vực của cuộc sống, ngay cả trong hàng ngũ tu sĩ, giáo sĩ. Chúng ta tự hỏi: quyền năng Chúa hôm nay đâu rồi? Tại sao không thấy quyền năng Chúa thực hiện những kỳ công như thuở xưa?
Hôm nay, Chúa không hiện diện giữa chúng ta như khi xưa, Ngài trao lại cho chúng ta trách nhiệm đó. Phải diệt trừ sự dữ giữa chúng ta. Ngài ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài là sức mạnh của Ngài. Đến lượt chúng ta phải hành động nhân danh Ngài. Chúng ta có làm được không? “Này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nhưng chúng ta có ở với Ngài không? Hay chính chúng ta lại tiếp tay với ma quỷ? Chúng ta cần diệt trừ tội ác trong chúng ta, trong gia đình, trong Giáo xứ, chúng ta mới có thể đẩy lùi sức mạnh của tội ác trong xã hội.
Chúng ta cứ ngồi chờ Chúa ra tay đang lúc chúng ta không tích cực cộng tác với Ngài? Chúng ta cứ than vãn rằng, con người hôm nay không còn lương tri, chỉ biết sống cho tiền bạc đang lúc chúng ta cũng đồng lỏa với những bất công, gian dối.
Chúa Giêsu đến để khai mở Nước Trời, là nước sự thật và tình thương. Chúng ta đã làm gì? Tại sao còn biết bao nhiêu người vẫn xa lạ với Chúa? Phải chăng vì chúng ta chưa dốc toàn lực cộng tác với Chúa?
Thánh Phaolô, sau biến cố ngã ngựa đã khuất phục và đã trở thành con người mới, sống chết cho Đấng đã chinh phục mình, đã trở thành một nhà chinh phục các linh hồn, một chiến sĩ không mõi mệt của Tin Mừng. Thánh Gioan-Maria Vianney, cha sở Họ Ars, một mình trong một giáo xứ nhỏ, chín mươi chín phần trăm bỏ đạo, đã biến thành một thành phố lớn vắng bóng Satan. Người ta tuôn đến để được tha thứ, để tìm lại niềm tin. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trong bốn bức tường của tu viện đã trở thành bổn mạng của các xứ truyền giáo. Chúng ta có thể như thánh Têrêxa, là âm thầm làm mọi việc với tất cả tình yêu. Nhỏ bé nhưng hữu hiệu. Chúng ta không có tầm vóc của các thánh đó, nhưng chúng ta cũng có thể làm việc cho Chúa, làm chứng cho tình yêu Chúa trong phạm vi nhỏ bé của chúng ta, nhưng chúng ta có làm được gì không?
Trong một giáo xứ, chúng ta thấy gì? Có những giáo xứ rất năng nổ, nhưng cũng có nhiều giáo xứ trì trệ, giáo dân chia rẽ, bất hòa… Trong các giáo xứ, số tín hữu hăng say tham gia vào việc tông đồ, truyền giáo chỉ là thiểu số. Các hội đoàn chỉ là một nhóm nhỏ. Đa số giáo dân chỉ có mặt vào lễ Chúa nhật, gần như chỉ có tên trong sổ chứ không tham gia việc gì cả, trao trọn cho cha sở hay một số người. Như thế làm sao đức tin có thể được loan truyền hữu hiệu? Làm sao đẩy lùi những đợt tấn công của ma quỷ khi chúng nó là đạo binh, vô số, còn chúng ta chỉ là một nhóm quá nhỏ? Các gia đình Công giáo, được mấy gia đình có thể là chứng nhân trong thôn xóm? Giáo xứ là “đường hay pháo đài”?
Muốn chống lại sức mạnh của Satan, chúng ta phải trở thành Lời như Chúa Giêsu là Lời của Chúa Cha. Muốn thế, chúng ta cần hiểu biết Lời Chúa. Quyển sách Tin Mừng phải được sử dụng hằng ngày cho mỗi người, cho cả gia đình. Chúng ta có khao khát lời Chúa như người ta ham tiền không? Lời Chúa có trở thành niềm hoan lạc cho chúng ta như tiên tri Giêrêmia không, hay là cái gì chúng ta loại trừ, như một cái gì làm chúng ta chán ngán? Nếu chúng ta không yêu mến Lời Chúa, có thể nói là ghiền Lời Chúa như người ta ghiền rượu thì làm sao chúng ta có thể chống lại thế lực của ma quỷ? Lời Chúa là sức mạnh cần thiết để chúng ta đủ sức chiến thắng ma quỷ, là lương thực chính yếu nuôi dưỡng linh hồn, củng cố niềm tin và tăng trưởng đức mến. Ăn lấy Lời Chúa, chúng ta sẽ được biến đổi, ví Lời Chúa là Lời sáng tạo.
Chúa lại cho chúng ta một phương tiện khác hữu hiệu hơn, là ăn lấy thịt Máu Ngài. Ngài đã muốn ban cho chúng ta Mình và Máu Ngài làm lương thực. Chính Ngài đã nói: “Hãy cầm lấy mà ăn”. “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta sẽ sống trong Ta và Ta sẽ sống trong người ấy”. Ăn lấy Ngài để trở thành hiện thân của Ngài, cùng Ngài chống lại thần dữ, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Chúng ta không thể làm gì mà không có Ngài. Chúng ta đã ăn lấy Ngài suốt bao nhiêu năm rồi, chúng ta có thành hiện thân của Ngài chưa? Nếu chưa, chúng ta làm sao tiêu diệt thần dữ? Nếu chưa, chúng ta làm gì để càng ngày càng gắn bó hơn với Chúa? Chính Chúa tiêu diệt thần dữ chứ không phải chúng ta, nhưng Ngài muốn dùng chúng ta, khả năng của chúng ta, lòng yêu mến, sự nhiệt thành của chúng ta để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã từng nói: “Ta là ánh sáng thế gian”. Nhưng nơi khác, Ngài lại nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”, nghĩa là chúng ta phải như Ngài. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm điều đó: “Sống đối với tôi là Chúa Kitô… tôi sống nhưng không còn là tôi mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Lý tưởng xem ra cao vời quá, nhưng vẫn có thể đạt được khi chúng ta dám tin vào tình yêu Chúa và dám ra tay hành động. Chúa Giêsu gọi chúng ta vào một cuộc chiến cam go và liên lỉ, nhưng Ngài luôn ở với chúng ta. Ngài chỉ mong chúng ta đem hết thiện chí theo Ngài. Chúng ta sẽ không thất vọng, vì qua những cố gắng nhỏ bé của chúng ta, Chúa sẽ thực hiện những công trình của Ngài. Chúng ta chỉ cần tin, và theo Ngài. Các tông đồ chỉ là những con người dốt nát, quê mùa, nhưng các ngài đã dám theo Chúa và đã trở thành những thợ chài lưới người.
Chúa Giêsu đã thắng thế gian. Điều đó là sự thật chứ không chỉ là một lời hứa. Thần dữ không làm gì được, mặc dù hôm nay xem ra nó đang thắng thế, nó đang thống trị thế giới, nhưng Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa, Đấng ma quỷ phải khiếp sợ và vâng phục. Chúng ta dám tin không? Tin phải hành động vì “Đức tin không hành động là đức tin chết”. Phải huy động toàn lực, toàn thể tín hữu để xông vào cuộc chiến chống lại thần dữ. Cuộc chiến này không có ranh giới, cũng không bao giờ chấm dứt, sẽ kéo dài cho đến tận thế. Mọi người phải cảm thấy rằng mình là một chiến sĩ của Chúa, phải dám từ chối tội lỗi từng lúc, vì ma quỷ không mõi mệt và luôn nỗ lực xâm chiếm các linh hồn bằng mọi phương tiện. Hãy mặc lấy khí giới của ánh sáng, của tình yêu, Chúa sẽ hỗ trợ và Ngài sẽ nói tiếng nói cuối cùng, vì Ngài chính là Thiên Chúa: “Hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”.
43.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Website Giáo Phận Thái Bình
Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (Mc 1, 27)
Thánh Giêsu và Luca đều ghi lại phép lạ này như nhau. Nhưng thánh Giêsu bao giờ cũng đầy đủ chi tiết hơn. Phép lạ này xảy ra tại Capharnaum là một thành phố miền Duyên Hải, cũng là địa cứ trung tâm, nơi truyền giáo của Chúa ở đây. Thành phố này dù nhỏ vẫn có những hội đường để học hỏi về sắc luật và Kinh Thánh. Chúa Giêsu vào một trong những hội đường của Capharnaum, vào một ngày Sabát để giảng dạy. Trong số thính giả ngồi nghe có một nạn nhân bị quỉ ám, lúc ấy anh còn được một chút tỉnh táo bỗng anh cướp lời Chúa, thất thanh kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Giêsu Nadarét, chúng tôi và Ngài có liên hệ gì với nhau, Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?” (c.23)
“Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?” (c.23). Muốn nói rằng: không phải Chúa chỉ đến với Capharnaum mà còn đến với cả nhân loại nữa. Cũng không phải Chúa chỉ đuổi ma quỉ ra khỏi thân xác bệnh nhân mà còn xua đuổi chúng đến tận đáy hỏa ngục và không cho chúng cái thú làm hại người ta nữa (Cl 2,14).
Chúng ta nên lưu ý ở đây, Chúa Giêsu đã không khiêu kích quỉ dữ. Không một nơi nào trong Phúc Âm nói tới trong điều tương tự. Như thế là Chúa tôn trọng mọi tạo vật Ngài đã sáng tạo nên.
Nhưng khi tới lúc tới giờ Chúa đã xua đuổi chúng một cách nghiêm khắc, không biện luận nói năng gì nữa, Chúa phán rõ ràng rằng: “Hãy câm đi và ra khỏi người này” (c.25t) Chúa chỉ truyền một lời vắn tắt như một mệnh lệnh vô điều kiện: “Im đi”.
Tại sao ở đây ma quỉ lại xưng đúng danh tánh Chúa là “Giêsu Nadarét”, là “Đấng Thánh” mà Chúa lại bảo im đi? Thưa, khi ma quỉ nói thế không phải mục đích để tôn vinh Chúa đâu. Nhưng ma quỉ muốn đánh lạc hướng cho thính giả rằng: “Đấng Thánh” theo như người Do Thái mong tưởng phải là người bách chiến bách thắng khuất phục mọi chư dân về đầu hàng Israel. Vậy, ma quỉ nói lên như thế là mục đích làm cho thính giả nhớ tới một Đấng Cứu Thế trần tục, mà quên đi cõi siêu linh tâm hồn mà lúc ấy chúng đang ngự trị an toàn, mà giờ đây Chúa đến, làm chúng bất an, mất đất dụng võ.
Chúng bảo “Im đi” vì lời chúng nói không phải để tuyên xưng Chúa đâu, có khi chỉ là một dịp nhạo cười như kêu tên Chúa vô cớ, hay ít ra cũng không nói lên được chân lý nào, vì từ “bụi gai làm sao tìm được quả vả” nào bao giờ. Cho nên Chúa ra lệnh ngay: “Im đi và ra khỏi người này” (c.25). Ma quỉ tìm cách như là chống cưỡng lại, tỏ vẻ tức tối nên quật ngã nạn nhân giữa đám đông, hét to lên rồi đánh bỏ nạn nhân ra đi (c.26).
Phép lạ này cho thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật. Ngài dạy dỗ với uy quyền của một vị Thiên Chúa, quyền này ngay trong thế giới thiêng liêng cũng phải công nhận và vâng lời tăm tắp. Khi quỉ ra khỏi nạn nhân “mọi người đều biết và kinh ngạc” và công nhận Chúa dạy một “giáo huấn uy quyền mới mẻ” (c.27).
Lời Chúa không bao giờ cũ xưa cả. Lời Chúa luôn mới cho những ai ham chuộng Lời Ngài. Mới ở chỗ sẽ được đổi mới nên hoàn thiện, trong thực hành. Nếu như chúng ta ham đọc Lời Chúa mà tấm lòng chúng ta cứ vẫn cũ rích, thì đó không phải là tại Lời Chúa mà là tại lòng ta là bụi gai, đá sỏi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho uy quyền Thiên Chúa và Lời Chúa thể hiện nơi đời sống chúng con, để Lời Ngài luôn hấp dẫn, luôn lôi cuốn chúng con hướng theo đường thiện, luôn là động lực giúp chúng con đổi mới.
44.Chứng nhân trong cuộc sống--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Bóng tối thì sợ ánh sáng; sự giả dối thì sợ hãi sự thật. Đức Giêsu đến trong thế gian, Ngài là ánh sáng soi chiếu vào bóng tối; là chân lý chiếu soi vào chốn lỗi lầm. Ngài rao giảng về Nước vĩnh cửu trong chân lý và sự thật. Lời của Ngài có uy quyền khiến đến ma quỷ cũng phải kinh hãi. Lời Chúa trong Chúa nhật IV Thường niên B diễn tả uy quyền trong giáo huấn của Đức Giêsu và sự sợ hãi của gian trá, ma quỷ trước uy quyền của Sự Thật.
Uy quyền trong giáo huấn của Đức Giêsu
Ngày Sabát là ngày quan trọng đối với người Dothái, là ngày họ ngồi lại với nhau nơi hội đường để nghe Lời Chúa. Tại hội đường trong thành Capharnaum, người Do thái vẫn thường lắng nghe Lời Chúa qua những trang Kinh thánh. Nhưng dường như những Lời ấy vẫn chưa đụng chạm tới họ, tới con người với cuộc sống cụ thể của họ; Dường như những Lời ấy vẫn chỉ phảng phất đâu đấy chứ chưa đi vào lòng họ. Kinh thánh vẫn là những trang xa vời, dân Dothái chưa thể gặp được chính Lời của Thiên Chúa qua những trang Kinh thánh ấy.
Thế nhưng hôm nay họ đã được lắng nghe chính Lời của Thiên Chúa. Vào hội đường Caphacnaum trong ngày Sabát. Đức Giêsu đã lên tiếng giữa cộng đoàn, giảng giải cho họ điều đã chép trong Kinh thánh, Thánh Marco đã thuật lại: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài”. Làm sao không sửng sốt được khi mà chính Lời từ Thiên Chúa đến để nói với họ. Chính Đức Giêsu là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa đã lên tiếng bên tai họ thì còn lý do gì để họ phải xa cách Thiên Chúa nữa. Dân Do thái đã sửng sốt về giáo huấn của Đức Giêsu vì “Ngài giảng dạy như một Đấng có uy quyền”.
Giáo huấn của Chúa Giêsu không phải là của người phàm, song là của chính Thiên Chúa. Giáo huấn của Ngài chứa đựng uy quyền toàn năng của Thiên Chúa, chứa đựng tình yêu trọn vẹn nơi Thiên Chúa, chứa đựng sự chân thật và tốt lành thánh thiện tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Chính Lời Ngài đến trong thế gian để soi sáng cho nhân loại. Như một tấm gương phải chiếu vào cuộc đời để rồi mọi tội lỗi trong nhân gian đều bị lộ rõ trước sự tinh tuyền thánh thiện đến tột cùng của Thiên Chúa.
Thánh Marco đã để cho chính sự dữ, chính thần ô uế làm chứng về uy quyền trong giáo huấn của Chúa Giêsu.
Sự giao tranh giữa Chân Lý và gian trá
Cũng trong hội đường Capharnaum hôm ấy, thánh Marco đã thuật lại cho chúng ta thấy sự kinh hoàng của bóng tối, của ma quỷ khi đứng trước uy quyền của Chúa Giêsu.
“Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập la lên”. Giữa khung cảnh nghiêm trang của hội đường, Giêsu rao giảng về Chân lý; dân chúng lắng nghe và thán phục. Tất cả mọi người không ai đụng chạm hay lên án kẻ tội lỗi, ô uế kia. Thế nhưng người đó đã la lên cách đột ngột trong sự ngỡ ngàng. Tiếng la như phá tan bầu khí của hội đường, như bùng nổ do sự kìm nén đến mức tối đa.
Vâng, chính ánh sáng và chân lý nơi Thiên Chúa đã chiếu vào góc khuất âm u ấy của người bị thần ô uế nhập. Chính bóng tối không chịu được ánh sáng; Chính ma quỷ không đứng vững được trước sự thánh thiện của Thiên Chúa; Chính sự hiện diện của Đức Giêsu đã tạo nên sự căng thẳng càng lúc càng gia tăng nơi người bị thần ô uế ám. Chính sự sợ hãi đến tột cùng của thần ô uế đã khiến người đó phải thốt nên lời và nài xin sự yên thân.
Tin mừng về Chúa Giêsu theo thánh Marco không bộc lộ ngay tất cả dung nhan của Đức Giêsu cho độc giả. Thánh Marco muốn độc giả từ từ khám phá dung nhan của Đấng Messia, Đấng Cứu Độ nhân loại. Ở đây, lời tuyên bố đột ngột của thần ô uế “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, rồi ngay lập tức Đức Giêsu trừ khử cũng chỉ một lời, đã đẩy đọc giả của Tin mừng Marco đi đến chỗ không thể dửng dưng trước con người Đức Giêsu. Họ phải tự hỏi và tìm hiểu về Giêsu.
Và đến lượt chúng ta, chắc chắn khi đụng chạm đến Giêsu, chúng ta cũng tự hỏi Ngài là ai. Sự ngạc nhiên trước Đức Giêsu luôn là thái độ cần thiết cho cuộc tìm kiếm Thiên Chúa của chúng ta. Kinh thánh là Lời Thiên Chúa. Nếu bạn thực sự lắng nghe Lời Chúa, bạn cũng sẽ thấy ngạc nhiên về Giêsu trong đó. Sự ngạc nhiên ấy sẽ là khởi điểm cho bước đường bạn tìm đến với Ngài. Và chính khi bạn mang trong mình Đức Giêsu, bạn cũng sẽ bắt gặp sự phản ứng từ những người xung quanh.
Sự hiện diện của Kitô hữu trong xã hội hôm nay
Xã hội Việt nam hôm nay đang nổi cộm với biết bao vấn nạn. Sự dối trá tràn ngập khắp mọi nơi, mọi môi trường, từ đầu đường xó chợ tới nơi giảng đường; từ gia đình đến xí nghiệp, cơ quan nhà nước; từ người vô học đến người có học vị tiến sỹ. Tất cả tràn ngập sự giả dối khiến cho người ta ra đến đường là phải cảnh giác, về đến nhà cũng phải cảnh giác. Câu chuyện cảnh giác luôn là điều người ta nhắc nhau hàng ngày. Khi sự giả dối trở thành thói quen, thành thông thường; mọi sự gian lận không phải là chuyện ngạc nhiên nữa thì xã hội sẽ thấy lạ trước những con người sống ngay thẳng, thành thật, liêm chính.
Cả cơ quan đều chia nhau số tiền tham ô, tham nhũng, biển lận. Bạn là người Công giáo sống theo Giêsu nên bạn từ chối. Chẳng cần bạn phải lên tiếng phản đối, bạn vẫn là cái gai trong mắt mọi người. Cũng giống như người bị thần ô uế ám trong bài Tin mừng hôm nay, rồi đến lúc họ cũng sẽ hét lên mời bạn đi chỗ khác.
Sự thật thà của con cái Chúa sẽ là cái gai trong một xã hội có quá nhiều sai lầm. Nhưng bạn sẽ lựa chọn thái độ nào đây?
Nếu bạn đồng tình đi theo mọi người xung quanh thì cuộc sống hiện tại của bạn tạm ổn. Nhưng bạn phải chấp nhận mất Giêsu. Bạn phải chuẩn bị nghị lực mà đối diện với lương tâm mình mỗi khi đêm về.
Nếu bạn chọn Thiên Chúa là gia nghiệp và cùng đích của đời bạn thì bạn hãy trao phó mọi sự trong tay Ngài. Có Chúa cùng đồng hành, sự kiên trung bước đi trong đường lối Chúa sẽ là ánh sáng chiếu soi vào những bóng ma trong xã hội hôm nay. Sự hiện diện của bạn sẽ là lời nhắc nhở cho mọi người và cũng là lời mời gọi mọi người gột rửa tâm hồn.
Lạy Chúa, xin giúp sức cho con, xin củng cố đức tin cho con và an ủi con trong lúc bị người đời xa lánh.
45.Ngài dạy dỗ họ như Đấng có uy quyền--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
Đây là cuộc chạm trán thứ hai giữa Đức Kitô và "thần ô uế". Chúng ta hẳn không quên Đức Kitô "ở trong sa mạc bốn mươi ngày chịu satan cám dỗ" (Mc 1,13 và Lc 4,1-13). Lần này Satan nhập vào một người và đối đầu với Người ngay tại hội đường Do Thái, nơi Người đang giảng dạy. Dân chúng đã kinh ngạc về những giáo thuyết của Ngài: điều Ngài giảng dạy không những khác với những điều họ vẫn nghe từ miệng các tư tế và ký lục thời đó, nhưng đặc biệt, Ngài nói với uy quyền: tỏ lộ ra trong cách nói, trong nội dung lời giảng dạy. Đám thính giả hôm nay còn "kinh hoàng" khi được chứng kiến tận mắt uy quyền của Đức Kitô trên thần ô uế: "Ngài truyền khiến được cả các thần ô uế, và chúng vâng lời Người" (Mc 1,27). Lời gào thét của thần ô uế còn vang vọng mãi:
"Giêsu Nazareth, chúng tôi với Ngài nào có việc gì? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa!"
Nước Thiên Chúa đã đến trong thế gian, nước của ánh sáng xua tan bóng tối và sự chết (bài ca mừng lửa mới trong đêm thánh vọng Phục Sinh). Lời tuyên án từ buổi khai nguyên vũ trụ này đã đến lúc thực hiện: "Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, con ngươi sẽ táp lại gót chân người" (St 3,15). Kể từ giây phút tuyên chiến đó, mãnh lực thù địch Thiên Chúa và loài người hằng tìm mọi phương cách hòng áp đặt quyền lực đen tối trên địa cầu. Nhưng nay thì dòng giống sinh ra bởi người đàn bà sẽ đạp đầu loài rắn độc: "Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?"
Nhân loại sẽ thắng loài quỷ đỏ hung tàn với điều kiện là biết tuân nghe lời Đấng Messia vì "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghĩa là con Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc loài người Thiên Chúa sai đến (Mc 1,10; Lc 1,35; Ga 6,69). Ngài giảng dạy "một cách quyền uy" vì Người là Ngôn Sứ Thiên Chúa, loan báo trung thực những lời Thiên Chúa: Ta sẽ cho chỗi dậy giữa anh em chúng một Ngôn Sứ như ngươi. Ta sẽ đặt các lời của Ta nơi miệng nó, và nó sẽ nói với chúng mọi điều Ta truyền cho chúng. (Đnl 18,18). Ai tin nghe lời Người sẽ được cứu thoát, ai không nghe sẽ bị luận tội (Đnl 18,19). Chính "Người Đàn Bà" vẫn hằng nhắc nhủ con cái loài người đến cuộc chiến quyết liệt này và đề nghị những phương thế hữu hiệu hầu chiến thắng tà thần. Hãy đọc sứ điệp Fatima, ở Lộ Đức... hay bất cứ nơi nào Đức Mẹ hiện ra, loài người sẽ thấy được những phương thế ấy. Nhưng thế giới hôm nay, và chúng ta những Kitô hữu, những người đã thề "từ bỏ tà thần và mọi việc làm của nó" khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng ta có đem ra thực hiện những lời Mẹ nhắn nhủ không?
"Để anh em sống đoan chính, và được khăng khít với Thiên Chúa không hề lơi" (1 Cr 7,35).
Sau khi đã đề cập đến vấn đề hôn nhân, thánh Phaolô nói đến vấn đề đồng trinh và độc thân. Nếu đọc toàn mạch văn của riêng bài đọc hôm nay chúng ta thấy thánh Phaolô khuyến khích sống độc thân và ở đồng trinh. Câu kết luận đưa chúng ta đến một nhãn quan mới: hôn nhân hay đồng trinh đều được chấp nhận, điều cốt yếu là "để anh em sống đoan chính, và được khăng khít với Chúa không hề ngơi". Đành rằng, khi sống trong bậc gia đình, người ta dễ bị "chia sẻ" vì tình yêu trần thế... nhưng chắc chắn đó không phải là một trở ngại cho tình yêu Thiên Chúa và con đường nên thánh.
46.Xua đuổi ma quỷ--Arthur Tone
Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.
Chúng ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.
Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.
Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con người.
Người hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con quỷ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.
Quỷ mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.
Quỷ khoái lạc là một con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất chấp ma quỷ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào Đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.
Trong mỗi thánh lễ, trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người. Hãy tìm kiếm con quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức Kitô; Bạn trục xuất hắn ra.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
47.Lời ngôn sứ--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
"Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết" (Đnl 18,16). Thấy dân chúng kêu ca có lý, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Người sẽ đặt lời của Người vào miệng ngôn sứ. Như thế, sứ ngôn là người nói thay cho Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa, nói đúng Thánh ý Thiên Chúa. Sự tồn vong của ngôn sứ hệ tại ở sứ mệnh cao cả và lắm cũng gian truân này. Vì ngôn sứ nào cả gan nhân danh Thiên Chúa mà nói lời Người đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết (x. Đnl 18, 20).
Tuy nhiên làm sao để biện phân đâu là ngôn sứ thật và đâu là ngôn sứ giả? Làm thế nào để nhận biết một ngôn sứ thật nhưng không nói lời Thiên Chúa truyền mà chỉ nói lời của mình hay lời của các thần giả trá xui khiến? Một Đại Ngôn sứ, một ngôn sứ trên mọi ngôn sứ đã xuất hiện chính là Đức Kitô. Bài trích Tin mừng thánh Maccô mà Hội Thánh giới thiệu trong thánh Lễ Chúa Nhật IV TN B gợi mở cho chúng ta hai tiêu chí để thẩm định sự chính danh, chính ngôn, chính phận của một ngôn sứ.
Lời có uy quyền: Dân chúng kinh ngạc vì Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư. Lời nói của một đấng có uy quyền thì thuyết phục người nghe và làm cho người nghe biết nghe theo. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền không chỉ vì nội hàm của chúng mà trên hết vì Người là Ngôi Lời, đồng thời chính Người là người tiên phong sống và thực hiện những gì Người giảng dạy.
Các Kinh sư cũng giảng dạy nhưng họ lại không sống điều mình giảng dạy khiến Chúa Giêsu đã từng nói với dân chúng rằng: "Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm và hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất trên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23,2-4). Đức cố giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nói: ngày nay người ta không thích nghe (nghe theo) những nhà giảng thuyết mà lại nghe theo những chứng nhân. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì họ đã là những chứng nhân, tức là đã thực hiện những gì mình giảng dạy.
Lời có sức diệt trừ sự dữ và ban sự sống: Dân chúng sững sờ nói với nhau: "Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" (Mc 1,27). Thần ô uế bị trục xuất thì người bị quỷ ám được chữa lành. Lời của Ngôn sứ thật là lời phát xuất từ Thiên Chúa. Xưa Thiên Chúa đã phán với Giêrêmia: "Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng" (Gr 1,9-10).
Cả hai hiệu quả là diệt trừ sự xấu, sự dữ và trao ban sự sống, những điều thiện hảo cùng đi sánh đôi. Nếu chỉ tuyên phán những lời hứa tốt đẹp hay ngược lại chỉ nói những lời quở trách phê phán mà thôi thì hầu hết là do thần dữ xúi khiến. "Đức Chúa các đạo binh phán như sau: 'Đừng nghe lời các ngôn sứ (giả hiệu) tuyên sấm, chúng phỉnh phờ các ngươi; điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra. Chúng dám nói với những kẻ khinh miệt Ta: 'Đức Chúa phán: anh em sẽ được bình an!' Và với những kẻ lòng chai dạ đá: 'Tai hoạ chẳng bao giờ ập xuống anh em' (Gr 22,16-17). Vì tuyên bố những lời dối trá phỉnh phờ dân nên ngôn sứ giả Khanangia đã phải bị trừng phạt nhãn tiền (x. Gr 28,1-17).
Sứ mạng ngôn sứ của mọi Kitô hữu: Từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô hữu đều đã được thông phần vào ba chức vụ của Chúa Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Đường lối của Thiên Chúa thì trước sau như một. Xưa nhiều lần, nhiều cách Người đã nói với tổ tiên cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, đến thời viên mãn Người đã nói với loài người chúng ta cách trọn vẹn qua chính Người Con Một làm người là Chúa Giêsu Kitô (x. Dt 1,1-2). Và mãi cho đến ngày tân thế, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục nói với loài người qua những con người. Nhân loại này, thế gian này vẫn mãi cần đến sứ ngôn để nhận biết thánh ý Thiên Chúa. Con người, đặc biệt các Kitô hữu được mời gọi làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nhân danh Thiên Chúa, nói lời của Người.
Sứ mạng ngôn sứ thật cao cả và cũng thật lắm gian truân, nguy hiểm. Sự hiểm nguy, gian truân không chỉ đến do người đời bách hại mà còn có thể do bởi chính các ngôn sứ, vì lý do nào đó, đã không nói lời của Thiên Chúa mà chỉ nói lời của mình, thậm chí con nói lời do thần dữ xui khiến. Để tránh những tai hoạ này, không gì hơn, Kitô hữu chúng ta, cách riêng những người chuyên lo việc giảng dạy hãy xét xem mình đã thực hiện ra sao điều mình giảng dạy, hãy xét xem những lời mình giảng dạy có sức thuyết phục như thế nào và đồng thời hãy xét xem các lời tuyên dạy của mình có đủ đầy tính vừa xua trừ sự xấu, sự dũ và vừa làm phát sinh tình yêu, phát sinh sự sống như thế nào?
48.Người giảng dạy với uy quyền--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 1,21-43 nói đến những hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu. Trước tiên, trong hội đường Capharnaum (1,21-28), rồi đến tại nhà của Simôn và Anrê, (1,29-31), và trước căn nhà ấy (1,32-34), sau cùng là những hoạt động tại miền Galilêa (1,35-45). Đoạn 1,21-28 trình bày hoạt động chính đầu tiên của Chúa Giêsu là giảng dạy (1,21-22), và sau đó là trừ quỷ (1,23-28).
Chúa Giêsu đã có các môn đệ. Họ theo Người vào Capharnaum (1,21), rồi vào hội đường (1,29). Họ đi theo Chúa Giêsu, tới nơi Người đến và luôn thuộc dưới quyền của Người (1,16-20). Trước tiên họ vào một hội đường ở Capharnaum; ở đó, Chúa Giêsu giảng dạy. Giảng dạy là hoạt động chính của Chúa Giêsu, từ đầu sứ vụ cho đến cuối đời: “Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở đền thờ” (14,49). Bởi đó, chỉ mình Người được gọi là thầy, Thầy Giêsu. (x. Mt 23,8). Ở đây, tin mừng không nói đến nội dung giảng dạy, mà chỉ nêu sự kiện là Chúa Giêsu đã giảng dạy (x. 2,13; 6,2.6.34; 10,1). Hiệu quả giảng dạy của Người thấy được từ phản ứng của thính giả. Họ sửng sốt (1,22), đặt câu hỏi về Người (1,27), và nhận ra sự khác biệt lớn lao giữa Người và các kinh sư.
Các kinh sư dạy cho dân chúng các sách luật Môisen – nhất là Ngũ Kinh, khuyên bảo dân chúng giữ luật và làm theo giáo huấn dạy trong sách luật. Thế giá của các kinh sư dựa trên Môisen. Họ là những người đại diện của ông, nắm giữ và truyền lại những truyền thống trong dân. Phần Chúa Giêsu, Người không dựa trên thế giá của Môisen và lề luật. Người giảng dạy với tư cách là Con Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa gởi đến, nên Người có uy quyền trong giảng dạy và những điều Người giảng dạy thì mới mẻ và hoàn hảo. Sự khác biệt nầy khiến dân chúng bỏ các kinh sư, mà đông đảo đi theo Chúa Giêsu để được nghe giảng dạy (1,32.45; 2,2.13; 3,20; 4,1; 6,33-34).
Lời giảng dạy của Chúa Giêsu gây sửng sốt và kinh ngạc như chính việc chữa bệnh của Người (1,27). Người trừ quỉ với quyền năng (1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29), và các môn đệ của Người cũng được ban ơn nầy (3,15; 6,7.13). Ma quỉ được gọi là “thần ô uế”. “Ô uế” nghĩa là “trần tục, không tinh tuyền, bị tách ra khỏi Thiên Chúa, đối nghịch với Thiên Chúa – Đấng Thánh”. “Thần” vì có quyền lực mạnh mẽ, linh hoạt, sức người không kềm hãm chúng được (5,3-4). Trong tin mừng, các thần ô uế có những hoạt động mang tính cách người, làm những điều xấu, có những hiểu biết hơn người (1,24), và đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng đối nghịch với Thánh Thần. Chúa Giêsu quyền năng hơn chúng. Chỉ một lời của Người, đủ để xua trừ chúng và phục hồi tự do cho người bị chúng ám. Xua trừ quỉ là cách Chúa Giêsu tỏ cho thấy Vương quốc Thiên Chúa đang đến trong quyền năng giải thoát.
Sứ mạng và căn tính của Chúa Giêsu được tóm tắt trong lời của ma quỉ: “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24). Vì là Đấng Thánh và cũng là Con của Thiên Chúa (3,11; 15,39), Chúa Giêsu lo giảng dạy, xua trừ ma quỉ và tội lỗi, để cứu chữa những người chưa thánh thiện, mà ban cho họ quyền làm con của Thiên Chúa như Người (2,17; 10,45).
49.Chúa Giêsu ban lề luật mới--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
1. Những bộ luật của Torah
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật. Đnl là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.
Do Thái coi Ngũ Thư là Torah (Luật) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môisen và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau. Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm những bộ luật sau đây:
a. Thập điều: Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần (Xh 20,2-17 và Đnl 5,6-18). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môisen.
b. Bộ luật giao ước (truyền thống E): Xh 20,24–23,9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môisen, chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa (giả thiết dân đã định cư). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.
c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật (Đnl 12,1–26,15) làm thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật Đnl là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật.
d. Luật Lêvi. Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ (1-7), cấp bậc Tư tế (8), các đại lễ (23), nơi thánh và các vật dụng thánh (25); luật về thức ăn (11), sự trong sạch (13-15), lễ xá tội (Yôm-Kippour) (16); luật về sự Thánh thiện (17-16).
Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel … thì Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại. Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời hứa - Tuyển chọn làm dân riêng - Giao ước - Lề luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3,15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.
Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môisen, đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môisen phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môisen. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa Địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.
Dân Do Thái sắp đi vào Đất Hứa, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỉ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đnl cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môisen. Bài sách Đnl còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc âm Chúa nhật hôm nay.
2. Chúa Giêsu, Đấng ban lề luật mới
Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Người ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí.
Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, Satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, Satan sợ hải: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho Satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh Satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt... Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp hấp dẫn. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.
50.“Lời Chúa là đèn soi cho con bước”--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mạng cứu thế. Ngài giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum vào ngày Sabat khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người ”. Hành động trừ quỷ làm cho “mọi người kinh ngạc”. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền năng và có sức mạnh chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn con người. Dân chúng ngưỡng mộ, sửng sốt, kinh ngạc, thán phục và tuôn đến với Ngài.
1. Sửng sốt về lời giảng dạy
Chúa Giêsu vào hội đường ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Các kinh sư, là những người chuyên học hỏi Luật Môsê và dạy dỗ dân chúng, khi giảng dạy luôn dựa vào lời các bậc thầy nổi tiếng, càng ngược lên tới gần Môsê thì càng có giá trị. Còn Chúa Giêsu thì giảng dạy như Đấng có uy quyền: các người đã nghe…còn Tôi, Tôi bảo các ngươi…
Thiên hạ kinh ngạc vì chính quyền năng mà Chúa Giêsu dùng trong lời giảng dạy. Ngài giảng bằng năng quyền. Trong khi đó, các kinh sư thường dựa vào những lời trích dẫn từ các thầy thông luật vĩ đại trong quá khứ để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều này cho thấy có sự phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng về mặt luân lý, nhưng lại không hề có sức mạnh; có người gây ảnh hưởng nhất, nhưng lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.
Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao và là Đấng ban lề luật mới là Tin Mừng và là Thần Khí.
2. Kinh ngạc vì uy quyền trong hành động
Chúa Giêsu giảng dạy và thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy, có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, satan sợ hãi: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Ngài dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu có quyền xoá bỏ tội lỗi cho con người. Ngài có quyền trên quỷ ô uế và thần dữ, bắt chúng vâng phục. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng sợ hãi la lớn tiếng. Một uy quyền khác cũng cho biết Ngài có toàn quyền trên thế giới thiên nhiên khi thuyền chìm giữa biển vì sóng to gió lớn, các tông đồ sợ hãi kêu cầu và Ngài truyền lệnh cho sóng gió ngưng lại.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Ngài đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt… Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp, hấp dẫn, sang trọng. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
3. Lời Chúa là đèn soi cho con bước
Tin mừng hôm nay cho thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa giảng dạy làm mọi người sửng sốt thán phục. Lời Chúa uy quyền phán ra khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời Chúa vào tâm hồn mình và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ. Courtois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Sống Lời Chúa chính là soi mình vào tấm gương Chúa Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:“Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh áng chỉ đường cho con đi” (Tv 118, 105).
“Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn dựa vào giáo huấn của Chúa Giêsu qua huấn quyền của Hội Thánh; Chúa Giêsu bảo đảm, chân lý của Ngài được nói qua Hội Thánh. Do đó, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, cuộc đời các thánh và sự khôn ngoan của Đức Thánh Cha và các Giám Mục phải luôn luôn được sử dụng làm nền tảng cho tất cả những gì chúng ta thụ huấn. Thứ đến, trong mọi đấng bậc, chúng ta là những người rao giảng; chúng ta chịu trách nhiệm về điều mình rao giảng. Lời rao giảng của chúng ta phải đặt nền tảng trên thẩm quyền của Hội Thánh, cụ thể là đấng bản quyền; nội dung chúng ta rao giảng là Chúa Giêsu, Lời Ngài và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Nhờ hiệp thông với Hội Thánh và cầu nguyện, những gì chúng ta rao giảng phải được phân định và chiếu soi bởi Thánh Thần…” (Lm Minh Anh).
Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi khuyên các linh mục: “Các con nhận thánh chức linh mục để thi hành chính sứ vụ cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện và ủy thác cho Hội Thánh. Sứ vụ ấy bao gồm ba nhiệm vụ chính, đó là giáo huấn với tư cách là thầy, thánh hóa với tư cách là tư tế và cai quản với tư cách là mục tử và thủ lãnh.Để thi hành nhiệm vụ giáo huấn trong Đức Kitô là Thầy, các con hãy siêng năng đón nhận Lời Chúa bằng việc lắng nghe và suy niệm trong lòng, rồi đem phân phát cho dân Chúa bằng lời giảng dạy. Hãy chuẩn bị bài giảng thánh lễ mỗi ngày thật chu đáo, để có thể làm cho Lời Chúa trở nên lương thực hàng ngày cho dân Chúa. Bài giảng thánh lễ phải ưu tiên tập trung vào Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh. Không được tục hóa bài giảng bằng những nội dung và lời lẽ không phù hợp với sự thánh thiêng của phụng vụ Lời Chúa. Càng không được dùng tòa giảng để làm nơi phê bình chỉ trích cá nhân. Để cho lời giảng dạy có sức đánh động lòng người, các con cần có gương sáng đời sống thánh thiện đi kèm, vì người ta thích nhìn thấy bài giảng hơn là chỉ nghe bài giảng”.(x.Bài giảng lễ Truyền Chức Linh Mục, ngày 07.01.2021, tại Gp Quy Nhơn).
Chúng ta hãy cầu xin cho các mục tử biết noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền, uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 2008 mời gọi: “Hãy để Lời Chúa vang lên lúc khởi đầu ngày sống, ngõ hầu Chúa là người nói đầu hết. Hãy để Lời Chúa vang vọng trong anh chị em vào buổi tối, để Chúa là người nói cuối cùng”. Chúng ta hãy ghi nhận và thực hiện lời mời gọi này để mỗi người, gia đình và cộng đoàn được Lời Chúa hướng dẫn mỗi ngày.
Xin Chúa cho chúng con sống tâm niệm lời Thánh Vịnh: “Hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: Anh em đừng cứng lòng nữa”.
51.Như Đấng có thẩm quyền—Lm. G. Nguyễn Cao Luật, OP
Công bố một lời khác
Bài đọc Tin Mừng trong hai Chúa nhật liên tiếp kể lại hoạt động của Đức Giêsu tại Ca-phác-na-um, và cũng là bản tóm tắt sứ vụ của Đức Giêsu tại miền Ga-li-lê.
Cùng với các môn đệ đầu tiên, Đức Giêsu đã trải qua một ngày sa-bát tại Ca-phác-na-um: tại đây, Người bày tỏ uy quyền siêu việt của Người về giáo huấn cũng như việc chữa lành những người bị quỷ ám và các bệnh nhân. Ngay từ những ngày đầu của sứ vụ công khai, danh tiếng của Đức Giêsu đã vang dội ra khắp cả miền Ga-li-lê. Sau biến cố Phục Sinh, miền Ga-li-lê sẽ trở thành điểm xuất phát cho việc loan báo Tin Mừng đi khắp thế giới.
Hội đường
Lúc này Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Có ba từ ngữ xác định địa điểm và công việc: Ngày sa-bát, hội đường, giảng dạy. Tất cả đều cho thấy một bối cảnh tôn giáo, theo đúng những thói quen và quy định đã có từ xa xưa. Đây là một khung cảnh giới hạn, quen thuộc và Đức Giêsu đã tham dự vào đó, không phải để phá huỷ nhưng để công bố cho mọi người một lời khác.
Sự đổ vỡ, như đã thấy trong những câu trước (xem Chúa nhật III thường niên), lúc này không chỉ xảy ra ở bình diện bên ngoài, nhưng ở cuộc sống bên trong của con người.
Thẩm quyền
Sự rạn nứt đã diễn ra ngay trong giáo huấn của Đức Giêsu: Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư! Đang khi các kinh sư quan tâm trước hết đến việc giải thích từng chữ của bản văn, dựa trên những lời giải thích họ đã học hỏi từ các thầy dạy của họ, thì Đức Giêsu tự diễn tả như một người biết rõ do đâu mình nói, và Người không chỉ bằng lòng với việc lặp lại điều người ta đã chỉ cho Người. Không dựa vào ai khác ngoài chính mình, Người tỏ ra là người tự do đối với Lề Luật.
Người có được thẩm quyền không phải do nhiệm vụ hay các tước hiệu: Người không hề có một bằng cấp nào. Ngược lại, các kinh sư không có thẩm quyền nào khác ngoài y phục: họ không có mặt trong những lời giảng dạy, họ chỉ đọc lại.
Còn Đức Giêsu, Người dấn thân trọn vẹn vào điều Người nói và nhận trách nhiệm về giáo huấn của mình.
Người đã giảng dạy với thẩm quyền là như thế. Người Kitô hữu mở miệng để lặp lại hay là làm chứng?
Hiểu biết của tên quỷ
Tên quỷ biết Đức Giêsu là ai, nhưng nó muốn đóng khung Đức Giêsu vào tước hiệu nó gán cho Người. Hiểu biết của nó có tính cách sở hữu: không hề có lối mở cho một cuộc gặp gỡ.
Nhận ra Đức Giêsu, đó không phải là để chiếm hữu Người. Trái lại, điều này đòi buộc một thái độ từ bỏ, hay nói khác đi là thái độ sẵn sàng đón nhận, tâm tình sám hối. Lời của Đức Giêsu giải thoát người nghe khỏi thái độ chiếm hữu do một hiểu biết đóng kín nơi chính mình.
Quyền mặc khải và giải phóng
Một người đang giảng dạy trong hội đường, đám đông dân chúng thinh lặng lắng nghe. Bỗng nhiên, một câu hỏi bật lên và cả đám đông đều nhao nhao: "Ông là ai? Uy quyền của ông trên tâm hổn chúng tôi có phải là sắp tiêu diệt chúng tôi không? Ông còn muốn lôi kéo chúng tôi đến bao giờ nữa? Ông muốn nói gì về những điều nghiêm trọng và nguy hiểm như thế? Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi nghe lời ông?"
Con người không giống như những người khác ấy giảng dạy điều gì mới để rổi được nhận là Đấng có thẩm quyền.
Thật ra, nội dung của giáo huấn không được nói rõ. Có thể nói rằng, nội dung chính vẫn là Lề Luật và lời rao giảng của các ngôn sứ, tức là mặc khải của Thiên Chúa, thế nhưng được hiểu theo một chiều kích mới, được giải thích theo những đường hướng khác hẳn với cách nghĩ của thói quen xưa nay. Cho nên giáo huấn của Đức Giêsu có đặc tính mới mẻ không phải vì nội dung, nhưng vì phẩm chất.
Hơn nữa, Đức Giêsu giảng dạy giáo huấn với uy quyền "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết..." (x. Mt 5,21). Người tự xưng mình ở trên Lề Luật, có quyền giải thích Lề Luật: "Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát" (Mc 2,28). Người tỏ ra mạnh hơn Lề Luật! Lề Luật chỉ có thể xác nhận và loại trừ, còn Đức Giêsu tẩy sạch và cho gia nhập vào cộng đoàn. Quyền bính Người thi thố là quyền năng giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, kể cả tội lôỵi (Mc 2,10). Thành ra chính là một quyền năng thần linh biểu lộ trong giáo huấn của Đức Giêsu.
Cách Đức Giêsu giảng dạy còn đặt ra vấn đề thân thế của Người nữa. Dân làng Na-da-rét đã nói lên điều này: họ kinh ngạc về nguổn gốc của Đức Giêsu. Họ xầm xì với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế?" Đức Giêsu không phải là một giáo sĩ; đúng hơn, Người có phong thái của một ngôn sứ tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, hoàn toàn thông hiệp với Thiên Chúa. Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa, như tên quỷ đã gọi, và nhận được từ Thiên Chúa nguổn lực tạo nên uy quyền: quyền mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa và giải phóng nhân loại (x. N.Guillemette, Chú giải Phúc Âm Chúa nhật Năm B).
Giáo huấn của Đức Giêsu còn được coi là mới mẻ vì tính hiệu quả đối với tà thần: Người nói một lời, quỷ phải tuân hành.
Như thế, một uy quyền, không chỉ là một giọng nói có uy, nhưng là điều đánh động tâm can, thu hút, thuyết phục, làm hoán cải. Đó là lời sự thật có khả năng chữa lành đổng thời xua đuỗi ác thần.
Nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng có thẩm quyền cũng đổng nghĩa với việc công nhận rằng điều Người loan báo có sức làm cho con người được lớn lên, không phải do việc tuân hành cách cứng ngắc theo một giáo huấn, nhưng là trong Thần Khí, Đấng giải thoát con người khỏi mọi tà thần. Chính vì muốn giải thoát con người khỏi những quan niệm cũ kỹ, khỏi thứ an toàn dễ dãi mà Đức Giêsu đã đến và nói với uy quyền.
Uy quyền là sứ mạng
Ôi Đức Giêsu, Các môn đệ của Ngài đã có lần phải bối rối: "Thầy còn để lòng trí chúng con phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu Thầy là Đấng Kitô, thì xin nói rõ cho chúng con biết" (x. Ga 10,24). Để trả lời, Ngài lại đặt một câu hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Người ta có cảm tưởng rằng Ngài được tác động do một ơn gọi bí mật -có thể cũng đáng sợ-. Ngài đặt câu hỏi với các bạn hữu như thể Ngài chờ đợi nơi họ một sự xác nhận: "Theo dư luận quần chúng, thì Thầy là ai?" Và ông Phê-rô đã trả lời: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,27-29).
Ngài vẫn ý thức mình là con bác thợ mộc, nhưng đổng thời cũng là một người khác, có năng lực lạ lùng.
Dường như Ngài vẫn luôn bị thúc đẩy bởi một sức mạnh thầm kín. Năng lực này, chính Ngài đã đảm nhận cách can đảm: "Ai tiếp đón Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (Mt 10,40). Chính nhờ năng lực này, Ngài đã chữa lành các bệnh nhân và làm cho người chết được chôỵi dậy. Chính năng lực này làm cho lời nói của Ngài có được uy quyền và lòng can đảm làm cho các thính giả đang nghe Ngài phải ngạc nhiên, có khi bất mãn nữa. Ngài đã chẳng qua một trường lớp nào, nhưng Ngài đã giải thích Sách Thánh trong các hội đường và dân chúng đã gọi Ngài là Thầy. Ngài đã giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, vượt hẳn các kinh sư, và họ đã chất vấn Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" (Mc 11,28).
Nhưng Ngài đã tránh không trả lời, bởi vì uy quyền của Ngài không có gì là chính thức, uy quyền ấy là một sứ mạng riêng tư luôn thôi thúc, ám ảnh Ngài. Phần Ngài, Ngài cảm nhận được tầm quan trọng của sứ mạng ấy. Ngài vốn là người hiền lành, hiền lành trong lòng, nhưng khi để nói đến sứ mạng ấy, cung giọng của Ngài trở thành long trọng: "Ở đây còn có người hơn cả Sa-lô-môn... Ở đây còn có người hơn cả Giô-na..." (theo Onimus)
52.Quyền năng và tình yêu--Lm. Minh Anh
“Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi”.
Kính thưa Anh Chị em,
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay được Marcô thuật lại một cách rùng rợn như cảnh trong phim kinh dị; Hollywood đã từng sản xuất các cảnh phim như thế. Vậy mà đó là cảnh của một hành động tình yêu vốn phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa; đồng thời, tiết lộ cho chúng ta ‘quyền năng và tình yêu’ của Chúa Giêsu qua hành động yêu thương của Ngài.
Đó là câu chuyện về một người đàn ông bị thần ô uế ám, một con quỷ. Vì xót thương, Chúa Giêsu đã trừ quỷ, giải phóng anh. Đây thực sự là một hành động của ‘quyền năng và tình yêu’. Sự kiện này cho thấy một sự thật hiển nhiên là, ma quỷ đang hoạt động trong thế giới của chúng ta; chúng có khả năng điều khiển, thao túng, hoặc ít nhất, cám dỗ chúng ta. Chúng là những thiên thần sa ngã đã quay lưng chống lại Thiên Chúa; và giờ đây, chúng căm thù loài người và đang tìm cách tiêu diệt loài người. Đây là một sự thật mà chúng ta phải nhận thức sâu sắc; dẫu vậy, không có lý do gì để chúng ta đánh mất hy vọng, nhượng bộ hoặc sợ hãi chúng. Bởi lẽ, ma quỷ, cuối cùng cũng phải khuất phục Thiên Chúa; chúng không thể làm gì chúng ta nếu Chúa không cho phép. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rằng, sức mạnh và ảnh hưởng của chúng không nhỏ; không ai được phép coi thường chúng. Cần hiểu rằng, ma quỷ có thể huỷ hoại và tàn phá cuộc sống chúng ta; chúng làm suy yếu đức tin hầu chúng ta mất niềm tin vào Chúa để rồi, chính chúng dần dần ảnh hưởng trên chúng ta, chiếm lấy linh hồn chúng ta và đẩy xa Thiên Chúa ra ngoài.
Với người lành thánh, ma quỷ có những chiến lược tinh quái hơn. Một trong những cám dỗ chúng áp dụng cho các ‘Kitô hữu trưởng thành’ là chúng khiến họ quen nhờn với các ân huệ Chúa ban, tựa hồ một phi hành gia bay vào vũ trụ, được nhìn thấy mọi sự. Bằng mọi cách, ma quỷ khiến chúng ta coi tất cả phúc lành của Chúa như là những gì hiển nhiên; chúng khiến chúng ta không còn nhận ra ‘quyền năng và tình yêu’ của Người một khi đã quá quen thuộc với những gì lãnh nhận được đến nỗi các ân phúc của Thiên Chúa không còn gợi lên nơi chúng ta một tâm tình biết ơn nào, cũng như không thúc giục chúng ta khát khao tìm kiếm chúng như đã từng khao khát và kiếm tìm. Emerson nói, “Nếu các ngôi sao chỉ xuất hiện mỗi năm một lần, mọi người sẽ thức cả đêm để được nhìn thấy chúng. Chúng ta đã nhìn thấy các vì sao thường xuyên đến nỗi không buồn nhìn chúng nữa; với các phúc lành của Chúa cũng vậy!”.
Trong cuốn sách của mình, “Những Hy Sinh Quá Lớn Cho Những Lý Do Quá Nhỏ”, Ronald Meredith mô tả một đêm yên tĩnh vào đầu mùa xuân khi có tiếng ngỗng trời bay trong đêm. Ông chạy vào nhà, phấn khích viết xuống những gì ông cảm thấy. “Tuyệt vời những con ngỗng trời hoang dã đang bay về phía mặt trăng, mất hút vào trăng! Tội nghiệp những chú vịt trời đã được thuần hoá của tôi đang bơi trong ao! Chúng nghe thấy tiếng gọi hoang dã của đồng loại trong đêm như những mũi tên nhức buốt bắn sâu vào tim. Đôi cánh chúng rung lên một cách yếu ớt; một động lực bay đang thôi thúc chúng, ‘Bay lên đi, bay lên đi!’. Tiếng thì thầm ấy đã vang lên trong bộ ngực lông vũ của chúng; thế nhưng, không bao giờ chúng cất lên khỏi mặt ao được. Vấn đề đã rõ từ lâu. Ruộng ngô và đồng cỏ quá hấp dẫn! Bây giờ, mong muốn bay của chúng chỉ làm chúng khó chịu. Sự cám dỗ chúng được hưởng với cái giá khá đắt là mất khả năng bay”.
Anh Chị em,
Như vậy, với chúng ta, cuộc chiến thiêng liêng là có thật; như những con ngỗng trời, việc chúng ta chiến đấu mỗi ngày chống lại cám dỗ của ‘những hạt ngô, những cọng cỏ’ là cần thiết; và nhất là, một chỉ luôn luôn hạ mình trước mặt Chúa, sống trong tâm tình cảm tạ mỗi ngày và tin cậy tuyệt đối vào Ngài. Khiêm tốn là chìa khóa cho cuộc chiến này; đó cũng là chìa khoá để vượt qua các cuộc tấn công và các cám dỗ của ác thần cách này cách khác. Hãy đặt niềm tin vào Chúa Giêsu; ‘quyền năng và tình yêu’ của Ngài sẽ không bao giờ để chúng ta thất vọng!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin giúp con tránh xa dịp tội, đừng để con đùa với lửa; trong cầu nguyện, xin ‘quyền năng và tình yêu’ Chúa củng cố con, để con khiêm nhường, luôn biết cảm tạ, cậy trông hầu có thể chiến thắng ác thần mỗi ngày”, Amen.
53.Sức Mạnh Lời Chúa--Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Mc minh chứng qua bản văn Tin Mừng này sức mạnh và uy quyền của Lời Chúa Giêsu. Người giảng dạy như một đấng có uy quyền và chỉ dùng lời nói thôi cũng đủ để xua trừ ma quỉ. Tin Mừng mời gọi hãy tin vào sức mạnh của Lời Chúa.
Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã dùng con người để thông truyền ý định của Ngài. Ngài dạy dỗ, hướng dẫn qua các Tổ phụ và Tiên tri. Vào kỷ nguyện Cứu Độ, Thiên Chúa đã nói với nhân loại qua Người Con Một yêu dấu là Chúa Giêsu. Người là Lời hằng sống từ Chúa Cha, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Lời của Người là Lời uy quyền có sức mạnh biến đổi con người và thế giới.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 1, 21-28
Mc minh chứng qua bản văn Tin Mừng này sức mạnh và uy quyền của Lời Chúa Giêsu. Người giảng dạy như một đấng có uy quyền và chỉ dùng lời nói thôi cũng đủ để xua trừ ma quỉ. Tin Mừng mời gọi hãy tin vào sức mạnh của Lời Chúa.
1. Người giảng dạy như Đấng có uy quyền: Khi nghe chính miệng Chúa Giêsu giảng dạy, dân chúng bỡ ngỡ nhận ra Người giảng dạy có uy quyền và hơn hẳn các luật sĩ là những người thông hiểu lề luật của Chúa, có nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn người ta hiểu và thực thi đúng lề luật của Chúa. Mc không nói rõ nội dung lời giáo huấn của Chúa nhưng chỉ nhấn mạnh đến uy quyền trong Lời giảng dạy của Chúa. Điều này cho phép chúng ta hiểu rằng Mc muốn nhấn mạnh đến sức mạnh của Lời Chúa, đến uy quyền của Chúa Giêsu trổi vượt trên tất cả mọi người trần gian và như thế, Người đến từ Thiên Chúa. Người biểu lộ uy quyền của mình qua lời giảng dạy. Qua đấy cho thấy đặc điểm nơi giáo huấn của Chúa Giêsu: Mới mẻ và uy quyền. Mới vì không đi theo cách giải thích kinh Thánh và lề luật theo cách thức của những Rabbi, những luật sĩ đương thời. Mới vì lời giảng dạy mang một tinh thần mới. Mới vì ngay chính uy quyền của lời giáo huấn. Uy quyền vì Người giảng dạy không dựa vào ai, không nô lệ mặt chữ, Người giải thích lề luật đứng trên lề luật và có quyền trên nó; uy quyền vì có sức thẩm thấu và lôi cuốn mọi người mạnh mẽ và uy quyền vì lời của Người khiến cả quỉ thần cũng phải vâng theo.
2. Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng nghe lời Người: Phần hai của trình thuật ghi lại sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ. Trình thuật này cũng đi theo một lược đồ như các phép lạ trừ quỉ khác: Giới thiệu trường hợp bị quỉ ám; quỉ nhận ra Chúa Giêsu đến trừ khử chúng; đối thoại giữa Chúa và quỉ; trục xuất bằng một mệnh lệnh; nạn nhân được cứu chữa; và cuối cùng mọi người kinh ngạc trước uy quyền của Chúa. Các cuộc trừ quỉ nói lên cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và Satan là chủ đề chiến vị trí khá lớn trong Tin Mừng theo Mc. Trong trình thuật này, Mc nhấn mạnh đến sức mạnh giáo huấn của Chúa Giêsu. Người chiến đấu với Ma quỉ không phải bằng pháp thuật như những nhà phù thuỷ, ma thuật hay các pháp sư … Người chiến đấu và chiến thắng Satan bằng chính uy quyền sức mạnh của một Vì Thiên Chúa. Do đó, Lời Người có một thế giá siêu việt khiến cho ma quỉ phải run sợ và vâng theo.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu là Đấng giảng dạy có uy quyền và lời Người có sức mạnh giải thoát con người khỏi sự kềm hãm của ma quỉ. Người khiến cho người ta kinh ngạc trước giáo huấn của Người. Người quả thật là tôn sư. Người giảng dạy thu hút mọi người không chỉ thuần tuý vì có khả năng hùng biện, lý luận sắc bén, nhưng trên hết chính bởi quyền năng của Thiên Chúa. Người đến nhân danh Chúa và chỉ nói những Lời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, phải yêu mến và tuyệt đối nghe Lời Người.
III. Gợi ý bài Giảng
1. Sức Mạnh Lời Chúa: Tin Mừng hôm nay cho thấy sức mạnh của Lời Chúa. Không chỉ là lời giảng dạy gây kinh ngạc cho dân chúng mà cụ thể sức mạnh Lời Chúa được biểu lộ qua việc Chúa cứu chữa người bị Thần ô uế ám. Người chỉ ra lệnh quỉ thần phải xuất khỏi nạn nhân. Người trừ quỉ để trả lại tự do cho người nạn nhân và đã làm cho họ được biến đổi nên tốt hơn. Cuộc đời của người bị quỉ ám đã thực sự biến đổi đã sang trang mới tốt đẹp hơn. Nhận ra được sức mạnh của Lời Chúa như thế, Kitô hữu càng cần phải vững lòng tin, yêu mến và thực thi Lời Chúa. Ngày nay nơi mỗi người cũng như trong toàn xã hội không hiếm những trường hợp bị Thần ô uế ám. Thần ô uế ở đây chính là những tệ nạn xã hội, chính là những lối sống thụ hưởng không lành mạnh, chính là tội lỗi đã và đang làm cho biết bao người đi vào con đường lầm lạc, mê muội và vong thân. Chỉ có Chúa mói biến đổi được lòng dạ họ, chỉ có sống Lời Chúa mới có thể làm trong sạch xã hội, làm biến đổi cuộc sống mỗi người, giải thoát con người tình trạng nô lệ cho ma quỉ, tội lỗi và sự chết.
2. Một lời mời gọi yêu mến lắng nghe, học hỏi và sống Lời Chúa: Tin mừng hôm nay cho thấy thế giá trổi vượt của Lời Chúa. Người ta kinh ngạc về giáo huấn của Chúa Giêsu, bởi vì Người giảng dạy như Đấng có uy quyền và Lời của Người có sức mạnh xua trừ ma quỉ. Ngày xưa người ta kinh ngạc trứơc lời giảng dạy của Chúa. Còn ngày nay thì sao? Xem ra Kitô hữu thời nay không cảm nhận được thế giá, sức mạnh của Lời Chúa. Nhiều người thờ ơ với Lời Chúa, thận chí mang danh Kitô hữu nhưng chưa bao giờ lần giở đọc lấy một trang Tin Mừng. Vì chưa đọc, chưa tiếp cận với lời Chúa nên trong cuộc sống khó mà thực thi được giáo lý của Chúa, vì vậy, không có được sự biến đổi cuộc sống nên tốt hơn. Tin Mừng hôm nay là lời mời gọi yêu mến lắng nghe, học hỏi và thực thi Lời Chúa. Để có thể nhận ra sức mạnh của Lời Chúa có khả năng biến đổi cuộc đời; để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, trước hết phải tiếp cận với lời Chúa, đồng thời phải tạo cho tâm hồn có những tâm tình khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng là những tâm tình rất cần thiết cho việc đón nhận Lời Chúa. Sau đó, phải nỗ lực chủ động tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa.
IV. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho chúng ta. Lời Người là sức sống, là đèn soi đường chúng ta đi. Trong niềm tin tưởng chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Sứ điệp Lời Chúa đã được Chúa Giêsu trao phó cho Hội Thánh để được loan báo cho muôn dân. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn biết yêu mến và sống Lời Chúa để tất cả biết nỗ lực dấn thân canh tân cuộc sống góp phần tích cực làm lạnh mạnh xã hội và xây dựng một thế giới hòa bình, công lý và hạnh phúc.
2. Ngày nay nhiều người, nhiều nơi vẫn đang chìm trong bóng tối của tội lỗi, của biết bao nhiêu tệ nạn xã hội. Chúng ta cùng cầu xin cho ánh sáng lời Chúa chiếu soi vào tâm hồn và những nơi tối tăm ấy, để mọi người tìm được hướng đi đúng cho cuộc đời.
3. Người giảng dạy như Đấng có uy quyền. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta nhận ra sức mạnh của Lời Chúa, để ai nấy đều yêu mến học hỏi và sống Lời Chúa, nhờ đó mỗi người được biến đổi nên thánh đức và nên chứng nhân Tin Mừng của Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô. Chúng con cảm tạ Chúa đã đến soi sáng, hướng dẫn và biến đổi chúng con nên con cái của Chúa Cha. Xin ban Thánh Thần Chúa đến hướng dẫn cho chúng con hiểu biết và say mê học sống Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
54.Người đi đến đâu thì thi ân giáng phúc đến đấy--Phêrô Mai Viết Độ, OP
Thiên Chúa đầy lòng yêu thương đối với hết mọi loài Chúa đã dựng nên: “Khi Chúa rộng mở tay ban là muôn sinh vật muôn vàn thoả thuê.” (Tv 145,16). Xuyên suốt hành trình rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đi đến đâu Chúa cũng giảng dạy và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Đó là bằng chứng nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.
Hôm nay, Tin Mừng Thánh Máccô đã thuật lại biến cố Chúa Giêsu đến thành Ca-phác-na-um, tại đây, Người đã khiến cho dân chúng phải ngạc nhiên về lời giảng dạy và hành động trừ quỉ của mình. Họ ngạc nhiên vì thấy Chúa chỉ là người dân bình thương, không có địa vị, không phải là tư tế, luật sĩ, kinh sư… vậy mà Người giảng dạy “như một Đấng có uy quyền”. Có lẽ dân chúng ngạc nhiên bởi từ trước tới nay người ta vẫn quen nghe những kinh sư, biệt phái đứng trên toà cao để giảng dạy. Họ bảo người khác làm, nhưng chính mình lại không buồn làm. Còn Đức Giêsu, lời giảng của Người đi đôi với hành động. Sở dĩ dân chúng chăm chú lắng nghe lời rao giảng của Người là vì họ đã được chứng kiến tận mắt các phép lạ Chúa đã làm.
Thật vậy, Chúa Kitô là Thiên Chúa, Ngài xuống trần gian không phải để biểu dương quyền lực, mà để đem bình an và ơn cứu độ cho con người. Sứ vụ này đã được tiên tri Isaia loan báo thuở xưa rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” Suốt hành trình rao giảng của Người ở trần gian là để hoàn trọn sứ vụ đó.
Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc bằng nhiều cách thức khác nhau, Người làm những việc lạ lùng sức con người không thể tưởng tượng nổi: người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què đi được… Không những thế, Chúa con ban Nước Trời cho người tội lỗi, nghèo hèn, bệnh tật… Chúa muốn tất cả mọi người đều có một cuộc sống yên vui hạnh phúc và bình an: “Thầy đến để anh em được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mặc dù Chúa đã về trời, nhưng Ngài vẫn đồng hành và ban phát những ơn lành cho chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể cảm nghiệm được điều đó. Chúa ban cho tất cả chúng ta có sức khoẻ, công việc làm ăn… Chúa cũng gìn giữ và ban cho chúng ta cuộc sống bình an để chúng ta được sống vui, sống hạnh phúc giữa cuộc đời đầy gian nan và thử thách này. Tóm lại, trong những giây phút của cuộc đời, chúng ta đã lãnh nhận biết bao ân phúc của Thiên Chúa. Từ của cải vật chất để nuôi sống thân xác, đến những của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã nói "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa đã hứa và đã thực hiện lời hứa đó; Chúa còn thực hiện một cách kì diệu biết bao: vì Chúa ở lại với chúng con không những bằng biết bao ân sủng Chúa đổ tràn trên chúng con, mà Chúa còn ở với chúng con qua bí tích Thánh Thể và trở nên của ăn nuôi dưỡng tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa, nhưng luôn trung thành tuân giữ điều răn của Chúa và sống mãi trong tình yêu Chúa. Amen.
55.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Trọng Hương
1. Đoạn Tin Mừng này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến c 34, được gọi là "Một ngày ở Caphácnaum", trong đó Marcô liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ quỷ. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền.
2. "Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư": Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Đức Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc quỷ xuất khỏi một người bị nó ám.
4. Phản ứng của dân chúng: "Mọi người sửng sốt và hỏi nhau thế nghĩa là gì": Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi "Ông là ai?", là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.
1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên ta phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
2. Nhưng tin tưởng không phải chỉ là tin suông mà còn phải dám phó thác vào Ngài, đừng như câu chuyện sau:
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: "Lạy Chúa". Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: "Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: "Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." "Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất." Tiếng ấy trả lời: "Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất vọng thốt lên: "Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!" (Trích "Món quà giáng sinh")
3. Một bé trai hỏi bố: - Quỉ lớn hơn con không? - Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không? - Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không? - Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười: "Vậy con không sợ quỉ." (Góp nhặt)
56.Ma quỷ thời đại mới--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 1:21-28 - Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa...
Qua bài Tin Mừng, thánh Marcô cho chúng ta thấy: "Một người bị quỉ ô uế đã nhận ra danh tánh của Đức Giêsu và kêu lên, Hỡi ông Giêsu Nagiaret, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa."
Đức Giêsu đã quát bảo nó, "Hãy im đi và ra khỏi người này." Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi ra khỏi người ấy.
Ngày nay có lẽ nhiều người không còn nghĩ đến ảnh hưởng của thần ô uế bởi vì chúng ta có khuynh hướng cắt nghĩa theo khoa học tâm lý. Con người ngày nay thường dùng khoa trị liệu tâm lý để giải đoán hầu hết những hiện tượng không tự nhiên hay bất bình thường.
Vậy, có phải việc tin là có sự quấy phá của quỉ thần đã trở nên quá cổ xưa hay không?
Cuốn phim "The Exocist" thực hiện hồi thập niên 1970 đã dựa trên một chuyện có thật về một cậu bé 14 tuổi sống ở Mt. Rainier, Maryland năm 1949.
Tuần báo Neweek đã diễn tả như sau: "những khung hình, ghế và giường của cậu bé tự nhiên di động. Ban đêm thì cậu không thể ngủ được. Sau khi được đưa vào bệnh viện của đại học Georgetown... cậu bé bắt đầu phun ra những lời chửi thề bằng những ngôn ngữ cổ xưa. Có một lần trong khi cậu đang bị trói cột chặt trên giường thì tự nhiên có những lằn rạch đỏ hiện lên trên thân mình của cậu."
Cậu đã được giải thoát nhờ nghi thức trừ quỷ và cậu đang sống ở Wahsington D.C. Vị linh mục già tham dự vào việc trừ quỷ cho cậu đã thề hứa không nói về vấn đề này. Ngài chỉ nói rằng kinh nghiệm đó đã có ảnh hưởng mạnh và thật sự thay đổi cuộc sống của ngài.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh quang và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn, có khi nó xuất hiện như những người hiền lành thánh thiện. Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta ? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta, Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ. Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mưu chước của những bọn quỷ thời đại hôm nay. Amen.
57.Vương quốc Thiên Chúa--Lm. Mark Link, SJ
Một số nhà sư ở Thái lan đang di chuyển một bức tượng Phật lớn bằng đất sét sang một ngôi chùa mới. Chính phủ đã tịch thu ngôi chùa cũ và sẽ phá huỷ để chuẩn bị làm xa lộ mới.
Bỗng dưng, chiếc xe chở bức tượng này bị xụp ổ gà. Chấn động đó làm nứt một đường thật lớn ngay giữa bức tượng. Các nhà sư la lên một cách hoảng hốt và họ rất đau lòng.
Và rồi một điều bất ngờ đã xảy ra. Các nhà sư nhìn thấy có ánh sáng lấp lánh bên trong đường nứt ấy. Họ dò xét và thật bàng hoàng khi thấy rằng lớp đất nung ấy chỉ dày độ hai phân. Bên dưới lớp đất sét là một bức tượng bằng vàng ròng.
Hiển nhiên vàng đã được bọc bằng lớp đất sét trong bao thế kỷ trước đây để quân xâm lăng khỏi lấy mất. Hiển nhiên, nhiều nhà sư đã chết vì cuộc xâm lăng này. Tuy nhiên, bức tượng vàng ròng này – trị giá $200 triệu – vẫn được che giấu bên dưới lớp đất sét trong bao nhiêu thế kỷ.
Trong suốt thời gian này, hàng ngàn nhà sư đã tụng kinh trước bức tượng. Nhưng không một ai dám mơ tưởng rằng bên dưới lớp đất sét ấy là một kho tàng vĩ đại.
Chỉ khi một chấn động tình cờ xảy ra làm nứt lớp đất sét thì người ta mới thấy được điều gì đó còn hơn cả bức tượng đất sét. Nó bao bọc một kho tàng vô giá.
Điều đó đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Nó rất giống như bức tượng bọc bằng đất sét. Mới thoạt nhìn, dường như nó chỉ là câu chuyện của một người bị thần dữ ám và ông ta vào hội đường khi Chúa Giêsu đang giảng dạy.
Khi thần dữ bắt đầu la hét, Đức Giêsu ra lệnh nó phải im đi và xuất khỏi người đàn ông này. Trước sự bàng hoàng của tất cả mọi người, thần dữ đã tuân lệnh Đức Giêsu. Khi dân chúng chứng kiến điều ấy, họ hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”
Thần dữ vâng phục Đức Giêsu cũng giống như chấn động đã làm nứt bức tượng đất sét. Bỗng dưng, dân chúng trông thấy ở Đức Giêsu một điều gì đó còn hơn cả mắt thấy, cũng như điều gì đó ở bức tượng còn hơn cả vẻ bên ngoài.
Quyền năng của Đức Giêsu trên thần dữ cho thấy rằng bên trong Người là một kho tàng, cũng giống như bức tượng đất sét bao bọc bên trong một kho tàng.
Chúng ta có thể so sánh nhân tính của Đức Giêsu giống như lớp đất sét bao bọc bức tượng – nó che giấu căn tính đích thật của Đức Giêsu. Và vì vậy khi Đức Giêsu cho thấy quyền năng trên các thần dữ, dân chúng hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”
Chính Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy trong một dịp khác. Nó xảy ra như sau: Một ngày kia Người lại xua đuổi thần dữ. Một số người kết luận rằng Đức Giêsu làm như vậy là nhờ Satan ban cho quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói:
“Không phải vậy, đúng ra là nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà tôi trừ quỷ, và điều này chứng tỏ rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã đến với các ông.” Luca 11:20
Qua câu trả lời này, Đức Giêsu cho biết người là ai và đến thế gian để làm gì. Người là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, và các ngôn sứ đã tiên đoán Đấng Mêsia sẽ thi hành những điều như vậy. Nhưng Đức Giêsu thì còn hơn thế nữa – hơn rất nhiều!
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người đến để tiêu diệt vương quốc của Satan mà nó đã cầm giữ thế gian trong sự nô lệ bởi vì tội của ADong.
Nhưng điều này nêu lên một câu hỏi khác, một câu hỏi lớn hơn nữa: Nếu Đức Giêsu đã đến để tiêu diệt vương quốc Satan và khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn sự dữ trong thế gian?
Quả thật, Đức Giêsu đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần xuống trên các môn đệ, uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.
Hội Thánh có thể được so với “hạt giống,” mà sau cùng nó sẽ triển nở thành Vương Quốc Thiên Chúa trong sự trọn vẹn của nó.
Nhiệm vụ của Hội Thánh – dưới quyền thủ lãnh của Đức Kitô và sự dẫn dắt cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần – là công bố và cầu xin cho Vương Quốc được ngự đến trong sự trọn vẹn cho mọi dân tộc. Đây là sự giảng dạy sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ. Người nói:
“Hãy ra đi, hãy đến với mọi dân tộc ở mọi nơi và hãy làm cho họ trở thành môn đệ của Thầy: hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Và Thầy sẽ luôn ở với các con cho đến tận thế.” (Mt 29:19)
Là các phần tử của Hội Thánh, Thân Thể Chúa Kitô, tất cả chúng ta cùng chia sẻ trách nhiệm loan truyền tin mừng về Vương Quốc Thiên Chúa cho toàn thế giới.
Chúng ta phải loan truyền vương quốc ấy khi cùng nhau cầu nguyện trong các Chúa Nhật và cùng nhau sống chứng nhân trong những ngày còn lại. Cả hai chiều kích này phải được thấy nếu muốn sự loan truyền của chúng ta có hiệu quả.
Trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, đọc kinh Lạy Cha, “Xin cho Nước Cha trị đến” thì chưa đủ. Chúng ta còn phải sống lời loan truyền. Một câu chuyện nổi tiếng minh hoạ điểm này: Một ngày kia, một người Bàlamôn nói với nhà truyền giáo Kitô, “Nếu các tín hữu Kitô ở Ấn Độ, ở Anh, hay ở Hoa Kỳ giống như Kinh Thánh kia, quý vị sẽ chinh phục được nước Ấn trong vòng năm năm.”
Điều này đưa chúng ta đến câu trả lời cho câu hỏi, nếu Đức Giêsu đã thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn nhiều sự dữ trong thế gian?
Đó là vì chúng ta không loan truyền sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta như chúng ta phải thi hành. Chúng ta không tiến hành nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta.
Vậy, tóm lại, Đức Giêsu quả thật đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần đến với các môn đệ, để uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.
Nhiệm vụ của Hội Thánh là loan truyền bằng sự thờ phượng cũng như trở nên gương mẫu hàng ngày cho sự hiện diện của Vương Quốc giữa chúng ta.
Đây là lời mời gọi mà mỗi người chúng ta được mời. Đây là thách đố hôm nay mà Phúc Âm đặt ra trước mỗi người chúng ta.
58.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Gioan Trần Khả
Sống trong một xã hội duy tự do dân chủ như ở Hoa Kỳ, không ít thì nhiều chúng ta cũng học suy nghĩ theo văn hóa của xã hội này. Tự do dân chủ là điều tốt nhưng không tuyệt đối tốt. Vì tự do dân chủ quá cho nên xã hội chúng ta đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Nhiều người và nhiều gia đình đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Cha mẹ không bảo được con cái. Con cái không nghe lời cha mẹ. Ngoài xã hội người dân không chấp nhận luật pháp. Ai là người có quyền bính? Một thí dụ trong trường hợp của Cậu bé Elien 6 tuổi người Cuba. Cậu cùng với mẹ đi vượt biển qua Hoa Kỳ, nhưng không may mẹ cậu bị chết. Cậu đã được cảnh sát duyên hải Hoa Kỳ cứu sống sau nhiều giờ lênh đênh trên biển. Vấn đề đã gây nên cuộc tranh luận sôi nổi giữa chính phủ Cuba, chính phủ Hoa Kỳ, giữa gia đình của cậu ở Cuba, và thân nhân của cậu ở Miami. Ai là người có quyền để quyết định về tương lai của cậu bé Elien? Sở Di Trú hay Hạ Nghị Viện? Tòa án hay thân nhân trong gia đình? Trong Giáo Hội cũng có khủng hoảng về quyền bính. Nhiều người không đồng ý tuân theo giáo huấn của Giáo Hội về những vấn đề như ngừa thai, điều hòa sinh sản, phá thai, ly dị và tái hôn... Ai là người có quyền giáo huấn?
Các bài đọc hôm nay cũng đề cập đến quyền bính. Đó là quyền bính tối cao của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh sử Macô ghi lại, "Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chớ không như các luật sỹ."
Bài đọc thứ nhất Mai-sen nói với dân chúng là Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tiên tri mới giống như ông. Mai-sen là người đã đươc gặp Thiên Chúa nơi bụi gai. Ông đã đối thoại với Thiên Chúa. Ông đã nhận lệnh của Thiên Chúa. Ông đã luôn bàn hỏi tham khảo với Thiên Chúa, và ông cũng đã lên núi cao để yết kiến Thiên Chúa. Ngài đã trao cho ông hòm bia với mười giới răn để truyền dạy dân chúng. Thiên Chúa đã chọn Maisen. Và Maisen đã trung tín làm tròn sứ vụ Thiên Chúa trao phó cho ông. Ông đã nói lại cho dân chúng tất cả những gì Thiên Chúa truyền dạy ông. Chính vì có sự liên lạc mật thiết và trung tín với Thiên Chúa như thế cho nên lời nói của Maisen có uy tín mạnh mẽ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta nghe và thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu không những chỉ là người gặp Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa. Ngài biết Thiên Chúa và là một với Thiên Chúa. Uy quyền của Đức Kitô là uy quyền của Đấng Thiên Sai. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường ở Ca-pha-na-um, người ta đã rất đỗi ngạc nhiên.
Những người nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến những việc Ngài làm đã nhận ra được chân dung của Ngài. Lời giảng dạy của Ngài không phải chỉ có chủ đích truyền đạt một mớ kiến thức lý thuyết. Nhưng Ngài còn giảng dạy với một tinh thần thâm tín yêu thương, hết lòng lo cho hạnh phúc của những người nghe Ngài. Do đó Ngài đã thuyết phục được lòng trí của những người nghe và đưa họ về với Thiên Chúa. Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa và Ngài giảng dạy tôn ý của Thiên Chúa Cha. Việc làm, lời giảng dạy và sự hiện diện của Ngài không những đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng và thán phục, mà còn làm cho cả ma quỷ cũng phải khiếp sợ.
Ngày nay nhiều người trong chúng ta từ những vị linh mục hay tu sỹ đến những thầy cô dạy giáo lý và những người làm cha mẹ, chúng ta có trách nhiệm giảng dạy và nói về Thiên Chúa, nhưng được mấy người đã thực sự cảm nghiệm được trách nhiệm trọng đại này? Được mấy người có uy tín trong những lời giảng dạy của mình? Để cho lời giảng dạy của chúng ta có uy tín, nguyên việc lãnh chức, khấn dòng, nghi thức sai đi hay giấy chứng hôn thú không đủ cho chúng ta uy tín. Đó mới chỉ là dấu chỉ chúng ta được tuyển chọn. Mỗi người chúng ta còn cần phải thường xuyên gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa như Maisen và như Đức Giêsu đã làm. Chúng ta cũng cần ý thức trách nhiệm giảng dạy những gì Thiên Chúa truyền chứ không phải giảng dạy những gì chúng ta muốn. Muốn được như thế, chúng ta cần phải dành thời giờ để đi gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa để lãnh nhận lời truyền dạy của Ngài. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm để nhận định và phân biệt sự khác nhau giữa một bài thuyết trình theo kiến thức của sách vở và một bài thuyết trình theo sự hiểu biết và thâm tín của kinh nghiệm sống.
Có câu truyện kể rằng trong một buổi họp để thi tuyển tài nghệ diễn xuất. Một anh thanh niên học về ngành kịch ảnh sân khấu đã bước ra và dõng dạc đọc thuộc lòng thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Anh đã đọc với cung giọng trầm bổng dẽ dàng và rõ ràng với tài nghệ của một kịch sỹ để diễn tả ý nghĩa của thánh vịnh đó. Anh đã đọc thật hay và được khán thính giả yêu cầu đọc đi đọc lại ba lần với những tràng pháo tay tán thưởng vang dội.
Người thứ hai là một ông cụ già lưng hơi gù gù. Khi ông bước lên sân khấu thì mọi người im lặng. Giọng ông nhỏ nhẹ và phải chú ý mới có thể nghe được. Ông chậm rãi xướng lên thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Ông đọc với một tâm tình có sức cảm kích khác biệt. Khi ông đọc xong, thì cả cử tọa trong phòng im lặng. Mọi người đều cúi đầu và như âm thầm cầu nguyện. Vài phút sau, người thanh niên thứ nhất bước lên sân khấu nhận định, "Thưa quý vị. Như quý vị cảm nhận. Rõ ràng là tôi biết và thuộc thánh vịnh 23, nhưng còn ông cụ đây mới thực sự là người biết Đấng Chăn Chiên." (Jack Mc Ardle, 150 Stories for Preachers and Teachers # 5).
Điểm thứ hai chúng ta nhận thấy là sự hiện diện của thần ô uế. Bắt đầu công việc rao giảng là Đức Giêsu đã đối diện với thần ô uế như lời thánh Macô tường thuật. "Một người bị quỉ ô uế ám đã nhận ra danh tánh của Đức Giêsu và kêu lên, "Hỡi ông Giêsu Nagiaret, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Đức Giêsu đã quát bảo nó, "Hãy im đi và ra khỏi người này." Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi ra khỏi người ấy.
Ngày nay có lẽ nhiều người không còn nghĩ đến ảnh hưởng của thần ô uế bởi vì chúng ta có khuynh hướng cắt nghĩa theo khoa học tâm lý. Con người ngày nay thường dùng khoa trị liệu tâm lý để giải đoán hầu hết những hiện tượng không tự nhiên hay bất bình thường. Có phải việc tin là có sự quấy phá của thần ô uế đã trở nên quá cổ xưa hay không? Cuốn phim "The Exocist" thực hiện hồi thập niên 1970s đã dựa trên một chuyện có thật về một cậu bé 14 tuổi sống ở Mt. Rainier, Maryland năm 1949. Tuần báo Neweek đã diễn tả như sau: "những khung hình, ghế và giường của cậu bé tự nhiên di động. Ban đêm thì cậu không thể ngủ được. Sau khi được đưa vào bệnh viện của đại học Georgetown... cậu bé bắt đầu phun ra những lời chửi thề bằng những ngôn ngữ cổ xưa. Có một lần trong khi cậu đang bị trói cột chặt trên giường thì tự nhiên có những lằn rạch đỏ hiện lên trên thân mình của cậu." Cậu đã được giải thoát nhờ nghi thức trừ quỷ và cậu đang sống ở Wahsington D. C.. Vị linh mục già tham dự vào việc trừ quỷ cho cậu đã thề hứa không nói về vấn đề này. Ngài chỉ nói rằng kinh nghiệm đó đã có ảnh hưởng mạnh và thật sự thay đổi cuộc sống của ngài tốt hơn (Mark Link, Sunday Homilies).
Chúng ta phải tin rằng ma quỷ vẫn hiện diện và lộng hành quấy phá. Nó lộng hành quấy phá nơi đời sống mỗi cá nhân, trong gia đình, ngoài cộng đoàn hay trong xã hội... Chúng quấy phá dưới nhiều hình thức. Chúng làm cho chúng ta, cho gia đình chúng ta và cho cộng đoàn giáo xứ ra ô uế. Chúng thổi sự ô uế của kiêu căng, tự phụ, ghen ghét, hằn thù, nói hành, chia rẽ, bè phái, tà dâm, hãm hiếp, trộm cắp, giết người, gian tham, lười biếng, hà tiện, nghiện ngập cờ bạc, rượu chè, xì ke ma túy, ly dị, chiến tranh, và muôn vàn hình thức ô uế khác. Muốn loại trừ thần ô uế ra khỏi cuộc sống, chúng ta phải đến gần Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa Giêsu mới có uy quyền xua đuổi thần ô uế ra khỏi chúng ta.
59.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Jacques Hervieux
Một giáo huấn có uy quyền (1,21-28)
Trong đoạn văn trên đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta một trình thuật cô đọng và rất có ý nghĩa về sinh hoạt mang tính “Mêsia” của Chúa Giêsu: lời Ngài giảng dạy nối liền với một cuộc trừ quỷ. Lời mở đầu bản trình thuật thật là rõ ràng (c.21). Sự kiện xảy ra ở Caphanaum. Thị trấn này nằm dọc theo bờ hồ Galilê. Chúa Giêsu dùng nơi này như trung tâm của việc rao giảng và là chốn qua lại trong công cuộc truyền giáo (9,33), cũng như những người Do Thái đạo đức thời ấy, Chúa Giêsu năng lui tới “hội đường”. Nơi đó người ta tụ họp để cầu nguyện và nghe lời Thiên Chúa. “Ngày Sa bát”, ngày thứ bảy trong tuần, là ngày nghỉ được thánh hiến cho Thiên Chúa (St 2,2-3). Ta biết việc phụng tự ở hội đường diễn ra thế nào trong ngày đó (Cv 13,14-15). Sau khi đọc một đoạn luật Môsê và sách tiên tri, người ta mời một người lớn tuổi cho lời dẫn giải về những đoạn Kinh Thánh vừa đọc. Nhân dịp này, Chúa Giêsu lên tiếng giảng dạy (x. Lc 4,16-22). Các ký lục ngồi ở hàng đầu.
Bốn lần (c. 21b-22 và 27) Maccô nhấn mạnh về “giáo huấn” của Chúa Giêsu. Hiếm khi thấy trong cuốn Tin Mừng này ông cho ta biết nội dung của “giáo huấn” ấy. Nhưng ông lại nhấn mạnh tới tính độc đáo của giáo huấn. Sự hiểu biết của Thầy vượt xa hẳn các ký lục (c.22). Là thủ lãnh bè biệt phái, các ký lục là những nhà thông thái. được các kinh sư nổi tiếng đào tạo về Thánh Kinh, họ là những người diễn giải Sách Thánh có thẩm quyền, nhưng giáo huấn của họ lại dựa trên những truyền thống của các bậc thầy họ. Còn Chúa Giêsu, Ngài không giảng dạy như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa. Ở đây từ Hy Lạp “uy quyền” có nghĩa rất mạnh. Từ này được lấy ở một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa ban cho Đấng Mêsia của Ngài một “Quyền lực” tối thượng (Đn 7,13-14).
Chúa Giêsu đã cho thấy sự trổi vượt của Ngài trên các bậc kinh sư Do Thái (c. 23-24). Để hiểu được tính khác thường của đoạn văn này, ta cần biết rằng vào thời Thượng cổ tất cả những sự dữ mà con người phải chịu đều được quy trách cho ảnh hưởng độc hại của thần dữ. Diễn tiến của câu truyện như ta thấy cũng đã được dùng trong các trình thuật về phép lạ nơi người Do Thái và người dân ngoại thời Chúa Giêsu. Đó là một “nghi thức trừ tà”. Lược đồ tổng quát giống hệt nhau. Người trừ tà bắt tay vào cuộc chiến với thần dữ. Một trong hai bên sẽ xướng tên của đối thủ. Trong thế giới Sêmit, biết tên của ai là có ưu thế hơn người ấy. Ở đây, thần dữ biết rõ căn cước của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là Đấng Mêsia. Nhưng thần dữ xưng ra điều này với dáng vẻ sợ hãi. Nó cảm nhận được Chúa Giêsu đến tiêu diệt nó và đồng bọn. Đúng vậy: Đấng Mêsia lâm trận lần cuối cùng dẹp tan sức mạnh của sự dữ (x. 3,22-30). Chính vì thế Chúa Giêsu tỏ ra mạnh thế. Ngài xua đuổi thần dữ bằng một lời uy quyền (c. 25-26). Giống như các câu truyện của thời bấy giờ, việc xua đuổi “quỷ” được Maccô thuật lại với những hiện tượng mắt thấy tai nghe: nạn nhân vặn vẹo thân mình và kêu một tiếng lớn. Không có gì đáng sợ cả. Nhưng điều đáng lưu ý chính là những mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền cho thần dữ: “Câm đi!”. Lệnh truyền thật quyết liệt. Lệnh này có ý nhắm tới lời bộc lộ của thần dữ: “Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (c. 24b).
Tại sao Chúa Giêsu lại cấm nói về căn cước của Ngài cách nghiêm ngặt như thế? Đó là phát biểu đầu tiên mà người ta gọi là “bí mật về Đấng Mêsia” trong Tin Mừng Maccô. Chúng ta sẽ thấy, trong suốt cuốn Tin Mừng này, Chúa Giêsu kién quyết bắt ma quỷ phải giữ kín căn cước của Ngài (1,34b; 3,12v.v…) cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và các môn đệ tuyên xưng, dù chỉ phần nào, tính “Mêsia” của Ngài (1,43-44a; 7,36a; 8,31 v.v…). Dường như Maccô đã hình thành nên một thái độ thường xuyên của Chúa Giêsu đối với những quan niệm dân gian ở thời Ngài. Trong niềm khát mong Đấng Mêsia, người Do Thái chờ đợi một nhân vật mang ít nhiều tính thần thoại. Người ta tin rằng, với một chiếc đũa thần Đấng Mêsia sẽ thay đổi kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngài sẽ biến hoang địa thành một kho chứa đầy cơm bánh (Mt 4,3). Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi bệnh tật (Mt 4,24). Một số người còn ngĩ rằng, chẳng biết Ngài đến từ đâu, nhưng Ngài sẽ không chết (Ga 12,34). Đối với Chúa Giêsu, để cho người ta công bố quá sớm Ngài là Đấng “Kitô” là “Con Thiên Chúa” là khuyến khích sự tin tưởng sai lầm của người dân về Đấng Mêsia và gây tổn hại lớn cho việc biểu lộ tiệm tiến sứ vụ và thân thế đích thực của Ngài. Theo Maccô, thực ra chỉ có cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu mới mạc khải được dung mạo đích thực của Đấng Mêsia mà người ta phải tin tưởng. Trước khi những biến cố mặc khải trọn vẹn này xảy ra, ta nên theo lệnh Thầy là giữ im lặng.
Giống như lúc khởi đầu, trình thuật này kết thúc bằng việc cố ý nhấn mạnh tới sự mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến: một lời cứu độ hoàn toàn hiệu nghiệm như Lời của Thiên Chúa. Ta hiểu được sự kinh ngạc và nỗi thắc mắc bao trùm trên đám đông dân chúng (c. 17a). Chúa Giêsu vừa làm xong một điều chưa từng thấy. Ngay trong ngày Sabbat, ngày nghỉ ngơi bất khả xâm phạm, Chúa Giêsu biểu dương uy quyền tuyệt đối trên sức mạnh của thần dữ. Bởi đâu Ngài có uy quyền thế này? Người ta thắc mắc hỏi nhau như thế. Và thắc mắc này còn gặp thấy qua suốt cuốn Tin Mừng: “Ông Giêsu Nadaret” này là ai vậy? Sau cùng, Maccô chỉ còn việc cho ta thấy rõ danh tiếng Chúa Giêsu lan rộng khắp xứ Galilê sau vụ chữa lành này (c.28).
60.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Noel Quesson
“THẾ NGHĨA LÀ GÌ? NGƯỜI CÓ UY QUYỀN BIẾT MẤY?”
Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.
5152 cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.
Chúa Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!...lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo” (Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều họ đã nghe, đã học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật sĩ” là như thế.
Lời Ngài đi thẳng vào tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân Do Thái và mọi nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy về chính mình. Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về mình là điều vững chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ thuyết phục người nghe hơn cả.
Là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa sống trong ta, ta mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ những người anh em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là những anh em thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương Chúa, chúng ta dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện, chia sẻ lời Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng và tân tòng của mình…
Qua Thánh Kinh, Chúa vẫn nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục vụ mọi người theo gương Chúa. Amen.
61.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Noel Quesson
Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.
Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người "đi vào" một thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm "Đức Giêsu và các môn đệ của Người".
Sau này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến "Thân Thể Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Giêsu cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính "Người và các môn đệ" sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um chính là biểu tượng cho xứ "Galilê của dân ngoại", miền đất sẽ trở nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông dân... Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu, người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một “Ca-phác-na-um"!
Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường giảng dạy.
Sau khi quay chung cả "nhóm", giờ đây Giêsu giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên là Giêsu.
Maccô sắp diễn tả cho ta một "Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn "hành động" đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức Giêsu không?
Một hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu "trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát". Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp xúc.
Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Chỉ trong cùng một câu nói mà Giêsu đã ba lần sử dụng từ "didakê", "giảng dạy". Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay "lời dạy" phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó qua bốn câu: "Thời kỳ đã mãn... Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi... Anh em phải sám hối... Anh em hãy tin vào Tin Mừng". Điều làm cho Giêsu quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự... Đức Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa... Người ta "kinh ngạc" vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó "đúng thực" tận thâm sâu con người!
Một cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa... và Ngôi Lời đã làm người". Còn Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết liệt... Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?
Những "kinh sư " theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền" của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó nói với vẻ xác tín: "anh ta tin như thế?", rồi anh ta sống thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói "ba láp", nói "ba hoa chích chòe"... nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế không? Tôi là một "kinh sư" hay là một "chứng nhân? Tôi có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên "của tôi", được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt tôi" không?
Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên...
Chúng ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Giêsu không ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là "tiếng la hét" vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng nó": bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi "lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng" quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân ước đã 23 lần bàn tới "thần ô uế" mà sách bài đọc dịch là "thần xấu', bởi vì thực ra, từ "ô uế" ở đây không có nghĩa "tình dục" như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự "thánh thiện". Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ "thần ô uế ". "Thần xấu”, chính là "đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa": chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó "quấy phá" con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người "bị quấy phá" trên đây, đó là chính biểu tượng của con người "bị tha hóa". "Bị chiếm đoạt", vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước việc "trừ quỷ" của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó "hiểu biết sâu xa" cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim “Người trừ quỷ", khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản "tóm lược" trọn vẹn mọi hoạt động của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang tha hóa họ... Thế giới thay đổi chủ... Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này ông Giêsu Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: "ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Thực sự cần phải khám phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường "Giêsu, người Na-da -rét", đến tước hiệu kỳ diệu: "Đấng Thánh của Thiên Chúa". Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa "Thần ác" và "Thiên Chúa" được: thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là "tiếng la hét của quỷ". Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác nào?
Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này".
Từ Hi Lạp được dùng ở đây, có nghĩa gì "bịt miệng", “đe dọa”, “quát mắng". Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.
Chúng ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về "nhân cách" của Đức Giêsu... thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Gíêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa", là."Con Thiên Chúa", có thể chỉ là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một "con người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu trên một cách hợp thức (Mc 15,39).
Mọi người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo".
Đó là những Lời", một giáo huấn, một sứ điệp... một điều gì "mới lạ" cho nhân loại.
Đó là những "Dấu chỉ", những "hành động của Đức Giêsu, các bí tích... quyền năng của Thiên Chúa". Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được Chúa Giêsu "trừ quỷ và "dấu chỉ bí tích" này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể... trong đó Đức Giêsu "nói" với ta, và "cứu độ" ta khỏi sự dữ.
62.Các bạn có tin ma quỷ không?--Guy Morin
Anh chị em có tin Satan không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang hợp thời trang. Và anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của phim Vị trừ quỷ và những lời của các nhà chính trị: nhà chính trị Mỹ xem nước Nga như là vương quốc của sự dữ và ông Khomeiny xứ Iran xem Hoa kỳ như là Satan vĩ đại.
Hình như có những nhóm nhạc Rock tôn thờ Satan. Một số người nói rằng họ khám phá ra trong đĩa hát của họ những sứ điệp của Satan.
Những mục linh tinh trên báo kể lại cho chúng ta những cuộc chém giết rất khủng khiếp như vụ Mc Donald ở Califonia (hai mươi mốt người bị giết) nên chúng ta có lý mà tự hỏi xem đây có phải là trường hợp quỷ nhập không. Bệnh tâm thần và đam mê có đủ để giải thích những tội phạm dường ấy không? Điều chắc chắn là sự dữ có thật, nhưng thủ lãnh của sự dữ thì sao?
Chúa Giêsu trừ một tên quỷ.
Trước việc trừ quỷ này, ta nên tránh hai thái độ trái ngược. Thái độ thứ nhất là chống đối và phủ nhận sự kiện này vì tính cách lạ lùng của nó. Vào thời Chúa Giêsu, người ta nhìn thấy ma quỷ khắp mọi nơi. Bệnh kinh phong, sốt, bệnh thần kinh đều được xem như bị quỷ nhập cả. Nhưng Chúa Giêsu chắc chắn đã đương đầu với những người bị quỷ nhập thật sự. Đây là trường hợp của bài Tin Mừng hôm nay.
Thái độ thứ hai là thích thú trước tính cách lạ lùng của đoạn Tin Mừng này. Thích thú về hiểu biết của Chúa Giêsu về thần dữ.
Thánh Marcô muốn truyền đạt cho chúng ta sứ điệp nào? Đó mới là điều quan trọng. Ý định của ông là cho chúng ta thấy Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng bằng cách nào: bằng cách dạy dỗ và trừ quỷ, việc trước dẫn đến việc sau.
“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, và những người đã bị đánh động và ngạc nhiên. Thánh Marcô nói điều này hai lần, ở đầu và ở cuối trình thuật, và ông nêu rõ lý do. Đây là một giáo huấn mới mẻ có quyền uy khác hẳn việc dạy dỗ của các ký lục.
Mấy ông này chỉ lập lại những gì họ đã học nơi các vị kinh sư mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu đã không theo học trường phái nào cả: Ngài có một cái nhìn mới mẻ và nói những lời chưa bao giờ nghe nói. Không phải là những lời đã học thuộc lòng và với một uy tín mạnh mẽ như các ngôn sứ. Chúa Giêsu giải thích luật theo một nghĩa giải phóng và hợp với ý Thiên Chúa.
Giáo huấn mới mẻ và đanh thép này không chỉ làm cho các thính giả của Ngài kinh ngạc mà thôi. Ngài còn buộc kẻ bị quỷ nhập ẩn giấu giữa họ phải lộ diện. Quỷ dữ cảm thấy bị đe dọa bởi một lời quyền năng như thế nên nó đối đầu với Chúa Giêsu, và Ngài đã vạch mặt nó ngay.
Đồng thời, một khía cạnh quan trọng của Tin Mừng được mặc khải cho chúng ta: Tin Mừng làm cho người ta được tự do. Chúa Giêsu giải thoát các thính giả của Ngài khỏi những xiềng xích mà những giải thích luật Chúa theo cách nhỏ nhen của loài người đã ràng buộc họ. Ngài đến giải phóng con người khỏi sự dữ và Satan. Ngài đấu tranh vì con người, cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đưa Ngài đến thập giá. Nơi đó, các lực lượng của sự dữ sẽ bị tiêu diệt.
Được giải thoát đến mức nào?
Cuộc chiến thắng dứt khoát của Chúa Kitô được cụ thể hóa trong thời gian theo cách chúng ta đón nhận Tin Mừng. Một cách nghịch lý, chiến thắng đã đạt rồi nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng ảnh hưởng giải phóng của chiến thắng ấy nơi chúng ta. Ta được mời gọi phát hiện những thông đồng của ta với sự dữ và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chóc” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực và áp chế không, hay chúng ta là đầy tớ của họ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cử chỉ giải phóng của Chúa Giêsu Kitô, làm cho chúng ta được tự do hơn nữa để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
63.Đấng Thánh của Thiên Chúa--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Đôi khi vẻ đẹp và sự thật đến từ những nguồn mạch không trông đợi. Các bạn sẽ không trông đợi những người trẻ đã sáng tác ra những bản nhạc lừng danh, nhưng một đứa trẻ thiên tài Moza đã làm kinh ngạc những người đồng thời của ông. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện trong hội đường Caphanaum không một người nào trông đợi một người bị thần ô uế ám, một người bị quỷ nhập tuyên bố sự thật về Người. Những lời của ông ám chỉ Chúa Giêsu có một chân lý sâu xa: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Hội đường là một nơi chứa đựng một vẻ đẹp và chân lý. Đó là nơi Lời của Thiên Chúa được linh ứng trong những cuốn Thánh Kinh Do Thái đã được tuyên bố và suy niệm ở đây. Một thầy Rabbi giảng dạy ý nghĩa của Thánh Kinh và hướng dẫn cầu nguyện. Từ khi bắt đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã được biết như một thầy Rabbi, một vị kinh sư. Sau đó, mọi người đã nhận biết Người như một tiên tri, không đơn giản là một vị thầy nhưng thật sự là tiếng nói của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu có thói quen đi vào Hội đường vào ngày Sabát. Khi Ngài được chấp nhận vai trò Rabbi, vào những dịp đó Ngài thường làm viên mãn Lời hứa của Môisê khi tuyên bố với toàn dân rằng: “Một tiên tri giống như tôi sẽ là Chúa, Thiên Chúa của anh em, người đó sẽ xuất hiện từ giữa con cháu của anh em; và anh em sẽ phải lắng nghe “Người”.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường Caphanaum, một người bị quỷ ám đã kêu: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” một sự bất ngờ chói tai, kẻ bị quỷ ám đã đưa ra “bài giảng” về sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Những gì mà hắn thốt lên là sự thật. Tiếp đó Chúa Giêsu đã xác định việc làm chứng của kẻ bị quỷ ám bằng hành động của Ngài: Ngài đã đuổi quỷ ra khỏi kẻ quỷ ám. Thánh Marco đã ghi lại cho chúng ta câu chuyện đáng chú ý này, Ngài muốn chúng ta hiểu rằng, mục đích đầu tiên của việc xảy ra này không phải để hấp dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu như là một người chuyên làm phép lạ, nhưng hướng dẫn chúng ta thân mật với Người vì Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có một nhận định khi Ngài nghĩ rằng người độc thân có thể phục vụ, làm nhiều điều cho Chúa. Nhưng kết hôn hoặc độc thân thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi dâng chính mình cho Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sau đó trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã đưa ra một bài giảng trong cùng một Hội đường này ở Caphanaum, Ngài đã hoàn tất lời hứa là Ngài sẽ ban Thân Mình và Máu Mình như thực phẩm, và là của ăn của uống để ban cuộc sống đời đời.
Những tổ phụ đầu tiên của chúng ta trong đức tin đã tiếp tục đi tới hội đường trong những ngày Sabát, tiếp đó, ngày Chúa Nhật họ đã họp nhau để cử hành Thánh Thể tại một nhà nào đó. Khi những người dân ngoại bắt đầu gia nhập Giáo Hội, hội đường phục vụ Thánh Kinh, bài giảng, và cầu nguyện nối kết với hy tế Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật. Lời và Bí tích, Thánh Kinh và Thánh Thể trở thành nối kết thân thiết, chúng đã hình thành một sự độc nhất của việc thờ lạy.
Ngày Chúa Nhật chúng ta được đặc ân là thông dự vào hành động này của việc thờ lạy mà bây giờ chúng ta gọi cách đơn giản là Thánh Lễ. Chúa Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta trong Lời và trong Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng “đó là chính Đức Kitô, Người đã nói với chúng ta trong Thánh Kinh, khi Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ”. Đó là sự thật Chúa Kitô nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của loài người. Giáo Hội nhấn mạnh rằng đó là chính Đức Kitô đã đến với chúng ta trong Thân Mình và Máu Người dưới hình bánh, rượu. Việc rước lễ làm viên mãn lời hứa của Chúa Giêsu trong hội đường Caphanaum rằng Ngài đã cho chúng ta Thịt làm của ăn và Máu làm của uống. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ chúng ta được trao cho cơ hội để đến với Chúa Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
64.Chúa Giêsu Kitô đã thắng satan--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Đoạn Phúc Âm này đặc biệt hữu ích vì nó đặt chúng ta trước một sự biêu dương hết sức rõ rệt về quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ. Thực ra, ý định của Maccô cũng muốn nhắm tới mục đích ấy: là chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của tà thần, đặc biệt trên các tà thần được mệnh danh là ma quỷ.
Sự phát triển của Mạc khải qua tiến trình của Cựu Ước, vào thời Chúa Giêsu, đã đưa tới niềm tin rằng: có những tà thần cũng là loài thọ tạo của Thiên Chúa, nhưng đã phản loạn chống lại Thiên Chúa. Chúng là địch thủ của con người. Chúng chỉ theo đuổi sự dữ, dốc tâm làm hại con người mà qua họ, chúng hy vọng làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vô cùng quyền phép hơn chúng. Phúc Âm chứng tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của ma quỷ. Đoạn phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nghe một phần của cuộc chiến thắng giải thoát ấy cuả Đức Kitô.
Vào thời Chúa Giêsu, não trạng dân chúng là nhìn thấy ma quỷ ở khắp những nơi có sự dữ. Thực ra, sự dữ cũng là kết quả của sự tự do con người khi tự do đó bị lạm dụng hoặc trệch ra khỏi đường ngay nẻo chính. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà một sự thất bại nào đó của tự do đã đem con người vào vòng đau khổ của bệnh tật và chết chóc. Quan niệm thông thường vào thời Chúa Giêsu lại có xu hướng gán cho ma quỷ đã tra tay vào mỗi khi có bệnh tật. Những câu chuyện ‘đuổi quỷ’ trong phúc âm lệ thuộc vào não trạng đương thời và phải được hiểu cách đơn giản, là Chúa Giêsu có quyền thế trên sự dữ nói chung và trên bệnh tật nói riêng. Rất nhiều trường hợp được coi là quỷ ám, thực ra chỉ là những thứ bệnh. Nhưng câu chuyện mà thánh Luca đưa ra trong bài hôm nay trình bày một vụ quỷ ám thực sự mà Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Ngài để giải thoát. Đoạn Phúc Âm này có thể hiến chúng ta nhiều đề tài suy tư. Chúng ta hãy dừng lại ở điều này.
1. Quỷ đã tỏ hiện trước khi Chúa Giêsu ra lệnh cho nó đi. Chắc chắn là Chúa biết có quỷ ở đó, nhưng Ngài bận tâm lo giáo huấn con người, bằng cách tỏ ra với họ thái độ tích cực của kẻ mang chân lý đến nên chính ma quỷ đã không chịu nổi sự hiện diện của Chúa và nó liền bắt đầu gào thét. Sự kiện đó đầy ý nghĩa. Để tóm tắt, khi chúng ta nhớ lại những gì đã xảy đến với các thánh tông đồ và hết các môn đệ lỗi lạc của Chúa từ nguyên thuỷ cho đến nay, chúng ta có thể nói được rằng: người bạn đích thực của Đức Kitô hôm nay vẫn còn sử dụng được đặc ân gây khó dễ cho mọi sức mạnh tà thần. Người bạn đó phải hiểu biết điều ấy. Người bạn đó phải lo hành động tích cực để truyền thông sứ điệp Tin mừng, rồi sẵn sàng chờ đợi một sự ‘la lối’ nào đó nổi lên trên con đường hành động của mình. Nối ưu tư duy nhất của mình chỉ là sự kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng ma quỷ.
2. Phúc Âm nhắc nhở chúng ta: là ma quỷ có thực. Một ‘lối’ mới ngày nay xuất hiện trong Giáo Hội muôn liệt chuyện ma quỷ vào hàng huyền thoại. Nhưng Giáo Hội vốn trung thành với Phúc Âm, lấy chuyện có ma quỷ làm một quả quyết của đức tin. Chúng ta phải luôn nhớ rằng sự dữ không phải là một sự trừu tượng chỉ có trong đầu các nhà trí thức. Nhưng có một thực tại thuộc nhân cách. Sự hỗn loạn mà sự dữ reo rắc vào thế gian chỉ có thể đến từ hành động cá nhân. Không phải nhìn thấy ma quỷ khắp nơi, và phải biết rằng sự yếu đuối con người có thể biện bạch cho nhiều chuyện bất hạnh, song để đề phòng cho bản thân, chúng ta đừng bao giờ quên là bằng cách công khai hay nham hiểm ma quỷ luôn luôn chống lại Phúc Âm.
65.Ý nghĩa của một lần trừ quỷ--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tìm xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật đời sống công khai của Đức Giêsu, là việc quan trọng. Mt bắt đầu với bài diễn từ thứ nhất và dài nhất trong năm bài diễn từ, đó là Bài Giảng trên núi (Mt 5,1–7,2). Mối quan tâm chính của tác giả TM I là diễn tả giáo huấn của Đức Giêsu. Lc thì nói tới việc Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường Nadarét (Lc 4,16-30); tại đó, liên kết bản thân với Cựu Ước (Is 61,1t), Đức Giêsu trình bày uy quyền và mục tiêu của sứ mạng của Người như nằm trong một chương trình đã được thiết lập. Trong Mc, điều đầu tiên chúng ta thấy là sự xuất hiện của Đức Giêsu tại hội đường Caphácnaum.
Caphácnaum ở trên bờ phía tây bắc hồ Ghennêxarét, cách cửa sông Giođan vài cây số. Kết quả các cuộc khai quật khảo cổ cho ta gặp lại những di tích của thế kỷ iv kỷ nguyên chúng ta, nhưng vẫn ở ngay tại nơi có hội đường vào thời Đức Giêsu. Điều lạ lùng là Mc không kể gì về giáo huấn của Đức Giêsu, mà chỉ nêu sự kiện là Người đã giảng dạy và ấn tượng mà các lời Người nói gây nên nơi dân chúng. Quả vậy, tác giả đặt ở hàng đầu không phải là giáo lý của Đức Giêsu, mà là con người của vị Tôn sư.
Mc đã đặt câu truyện này ngay sau khi Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ, mà coi như là hoạt động công khai đầu tiên Đức Giêsu hoàn tất với sự hiện diện của các môn đệ kể từ nay sẽ “ở với Người” (3,14). Thế mà Đức Giêsu đến để loan báo Tin Mừng, loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã có đó, quyền năng cứu độ đã đi vào hoạt động, một thế giới mới đã được mạc khải. Trong Lời mang sức giải thoát mà Đức Giêsu nói ra, chính Thiên Chúa hành động; Đức Giêsu, vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và việc làm, chính là Tin Mừng đang tiến hành.
Đoạn này thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34). Trong một đơn vị thống nhất về thời gian và không gian như thế (một ngày sa-bát tại Caphácnaum), Mc đã quy tụ nhiều câu truyện: việc giảng dạy, trừ quỷ, chữa mẹ vợ Simôn, rồi, đến chiều, có một bức họa tổng quát. Các truyện này xảy ra tại một hội đường, tại nhà, tại cửa thành. Nhưng chuỗi hoạt động này lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ. Bản văn đang khảo sát là cốt lõi của một chuyển động vừa tập trung vừa lan toả, nên trở thành bản văn tiêu biểu, tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu. Điều được biểu lộ ra (sự giải phóng do Đức Giêsu mang lại) tại địa điểm chính thức của Do Thái giáo, trong nhà Lề Luật, là để được phổ biến trong khắp miền Galilê. Và sau Phục Sinh, miền này sẽ trở thành địa điểm xuất phát của các môn đệ để các ông đi khắp thế giới mà thi hành sứ vụ. Vì thế, có kết luận: “Danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tuy nhiên, không nên quên lệnh cấm nói: danh tiếng này chỉ có được nền tảng đích thực khi cuộc Khổ Nạn đã được hoàn tất.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu giảng dạy (1,21-22):
a) nơi chốn và thời gian: Caphácnaum; ngày sa-bát,
b) dân chúng kinh ngạc về lời giảng và uy quyền;
2) Ca người bị quỷ ám (1,23-26):
a) phản ứng của quỷ,
b) lời nói uy quyền của Đức Giêsu,
c) kết quả;
3) Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (1,27-28):
a) dân chúng kinh ngạc: giáo lý và uy quyền,
b) danh tiếng được đồn đi: mọi nơi, khắp vùng lân cận miền Galilê.
Câu truyện trừ quỷ này lại được đóng khung bằng câu nói về “lời giảng dạy có uy quyền”, khiến các nhà chú giải nghĩ đến nhiều đợt làm việc trên câu truyện này.
3.- Vài điểm chú giải
- sửng sốt (22): dịch sát là “bị đánh ngã”, “bị quẳng ra ngoài”.
- Có một người bị thần ô uế nhập (c.23): Tác giả giới thiệu “ca” bệnh. Nhưng rồi, thay vì nói đến một sáng kiến, một thái độ của người bệnh hoặc của những người có mặt nhằm bày tỏ lòng tin, tác giả cho thấy không có ai can thiệp vào cả, Đức Giêsu cũng không làm gì cả; thế mà đã xảy ra như một cú “bùng nổ”.
- la lên rằng: “… chuyện chúng tôi can gì đến ông…” (23-24): Dường như chỉ nguyên việc đứng trước mặt Đức Giêsu đã khiến ma quỷ phải hét lên (x. một phản ứng tương tự: 9,20). Rõ ràng, khi gặp Người, ma quỷ bị một cú sốc, nó không thể thản nhiên như không được. Nó hét lên: “Giêsu Nadarét, chúng tôi với Ngài nào có việc gì?” (NTT). Trong Cựu Ước, câu nói này nhằm thiết lập một khoảng cách giữa hai người: hoặc một sự bất hoà giữa hai cá nhân trước đây hoà hợp (x. Tl 11,12; 2 Sb 35,21; 2 Sm 16,10; 19,23; 1 V 17,18 với ý nghĩa: “tôi đã làm gì cho bạn, đã xảy ra chuyện gì khiến bạn làm như thế, bạn xử với tôi như thế?”), hoặc là từ chối mọi quan hệ hoặc mọi thoả hiệp giữa hai bên thù nghịch (x. Gs 22,24; 2 V 3,13; Hs 14,9: “Giữa chúng ta còn có thể quan hệ gì nữa? Ông lo việc của ông đi!”). Bản văn Mc theo nghĩa thứ hai: đây là một lời tuyên chiến, hoặc đúng hơn, một lời tuyên bố tình trạng thù nghịch và một lời từ chối giao đấu vì bên liên hệ quá biết kết quả rồi (x. 5,7).
- Đấng Thánh của Thiên Chúa (x. 5,7 “Con Thiên Chúa Tối Cao”): Cho dù đa số các nhà chú giải coi đây là một danh hiệu của Đấng Mêsia, cha Lagrange lưu ý là trong nền văn chương Do Thái giáo, Đấng Mêsia không được gọi như thế. Hẳn là câu này muốn nói Đức Giêsu là một con người thuộc về thế giới của Thiên Chúa thánh thiện. Người ở trong quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa, và do đó, câu này diễn tả tình trạng không thể hòa hợp giữa Đức Giêsu và tà thần (HL. pneuma akatharton: đối nghịch lại với linh thánh, với Thiên Chúa). Nhưng chắc chắn là trong Mc, công thức này đã có ý nghĩa Kitô giáo, nghĩa là được dành cho Đấng Mêsia.
Ma quỷ cảm nhận sự hiện diện của Đức Giêsu như một sự gây hấn, nên nó đã “bùng nổ”.
- Đức Giêsu quát mắng (quát bảo, NTT) (25): Theo nghĩa chữ, động từ Hy Lạp epetimêsen (x. 3,12; 4,39; 8,30.32.33; 9,25; 10,13-48) này có nghĩa là “đặt một timê (giá cả, giá trị) trên”, và từ nguyên thuỷ, nó có nghĩa tích cực. Trong Mc, động từ này có nghĩa là “nói một cách nghiêm túc, lưu ý nhằm ngăn cản một hành vi hoặc để chấm dứt hành vi nào đó” (Arndt & Gringrich). Đây là một lệnh truyền hơn là một lời la mắng, một lệnh cấm. Đức Giêsu đã truyền hai lệnh “Câm đi” và “Xuất khỏi người này”.
- Câm đi (phimôthêti): Nguyên nghĩa của động từ HL phimoô là “khoá mõm; muzzle”: Ma quỷ bị coi như là một con thú dữ cần phải chế ngự để làm cho nó ra vô hại. Tác giả dùng lại động từ này trong truyện Dẹp yên bão táp (x. 4,39).
- Xuất khỏi: Đứng trước quỷ, Đức Giêsu thường truyền lệnh này (x. 5,8; 9,25), và quỷ vâng theo tức khắc.
- Thần ô uế lay…, thét… (26): Những hiện tượng này cho thấy kết quả đã đạt được (như trong 9,26), nhưng không có giao tranh; như thế là khác với câu truyện Ghêrasa (5,1) và người động kinh (9,14), vì ở chỗ đó dường như Đức Giêsu có gặp một sự kháng cự nào đó. Còn ở đây, chiến thắng đạt được tức khắc. Đó là điều những người chứng kiến thấy là bất thường, và họ thán phục: các thần ô uế tuân theo lời nói của Đức Giêsu ngay. Tiếng hét ở c. 24 và tiếng hét ở c. 26 như tiếng hét của kẻ sắp chết, cho thấy rằng đây không phải là một việc trừ quỷ như dân chúng đã quen nghe biết, vì một quỷ bị đuổi đi hôm nay sẽ có thể trở lại vào một ngày khác. Cuộc trừ quỷ do Đức Giêsu thực hiện là một sự kiện “mới” trong lịch sử cứu độ. Một thời đại mới đã khởi sự, thế giới đã sang tay người chủ khác; quyền lực của tà thần đã chấm dứt: một “cá nhân” quỷ mới, nhưng nhận định cho số phận của “tập thể” quỷ (“chúng tôi”), (x. 5,10). Vậy Đức Giêsu Nadarét không phải là một người trừ quỷ bình thường, nhưng là Sứ giả của Thiên Chúa, Đấng Thánh. Với sự hiện diện và hoạt động của Người, Thiên Chúa thiết lập Triều Đại của Ngài (x. 3,22-30).
- So sánh với 4,37-41: Nếu so sánh đoạn văn này với hai cảnh của ch. 5 và 9 (Ghêrasa và người động kinh), ta thấy hai truyện ấy thật là sống động, còn bản văn 1,23-27 quá đơn giản. Dường như truyện này là một bài mẫu tổng quát. Ta nhận thấy bài này được xây dựng theo cùng một kiểu như bài tường thuật về cơn bão bị dẹp yên (4,37-41), hoặc đúng hơn, “cơn bão bị dẹp yên” được nhìn như một cuộc trừ quỷ:
Trừ quỷ
Bão yên (4,37-41)
23
Có một người bị thần ô uế nhập la lên rằng
37
Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền
38
các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
24
“Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”
(= chúng tôi chết mất)
“Thầy chẳng lo gì sao
chúng ta chết đến nơi rồi”
(= chúng ta/tôi chết mất)
25
Đức Giêsu quát mắng nó (đe doạ) nó:
39
Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển
“Câm đi và xuất khỏi người này!”
“Im đi! Câm đi!”
26
Thần ô uế hét lên một tiếng và xuất
Gió liền tắt và biển lặng như tờ
40
Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
27
Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau:
41
Các ông hoảng sợ (kinh ngạc) và nói với nhau:
“Thế nghĩa là gì?
“Vậy người này là ai?
Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền
Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!
mà cả đến gió và biển
cũng phải tuân lệnh?
Bảng đối chiếu này cho thấy hai bài có một lược đồ chung:
1. Sự hiện diện của Đức Giêsu gây ra một cuộc bùng nổ các sức mạnh tà thần (quỷ hoặc biển); thế trận.
2. Đức Giêsu như bị khiêu khích, hoặc bởi ma quỷ là hãy rút lui đi, hoặc bởi các môn đệ là hãy hành động đi, cả hai bên đều dùng động từ “chết” (apollymi).
3. Chiến thắng toàn diện của Đức Giêsu được diễn tả bằng hai động từ “đe doạ” và “khoá mõm”, “câm”.
4. Cuối cùng là sự kinh ngạc và câu hỏi về Đức Giêsu, Đấng đã buộc được tà thần phải tuân lệnh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu giảng dạy (21-22)
Tác giả ghi nhận ấn tượng Đức Giêsu tạo ra nơi dân chúng: họ bị đánh động sâu xa, họ bị rúng động, họ hết sức kinh ngạc. Đức Giêsu không trình bày các ý kiến cũng không cống hiến những đóng góp vào cuộc tranh luận, nhưng giảng dạy với uy quyền, với lời nói có sức mạnh, có hiệu lực tuyệt đối; đàng sau những điều này, Người nói rằng Người có Thiên Chúa với uy quyền của Ngài. Dân chúng ghi nhận điều này và biết mình bị thách thức bởi giáo huấn của Người. Uy quyền của giáo huấn này được phản ánh, như trong một tấm gương, nơi hiệu quả gây ra trên dân chúng. Giáo huấn này không nhắm mở đường cho các cuộc tranh luận, nhưng muốn nắm lấy, lay chuyển, đưa đến một định hướng đời sống cụ thể mới mẻ (= hoán cải).
Đức Giêsu đến để loan báo Thiên Chúa như là vị Chúa tể đích thực và về sự hiện diện chan hòa ân huệ của Ngài. Chính là với sứ điệp này mà Người đến hội đường Caphácnaum. Đây là nơi dân chúng một làng tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu không đến làm việc trong hoang địa như Gioan Tẩy Giả, nhưng đến hội đường. Người tháp hoạt động của Người vào trong nền phụng tự của Israel, như sứ giả của vị Thiên Chúa mà dân Israel thưa gửi với trong hội đường.
* Ca người bị quỷ ám (23-26)
Các cuộc trừ quỷ, và nói tổng quát, cuộc chiến đấu chống Satan, chiếm một vị trí quan trọng trong tác phẩm Mc, vừa về lượng vừa về phẩm: trong bốn bài tường thuật trong đó có hai bài với nhiều chi tiết của riêng Mc (1,21-28; 5,1-20; 8,4-30; 9,14-29), trong nhiều bản tóm tắt của riêng Mc về hoạt động của Đức Giêsu (1,34-39; 3,11-12) và cả trong đối tượng thuộc hoạt động truyền giáo của các môn đệ (3,15; 6,7.13).
So với Mc, Mt và Lc có những khác biệt đáng kể: Lc có giữ lại bài tường thuật ta đang khảo sát (Lc 4,31-37), và có một bản tóm tắt gần giống Mc (Lc 4,41 // Mc 1,39); Mt không có câu chuyện trừ quỷ tại Caphácnaum. Nhưng cả hai vị, đặc biệt Mt, có khuynh hướng giảm thiểu hay loại bỏ “phương diện ma quỷ” của nhiều bài tường thuật (x. truyện Bà Canaan, Sứ mạng của Nhóm Mười Hai và nhất là truyện Chữa người động kinh). Thường truyện được chuyển từ tình trạng quỷ ám sang tình trạng đau ốm, từ việc trừ quỷ sang việc chữa bệnh. Dù sao, những con người bị hành hạ như thế vẫn liên tục xuất hiện trong phạm vi hoạt động của Đức Giêsu. Chúng ta thật khó mà hiểu được những sức mạnh khống chế con người và biến họ thành nô lệ. Các sức mạnh này được giới thiệu như là siêu nhân, phản ứng như thể chúng là con người, có một sự hiểu biết đặc biệt, ở thế đối lập với Thiên Chúa, thống trị và làm hại con người. Có những người nói rằng chúng ở trong biển; có những khác lại cho rằng chúng ở trên không trung, nhưng chẳng ai biết rõ chúng. Điều duy nhất chắc chắn, đó là người ta hoàn toàn bất lực khi đứng trước chúng.
Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó; và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới phải hét lên và đi ra. Nó ở đấy và dường như không gây vấn đề gì. Cũng không có ai gây phiền hà gì cho nó. Nhưng Đức Giêsu thấy người ấy đang ở trong quyền lực của tà thần. Đức Giêsu và tà thần giống như hai kẻ thù gặp nhau: hai bên rất ghét nhau, tìm cách lờ nhau đi, nhưng rồi lại không thể nào tránh khỏi gặp nhau.
Quỷ tỏ thái độ thù nghịch trước, vì nó cảm thấy nó yếu hơn. Nó thấy rằng “Đấng Thánh” (“Đấng mạnh / quyền thế hơn”: Mc 1,7; “người mạnh”: Mt 12,29) có khả năng tiêu diệt nó và vương quốc của nó: “Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24). Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (c. 25). Thần ô uế vâng lời. Với lời nói hữu hiệu của Người, Người chứng tỏ quyền lực đích thực của Triều Đại Thiên Chúa mà Người loan báo; Người cho thấy rằng Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng và Thiên Chúa đang dùng quyền lực của Người để giải thoát loài người và trả lại cho họ khả năng xác định mình như là những con người tự do. Đức Giêsu đưa tự do và bình an đến không phải nhờ một thỏa hiệp với sự dữ, nhưng chỉ nhờ cách thắng vượt sự dữ. Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng này, ta cũng thoáng thấy Đức Giêsu là ai.
* Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (27-28)
Dân chúng sững sờ kinh ngạc. Họ nhận ra rằng có một vị ngôn sứ đang ở giữa họ với “giáo huấn mới, một cách có uy quyền” (c. 27 - NTT). Đó là vì lời nói của Đức Giêsu thực hiện được điều Người diễn tả. Tác giả nhắc lại “lời giảng dạy – uy quyền” (c. 22 // c. 27) để “đóng khung” truyện trừ quỷ. Bằng cách đó, ngài vừa nói lên được hai nét chính trong sứ vụ của Đức Giêsu (giảng dạy – trừ quỷ) vừa minh họa được quyền lực giải phóng của lời Người nói. Ngoài ra, ngài cũng chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu bằng cách ghi nhận rằng sự cố xảy ra tại Caphácnaum đã được đồn ra “khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.
+ Kết luận
Vậy ít ra, đến đây, chúng ta phải nhìn nhận sử tính của những bài tường thuật về trừ quỷ: chắc chắn Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ. Những người đương thời đã coi Người là một vị Thầy chữa bệnh và trừ quỷ. Các câu truyện Ghêrasa và người động kinh cho thấy ấn tượng này rõ hơn. Và nhất là chính những luật sĩ đã kết án Đức Giêsu là “bắt tay” với quỷ vương… Nhưng, dường như Mc có một ý hướng sâu hơn khi trình câu truyện trừ quỷ ở đây.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong “một ngày ở Caphácnaum” được coi như một ngày “mẫu”, Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ: Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng để giải phóng con người. Các tông đồ cũng có mặt: những môn đệ tương lai sẽ nối tiếp Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ.
2. Phong thái và các hành vi của chúng ta có cho thấy rằng chúng ta đang được hướng dẫn bên trong bởi uy quyền của Đức Giêsu chăng? Phải chăng chúng ta chỉ rút từ giáo huấn của Người ra những gì chúng ta thích, hay là quả thạt, chúng ta đang liên kết với Người bằng cách trung thành bước theo Người?
3. Chúng ta biết là có ma quỷ. Tuy nhiên, không nên nghĩ nó giống như một con quái vật. Đúng hơn nó là sức mạnh làm cho con người chúng ta hành động không đúng với nhân tính chúng ta nữa. Ta chỉ thắng được tà thần không phải bằng một thỏa hiệp và nhượng bộ, nhưng nhờ thẳng thắn chiến đấu chống lại nó nhân danh Triều Đại Thiên Chúa: nó đã và sẽ phản ứng thô bạo, nó kháng cự, la hét. Chúng ta có tin tưởng mạnh mẽ và sống động vào Đức Giêsu chăng? Chúng ta có xác tín rằng Người vượt lên trên tất cả các sức mạnh đối kháng, và nếu kết hợp với Người, chúng ta có thể đánh bại sự dữ và các sức mạnh thù nghịch?
4. Cuộc chiến đấu được kể lại đây tượng trưng cho cuộc nổi loạn của các sức mạnh xấu xa trong chúng ta, vì chúng không muốn bị trục xuất; đây là biểu tượng của các khó khăn chúng ta gặp khi chúng ta muốn gỡ mình khỏi các tật xấu. Chúng không muốn bỏ đi. Chúng ta chịu thua hay là chúng ta biết tin tưởng vào lời của Đức Giêsu, lời vẫn vang lên mỗi ngày trong lòng các cộng đoàn của chúng ta?
66.Chúa Nhật 4 Thường Niên--William Barclay
Chúa Giêsu Bắt Đầu Sứ Vụ Của Ngài (Mc 1,21-22)
Câu chuyện Maccô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất hiện của Gioan, Chúa Giêsu nhận biết tiếng gọi của Chúa Cha để Ngài phải hành động. Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhận dấu ấn của Chúa Cha chứng tỏ Chúa Cha tán thành và trang bị cho Ngài để thi hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu chịu ma quỷ thử thách và đã chọn lấy phương pháp phải làm, con đường phải đi. Ngài chọn một số người để có một nhóm nhỏ những tâm hồn đồng lòng hiệp ý nhau, để Ngài có thể viết lên đó những sứ điệp của Ngài. Nếu ai có một sứ điệp của Chúa cần rao giảng, địa điểm tự nhiên người ấy nhắm vào phải là Hội Thánh, là nơi họp mặt những người thuộc về Chúa. Đó chính là việc Chúa Giêsu đã làm, Ngài bắt đầu sứ vụ của mình từ hội đường.
Có vài điểm khác nhau căn bản giữa hội đường và nhà thờ theo chúng ta được biết ngày nay.
(a) Trước hết hội đường là nhà trường để dạy đạo. Một buổi học trong hội đường chỉ gồm ba việc: Cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải Lời ấy. Không có cử nhạc, ca hát, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ, chỉ bảo, là chỗ có ảnh hưởng lớn lao hơn hết, vì chỉ có một Đền thờ duy nhất, Đền thờ tại Giêrusalem. Luật quy định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do Thái thì phải có một hội đường, do đó, bất kỳ nơi nào có một nhóm người Do Thái định cư thì có hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi để người ấy trình bày.
(b) Hội đường tạo cơ hội cho người ta truyền rao một thông điệp như thế. Hội đường có một số chức sắc. Có ông trưởng hội đường, ông ta có nhiệm vụ quản trị mọi việc và thu xếp các buổi học. Có những người phân phát của bố thí. Hằng ngày có việc thu góp tiền mặt và hiện vật do nhiều người đóng góp, sau đó được phân phát cho người nghèo. Những người nghèo nhất được cấp thực phẩm đủ 14 bữa ăn một tuần. Có vị Chazzan vẫn gọi là người phục vụ. Vị này có nhiệm vụ lấy ra và cất vào những cuốn sách thánh. Vị ấy cũng quét dọn hội đường, thổi kèn (loa bằng bạc) để loan báo ngày sabát, dạy lớp vỡ lòng cho trẻ em trong cộng đồng. Những có một chức vị mà hội đường không có, đó là người rao giảng hay thầy dạy thường xuyên. Khi mọi người họp lại và buổi họp bắt đầu thì người trưởng có nhiệm vụ chỉ định người giảng dạy. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Chúa Giêsu có thể bắt đầu sứ vụ của Ngài trong hội đường. Việc chống đối vẫn chưa bùng lên thành thù ghét. Ngài được mọi người biết như một người có một thông điệp muốn rao truyền, do đó, bất cứ hội đường nào của các cộng đồng đều thành tòa giảng cho Ngài dạy dỗ.
Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một mặc khải mới mẻ. Ngài không giảng dạy như các Kinh sư là các chuyên viên về luật. Các Kinh sư này là ai? Theo người Do Thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật, Tora. Trái tim của Luật là Mười Điều Răn, nhưng người Do Thái hiểu Luật là năm quyển đầu của Cựu Ước mà họ gọi là Ngũ kinh (Pentateuch). Theo người Do Thái, Luật ấy hoàn toàn từ Đức Chúa Trời đến. Họ tin rằng Luật vốn được Chúa trực tiếp trao cho Môsê, hoàn toàn thánh và có tính cách ràng buộc tuyệt đối. Họ bảo: “Ai nói Tora không từ Chúa đến thì chẳng có phần gì trong thế giới tương lai cả”, “Kẻ nào bảo Môsê đã viết Luật theo hiểu biết của riêng ông, dầu chỉ một câu thôi, cũng là người chối bỏ và khinh khi Lời Chúa”.
Nếu Luật vốn thiêng liêng như thế thì có hai việc nẩy sinh. Một là Luật phải trở thành luật lệ tối cao cho đời sống và đức tin; hai là Luật phải hàm chứa tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn, điều khiển đời sống. Nếu vậy, Luật chỉ đòi hỏi hai điều, một là phải được nghiên cứu hết sức tỉ mỉ cẩn thận, hai là Luật chỉ phát biểu những nguyên tắc quan trọng, tổng quát mà thôi. Nếu Luật hàm chứa phần chỉ dẫn và điều khiển cả đời sống, thì những gì chứa đựng trong đó có tính cách mặc nhiên chứ chưa phải là minh nhiên, nên cần được làm cho sáng tỏ. Các điều luật quan trọng phải được biến thành luật lệ và quy tắc, như vậy lý luận mới được khai triển. Nhằm nghiên cứu và khai triển Luật, có một giai cấp học giả, đó là những Kinh sư, các chuyên viên về Luật, danh xưng dành cho những người cao trọng nhất trong họ là Rabi. Các Kinh sư này có ba nhiệm vụ:
(a) Họ căn cứ vào các nguyên tắc đạo đức trọng đại trong Luật để khai triển thành luật lệ và quy tắc hầu ứng dụng cho mọi tình huống có thể xảy ra trong đời sống. Thật đây là một nhiệm vụ không cùng. Do Thái giáo bắt đầu bằng các nguyên tắc đạo đức quan trọng, nhưng kết thúc bằng hằng hà sa số luật lệ và quy tắc. Bắt đầu là một tôn giáo, nhưng kết thúc là chủ nghĩa duy luật.
(b) Nhiệm vụ của các Kinh sư là truyền dạy Luật và khai triển. Các luật lệ và quy tắc lấy ra từ đó và suy diễn ra chẳng bao giờ viết trên giấy trắng mực đen, chúng được gọi là Luật truyền miệng. Tuy chẳng bao giờ được viết ra nhưng chúng lại có tính cách trói buộc hơn cả luật thành văn. Chúng được lưu truyền thuộc lòng từ thế hệ Kinh sư này đến thế hệ Kinh sư khác. Người học trò giỏi là người có trí nhớ giống như “một cái giếng được lót bằng đá vôi không làm mất đi một giọt nước nào cả”.
(c) Sau cùng, các Kinh sư có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện tụng mà, mỗi vụ kiện tụng như vậy lại tạo ra những luật lệ mới.
Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với các Kinh sư chỗ nào? Ngài giảng dạy có uy quyền. Không có Kinh sư nào dám tự mình quyết định việc gì cả. Ông ta chỉ nói: “Căn cứ theo lời dạy rằng…” rồi lấy từ đó ra tất cả uy quyền cho mình. Hễ nói ra một lời là ông ta dựa vào câu này, câu nọ được ông trích dẫn lại, từ những bậc thày về luật mà thiên hạ đã coi trọng trong quá khứ. Việc cuối cùng mà ông ta chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán cá nhân, độc lập. Thật khác xa với Chúa Giêsu! Khi Chúa phán dạy, Ngài nói như trên Ngài không còn thẩm quyền nào khác. Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. Ngài không trích dẫn, không dựa vào uy quyền của một chuyên viên nào cả. Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. Đối với dân chúng, nghe một người giảng dạy như vậy thật chẳng khác gì được một làn gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn thận trọng của các Kinh sư. Giọng nói đầy uy quyền cá nhân cứ vang vang, và chính giọng nói ấy đã tác động mọi người.
Chiến thắng đầu tiên đối với các thế lực của ma quỷ (Mc 1,23-28)
Nếu lời Chúa Giêsu khiến dân chúng trong hội đường lấy làm lạ thì việc làm của Ngài càng khiến họ vô cùng kinh ngạc. Trong hội đường có một người bị tà ma ám. Anh ta gây rối và được Chúa Giêsu chữa lành. Qua suốt các sách Phúc Âm, chúng ta vẫn thấy những người bị tà ma và ma quỷ ám như thế. Vậy có gì ẩn sau việc ấy? Người Do Thái, và nói chung cả thế giới thời xưa tin ma quỷ. Hamack nói: “Cả thế giới và cả bầu không khí bao quanh đều đầy dẫy ma quỷ, không phải chỉ có việc thờ ngẫu tượng, mà mọi việc, mọi hình thức của đời sống đều bị chúng cai trị. Chúng ngự trên các ngai vàng, bay lượn trên những chiếc nôi, thật ra thì cả địa cầu là một hỏa ngục”. Tiến sĩ A. Rendle Short kể lại một sự việc chứng tỏ người thời xưa tin ma quỷ mạnh mẽ như thế nào. Trong nhiều nghĩa địa thời xưa người ta tìm thấy những sọ người bị xoi lỗ. Trong một nghĩa địa nọ người ta thấy trong 120 xương sọ có sáu cái bị đục thủng như vậy. Với kỹ thuật giải phẫu giới hạn thời xưa, làm như vậy không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, căn cứ vào việc chỗ xương ấy còn phát triển, người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta hãy còn sống. Điều cũng rõ ràng là lỗ đục xương sọ nhỏ đến nỗi nó không thể có giá trị điều trị hay giải phẫu nào và người ta biết rằng cái vòng tròn được lấy ra đó thường được đeo vào cổ như một thứ bùa chú. Lý do đục thủng như vậy là để ma quỷ có lối thoát ra khỏi thân thể một người. Nhưng nếu các nhà giải phẫu thời xưa sẵn sàng thực hiện một công cuộc giải phẫu như vậy, và nếu người ta cũng sẵn sàng chịu để cho đục như vậy, thì ta thấy niềm tin vào việc bị ma quỷ ám vốn có thật đến độ nào.
Vậy các ma quỷ ấy từ đâu ra? Có ba giải pháp cho vấn đề này. (1) Có người tin rằng chúng cũng xưa như công cuộc tạo thành trời đất vậy. (2) Có người tin rằng chúng vốn là linh hồn của những kẻ ác đã chết nhưng vẫn tiếp tục làm những công việc gian ác của nó. (3) Phần đông liên kết ma quỷ với câu chuyện xưa chép trong Sáng Thế 6,1-8 (đối chiếu với 2Pr 2,4-5). Người Do Thái phóng đại câu chuyện như thế này: Có hai thiên thần trốn Chúa để xuống địa cầu vì bị sắc đẹp của con gái loài người quyến rũ. Tên họ là Asên và Simsai. Một trong hai thiên thần này quay về với Chúa, còn người kia ở lại thế gian để thỏa mãn tham dục của mình và ma quỷ là hậu duệ từ con cháu vị ấy sanh ra. Từ chỉ ma quỷ Mazzikin có nghĩa là kẻ làm hại. Vậy ma quỷ là các hữu thể thích làm ác trung gian giữa Chúa và loài người, gây tai họa cho loài người.
Theo tin tưởng của dân Do Thái thì ma quỷ có thể ăn uống và sinh con đẻ cái. Chúng đông khủng khiếp. Có người cho rằng có đến bảy triệu rưỡi ma quỷ, một người có thể có một vạn ma quỷ ở bên phải và một vạn ở bên trái. Chúng sống tại những nơi ô uế như mồ mả và những nơi có nước dơ, chúng sống trong sa mạc là nơi người ta có thể nghe tiếng hú của chúng. Chúng đặc biệt nguy hiểm cho các lữ khách cô đơn, phụ nữ có con, các cô dâu, chú rể và cho trẻ con ra ngoài sau khi trời tối và cho những người đi đường ban đêm. Chúng hoạt động đặc biệt trong sức nóng oi ả giữa trưa và giữa thời gian mặt trời lặn và mặt trời mọc lên. Có một con quỷ làm cho người ta đui, một con quỷ gây bệnh phong cùi, một con quỷ gây chứng đau tim. Chúng có thể truyền các khả năng làm ma quỷ của chúng cho người ta nữa. Chẳng hạn ma quỷ có thế biến may thành rủi và mọi người tin rằng của cải là do ma quỷ ban cho họ. Chúng cũng làm việc với một số các loài thú như rắn, bò mộng, lừa và muỗi. Theo Lilith thì quỷ đực gọi là shedim và quỷ cái là lilin. Các quỷ cái có tóc dài và là kẻ thù của con trẻ. Chính vì thế mà trẻ con có các Thiên thần bảo vệ (18,10).
Vấn đề không phải là chúng ta tin hay không tin mọi điều vừa kể, cũng không phải là chuyện ấy có thật hay không. Vấn đề là vào thời Tân Ước, người ta tin như vậy. Ngày nay, chúng ta vẫn nói “đồ quỷ”, đó là di tích của niềm tin cổ xưa. Khi có người tin mình bị ma quỷ ám ảnh thì người ấy “ý thức về mình và về một hữu thể khác ở bên trong thúc đẩy, điều khiển mình”. Điều đó giải thích tại sao những kẻ bị quỷ ám tại Palestine thường kêu to lên khi thấy Chúa Giêsu. Chúng biết dù sao cũng có một số người tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, chúng biết khi Chúa Giêsu trị vì thì ma quỷ bị thanh toán, và kẻ tin rằng chính mình đã bị quỷ ám thì nói như chính con quỷ nói khi gặp Chúa Giêsu. Có nhiều kẻ làm thầy đuổi quỷ, tự xưng là có thể đuổi được quỷ. Việc ấy có thật đến độ vào khoảng năm 340 SCN, Hội Thánh Chúa thật sự có một dòng đuổi quỷ. Nhưng còn một chỗ khác nhau này: thấy đuổi quỷ thông thường của dân Do Thái và dân ngoại thường dùng thần chú, gào thét, và nghi lễ có tính cách ma thuật. Chúa Giêsu đuổi quý ra khỏi người ta chỉ bằng một tiếng phán rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn đầy quyền năng. Chưa hề có ai thấy việc như vậy trước đó, quyền năng không tại tiếng gào thét, đọc thần chú hay trong lời kêu khấn vái theo công thức, bằng nghi lễ công phu, nhưng quyền năng vốn có ở trong Chúa Giêsu, cho nên mọi người đều kinh ngạc sững sờ.
67.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta đang ở trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần "nhập đề" giới thiệu các nhân vật chính của Nước Trời, đặc biệt là Chúa Giêsu. Thánh lễ hôm nay đề cập tới thế giá và uy quyền của Chúa Kitô. Chúa Kitô là vị “Đại ngôn sứ " là Môisen đã nhân danh Thiên Chúa báo trước cho dân Israel. Người thực sự là Đấng Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến và chỉ nói những lời của Thiên Chúa mà thôi (Bài đọc 1) Sau này, Chúa Kitô đã tuyên bố đúng như thế (x. Ga 7,10-18). Bởi đó cần tuyệt đối nghe lời Người. Chúa Kitô còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mang một cái gì của Thiên Chúa, nên không lạ gì mà khi Người ăn nói, giảng dạy, thì ai nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người "vì Người giảng dạy như Đấng có quyền uy" (Bài Tin mừng). Chính Chúa Giêsu từng nói với Nicôđêmô: "Đấng Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa" (Ga 3,34; x. Ga 14,10). Vì Chúa có uy quyền như vậy và lời Chúa mang một thế giá siêu việt, nên Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh mà nhắc nhủ ta: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa" đáp ca: Tv 94,8).
2. “Người ta kinh ngạc về giáo lý của người" (Mc1,22). Ngày nay thì ngược lại: vì nghe và đọc lời Chúa cách vô ý thức cùng bất kính, ta thấy nhàm chán và đôi khi còn ác cảm; đi lễ, gặp các bài đọc Thánh Kinh, các bài giảng hơi dài một chút là đã kêu ca, ngáp ruồi... Bởi đó, mỗi khi cảm thấy chán ngán Lời Chúa, hoặc dửng dưng với giáo lý của Người, thì cần phải xét lại nếp sống của ta, để gạt bỏ những ngăn trở những chướng ngại; đồng thời tạo cho tâm hồn có những tâm tình, khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng, là những tâm tình rất cần cho việc đón nhận Lời và giáo lý của Chúa; sau cùng, cũng cần phải gắng công tìm hiểu, học hỏi, chứ không phải ngồi đó mà nghe qua, đợi chờ cách thụ động, ươn lười, vô bổ.
3. Bài Tin mừng hôm nay quả là một thánh lễ rút gọn:
c 21. tập họp. Dân chúng quyết định đi tìm Thiên Chúa và đến cùng Ngài, vì bấy lâu nay họ đã sống cách vô thần, xoay vần đổi hướng như chong chóng, bây giờ họ muốn đi tìm thứ hạnh phúc đích thực.
c 22: phung vụ Lời Chúa. Từ thời Abraham, Thiên Chúa đã ngỏ lời và luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu của con người. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa lại dạy dỗ, giải thích...
c 23-24: dâng lễ. Để đáp lại lời đã nghe, con người thưa "xin vâng", tin vào lời Thiên Chúa phán và hiến dâng đời mình cho Ngài. Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã vâng lời Chúa Cha cho đến cùng và như thế đã dâng lên Cha hiến tế duy nhất đẹp lòng Cha. Ở đây người bị quỷ ám đang chiến đấu.
c 25-26: hiệp lễ. Trong khi dâng niềm tin này, lúc mà mọi hy vọng xem ra mất hút trong đêm tối (giải thoát khỏi Ai cập-tử Nạn), Thiên Chúa đã can thiệp và thực hiện kế đồ của ngài. Và quỷ ám đã ra khỏi người kia, để từ đây tâm hồn nên trong sạch.
c. 27-28: sai đi. Nhờ ơn bí tích, Kitô hữu sau khi trở nên người mới được Chúa Cha chúc phúc và Chúa Thánh Thần tuôn đổ ơn lành, trở về với cuộc sống thường nhật với mọi người và quyết dùng cả đời mình để loan láo Tin mừng hầu "danh tiếng Người đồn ra khắp mọi nơi".
68.Chúa Nhật 4 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
Quỷ dữ hay Satan là loại Thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa phạt trong Hỏa ngục. Nhưng Thiên Chúa vẫn cho chúng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử.
Chúng thường xuyên cám dỗ con người. Nếu cậy vào sức mình, thì con người không phải là đối thủ của chúng. Ngay từ khi con người mới xuất hiện, Nguyên tổ chúng ta đã thua chúng. Và cứ như thế, theo dòng lịch sử, con người luôn bị Quỹ dữ quấy phá, xúi giục phạm tội để làm nô lệ cho chúng. Cuộc chiến giữa con người và quỷ dữ vẫn còn tiếp tục mãi cho tới Tận thế.
Ngày hôm nay, ít khi chúng ta chứng kiến cảnh Quỷ dữ công khai làm hại con người, nhưng chúng vẫn hiện diện và làm hại con người qua sự dữ, sự ác, sự tội. Chúng dụ dỗ, quyến rũ con người dưới nhiều chiêu thức khác nhau. Ngày 3 tháng 10 năm 2015, khi nói chuyện với các Hiến Binh Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng “Satan là một kẻ dụ dỗ, nó gieo những nguy hiểm tiềm ẩn và dụ dỗ với đầy sự quyến rũ, và sự quyến rũ ma quỷ này khiến anh em tin mọi thứ. Nó biết cách làm thế nào để rao bán thật quyến rũ, nó bán rất chạy, và cuối cùng người ta phải trả giá rất cao!”. Trong các bài giảng của mình, Đức Phanxicô còn đưa ra các chiêu thức cụ thể mà Ngài cho là Quỷ dữ đang hoạt động nơi con người.
Đó là khi con người không dám tuyên xưng Đức Kitô. Ngài nói: “Khi một người không tuyên xưng Đức Kitô, người đó sẽ tuyên xưng sự trần tục của ma quỷ.”
Đó là khi con người rơi vào tình trạng bi quan trong cuộc sống. Ngài nói: “Chúng ta đừng bao giờ để mình rơi vào tình trạng bi quan, hay cay đắng là những điều ma quỷ đưa đến cho chúng ta hàng ngày.”
Đó là khi con người ghen tương, tham vọng, chia rẽ hay tham lam. Ngài nói: “Ma quỷ có hai vũ khí rất mạnh để tiêu diệt Giáo hội: đó là chia rẽ và tiền bạc... ma quỷ gieo trong lòng người sự ghen tương, tham vọng, và các ý tưởng chia rẽ hay tham lam. Nó gieo vào lòng người một cuộc chiến bẩn thỉu, gây ra chia rẽ như chủ nghĩa khủng bố.”
Đó là khi con người ngồi lê đôi mách, nói xấu nói hành nhau. Ngài nói: “Ẩn sau những lời đồn thổi là sự đố kị và ganh ghét. Những câu chuyện ngồi lê đôi mách này chia rẽ cộng đoàn, phá hủy cộng đoàn. Buôn chuyện là một vũ khí rất hiệu quả của ma quỷ.”
Ngoài ra, Đức Phanxicô còn cho biết: “Ma quỷ đang tấn công dữ dội vào các gia đình, là nơi ma quỷ không muốn tình yêu được thể hiện và chúng đang tìm cách để phá hủy tình yêu…”. Ngài còn cho biết thêm: “Ma quỷ không bao giờ chịu đứng im nhìn sự thánh thiêng và tốt lành của Giáo hội hay của mỗi chúng ta mà không cố tìm cách phá hủy sự tốt lành đó.”
Vậy, trước các hoạt động Quỷ dữ đang tấn công con người, chúng ta phải làm gì để đối phó với chúng? Đức Phanxicô dạy chúng ta là đừng bao giờ đối thoại với chúng mà hãy dùng Lời Chúa để đối phó với chúng. Ngài nói: “Hãy xem cách Đức Giêsu đáp trả lại [những cám dỗ]: Người không đôi co với Satan, như Eva trong vườn Địa đàng. Đức Giêsu biết rất rõ rằng con người không thể dùng miệng lưỡi đôi co lại với Satan vì hắn rất xảo quyệt. Vì vậy, thay vì tranh luận với hắn như Eva xưa, Chúa Giêsu đã chọn cách vững chắc là dùng Lời Chúa để đáp lại ma quỷ với uy quyền của Lời Người. Chúng ta hãy ý thức điều này mỗi khi chúng ta bị cám dỗ …: Đừng đối thoại với Satan, nhưng hãy dùng Lời của Chúa để bảo vệ chúng ta. Và Lời Người sẽ cứu thoát chúng ta.” (Nguồn Lời giảng của Đức Phanxicô sưu tầm trên Internet).
Chúng ta nhớ lại biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc (x. Lc 4,1-13): khi Satan dùng danh, lợi, thú để cám dỗ Ngài, Ngài đã dùng Lời Chúa để chiến đấu với nó và lần đầu tiên, Satan đã thất bại thảm hại. Đức Giêsu đã chiến thắng lẫy lừng. Bởi Ngài không chiến đấu do sức lực của con người nhưng chiến đấu do sức mạnh của Thần linh đến từ Lời của Thiên Chúa. Từ đó, Satan luôn luôn bị Đức Giêsu khuất phục. Tin mừng Thánh Marcô hôm nay cho chúng ta biết (x. Mc 1,23-28): Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” Đức Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu trừ quỷ. Đọc Tin mừng cho chúng ta thấy nhiều lần nhiều nơi, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để trừ quỷ (x. 1,34.39; 3,11-12). Chẳng hạn, Ngài cho cả một đạo quân Quỷ dữ nhập vào đàn heo và cả đàn heo lăn xuống biển mà chết (x. Mc 5,1-20); Ngài chữa người bị quỷ ám mắc chứng bệnh động kinh (x. 9,14-29). Không những Ngài trực tiếp trừ quỷ mà Ngài còn gián tiếp giúp con người thoát khỏi ách thống trị của chúng như chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi: Ngài cho kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mắc bệnh phong được khỏi; Ngài tha tội cho kẻ bất toại, người phụ nữ ngoại tình, những người thu thuế và các cô gái điếm…giúp họ thoát khỏi sự kìm kẹp của Quỷ dữ để họ được gia nhập với cộng đoàn. Vì theo quan niệm của người Do thái thì bệnh tật, tội lỗi là do Quỷ dữ gây ra.
Như vậy, Đức Giêsu có quyền trên Quỷ dữ, Ngài luôn chiến thắng chúng. Vì vậy, chúng ta muốn chiến thắng Quỷ dữ thì cần phải nhờ ơn Chúa giúp. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc ăn chay và cầu nguyện. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc đọc, suy gẫm và sống Lời của Ngài, vì “Lời của Ngài có uy quyền”. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc từ bỏ ý riêng để tuân phục ý Chúa. Tuân phục thánh ý Chúa bằng cách chu toàn bổn phận đấng bậc mình, sống gắn bó với Chúa như lời Thánh Phaolô căn dặn trong bài đọc II hôm nay: “Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình.” (1Cr 7, 32-34).
Lạy Chúa, Quỷ dữ luôn tấn công chúng con với nhiều chiêu thức khác nhau. Tự sức chúng con không thể thắng được chúng. Vì vậy, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống khăng khít với Chúa để nhờ đó chúng con mới có thể thắng được mọi cơn cám dỗ của Quỷ dữ. Amen.
69.Sống Lời Chúa sẽ trừ được quỷ trong ta--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Từ điển bách khoa wikipedia cho rằng theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có hình hài con người, sẽ gọi là "ma", "hồn ma", "thánh", "thần" hay "thiên sứ". Theo tín ngưỡng Việt Nam, trong con người có cái vật chất và tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm linh hồn. Người Việt cho rằng con người có 3 hồn, 7 vía (nam), còn nữ có 9. Như vậy khái niệm ma đơn giản chính là linh hồn và vía của con người không hại ai.
Cũng cuốn từ điển này cho rằng quỷ xuất phát từ tiếng Hán Gwei(鬼), dùng để gọi linh thể của những người đã chết. Theo quan điểm của người phương Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con người sẽ đầu thai chuyển thế vào kiếp khác. Nhưng vì một lý do nào đó, linh hồn không thể đầu thai mà vẫn lưu lại trên thế giới vật chất thì được gọi là quỷ. Còn theo Do Thái Giáo: Quỷ là các thiên thần lạc lối. Các thiên thần đều thờ phụng Đức Chúa là Thiên Chúa, trong đó vị tổng lãnh Thiên Thần là Michael. Tuy nhiên, có một thiên thần khác tên là lucifer đã nổi dậy cùng 1/3 thiên thần khác để giành quyền thống trị với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giáng phạt tống xuống đất thành tưởng quỷ Lucifer hay còn gọi là Satan, nghĩa là Kẻ Chống Đối. Qủa thế, Thánh Kinh dạy rằng “Con Rắn xưa, mà người ta gọi là quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó” (Kh 12,9). Kinh Thánh chỉ cho thấy rằng quỷ là những thiên sứ sa ngã cùng với Satan nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời. Như vậy, rõ ràng người Công giáo khi nói đến quỷ là hàm ý chỉ đến Xa-tan và các thiên thần sa ngã. Mà Thiên thần là loài thiêng liêng được Thiên Chúa dựng nên. Như vậy, khi nói quỷ Thánh kinh không bao giờ ám chỉ đến các linh hồn người đã qua đời và quỷ không có hình hài nào cả. Cho nên, người ta thường nói “ma hiền quỷ dữ”.
Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của các tà thần được mệnh danh là quỷ dữ. Qủy nó dữ không phải nơi bộ mặt hay hình dáng mà là nó luôn cám dỗ ám hại thân xác và linh hồn con người vì chưng chúng hy vọng khi làm hại được con người thì làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa quyền phép hơn chúng, thấu hiểu hết âm mưu sảo quyệt của chúng và có thể tiêu diệt chúng bất cứ lúc nào. Cụ thể, Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của quỷ dữ chỉ bằng một lời phán: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! Tên qủy lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta".
Tuy là thời đại văn minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng quỷ hiện diện khắp nơi, và thậm chí ẩn mình nơi mỗi người chúng ta để cảm dỗ và gây ác hại cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Chẳng hạn, quỷ kiêu ngạo, nó làm cho cái tôi của chúng ta lên cao để rồi mình coi ai không ra gì, không ai tốt bằng tôi, đạo đức như tôi...! Cho nên tôi sẵn sàng triệt hạ, dèm pha, chê bai, trách móc, chửi bới, xét đoán, trừng phạt kẻ khác mà quên rằng tôi là cũng là người “nhân vô thập toàn”, không có ai trên đời này hoàn hảo cả, chỉ có Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Thứ đến, con quỷ tham lam, mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta lam tham hay ăn uống thái quá đánh mất nhân tính và đánh mất tình người. Ví dụ, ngày xưa chỉ vì ham lam tiền bạc mà Giuđa bán Chúa, là Thầy mình với giá chỉ 30 đồng bạc còn hôm nay vì ham tiền không bán người như Giuđa mà giết người luôn. Cụ thể, báo Zing điện tử đưa tin: sáng ngày 21/1, Nguyễn Văn Tiến đột nhập vào nhà để ăn trộm nhưng bị phát hiện liền giết cả gia đình ông Nguyễn Văn Cường (56 tuổi) tại thôn Ia Tang, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ là người cùng làng với các nạn nhân. Hay mới đây Báo điện tử đưa tin: Anh Y del Ê-nuôi ở Đaklak nhậu xỉn ở quán nhậu, khi về nhà không thấy vợ đâu, anh đi tìm nhưng không gặp. Khi chị H’Bluân về thì 2 người nảy sinh mâu thuẫn, anh chồng đấm 2 cái vào mặt và đạp vào bụng vợ. Thấy vậy, chị H’Bluân liền vùng dậy bỏ chạy ra trước cổng. Anh ta đuổi theo rồi đấm đá liên tiếp vào mặt, lưng, đầu làm chị H’Bluân ngã xuống bất tỉnh. Được gia đình đưa đi cấp cứu nhưng chị đã tử vong do chấn thương sọ não, xuất huyết não. Con qủy tham lam đã làm hại đời người đáng sợ thay! Cho nên, Chúa Giêsu luôn nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu" (Lc 12, 15).
Rồi trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy chúng ta hãy khử con quỷ khoái lạc nơi chúng ta bằng cách hãy ăn ở tiết độ: Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, còn người có vợ thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng vợ. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng chồng”. Còn, Thánh Phêrô dạy rằng “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5,8-9).
Dù quỷ có hung ác đến cỡ nào, Chúa Giêsu vẫn trừ và loại chúng ra khỏi thân xác và tâm hồn của anh chàng thanh niên xưa và ngay cả chúng ta hôm nay. Vì chưng, Chúa là Đấng có thẩm quyền và Lời của Ngài có uy quyền trên các thần ô uế chứ không như các kinh sư. Vì vậy, chúng ta hôm nay, dù quỷ dữ đến và cám dỗ chúng ta dưới hình thức nào, chúng ta vẫn loại trừ được chúng nhờ có Lời và Thánh Thể Chúa Giêsu. Trên trần gian Chúa Giêsu đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Ngài trên thập giá. Xem như quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Chúa Giêsu sự chiến thắng vẻ vang. Vì vậy, trong mỗi Thánh lễ đều tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại, Chúa chúng ta chiến thắng quỷ dữ. Vậy, nhờ Thánh lễ chúng ta cử hành, nhờ việc sống Lời Chúa mỗi ngày, chắc chắn chúng ta được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi quỷ ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của mỗi người hầu tâm hồn chúng ta thật sự là đền Thánh Đức Chúa Trời ngự và cuộc sống chúng ta đầy ấp tình Chúa và tình người.
Lạy Chúa, xin thăm viếng chúng con, và đuổi xa mọi âm mưu ma quỷ. Xin sai thiên thần Chúa đến ở đây, để gìn giữ chúng con bình an, và xin tuôn đổ phúc lành trên chúng con luôn mãi. Amen.
70.Chữ tín
Những câu chuyện chung quanh chữ tín gần đây đã làm cho nhiều người dở khóc dở cười, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống người giáo dân. Đó là câu chuyện tín dụng, chuyện giật hụi, chuyện biển thủ... Tất cả đều là những hình thức lợi dụng chữ tín để lừa đảo, để lường gạt. Nó cho thấy ngoài sự lỏng lẻo về cung cách quản lý của nhà nước, còn có một sự khủng hoảng về chữ tín, về niềm tin, một sự sút giảm về phương diện đạo đức trong xã hội. Đạo đức trở thành thứ yếu trên bậc thang giá trị của những liên hệ giữa người với người. Vậy thì chúng ta phải làm gì để lấy lại niềm tin, để dựng lại chữ tín.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ rao giảng của mình tại Capharnaum. Nội dung và cung cách rao giảng của Ngài xuất phát từ cơ sở của chính bản thân Ngài chứ không dừng lại ở những điều đã học trong sách vở, trong truyền thống như bọn luật sĩ và biệt phái. Giáo lý của Ngài làm cho nhiều người tin tưởng và tuân theo. Lời của Ngài đã được đón nhận như là lời của Đấng có thẩm quyền.
Thâm quyền đó khởi đầu từ cuộc đời hội nhập với nhân loại trong đêm giáng sinh, chấp nhận cắm lều ở giữa con người. Ngài đến không phải để đàn áp, dùng quyền lực khuất phục người khác, làm cho người khác phải tin theo. Ngài cũng không dùng ngay cả những quyền năng của mình để lôi cuốn, hấp dẫn để họ tin tưởng một cách mù quáng vào Ngài. Thẩm quyền của Ngài thể hiện qua lời rao giảng, rao giảng cách nhưng không bằng chính tình thương của Thiên Chúa, xác tín con đường cứu độ của mình và chấp nhận mọi gian nan thử thách cho đến chết và chết trên thập giá.
Giá trị mới trong mối tương quan giữa người với người cần phải được xây dựng trên chữ tín, một thái độ xuất phát từ chính bản thân mình, như một người có thẩm quyền chỉ biết sống yêu thương và phục vụ, thầm tin tưởng rằng: Phẩm giá của mình và của mọi người là cao quý. Do đó cần phải chung lưng hợp tác với nhau để giải quyết những khó khăn trong đời sống, chứ không phải tìm cách lừa dối nhau, bon chen tranh dành phần lợi cho mình trên sự thiệt thòi của người khác.
Chúa Giêsu đã lấy chính bản thân mình làm bảo chứng cho niềm tin, còn chúng ta thì sao? Con người chúng ta có phải là một bảo chứng cho niềm tin, hay là chúng ta cũng chỉ là một phường lừa gạt dối trá mà thôi, để rồi một sự thất tín vạn sự chẳng tin. Và cuối cùng, không còn một ai dám đặt niềm tin tưởng nơi chúng ta nữa.
71.Chúa Giêsu và dân chúng
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con, những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận, tiếp xúc và nâng đỡ họ.
Ngày kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông, bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy vọng.
Một đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương của Thiên Chúa.
Mặc dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta. Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.
72.Ma quỷ
Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây dựng trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland vào năm 1949. Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau khi được nhận vào bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu được trừ tà và được cứu thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô Washington. Một vị linh mục già trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy tại sao đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của Satan vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên Chúa không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một biến cố chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt dọc dòng lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn tất. Đó là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước Cha trị đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và chăm sóc để Nước Chúa được đâm bông kết trái.
Câu hỏi thứ hai được đưa ra đó là tại sao Nước ấy lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao vương quốc của Satan lại lâu tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những lệnh truyền của Chúa. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành giới luật yêu thương của Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm chí cả những người thân yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những công việc bên ngoài đến nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng ta không biết dừng lại để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những tạo vật xinh đẹp, đáng được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên Chúa yêu thương vậy.
Hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày một trị đến, đồng thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực Satan.
73.Bóng tối
Khi còn học ở Chủng Viện, tôi vẫn còn nho như in những bài tu đức đã được các cha giáo dạy dỗ, phải chấp nhận "đau" để biến đổi thành người tốt. Chứ không chịu hy sinh không chịu "đau" thì không thể trở thành người hữu ích, trở thành người mục tử tốt. Ngài lấy ví dụ việc uốn nắn con người cũng giống như uốn nắn một cây kiểng vậy. Người ta cần phải cắt, tỉa để nó mới trở thành một cây kiểng hữu dụng, cây kiểng đẹp được nhiều người thích, nếu không thì nó chỉ giống như cây rừng đáng cho người ta quang vào lửa mà thôi.
Mặc dầu tất cả chúng tôi đều biết điều đó, nhưng nhiều lúc chúng tôi cũng chỉ sống như Phaolô cảm nghiệm: "Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,15) hay "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7,19). Đúng là bóng tối thì luôn ghét ánh sáng. Và khi ánh sáng thâm nhập thì nó lại luôn muốn chống đối và xa cách không chịu sửa đổi. Vì vậy khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?". Như vậy có thể hiêu câu nói của người đàn ông đó là "Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc, tôi không muốn được Ngài biến đổi tôi".
Lời từ chối đó cũng là chuyện thường tình, vì "bóng tối" thì luôn sợ "ánh sáng" xâm chiếm, vì mỗi sự biến đổi là một sự đau đớn. Đã có những cảm nghiệm về tác hại của bóng tối, và sự nguy hiểm của nó làm cho chúng ta không thể lớn lên được. Chính điều này đã được cảm nghiệm thật xâu sắc nơi Đức Giám Mục GB. Bùi Tuần, ngài đã chia sẻ như sau: Cuộc đời của tôi được soi sáng bởi Lời Chúa: "Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại không bóng tối" (Ga 12,46). Nhưng không phải vì thế mà tôi đã luôn tránh được những bóng tối. Trái lại, bóng tối vẫn chen vào cuộc đời tôi. Xung đột giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra thường xuyên gay gắt.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút về các thứ bóng tối mà tôi phải đối phó.
Chia sẻ của tôi dựa vào kinh nghiệm bản thân nhiều hơn là lý thuyết.
Có ba loại bóng tối đáng để ý thường ảnh hưởng đến đời sống đạo.
1/ Bóng tối cá nhân
Bóng tối nói đây gồm mọi thứ tiêu cực trong mỗi người. Như tính hẹp hòi, thiếu hiểu biết về Lời Chúa, thiếu học hỏi về lịch sử Hội Thánh, lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới. Thiếu cái nhìn đầy đủ về thời sự. Thiếu nghiên cứu đúng đắn về những môn khoa có liên quan đến đạo. Thiếu khách quan trong những phán đoán. Nhất là đầy định kiến, thiếu khát khao đi tìm sự thực đạo đức.
Mới rồi, tôi nghe người ta thuật lại phát biểu của một tín hữu: "Làng tao có hai thằng đã được phong thánh. Ai dám coi thường quê tao là sẽ đụng đến tính anh hùng truyền thống của quê tao. Sẽ có chết đấy". Tôi nghe mà rợn tóc gáy, vì nhìn thấy bóng tối cá nhân đó đáng ghê sợ, có khả năng làm méo mó sự thánh thiện của các thánh trong đạo chúng ta.
Trên thực tế, không thiếu người có đạo đã có những chọn lựa, phán đoán và hiểu biết sai lầm, do những bóng tối cá nhân của mình che khuất sự thực và thánh ý Chúa.
Phúc Âm kể nhiều trường hợp như thế. Thí dụ khi các ông Pharisêu trách Chúa Giêsu đã để các môn đệ Người bứt lúa mà ăn cho đỡ đói, Chúa Giêsu đã trả lời: "Tôi muốn lòng nhân từ chứ đâu cần của lễ" (Mt 12,7). Với lời đó, Chúa Giêsu đã vạch rõ định kiến của giới Pharisêu, tuy có vẻ đạo đức, nhưng thực sự đó là bóng tối.
2/ Bóng tối tập thể
Bóng tối chung của tập thể thường thấy ở các dư luận và lối sống của những tập thể, những nhóm, những giai cấp, những địa phương.
Một ví dụ rất biểu tượng, đó là những lời kết án Chúa Giêsu của tập thể dân chúng trước quan Philatô. Phúc Âm kể: "Ông Philatô hỏi: Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái? Họ liền la lên: Đóng đinh nó vào thập giá! Ông Philatô lại hỏi: Nhưng ông ấy có làm điều gì gian ác đâu. Họ càng la to: Đóng đinh nó vào thập giá" (Mc 15,12-14).
Lời kết án đó đúng là một bóng tối dày đặc che phủ tập thể. Bóng tối đó được tạo nên do kích động bởi các tư tế.
Tôi thấy dư luận và ý kiến tập thể có nhiều điều tốt, nhưng, như trường hợp trên đây, nó cũng có nhiều sai trái.
Hiện nay, bóng tối tập thể trong đạo đang phát triển mạnh. Có những nước công giáo trước đây đã nêu gương tốt về giữ đạo và truyền giáo. Nay bóng tối đã phủ khắp. Có vùng việc bỏ lễ Chúa nhật, việc ly dị, trở thành bình thường. Có những tổ chức tu trì xưa nêu gương sáng về đức khó nghèo, nay bóng tối đã dày đặc. Khó nghèo trở thành khó mà nghèo.
3/ Bóng tối cơ chế
Bóng tối cơ chế là những xuống cấp do chính luật của cơ chế, hoặc do những lệnh và gương xấu của những bề trên cơ chế.
Chúa Giêsu nhiều lần đã nói tới bóng tối trong cơ chế hồi đó. Thí dụ lời Người nói sau đây: "Anh em biết: Những người được coi là thủ lĩnh các dân, thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,42-45).
Trên đây là cơ chế, mà Chúa Giêsu muốn được thiết lập trong đạo của Người. Ý muốn đó của Chúa đã và đang được thực hiện tại nhiều nơi trong Hội Thánh. Tuy nhiên, cũng phải thành thực nhìn nhận có những cơ chế không còn toả sáng nữa, nhưng đã trở thành mù mịt bởi nhiều bóng tối.
Trong một số cơ chế đạo, những người đứng đầu đã trở thành một thứ vua chúa, nắm quyền lực, hãnh diện vì được phục vụ và hưởng thụ còn hơn là người đứng đầu cơ chế thế gian.
Trên đây là một thoáng nhìn về những bóng tối trong cuộc sống đạo. Những bóng tối ấy đang ảnh hưởng mạnh đến các lựa chọn của chúng ta giữa chợ đời.
Ai sẽ cứu chúng ta khỏi sự thống trị của các bóng tối ác nghiệt đó? Ai sẽ giúp chúng ta chiến đấu với những bóng tối quỷ quyệt và hung dữ đó? Thưa: Chúa Giêsu. Hãy tin vào lời Người hứa:
"Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại trong bóng tối" (Ga 12,46).
Lạy Chúa, xin cho con dám can đảm từ bỏ những u mê cám dỗ, xa cách những bóng dêm quỷ quyệt của ma quỷ. Biết chấp nhận Aùnh Sáng Chúa Kitô để làm ngọn đèn soi dẫn đời sống chúng con. Amen.
74.Chúa Nhật 4 Thường Niên
Trong sách Giáo lý Công Giáo, chúng ta đã học biết Thiên Chúa dựng nên loài cao trọng là thiên thần và con người. Tuy nhiên trong số các thiên thần, có một số thiên thần do kiêu ngạo đứng lên chống báng Thiên Chúa nên bị Tổng lãnh thiên thần Micae đánh đuổi ra khỏi thiên đàng, nó là thần dữ, là ma quỉ. Vì thế ma quỉ là loài thiêng liêng, có quyền năng hơn con người, nó luôn theo đuổi con người để dụ dỗ con người đi theo con đường kiêu căng, sống dối trá như nó. Nó muốn cám dỗ để con người sa ngã theo phe nó. Càng đông người theo nó thì nó càng thích.
Trong Kinh Thánh cũng đã trình bày ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu ăn chay sau 40 đêm ngày ăn chay trong hoang địa,
Ngày nay ma quỷ càng tinh vi hơn, sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo hơn nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui vật ngã rồi. Đây là một thái cực mới đi lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta dễ sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê ghớm, gây kinh hồn hoảng vía, cho nhiều người, thậm chí lại còn thấy chúng ở khắp mọi nơi nữa. còn ngày nay, nhờ khoa học kĩ thuật tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì đến cuộc đời con người tại thế.
Phải nhìn nhận rằng ngày nay con người nhờ khoa học tiến bộ, nó đã có tác dụng lớn lao trong việc xua đuổi ma quỷ ra khỏi xã hội con người. ở đâu có đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, những tán cây cổ thụ to lớn mà người ta thường tin là có ma quỷ ngự trị, thì chỉ cần sửa sang đường sá, dựng lên mấy cốt đèn điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự, hay thẩn thơ ngóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. Rõ ràng dễ thấy nhất là ở những nơi thành thị, dường như người ta không còn nghe nói ở đó có ma có quỷ gì nữa. Trẻ con còn thể an tâm chạy một mình trên các đường phố có đèn đường đầy ánh sáng, và cả trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Tuy nhiên ở với miền quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, thì người lớn và cả trẻ con đều không dám dạn dĩ ra đường, phần lớn vì "sợ ma", nhất là nếu gần đấy là nghĩa địa hay nơi có mồ mã nào đó, thì người ta càng dễ dàng sở hãi hơn.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta chắc chắn ma quỷ là có thật và càng không thể coi thường vì sự hoạt động và sự phá hoại của nó trên đời sống con người trên trần gian này. Dĩ nhiên cũng phải nói rằng ảnh hưởng và sức phá hoại của nó nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn. Nên chúng ta cũng cần phải đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ hằng ngày chúng ta phải cảnh giác để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng vội gán tội cho satan, cho ma quỷ, đổ lỗi cho chúng tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Thánh Kinh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng đối với Đức kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mạng của Thiên Chúa, người ấy cũng có thể đáng gọi là Satan, là đối thủ, là kẻ cám dỗ. chứng cớ là Thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng là Satan, là ma quỷ, khi ông tỏ ra ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người. Như vậy, khi nhìn nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nạh6n một thực tại khác không kém phần quan trọng đó lả sự ác, sự xấu tội lỗi,... không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ của chúng lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ "nội hóa", được sản xuất ngay từ nội tâm của mỗi ngưòi. Chúng ta không dè rằng satan kẻ cám dỗ, chính là chúng ta. Không ai muốn nhận rằng mình là Satan, là kẻ cám dỗ có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động tári với chân lý, công bằng và bác ái. Bởi thế vấn đề quan trọng không phải là chúng ta đỗ lỗi cho ma quỷ. Trái lại mọi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của chân lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi ma quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết tự mình đừng bao giờ xúi giục cám dỗ, anh em mình làm điều xấu, diều ác, điều dữ, điều tội lỗi. đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
Chúng ta hãy sáng suốt nghe và làm theo thiên thần bản mệnh hằng gìn giữ ta ngày đêm, lắng nghe để thực hiện ý Chúa, đồng thời nhờ ơn trợ giúp của Chúa ban để chúng ta biết sống theo ý Chúa và càng biết luôn làm đẹp lòng Chúa.
75.Ma quỷ
Có một bác nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên tai bác: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế nhưng bác đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỉ. Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không những do sách vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan. Thật là một lầm lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó, hay ở trong một người nào khác chứ không phải ở trong tôi.
Thực sự thì ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.
Con quỉ kiêu hãnh ở trong nhiều người. Hãy chiến đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng cũng hãy cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật quan trọng do công nghiệp và tài năng riêng của tôi.
Con quỉ mê ăn uống luôn thôi thúc chúng ta ăn quá nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không còn biết tiết độ là gì nữa.
Con quỉ khoái lạc thì đến với chúng ta bằng một bộ mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng minh trợ giúp như sách báo và phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…
Tuy nhiên, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa. Trong quãng đời công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại. Thế nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong việc giết chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã đem lại sự chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm Phục sinh của Ngài.
Hãy tìm kiếm xem đâu là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi lòng chúng ta, rồi sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che như kinh chúng ta vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
76.Ma quỷ
Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
- Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự Thiên Chúa.
Vậy phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.
Con đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người ta có thể gọi quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên dối trá, là kẻ cám dỗ… Tất cả chỉ là một thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ.
Cần phải nhận ra quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân phận con người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma quỉ đúng là một kẻ thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là người mạnh mẻ hơn nó nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang vì đã tiêu diệt được Ngài.
Chiến thắng của Ngài là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết và cũng là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối đầu với tên thủ lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn Đức Kitô thì giải thoát chúng ta.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín tôn giáo.
Khi nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
77.Trong đời
Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần, tức là ma quỷ. Ma quỷ thế nào? Ngày nay chúng còn hoạt động trên trần gian không?
Trước hết, thiết tưởng cần phân biệt ma và quỷ. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt Nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma quỷ. Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe dọa hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn quỷ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đày xuống hỏa ngục. Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xảy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Chúa, để đương sự nhắn bảo một điều gì đó với người sống, hay do ủy nhiệm riêng Chúa trao phó cho đương sự, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn quỷ thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh Thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ.
Như vậy, quỷ có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này. Nhưng sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo, nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Đây là một thứ thái cực mới đi ngược lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia, khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê gớm, gây “kinh hồn táng đởm” cho nhiều người, thậm chí lại còn nhìn thấy chúng ở khắp nơi nữa. Còn bây giờ, khoa học tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là một chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì với cuộc đời con người tại thế.
Phải công bình nhận định rằng: khoa học đã có tác dụng lớn lao trong việc trừ ma đuổi quỷ ra khỏi xã hội con người. Ở đâu dân trí được nâng cao, đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, với bóng cây đa cổ thụ mà người ta thường tin là nơi có ma quỷ ngự trị, chỉ cần sửa sang lại đường sá, dựng lên mấy cột điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự hay thẩn thơ hóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. rõ rệt nhất là ở thành thị, ít ai nghe nói chỗ này chỗ kia có ma có quỷ, trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Nhưng ở thôn quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, không chỉ trẻ con mà cả người lớn, không dám ra ngoài ngõ, nhất là nếu gần đấy có nghĩa địa hay mồ mả nào đó, thì người ta lại càng sợ hãi hơn nữa.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta, điều chắc chắn là quỷ có thực và không chỉ coi thường hoạt động cũng như sự phá hoại của chúng trên đời sống con người ở trần gian này… Dĩ nhiên cũng phải nói ngay: ảnh hưởng và sức phá hoại của chúng nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn, nên chúng ta cũng cần đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta chớ lầm và đừng vội gán cho Satan, đổ lỗi cho quỷ dữ tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Kinh thánh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng một điều đáng suy nghĩ là đối với Đức Kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mệnh Thiên Chúa, người ấy cũng đáng gọi là Satan, đối thủ hay là kẻ cám dỗ. Chứng cớ là thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng, gọi là Satan, khi ông tỏ ý ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người.
Câu chuyện thánh Phêrô bị quở mắng và bị coi là Satan làm chúng ta nghĩ đến những câu chửi rủa mà người Việt Nam hay dùng như: “đồ quỷ”, “thằng quỷ”. “con quỷ”, “quỷ sứ”, “nó ra ma ra quỷ”, “đến quỷ cũng phải chịu mày”… Những câu chửi rủa đó thường được áp dụng cho những kẻ nghịch ngợm. Thì ra người Việt Nam cũng đã khám phá ra rằng: ngoài thứ quỷ mà Kinh Thánh nói tới, còn có những thứ “quỷ đen đầu: có thực, bằng xương thịt, sống bên cạnh chúng ta hằng ngày, đó chính là những người anh em nhân loại của chúng ta.
Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm mỗi người. Chúng ta không dè rằng Satan, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ, nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái.
Bởi thế, vấn đề quan trọng không phải là cái gì cũng đổ lỗi cho quỷ, trái lại, mỗi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết, tự mình đừng bao giờ xúi giục, cám dỗ anh em làm điều xấu, điều ác, điều tội lỗi; đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
78.Quyền năng
Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ 19. Vốn là một học giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng rãi, ông trở nên một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông. Ông là một kẻ thù ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong những bài tiểu luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng mình sống đến mức độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của người nào mang nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ bất cứ thuyết trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong, hoặc từ kinh nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì như một khán giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên chứng cứ của một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài. tôi có thể tự mình làm được điều đó”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã “làm cho dân chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên các thính giả của Người? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn luôn nói từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người khác. Nhưng đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi người đều không ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như thế”.
Trong đời sống thiêng liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất nói với quyền năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có quyền năng nào giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự mới mẻ và trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng một loại kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế nào đó, thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó, thì tôi lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là từ trong sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.
Điều này đã gây được ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính là quyền năng mà Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một vị trí chính thức nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta không cần phải giữ một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn trái ngược lại. Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người riêng của họ. Người đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái. Trong khi người không nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do để nói đúng điều cần phải nói.
Trong thời của Đức Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của mình. Ông ta luôn luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa vào những lời trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời phê phán độc lập.
Đức Giêsu nói với tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người. Người không hề biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh, hoặc câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng chứng tỏ rằng người đó thiếu năng quyền mà thôi.
Về một khía cạnh, chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía cạnh, phải phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng vĩ đại nhất về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng nhất, lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.
Có một số người có tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được. Điều này đem đến cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền này, không phải là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của họ. Đây là năng quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự. Điều này bắt nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng quyền này, thì người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một người phát ngôn mà thôi.
Đức Giêsu đã có loại quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào khác đạt được. Mỗi người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều có thể và nên có loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống theo tính cách của một con người chính trực trong suốt.
79.Quyền năng
Ngày nay, chúng ta có quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật đáng chán khi có thể dự đoán được điều mà họ sẽ nói. Có quá ít người nói bằng quyền năng thực sự. Lúc này, thật vô cùng đáng nghi ngờ về những lời nói của những kẻ có quyền. Có thể người ta phải tuân theo những lời tuyên bố về mặt chính sách, nhưng không ai nghiêm túc coi họ như là những người có quyền năng.
Nếu có nhiều nhân vật của quần chúng bị thiếu mất sự tin tưởng của dân chúng thì điều gì gây tổn hại đến lòng tin? Đó là khi người nói không còn tin tưởng vào lời mình đang nói nữa. Tôi không thể nói được một cách đầy đủ về điều mà tôi không tin tưởng, bất kể tôi thường xuyên lập đi lập lại những lời nói này đến thế nào.
Vậy thì tính cách của người nói rất quan trọng. nếu tính cách của người đó bị nhiều khuyết điểm, thì lòng tin của người đó bị xói mòn một cách trầm trọng. Bạn nhận thấy khó mà uống loại rượu nào được rót ra từ một cái lon đựng rượu đã bị rỉ sét hoặc dơ bẩn. Và khi người nói không sống theo những lời nói của bản thân mình, thì có lẽ đây là điều gây tổn hại nhất. Emerson đã nói về điều đó như sau: “Xin đừng nói nữa. Điều nào có giá trị trên con người của bạn, thì lại quá vang rền, đến nỗi tôi không thể nghe được điều trái ngược lại”.
Định mệnh vĩ đại trong sứ mạng của Đức Giêsu được dành cho việc rao giảng. Và lời giảng dạy của Người lại quá khác biệt, so với những người rao giảng chính thức vào thời đó – các kinh sư. Không có một kinh sư nào diễn tả ý kiến của riêng mình. Ông ta luôn luôn bắt đầu bằng cách nêu ra quyền năng của ông ta. Trái lại, Đức Giêsu nói bằng tiếng nói của chính Người, và Người không cần đến tiếng nói khác. Người không hề nêu ra năng quyền nào, và không hề trích dẫn câu nói của bất cứ chuyên gia nào, tuy nhiên, Người vẫn nói bằng một quyền năng vĩ đại. Người không hề có bất cứ chức vụ chính thức nào. Vậy thì quyền năng của Người xuất phát từ đâu? Năng quyền đó đến từ sự kiện là Người đã nói lên sự thật: “Một lời nói sự thật đáng giá cả thế giới” (Ngạn ngữ Nga). Ngoài ra, lời giảng dạy của Người mới mẻ, trực tiếp và có sự trong suốt về sự thật. Chẳng hạn một số câu nói như “Không ai có thể làm tôi hai chủ được… Một thành phố xây dựng trên núi không thể che giấu được… Con lạc đà không thể chui qua lỗ kim…”
Lời giảng dạy của các kinh sư không đem lại thỏa mãn cho dân chúng. Còn lời giảng dạy của Đức Giêsu lại nuôi dưỡng được tâm hồn và tinh thần con người. Có một số người giảng dạy chỉ cung cấp các sự kiện mà thôi. Người khác lại cung cấp được tầm nhìn, cảm hứng và ý nghĩa cuộc sống nữa. Và tất nhiên là năng quyền của Đức Giêsu xuất phát từ tính cách của Người một tính cách khiến cho dân chúng buộc phải lắng nghe Người. Thế rồi lại có lúc Người chứng tỏ lời nói của Người bằng những hành động cụ thể. Mặc dù thánh Marcô nói rằng “Dân chúng sửng sốt vì lời giảng dạy của Người”, ngài không kể cho chúng ta nghe Đức Giêsu nói gì. Dường như điều này lại càng chứng tỏ rằng con người của Đức Giêsu chính là một bài giảng rồi. Vào một buổi sáng sớm, có một người đàn ông đang đi dạo bên ngoài. Bầu trời trong sáng. Ông ta nghe được tiếng ồn của một máy bay phản lực tại một nơi nào đó. Ông dừng chân nhìn xem, để có thể xác định vị trí. Dõi theo âm thanh, ông nhận thấy dường như chiếc máy bay đó ở ngay trên đầu ông. Nhưng không phải vậy, ông đã tìm kiếm, và không thấy máy bay đâu cả. Thật ra ông nhìn thấy một vết hơi nước trên bầu trời. Nhìn theo dấu vết này, cho đến tận nơi xuất phát của nó, ông phát hiện ra chiếc máy bay – một hình tam giác màu trắng có thể nhìn thấy được một cách rõ ràng trên vòm trời xanh. Chiếc máy bay đã bay đi xa rồi, trong khi âm thanh của nó vẫn còn ở ngay đầu ông. Nhưng âm thanh đó quá lớn, để có thể đánh thức được cả kẻ chết.
Theo một cách nói, chiếc máy bay đã hành động trước, rồi phát ra âm thanh sau. Nói một cách lý tưởng, đây là cách rất hay – hành động nên đến trước lời nói. Người ta sẽ lắng nghe, nếu một người bắt đầu nói, sau khi đã hoặc đang làm một việc gì đó. Những lời nói của người này thật nặng ký. Những lời nói đó có quyền năng thực sự. Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng người ta sẽ tin tưởng việc bạn làm. Nhiều lời nói không có tác dụng, vì trước đó, hoặc đồng thời, hoặc sau đó, không có những hành động đi đôi với lời nói.
Trong những lời nói của Đức Giêsu, có của ăn nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta. Nhưng chỉ lắng nghe mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải sống theo Lời Chúa nữa. Nếu không sống theo sự thật, thì chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ.
80.Mặc chúng tôi
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”. Trên thực tế, điều mà người đàn ông đó đang nói là “Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc”.
Đây là một tiếng kêu mà chúng ta đã từng được nghe trong Tin Mừng, từ những người cho rằng mình bị quỉ dữ chiếm hữu. “Đừng can thiệp vào chuyện chúng tôi. Hãy để mặc chúng tôi. Đừng tìm cách thay đổi chúng tôi“. Họ nhận ra rằng sự thay đổi đó gây đau đớn. Chúng ta không biết rằng họ có bị quỉ dữ chiếm hữu hay không. Nhưng chúng ta biết rằng họ là những người bị bệnh hoạn, đổ vỡ, cô độc, không được yêu thương, không hề có nhân phẩm, và giá trị bản thân của họ là con số không.
Trong thế giới của chúng ta ngày nay, có nhiều người như vậy – trong các nhà tù, bệnh viện tâm thần v.v… Bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể lâm vào tình huống đáng tuyệt vọng này. Ít nhất, người đàn ông trong hội đường đã không cố gắng che giấu tình trạng của mình. Anh ta đến với Đức Giêsu. Người không hề lảng tránh sự kêu gọi đầy tuyệt vọng của anh ta. “Hãy để mặc tôi!”. Đức Giêsu nghe thấy rằng đó là một tiếng kêu gọi sự giúp đỡ. Và người đã chữa lành cho anh ta.
Người cảm thấy thật khó mà thừa nhận rằng họ không thể xoay xở được, đối với những vấn đề của bản thân mình. Lòng tự hào nói với họ rằng: ta nên tự giải quyết những vấn đề của mình. Nhưng sự nhận ra mình có vấn đề chính là bước đầu tiên hướng tới sự phục hồi. Khi chúng ta biết thừa nhận sự yếu đuối và nhu cầu của mình, thì sẽ mở lối cho sự phục hồi. Những người can đảm mới đi xin cố vấn.
Các nhà tâm lý học nói với chúng ta rằng đôi khi, người ta không thực sự mong muốn được chữa trị. Tại sao vậy? Bởi vì việc chữa trị gây đau đớn – Điều này lôi kéo theo một quá trình đòi hỏi nhiều sự thay đổi, và tất cả những sự thay đổi đều đau đớn. Ý tưởng được phục hồi thậm chí càng có thể khủng khiếp hơn nữa.
Thông thường, chúng ta hay e sợ khi phải nói về một điều gì đó gây đau lòng cho chúng ta. Chúng ta muốn khóa chặt trong tâm hồn mình, để rồi lại cứ day dứt mãi. Có thể chúng ta không nói rằng “Hãy cứ để mặc tôi” nhưng như thế, chẳng khác gì câu nói “bạn không thể biết được, bạn không thể hiểu được tôi đâu”. Chịu đựng đau khổ mà không chịu nói ra, lại càng gây tổn thương hơn, so với nỗi đau khổ nào được bộc lộ ra.
Vừa khi đứa con trai chào đời, một bà mẹ trẻ khám phá ra rằng cháu bé bị mù. Chị gọi cả gia đình lại và nói: “tôi không muốn con trai tôi biết cháu bị mù”.Chị khẩn khoản xin mọi người tránh sử dụng những từ như “ánh sáng”, “màu sắc”, và “tầm nhìn”, đứa trẻ lớn lên, trong niềm tin tưởng rằng mình giống như tất cả những người bình thường khác, cho đến một ngày kia, một bé gái xa lạ nhảy qua bức tường của khu vườn, và đã sử dụng tất cả những từ bị cấm đoán trên đây.
Câu chuyện trên tượng trưng cho nhiều thái độ sống của chúng ta. Tất cả chúng ta đều tìm cách che giấu những điều kỳ lạ và gây đau đớn, và cứ sinh hoạt như thể mọi sự đều bình thường vậy. Chúng ta làm như mình không hề có vấn đề gì, không có gì là bất thường, không có nỗi đau, không có vết thương, không biết thất bại là gì cả. Ý tưởng thôi thúc người ta che giấu rất mạnh mẽ, và còn có thể gây tác hại hơn cả cố gắng giấu giếm.
Khi chúng ta có can đảm dám đương đầu với những vấn đề của mình, thì những năng lực mới mẻ trở nên sẵn có đối với chúng ta. Nỗi sợ hãi, xấu hổ, và mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta ở lại trong tình trạng cô lập. Chính nhờ sự bộc lộ những vết thương, nhờ để cho mình đụng chạm và được đụng chạm vào, mà chúng ta được chữa lành. Chính trong sự đổ vỡ của chúng ta, trong vết thương của chúng ta, mà Thiên Chúa chữa lành cho chúng ta – nếu chúng ta tạo cho Người một cơ hội.
81.Giêsu Nagiarét
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai? Tôi xin thưa Ngài là một người như chúng ta.
Trước hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm và khinh dể khi nghĩ về nó:
- Từ Nagiarét nào có sự gì tốt đâu.
Tiếp đến, Ngài cũng có một gia đình. Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng. Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm sống.
Mẹ Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết đến.
Cũng như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội. Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có một gia đình và có một tổ tiên.
Thời bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh. Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói năng như họ.
Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
- Bởi đâu mà Ngài được như thế.
Thánh Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả, có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất vưởng:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng chèo qua bên kia bờ hồ.
Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian, cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu, chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.
82.Chúa Nhật 4 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi đi qua phà, nhìn thấy những người bán hàng rong đang ung dung chào mời khách, bổng nhiên họ hốt hoảng và bỏ chạy. Tôi còn đang ngạc nhiên thì thấy một anh bảo vệ từ đàng xa đến. Thì ra thế, họ sợ người bảo vệ, vì họ không được phép bán hàng trên phà. Nhưng rồi cũng có những lần khác, tôi cũng nhìn thấy những người bán hàng ung dung đi lại và buôn bán thoải mái trên phà cho dù các anh bảo vệ vẫn đi nhởn nhơ qua lại. Tôi chợt suy nghĩ: các người bán hàng chỉ sợ một số nhân viên bảo vệ nào đó mà thôi, chứ không phải họ sợ hết tất cả mọi nhân viên của bến phà. Họ chỉ sợ những người có uy quyền, còn những người khác thì họ xem chẳng ra gì.
Những người Do thái cách đây 2000 năm cũng thế. Họ vào hội đường để nghe giảng dạy theo như lề luật đã qui định. Họ đến hội đường thường xuyên quá, cho đên nỗi dường như họ xem thường và có vẻ như nhàm chán. Nhưng hôm nay, một bầu không khí mới đã bao trùm cả hội đường. Một Đấng có uy quyền thật sự, giảng dạy bằng chính uy quyền của mình, chứ không phải rập theo khuông mẫu nhất định. Uy quyền đó còn tỏ hiện cách kỳ lạ qua việc khống chế tà thần, không cho nó nói và còn đuổi ra không cho làm hại con người. Một uy quyền thật sự, không chỉ có con người nhìn thấy, nhưng cả ma quỷ còn phải khiếp sợ. Đó là uy quyền của Thiên Chúa.
Uy quyền của Thiên Chúa trải dài qua mọi thời đại. Nhưng nếu ai chịu để ý thì mới nhận ra được. Chúng ta có nhận ra quyền năng Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của mình không? Nếu chúng ta có một chút suy tư, thì quyền năng của Ngài luôn trải dài trên con người, trong từng biến cố của cuộc sống. Nhìn vào con người thấp hèn của mình đi, chúng ta sẽ thấy: cả một sự tinh vi đã được tính toán cách tài tình, mà con người không thể hiểu nỗi. Nếu Thiên Chúa không có uy quyền thì con người không thể tồn tại, thân xác nầy luôn thay đổi nhưng vẫn là thân xác riêng biệt của từng người, không thể lẫn lộn được. Cho dù thân xác của một người trải qua bao nhiêu năm, từ trẻ đến những ngày già lão rồi chết đi. Bao nhiêu tế bào đã thay đổi nhưng cũng chỉ là thân xác của một con người. Rồi hệ tuần hoàn, các bộ phận trong cơ thể của mỗi người. Cho đến bây giờ vẫn chưa có ai sáng chế ra cái gì khác để thay thế được. Vậy mà chúng ta vẫn còn thờ ơ, chúng ta chưa nhìn thấy Thiên Chúa luôn ở bên cạnh mình. Nếu chúng ta nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống thì chắc cuộc đời mình đã thay đổi nhiều, không còn tình trạng như hiện tại.
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình xem: bao nhiêu sự kiện lạ lùng xảy đến cho đời sống, nhưng chúng ta vẫn nằm yên bất động, vì chúng ta cho rằng đó là tự nhiên, may mắn. Tại sao chúng ta không chịu để tâm suy nghĩ: đó là quyền năng, là thánh ý của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, để rồi tìm cách sống cho xứng đáng hơn với những gì Thiên Chúa đã ban cho mình. Nếu được như thế thì chắc Thiên Chúa sẽ vui mừng khi chúng ta nhận ra được quyền năng của Ngài, và Ngài cũng sẽ rất hài lòng để tiếp tục ban quyền năng của Ngài xuống trên chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết nhận ra quyền năng Chúa trong đời sống hằng ngày, để biết tìm cách sống cho xứng đáng với những gì mình đã nhận biết.
83.Uy quyền của Chúa Giêsu
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực…
Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
84.Ma quỷ
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề, Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn lợn đang ăn bên bờ biển, và cả đàn lợn lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách Satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
85.Chúa Nhật 4 Thường Niên
Người ra lịnh cho các thần ô uế; chúng phải tuân theo…
Anh chị em thân mến,
Trước năm 1975, có một cuộc trấn ếm của một ông thầy pháp, người ta kể lại: đôi vợ chồng chủ nhà vừa mới mua căn này và chưa ở được bao lâu. Họ nói: ma quỉ ban đêm hay phá quá!. Dù là công giáo, nhưng hơi kém đức tin, nên họ đã rước thầy pháp về. Ông thầy bảo: nhà này ma lắm; đó có mấy đứa con nít đu ở đầu cột đó! Ông liền lên đèn, bắt ấn, dùng dao chặt ngang vào thân cột, thấy máu chảy xuống ròng ròng, chảy tới đất là mất. Ông lấy mấy cây nhang nhỏ, đốt lên, bắt ấn, múa may, rồi cấm vào thân cây cột nhà bằng căm xe, còn bóng dợn. Người đi coi thấy cây nhang được cắm vào cây cột cách nhẹ nhàng, sâu đến cả nữa cây nhang. Họ thấy mấy chuyện lạ này, nên xem ra họ tin lắm... Kết quả qua năm sau, gia đình này vẫn bị phá. Cuối cùng họ phải bán nhà luôn!
Thực ra ta biết, thầy pháp chẳng có quyền năng gì cả; ngược lại họ làm những chuyện bề ngoài thấy kinh thiên động địa như thế, nhưng mọi chuyện đều dựa vào quyền năng của ma quỷ thôi. Một sự thật mà cả người lương vẫn phải nhìn nhận: vd. đang khi có cuộc trấn ếm như thế, nếu có ai lén dùng nước thánh rảy vào, hoặc giấu xâu chuổi gần đó, thì thầy pháp sẽ bó tay, và sẽ đầu hàng ngay. Ngược lại người công giáo chúng ta tin Chúa Giêsu, Người dùng quyền năng tự chính mình để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Người không cần nhờ ai cả. Đó chính là đề tài mà chúng ta sẽ suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn đề chúng ta cần tìm hiểu:
Việc Chúa xua trừ ma quỉ:
Khi bắt đầu cuộc đời công khai, việc làm đầu tiên của Chúa tại thành Capharnaum, là việc xua trừ tà thần ô uế, ta quen gọi là trừ ma quỉ. Câu chuyện xua trừ ma quỉ trong bài Tin mừng hôm nay, là muốn chỉ về sứ mạng thường xuyên của Đấng Cứu thế, đó là chiến đấu chống lại ma quỉ. Điều này Thánh Marcô nhắc tới nhiều lần trong Tin mừng của mình. Có nguời nói Chúa phải chiến đấu tới giây phút cuối cùng trên Thánh giá (Mc 15, 34). Nói cách dễ hiểu hơn, Marcô muốn trình bày sứ mạng của Chúa đến trần gian chính là giải thoát con người khỏi quyền lực của satan. Rồi trước khi về trời, Chúa còn ban cả quyền đó cho Hội thánh qua các tông đồ. Điều này nói lên Chúa có uy quyền đó, và uy quyền đó tự nơi chính Chúa, không ai ban cho. Chính dân chúng cũng công nhận điều đó: "Người giảng dạy như Đấng có uy quyền.." không như các kinh sư và biệt phái.
Chúa Giêsu dùng chính quyền năng mình để chữa bệnh tật, xua trừ ma quỉ: Trên đời này, muốn chữa bệnh cho người ta, bác sĩ phải dùng thuốc, hoặc dùng các phương tiện y học, mới có thể chữa được bệnh. Thầy phù, thầy pháp, đồng bóng muốn chữa bệnh, cũng cậy dựa vào người khác (ma quỉ) mới chữa được. Thực ra, với các thứ thầy này, có chữa được hay không lại là một chuyện khác nữa. Ở đây Chúa Giêsu dùng chính quyền năng của mình, để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Chính bài Tin mừng này nói lên rất rõ điều đó. Khi Chúa xua đuổi thần ô uế ra khỏi con người; chính Phúc âm ghi câu: "Chúa quát mắng ma quỉ: câm đi và ra khỏi người này!" Ngày hôm nay, Hội thánh muốn xua trừ ma quỉ, Hội thánh cũng phải nhờ vào quyền năng Chúa, nhân danh Thiên Chúa để trừ. Tự bản thân mình, Hội thánh không hề có quyền gì cả... Phúc âm còn ghi: "dân chúng khi thấy Chúa xua trừ thần ô uế ra khỏi con người, họ ngạc nhiên bàn với nhau: Giáo lý Chúa dạy thì mới mẻ; Lời Người dạy lại có uy quyền. Người ra lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng phải vâng theo!" Các điều này muốn nói: chính Chúa có quyền năng tự mình, không cần ai ban cho. Vì thế, Ý muốn và Lời Chúa tự nó có sức mạnh, chữa các bệnh tật, xua trừ ma quỉ; cũng chính Lời đó có sức biển đổi thế giới. Chính sách Sáng thế ký đã ghi: "Lời Chúa phán có sức tạo thành vũ trụ", và Lời Chúa đó cũng chính là Thiên Chúa quyền năng...
b/. Câu chuyện: Người công giáo bên Phi luật tân chiếm hơn 90% dân số; vì thế đạo công giáo gần như là quốc giáo. Các trẻ em khi lớn lên, sẽ được học giáo lý trong trường học của nhà nước, dù là công giáo hay không. Giáo lý công giáo là môn học chính thức trong trường; ai đủ điểm môn này sẽ được rước lễ lần đầu, hoặc được lãnh Bí tích Thêm sức, hoặc được cử hành hôn phối. Vì vậy, nhà thờ không phải dạy giáo lý...Vì những lẽ nêu trên, đi khắp đất nước Phi, ở đâu người ta cũng thấy nhan nhãn những câu Lời Chúa được dán lên, nhắc nhở mọi người nhớ đến Chúa, nhất là đem Lời Chúa ra thực hành ngay trong đời sống.
Lời Chúa đã khích lệ, động viên các tín hữu Phi sống tốt và sống chính giây phút hiện tại. Cũng chính vì Lời Chúa có sức mạnh biến cải tâm hồn con người như lời thư gởi tín hữu Do thái: "Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén như gươm hai lưỡi..." (Dt 4, 12). Chính phép lạ xua tà thần ô uế nói lên Lời Chúa có sức biến đổi, vì Lời Chúa chính là uy quyền của Con Thiên Chúa; uy quyền đó có tự bản thân mình, không phải ai khác đã ban cho...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của satan, của tiền bạc vật chất, của tội lỗi, tánh hư tật xấu là những cái thuộc về sa tan. Là người kitô hữu, ta có sẵn sàng cộng tác với Chúa, xua trừ ma quỉ và tội lỗi, ra khỏi con người chúng ta và của anh em xung quanh không?
86.Uy quyền
Ngày 25 tháng 2 năm 1986, Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand Marcos và phu nhân Imelda bỏ xứ ra đi đến Hawaii với 22 thùng đựng toàn giấy bạc Phi trị giá 1 triệu 7 trăm ngàn Mỹ kim. Ngay sau đó dân chúng biểu tình đã tràn ngập vào dinh điện Malacanang, nơi làm việc và cư ngụ của ông Marcos trong 20 năm làm tổng thống. Đó là một lâu đài sang trọng và lộng lẫy. Có một phòng ngủ thật rộng lớn, gồm đầy đủ những dụng cụ ăn chơi giải trí. Riêng bồn tắm bên trong phòng ngủ của bà Imelda, cựu hoa hậu, vợ ông Marcos, dài 3 mét, xung quanh lát kính phản chiếu, với một bình nước hoa 4 lít được chế tạo tại Paris mang nhãn hiệu “Đệ nhất phu nhân”. Những phòng chứa quần áo sang trọng của bà to lớn như cửa tiệm Bloomingdale ở Mỹ, với 3000 đôi giầy đủ kiểu, đủ mầu, 3000 chiếc quần lót mới tinh, trên 100 chiếc ví da hiệu Gucci, và 100 đôi găng tay da. Ngoài ra người ta còn tìm thấy một cái hóa đơn của tiệm kim hoàn ở Paris là 2 triệu Mỹ kim, một cái hóa đơn 107 ngàn đôla của một chiếc áo dạ vũ và 6 chiếc áo bằng tơ lụa. Các hóa đơn nhét đầy các hộc tủ, cái nào cũng hàng ngàn, hàng trăm đôla.
Nước Phi Luật Tân có tỷ lệ là 70% dân chúng sống trong nghèo đói, với lợi tức mỗi đầu người là 200 đôla một tháng. Trong khi đó tài sản của ông Marcos có khắp nơi trên thế giới trị giá là 10 tỷ Mỹ kim, gấp 3 lần ngân sách quốc gia. Tài sản của ông gồm tiền mặt, kim cương, chương mục ngân hàng, nhà cửa, đất đai, cổ phần đầu tư, nhiều nhất là ở Thụy Sĩ, Pháp, Anh và Mỹ. Làm tổng thống trong một đất nước nghèo khổ, với số lương là 5,700 Mỹ kim một năm, vậy mà ông Marcos sống như một ông vua dầu lửa Ả Rập thì tiền bạc đó lấy ở đâu ra?
Do đó, ông Marcos cương quyết không chịu rời chiếc ghế tổng thống! Ông Trần văn Giàu, nhà sử học của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói một câu thắm thía: "Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ tới cái ghế!"
Quyền hành đi đôi với lợi lộc để kết thành quyền lợi. Vì nắm quyền thì có lợi, nên người ta cứ mãi ham mê quyền hành! Phản ảnh thực trạng xã hội Việt Nam, bạn Bùi Xuân Dũng đã chia sẻ bài thơ "Khi Sếp Xây Nhà" trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau:
Được tin sếp sắp xây nhà,
Ai cũng muốn "giúp" bởi là chỗ "thân".
Công ty xa xí nghiệp gần,
Xi măng, sắt thép... cho quân chở về.
Điều thêm mấy chục thợ nề,
Ưu tiên toàn chọn tay nghề bậc cao.
Nhà xong "khách sạn năm sao",
Chi phí thế nào, sếp cũng không hay.
Công trình "chìa khóa trao tay".
Sếp xem ngày tốt dọn ngay khỏi chờ.
Ngắm nhà dân mới rỉ lời,
"Ngôi nhà tình nghĩa" quê tôi đó mà!
Phúc âm hôm nay, cũng diễn tả quyền hành của Chúa Giêsu, nhưng đó không phải là thứ quyền hành trần gian.
1. Quyền của Chúa Giêsu là quyền giảng dạy Thánh Kinh, Lời Chúa, và gây dựng Vương Quốc Thiên Chúa nơi các tâm hồn: "Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền".
Phúc âm của thánh Máccô đã được viết vào khoảng giữa những năm 60 và 65 cho những tín hữu gốc Do Thái, không phải ở Juđêa, mà ở Rôma. Cũng trong thời gian này hoàng đế Nêrô bắt đầu đi tìm những người Kitô hữu ở Rôma để bắt bớ. Khởi đầu cho cuộc bách hại đạo Kitô giáo kéo dài khoảng hai thế kỷ rưỡi, từ năm 64 tới năm 313. Nếu chúng ta đặt mình vào trường hợp một người gốc Do Thái đang sinh sống ở Rôma, nhưng tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ phải đối diện với những lựa chọn quyết liệt. Theo ai và vâng lời ai? Quyền của ai trên hết? Quyền của các thầy Rabbi Do Thái? Quyền của hoàng đế Nêrô? Hay quyền của Chúa Giêsu Kitô? Sự lựa chọn có ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay?
Lựa chọn rồi quyết định, tuân giữ lời Chúa Giêsu dạy, sẵn sàng chịu thiệt thòi, bắt bớ, phải sống trốn tránh nơi các hang hầm mộ - catacomb - ở Rôma như các tín hữu Kitô giáo thời sơ khai, không phải là chuyện dễ! Họ là những vị thánh đã sống lời Chúa cách can đảm, trung thành tùng phục dưới quyền cai trị của Chúa Giêsu giữa những thử thách bắt bớ của chính quyền trần gian!
Có một câu chuyện kể về những người Do Thái sống ở Ba Lan trong một ngôi làng rất xa xôi hẻo lánh đã nhiều năm không có một người thợ sửa đồng hồ nào ghé qua. Sau một thời gian, những chiếc đồng hồ trong làng đều bị hỏng, mỗi cái chạy mỗi giờ khác nhau. Đa số những người dân làng đã buông xuôi, không thèm lên giây thiều những chiếc đồng hồ vô dụng nữa. Sau cùng, có một người thợ sửa đồng hồ tình cờ đã đi ngang qua ghé vào thăm làng. Dân chúng bèn mang những chiếc đồng hồ đến cho ông sửa dùm. Nhưng những chiếc đồng hồ của họ đã bị sét rỉ, bị ăn mòn vì lâu năm không dùng đến, không thể sửa lại được nữa, trừ ra một chiếc đồng hồ mà người chủ của nó đã kiên trì lên giây thiều mỗi ngày. Mặc dù ông biết rằng nó không chạy đúng giờ, ông vẫn hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một người thợ sửa đồng hồ ghé qua làng.
Người tín hữu trung thành cũng giống như người chủ chiếc đồng hồ này. Qua lời cầu nguyện, việc thờ phượng, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta có thể giữ vững tinh thần. Mặc dù đôi khi chúng ta không chắc chắn được phương hướng rõ rệt Thiên Chúa muốn định cho cuộc sống của mình. Trong những hoàn cảnh khó khăn và thử thách đó, Thiên Chúa vẫn hiện diện và hoạt động để bẻ gẫy những nỗ lực của ma quỷ cố gắng làm cho Ngài mờ nhạt đi.
2. Quyền của Chúa Giêsu có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và chữa lành. Quỷ dữ nhận ra Chúa Giêsu là ai và phải thét lên vì khiếp sợ: "Tôi biết ông là ai: là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" "Hãy im đi, và ra khỏi người này".
Xưa kia, khi bắt đầu mở rộng hệ thống xa lộ đường sá, có một nhân viên vẽ địa đồ của chính phủ mang dụng cụ đo ngắm tới một nông trại. Anh gọi điện thoại cho người nông dân và xin phép đi vào nông trại, ruộng vườn của ông để đo đạc và vẽ họa đồ. Người nông dân này từ chối không cho phép vì sợ rằng hệ thống xa lộ sẽ đi qua miếng đất của mình. Trong khi anh vẽ địa đồ xuất trình giấy tờ là nhân viên của chính phủ và khăng khăng cho mình có quyền vào bất cứ nơi nào trên khắp nước để thi hành nhiệm vụ. Phải đương đầu với nhân viên của chính phủ, người nông dân bèn chịu thua, ra mở cổng cho vào. Sau đó ông đi đến cuối nông trại và mở thêm một cái cổng khác, cổng chuồng bò điên dữ tợn nhất trong trại. Nhìn thấy con bò to lớn, dữ tợn đang cắm đầu xông vào mình, anh nhân viên địa đồ bèn vứt mọi dụng cụ, cắm đầu chạy thục mạng. Còn người nông dân thì cười đắc thắng và nói: "Có giỏi thì trình giấy tờ ra cho nó xem! Chỉ cho nó thấy cái quyền bính của mình đi!"
Trong tiếng Hy Lạp, chữ "quyền bính" - "authority" - là "exousia", chữ "sức mạnh" - power" - là "dunamis". Quyền bính và sức mạnh có những ý nghĩa khác nhau. Anh công nhân vẽ địa đồ trong câu chuyện ở trên, có quyền nhưng không có sức mạnh đối với con bò hung dữ. Nhưng trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền và có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn chúng ta.
Một linh mục linh hướng khóa Cursillo, ba ngày học hội Kitô giáo, kể lại tâm sự của một khóa sinh trẻ, học thức cao với văn bằng Tiến sĩ. Câu chuyện đời của chàng quả thật rất đặc biệt. Suốt đời chàng nỗ lực theo đuổi rất thành công những việc học hành, nghề nghiệp, thể thao và nghệ thuật. Nhưng chàng vẫn cảm thấy trống rỗng. Cho dù theo đuổi bất cứ công việc gì thì cũng chỉ là những nỗ lực cố gắng lấp đầy cái lỗ trống to lớn trong tâm hồn mình mà thôi. Những thành công không làm chàng cảm thấy thoải mái hơn. Đến với khóa học chàng cảm thấy như đang đi tìm một điều gì đó sâu kín trong tâm hồn mà chàng đang khao khát.
Rồi vị linh mục đã chia sẻ chính cuộc đời của mình cho chàng nghe, những đổ vỡ và thất bại. Hoàn cảnh thì khác nhau, nhưng cùng một tâm trạng. Mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để học được cách chấp nhận Chúa Giêsu như một niềm hy vọng duy nhất cho cuộc đời, một niềm vui duy nhất trong cuộc sống. Lúc đầu ngài cũng cảm thấy rằng việc theo chân Chúa Giêsu là việc khùng điên. Nhưng rồi sau đó ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đây cũng chính là điều chàng đang muốn có, sự bình an. Khi kết thúc khóa học chàng đã công khai công bố Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mình với một lòng xác tín mạnh mẽ và cảm động. Chàng đã chia sẻ công khai với mọi khóa sinh khác rằng: "Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền ban cho tôi một ý nghĩa của cuộc sống và chữa lành các thương tích đổ vỡ trong tâm hồn tôi".
Phúc âm của Chúa Giêsu luôn luôn là Tin Mừng. Nhưng trước khi cảm nhận được sự vui mừng thực sự của nó, chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu. Không "vui mừng" tí nào cả! Để tìm thấy được ý nghĩa của Tin Mừng, để cảm nghiệm được ơn chữa lành đối với những đổ vỡ trong đời, chúng ta phải thực sự hoàn toàn quy phục dưới quyền bính của Chúa Giêsu.
Nhưng để đến được với Chúa Giêsu, những bước chân ban đầu thật khó khăn, không phải là việc tự nhiên dễ làm. Vì con người chúng ta ai cũng mang sẵn bản tính thích nổi loạn, và ương ngạnh. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta mới có đủ can đảm trở về quy phục dưới quyền bính và sức mạnh của Chúa Giêsu, đồng thời cũng nhận ra ý nghĩa của cuộc đời mình. Và nguồn vui hạnh phúc thực sự chỉ đến với chúng ta qua Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta mà thôi.
87.Chúa Nhật 4 Thường Niên
UY QUYỀN CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người nguồn tài nguyên vô tận. Đó là cảnh thần tiên, vì là tốt đẹp. Thế nhưng nơi trần thế này, thiên đàng thì ít mà địa ngục thì nhiều. Lý do: có quá nhiều cái làm cho con người lo âu sợ sệt. Chính cái sợ làm cho chúng ta mất tự do. Chính nổi sợ làm cho ta mất hạnh phúc. Sợ cái gì? Cái gì thấy ghê là thấy sợ: tai nạn, bệnh hoạn, chết chóc... Có một thứ làm cho người ta khiếp vía hơn là ma quỷ. Đối với người yếu bóng vía, nhắc đến ma quỷ là họ rùng mình sởn gai óc. Đối với người mê tín, ma quỷ là thần linh, vì thế họ cúng kiến, cầu cơ, đồng cốt... Đối với các nhà đạo đức, ma quỷ là những tên cám dỗ để bắt lấy linh hồn con người. Những cơn cám dỗ đến từ nhiều lổ hỏng trong tâm hồn con người: dục vọng, tham lam, ích kỷ, ghen ghét, hưởng thụ... Cám dỗ đi từ ngoài vào trong con người ở lại và làm cho con người ra ô uế, dần dần đánh mất linh hồn mình. Đây mới là điều đáng sợ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Chúa Giêsu, Đấng có uy quyền trong lời nói và trên cả ma quỷ: "Lời giảng thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh" (Mc1,27). Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu mỗi khi ta yếu đuối để khỏi sa chước cám dỗ. Cách mà Chúa Giêsu truyền lại cho ta để chống lại ma quỷ là: cầu nguyện và ăn chay. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, để đón nhận quyền năng của Chúa trên ma quỷ, để múc lấy sức mạnh của Ngài mà chiến đấu. Ăn chay là sự hy sinh hãm mình, là tinh thần cộng tác với Chúa để đẩy lui sự dữ ra khỏi thế gian, hầu cho nước Chúa ngày càng lớn hơn. Chúa và chúng ta phải có sự cộng tác. Nhiều khi chúng ta ỷ lại, phó mặc cho quyền năng Chúa, chúng ta cứ nằm ỳ mà chờ đợi. Thiên Chúa không phải đè chúng ta xuống để rồi nhồi nhét ơn cho mình, nhưng Ngài muốn chúng ta mở lòng ra đón nhận. Chúa không cưỡng bức mà Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài cần sự nhiệt tình với Ngài để hành động của Ngài dễ thực hiện hơn. Nhưng thực tế chúng ta thấy mình có nhiệt tâm với Chúa chưa? Thói hư tật xấu, tội lỗi, chúng ta mắc phải như cơm bữa. Chúng ta cũng chẳng nghĩ gì đến sám hối để sửa mình, cứ để mặc cho tội lỗi ngày càng phát triển thêm. như vậy chúng ta đang ủng hộ ma quỷ, chúng ta đang tiếp tay cho sự xấu, để rồi Nước Thiên Chúa ngày càng nhỏ dần.
Ma quỷ thật đáng sợ, không phải sợ nhát, sợ nhập, nhưng là sợ cám dỗ. Vì xưa nay người bị quỷ nhập thật sự không nhiều, nhưng chắc chắn số người bị ma quỷ lèo lái không sao kể xiết. Chính vì vậy mà ngày hôm nay là điểm cực thịnh của tội lỗi và thế lực đen tối. Chúng ta nhìn lại xem mình có nằm trong phe đối lập với Thiên Chúa không?
Chúa Giêsu là Đấng uy quyền trên ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Người chiến thắng tất cả. Xin Chúa ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta, tăng cường sức sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta nhiệt tâm cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
88.Chúa Nhật 4 Thường Niên
NGƯỜI GIẢNG DẠY NHƯ ĐẤNG CÓ THẨM QUYỀN
Đầu năm mới chúng ta tìm đến với ai để nương nhờ cho được lợi cả năm?
Lời Chúa là đèn soi bước chân con. Đức Giêsu giảng dạy như người có thẩm quyền. Lời Người dạy như là của mình không như những nguời khác dạy theo sách vở hay truyền thống. Người còn làm nhiều phép lạ để làm chứng. Người truyền lệnh cho quỉ và chúng phải vâng phục mà xuất ra.
Mọi cái tốt đẹp đều bởi Thiên Chúa. Mọi cái xấu xa là do ma quỉ. Vậy thì phải TIN THEO Thiên Chúa.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Người ta sửng sốt vì lời dạy của Người: Có cảm nhận và có cảm giác khi nghe lởi giảng. Nhiều người nghe Lời Chúa cách vô cảm nên nhàm chán, sợ nghe.
- Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền: dạy như của riêng mình, không học với ai, không theo sách vở và truyền thống. Có khi còn đi ngược truyền thống.
- Lập tức, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập: quỉ là thần ô uế vì đôí lại với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mọi cái xấu đều đổ cho quỉ: đồ quỉ, con quỉ.
- Tôi biết ông là ai: Ông là Dấng thánh của Thiên Chúa: Đấng Thánh là đối lại với thần ô uế. Còn có nghĩa là Messia.
- Nhưng Đức Giêsu mắng nó câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy: Đức Giêsu trừ quỉ bằng cách mắng nó và ra lệnh. Lời tạo dựng, là quyền năng của Thiên Chúa.
- Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiềng và xuất khỏi ngưòi ấy: dù có bực tức 'lay mạnh và thét lên' nhưng cũng phải xuất. Không chóng lại nổi.
- Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, lời nói thì có uy quyền: Mới mẻ là không giống như trước. Có uy quyền là khuất phục được thần ô uế. Người ta ngạc nhiên và bị chinh phục.
- Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng phục: Lời là quyền năng của Thiên Chúa làm sao dám không vâng phục.
Người ta ngạc nhiên vì Lời Chúa. Không phải Lời Chúa thì không có khả năng gây ngạc nhiên. Người ta vô cảm hoặc cảm thấy nhàm chán, có khi thấy thích mà không ngạc nhiên vì nghe không phải Lời Chúa mà là lời của người giảng. Nếu là Lời Chúa thì sẽ khuất phục người nghe.
Dân chúng cảm phục vì lời dạy của Đức Giêsu mới mẻ và có thẩm quyền. Mới mẻ thì hấp dẫn. Có thẩm quyền thì chinh phục. Người giảng cần trình bày Lời Chúa cách mới mẻ nhưng phải giữ nguyên Lời Chúa đừng biến thành lời của mình hay của bất cứ người nào. Vì Lời Chúa mới có uy quyền. Nhưng nếu cứ lấy từng câu ra cắt nghĩa thì khô khan và nhàm chán. Nhất là chỉ theo chuyên môn, không thực tế, không áp dụng.
Thiên Chúa toàn năng nhưng hành động bằng Lời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi ban Con Một là Lời. Lời bây giờ ở trong bốn Phúc Âm. Lời phán ra trong Phúc Âm. Học hiểu và thực hành Lời trong Phúc Âm là được Đức Giêsu dạy dỗ và quyền năng Thiên Chúa được thực hiện. Phúc Âm là Đức Giêsu ra lệnh.
Ma quỉ và nước ma quỉ chỉ bị đẩy lui khi nước Thiên Chúa đến nghĩa là Lời Thiên Chúa được thực hiện. Đức Giêsu ra lệnh các thần ô uế không muốn cũng phải vâng phục. Quỉ là Chúa của mọi cái xấu xa gọi chung là ô uế. Lời của Đức Giêsu mới ra lệnh cho chúng rút lui. Không có quỉ 'thần ô uế' thì không có các thứ xấu xa thì được mọi cái tốt đẹp. Đây là bí quyêt để được mọi điềư tốt đẹp. Muốn được mọi điều tốt đẹp thì hãy làm theo bí quyết nầy. Tuyệt đối chắc chắn.
Muốn tốt đẹp mà làm theo quỉ thì chẳng là mâu thuẩn sao? Không chịu làm Lời Chúa, không chịu theo Chúa thì được cái gì tốt sao?
Người giảng dạy có thẩm quyền thì đáng tin. Người ra lệnh cho quỉ xuất đi thì không còn cái xấu, cái ô uế, cất đi cái ngăn cách ta với quyền năng Thiên Chúa thì quyền năng Thiên Chúa mới thực hiện những điều kỳ diệu cho đời sống chúng.
89.Chúa Nhật 4 Thường Niên
Thiên Chúa quyền năng và hằng thương yêu. Ngài luôn yêu thương con người và luôn dành cho con người những điều tốt đẹp nhất. Chúa Giêsu đến trần gian để khai mở Nước Thiên Chúa nhưng vì tôn trọng tự do mà Thiên Chúa để cho ma quỷ cám dỗ con người. Ngài để cho các thế lực sự dữ tấn công con người. Tuy nhiên con người vẫn được những sự trợ lực mạnh mẽ vô song từ phía Thiên Chúa để con người trung thành sống cho Chúa và trong khi can đảm chống lại sự dữ, con người được thêm nhiều ơn ích cho mình.
Hẳn nhiên, trong thế trần, con người phải chịu nhiều sự tấn công từ phía ma quỷ. Để chiếm lấy Nước Trời, để được bảo đảm vào trong vương quốc Thiên Chúa, con người phải chiến đấu trường kỳ và mạnh mẽ. Thế nhưng người ta cần phân biệt ma quỷ là ai? Thưa ma quỷ là thiên thần hư hỏng, đã bị đuổi ra khỏi Thiên Đàng. Nó đã thất bại nên muốn con người cũng thất bại như nó. Nó là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động không ngừng nhằm làm phá hoại con người. Nó muốn con người đi theo con đường của nó. Nó muốn con người từ chối tình thương của Thiên Chúa.
Có những thời gian nào đó, ma quỷ được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu như thế thì người ta sẽ dễ dàng nhận ra chúng và chúng khó lòng cám dỗ chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Ma quỷ là kẻ dối trá. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình ảnh xinh đẹp và hấp dẫn. Nó hoạt động rất tinh vi, kín đáo và khôn khéo nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Nhờ người ta không tin ma quỷ hiện hữu nên nó càng dễ dàng hoạt động nhằm tấn công con người, làm cho con người nghi ngờ Thiên Chúa, sống lấp lửng, sống nước đôi và thậm chí người ta không cộng tác trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ma quỷ được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ. Thế nên chúng ta hãy xác tín và quả quyết ma quỷ là có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này.
Ma quỷ hoạt động rất tinh vi và khôn khéo làm cho con người bị nô lệ trói buộc mà không hay biết. Nếu không sáng suốt, con người sẽ nhầm lẫn, dễ trở thành người cộng tác tích cực với ma quỷ,dễ phạm tội và sống trong tội lỗi mà không hay biết gì cả. Đôi khi chúng ta đang bị xiềng xích của ma quỷ trói buộc như sống thiếu bác ái, tham danh vọng, không yêu mến Chúa và không cộng tác với Giáo hội, vô hình trung chúng ta trở thành kẻ nô lệ của chúng mà nhiều lúc con người không nhận ra. Thế nên, khi xét mình lại, chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình đang làm nô lệ của những thói xấu trên. Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, ngay từ nội tâm mỗi người. Bên cạnh đó, chúng ta không dè rằng ma quỷ, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là ma quỷ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái. Vì thế, con người cần sám hối, cần xin ơn Chúa trợ giúp để sáng suốt, can đảm chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, trung thành với Chúa và trung thành sống yêu thương như Chúa muốn. Chúng ta phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nó chỉ muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương muốn cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ. Chúng ta hãy chỗi dậy, tỉnh táo và khôn ngoan. Đừng để mình bị lừa dối của ma quỷ nữa, hãy mau mắn tin tưởng và bước theo Chúa Kitô để chúng ta được sống hoàn toàn tự do trong ân sủng và tiếp tục bước đi vào vương quốc Thiên Chúa. Là con cái Chúa nhờ bí tích rửa tội, chúng ta phải tin Thiên Chúa và can đảm bước theo Người. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ. Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để sáng suốt khám phá ra âm mưu hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng. Hơn hết, chúng ta phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hay thương xót.
Hôm nay chúng ta được mời gọi để kiểm chứng lại tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, kiểm chứng lại cuộc chiến đấu của chúng ta với ma quỷ để phát hiện những thiếu sót trong tình yêu đáp trả của mình và sự cộng tác của chúng ta đối với ma quỷ. Chúng ta nhìn nhận những lỗi lầm của mình và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta. Đồng thời chúng ta xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta quyết tâm sống xứng đáng hơn với ơn Chúa đã lãnh nhận, tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa đang hoạt động mạnh mẽ trong tâm hồn chúng ta qua các Bí tích, nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể. Nơi Thánh Lễ và các bí tích Thiên Chúa không ngừng đổ tràn ân sủng của Người để tái tạo con tim yêu thương đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và không ngừng làm cho sự sống trong tâm hồn chúng ta luôn phát triển và đạt đến tầm vóc sự sống viên mãn trong Chúa Kitô, cho chúng ta tham dự vào sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa và ngay bây giờ nếm trước nguồn hạnh phúc bất diệt nơi Mình Máu Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con siêng năng chạy đến bí tích Giải tội và Thánh Thể, để chúng con mạnh mẽ tin vào quyền năng và tình thương của Chúa, để chúng con can đảm từ bỏ lối sống tội lỗi. Chúng con không còn phải sợ sệt hay lo âu vì thế lực ma quỷ đang chế ngự chúng con. Xin cho chúng con dám sống cho Chúa, dám thể hiện đức tin và lòng mến đối với tha nhân. Amen.
90.Thắng tà thần nhờ quyền năng Chúa--Huệ Minh
Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)
Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.
Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.
Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.
Vì sao thế? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.
Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.
Linh mục chủ tế hỏi ta Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?
Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa: Thưa từ bỏ.
Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.
Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là "thủ lãnh thế gian này" (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.
Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.
Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.
Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.
Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!"
Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người".
Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).
Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài: "Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ" (1Ga 3,8).
Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.
Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.
Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.
Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.
Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.
Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói: "Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm". Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.
Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc... là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.
Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.
Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.
27/01 Chúa Giêsu quyền năng
- Viết bởi Mc 4, 35-41
Chúa Giêsu quyền năng.
Thứ Bảy tuần 3 thường niên.
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
LỜI CHÚA: Mc 4, 35-41
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tại sao anh em sợ?
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.
Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Suy Niệm 2: Chưa có lòng tin
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển (năm lẻ).
Có lẽ Đa-vít gần gũi với ta hơn. Vì tuy tin Chúa. Nhưng có lúc yếu đuối mất đức tin. Ông đã cư xử như người không có đức tin. Đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết ông này nữa. Nhưng khi được tiên tri Na-than cảnh tỉnh, ông đã ăn năn sám hối. Ông chấp nhận những hình phạt của Chúa với tinh thần sám hối, vâng phục sâu xa. “Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông đã biểu lộ đức tin sâu xa. Khi đứa trẻ bị bệnh nặng, “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất”. Cũng như Áp-ra-ham, vua Đa-vít tin tưởng, dù không hi vọng gì. Đó cũng là một đức tin lớn lao (năm chẵn).
Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.
Suy Niệm 3: Sóng gió cuộc đời
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
Suy Niệm 4: Một thế giới thù địch và đầy biến động
Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng đi theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (Mc. 4, 35-37)
Tôi mượn lời một bài ca của John Littleton làm đầu đề cho bài suy niệm này, bởi vì hai phẩm tính trên đây giải thích khá rõ kinh nghiệm các môn đệ Chúa đã sống ở trên Biển Hồ, buổi chiều hôm đó.
Một thế giới thù địch
Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió có thể được nhìn ở hai bình diện: biểu tượng và mô tả. Về mặt biểu tượng thì biển động là hình ảnh tượng trưng cho những thế lực chống đối Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên mối thù địch giữa dòng dõi những kẻ bất phục tùng Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Do đó trên bình diện này, việc Đức Kitô dùng quyền năng dẹp yên sóng gió là dấu chỉ không những Người làm chủ các mãnh lực thiên nhiên và vũ trụ, mà nhất là Người có quyền năng trừ quỷ, bá chủ các thế lực bất phục tùng và sức mạnh của tội lỗi.
Thế nên các Tông đồ cũng giống như các người Pharisiêu thường đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Vậy người này là ai mà có quyền tha tội, chữa lành bệnh? Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?
Còn chúng ta, chúng ta có tin tưởng vào Đức Kitô này không? Người là Đấng Cứu chuộc có khả năng trấn áp và cứu chuộc chúng ta khỏi mọi thế lực địch thù, ta có tin tưởng vào Người không?
Một thế giới đầy biến động
Về mặt mô tả, câu chuyện này cũng tra vấn cuộc đời của ta. Cuộc hành trình vượt biển này mô tả khá rõ cuộc sống đời thường của ta.
Sau một ngày vất vả với đám đông, Chúa Giêsu cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm được nghỉ ngơi yên tĩnh và thân tình: “Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”.
Chính lúc đó, một trận cuồng phong nổi lên, và sóng ập vào thuyền. Phải chăng là một trận cuồng phong quá lớn? Có lẽ không, vì Chúa Giêsu dầu sao vẫn ngủ được, nhưng cơn biển động này làm cho các người vượt biển phải bất an.
Mỗi ngày, ta xao xuyến lo âu vì thế giới biến đọng: những vụ đình công, những cảnh cướp đọat, những tai nạn, nếp sống cuồng lọan, những cuộc biểu tình… Chúng ta như đang ở trong thuyền, có Chúa Giêsu ở đó, nhưng Người đang ngủ.
Phải chăng chúng ta không nghe lời Chúa phán với Mác-ta khi cô quá lo lắng cho bữa ăn tối: “Mác-ta còn lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!” Chỉ có một chuyện cần thiết, đó là Thầy đang ở đây… mặc dầu Thầy đang ngủ…
Gần Đức Giêsu, con người không có quyền sợ hãi, mất lòng tin tưởng.
Suy Niệm 5: Có Chúa, sẽ bình an
Trong một trại tù nọ, người ta nhận thấy có một vị giám mục khoảng ngoài 60 tuổi. Họ thấy ngài rất bình an và vui tươi, mặc dù bản án dành cho ngài là bất công, và hình khổ mà ngài phải chịu quả là đớn đau.
Khi được hỏi: “Thưa đức cha, tại sao đức cha bình an đến như vậy? Người ta bỏ vạ, vu khống đức cha mà đức cha vẫn vui tươi??”
Đức cha trả lời rằng: “Thưa, tôi làm gì và ở đâu đều có Chúa. có Chúa là niềm vui và bình an. Hạnh phúc của đời người là khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được sống với Ngài. Tôi được sống với Ngài và trong Ngài, lẽ nào tôi không vui!”.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ đang trèo thuyền sang bờ bên kia. Đang khi thuyền ra giữa biển thì bị trận cuồng phong ập tới, khiến thuyền của họ đầy nước và có nguy cơ chìm. Các môn đệ thi nhau tát nước và trèo trống... Đến khi họ không còn trụ nổi nữa, lúc đó, họ gọi Đức Giêsu và trách móc Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giêsu liền thức dạy và ngăm đe gió, tức thì thuyền yên biển lặng. Mọi người ngỡ ngàng và thốt lên: “Ông này là ai mà gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Trong hành trình theo Chúa, có nhiều lúc chúng ta gặp phải những thử thách gian nan, những đêm tối đức tin, làm cho chúng ta hoang mang! Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng: trong con thuyền cuộc đời của mỗi người luôn có Chúa ở cùng, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không? Nếu chúng ta nhận ra Chúa có mặt thì hẳn tất cả những điều nghịch cảnh đến với ta, ta không hoang mang, hốt hoảng như các môn đệ của Ngài khi xưa, ngược lại, chúng ta khám phá ra giá trị và ý nghĩa của nó, lúc đó, chúng ta sẽ vui tươi và bình an ngay trong những thử thách của cuộc đời, vì có Chúa là có tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết Chúa quyền năng để chúng con nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.
Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.
Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…
Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.
Ghi nhớ: ”Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Gióp là một người công chính, ngay thẳng, thế nhưng ông đã gặp biết bao thử thách trong đời… Gióp đã có lúc mất hy vọng:
“Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: Khi nào trời sáng đây? Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: Khi nào trời lại tối?... Và ngày qua ngày: Một ngày đời tôi, thấm thoắt hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng” (G 7,4.6).
“Từ cơn dông tố” của cuộc đời Gióp và giữa những phát biểu nhân sinh quan để giải thích sự đau khổ theo lý thuyết suông, dựa trên tư tưởng của con người, Thiên Chúa đã nói với Gióp: Trong những đau khổ, những sự việc khó hiểu và bí ẩn của một cuộc đời, hãy luôn xác tín vào Thiên Chúa, Ngài là chủ vũ trụ vạn vật, Ngài hiển trị trên tất cả, Ngài sẽ dẹp tan mọi sóng gió của cuộc đời như Lời Ngài ra lệnh với nỗi khổ của Gióp: “Vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây” (G 38,11).
Những gì Gióp trải qua, Thiên Chúa mời gọi ông hãy tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Người! Thật thế, Gióp đã tín thác vào sự cứu giúp của Thiên Chúa như Thánh Vịnh đã phác họa: Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (x. Tv 23,4). Niềm tin của ông, của Vịnh Gia cũng là niềm tin và hy vọng của mỗi người chúng ta khi vượt qua biển đời đầy sóng gió…
Suy niệm
Trong Kinh Thánh, gió và biển luôn tượng trưng cho náo loạn và sự dữ, luôn đối nghịch với Thiên Chúa.
“Chiều tối đến” thuyền vẫn lướt sóng để mong về đến bến. “Chiều tối đến”, không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn là “giờ của bóng tối”, giờ của thử thách (x. Mc 14,17; Ga 9,4-13.30) của cuồng phong nổi lên. Bão táp với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba mà lòng đầy sợ hãi.
Thầy đâu rồi, Thầy đâu rồi,… “Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4,38a). “Đức Kitô ngủ”, hình ảnh phác họa như là Thiên Chúa bỏ mặc con người trước phong ba bão tố cuộc đời, “Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ.
“Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.
Vượt biển đời, Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn ngay cả khi bình an hay chúng ta vất vả lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi. Trong bão tố phong ba đâu là thái độ của chúng ta:
Như các tông đồ, chúng ta đánh thức Ngài trỗi dậy để xin Ngài xin cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất.
Hay chính chúng ta lại hốt hoảng, tuyệt vọng trước sóng gió biển đời và buông xuôi tất cả để cho thuyền bị phong ba nhấn chìm vì không cố gắng tìm kiếm sự hiện diện của Ngài.
Nỗi sợ hãi làm chúng ta quên sự hiện diện và quyền năng của Ngài.
Giữa sóng gió bão tố cuộc đời, con luôn vững tin và hy vọng, chính vì tin vào Ngài làm nên sức mạnh khiến con có thể đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời.
Ý lực sống:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân” (Tv 107,13).
Suy Niệm 8: Chúa dẹp yên sóng gió
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa... Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người chỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao”? Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?
2. Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
3. Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
4. Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc ”Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
5. Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ. (Tv 107,29-30)
6. Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
7. Truyện: Cha tôi cầm lái con tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố âm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra cả.
Lạ lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tầu này mà!
Suy Niệm 9: Phép lạ dẹp yên bão tố
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Các đoạn Tin mừng từ thứ Bảy tuần này đến thứ ba tuần sau lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh khác của mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh của thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: Một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ...
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ, sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau: "Người là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh?"
B. Suy niệm (...nảy mầm)
1. Vì Chúa là Chúa tể thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa:
Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới
Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng
Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn
Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả
Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông
Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng
Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh
Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn
Chúc tụng Chúa đi kìa trời đông tiết giá
Chúc tụng Chúa đi băng phủ tuyết rơi
Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi
Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối
Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi. (Tv 62)
2. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khỏe khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già...
Có lúc sức khỏe suy sụp làm ta tưởng mình đang ở trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Những thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
3. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ dối với Đức Kitô như thế nào. Sau mấy giây thinh lặng người bạn hỏi: "Anh có khi nào nghĩ về Đức Kitô không?"
Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ tỏa hương bên đường và nói: "Như mặt trời dối với đóa hoa thế nào, thì Đức Kitô dối với tôi cũng vậy." (Góp nhặt)
4. "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"
Khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi và các con di cư vào nam để tìm chống. Chúng tôi đã bám trụ trên mảnh đất Sài Gòn cho đến khi được tin tức chồng và biết được nơi ở hiện tại của anh ấy. Chúng tôi mừng lắm, vội vã tìm đến địa chỉ đó thì hỡi ơi, anh ấy đã phản bội đi theo người đàn khác bà giầu sang hơn. Cuộc đời tôi đến đây như đã hết. Tôi đau khổ và chỉ muốn chết thôi. Vì các con nên tôi đã tiếp tục sống và vượt qua tất cả những bất công, những cay đắng của cuộc đời. Trở về Hà nội ư? Cón mặt mũi nào! Ở lại Saigòn này ư? Tôi thẫn thờ bước đi cho đến khi gặp được một ngôi thánh đường. Tiếng chuông chiều như mời gọi. Thế là chúng tôi bước vào ngôi thánh đường. Chúng tôi bắt gặp một người đàn ông trần trụi trên Thập giá, trông còn tội nghiệp hơn chúng tôi nhiều. Như gặp được người đồng cảm với mình, chúng tôi liền quì xuống và thổ lộ tâm tình....Giờ thì tôi tìm được một nơi ở và công việc ổn định cho cuộc sống. Và Ngài đã trở thành người yêu của tôi, người cha của những đứa con tôi" (Trích lời tâm sự của một phụ nữ tân tòng)
Cuộc sống quanh ta có biết bao điều kỳ diệu. Và khám phá được quyền năng của Thiên Chúa, Đấng giúp chị ta khỏi những hụt hẵng của cuộc sống, hiểu được ý nghĩa của hai tiếng yêu thương và tìm lại cho mình một cuộc sống hứng khởi.
Luôn có Chúa trong tâm hồn
Có một người đàn bà đạo đức nọ trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống là phải chịu một cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu với hy vọng còn tiếp tục sống để lo cho người con trai của bà.
Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến những giờ phút đau đớn của bà. Thời đó chưa có thuốc tê cho nên bệnh nhân thường phải trải qua những đau đớn khủng khiếp.
Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà xem ra vẫn can đảm chịu đựng được. Thế nhưng vào tới những giây phút cuối, khi lưỡi dao mổ của các bác sĩ chạm đến gần trái tim thì người đàn bà rùng minh và miệng kêu lên: "Lạy Chúa!"
Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, đứa copn trai không cầm được cảm xúc đã thốt lên những lời xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngay lúc đó người đàn bà nghiêm chỉnh bảo con: "Hỡi con, im đi, con làm mẹ đau đớn hơn lưỡi dao mổ của các bác sĩ nhiều. Con đã làm xỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ"
Nói xong, bà mở bàn tay ra cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ mà bà nắm chặt trong tay suốt từ lúc bắt đầu cuộc giải phẫu đến giờ. Đó là thuốc tê đã làm dịu những cơn đau của bà.
Sau mấy tháng quần quại đau đớn trên giường bệnh, người đàn bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao ảnh chuộc tội đó lại cho người con trai và dặn cậu: "Con hãy giữ lấy ảnh này vì đó sẽ là niềm an ủi cho con".
Suy Niệm 10: Thiên Chúa vẫn hiện diện cùng con thuyền Giáo Hội
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Các nhà tu đức thường ví đời sống của Giáo Hội cũng như đời sống của mỗi Kitô hữu chúng ta như một con thuyền ở giữa biển khơi. Mặc dầu ở giữa biển khơi, nhưng con thuyền Giáo Hội cũng như con thuyền của những người tin luôn có Chúa hiện diện.
1. Đối với Giáo Hội chúng ta đã thấy quá rõ. Từ khi được Chúa thành lập đến nay, con thuyền Giáo Hội đã phải trải qua không biết bao nhiêu là những cơn sóng gió, bão táp phũ phàng nhưng Giáo Hội vẫn luôn được Chúa che chở giữ gìn. Xin được trích ra đây một ít sự kiện:
* Saladin là một vua Hồi Giáo. Có lần ông vua này đã gởi cho Đức Giáo Hoàng một lá thư trong đó vỏn vẹn có một dòng.
- Ta sẽ lấy Đền thờ Phêrô làm Đền thờ Mohamét!
Và Đức Giáo Hoàng cũng trả lời chỉ vỏn vẹn có một câu: “Thuyền Thánh Phêrô có thể có lúc lắc nhưng nhất định không chìm” (Fluctuat nec mergitur).
Câu nói thời danh này đã đi vào lịch sử.
* Suốt cuộc đời, Luther đã dùng mọi phương thế để lăng nhục và đánh đổ Hội Thánh, nhưng rồi những mong ước của ông ta không thành tựu. Trên giường bệnh, ông còn xin cục phấn và gắng gượng viết lên vách câu này: “Lúc sinh thời, ta là thứ dịch tễ cho mi thì khi chết, ta sẽ chôn vùi mi theo”. Thế nhưng, Luther đã chẳng mang theo được gì ngoài sự thất vọng của ông.
* Nối chí Luther có ông Voltaire ở thế kỷ XVIII. Thông minh, nhưng nham hiểm, ông đã viết bao nhiêu sách và đã diễn thuyết bao nhiêu bài để cổ động, hô hào tiêu diệt Hội Thánh Công giáo. Ông công khai tuyên bố rằng, chỉ 20 năm nữa thôi, Hội Thánh Công giáo sẽ đi đời. Thế nhưng, thật là trớ trêu: Đúng 20 năm sau lời tuyên bố đó, thì ông chết, còn Giáo Hội của Chúa vẫn kiên vững!
* Năm 1903, Jaurès (1859-1914), nhà hùng biện người Pháp thấy Hội Thánh phải đương đầu với nhiều khó khăn, cùng lúc có nhiều nước có đạo đã bỏ rơi, ông vui mừng reo lên: “Sóng đưa thuyền Phêrô vào bờ, bây giờ nước rút, thuyền mắc cạn, nằm trơ trên bãi cát”. Nhưng sự thực nước rút rồi thì nước lại lên, và thuyền Phêrô lại tiếp tục ra khơi!
* Cũng ở nước Pháp, trước Jaurès, có Napoléon, một nhân vật đã từng làm chấn động trời Âu, đã bắt và đem Đức Giáo Hoàng Piô VII (1742 -1823) về giam giữ tại lâu đài Fontainebleau bên Pháp. Lúc đó những kẻ nghịch với Giáo Hội đã vui sướng reo lên:
- Đây là Đức Giáo Hoàng cuối cùng.
Nhưng rồi Napoléon thất bại, bị cầm tù tại đảo St. Hèlene, và Đức Giáo Hoàng lại trở về Rôma. Chính Đức Giáo Hoàng Piô VII đã đứng lên và đón rước gia đình tan rã của Napoléon gồm một mẹ già, 04 anh chị em là Lucien, Jérôme, Louis và Pauline, kể cả ông cậu là Hồng y Fesch, sau khi ông bị đi đày.
Tóm lại, trước đây cũng như mãi mãi về sau, dù Giáo Hội có thể bị nhiều thử thách, nhưng Hội Thánh nhất định sẽ mãi mãi tồn tại. Henrich Heine (1797-1856) thi hào người Đức, đã ý thức rất rõ về điều đó cho nên ông viết: “Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đọ sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.
2. Đó là Giáo Hội còn cuộc đời của chúng ta thì sao? Câu chuyện sau đây sẽ là câu trả lời cho tất cả chúng ta.
Một chiếc thuyền đi trên biển và gặp giông bão. Sóng rất lớn làm con thuyền chao đảo. Mọi người lo lắng chạy tới chạy lui kêu cứu. Một hành khách đi ngang qua phòng, thấy cậu thiếu niên con của viên thuyền trưởng vẫn còn đang say ngủ, không biết gì. Người khách vội lay em dậy và cho biết tàu đang lâm nguy, sắp chìm, em phải lo tìm phao cấp cứu.
Em bé dụi mắt hỏi lại ngay: - Thế ai đang lái tàu vậy hả bác?
Người hành khách trả lời: - Cha của cháu.
Nghe thấy thế, em lại tiếp tục nằm xuống, ngủ tiếp một cách bình thản.
Người này lấy làm lạ hỏi: - Tại sao trong khi mọi người đang lo lắng, riêng cháu lại có thể bình an mà ngủ được chứ, cháu không sợ sao?
Em hãnh diện trả lời:
- Hễ cha cháu mà còn lái tàu, thì chắc chắn con tàu sẽ an toàn, cháu đã trải qua nhiều phen như thế này rồi, ba cháu dư sức để lo liệu, bác cứ yên tâm đi.
Vâng! Đời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt,, nhất là trong những lúc gặp những thử thách phong ba. Điều quan trọng trong những lúc như thế là phải tin tưởng nơi Chúa, đồng thời biết chạy đến cầu nguyện với Ngài để Ngài dẹp yên bão tố sóng gió và đưa con thuyền cuộc đời chúng ta hay con thuyền Giáo Hội về tới bến bờ bình an.
Lạy Chúa, xin thêm niềm tin cho chúng con. Amen.
26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- Viết bởi Lc 10, 1-9
Diễn Văn Truyền Giáo.
Thứ Sáu tuần 3 thường niên – Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục. Lễ nhớ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô. Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Lời Chúa: Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Contents
1. Vào nhà, vào thành phố--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Loan báo Tin mừng--TGM Giuse Nguyễn Năng
3. Sức sống và lớn lên của nước trời--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
4. Thánh Timôthêô và thánh Titô, giám mục--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
5. Tiếp nối công trình của Chúa--Lm Giuse Đinh Tất Quý
6. Diễn Văn Truyền Giáo
7. Quốc Khánh của Australia--‘Lẽ Sống’--Radio Veritas Asia
8. Thánh Timôthê và thánh Titô--tinvuixuanloc.vn
9. Tông đồ đoàn của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Đinh Quang Thịnh
10. Thánh Timôthê và thánh Titô--giaolyductin.net
11. Thánh Timôthê và Thánh Titô--tgpsaigon.net
12. Thánh Timôthê và thánh Titô, Giám mục--tgpsaigon.net
13. Thánh Timôthê và Thánh Titô--Tâm Phúc
14. Thánh Timôthê và Thánh Titô--Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
15. Nước Chúa ở đâu? Cách nào?
16. Này con đây, xin hãy sai con
1.Vào nhà, vào thành phố--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ
Suy Niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ
giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
***
Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền lành như chiên giữa bầy sói.
Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư,
sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
***
Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
***
Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
2.Loan báo Tin mừng--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa cho con người được chia sẻ công việc của Chúa: công cuộc loan báo Tin mừng. Chúng ta cần tạ ơn Chúa vì vinh dự lớn lao này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho con thấy nỗi lòng của Chúa. Mang trong lòng sứ mạng cứu độ, Chúa trăn trở biết bao khi bao tâm hồn đang cần được giải thoát như đất khô cần nước, như trái chín cần thu hoạch, như lúa vàng cần gặt hái. Chúa phải thốt lên: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lúa đã chín mà thiếu thợ gặt thì lúa rụng, lúa hư. Lúa rụng, lúa hư thì người nông phu nào mà chẳng xót xa! Chúa mong con cái Chúa là bàn tay nối dài của Chúa để ôm ấp mọi người; Chúa mong con cái Chúa như chiếc loa phóng to thêm lời yêu thương của Chúa cho nhiều người được nghe, Chúa mong con tim của chúng con đong đầy tình yêu Chúa để chuyển đến cho bao trái tim đang cằn khô tình yêu.
Chúa đang cần và rất cần đến con người tiếp tay với Chúa. Thánh Phaolô rồi đến thánh Titô, thánh Timôthê và bao người đã nên thợ gặt thiêng liêng cho Chúa. Hôm nay, cũng với lời thiết tha khi xưa, Chúa lại nói với con: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Thế giới hơn sáu tỉ người hôm nay là cánh đồng lúa rộng lớn gấp vạn lần thế giới ngày xưa đó. Điều đó càng làm cho Lời Chúa kêu gọi thêm vạn lần khẩn thiết. Không biết con có động lòng thao thức với Chúa hay không ? Không biết con có sẵn sàng nối gót Phaolô, nối gót Timôthê và Titô chia sẻ sứ mạng loan báo Lời Chúa cho thế giới hay không ?
Lạy Chúa, xin cho con cảm nhận được rằng: Chúa mời gọi con tham gia sứ mạng đó là vinh dự cho con, vì con được chia sẻ công việc của Con Đức Chúa Trời. Nhờ cảm nhận đó, con sẽ biết tạ ơn Chúa. Cũng nhờ đó mà con biết vị trí của mình để khiêm tốn và trông cậy vào Chúa khi làm việc tông đồ: “thắng không kiêu và thua chẳng nản”. Amen.
Ghi nhớ: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
3.Sức sống và lớn lên của nước trời--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Phân tích (Hạt giống...)
Những dụ ngôn về sức sống và lớn lên của nước trời:
- Dụ ngôn hạt giống âm thầm: Nước Thiên Chúa cũng như hạt giống có sức sống và sức phát triển nội tại.
Dù hoàn cảnh tiện hay không tiện: đêm hay ngày Dù người ta có chăm sóc hay không: người ấy ngủ hay thức. bằng cách nào người ấy không biết. Nước Thiên Chúa vẫn cứ phát triển.
- Dụ ngôn hạt cải: mới ban đầu, nước Thiên Chúa rất nhỏ bé như hạt cải, nhưng nó sẽ phát triển thành một cây to.
+ Có lẽ nhưng dụ ngôn này nhằm mục đích trấn an:
a/ Trấn an các môn đệ thời Chúa Giêsu: Có lúc họ ngã lòng vì thấy mình chỉ là một nhóm nhỏ ít oi, nhỏ bé, sợ không đử mở mang nước Chúa nổi.
b/ Trấn an các tín hữu thời sơ khai: Họ là một tập thể ít oi lạc lõng giữa lòng thế giới rộng lớn, họ lại gặp rất nhiều khó khăn.
Chúa Giêsu muốn trấn an tất cả rằng: chắc chắn nước Thiên Chúa sẽ tồn tại và phát triển không ngừng.
B. (...nảy mầm)
1. Chúa Giêsu cho biết hạt giống Lời Chúa có sức phát triển nội tại, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và mạnh mẽ.
Nhiều khi vì cho rằng đọc và suy gẫm Lời Chúa không sinh hoa kết quả gì cả nên tôi đã không tiếp tục nữa. Dụ ngôn này dạy tôi hãy bỏ lối suy nghĩ ấy đi và kiên trì tiếp tục vì kẻ làm cho hạt giống ấy mọc lên không phải là tôi mà là chính Chúa.
2. "Phaolô trồng Apollo tưới và Thiên Chúa cho mọc lên" Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Thiên Chúa là Đấng làm cho mọc lên mới đáng kể. (1Cr 3,6-7).
Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội vã ngã lòng khi thấy công việc gieo vãi của mình chưa sinh hoa kết quả.
3. Một ngày kia, một tông đồ giáo dân dẫn tôi đến gia đình của một người làm nghề kéo xe lôi. Đến đấy tôi nhận được một món quà hết sức bất ngờ và rất to lớn: Cả nhà gồm vợ chồng và 7 đứa con xin theo đạo. Khi được hỏi lý do thì người chồng cho biết: Mười mấy năm trước khi còn nhỏ, anh học trường các sư huynh Lasan và dã có lòng mộ mến Đạo Chúa. Lòng mộ mến ấy vẫn âm ỉ trong lòng anh. Tuần trước khi anh gặp người tông đồ giáo dân này, tàn lửa âm ỉ đó bỗng bùng lên thành một ngọn lửa thôi thúc anh phải xin theo Chúa.
Nếu các sư huynh Lasan trước kia và những tông đồ giáo dân nọ không chịu khó gieo giống vì nghĩ rằng có gieo cũng vô ích thì hôm nay tôi không gặt được thành quả này. "Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết" (câu 27) (Chia sẻ)
4. Hạt giống nước Thiên Chúa mà chúng ta gieo vào lòng anh chị em quanh ta mọc lên rất nhiều dạng nhiều cách:
- có thể thành những Kitô hữu như ở trên
- có thể thành những người tuy còn là lương dân những đã có thiện cảm với kitô giáo.
- Có khi thành những ý lực hướng dẫn cuộc sống của những người vì lý do nào đó chưa thể theo đạo như trường hợp Văn hào Tagore: Tuy ông không phải là Kitô hữu nhưng cuộc sống của ông được hướng dẫn bởi những giá trị Tin Mừng rất lớn.
4.Thánh Timôthêô và thánh Titô, giám mục--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng Nước trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước trời.
Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyện và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
5.Tiếp nối công trình của Chúa--Lm Giuse Đinh Tất Quý
1. Đôi dòng tiểu sử
+ Thánh Timôthêô.
Thánh Timôthêô và Titô là hai môn đệ thân tín và nổi tiếng của thánh Phaolô, nên Hội thánh cho mừng lễ các ngài chung một ngày, ngay sau ngày kính thánh Phaolô trở lại.
Timôthêô sinh ở Lycaonia thuộc vùng Tiểu Á. Thân mẫu ngài là người Do Thái và thân phụ ngài là người dân ngoại. Khi Phaolô đến Lycaonia rao giảng, thì một số người trong gia đình của Timothêô là bà ngoại, thân mẫu cũng như chính Timôthêô đã được trở nên những Kitô hữu. Nhiều năm sau, Phaolô trở lại đây một lần nữa. Lúc này Timôthêô đã khôn lớn. Phaolô tự nhiên như có linh cảm Timôthêô là người được Chúa gửi đến cho mình. Phaolô đã ngỏ ý muốn gọi Timôthêô làm tông đồ truyền giáo cho Chúa. Timôthêô đã hân hoan đáp lại lời mời gọi của Phaolô. Thế là Timôthêô rời bỏ cha mẹ và nhà cửa và lên đường. Ngài cùng chia sẻ đau khổ với Phaolô, vui mừng mang Lời Chúa đến cho mọi người. Timôthêô là tông đồ yêu quý đặc biệt của Phaolô; và Phaolô xem ngài như đứa con nhỏ của mình. Ngài đã cùng Phaolô đi khắp nơi cho tới khi ngài được cử làm Giám mục tiên khởi giáo đoàn Êphêsô, một giáo đoàn rất nổi tiếng thời đó.
Timôthêô đã hết lòng lo cho đoàn chiên, luôn được thánh Phaolô nâng đỡ khuyên bảo. Trong suốt thời gian làm Giám mục tại đây, ngài đã nhận được hai bức thư của thánh Phaolô. Trong lá thư thứ I, Phaolô đã đưa ra những chỉ dẫn giúp cho Timôthêo tổ chức và điều khiển các cộng đoàn, đồng thời cũng khuyên phải luôn trung thành với giáo lý lành mạnh cũng như can đảm bảo toàn giáo lý đã được giao phó
Với lá thư thứ hai, thánh Phaolô đã bộc lộ hết cõi lòng của Ngài như một người cha để lại những di chúc tinh thần cho người con yêu quí. Những lời cuối cùng của người cha để lại cho người con là những lời dặn dò tâm huyết ”Cha tha thiết khuyên con: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2Tm 4,15)
Sau khi Phaolô qua đời, Timôthêô được phước sống với thánh Gioan tông đồ, là môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu.
Thánh nhân đã được phúc tử đạo năm 97.
+ Thánh Titô.
Thánh Titô là con một gia đình ngoại giáo, được thánh Phaolô dạy đạo, rửa tội, gọi là ”người con chân thành”, đồng thời cũng trao cho nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh tông đồ đã đặt ngài làm Giám mục giáo đoàn Kêta. Phaolô đã luôn khuyên ngài phải sống xứng đáng với danh nghĩa là người đứng đầu cộng đoàn, đồng thời phải đối xử thế nào cho thích hợp với mỗi hạng người. Đây là tâm tình của Phaolô: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Thiên Chúa và tông đồ của Đức Giêsu Kitô. Tôi gửi lời thăm anh Titô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân sủng và bình an. Tôi đã để anh ở lại Kêta, chính là để anh hoàn thành công cuộc tổ chức và đặt kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. Hãy dạy những gì hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng đáng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Anh hãy nhắc nhở cho mọi người rằng ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. (Titô 1,15; 3,18).
Titô làm Giám mục vùng quần đảo Crêta, nơi ngài định cư cho tới khi qua đời khoảng năm 105.
2. Bài học từ cuộc sống.
Đọc lại cuộc đời của hai thánh Timôthêô và Titô, chúng ta thấy Thiên Chúa làm mọi việc thật kỳ diệu. Thiên Chúa đã chuẩn bị thật kỹ cho những ai cộng tác với Người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong cuộc đời của mình, thánh tông đồ dân ngoại Phaolô lại có được Timôthêô và Titô ở bên cạnh mình. Phải nói rằng nếu không có được những môn đệ đồng hành và cộng tác với mình như Timôthê và Titô thì không hiểu công cuộc truyền giáo của Phaolô sẽ ra sao.
Xét như thế, chúng ta mới thấy có được những người cộng tác với công việc tông đồ thật là quan trọng.
Có hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau: - Anh nghĩ xem, chúng ta có cần tiếp tay với cha xứ để lo việc họ đạo không ? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.
Một người thứ ba từ nãy đến giờ đứng bên cạnh đã nghe được câu chuyện giữa hai người, anh chen vào: - Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không ?
- Tại sao ? Tại sao ? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
Chúa Giêsu trước khi đi rao giảng Tin Mừng, công việc đầu tiên của Chúa là kêu gọi một số người cộng tác với Người. Giáo Hội tiếp nối công trình của Chúa, cũng không đi ra ngoài quy luật đó.
Thiếu việc cộng tác với nhau mọi việc sẽ không thể có kết quả tốt đẹp.
Một lần, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm Mẹ Têrêsa. Bà ta nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm! -Mẹ đáp lại một cách vui vẻ
Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo Xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo Xa-ri giá trị 65 dollars, trong khi chiếc áo Xa-ri của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một dollar, Như được ơn trên soi sáng Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xa-ri đó. Mẹ khiêm tốn đền nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 dollars, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 dollars thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà cũng biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này chính bà cũng đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:
- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng bên ngoài vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!
6.Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi này chúng ta không thể nào tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
7.Quốc Khánh của Australia--‘Lẽ Sống’--Radio Veritas Asia
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
8.Thánh Timôthê và thánh Titô--tinvuixuanloc.vn
Ti-mô-thể và Ti-tô là hai môn đệ nổi tiếng của thánh Phaolô, chính vì thế được mừng kính chung trong dịp lễ thánh Phaolô trở lại.
Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.
Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
9.Tông đồ đoàn của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Đinh Quang Thịnh
Hội Thánh muốn phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người về cho Chúa. Việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Vấn đề này ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau:
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.
2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.
3. Người Tông Đồ xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa.
4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.
5. Con đường Tông Đồ là con đường chông gai.
6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.
7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.
8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KITÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân tộc. Bởi đó Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a: Tin Mừng). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21); đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về dòng giống Israel mới, để Chúa Giêsu (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Môsê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, các Giám mục là hiện thân Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu chọn, cũng cần mọi thành phần trong Hội Thánh cộng tác, như Đức Giêsu trước khi lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Thánh Phaolô đã nhận ra nơi ông Timôthê có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông được ngồi trong lòng bà ngoại, cụ Lôít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êunikê, để nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được thánh Tông Đồ đặt tay trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Timôthê nhận được Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn làm chứng cho Chúa. Ông Timôthê đã đồng lao cộng khổ với ông Phaolô loan báo Tin Mừng, nhất là lúc ông Phaolô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8: Bài đọc). Như thế, ông Phaolô và ông Timôthê đã thực hành lời kinh: “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3: Đáp ca). Và các ông đã chu toàn sứ mệnh: “Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18: Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b: Tin Mừng). Không phải chỉ để giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” nhằm khẳng định: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do Thái, một điều được xác định là chân lý, phải có ít một hay hai nhân chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba người (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có giá trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
- Mến Chúa phải thể hiện bằng yêu người (x Mt 22,34).
- Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).
- Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).
- Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).
- Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).
- Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).
- Biết chia sẻ của cải đời này mới đạt ơn cứu độ (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giêsu đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a: Tin Mừng).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Thực vậy trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là cao điểm thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh được Chúa Giêsu truyền làm hiện tại hóa Hy Tế của Ngài (x 1Cr 11,23-27). Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh đã vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và tệ hơn không quan tâm đến việc rước Lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b: Tin Mừng). Cụ thể qua đời sống ông Phaolô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác tín như trên, ông Phaolô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI
Đức Giê-su dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn"
Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài? Ai thương người bằng Ngài? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn ba năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn Ngài lại đồng lõa với những kẻ giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Thì Ngài cầu nguyện bằng Thánh vịnh 22/21,2: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Lời cầu của Tv này nói lên lời than van của người bị ngược đãi, rồi viễn tượng các dân sẽ nhận vương quyền của Thiên Chúa và họ sẽ được nghe nói về Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Mà nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể lý giải được ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a: Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc mong có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn ta chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy:
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b: Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Êlysa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích loan báo Tin Mừng là để cho những người có trái tim biết nghe, thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành, mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga 9,2), và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9: Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
THUỘC LÒNG: Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế (HCHT số 35).
10.Thánh Timôthê và thánh Titô--giaolyductin.net
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
11.Thánh Timôthê và Thánh Titô--tgpsaigon.net
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em. Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép. Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau. Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác. Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề. Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối. Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viênsw ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
12.Thánh Timôthê và thánh Titô, Giám mục--tgpsaigon.net
Thánh Timôthê (c. 97?):
Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.
Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân "hỗn hợp", nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.
Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.
Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. "Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung," trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: "Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn" (1Tm 5,23).
Thánh Titô (c. 94?):
Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: "Khi tôi đến Troas... Tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia... Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến..." (2 Cr 2,12a, 13; 7, 5-6).
Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lời Bàn
Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong "sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn." Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ.
13.Thánh Timôthê và Thánh Titô--Tâm Phúc
Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập. Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không ngừng mời gọi mỗi người chúng con hãy hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng. Dẫu biết rằng, hành trình truyền giáo sẽ không thiếu những khó khăn, gian khổ, nhưng xin cho chúng con noi gương nhân đức của hai thánh Timôthê và thánh Titô, biết nhiệt thành rao truyền tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Amen.
14.Thánh Timôthê và Thánh Titô--Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ
Ghi chú cổ nhất về Thánh lễ kính thánh Timôtê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị Giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai vị thánh.
Thánh Kinh cho biết, Timôtê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; thánh Phaolô ghi chú bà nội Lois đã dạy cho Timôtê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôtê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôtê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: ”Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôtê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.
Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troa, ngài muốn gặp Titô, ”người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là ”người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôtê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.
Thông điệp và tính thời sự
Kinh Tổng nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôtê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích: Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.
Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôtê đã lãnh nhận và Thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.
Cũng trong lá thư gởi cho Timôtê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: ”Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: ”Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.
Kinh Tổng nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: ”Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: ”Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.
Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: ”Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.
15.Nước Chúa ở đâu? Cách nào?
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” (Lc 10,9)
Suy niệm: Khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu căn dặn các ông hãy loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” Nước ấy “đã đến gần” thì phải đi tìm nước ấy ở đâu và như thế nào? Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy:
1/ Nước Thiên Chúa đã và đang đến trong lời rao giảng của các môn đệ, khi các môn đệ vào từng “thành” từng “nhà” với lời chúc bình an.
2/ Tìm Nước Thiên Chúa bằng cách đón nhận những sứ giả Tin Mừng cùng với lời loan báo bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.”
Mời Bạn: Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, bạn không còn có thể sống trong một giáo xứ “toàn tòng.” Có khi nhà bạn đang đơn độc giữa bao nóc nhà không cùng tôn giáo, quan điểm với bạn. Dù vẫn biết rằng việc loan báo là rất khó khăn, vì sẽ có những “nhà” từ khước lời rao giảng, nhưng nói thực, bạn đã bắt đầu rao giảng chưa? Và bạn đã làm gì để rao giảng? Bạn nhớ Nước Thiên Chúa bắt đầu hiện diện khi bạn trở thành dấu chỉ của sự bình an, và bạn thực sự rao giảng Nước Thiên Chúa mỗi khi vào nhà nào mà bạn đem “bình an đến cho nhà này!”
Sống Lời Chúa: Kinh nghiệm cho biết kinh nguyện+Lời Chúa sớm hôm tại gia sẽ cung cấp sức mạnh cho việc sống đức tin và loan Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Mời bạn thực hiện điều đó trong gia đình, cộng đoàn của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Chúa để đem Tin Mừng đến với mọi người chúng con gặp gỡ.
16.Này con đây, xin hãy sai con
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)
Suy niệm: Nhiều năm qua, người ở nông thôn ồ ạt di dân lên thành thị, việc thiếu thợ gặt trong ngày mùa đang là một thực tế nan giải tại nhiều nơi. Là người tâm huyết với cây lúa, nhìn những cánh đồng lúa chín vàng nặng trĩu hạt, lại chưa có người gặt, ai lại chẳng băn khoăn. Song băn khoăn không phải chỉ để băn khoăn, nhưng là để đi đến một hành động.
Chúa Giêsu cũng băn khoăn trước vụ mùa thiêng liêng đang thiếu thợ gặt và Ngài kêu gọi hành động: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Sao thế? Sao lại có cơ chế “xin-cho” ở đây? Đó là việc của chủ ruộng, “mắc mớ” gì mà tôi phải xin? Đúng vậy! Chủ mùa mới có quyền sai thợ gặt ra đi. Nhưng hãy xin! Vì tôi được mời gọi chia sẻ mối băn khoăn của Chúa. Nhưng liệu tôi có sẵn lòng để cho Chúa là chủ mùa gặt sai tôi đi không?
Mời Bạn: Ngày nay công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội vẫn đang cần rất nhiều con người biết quảng đại dấn thân. Hơn ai hết, và hơn lúc nào hết, chính bạn và tôi đang được mời gọi để cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng cao quý này. Chúng ta hãy để Chúa sai đi, và thưa với Ngài: Này con đây, xin hãy sai con!
Chia sẻ: Truyền giáo là căn tính của người Kitô hữu. Vậy bạn đã sống đúng căn tính của mình chưa? Xin chia sẻ một minh họa cụ thể.
Sống Lời Chúa: Ra đi đến với một người hàng xóm với tất cả lòng yêu thương chân thành và sẵn sàng giúp đỡ họ. Để qua ta, người khác nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Hát “Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán …”
25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại
- Viết bởi Mc 16, 15-18
Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
Thứ Năm tuần 3 thường niên – THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. Lễ kính.
Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
“Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một.
Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Lời Chúa: Mc 16, 15-18
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.
Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Contents
1. Con phải làm gì?-- Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ. 1
2. Hoán cải theo gương thánh Phaolô--TGM Giuse Nguyễn Năng. 3
3. Dụng cụ trong tay Thiên Chúa--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 3
4. Thánh Phaolô Tông đồ trở lại--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 4
5. Thánh Phaolô trở lại--Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 4
6. Thánh Phaolô Tông Đồ trở lại--tgpsaigon.net 6
7. Mầu nhiệm ơn gọi Phaolô--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 6
8. Tông Đồ Phaolô Trở Lại--J.M.. 8
9. Thánh Phaolô Trở lại--‘Lẽ Sống’--Radio Veritas Asia. 8
10. Thánh Phaolô Trở lại--tinvuixuanloc.vn. 9
11. Người hùng của tin mừng--giesu.net 9
12. Thánh Phaolô tông đồ trở lại--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 10
13. Cú ngã ngựa lịch sử--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 10
14. Cuộc đầu hàng trên đường Đa-mát--Lm. Giuse Trương Đình Hiền 13
15. Thánh Phaolô tông đồ trở lại--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 14
16. Không sợ ngã, chỉ sợ không đứng lên như Phaolô. 15
17. Bánh cho đời--Tu sĩ Antôn Đức Thiện, OCD.. 16
18. Thánh Phaolô, Tông đồ trở lại--Enzo Lodi 16
1.Con phải làm gì?-- Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm:
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng
giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.
Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống,
để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.
Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3),
Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo,
bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).
Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước,
thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).
Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt,
thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).
Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối,
thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).
Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:
“Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).
Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.
Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).
Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa,
anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.
Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.
Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.
Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết
anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô,
là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại,
và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.
Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.
Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.
Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông.
“Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).
Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai.
“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua,
để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô:
ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.
Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình,
và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
2.Hoán cải theo gương thánh Phaolô--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Mỗi người môn đệ đều được Chúa Giêsu Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Nhưng trước hết phải hoán cải theo gương thánh Phaolô tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường làm con ngạc nhiên ngỡ ngàng. Mỗi trang Tin Mừng đều đưa con đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người ta đánh mất sự ngạc nhiên khi quen coi thường những điều nghiêm chỉnh. Thực sự con cảm thấy ngỡ ngàng và thật bất ngờ khi con được Chúa sai đi làm sứ giả Tin Mừng cho Chúa. Lạy Chúa, thật thế sao? Con là một kẻ tội lỗi, tầm thường, một kẻ tài trí kém cỏi, một kẻ nhiều tính xấu, nhiều khuyết điểm, lại được Chúa nhờ cậy và giao trọng trách sao? Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng?
Con hỏi Chúa, nhưng câu trả lời đã có. Con biết không phải Chúa lầm, nhưng Chúa thương con và tín nhiệm con. Đối với Chúa, không ai là quá xấu đến độ phải loại bỏ. Chúa muốn mọi người làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa, bởi vì dù chúng con có tội lỗi yếu hèn đến đâu, ân sủng và tình yêu của Chúa vẫn mạnh hơn tội lỗi và yếu hèn của chúng con. Không ai ngờ thánh Phaolô, kẻ bách hại đạo Chúa, lại trở nên vị tông đồ thừa sai số một của Hội Thánh. Không ai ngờ thánh Phêrô, kẻ chối Chúa, lại là thủ lãnh tiên khởi của Hội Thánh. Lạy Chúa, chính ơn Chúa đã làm cho các ngài hoán cải và hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Phần con, con cũng không ngờ, con chỉ biết cảm tạ tình thương Chúa dành cho con. Xin Chúa giúp con dám lãnh trách nhiệm. Xin giúp con không ngừng hoán cải mỗi ngày để con có thể theo Chúa sát hơn và hiến thân nhiều hơn. Con đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn thánh Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian”.
3.Dụng cụ trong tay Thiên Chúa--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Phân tích (Hạt giống...)
Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Tin mừng của các ngày trước và triển khai thêm chủ đề nghe Lời Chúa.
- Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn:
a/ Họ phải loan Tin Mừng cho những người khác biết nữa;
b/ Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
- Dụ ngôn cái đấu: người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
B. (...nẩy mầm)
1. Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: "Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ".
2. "Hãy để ý điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy": nhiều khi tôi thấy có những người khác đã hiểu và sống Lời Chúa một cách rất sâu sắc, rồi nhìn lại mình mà tự xấu hổ. Tại sao thế? Chính Chúa Giêsu giải thích: tại vì "cách nghe". Họ chẳng những "nghe" mà còn "đón nhận" và "sinh hoa kết quả" cho nên "đã có thì lại được cho thêm"; còn tôi, có lẽ tôi chỉ "nghe" suông, cho nên "ngay cái đang có cũng bị lấy mất đi".
3. Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tầu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt)
4. Một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)
4.Thánh Phaolô Tông đồ trở lại--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
--- Chọn thêm Dụ ngôn hai người con (Mt 21,28-32)
Đứng trước lời rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, có hai hạng người với hai thái độ trái ngược nhau, đó là giới lãnh đạo Do thái và những người tội lỗi và dân chúng. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con để làm nổi bật sự tương phản giữa lời nói và việc làm: nói có mà không làm; nói không nhưng lại làm. Giữa sự đối nghịch này, hành động được đánh giá là quan trọng, vì hành động là dấu hiệu của một tâm hồn trong sáng, biểu hiện qua những hành động ngay thẳng. Vì thế, Đức Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố: “Không phải những người nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, là được vào Nước trời, nhưng chỉ những kẻ thi hành ý Cha trên trời”.
Cần tìm hiểu hình bóng của dụ ngôn này:
- Người con thứ nhất thưa “không đi”, nhưng sau hối hận và đã đi làm: ám chỉ những người tội lỗi, thu thuế, đĩ điếm và chư dân. Những người này thoạt mới nghe giảng, họ ngại ngùng không theo; nhưng sau họ đã nghe Gioan Tẩy giả và lời giảng của Đức Giêsu nên đã sám hối ăn năn.
- Người con thứ hai là đứa con “thưa vâng” rồi không đi làm: ám chỉ những nhà lãnh đạo Do thái và tất cả những ai vâng lệnh bằng lời nói mà không thực hành. Những người này vẫn tự xưng là giới đạo đức và lên mặt mô phạm với đời. Nhưng họ từ chối ơn Thiên Chúa, không nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, mặc dầu trước khi Người đến, họ vẫn khát vọng Người.
- Áp dụng vào trường hợp ông Saolô là người con thứ nhất: đã không đi lại còn chống đối và âm mưu ám hại, nhưng đã hối hận và trở lại để trở thành Tông đồ Phaolô nhiệt thành.
Kết luận dụ ngôn Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Đức Giêsu đã nói thẳng với các người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ. Còn thánh Phaolô thì không ngờ được Chúa đón nhận.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải có thái độ nào với tư cách là một Kitô hữu, một chứng nhân của Chúa? Chúng ta sẽ cố gắng:
- Đừng nghĩ rằng mình thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
- Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình toả ra mùi thơm tho nhân đức vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình sẽ chứng minh.
5.Thánh Phaolô trở lại--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại. Bây giờ tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này.
A. Một chút về lịch sử
Trong khi thánh Phêrô được xác định là ”đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là ”thầy dạy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1Tm 2,7). Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người Kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mê-si-a bị xử tử như một tử tội.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisêu đạo đức, đã biến đổi ngài trở thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gl 1,11-16).
Lễ thánh Phao-lô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Ga-li-en, từ thế kỷ thứ 8. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. BƯỚC QUA BÀI SÁCH TĐCV.
Trong sách Công vụ, chính Phaolô đã tự thuật về ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy bắt đầu từ một biến cố trên đường ông đi Đamát. Câu chuyện này được tường thuật tới 3 lần: 9,3-7; 22,3-16 và 26,13-15. Bài sách thánh chúng ta vừa nghe là đoạn tường thuật thứ hai.
Có một chi tiết nổi bật trong câu chuyện này. Đó là sự mù lòa và sự sáng mắt của Phaolô. Sự kiện này có thể phân ra thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trước khi Phaolô gặp Chúa Giêsu: ông là một người nhiệt thành. Nhưng chính sự nhiệt thành ấy đã làm ông thành mù quáng khiến ông chống lại Giáo Hội của Ngài (cũng giống như những người biệt phái).
- Giai đoạn 2: Sau khi ông gặp được Chúa Giêsu: hoạt động mù quáng chống phá Giáo Hội đã ngưng lại, nhưng ông vẫn còn mù (“Ánh sáng chói lòa kia làm cho tôi không trông thấy nữa”). Sự mù này một phần vì Phaolô chưa thích ứng nổi với ánh sáng quá rực rỡ của Chúa Giêsu, một phần vì ông chưa được chỉ dẫn về đường lối của Ngài
- Giai đoạn 3: Khi gặp được Khanania, thì Phaolô được sáng mắt, vì đã được chỉ dẫn (“Thiên Chúa đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Ngài và được thấy Đấng Công Chính... Anh sẽ làm chứng nhân... về các điều anh đã thấy và đã nghe”).
C. BƯỚC QUA BÀI TIN MỪNG.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
- Chúa sai các ông đi loan Tin Mừng: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
- Sai đi với một lời hứa: Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Chúa Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa:
a/ Nghĩa bóng: Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ;
b/ Nghĩa đen: các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
D. BÀI HỌC
1. Khi chọn ai, Chúa không theo những tiêu chuẩn thường tình của con người nhưng theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc...
Đọc lịch sử Giáo hội, tuy chúng ta thấy không có một vị thánh nào khả dĩ so sánh được với thánh Phaolô. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính Giáo hội, mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một điạ vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các Kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hàng ngày trong Thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích dẫn trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự.
Thế nhưng hầu như không bao giờ Ngài tỏ ra có vẻ hơn người. Nếu có nói, có khoe thì chỉ là nói và khoe những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không để nhờ đó mà thấy rõ hơn tình yêu thương của Chúa đã dành cho mình (Sunday School Times).
2. Sự việc Ngài trở lại cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ thật nhiều.
Thế nào là trở lại? Trở lại là đang đi trên một con đường, rồi biết rằng đường đó là sai lạc, nên dứt khoát quay lại. Nếu chỉ biết mà không quay lại thì không phải là trở lại. Thánh Phaolô đã quay lại một cách dứt khoát đúng 180độ, và quay rất nhanh.
Bà Reside là nhà truyền giáo đầu tiên cho những người da đỏ bộ lạc Kiowa ở Oklahoma. Bà được họ thương mến đặt tên là Aim-day-co, nghĩa là “Hãy quay lại”. Khi giải thích lý do chọn cái tên đó để đặt cho bà, vị tù trưởng nói: “Khi những người bộ lạc Kiowa chúng tôi thấy ai đang đi lạc hướng thì chúng tôi nói với họ “Aim-day-co”. Họ nghe và quay lại đúng hướng. Bà này từ một nơi xa xôi đến với chúng tôi. Bà thấy chúng tôi đang đi lạc và bà đã chỉ cho chúng tôi con đường đúng, đó là con đường của Chúa Giêsu Kitô. Xin Ngài chúc lành cho bà Aim-day-co” (Moody Monthly).
Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết trở lại với Chúa mỗi khi chúng ta lỡ lạc đường.
6.Thánh Phaolô Tông Đồ trở lại--tgpsaigon.net
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi. Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh. Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c.3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5). Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã. Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ(c. 7). Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11). Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11). Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8). Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu. Đức Giêsu và các Kitô hữu là một. Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10). Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa. Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì. Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu. Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đa-mát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông. Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải. Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới. Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Pl 3, 8). Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải. Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
7.Mầu nhiệm ơn gọi Phaolô--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nói đến thánh Phaolô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Nói đến Phaolô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phaolô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phaolô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Kitô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Saolô. Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Saolô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các người Kitô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Saolô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.
Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Saolô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phaolô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Kitô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giêsu Kitô. Phaolô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Saolô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các dân ngoại.
Rõ ràng là ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Saolô bằng Tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Khanania, và Phaolô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Saolô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đamat, biến Saolô thành chứng nhân vĩ đại là Phaolô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Và từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ý Trời, hay ý muốn của Chúa Giêsu, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giêsu, tất cả đều thay đổi.
Chúa Kitô Phục Sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phaolô. Không biết Đức Giêsu tại thế, Phaolô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phaolô được Chúa Giêsu chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu ( Pl 3, 12 ). Và Phaolô trở nên như một “người tình” của Chúa Giêsu, đến nỗi Phaolô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Đúng như Phaolô viết: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phaolô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Kitô là “chủ thể yêu thương Phaolô”, Tình yêu Chúa Kitô là “đối tượng mà Phaolô yêu mến”. Tâm trí của Phaolô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Kitô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người, Phaolô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin mừng Tình yêu” mà người rao giảng.
Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đến Phaolô là nói đến vị Tông đồ của mọi thời đại
Phaolô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do thái, Hy lạp với người Hy lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người ( 1 Cr 9, 19 – 21 ), Phaolô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn quốc với người Hàn quốc.
Không những là “con người của Tình yêu”, Phaolô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phaolô, chân lý là “Tin mừng Chúa Giêsu Kitô” ”Chân Lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 54 ngày cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Kitô hữu. Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng, ngày quan trọng này với chủ đề: ”Lời khẩn cầu của Chúa Giêsu”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta tuân hành giới luật yêu thương, hầu chúng ta có thể gặt hái được nhiều hoa trái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để nguyện vọng của Chúa Giêsu được hoàn thành, tất cả chúng nên một: tình hiệp nhất luôn luôn cao trọng hơn những xung đột. Amen.
8.Tông Đồ Phaolô Trở Lại--J.M
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
9.Thánh Phaolô Trở lại--‘Lẽ Sống’--Radio Veritas Asia
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
10.Thánh Phaolô Trở lại--tinvuixuanloc.vn
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dậy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2,7).
Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mêxia bị xử tử như một tội đồ.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisiêu đạo đức, đã biến đổi ngài thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gal 1,11-16).
Lễ thánh Phaolô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Galien từ thế kỷ thứ 8.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Cha và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
11.Người hùng của tin mừng--giesu.net
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Phaolô là người hùng của Luca trong sách Công vụ Tông đồ, một người hùng không phải vì những chiến công đánh đông dẹp bắc, nhưng là người hùng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Khởi điểm của người hùng ấy lại là sự kiện ngã ngựa đau đớn và rồi chịu khuất phục hoàn toàn trước vị vua vũ trụ Giêsu. Từ khi tỉnh ngộ, nhận biết Đức Giêsu, cuộc đời Phaolô chuyển sang một hướng mới: nghĩ mọi cách, làm mọi sự, đi mọi nơi, gặp mọi người, miễn là Tin Mừng của Đức Giêsu được loan báo, để mọi người cũng được nghe, biết và rồi đón nhận Tin Mừng ấy như mình. Vì yêu mến Đức Giêsu, người hùng Phaolô luôn lao mình về phía trước, bất kể thử thách, chống đối và thậm chí bách hại.
Mời Bạn: Từ người hùng bách hại đạo Chúa, Phaolô trở thành người hùng phụng thờ Ngài. Từ chỗ cậy dựa vào công trạng cá nhân, sau cú ngã ngựa, Phaolô nhận ra mọi vinh quang cá nhân phát xuất từ ơn cứu độ, sự sống mới của Đức Giêsu. Còn bạn, bạn dám hoán cải triệt để như Phaolô không, nghĩa là mạnh dạn thay đổi cái nhìn về Chúa, người khác và chính mình không?
Sống Lời Chúa: Noi gương thánh Phaolô, tôi sẽ nỗ lực vượt lên tính an phận, để trở thành “người hùng” trong việc loan báo Tin Mừng và phụng thờ Chúa, bằng cách sống những việc bình thường với lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hoán cải một người bách hại đạo Chúa trở thành người loan truyền Tin Mừng. Xin cũng biến đổi chúng con, những môn đệ yếu hèn, nhát đảm, trở thành những chứng nhân hăng say và nhiệt thành của Nước Trời. Amen.
12.Thánh Phaolô tông đồ trở lại--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Phaolô đã viết: “Tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng: Ðức Kitô là Vị Thẩm Phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Người ngự đến" (2Tm 1.12; 4, 8). Thánh Phaolô đã có một cảm nghiệm sâu xa về Chúa Kitô khi Ngài bị đánh ngã ngựa trên đường đi Ðamas.
PHAOLÔ LÀ AI?
Phaolô là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin, tên của Ngài là Saolô, quê Tarsê xứ Xilixia. Gia đình của Phaolô đã nhập tịch làm dân Roma, nên Ngài cũng là dân Roma. Saolô ngay từ thuở thiếu thời luôn trung thành với truyền thống của cha ông mình. Saolô là một phần tử hăng say thuộc nhóm biệt phái, luôn thù ghét các Kitô hữu, thù ghét Giáo Hội của Chúa Giêsu. Saolô đã tham dự vào việc ném đá Têphanô: "Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô"(Cv 7, 58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô" (Cv 8, 1). Saolê bắt đầu từ lúc đó càng hăng say bắt bớ Giáo Hội Chúa Kitô: “Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục" (Cv 8, 3). Saolô đã được các thượng tế Do Thái cho phép, đồng ý nên đã đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo Ðạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem (Cv 9, 1).
CHÚA KÊU GỌI SAOLÔ
Chúa luôn có con đường của Ngài và nẻo đường của Ngài không ai biết trước, không ai hiểu rõ như thánh Phaolô đã viết: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Ðường lối của Người, ai theo dõi được" (Rm 11, 33). Trên đường đi Ðamát với một khí thế hung hăng, đằng đằng sát khí, Saolô muốn tiêu diệt Giáo Hội của Chúa, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với Ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao Ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Saolô liền hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?" (Cv 9, 5)
Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 9, 5). Và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?". Chúa truyền cho Saolô vào thành và gặp Khanania, nơi đó Khanania đã nói với Saolô: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Ðức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9, 17) và "Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa" (Cv 9, 18). Saolô từ lúc sáng mắt đã hoàn toàn được đổi mới. Ông nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã nong nả đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, và trở nên vị tông đồ dân ngoại rất lừng danh. Thánh nhân đã luôn tin tưởng vào Chúa, Ngài viết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng" (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phaolô trở lại).
13.Cú ngã ngựa lịch sử--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống bôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi"
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô... ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng: “ anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
14.Cuộc đầu hàng trên đường Đa-mát--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Khi nhắc đến Thánh Tông Đồ Phaolô, thường có gắn thêm “2 cái đuôi”: Hoặc là Thánh Phaolô – TÔNG ĐỒ DÂN NGOẠI, hoặc Thánh Phaolô “TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI”. Riêng cái biệt danh “TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI” cũng hay được thay thế bằng một “biệt danh khác”: “TÔNG ĐỒ NGÃ NGỰA”.
Và ngày lễ hôm nay, 25.01, ngày kết thúc “Tuần Lễ cầu nguyện cho hiệp nhất Kitô hữu”, Phụng Vụ Giáo Hội cử hành cái tước hiệu và cũng là một “biến cố đặc biệt” mang tầm mức “bước ngoặc quan trọng” nầy: THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI.
Trước hết, sự “Trở lại” mà Phụng Vụ gắn cho Thánh Phaolô trong ngày lễ hôm nay, hoàn toàn không phải là một cố gắng cá nhân, một “tiến trình hoán cải nội tâm” của riêng ngài; mà nhất thiết, đó chính là một “sự can thiệp đặc biệt”, một “tiếng sét ái tình” đến từ Thiên Chúa, được sách Tông Đồ công vụ tường thuật rõ trong Bài đọc 1 hôm nay:
"Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ. Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm. Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát…” (Cv 22,1-21).
Sở dĩ nhấn mạnh yếu tố “sự can thiệp đặc biệt”, hay “tiếng sét ái tình” nơi cuộc “trở lại” của Phaolô, vì quả thật, trước biến cố “ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô hoàn toàn không phải là một “chàng thanh niên hoang đàng, bỏ nhà cha để đi hoang, ăn chơi trác táng…; sau đó hồi tâm đứng dậy “trở về”; cũng không phải một cô “Maria Mađalêna vùi thân trong cuộc sống xác thịt, dục vọng, nghe lời dạy của Thầy Giêsu, đã bị cắn rứt lương tâm, lần mò tự mình đến phủ phục khóc lóc dưới chân Thầy” !
Không, Phaolô là một thanh niên chuẩn mực, đạo đức, nghiêm túc với lề luật cha ông; nói chung một mẫu người công chính, thánh thiện của Do Thái giáo, như ngài làm chứng qua trích đoạn thư gởi giáo đoàn Philip:
“tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-siêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi.” (Pl 3,5-6).
Nói cách khác, yếu tố trọng tâm làm nên cuộc “trở lại” đầy “kịch tính” của thánh Phaolô chính là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ…”, một cuộc gặp gỡ quyết định, xoay chuyển 180 độ con người và cuộc đời, xác tín và hành động: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người…” (Pl 3,7-12).
Và Phaolô đã “giơ tay đầu hàng”, đã hoàn toàn bị chinh phục trước tiếng gọi huyền diệu, trước ý định cao siêu, trước “Con Người vĩ đại” mà bấy lâu nay Phaolô cương quyết loại trừ, đạp đổ, phủ nhận: “bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su chiếm đoạt” (Pl 3,12); một sự “chiếm đoạt toàn diện, sâu xa” đến độ như ngài chia sẻ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi “ (Gl 2,20).
Quả thật từ cuộc “trở lại” hi hữu nầy, Phaolô đã bắt đầu một con đường mới tinh, một hướng tương lai nhằm thẳng phía trước: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3,13), phía của công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, phía của một tông đồ mang Tin Mừng cho muôn dân, phía của một nhà truyền giáo vĩ đại, một kiến trúc sư của Kitô giáo ngay từ thuở ban đầu: “Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người. Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô, và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài.” (Ep 3,7-10).
Nói cách khác, tiếng sét ái tình trên đường Đamát đã khiến “trái tim của Phaolô mở ra cho một tình yêu mới, trọn vẹn, sâu sắc, thuỷ chung: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,35-39).
Và phải chăng, cuộc “đầu hàng trên đường Đamát đó vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta hôm nay!
- Bởi chưng trong chúng ta vẫn còn đầy những “Saolô”” mù quáng, kiêu căng, tự hào về một quá khứ đạo đức, chỉn chu lề luật. Chúng ta cần gặp Đức Kitô để “trở lại thường xuyên với Ngài”.
- Bởi chưng, trong chúng ta vẫn còn đầy những Saolô, nhiệt thành quá mức, hăng hái quá độ theo cái tôi của mình để thường xuyên “bách hại”, kết án, làm khổ anh chị em: chúng ta cần gặp gỡ Đức Kitô để trở nên khiêm nhường, hiền hậu và luôn khoan dung, tha thứ, đón nhận anh chị em mình.
- Bởi chưng cộng đoàn chúng ta vẫn còn đầy những “Saolô” nhân danh ý kiến cá nhân, não trạng đạo đức Pharisêu, nhân danh kiến thức giáo lý uyên bác, đúng đắn… để lên án anh chị em, để phá đổ tình hiệp nhất trong Giáo Hội, để làm theo ý riêng hơn là tuân phục ý Chúa…
Trong lịch sử của Hội Thánh đã có bao nhiêu “Saolô” như thế, nên đã xảy ra bao cuộc phân ly đau đớn, mà suốt tuần lễ vừa qua cả Giáo Hội nỗ lực nguyện cầu cho công cuộc hiệp nhất Kitô hữu.
Chúng ta đừng quên, Giáo Hội chọn chính ngày hôm nay, 25/01, lễ Thánh Phaolô trở lại, để kết thúc Tuần Cầu nguyện hiệp nhất. Chắc chắn Hội Thánh nơi “cuộc đầu hàng của Saolô trên đường Đamát đã mang theo một “hệ luỵ hiệp nhất” tối ưu: Từ đây, sẽ không còn Do Thái hay Hy Lạp, Nô lệ hay tự do, dân ngoại hay dân có đạo… mà tất cả đều “nên một trong Đức Kitô”.
Quả thật, cuộc trở lại của Phaolô đã biến Kitô giáo trở thành “ngôi nhà chung của thế giới”, biến Tin Mừng vượt qua mọi biên giới quốc gia, dân tộc, nền văn hoá… để trở thành ngôn ngữ chung của tình yêu và chân lý.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau và cho cả Giáo Hội sống đậm đà mầu nhiệm “Trở lại” của Thánh Phaolô, sẵn sàng “đầu hàng trước ý định và tiếng gọi nhiệm mầu của Thiên Chúa” để đem về chiến thắng cho Đức Kitô và Vương quốc của Ngài. Amen.
15. Thánh Phaolô tông đồ trở lại--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày xưa Samuel trong đền thờ đã nghe tiếng gọi đầy thân thương trìu mến, như người cha gọi tên con mình: Samuel, Samuel. Tiếng gọi được lập đi lập lại nhiều lần như muốn trao gởi cả tấm lòng cho người được gọi. Samuel không xác định tiếng gọi bắt nguồn từ đâu nhưng nhờ vào thầy cả Lêvi, ông đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa mời gọi với lời thưa thật mãnh liệt và dứt khoát: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?
Thiên Chúa cũng gọi Saolô, tuy trong hoàn cảnh khác xa Samuel nhưng thánh nhân đã đáp lại tiếng Chúa với một câu nói, một tâm huyết thực thi ý Chúa như Samuel: Lạy Chúa, Chúa muôn con làm gì? Cho dù cuộc đời thánh nhân lúc đó đang đầy nhiệt huyết tiêu diệt hết những ai mang danh kytô hữu. Ông đã xin thượng hội đồng Do Thái một cái tráp để đi lùng sục bắt bớ những người tin theo Chúa Kytô, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saolô, Saolô, sao ngươi tìm bắt ta”. Saolô liền hỏi: Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Người phán: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. Và Saolô đã đáp lại: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Lời thưa này như khởi đầu một trang sử mới của cuộc đời thánh nhân. Từ một con người lùng sục bắt bớ những người tin theo Chúa, nay trở thành người hăng hái rao giảng cho muôn dân về Chúa. Bất chấp những hiểm nguy, tù tội, tra tấn, đòn roi, chịu đói khát, rét mướt, đau khổ tư bề, nhưng lòng vẫn hân hoan vì được chung phần đau khổ với Đức Kytô.
Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Đó không chỉ là lời ăn năn sám hối muốn làm lại cuộc đời mà là lời xác tín vào Thiên Chúa, Đấng hằng sống. Đó cũng là lời đoan hứa sẽ mãi mãi dành trọn cuộc đời để phụng sự Chúa. Lời này thay cho lời xin vâng mà cả cuộc đời thánh nhân đã liên lỉ thốt lên với một lòng trung tín sắt son. “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kytô sống trong tôi”.
Ước mong trong năm gia đình hãy là dấu chỉ lòng thương xót Chúa, mỗi người chúng ta dám thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Và chắc chắn lời mà Chúa vẫn mời gọi chúng ta trao ban lòng thương xót cho khắp thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con hiểu được ý Chúa trong từng giây từng phút, trong từng biến cố cuộc đời và mau mắn làm theo lời Chúa như thánh tông đồ Phaolô. Amen.
16.Không sợ ngã, chỉ sợ không đứng lên như Phaolô
Một con người đã trung thành với Đạo Do Thái Giáo, đã rất trung tín với truyền thống cha ông. Phaolô tên thật là Saolô, quê ở Tarsê xứ Cilicia, là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin. Gia đình của Saolô đã nhập tịch Roma nên Ngài cũng là công dân Roma.
Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi.
Thuở thiếu thời, Phaolô được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông (Gl 1:14; Pl 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5)
Saolô là một phần tử hăng say trong nhóm biệt phái và thù ghét các người theo Chúa. Sau khi Saolô tham dự vào việc ném đá Stêphanô cho đến chết, Ngài bắt đầu bách hại Giáo Hội của Chúa Giêsu. Với sự chấp thuận, chuẩn y của thượng tế Do Thái, Saolô xuống Đamas truy lùng những người theo Chúa. Nhưng trên đường đi, hăng say và điên tiết vì tức giận các Kitô hữu, Ngài đã bị một luồng sáng bao phủ và vật ngã.
Biến cố Damas như một nét son thắm nhất trong cuộc đời Thánh Phao-lô. Nó toát lộ gương mặt đại lượng đầy yêu thương của một Thiên Chúa đang đến sát con người để nâng họ dậy từ cơn mê của những lầm tưởng thế gian.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại của Phaolô không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta. Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Việc Thánh Phaolô được biến đổi đã tôn thêm vẻ đẹp của tình yêu Thập giá. Nếu trên Thánh giá, Đức Kitô đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình; thì trong sự kiện Damas, chính Ngài đã khoan thứ đến cùng trước kẻ đang ra tay truy bách thân mình mầu nhiệm của Ngài. Điều này chỉ có thể lý giải bởi tình yêu của Đức Kitô có sức cảm hoá và vực dậy tất cả những gì tưởng chừng đã mất.
Thánh Phaolô đã thực sự bị chinh phục bởi “luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống” (Cv 22, 6b). Đó là ánh sáng đến từ Đấng Phục Sinh – Ánh sáng của tin vui cứu độ phổ quát. Phaolô là chứng nhân cho tin vui ấy.
Với thánh Phaolô, sống là Đức Kitô, chết là mối lợi, tức là được về trời. Ngài rao giảng Thập giá Đức Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái, là một sự điên rồ đối với dân ngoại. Chúng ta không thể nào ca khen hết công trạng của thánh Phao lô, nhưng chúng ta nhìn vào thánh Phao lô để học gương ngài, để đi theo dấu chân của ngài, bởi lẽ dấu chân của ngài khác dấu chân của Đức Kitô. Ngài xưng mình là tông đồ út nhất trong tất cả các tông đồ. Thế nhưng, tất cả các tông đồ làm nền móng của Giáo hội, còn một mình ngài là cột trụ của Giáo hội để chúng ta thấy được những dấu chân truyền giáo của Phaolô cho dân ngoại quan trọng như thế nào. Một sứ mệnh mà phổ câp ơn cứu độ đến cho toàn thể thế giớ nhờ sứ mệnh của một vị xưng mình là thầy dạy của các dân ngoại.
Kinh nghiệm về sự hoán cải của Thánh Phaolô hướng chúng ta lên Thập giá của Đức Kitô và cuộc Phục Sinh của Người. Ở đó, chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của Sự Thật – Tình Thương, không ngừng “chiếu xuống” mỗi người chúng ta và giữa lòng Hội Thánh.
Một khi đã gắn bó với Đức Kitô, chúng ta biết đặt Ngài làm mục tiêu tối hậu trong cuộc chinh phục tâm linh. Biết sống cho giây phút hiện tại bằng niềm tin tuyệt đối: Thiên Chúa sẽ hành động! Như lời Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3, 13-14).
Sống theo gương Thánh Phaolô, chúng ta sẽ lạc quan trên hành trình tìm Chúa. Đó là con đường lâu dài và và thử thách, để từ đó, ta có thể khám phá Thiên Chúa và ý định của Ngài qua những dấu chỉ trên bản thân và cộng đồng. Vấn đề là, ta hãy để cho Thiên Chúa hành động và mau mắn đáp trả tích cực lời mời gọi sống đời chứng nhân Tin Mừng.
Xin cho mỗi người trong chúng ta càng thêm yêu mến thánh Phaolô, chúng ta càng nên giống Đức Kitô hơn. Bởi lẽ, thánh Phaolô đã kêu gọi: “Anh em hãy bắt chước tôi vì tôi bắt chước Chúa Kitô”.
17.Bánh cho đời--Tu sĩ Antôn Đức Thiện, OCD
Khi nói về thánh Phaolô tông đồ, chúng ta thường nghĩ đến một trong hai vị tông đồ cột trụ của Giáo Hội sơ khai và vẫn ngài còn là vị tông đồ đóng vai trò rất quan trọng của Giáo hội cho đến cùng. Tuy nhiên, ,kinh thánh cho chúng ta biết thêm rằng ,Ngài là vị tông đồ không thuộc nhóm mười hai. Trái lại, Ngài còn có một quá khứ bách hại đạo Chúa nữa. Khi ấy ông vẫn còn mang tên Sa-un và làm việc cho giới lãnh đạo của người Do Thái.
Một hôm, đang trên đường đi Đa-mát để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, Sa-un đã bị một luồng sáng đánh quật ngã xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng chói lòa ấy, Ngài đã nghe tiếng của một ai đó nói với ngài: “Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ ta”. Sau một lúc hoàn hồn, ông lên tiếng: “ngài là ai?”. Và chính lúc này đây Sao-lô được nghe tiếng nói của chính Chúa Giêsu trả lời ông rằng: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại”. Sau lần gặp gỡ này, cuộc đời ông thay đổi. Ông trở thành một môn đệ của Chúa Giêsu, được rửa tội bằng lòng mến thầy mình.
Cũng từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Ông được gọi bằng một cái tên mới là là Phaolô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở bên ngoài Do Thái Giáo.
Sau khi gặp được Chúa. Phaolô đã từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa, để sống đức tin và rao giảng tin mừng.
Đây cũng là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta. Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ những niềm tin khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô hữu khi chúng ta được mời gọi mỗi lúc một đến gần hơn với cùng đích của chúng ta là chính Chúa. Đây cũng là cái đích đến lý tưởng của người Kitô hữu chúng ta. Càng đến gần với Chúa, chúng ta càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa hơn, qua đó chúng ta càng đến gần gũi với tha nhân.
Trong ngày lễ mừng kính thánh Phaolô Tông đồ trở lại hôm nay, chúng con nguyện xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho chúng con luôn thấm nhuần tình yêu và cảm nhận sâu xa quyền năng Chúa trong cuộc đời mình. Nhờ đó, chúng con mới có thể trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa đến cho anh chị em chung quanh. Amen.
18.Thánh Phaolô, Tông đồ trở lại--Enzo Lodi
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Thánh lễ này bắt nguồn từ xứ Gaule, được xác nhận vào cuối thế kỷ thứ VI, xuất hiện bên Rôma vào thế kỷ thứ IX. Thánh lễ này tùy thuộc vào lễ kính Tòa thánh Phêrô, được dâng vào ngày 22.02.
Tầm quan trọng việc trở lại của thánh Phaolô được nhấn mạnh ba lần trong quyển Công vụ Tông Đồ (9,1-30; 22,3-21; 26,920), cũng như sự phong phú của bản văn và Phụng Vụ Giờ Kinh. Sự kiện xảy ra trên đường đi Damas đã làm thay đổi hoàn toàn con người này; các trình thuật Thánh Kinh cho thấy có gì triệt để trong việc trở lại này. Các Kitô hữu của Giáo Hội vùng Juđê đã nói: “Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt” (Gl 1,23).
Chính thánh Phaolô, trong các bản văn nói về sự kiện Damas, luôn đặt kinh nghiệm này với cuộc đời quá khứ của một người Pharisêu và bách hại đạo: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, họ Benjamin, là người Hipri, con của người Hipri; giữ luật thì đúng như một người Pharisêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội thánh; còn sống công chính theo lề luật, thì chẳng ai trách được tôi” (Pl 3,5-6). Thánh Phaolô thêm vào: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,8). Người Pharisêu Saul, tự cho mình là “công chính” qua việc tuân giữ lề luật không đâu chê trách được, bây giờ lại tuyên xưng: “Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sư công chính do luật Môisen đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,7-9).
Nhờ thị kiến bất ngờ tại Damas, thánh Phaolô thấy được sự sai lệch của mình và cảm thấy được động viên để đi đến với dân ngoại. Thiên Chúa của ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, Thiên Chúa của các tổ phụ, nhưng từ khi trở lại, Phaolô mới biết Thiên Chúa này đã tôn vinh Đức Giêsu, Tôi tớ của Người (Cv 3,13). Điều này đã thay đổi tất cả.
Ngày lễ thánh Phaolô trở lại muốn nhấn mạnh sự kiện này là một bước quyết định làm thay đổi quá trình phát triển Hội thánh, vì kẻ trước đây bách hại các môn đệ Đức Giêsu, đi vào các hội đường lùng sục các tín hữu để hành hạ và bỏ ngục, từ nay vâng phục Người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã tôn vinh và cũng là Đấng hiện ra nói với ngài: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai con đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22,21). Như thế, tất cả rào cản đều rơi xuống: Hội thánh mở ra cho dân ngoại và trở nên phổ quát.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh lễ này kéo dài lễ Hiển Linh, việc trở lại của thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu rõ mầu nhiệm Đức Kitô hiện diện và sống động trong Hội Thánh. Đức Giêsu tỏ hiện trong Hội Thánh và qua Hội Thánh; trong thực tế, Người đã không nói với Phaolô: Tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ của Ta ? nhưng lại nói: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta ?”(Cv 22,7). Thế nên khám phá đầu tiên của kẻ trở lại chính là sự hiện diện của Đức Kitô trong Hội thánh Người.
a. Lời nguyện nhập lễ khuyến khích chúng ta đến với Chúa “tìm cách để đồng hình đồng dạng” như thánh Phaolô, khi trở thành chứng nhân của Tin Mừng.
“Tìm cách để giống” thánh Phaolô có nghĩa là chấp nhận như Ngài con đường lâu dài và gian khổ để khám phá Thiên Chúa và ý định của Người trong những sự kiện cá nhân và cộng đồng. Tiếp theo kinh nghiệm (Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt Ta) và sự vững tin chủ quan liên kết với kinh nghiệm trên (Tôi biết tôi sẽ tín thác vào ai), là một thời gian dài thử thách, cô đơn, đôi khi cả việc mất can đảm. Một cách thức hiện hữu và nhìn vạn vật, phát sinh từ sự kiện Damas, đòi hỏi một sự trưởng thành chậm chạp trước khi nhập tâm vào cá vị của mình. Công vụ và các lá thư nói về sự vắng mặt của ngài có thể kéo dài hằng chục năm (Gl 2,1). Chỉ sau thời gian “Sabbat” này, Barnabas mới đi tìm ngài ở Tarsus để đem lên Antioche, cho phép ngài bắt đầu liên hệ với các môn đệ Đức Kitô (tại Antioche mà họ nhận được tên Kitô hữu) và hoàn tất sứ vụ của mình nơi các dân ngoại.
b. Một đề tài suy niệm được Lời nguyện tiến lễ đề nghị. Kinh này gợi lên ánh sáng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy thánh Phaolô và biến ngài trở thành một nhà truyền giáo “để làm cho danh Thiên Chúa vang dội trong cả thế giới”. Ngài từ là người bách hại, trở thành sứ giả của Tin Mừng, không coi việc rao giảng Tin Mừng như một lý do để kiêu ngạo, nhưng là một sự cần thiết. “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Thánh Phaolô nói trước các kỳ mục của Hội thánh Êphêsô: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách...” (Cv 20,19). Với người thành Côrinthô, ngài nhắc nhớ lại những sự mệt nhọc, khó khăn, đói khát, lạnh lẽo... "Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2 Cr 11,27).
c. Một nét đặc thù khác trong linh đạo thánh Phaolô được nhấn mạnh trong Thánh lễ: Đức Kitô là trung tâm cuộc sống và lời rao giảng của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô và chết là một mối lợi: thập giá Đức Kitô là vinh quang duy nhất của tôi”; “Với Đức Kitô, tôi đã bị đóng đinh; không còn phải là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi; hiện tại tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã phó nộp vì tôi” (Gl 2,19-20).
Việc trở lại ở Damas đã biến đổi cách triệt để cuộc đời thánh Phaolô. Một khi đã gắn bó vào Chúa Kitô, ngài biết phải tin tưởng vào ai. Thế là không còn phải lo âu gì cả. Ngài nói với những người thành Philippe: “Quên đi quá khứ, để chỉ biết lao về phía trước, tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3,13-14).
Thánh Jean Chrysostome, trong một bài giảng tôn vinh thánh Phaolô, ca ngợi tình yêu Chúa Kitô đang cháy trong tâm hồn thánh Phaolô: “Với tình yêu này, thánh Phaolô cho rằng mình là kẻ hạnh phúc nhất giữa nhân loại...Tận hưởng tình yêu này, có nghĩa đối với Ngài là chiếm hữu cuộc sống, thế giới, Thiên thần của mình, hiện tại, tương lai, vương quyền, lời hứa, hạnh phúc vĩnh cửu”. Như vậy, sự tàn bạo và cơn giận của kẻ thù đã biến đổi thành sức mạnh và tình yêu cho một vị Tông Đồ say mê truyền giáo. Thánh Phaolô luôn tiến bước đến trước với một lòng nhiệt thành trên các con đường để nắm bắt Đấng là vinh quang duy nhất của mình. “Để chống lại Đức Giêsu, ngài đã đi về Damas; để nắm bắt được Đức Giêsu, ngài đã phải đi khắp cùng thế giới”.
24/01 Dụ ngôn gieo hạt giống
- Viết bởi Mc 4,1-20
Dụ ngôn gieo hạt giống.
Thứ Tư tuần 3 thường niên. – Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
LỜI CHÚA: Mc 4,1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: "Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm". Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: "Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội". Người nói với các ông: "Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?
Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hạt giống Lời Chúa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn,
như rơi vào thửa đất màu mỡ,
đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn.
Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.”
Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ.
Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.”
Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu
mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật.
Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa,
nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra.
Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi.
Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe.
Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau,
vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn.
Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường.
Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất,
mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt.
Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan.
Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên.
Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại,
không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá.
Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước.
Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình,
đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu.
Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ,
thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài.
Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có.
Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống.
Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo.
Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch.
Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm.
Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo,
họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình.
Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào?
Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay.
Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế.
Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình.
Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần,
ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Suy Niệm 2: Người đi gieo Lời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa gieo Lời Người xuống trần gian. Đó là lời tình yêu. Lời sự sống. Lời hạnh phúc. Nhưng con người vô tâm không lắng nghe. Để ma quỉ tha đi mất. Như bà E-và. Nhưng Thiên Chúa không nản lòng. Vẫn tràn đầy yêu thương. Vẫn tiếp tục gieo hạt. Lời không bén rễ sâu. Vì con người hời hợt. Mau thay đổi. Thiên Chúa vẫn tiếp tục gieo. Hạt đã bắt đầu mọc. Nhưng con người quá ham mê dục vọng. Để dục vọng chèn ép. Lời Chúa không lớn mạnh được. Như trường hợp Sam-son. Thiên Chúa kiên trì yêu thương. Gieo cho đến khi Lời gặp được mảnh đất tốt. Sinh hoa kết quả trăm nghìn.
Sách Sa-mu-en cho ta thấy hai vị vua đầu tiên là hai mảnh đất khác nhau. Sa-un được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng ông không tuân giữ Lời Chúa. Lòng tham lam và dục vọng chèn ép làm cho Lời Chúa chết nghẹt. Ông trở nên mảnh đất sỏi đá. Lời Chúa không phát triển được. Chúa từ bỏ ông. Trái lại Đa-vít là vị vua thánh thiện. Luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Lời chúa sinh hoa kết quả. Không những trong đời ông. Mà còn tồn tại đến đời con cháu. Như Lời Chúa hứa. “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền…Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” (năm chẵn).
Tất cả lời hứa của Thiên Chúa ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Giê-su là dòng dõi Đa-vít lên trị vì. Và vương quyền Người muôn đời bền vững. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa xuống trần gian để đi gieo Lời. Chính Người là Ngôi Lời được gieo xuống trần gian. Người là sự sống, là tình yêu, là hạnh phúc gieo xuống lòng nhân loại. Chính Người trở thành hạt giống mục nát đi. Dâng hiến chính đời mình. Chết đau thương. Được chôn táng trong mộ.Trở thành hạt lúa tốt sinh hoa kết quả trăm nghìn. Tạo nên một mùa gặt mới phong phú dồi dào. Vì chính Người là mảnh đất tốt. Đón nhận Lời của Chúa Cha. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nên mùa gặt phát sinh. Mùa gặt sự sống. Mùa gặt tình yêu. Mùa gặt hạnh phúc (năm lẻ).
Ta hãy noi gương Chúa Giê-su. Hãy hăng say đi gieo Lời Chúa. Hãy trở thành thửa đất tốt. Luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Hãy trở thành hạt giống được gieo xuống lòng đất. Mục nát đi. Sẽ sinh hoa kết quả muôn ngàn.
Suy Niệm 3: Hạt giống Lời Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
Suy Niệm 4: Phải chăng lỗi tại Chúa?
“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)
Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”
Thất bại trong việc rao giảng
Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…
Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.
Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.
Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.
Hiểu lời này của Chúa hôm nay
Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?
Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?
Suy Niệm 5: Đón nhận hay khước từ
Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.
Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.
Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.
Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đón nhận ơn Chúa và trổ sinh hoa trái
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Như người gieo giống tung vãi hạt giống trên mặt đất, Thiên Chúa luôn quảng đại rộng tay ban ơn cho ta. Ta hãy đón nhận ơn Chúa và làm trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp trong đời sống hàng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hình ảnh người gieo giống bốc từng nắm hạt vung vãi trên cánh đồng đã làm con xúc động. Bởi lẽ hình ảnh ấy giúp con hiểu được rằng từng giây phút Chúa vẫn ban muôn hồng ân cho con: từ hừng đông cho đến chiều tà, và từ chiều tà cho đến hừng đông ngày mới, ơn Chúa vẫn chan hòa trên con. Đâu phải tình cờ tự nhiên con có không khí để thở, có thân xác khỏe mạnh, được đón nhận những tia nắng ấm hoặc những giọt mưa trong lành… Vâng, lạy Chúa, con tin rằng đó là quà tặng Chúa thương ban cho riêng con. Nhưng vì những ơn Chúa ban quá dồi dào, nên con đã thờ ơ coi thường, và thậm chí có lúc con đã phung phí ơn Chúa ban.
Những hạt giống ơn Chúa ký gởi nơi cuộc đời con đã bị cỏ dại tội lỗi tấn công bóp nghẹt. Hoặc tâm hồn con như thuở đất hoang chai cứng, không đón nhận ơn lành Chúa ban.
Lạy Chúa, Chúa quảng đại và kiên nhẫn với con biết chừng nào! Có thể nói rằng: Chúa đã “phung phí” ơn lành để mong con trổ sinh hoa trái.
Xin Chúa giúp con biết chăm sóc mảnh đất tâm hồn mình, biết nhặt đi những sỏi đá gai góc tật xấu mỗi ngày, biết vun xới tâm hồn bằng những việc tốt, bằng những phút suy gẫm Lời Chúa, những giờ kinh lễ sốt sắng, để hạt giống ơn Chúa có thể sinh nhiều hoa trái nơi cuộc đời con. Amen.
Ghi nhớ: ”Người gieo hạt đi gieo hạt giống”
Suy Niệm 7: Hạt giống Lời Chúa rơi vào đất nào?
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả Rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi: - Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran?
Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giáo. Nhà truyền giáo nói thêm: - Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không?
Cậu bé đáp: - Thưa cha, không được! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi trong lòng chứ không thể viết trên đất được.
Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh Thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.
Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.
Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.
Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.
Suy niệm
Ở Do Thái đất đai có rất nhiều đá. Cho nên, trong công việc nhà nông của người Do Thái, việc lượm đá là một động tác quen thuộc cũng như làm cỏ, đến nỗi từ “đá” (xêla) khi dùng như một động từ ở thể hành động (xalêa) thì có nghĩa là lượm đá để dọn một mảnh đất. Ðá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước thì gai là loài cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất. Người nông dân ở Palestine xưa kia dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi giống như xạ lúa ở miền Tây (Theo lời giải thích của cha Nguyễn Công Đoan SJ).
Khi biết và hiểu địa dư của đất nông nghiệp Do Thái, chúng ta dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đá, mặt lối đi, bụi gai và đất tốt như Đức Kitô đã nhấn mạnh đến các chi tiết trong dụ ngôn.
Muốn gieo cho kín ruộng mình thì người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả: ”xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. “Hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt…”. Hình ảnh người nông dân gieo giống tượng trưng cho hình ảnh Thiên Chúa, Ngài luôn vững tay phân phát thật rộng rãi để hạt giống được phủ kín mảnh ruộng, là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với nhân loại, Ngài làm tất cả, đôi lúc có phung phí ân sủng, vì Ngài mong ít ra có những hạt giống rơi trên đất tốt.
Mảnh đất được gieo trồng mang hình ảnh tâm hồn tôi và tâm hồn bạn. Để cho mảnh đất trở nên đất tốt hòng hạt giống của Thiên Chúa gieo vào sinh hoa kết trái, chúng ta cần phải chuẩn bị, như người nông dân lượm những viên đá để trên bờ rào. Hình ảnh đó gợi lên cho chúng ta tâm tình biết sửa chữa mình không ngừng để cuộc sống chúng ta luôn tràn ngập bình an, ân sủng, đó là giống đã được nảy mầm, đơm hoa và kết hạt.
Nếu cứ để tâm hồn chúng ta hoang sơ như những mảnh đất chưa được nhặt lượm những sỏi đá, cỏ lùng không bị tàn diệt, chắc chắn dù hạt giống ân sủng được nảy mầm, đời sống chúng ta như Chúa ví trong dụ ngôn: Rễ không đủ sâu gặp nắng gắt chết khô, hay chết nghẹt vì bụi gai… hãy nhặt đi những sỏi đá trong mảnh đất hồn tôi, hãy nhổ đi những cụm cỏ lùng luôn đe dọa đến hạt giống như Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (x. Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt hay không. Giống không sinh được hạt nếu không có sự cộng tác của con người. Mảnh đất phải được dọn cỏ lùng, mảnh đất phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.
Ý lực sống
“… Những lo lắng thế gian và sự giàu có của vật chất làm cho giống chết nghẹt” (Thánh Têrêsa Avila).
Suy Niệm 8: Dụ ngôn người gieo giống
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi nói đến những vấn đề trừu tượng khó hiểu như Nước Trời chẳng hạn, Đức Giêsu hay dụng dụ ngôn để diễn tả những ý tưởng đó. Dụ ngôn người gieo giống trong đoạn Tin Mừng này cho chúng ta thấy những thái độ và hiệu quả của việc đón nhận Lời Chúa khác nhau. Cũng vậy, Tin Mừng được gieo vào lòng chúng ta, thế nhưng mảnh đất tâm hồn chúng ta thế nào? Mảnh đất của chúng ta có điều kiện để hạt giống Tin Mừng được sinh hoa kết quả; hay là mảnh đất khô cằn, chai cứng?
2. Để dễ hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần lưu ý: cách gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu khác với cách gieo giống của ta ngày hôm nay:
- Vì còn lạc hậu nên đất chia ra làm nhiều mảnh vụn. Ranh giới giữa các mảnh ruộng thường dùng làm đường đi nên khi gieo có nhiều hạt vương trên bờ.
- Vì vùng đất hoang khô cằn, nên mảnh ruộng có nhiều sỏi đá, và cây gai vì thế khi gieo có những hạt rơi trên sỏi đá và hạt chen vào bụi gai.
- Ngoài ra, cũng có những vùng đất tốt được phân làm nhiều loại và năng suất của mỗi loại đất cũng khác nhau.
3. Thực ra, các môn đệ cũng chưa hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn này, nên lúc còn một mình Chúa với các môn đệ, Ngài giải thích thêm cho các ông: người đi gieo là kẻ giảng lời Chúa. Hạt rơi bên dường chỉ ngươi nghe rồi bị ma quỉ cướp mất. Hạt rơi trên sỏi đá chỉ kẻ nghe thì vui nhận, nhưng vì thiếu kiên nhẫn khi bị gian nan thử thách thì bỏ qua. Hạt rơi trong gai góc là hạng người nghe lời giảng thì vâng giữ, nhưng vì ham mê danh vọng của cải thế gian nên Lời Chúa cũng bị chết nghẹt. Hạt rơi trên đất tốt là những người nghe lời Chúa, suy niệm trong lòng rồi chịu khó đưa ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nên sinh bông trái là phần rỗi linh hồn.
4. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai. Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quí cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thâm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
5. Tuy thế, lòng người dù có sỏi đá, vệ đường, bụi gai nhưng vẫn có thể được cầy xới chăm bón để biến đổi thành đất tốt. Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống không nằm yên thụ động mà còn có sức cải tạo được. Chẳng hạn các vị thánh như Phaolô, Augustinô, Phanxicô Xaviê đã được biến đổi thành “đất tốt” nhờ đã được đón nhận Lời Chúa gieo vào tâm hồn cách nhẫn nại và hào phóng. Thiên Chúa đang cần chúng ta có sự nhẫn nại và hào phóng đó để Nước Trời được mùa gặt bội thu.
6. Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Đấy là chưa kể những biến cố xẩy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
7. Truyện: Lời Chúa biến đổi tâm hồn.
Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn, Đức tin cũng như lòng mến Chúa chân thành của bác ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.
Một hôm, có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác để bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.
Người vô thần hỏi:
- Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?
Bác nông phu trả lời:
- Ngày 25 tháng 12.
Người vô thần nhún vai, trợn mắt, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:
- Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?
Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời: - Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.
Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:
- Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tính xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.
Suy Niệm 9: Nghe Lời Chúa và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Trong đoạn Tin mừng hôm qua, Chúa Giêsu đề cao những người biết lắng nghe Lời Chúa. Trong đoạn hôm nay, Ngài dùng dụ ngôn về người gieo giống để khuyến cáo: không phải chỉ nghe thôi là đủ, mà còn phải "nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả" (câu 20). Ngài cũng vạch cho thấy những trở ngại khiến cho việc nghe Lời Chúa không sinh kết quả, đó là:
a/ Bị Satan phá (hạt rơi bên vệ đường);
b/ Tính nông nổi nhất thời, không kiên trì thực hiện Lời Chúa trong lúc gian nan hay bị ngược đãi (hạt rơi trên đá sỏi);
c/ Những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác (hạt rơi trong bụi gai).
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai, Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi "những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác". Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự "thinh lặng nội tâm" thì Lời Chúa dễ thấm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
2. "Những người được gieo vào đất tốt, đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm": "nghe" là một việc tương đối thụ động, việc của đôi tai; "đón nhận" là việc chủ động, việc của con tim; và "sinh hoa kết quả" càng chủ động hơn nữa, đó là việc của ý chí và của nhiều cố gắng.
3. Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi "Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?". Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời "Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã"... Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua "Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được"... Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý" (Góp nhặt)
4. "Ai có tai thì nghe!" (Mc 4,9)
Vào một buổi sáng Chúa nhật, tôi tình cờ nghe được mẫu đối thoại sau giữa hai anh chàng thanh niên. Một anh hỏi: "Sáng nay cậu có đi dự lễ không?". Anh kia đáp: "Có chứ". "Thế có nhớ bài Phúc âm hôm nay là của Thánh nào không? Nội dung ra sao?" Qua thái độ và cử chỉ lúng túng của anh, tôi đoán được ngay câu trả lời.
Thực ra, không riêng gì anh, mà tôi và các bạn cũng thế. Chúng ta thường lắng nghe và nghĩ đến nhiều sự, thậm chí cả những điều không đáng nghe, nhưng lại bỏ ngoài tai những lời ban sự sống, hoặc có nghe lời Chúa thì cũng chẳng hiểu, chẳng khám phá được ý Người, bởi ít hồi tâm cầu nguyện hay để tâm học hỏi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin soi sáng tâm trí con để con luôn hiểu và sống Lời Chúa, hầu trở nên mảnh đất tốt cho hạt giống Lời Chúa được trổ sinh hoa trái đúng mùa. (Epphata)
Suy Niệm 10: Lời Chúa biến đồi con người
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu đề cao những người biết lắng nghe Lời Chúa. Trong đoạn hôm nay, Ngài dùng dụ ngôn về người gieo giống để khuyến cáo mọi người: không phải chỉ nghe thôi là đủ, mà còn phải “nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả” nữa (câu 20).
Ngài cũng vạch cho thấy những trở ngại khiến cho việc nghe Lời Chúa không sinh hoa kết quả, đó là:
a/ Bị Satan phá (hạt rơi bên vệ đường);
b/ Tính nông nổi nhất thời, không kiên trì thực hiện Lời Chúa trong lúc gian nan hay bị ngược đãi (hạt rơi trên đá sỏi);
c/ Những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác (hạt rơi trong bụi gai).
2. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai, Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thấm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại, khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
”Những người được gieo vào đất tốt, đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm” (Mc 4,20): “nghe” là một việc tương đối thụ động, là việc của đôi tai; “đón nhận” là việc chủ động, việc của con tim; và “sinh hoa kết quả” càng chủ động hơn nữa, đó là việc của ý chí và của nhiều cố gắng.
Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng đẫn Đức tin và lòng mến Chúa chân thành của bác càng ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến mức độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.
Một hôm có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác cho bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.
Người vô thần hỏi:
- Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?
Bác nông phu trả lời:
- Ngày 25 tháng 12.
Người vô thần nhún vai, trợn mắt lên, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:
- Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?
Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời:
- Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.
Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:
- Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, các con tôi thì sợ tôi như cọp. Nhưng sau khi tôi đã tin nhận Chúa, giờ đây vợ tôi đã tươi cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tật xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.
Tâm hồn của người vô thần và của bác nông phu chính là hai thửa đất khác nhau, được Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn người gieo giống mà chúng ta vừa nghe.
Chính sự kiêu ngạo và tự mãn của người vô thần đã làm cho những kiến thức của ông về Chúa bị bóp nghẹt, và do đó đã không thể sinh hoa trái được..
Còn với bác nông phu kia, tuy kiến thức của bác về Chúa có ít oi và yếu kém thật, nhưng bác đã để cho những gì bác lãnh hội được, biến đổi đời sống của bác. Tâm hồn chất phác đơn sơ của bác, chính là thửa đất tốt, vì thế mà hạt giống Lời Chúa đã sinh hoa kết trái. Nó đã làm thay đổi, không những đời sống của bác nông phu, mà nó còn làm thay đổi cả đời sống của gia đình bác nữa. Thật là tuyệt vời!
Lạy Chúa,
Xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe Lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không còn những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại can đảm và cùng đi với Chúa và với tha nhân trên mọi nẻo đường trần thế. Amen.
23/01 Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 3,31-35
Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 3 thường niên.
"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
LỜI CHÚA: Mc 3,31-35
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đây là mẹ tôi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,
vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.
Các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.
Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.
Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai.
Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài.
Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng.
Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu.
”Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”
Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm.
Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ.
Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này
để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng.
Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa:
”Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?”
Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi.
Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi,
và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.”
Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.
Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia.
Có một gia đình mới đang ngồi trong này.
Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.
Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều,
một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt,
nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau,
đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng.
Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế.
Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ,
Gioan và Giacôbê để lại người cha.
Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng.
Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ.
Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người:
”Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa
người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.”
Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.
Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này,
có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa,
có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,
và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.
Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng mặc cảm
vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.
Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Gia đình Thiên Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng hậu lên Thiên Chúa: “Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa”. Việc dâng lễ vật tuy trọng hậu, nhưng chỉ rời rạc. Không qui tụ được toàn dân. “Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình” (năm chẵn).
Dâng lễ vật theo Lề Luật, dù trọng hậu đến đâu, dù dâng suốt năm này qua năm khác, vẫn không thể tha tội. Vì chung qui cũng chỉ là dâng súc vật. Còn Chúa Giê-su chỉ dâng một lần là đủ tha các tội. Vì Chúa dâng chính thân mình. Và dâng hiến để tỏ lòng vâng phục Chúa Cha. Là con, Chúa nhận thân thể từ Chúa Cha. Nên dâng lại cho Chúa Cha chính thân mình nói lên tình liên hệ cha con sâu xa thắm thiết biết bao. “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Theo đó, chúng ta được thánh hoá, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”. Vì thế Người dâng hiến thân mình để qui tụ tất cả chúng ta (năm lẻ).
Chúa Giê-su đã hiến dâng thân mình để trở thành người con hiếu thảo. Việc vâng phục thánh ý Chúa Cha gây dựng một gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó Người qui tụ chúng ta về gia đình Thiên Chúa. Người trở thành Anh Cả của một đàn em đông đúc. Trở thành Trưởng Tử dẫn gia đình về với Thiên Chúa. Gia đình Thiên Chúa không còn là liên hệ huyết thống với con người, nhưng là liên hệ thiêng liêng với Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa để trở thành người con hiếu thảo, tất cả những ai tuân hành thánh ý Thiên Chúa, đều trở thành người trong gia đình Thiên Chúa. Trở thành ruột thịt với Chúa Giê-su: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chúng quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Xin cho con biết tự hiến thân mình làm của lễ. Để con trở thành anh chị em của Chúa.
Suy Niệm 3: Ai là Mẹ Ta
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
Suy Niệm 4: Ôi thân nhân!
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
Suy Niệm 5: Thi hành Lời Chúa, là thân nhân của Ngài
Không có bà mẹ nào mà lại không thương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Thi hành ý muốn của Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu mở rộng gia đình tự nhiên của Chúa để đón nhận những người thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Chính việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa làm cho ta trở thành thân nhân của Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con mắt đức tin của con giờ này mở ra, và con nhìn thấy Chúa đang đưa mắt nhìn từng người chúng con, và nói rằng con là anh chị em của Chúa, con là thân nhân của Chúa, là người được Chúa yêu mến. Chúa cho con thấy con thật hạnh phúc khi con thi hành ý muốn Chúa Cha.
Chúa mở rộng gia đình của Chúa để đón nhận cả con vào. Gia đình của Chúa không phải chỉ gồm những người có liên hệ huyết nhục với Chúa, nhưng trên hết, đó là những người biết mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và thi hành ý muốn Chúa Cha. Con thấy Đức Mẹ thật hạnh phúc vì được làm Mẹ của Chúa hai lần: làm mẹ vì sinh ra Chúa và làm mẹ vì thi hành ý muốn Chúa Cha.
Phần con, con được Chúa đón nhận, được Chúa yêu mến, Chúa nâng con lên cao và đưa con lại gần Chúa. Lạy Chúa, còn gì hạnh phúc hơn. Nhưng nhiều lúc con đã không nhận ra được điều ấy, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành đòi con nhiều hy sinh quên mình, và con đã làm một cách miễn cưỡng, lừng khừng, chậm chạp. Xin Chúa cho con biết quý trọng hạnh phúc ấy hơn tất cả mọi vui sướng khác ở đời. Chúa tôn trọng và quý mến con, xin đừng để con coi nhẹ và khinh thường tình yêu Chúa. Xin giúp con biết đi tìm Ý Chúa và làm theo Ý Chúa trong từng việc làm và lời nói, trong cách sống và suy nghĩ, để nhờ đó con được nên giống Chúa và trở thành anh chị em của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”.
Suy Niệm 7: Là anh chị em và là mẹ Ta
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Lm. Ngày kia, thừa lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn: “Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?”
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?” (Theo Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr. 42).
Suy niệm
Tình huyết nhục là tình rất thân thiết của con người. Ðức Giêsu như bao nhiêu người con có hiếu, không bao giờ chối gia đình.
Khi khẳng định: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”, Ðức Giêsu không coi nhẹ tình gia đình, cũng như không phải lãnh đạm với mẹ và anh em Ngài. Đức Giêsu muốn đề cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.
Qua sự khẳng định, mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu không phải là không muốn nhìn nhận mẹ của mình - Đức Maria. Hơn thế nữa, Chúa muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết.
Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa vâng với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và của sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô hữu: lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức thực sự là anh chị em với Chúa, khi nghe và thực thi ý thánh Chúa.
Ý lực sống:
“Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).
Suy Niệm 8: Gia đình thiêng liêng của Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ tôi”. Phải chăng câu trả lời của Đức Giêsu nhắc cho mỗi người chúng ta rằng, ngoài sợi dây theo huyết nhục còn một sợi dây cao quí hơn do lời Chúa liên kết, biến chúng ta thành anh chị em với nhau. Thật vậy, mối dây bền chặt nhất là liên hệ với Thiên Chúa bằng cách nghe và thực thi ý Ngài. Vậy mỗi người chúng ta luôn phải tìm hiểu và sống Lời Chúa. Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta nên thân thiện với nhau và sống trong hạnh phúc.
2. Trong lúc Đức Giêsu đang rao giảng, dân chúng đông đảo vây quanh Ngài, khiến cho mẹ và thân nhân có việc muốn gặp Ngài, nên không thể chen chân vào được.
Sự việc xẩy ra sau chuyện (M 3,20-27) bà con được tin Chúa làm việc quá sức mình, quên ăn quên nghỉ; đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch nên muốn đến bắt Ngài, đưa về nơi yên ổn, giữ sức khỏe cho Ngài, nhất là để tránh những biệt phái gây chuyện khiến thế quyền và giáo quyền có thể thi hành quyền đối với Ngài và liên lụy cho bà con họ hàng.
Lần này có sự hiện diện của Đức Mẹ cùng với bà con muốn đến gặp Đức Giêsu, khi Ngài đang giảng dạy ở Capharnum, và có đông đảo dân chúng đến nghe. Sự việc này nói lên tính cách liên đới ruột thịt máu mủ giữa những phần tử trong gia đình và trong họ hàng.
3. ”Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi” (Mc 3,33)?
Câu nói của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là khi bắt đầu đời công khai, Đức Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Đức Giêsu không ra gặp mẹ, mà còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta”.
Thật ra, qua câu nói này, Đức Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Đức Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Đức Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
4. ”Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, là mẹ Ta” (Mc 3,35).
Đối với bản thân mình, Đức Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
Điều này làm chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi mình: bản thân tôi là Kitô hữu, tôi đã thuộc về Đức Kitô chưa. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Ngài. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Ngài như thế.
Hôm nay, Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho Lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Đức Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Ngài.
Nhiều lần tôi đã từ chối chức vụ cao trọng ấy, vì còn miệt mài cạnh tranh, dành giật những địa vị khá hơn, cao hơn; mong cho cuộc sống được “sung túc”.
Lạy Chúa, xin cho con biết trọng địa vị cao sang Chúa dành cho con là được làm mẹ và làm anh chị em Ngài, khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata).
5. Truyện: Thực hành Lời Chúa.
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất văn hoa, xúc tích, sâu sắc, hùng hồn. Tất cả các tín hữu có mặt hôm ấy cảm thấy rất sốt sắng và phấn khởi. Có lẽ có nhiều người đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói: “Phun châu nhả ngọc”.
Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế vào Chúa nhật kế tiếp, nhà thờ bỗng trở nên đông đảo hơn các Chúa nhật khác. Mọi người nóng lòng chở đợi cho đến lúc cha giảng. Nhưng cha xứ lại giảng một bài gần giống như bài giảng Chúa nhật tuần trước đó. Rồi trong Thánh lễ Chúa nhật thứ 3, thứ 4, kế tiếp đó cũng vẫn một bài giảng đó.
Hội đồng giáo xứ liền cử người đến hỏi cha xứ xem tại sao mà ngài lại cứ giảng đi giảng lại một bài giảng hoài như vậy? Cha xứ bèn trả lời:
- Tại sao anh chị em vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần trước. Khi nào anh chị em đem áp dụng những gì tôi đã trình bầy tôi sẽ giảng bài giảng mới.
Suy Niệm 9: Nghe Lời Chúa chưa đủ, còn phải sống Lời
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Các đoạn Tin Mừng từ ngày Thứ Ba này đến ngày Thứ Năm đều nói về việc nghe Lời Chúa. Ý tưởng mỗi ngày một tiến thêm
- Thứ Ba (Mc 3,31-35) đề cao những người nghe Lời Chúa.
- Thứ Tư (Mc 4,1-20) Nghe Lời Chúa chưa đủ, còn phải sống Lời đó nữa.
- Thứ Năm (Mc 4,21-25) Và còn phải loan báo Lời Chúa cho những người khác.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đang giảng Lời Chúa cho những kẻ khao khát nghe. Đúng lúc đó những người bà con đến xin gặp Ngài. Chúa Giêsu tỏ ra coi trọng những người đang nghe Lời Chúa hơn những người bà con chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. "Mẹ và anh em Chúa Giêsu đứng ở ngoài, cho gọi Người ra" Văn mạch phía trước có kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, "thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người đã mất trí" (Mc 3,21). Chuyến đó họ không "bắt" (nghĩa là không ngăn cản) Chúa Giêsu được. Có lẽ vì thế mà hôm nay, họ mời thêm Đức Maria. Khi Đức Mẹ đến, hẳn Người không hề có ý cản trở sứ mạng Chúa Giêsu mà chỉ đến để xem xét sự thể ra sao. Dù sao, câu chuyện cũng cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy học nơi Đức Mẹ thái độ ghi nhớ và suy gẫm trong lòng những điều chưa hiểu.
2. Theo cách viết của Thánh Mác cô, mẹ và anh em Chúa Giêsu "đứng ở ngoài", còn đám đông nghe Ngài giảng thì "ngồi chung quanh". Như thế nghĩa là những kẻ nghe Lời Chúa còn gần gũi và thân thiết với Ngài còn hơn những người bà con ruột thịt.
3. Đối với bản thân mình, Chúa Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
4. Chúa Giêsu nhiều lần nhấn mạnh đến việc nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Thí dụ "Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc… Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiến Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người (nghĩa là thi hành ý Người), còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho" (Mt 6,25-33); "Ai nghe mà không thực hành thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào thì nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành" (Lc 6,49).
5. "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, là mẹ tôi" (Mc 3,35)
Bản thân là một kitô hữu, tôi đã thuộc về Đức Kitô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế.
Hôm nay, Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.
Nhiều lần tôi đã từ chối chức vụ cao trọng ấy, vì còn miệt mài cạnh tranh, dành giật những địa vị khá hơn, cao hơn; mong cho cuộc sống được "sung túc".
Lạy Chúa, xin cho con biết trọng địa vị cao sang Chúa dành cho con là được làm mẹ và làm anh chị em Người, khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 10: Lắng nghe Lời Chúa
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Các đoạn Tin Mừng từ ngày Thứ Ba đến ngày Thứ Năm tuần này đều nói về việc nghe Lời Chúa. Ý tưởng này mỗi ngày một rõ và mạnh thêm.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao Mẹ Chúa Giêsu và anh em Chúa lại muốn gặp Chúa đang lúc Chúa giảng dạy cho dân chúng như vậy?
Theo Marcô thì chúng ta thấy, trước khi có chuyện mẹ và anh em muốn gặp Chúa thì đã có thân nhân của Chúa nghe tin Chúa say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, thậm chí họ còn cho rằng, Ngài đã mất trí cho nên họ muốn bắt Ngài về. (Mc 3, 21). Không hiểu vì lý do gì mà chuyện đó không thành công. Họ không “bắt” (nghĩa là không ngăn cản) được Chúa Giêsu, cho nên hôm nay, họ mời thêm Đức Maria nữa. Chắc hẳn khi Đức Mẹ đến, mẹ chẳng hề có ý cản trở sứ mạng Chúa Giêsu mà chỉ đến để xem sự thể ra sao.
Dù sao, câu chuyện cũng cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy học nơi Đức Mẹ thái độ ghi nhớ và suy gẫm trong lòng những điều chưa hiểu.
2. Vâng! Tuân theo thánh ý Thiên Chúa đó là điều đã được Đức Maria thực hiện một cách rõ ràng qua hai tiếng Xin Vâng trong biến cố Truyền Tin và rồi còn được thể hiện trong suốt cuộc đời của Đức Mẹ nữa. Không ai có thể nghi ngờ gì về việc đó.
Ngày nay, không thiếu gì những người cũng đã trở thành những người mẹ, người anh chị em của Chúa, theo ý nghĩa mới.
Câu chuyện dưới đây là một trong muôn vàn trường hợp.
Nàng là một thiếu nữ trẻ đẹp, đã đính hôn với một chàng trai, và đang chờ đợi ngày làm lễ thành hôn. Thế rồi một hôm, bỗng nàng cảm thấy đau ở tay. Nàng đến gặp một Bác sĩ. Sau khi đã khám nghiệm, bác sĩ cho biết, nàng mắc bệnh phong cùi. Thế là tương lai hoàn toàn sụp đổ ngay ở dưới chân. Sao mà số phận của nàng nghiệt ngã đến thế. Rồi cùng với bao nhiêu người cùi khác, nàng phải vào sống trong trại cùi. Những trại này thường được thiết lập ở một nơi xa xôi hẻo lánh, tách biệt khỏi gia đình và xã hội.
Hôm ấy người ta chở nàng đến trại cùi. Vừa đến nơi, thấy những người đàn bà rách rưới bẩn thỉu, nàng bật khóc và tinh thần xuống tột độ. Sự tuyệt vọng đã hiện rõ trên khuôn mặt xinh xắn của nàng. Những người đưa nàng đến đây đều có cùng một ý nghĩ là, có thể nàng sẽ tự tử.
Nhưng may thay, mấy ngày hôm sau, một vị thừa sai đang phục vụ trong trại cùi đã đến xin nàng giúp ngài săn sóc cho những người cùi khác.
Một tia hy vọng đã lóe lên trong đầu nàng. Từ đó, nàng bắt tay vào việc bằng cách mở lớp dạy chữ cho các em cùi và những người lớn chưa biết chữ. Nàng cũng hướng dẫn những phụ nữ có con cách chăm sóc và nuôi nấng con cho chu đáo.
Nhưng điều nàng làm hay nhất là những buổi sinh hoạt mà nàng đứng ra hướng dẫn, đã thay đổi hẳn bộ mặt của trại cùi một cách rõ nét. Nhờ cây đàn Accordion được các vị thừa sai sắm cho, nàng đã tạo nên được một bầu không khí vui nhộn và ấm cúng cho cả trại cùi.
Ít lâu sau, có người hỏi cảm tưởng của nàng về cuộc sống nàng đang sống thì người thiếu nữ Ấn Độ đó trả lời rằng:
- Khi vừa mới đến đây, tôi bắt đầu hồ nghi Thiên Chúa. Tôi không biết có Thiên Chúa hay không nữa. Vì nếu có Thiên Chúa là tình thương, thì làm sao mà Ngài lại để cho con người khổ sở như thế này. Nhưng bây giờ thì tôi biết đó là ý Chúa. Và rõ ràng đối với tôi là Ngài muốn cho tôi ở đây, để làm vơi đi những nỗi sầu khổ của bao nhiêu người đang sống ở chốn này. Vì thế, tôi không còn buồn nản như lúc mới tới đây nữa, mà tôi hân hoan thực thi ý của Chúa. Bao lâu tôi còn sống tôi sẽ cảm tạ Chúa vì Ngài đã dắt đưa tôi tới đây.”
Vâng! Người thiếu nữ trên đây đã trở thành mẹ và anh chị em của Chúa rồi.
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc, là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Rabboni).
22/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- Viết bởi Mc 3, 22-30
Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Thứ Hai tuần 3 thường niên.
"Satan phải diệt vong".
LỜI CHÚA: Mc 3, 22-30
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ".
Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y.
Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vào nhà một người mạnh
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),
nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,
dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.
Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.
Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,
không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.
Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).
Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,
vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.
Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.
Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện
và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.
Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,
đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).
Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.
Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.
Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:
từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,
rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).
Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.
Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.
Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,
phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).
Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.
Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.
Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.
Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).
Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).
Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.
Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,
và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.
Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,
và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.
Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),
nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,
thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).
Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.
Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.
Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.
Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),
trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra
để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Sức mạnh của Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dân Ít-ra-en khi tấn phong Đa-vít làm vua đã trích dẫn lời Chúa: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en”. Quả thực “Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh ở với vua”. Nên vua đánh đâu thắng đó. Thu thập các dân tộc chung quanh. Thu hồi đất đai Chúa hứa. Xây dựng vương quốc hùng mạnh. Danh tiếng lừng lẫy. Trở thành vị vua mẫu mực. Dân Ít-ra-en muôn đời tưởng nhớ. Và chờ mong một vị vua mới từ dòng dõi vua Đa-vít sẽ xuất hiện. Phục hồi vương quốc hùng mạnh, danh tiếng thuở xưa (năm chẵn).
Lời tiên báo đến thời thực hiện. Niềm chờ mong đã được đáp đền. Chúa Giê-su đến với sức mạnh vô biên của Thiên Chúa. Con người dẫu mạnh mẽ cũng chỉ thắng được con người thôi. Chưa có ai thắng được ma quỉ. Thế lực siêu nhiên luôn thống trị con người. Thế mà Chúa Giê-su đã chiến thắng ma quỉ. Ra lệnh cho ma quỉ. Xua trừ ma quỉ ra khỏi con người. Các kinh sư thấy sức mạnh của Chúa không những không tin mà còn vu cáo Chúa chính là tướng quỉ nên ma qủi mới thuần phục. Chúa Giê-su đã vạch rõ ác ý của họ khi chứng minh lời họ là sai ở cả hai phía. Xa-tan tự chia rẽ cũng tận số. Và nếu có người mạnh đến chiến thắng thì Xa-tan cũng tận số: “Nếu Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nêu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”.
Sức mạnh vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su là tình yêu. Tình yêu lớn lao chưa từng có. Là dám hi sinh tính mạng vì người mình yêu. Chúa Giê-su bày tỏ sức mạnh vô biên trong tình yêu vô biên dám chấp nhận cái chết. Đã trở thành “trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Với quyền năng vô biên, ngài chỉ dâng hiến một lần là đủ: “Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình”. Ma quỉ chỉ mạnh khi người ta tội lỗi. Nay Chúa Giê-su tiêu diệt tội lỗi. Nên ma quỉ mất hết quyền lực. Con người được giải phóng, được “kêu gọi lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu” (năm lẻ).
Tình yêu Chúa lớn vô biên. Tình yêu trở thành quyền năng vô biên. Đó là điều làm cho ta tin tưởng. Trong quyền năng Chúa ta được cứu chuộc. Trong tình yêu Chúa ta được yêu thương. Lạy Chúa, xin hãy đến giải thoát con khỏi mọi thế lực của ma quỉ.
Suy Niệm 3: Tội ngoan cố
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.
Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.
Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoan cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
Suy Niệm 4: Nguyên tắc sống không mâu thuẫn
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)
Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.
Tố cáo
Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.
Bào chữa
Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?
Chúng ta có liên đới vơi Người không?
Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?
Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.
Suy Niệm 5: Thích ứng để truyền giáo
Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!
Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền... Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại...
Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Uy quyền Thiên Chúa chiến thắng quỷ dữ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đức Kitô dùng uy quyền của Thiên Chúa để chiến thắng quỷ dữ. Muốn chiến thắng quỷ dữ, ta cũng phải cậy nhờ quyền năng của Thánh Thần.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là vinh phúc cho con. Con đã được Chúa gọi vào số những môn đệ của Chúa. Chúa đã dùng chính cái chết của Chúa để chiến thắng quỷ dữ và dẫn đưa con vào giao ước tình yêu.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết liên kết với Chúa để nhờ ơn Chúa con chiến thắng được quỷ dữ. Cuộc đời con thường xuyên phải chiến đấu với ma quỷ và tay chân của nó là thế gian và xác thịt. Nếu không có ơn Chúa, con sẽ thua trận và quỵ ngã. Lạy Chúa là sức mạnh con, xin đừng để con thua một cơn cám dỗ nào. Xin cho con biết tin tưởng vào sức mạnh của Thánh giá.
Lạy Chúa Giêsu, để minh chứng về uy quyền của Chúa. Chúa đã dùng ví dụ một người coi nhà canh trộm, con đang canh giữ linh hồn con khỏi kẻ trộm ghê gớm là Satan gian manh. Con chắc chắn sẽ thắng được kẻ trộm này nếu con có Chúa trong lòng. Vậy xin Chúa đừng để con bao giờ mất Chúa. Xin giúp con luôn sống thân tình với Chúa. Con chạy đến với Chúa trong Thánh lễ, xin ban thêm sức mạnh cho con. Hằng ngày Chúa đang mời gọi con đến lãnh nhận nguồn sức mạnh và bảo đảm phần thưởng trên trời. Con lãnh nhận Mình Thánh Chúa, xin cho con được say mê tình Chúa, được đầy lửa mến của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa lôi kéo con. Xin cho con thuộc trọn về Chúa.
Con xin dâng Chúa hơi thở, tư tưởng linh hoạt, lý tưởng và mọi sự Chúa đã ban cho con. Xin giúp con luôn nhớ con là của Chúa và sống trọn vẹn cho Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Satan phải diệt vong”.
Suy Niệm 7: Chúa lấy quyền nào?
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu chữa lành cho những người bị quỉ ám. Các luật sĩ không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên cho rằng Ngài lấy quyền của tướng quỉ Bengiêbút mà trừ quỉ. Nhưng Chúa nói cho họ biết: nước nào tự chia rẽ thì làm sao tồn tại được. Ma quỉ cũng vậy, nếu nó chia rẽ, nó sẽ tiêu vong. Còn nếu Ngài nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ thì ma quỉ đã tự chia rẽ nhau rồi, làm sao nó đứng vững được?
2. Các luật sĩ nói Chúa Giêsu bị quỉ vương Bengiêbút ám và dựa vào thế quỉ vương để trừ quỉ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan. Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong. Satan cũng vậy. Marcô 3,27 cho thấy: chẳng những Chúa Giêsu không bị quỉ chi phối, không theo phe quỉ, Ngài còn chống quỉ; quỉ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỉ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
3. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỉ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỉ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là nguồn bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng chịu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustinô từng dạy: ”Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Ngài ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ? (Mỗi ngày một tin vui).
4. Có lẽ chúng ta không đến nỗi “tệ” tới mức “nghi” Chúa Giêsu bị quỉ Bengiêbút ám, nhưng nghi sự trái cho người khác, hoặc thấy việc tốt người khác làm, không khen ngợi thì chớ, lại còn “tán chuyện” ra để đàm tiếu thì phải chăng đó là “chuyện thường ngày ở...” sở làm, trong xóm ngõ của chúng ta? Để không mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn nhận việc tốt của người khác một cách trân trọng, và nếu cần phải phân định việc gì hãy làm với tinh thần bác ái.
5. Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngay cả trong một giáo phái, cũng có sự chia rẽ và phe phái. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Kitô bị phân rẽ và tổn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do thái kết án Người là lấy quyền tướng quỉ đè bẹp lính quỉ.
6. Những người luật sĩ bị coi là phạm đến Chúa Thánh Thần vì họ chối bỏ chân lý, không chấp nhận sự sám hối thì làm sao có thể tha tội được. Qua lời phân định của Chúa Giêsu về mức độ tội trạng được tha và không được tha, mỗi người chúng ta, một đàng ý thức về tội trạng của mình khi xét mình trước mặt Chúa để khơi dậy lòng thống hối; đàng khác phải luôn luôn bảo vệ và phát triển lòng tin cùng kính mến Chúa để tránh những xúc phạm đến Chúa. Nếu đã đã trót phạm tội mà ăn năn sám hối thì tội bao nhiêu cũng được tha. Cứ vững lòng tin.
7. Truyện: Không nghi ngờ và thất vọng.
Người ta kể: một hôm có một chàng thanh niên đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với cha Vicardi:
- Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Vicarđi đáp:
- Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Vicardi trả lời:
- Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí tích Giải tội. Vậy, nhân danh Đấng giầu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu là Đấng mạnh nhất
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. "Các kinh sư nói Chúa Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Satan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy chẳng những Chúa Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa" (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
2. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỷ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối và được tha. Từ chối sự thật, không chịu sám hối thì không thể nào được tha. Không được tha không phải vì Chúa không tha mà vì mình không muốn được tha.
B.... nẩy mầm.
1. Chuyện này nhắc ta hai sự thật:
a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh;
b/ Nhưng quả thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của thánh Phaolô "Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay... Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?" (Rm 7,21.24); "Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại... Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, đề sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi... Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,7.10)
2. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
3. Phải hiểu cho đúng câu Tin Mừng Luca 4,13: "Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỉ bỏ đi chờ đợi thời cơ". Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỉ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỉ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng: câu đó có nghĩa là quỉ tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỉ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta. (Góp nhặt)
4. "Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền. Nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững" (Mc 3,24)
Trong cuộc sống, khi cộng tác với người khác, tôi thường có những thành kiến, không tin vào thiện chí của họ, không vượt qua được những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến hẹp hòi, là vì tôi đã không dám từ bỏ chính mình để đi tìm chân lý ở mọi người.
Rồi cuộc sống chỉ có mình tôi, thế giới đối với tôi thật nghèo nàn, và cuộc sống trở nên vô nghĩa.
Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe nhau bằng quả tim yêu thương. Xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống trần gian. (Epphata)
Suy Niệm 9: Tội phạm đến Chúa Thánh Thần
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội nào?
Trước hết, theo lời của Thánh Sử Marcô, trong đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thì tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội qui về cho ma quỉ những việc của Thiên Chúa, hay nói khác đi là việc dám đồng hoá Chúa, nguồn mạch của mọi sự nhân lành, với Satan, nguồn mạch của mọi sự dữ.
Cũng phải liệt kê vào tội phạm đến Chúa Thánh Thần, việc cho điều thiện là ác và cho ác là thiện. Sở dĩ phải liệt kê như thế, bởi vì những người như thế không thể ăn năn thống hối được, do đó không thể được tha thứ.
Cũng kể vào số những người đã phạm đến Chúa Thánh Thần, là những người mất lòng cậy trông vào Chúa.
Chúa Giêsu tuyên bố, những kẻ phạm đến Chúa Thánh Thần thì không được tha. Bởi vì điều kiện để một tội được tha là người phạm tội phải thực lòng ăn năn thống hối. Người phạm đến Chúa Thánh Thần thì không còn tin tưởng và cậy trông nữa, nên không ăn năn thống hối, vì thế không được tha.
Người ta kể, một hôm có một chàng thanh niên đến gặp Cha Placido Viccardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với Cha Viccardi:
- Thưa Cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Viccardi đáp:
- Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Viccardi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Viccardi trả lời:
- Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ Cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Vậy nhân danh Đấng giàu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
Đây Lời Chúa phán: "Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông". (Is 1,18)
2. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay, còn nhắc ta hai sự thật:
a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh.
Thánh Hiêrônimô sinh năm 340 tại Stridon miền Dalmatie, nước Nam tư. Ngài là một đấng thông minh đạo đức, đã được Đức Thánh Cha Damasus (366-380) trao cho sứ mạng dịch toàn bộ Thánh Kinh sang La ngữ. Bản dịch này vẫn còn dùng trong Phụng vụ Giáo Hội: đó là bản dịch phổ thông (Vulgata). Ngài đã sang thánh địa, vào trong hang Bêlem để ẩn thân, cầu nguyện và phiên dịch Kinh Thánh. Thế mà theo lời ngài thuật lại, có những lúc ma quỷ xác thịt cám dỗ ngài hết sức nặng nề! Chúng làm ngài nhớ lại những quang cảnh xa hoa trụy lạc, những bạn bè xấu nết dâm đãng ngày trước ở thủ đô Rôma. Để chống trả với cám dỗ của ma quỉ, ngài đã ăn chay kiêng khem hãm mình và cầm đá đấm vào ngực. Với ơn Chúa và ý chí mình, ngài đã chiến thắng. Đức Boniface VII suy tôn ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh. Ngài mất năm 420.
b/ Và còn một sự thật khác quan trọng hơn: Đó là Chúa Giêsu còn mạnh hơn.
Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Như vậy, chúng ta thấy một người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
Muốn chống nổi Satan chúng ta phải cậy dựa vào Chúa.
Một thiếu nữ trắc nết nọ đến cám dỗ một thánh nhân phạm tội với mình. Ngài bảo:
- Được lắm, ta hãy kiếm một nơi nào kín đáo đi.
Cô gái dẫn Ngài vào một căn phòng và đóng cửa lại. Ngài bảo:
- Đây tôi sợ chưa được kín đáo.
Cô lại đưa Ngài đến một căn phòng khác có một lối vô cong queo lại thêm hai lớp cửa thật là vững chắc. Ngài nói:
- Tôi vẫn còn ngại, chỗ vững chắc như chỗ này cũng chưa kín đủ, với lại nhỡ có ai đột nhập thì làm sao thoát thân!
Cô ta lại đưa Ngài lên tầng lầu cao nhất, lại có hệ thống báo động và nhiều lối thông thương, chuồn đi rất dễ. Cô bảo:
- Như thế này thì thật là cẩn mật... Muốn thấy đã là điều không thể, huống nữa lại đi vào.
Lúc ấy thánh nhân mới dốc bầu tâm sự ra:
- Cô ơi, không có chỗ nào kín cả!
Cô gái ngạc nhiên trố mắt nhìn Ngài. Ngài nói tiếp:
- Làm sao ta che mắt Thiên Chúa nổi.
Rồi Ngài khuyên răn, dạy dỗ cô gái, về sau cô trở thành người đạo đức, có lòng sám hối sâu xa...
- 21/01 Các môn đệ đầu tiên của Thày Giêsu.
- 20/01 Thân nhân của Chúa
- 19/01 Chúa gọi Nhóm Mười Hai
- 17/01 Cần làm việc lành
- 16/01 Cốt lõi của Lề Luật
- 15/01 Rượu mới trong bầu da mới
- 13/01 Thày thuốc cho người đau yếu.
- 12/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác
- 11/01 Chữa người phong cùi
- 10/01 Tiếp tục rao giảng